Khi nhà phê bình thách thức
văn học sử đương đại
Tập sách nhỏ về thơ Nguyễn Duy của Lã Nguyên nêu ra một vấn đề
rất lớn đối với văn học sử đương đại Việt Nam. Đó là vấn đề loại hình hóa các
dòng văn học trong nội bộ của nó. Bấy lâu nay ta quen nhìn văn học đương đại từ
Cách mạng tháng Tám 1945 như một dòng thống nhất, duy nhất, như sản phẩm quy tụ
của nhiều dòng khác biệt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với phương pháp
sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Các dòng lệch lạc đã bị phê phán, đánh đổ
hết rồi. Sự đa dạng được tính bằng phong cách cá nhân. Sự khác biệt của nền văn
học được xét theo giai đoạn lịch sử: văn học kháng chiến chống Pháp, văn học
thời chống Mỹ, văn học thời Đổi mới, hậu Đổi mới…Giáo sư Trần Đình SửVới thực hành phân tích diễn ngôn nghệ thuật thơ Nguyễn Duy,
Lã Nguyên chứng minh thơ Nguyễn Duy, tuy hợp lưu với dòng văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa trong suốt chiều dài lịch sử của nó, song đó không phải là thơ ca
hiện thực xã hội chủ nghĩa, bởi nó không phải là thơ ca của tính Đảng, không
phải thơ của nghệ sĩ – chiến sĩ theo mẫu hình “Dâng tất cả để
tôn thờ chủ nghĩa” (Tố Hữu). Thơ Nguyễn Duy là thơ của chúng sinh, của Dân
trong suốt đường thơ của ông. Lã Nguyễn đã tiến hành một cuộc giải phẫu, đối
sánh giữa một bên là thơ Tố Hữu, loại hình thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa của
Đảng tiêu biểu nhất và một bên là thơ Nguyễn Duy, nhà thơ của chúng sinh trên
các mặt hình tượng tác giả – kiểu nhà thơ như người sáng tạo một loại
hình thơ, nhân vật trữ tình ( trả lời câu hỏi ai nói trong
thơ), thể tài và cảm hứng (trả lời câu hỏi thơ nói gì), ngôn ngữ
và giọng điệu (thơ nói bằng ngôn ngữ nào), và cuối cùng rút ra kết luận
như đã nói từ đầu: “Nguyễn Duy là nhà thơ hiện – đại – cổ – điển Việt Nam,
sáng tác của ông không phải là phiên bản của văn nghệ hiện thực xã hội chủ
nghĩa”. Việc so sánh, đối chiếu được tiến hành rất chặt chẽ bằng những khái niệm
có độ tin cậy cao, mang nội hàm thế giới quan sâu sắc, và hàng loạt các ví dụ
thơ cùng loại và khác loại mà mọi người đều có thể kiểm tra bằng hiểu biết của
mình.
Sự khác biệt của kiểu nhà thơ Nguyễn Duy so với kiểu nhà thơ
– chiến sĩ của Tố Hữu hoàn toàn không phải khác biệt về cá tính hay phong cách
cá nhân, mà khác biệt về nguyên tắc trong nhãn quan nghệ thuật. Bởi vì trong mỗi
kiểu ấy, mỗi nhà thơ lại có phong cách riêng của họ. Một đằng là kiểu nhà thơ –
chiến sĩ, được sinh ra từ sự kiện cách mạng, mang sứ mệnh thiêng liêng, đảm nhiệm
việc tuyên truyền lí tưởng, ngợi ca chế độ, lãnh tụ và quần chúng nhân dân đi
theo Đảng, “sống cùng Đảng, chết không rời Đảng”, vạch ra những chân lí lớn của
thời đại, cổ vũ chiến đấu cho lí tưởng sáng ngời, chỉ nói tiếng nói của Đảng và
cách mạng. Một đằng là kiểu nhà thơ chúng sinh, sinh ra như mọi đứa trẻ ở thôn
quê, lớn lên trong mọi hoàn cảnh đời thường, nói tiếng nói của tầng lớp dưới
đáy, đời thường, tình cảm cha mẹ, vợ con, bà cháu, với chủ nghĩa yêu nước sâu
xa mà giản dị, thuần phác và khát vọng về cuộc sống mộc mạc, yên
bình, phóng khoáng. Sở dĩ có sự khác biệt thế là vì, tuy cùng sống trong một
bầu không khí mang tinh thần thời đại, nhưng Tố Hữu là người lãnh đạo, ông quán
triệt tính Đảng sâu hơn, còn với nhà thơ – người lính như Nguyễn Duy, ông chỉ
cảm nhận thế giới như người thường, quan tâm sự sống, cái chết, buồn vui của
đời người thường dân, không mảy may quan tâm đến những chuyện lớn lao dời
non lấp biển.Tác phẩm “Nguyễn Duy - Nhà thơ hiện đại Việt Nam” của Lã Nguyên, NXB Khoa học xã hội 2021Nếu chứng minh của nhà phê bình văn học Lã Nguyên có đủ sức
thuyết phục mà được thừa nhận phổ biến, thì việc nghiên cứu lịch sử văn học Việt
Nam từ năm 1945 đến nay đứng trước một viễn cảnh khoa học rất khả quan. Chúng
ta sẽ bằng phân tích diễn ngôn mà chỉ ra, bên cạnh dòng văn học chủ lưu do Đảng
lãnh đạo hùng mạnh, thu hút nhiều nhân tài, phục vụ cho cuộc đấu tranh của Đảng,
còn có các dòng sáng tác khác nhau trong mỗi thời, nhỏ hơn, yếu thế hơn, theo
những nhãn quan nghệ thuật khác, xuất hiện trong các thời kì của lịch sử. Đó có
thể là những dòng văn học đã xuất hiện và đã bị phê phán, bị thủ tiêu, gắn cho
những nhãn mác thù địch, suy đồi, xa lạ với vô sản, thiếu tính đảng. Đó có thể
là nhiều nhà văn có quan điểm khác, tương tự như kiểu nhà thơ chúng sinh của
Nguyễn Duy, chẳng hạn như kiểu nhà thơ của Hoàng Cầm, Quang Dũng, Hoàng Hưng,
Lưu Quang Vũ, Ý Nhi, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Thạch Quỳ, Nguyễn Trọng Tạo và
nhiều người khác. Và ngay trong các nhà thơ kiểu chiến sĩ, bên cạnh sáng tác
theo đơn đặt hàng của Đảng, họ còn sáng tác theo kiểu nhà thơ khác. bởi vì theo
lí thuyết và lịch sử, một nhà thơ có thể đồng thời sáng tác theo những kiểu nhà
thơ khác nhau. Ngay cả Tố Hữu trong tập Một tiếng đờn cũng đã
chuyển qua một kiểu nhà thơ khác. Điều này không mới lạ gì đối với lí luận của
Liên Xô trước đây. Năm 1954, sau khi Stalin mất, trong Đại Hội lần thứ 2 của Hội
nhà văn Liên Xô, các nhà văn đã yêu cầu nới rộng các hạn chế của phương pháp. Từ
đó cho đến những năm1966 các dòng văn học khác nhau xuất hiện, và năm 1966, M.
B. Khrapchenco, G. N. Pospelov đã đề nghị phân biệt văn học xô viết với văn học
sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ví như Trái tim chó,
hay Nghệ nhân và Margarita của Mikhail Bulgakov là những tác
phẩm văn học xô viết, nhưng chúng tuyệt nhiên không thuộc dòng văn học
hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đến năm 1971, D. Markov đề xuất quan niệm xem
văn học xã hội chủ nghĩa là một hệ thống mở, nghĩa là trong hệ thống đó, bên cạnh
dòng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, còn có nhiều dòng khác. Từ thực tế ấy
quay lại nhìn nhận văn học cách mạng Việt Nam, ta sẽ thấy nó cũng là một hệ
thống mở với nhiều kiểu tác giả khác nhau. Cách nhìn của chúng ta trước đây đối
với các dòng văn học khác biệt quá nghiệt ngã. Nhưng rồi từ ngày Đổi mới đến
nay, quan điểm của ta trở nên mềm mại hơn, bao dung hơn, có đánh giá lại, đã
trao giải thưởng, in tác phẩm, và theo logic, đã bắt đầu chấp nhận các kiểu
sáng tác khác nhau trong nền văn học đương đại Việt Nam. Đặc biệt từ sau năm
1986, các nghị quyết của Đảng liên quan đến văn nghệ đều không nhắc đễn chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, đồng thời khuyến khích tìm tòi phương pháp
và phong cách khác nhau. Tuy nhiên các nhà văn học sử Việt Nam dẫu đã có lối
mở như vậy mà hình như vẫn thận trọng, vẫn tư duy như cũ. Phải chăng họ chờ
một cú hích như công trình này của Lã Nguyên rồi mới động chân động tay?
Cuốn sách của Lã Nguyên không chỉ là một đề xuất về văn học
sử, mà bản thân còn là một đề xuất thực hành phân tích diễn ngôn về văn học,
về thơ, có thể giúp gợi mở một cách tiếp cận thi ca để khắc phục cái tệ “diễn,
bình, tán” trong phê bình, mà sinh thời học giả Hoàng Ngọc Hiến đã chỉ ra.
Công trình này, cũng tựa như công trình Thi pháp thơ Tố Hữu của chúng
tôi mà tác giả có nhã ý nhắc đến đôi chỗ, nhằm xác định địa vị lịch sử của thơ
Tố Hữu trong văn học Việt Nam, còn gợi lên cách tiếp cận chuyên luận về sáng
tác của một tác giả có tầm cỡ.
Nguyễn Duy là một nhà thơ nổi tiếng. Song địa vị lịch sử của
thơ ông trong nền thơ Việt Nam đương đại thế nào, rõ ràng Lã Nguyên đã có một
câu trả lời rất sáng tỏ. Hy vọng công trình này sẽ kêu gọi xuất hiện thêm
nhiều chuyên luận tương tự, phân biệt với loại sách đại chúng chỉ giới
thiệu sơ lược “Tác giả, cuộc đời và sự nghiệp thơ văn” hiện
đang rất phổ biến.
(Lời Tựa cho tác phẩm “Nguyễn Duy - Nhà thơ hiện đại Việt
Nam” của Lã Nguyên).
Hà Nội, 10/12/2020 Trần Đình Sử
Hà Nội, 10/12/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét