Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư:
Nắng nghịch mùa
Trời cứ xanh hoài, thiệt hết ham”. Bà già kêu lên, khi vịn
tay ở đầu rào, ngửa mặt ngó thinh không.
Lội ngồi góc sân cạnh đám cháy tàn, nhìn ra cổng. Không thấy
được con đường mà vừa nãy vợ anh đi. Bà mẹ che hết rồi, bóng bà đang ngược
sáng. Cái lưng còng khiến thế đứng bà già như kền kền, giống loài lâu rồi không
ghé qua xứ Nước Trong.
Ở đây giờ khó kiếm mồi. Gần nửa năm nay không khí cứ tươm mật,
nền trời xanh ngắt, nếu mưa cũng là mớ nước rây ra từ vài đám mây nhã nhặn, vừa
đủ cho cỏ cây ra lá non. Sau mưa nền trời càng xanh nắng càng lanh lảnh, như
tráng một lớp thủy tinh.Nhà văn Nguyễn Ngọc TưNhưng quang cảnh không khiến bà già vừa bụng chút nào. Cái giọng
đầy bất mãn. Chắc là chưa quên cơn bẽ bàng sớm nay, bà chống gậy đi tìm bạn uống
trà, nửa đường nhớ ra bạn đâu còn đằng đó chờ mình. Bạn qua đời rằm trước. Bữa
đó trăng đặc tới mức để lại vệt gợn sau mỗi chuyển động của con mèo. Tính lẩn
thẩn sẵn, những ngày trong veo khiến bạn sinh ảo giác rằng mình chắc đã chết rồi,
cảnh này chỉ có ở thiên đường thôi. Không ăn bỏ ngủ, kiệt sức dần, bạn trút hơi
tàn đúng ngày trăng nở. Bà già bị bỏ rơi, nhưng cái chân quen đường cũ cứ hay
thả bộ về phía khói nhang.
Cũng đận này năm ngoái, hai bà già ngồi trên nóc nhà chia
nhau nửa gói mì ướt, chờ tàu cứu hộ ngang qua. Vắt cái ống quần sũng nước, bạn
khoe đùi mình thon. Bà già trề môi xì một tiếng, vỗ mớ da thịt nhão treo lòng
thòng dưới khúc xương, nói Đực khen đùi tui thon hơn. Người đàn ông mà cả hai
người đàn bà đều không còn nhớ rõ dạng hình, suốt sáu mươi mấy năm qua, luôn là
cái cớ nhắc nhớ họ từng là tình địch. Và trong cái ký ức đầy nước, bà già vẫn
nhớ hình ảnh Đực trôi ngang qua mình, bụng ngửa ra phình như bụng trống, một
tay giơ lên nửa như có ý kiến với cha nội trời “mưa gió nhiêu đó đủ rồi”, nửa
như vẫy tay chào cô bạn cùng xóm, “ở lại mạnh giỏi nghen, nhỏ!”. Bà lúc đó chừng
mười bảy tuổi, níu ngọn cau chịu trận đã nửa ngày, muốn giơ tay ra níu người
thương, nhưng tê cóng không làm sao nắm lại.
“Phải tay tui là ổng đâu trôi mất xác”, sau này bạn hay rền
rĩ. Bà cười lạt, nhìn mấy con gà xõa cánh trong một vũ điệu thần bí giữa xoáy
nước đục ngầu:
“Ờ, giỏi quá, sao không giở ngói chui ra sớm chút”.
Lụt năm nào cũng cuộc cãi cọ liên quan tới người đàn ông đó,
rồi nước rút, hai bà già lại rủ nhau uống trà, kêu lụt năm nay không lớn như
năm trước. Hay là năm trước nữa, cái đận mấy trại gà mất trắng, một nửa xóm bỏ
xứ đi. Những mùa nước cứ nhịu lẫn, chồng nhòe lên nhau, cũng bão cơn nối cơn,
cũng ngập tới nóc, người với vật cùng nổi trôi, và những đứa trẻ mang tên Lụt Lội
Gió Giông chào đời trên xuồng cứu hộ, hết thảy mấy thứ đó không làm sao phân biệt
một cách rõ ràng nữa.
Nhưng bà già có thể lấy cái tuổi bảy mươi chín của mình ra
làm chứng, trời đẹp kiểu này xứ Nước Trong chưa từng. Se lạnh, tinh sạch như
lau, óng mướt không tả nổi. Vàng của nắng và xanh của trời, sao chép nhau ngày
này qua ngày khác, không sai lệch một sắc độ nào. Đêm thì lủ khủ sao trên cái nền
đen nhức.
Tuần nắng mật đầu tiên, cả xứ như bị trúng bùa. Mấy con chó cứ
ẳng lên không lý do, ai đó nói trời đẹp quá mà, người ta còn muốn sảng. Hồi đầu
người Nước Trong mê mẩn, cứ muốn ngồi phơi ngoài trời cho nắng no da thịt,
nhưng những ngày đẹp cứ nối nhau dài mãi, bỗng sợ. Cảm giác như đang xài phí một
khoản vay mà không ai biết nay mai sẽ bị đòi lãi gấp chục hay trăm lần.
Má anh Lội ngờ lạc khỏi xóm mình khi đi qua cái đình sứt sẹo
bởi đạn bom hồi chiến, giờ bỗng rờ rỡ trong nắng thu. Thứ nắng hóa vàng cả rác,
mái nhà gỉ sét, bụi cây chết đứng giữa trời. Tất cả những xám xịt bỗng ngời
lên. Núi tro xỉ phía xa kia nữa, vẻ hiểm độc cũng bị rửa trôi. Bà già hay thả
tà tà theo lộ xóm, gặp ai cũng nói mỗi câu, “nay ông trời kỳ lắm nghen”, chờ ai
đó đồng tình, “ờ đẹp kỳ, hiểu không nổi”. Thà là giông gió đi, hung tợn cỡ nào
thì cũng không còn lạ. Lội khó chịu quá, kêu “má trông mưa bão chắc?”, nhưng nắng
cứ sóng sánh không thôi, anh thấy bất an.
Cây huỳnh ngoài sân vàng lá một nửa, lẫn với nửa xanh kia
nhìn nao cả lòng. Bữa Gấm về sớm, ngồi ngắm cây cả buổi. Ở nhà chồng ba năm, lần
đầu thấy lá huỳnh đổi sắc. Mọi năm lá chưa kịp thay màu thì mưa bão tới, cây ngập
gốc tuôn lá trơ cành. Như một kẻ tắm trần, trơ xương trong nước lạnh. Nghe nói
huỳnh trồng ở xứ khác cho trái sai, thứ trái người Nước Trong chưa từng thấy.
Không kịp thấy. Lụt xong cây cỏ chưa kịp hoàn hồn, bão lại tới, sức đâu mà cây
treo hoa trái lên cành.
Thấy Gấm về không đúng cuối tuần, Lội tưởng vợ ở lại một đêm
rồi đi như mọi khi, nên chạng vạng kéo vợ vô buồng ư ử. Xong phơi bụng ngáy
khò, nửa đêm dậy thêm lần nữa, vì Gấm giang rộng đôi đùi trần quắp chặt lấy
mình. Sáng ra thấy Gấm không còn nằm cạnh, hõm chiếu chớm lạnh, nghĩ vợ đã đi
làm, ra sàn nước anh hơi giật mình thấy chị ngồi vo gạo.
“Cây huỳnh đẹp muốn xỉu”.
Gấm nói, như là lý do duy nhất khiến chị vẫn chưa rời đi. Từ
nhận làm giúp việc cho một quán nhậu trong thị trấn, lần đầu tiên Gấm ở lại nhà
luôn mấy ngày. Chị đem mùng chiếu ra giặt, quét rác mấy hốc nhà, dọn bồ hóng
trong chái bếp. Chị gom củi về trải phơi kín sân. Hệt như hồi mới cưới nhau, xế
trưa chị nhờ Lội dội nước gội đầu rồi ra sân phơi tóc.
“Phải bẹo hình dạng ngoài sân mới chịu”, bà già gầm gừ.
“Người ta đi ở đợ kiếm tiền nuôi má, còn chưa vừa?”, Lội nổi
sùng, rồi sau đó là một nỗi xấu hổ khi ba năm rồi không nghĩ ra được câu nào mới.
Hay anh xấu hổ vì đã nhẹ người khi nói ra câu đó, rằng Gấm phải đi làm kiếm tiền
là tại mẹ chồng không thương. Đổ lỗi cho lụt lội thì ông trời ở xa, cho cái
thân đàn ông mà không lo nổi ba miệng ăn lại không thể ngẩng đầu nhìn làng xóm,
ngó quanh chỉ thấy bà mẹ là có thể chịu tội.
Ngay lần đầu gặp Gấm bà đã không ưng.
“Thứ đàn bà trắng ớn, xài sao được”.
Người Nước Trong, những kẻ mang dòng máu khẩn hoang lai tạp với
thổ dân bản xứ mang sắc da tối màu, không ai như Gấm. Chị trắng đến nhói con mắt
người nhìn, vốn đã quen ngó nhau da đồng mặt cháy. Lạc lõng giữa người đã đành,
chị cũng không ăn nhập gì với thứ đất mủn nước, những ngôi nhà thấp bị trói bởi
mớ sợi dây chằng chống bão, dãy núi tro xỉ của nhà máy nhiệt điện chở vào ngày
một cao.
“Có đâm đầu cưới về thì nó cũng đi mất”, bà già nhai đi nhai
lại trong cái bộ điệu vô vọng. Lội chỉ nói đúng một câu, “kệ tui”, rồi chạy te
đi thị trấn mua nhẫn cưới bằng tiền lương mượn trước của chủ xưởng. Anh không
nghĩ được thứ nào khác để giữ Gấm ở lại bên mình. Nhỏ hơn vợ sáu tuổi, nhưng
dân Nước Trong đều kêu không lý nào, ngó thằng Lội già khằn, mặt có nếp có hằn,
sao trẻ hơn con nhỏ trắng tinh được.
Không biết có phải vì bộ da ngậm sữa, mà ba năm sau cái đám
cưới qua loa, Gấm còn giữ được cái tên của mình. Cũng có thể chị chưa có con.
Chị đi ngoài đường, người ta vẫn gọi là con Gấm, không phải là vợ thằng Lội. Những
con đàn bà khác tên tuổi bị bốc hơi sau cuộc theo chồng.
“Có sao đâu, kêu bằng gì thì cũng là vợ tui”, Lội thường nói
mỗi khi bà mẹ bới móc. Giọng vống cao, che giấu bất an. Đám đàn ông đi nhậu
ngoài thị trấn về, gặp anh vỗ vai cười, nói đúng mấy chữ, “tao mới gặp Gấm
ngoài đó”. Chỉ vậy, và khoảng trống sau câu nói đó, cái cười ẩn ý, chúng rúc rỉa
anh.
Và những ngày nắng mật tràn lên tàng cây, chảy qua kẽ lá nhuộm
lốm đốm khoảng sân, ngó vợ nghiêng đầu phơi tóc, khoảng gáy trần làm anh thấy tức
giận. Anh muốn cắn lấy cái gáy đó, cho máu loang đỏ lấp bớt khoảng da trắng
nhói kia đi. Nhưng anh biết có làm vậy thì chẳng ích gì, cái tấm thân kia không
cách nào che chắn hết. Không gáy thì cánh tay, hay đôi cổ chân lúc nào cũng để
trần.
Lội ngờ phấp phỏng này bị nắng vàng phát tán. Bên xóm cũng
nhiều người mắc. Có chị trốn miết gầm giường không nhận lấy mớ bó bông cỏ đuôi
chồn anh chồng tặng. Anh chưa bao giờ tặng gì ngoài những trận đòn lúc say. Chị
ngờ bó bông chỉ là mồi nhử để chồng đánh đã tay. Hay như ông già thằng Bảy Thẹo
cự tuyệt mớ bánh nướng thằng con chuyên chửi thuê chém mướn gởi cho, nghi trong
đó có độc. Hai cha con nó thường rượt đuổi nhau trên đường xóm, mà vị trí kẻ cầm
dao phay dứ dứ đằng sau không nhất thiết thuộc về người lớn tuổi hơn. Lúc con,
lúc cha, và sau cuộc đuổi đánh nhau mệt lả, chính họ cũng không nhớ lý do sao lại
thành ra thâm thù.
Những câu chuyện đó được kết lại thành chuỗi, ngày mỗi dài
thêm, như một chứng cứ bất thường của cái tiết thu lịm ngọt khó tin này. Từ
giông mưa không tới, người Nước Trong lúc nào cũng ngó trời, họ không muốn bỏ
sót bất cứ thứ gì được giấu sau cái màn xanh cao vợi trên kia. Một thứ nhọn hoắc,
độc địa. Cứ cho là mùa thu lỡ dại ghé qua cái đất oan ương này, nhưng nó không
co cẳng bỏ chạy thì thôi, chớ lý nào ở lại lâu đến vậy.
“Ổng toàn lấy đi, đâu cho không ai cái gì”, má anh Lội nói,
tay chỉ vào gợn mây trắng mỏng tang vừa bong ra khỏi màn xanh vô tận. Ngay từ đầu
bà già đã dè chừng cái thời tiết đẹp dị thường này. Thấy nắng nên chỉ mặc áo mỏng
ra ngoài, chừng đi nửa đường khắp người gai lạnh, bà teo ruột quay về. Những
ngày này bông cúc đá nở mãi không chịu tàn, đến ngờ chúng là hoa giả, vài ba bữa
bà già lại hái vò thử coi có gãy cánh không. Cả khi đi tắm bà già cũng dòm chừng
qua lỗ tường, sợ có cơn nước nào đằng chân trời ào tới. Nhưng ở nhà tắm ngó ra
chỉ thấy chiều đổ bóng đám bần dại lên chòm mộ những người đã khuất, thứ duy nhất
được cố định bằng bê tông cho xương cốt không trôi mất lúc nước lên. Mồ mả còn
là đất còn, xóm làng còn, người nhà bà hay nói vậy. Dù là mộ gió, như mộ chồng
bà. Thân xác nọ đã gửi lại một chiến trường nào đó.
Những ngày gần đây, ngó ra không còn thấy đám bần. Gấm đã xoắn
áo rủ chồng chặt rụi, thêm được chục ngoài bó củi. Đứa con dâu đó bà già cự tuyệt
cảm tình ngay từ đầu, vì không muốn tan nát một khi cô ta bỏ chạy. “Người vậy
sao xứ này dung chứa nổi”, bà già lại thở dài, nhìn người dưng ẩn hiện trong vườn,
nhớ ra cô con dâu mình không có miếng xương người thân nào được chôn ở cái đất
này. Lụt đưa cô ta tới.
Lúc Gấm lấy xe đạp ra thị trấn, bà mẹ chống gậy ngược từ đằng
xóm về. Cái ý thức bạn già đã ra thiên cổ làm bà ê ẩm, không thèm ngó lại ừ hử
lời thưa của con dâu, “má, con đi chợ chút”. Chỉ đi tới cổng, nhìn thấy thằng
con ngồi cời mớ rác cho cháy bằng hết, máu bặc hặc của bà già lại nổi lên.
“Ai biết được có đi luôn không”.
Lội nín thinh. Anh không cất tiếng nổi, bởi cơn phấp phỏng
đang độc chiếm cả người mình. Vợ không nhìn thẳng vào anh lúc bảo ra thị trấn
mua mấy khúc vải may vài bộ đồ cho mẹ. Quay mặt phía nào đó, vợ nói quần áo mẹ
cũ rồi, toàn thứ vớt được trong lụt nên áo đông quần tây, không giống ai. Lội
nhớ lại, nhìn ngọn khói rụi dần.
Mớ rác cháy tàn này Gấm vun lại từ cái nhà đã lâu không được
quét dọn tử tế, bởi mỗi tuần chị chỉ về được một hai tối, sớm ra lại lóc cóc đạp
xe đi. Cái nhà bị bỏ bừa, mấy bữa nay sáng rỡ trở lại. Lội cũng được đánh bóng.
Gấm tẩm dầu lửa vô cái khăn cũ, kỳ cọ khắp người chồng. Chị cưng nựng mãi vết sẹo
dài mà mùa lụt ba năm trước, một miếng thiếc lợp nhà bị nước vụt vào người anh,
cắt ngọt bắp tay. Nhưng thằng đàn ông đẹt ngắt đó vẫn cắn răng níu cứng vạt áo
người đàn bà lạ mặt buộc mình vào bè chuối từ phía núi trôi về. Mang người lên
bờ mới biết chị ta còn thở. Bùn sình trên ngực chị được máu Lội rửa trôi.
“Phải nói chồng lì thiệt”, Gấm rơm rớm nhắc, áp bàn tay đầy
thẹo vết của chồng vào bầu vú nóng.
Giờ Lội tự hỏi, sao bữa qua vợ lại rơm rớm. Mấy lần nhắc lại
chuyện cũ, vợ có biểu cảm giống vậy không? Tất cả những gì vợ làm mấy bữa qua,
cổ đã từng làm trước đó? Anh cố nhớ trong lúc ngó ra đường vắng, nghĩ về hương
mật những ngày qua, nghĩ tới bữa ăn cuối của tử tù, cái khoảng lặng trong tâm
bão.
Bà mẹ đã lui vào sân, đứng dưới cây huỳnh, dỏng tai coi có lời
đe dọa nào được đưa tới bởi gió thu. Giờ mới nhận ra lá huỳnh đã chuyển vàng bằng
hết, mớ lá chín trước giờ bắt đầu cuộc buông mình. Bà già đứng đó, ngó thằng
con. Thằng con ngó ra đường. Con đường đổ dốc về thị trấn.
“Chỉ bộ đồ dính da, đi đâu được”, tự dưng Lội nghĩ, hay là
anh buột miệng nói luôn thành lời, chính anh cũng không chắc. Bà mẹ cũng có thể
đã nghe được, hoặc không, thở dài cái thượt.
“Thiệt không ưa nổi cái thứ nắng lạnh này”.
28/6/2020 Nguyễn Ngọc Tư
28/6/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét