Tâm thức làng quê
trong thơ Tế Hanh
Tế Hanh là một con người có tấm lòng gắn bó với quê hương một
cách tự nhiên như “trời sinh” nhưng cuộc sống lại dành cho Tế Hanh những điều
không may, mà lại rất may cho sự nghiệp làm thơ của mình: “Yêu quê hương nhưng
không mấy khi được sống với làng quê!”. Phải chăng, chính cái điều tưởng chừng
như nghịch lý này lại là căn tố hình thành nên tâm thức làng quê trong thơ Tế
Hanh và phóng chiếu thành những năng lượng để thi nhân sáng tạo những bài thơ
viết về quê hương, đất nước hay và da diết đến như thế…(*)
Nhà thơ Tế Hanh
1. Không phải ngẫu nhiên khi suy niệm về tình yêu quê hương,
Lacordaire đã xác quyết: “Phát xuất từ chủng tộc và quốc gia tính, lòng yêu quê
hương nảy sinh trong lòng người. Nó là tâm tình sâu thẳm được nuôi dưỡng bằng lịch
sử của quá khứ và kỷ niệm của cuộc sống cá nhân. Nơi đó tập trung hết những gì
ta đã thấy, đã làm, đã sống từ những ngày lành của ấu thời đến những xao động của
thời lão thành và đến những viễn tượng của mồ mả chúng ta”.(1)
Quả thật, tình yêu quê hương là một tình cảm đặc biệt trong
trái tim mỗi người. Quê hương, vì thế, bao giờ cũng là nơi lưu giữ những gì
thiêng liêng nhất trong tâm thức con người suốt hành trình sống ở đời. Điều
này, ta có thể tìm thấy ở tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh mà biểu hiện của
tâm thức làng quê ấy chính là tình yêu tha thiết đối với làng quê mà thi nhân rất
hạnh phúc, tự hào, mỗi khi giới thiệu về quê hương mình:
“Làng tôi vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo vội vã vượt trường giang
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió …”
(Quê hương)
Quê hương hiện lên trong thơ Tế Hanh bằng những hình ảnh chân
mộc, hồn nhiên đến lạ lùng, không hề có một chút “tô vẻ phấn son”. Chính vì vậy,
Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam (Q. hạ) Ba thế hệ của nền
văn học mới (1862 đến 1945), Nxb. Trình bày, 1967, đã xếp “Tế Hanh vào
khuynh hướng các nhà thơ tả chân cùng với Anh Thơ, Bàng Bá Lân”.(2) Sự
chân mộc ấy, phải chăng được kết tinh từ cuộc sống những người nông dân ở “làng
chài lưới” quê ông. Vậy mà, khi đọc lên, không ai, lại không cảm thấy nao lòng
khi nghĩ về làng quê của mình. Bởi lẽ, đã là người, ai cũng có một làng quê để
chào đời, một làng quê để lớn lên và một làng quê để thương nhớ. Tất cả những
điều ấy đã hội tụ lại và kết tinh thành tâm thức làng quê trong mỗi con người.
Tâm thức làng quê ấy đã trở thành một sức mạnh tinh thần trong hành trình dựng
nước, giữ nước và bảo tồn “giòng sinh mệnh văn hoá” dân tộc. Vì lẽ đó, dân tộc
Việt Nam, có thể “bị mất nước nhưng không bao giờ để mất làng” và từ sự trường
tồn của làng chúng ta lại khôi phục lại đất nước. Bởi, nói như Eveque: “Chỉ có
tình yêu quê hương có thể làm cho quê hương trường tồn”.(3) Làng quê, vì
thế, không chỉ là nơi nuôi ta lớn khôn mà cũng là nơi để chúng ta tìm về sau những
ngày tháng “phiêu linh” vì sinh kế trong cuộc đời trần thế.
2. Cách đây 100 năm, Tế Hanh đã cất tiếng khóc chào đời trên
chính quê hương mình ở làng Đông Yên, phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi và cách đây
12 năm, ông đã lặng lẽ đi sau một thời gian trọng bệnh, để trở về với cõi vĩnh
hằng, ẩn nấu trong “mảnh hồn làng” mà ông đã ôm ấp từ những ngày còn “tuổi hoa
niên”. Tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh, vì thế đã trở thành một phẩm tính
trong hành trình sáng tạo thơ của ông, có khả năng diệu kỳ trong việc đánh thức
tình yêu làng quê trong tâm thức người đọc.
Từ góc nhìn địa văn hóa, làng quê của Tế Hanh là một vùng
sông nước nằm ven bờ hạ lưu sông Trà Bồng, con sông đã “tắm mát đời tôi”, như
chính ông đã chia sẻ. Đây cũng là nơi tạo nên nguồn cảm hứng để thi nhân sáng
tác những bài thơ nổi tiếng, ẩn chứa trong đó cái “hồn” của tâm thức làng quê
mà hình ảnh sông nước quê hương đã trở thành một nỗi ám ảnh của vô thức và tâm
linh như một tâm thức hiện sinh theo suốt cuộc đời ông, kết tinh thành những dự
phóng sáng tạo để cho ra đời những bài thơ đầy mỹ cảm văn chương, mà khi đọc
lên lòng ta không khỏi rưng rưng, xao xuyến. Đó là những bài thơ đã trở thành
tượng đài thơ ca khắc họa tâm thức làng quê trong tâm cảm người đọc như: Quê
hương, Nhớ con sông quê hương, Trở lại con sông quê hương, Bài thơ mới về con sông
xưa… Chính vì vậy, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân đã không
tiếc lời ca ngợi: “Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất
thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy cả những điều không
hình sắc, không thanh âm như “mảnh hồn làng”, trên “cánh buồm giương”, như tiếng
hát của hương đồng quyến rũ con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một
thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những tình
cảm ta đã âm thầm trao cho cảnh vật…”.(4) Phải chăng cái “thế giới rất gần
gũi” trong thơ Tế Hanh mà Hoài Thanh – Hoài Chân đã nói đến trong Thi nhân
Việt Nam chính là cái hồn / tình quê da diết kết tinh thành tâm thức làng
quê trong thơ Tế Hanh.
Là một thi sĩ vốn sống lặng lẽ, khiêm nhường nên điệu hồn
trong thơ Tế Hanh luôn nhẹ nhàng, đằm thắm, đôn hậu, trong trẻo nhưng cũng
không kém phần tinh tế và sâu sắc. Tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh, vì thế
không bao giờ hiện hữu qua những hình ảnh thơ hoành tráng, mang tính ước lệ như
một số nhà thơ cùng thời mà chỉ là những hình ảnh nhỏ nhoi, gần gủi, thân quen
với cuộc sống hằng thường, nơi một làng quê bé nhỏ, ở một vùng cù lao sông nước
xa xăm với đồng ruộng, nương dâu mà ông luôn yêu quí:
Làng ấy buồn ủ rũ một bên sông
Hồn thương nhớ đắm chìm trong dĩ vãng
Thuở phong lưu sắc trời đầy tươi sáng
Tơ lụa vàng chói rạng khắp bao thôn
Dười trời xanh soi biếc cả tâm hồn
Dâu tăm tắp từ đồng ra đến bãi
(Một
làng thương nhớ)
Là hình ảnh những “con đường quê” oằn mình trong mưa nắng để
chia sẻ những nỗi vui buồn, gian khổ, cơ cực của người nông dân một nắng hai
sương quanh năm lam lũ ở một làng quê xa ánh sáng thị thành:
Tôi con đường nhỏ chạy lang thang
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng
Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng
Hương đồng quyến rũ hát lên vang
(…)
Tôi thâu tê tái trong da thịt
Hương đất hương đồng chẳng ngớt tuôn
(Lời con đường quê)
Là một khu “vườn cũ” với đầy ắp nắng trưa, phủ trên những mái
ngói rêu phong chứa đầy bao kỷ niệm tuổi thơ mà giờ đây những hình ảnh ấy vẫn đọng
lại trong tâm cảm thi nhân như một ký ức không thể mờ phai. Tâm thức làng quê,
vì thế như một tiếng gọi thê thiết luôn hiện hữu trong huyết quản để nuôi dưỡng
cái hồn / tình quê nồng nàn trong trái tim thi sĩ:
Cánh cổng đi vào run rẩy đưa
Lối đi cỏ rậm phủ che vừa
Ngôi nhà mái cũ rêu in lớp
Hé bức rèm đơn đỡ nắng trưa
( …)
Nắng nhớ rưng rưng chớp lệ mờ
Mây buồn đôi mảnh vẫn lơ thơ
Cỏ cây im lặng như từ thuở
Đôi lứa xa nhau vẫn đợi chờ
(Vườn cũ)
Có khi là hình ảnh “cái ga tàu” lặng lẽ nơi phố huyện buồn xa
vắng, đơn côi, khi chứng kiến bao cảnh tiễn biệt nơi sân ga. Để rồi với tâm hồn
nhạy cảm của một thi nhân, Tế Hanh đã nghẹn ngào, xa xót…
Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vướng víu trong hơi máy
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau.
(Những ngày nghỉ học)
Tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh, còn là hình ảnh ngôi trường
làng bé nhỏ, ẩn mình lặng im, mà sau những tháng ngày xa cách, khi về thăm, thi
nhân không khỏi chạnh lòng trước cảnh xác xơ của cái nơi đã từng ôm ấp bao kỷ
niệm mộng mơ của tuổi học trò, giờ chỉ còn lại nỗi quạnh hiu làm tê buốt tâm hồn,
khiến người thơ không khỏi bùi ngùi…
“Hơn bốn năm trời trở lại đây
Trường ơi! Sao giống tấm thân này?
Mái hư, vách lở buồn xơ xác
Tim héo, hồn đau tủi đoạ đày.
(Trường xưa)
Và sự hiện hữu của tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh, có
khi chỉ là hình ảnh “Chiếc rổ may” đơn sơ, bình dị nhưng chất chưa trong đó biết
bao yêu thương của người mẹ, cả một đời chịu thương khó, hy sinh chính bản
thân mình cho hạnh phúc những đứa con:
Thuở bé nhiều hôm tôi bỏ chơi
Cảm thương đứng ngó mẹ tôi ngồi
Vá bên chiếc rổ mùi thơm cũ
Như tấm lòng thơm của mẹ tôi
(…)
Mẹ ơi chiếc áo con đã rách
Con biết làm sao trở lại nhà
Để mẹ vá giùm? Con thấy lạnh
Gió lùa nỗi nhớ thấm vào da
(Chiếc rổ may)
Để rồi, tâm thức làng quê ấy lớn dần theo năm tháng, hằn sâu
trong tâm cảm thi nhân, trở thành một dưỡng chất nuôi sống hồn thơ Tế Hanh và tạo
nên một phẩm tính riêng có của thơ ông: chân chất và thành thực, dào dạt
và sâu lắng, tha thiết và ngọt ngào, trong trẻo và tinh tế. Chính vì vậy, cho dẫu
sau này, khi nhà thơ đã bước “sang bờ tư tưởng” của một cuộc đời mới, không còn
“vướng víu” nhiều với những buồn tủi, cô đơn của một “thời thơ thuở trước”.
Nhưng không vì thế mà tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh bị biến đổi, trái lại,
trong tâm thức làng quê ấy, vẫn còn đó niềm tin yêu với những nhớ thương, thao
thức đến nghẹn lòng mỗi khi nhà thơ hồi tưởng về hình ảnh quê hương. Và lúc ấy
tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh lại hiện lên với những cung bậc tình cảm mới:
da diết và nhói đau. Bởi, đây là thời gian nhà thơ phải ly hương “xa nhà đi
kháng chiến”, để rồi sau đó phải sống dằn dặt xa quê với tâm trạng “ngày Bắc
đêm Nam” trong hơn hai mươi năm, khi đất nước bị chia cắt.
Tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh lúc nầy gắn liền với những
hồi ức, những hoài niệm nhưng đó là hoài niệm của một thi nhân đã trải qua một
quá trình nghiệm sinh trong đời sống, không phải là hoài niệm của một thi nhân
thưở thiếu thời, trong sáng và hôn nhiên nên tâm thức làng quê trong thơ Tế
Hanh lúc nầy cũng ẩn chứa sức nặng của những suy tư, ưu lo về lẽ sống không chỉ
của riêng nhà thơ mà của cả đất nước, dân tộc. Vì thế, lúc nầy tâm thức làng
quê hiện lên trong thơ Tế Hanh là hình ảnh một mảnh “vườn xưa” không chỉ có nắng
trưa, có chim hót mà đó là một mảnh vườn cháy bỏng khát vọng tìm về trong khắc
khoải nhớ thương đối với người mẹ mà tuổi già như một cánh cửa thời gian với những
giới hạn đang từng ngày, từng giờ khép lại cuộc đời mẹ, mà hình ảnh người con
ra đi kháng chiến vẫn cứ mờ xa trong nỗi chờ mong của mẹ:
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
(Vườn xưa)
Là hình ảnh “con sông quê hương” như một biểu tượng thiêng
liêng của tâm thức làng quê, cuồn cuộn chảy trong tâm khảm thi nhân, chuyên chở
biết bao hồi ức, nhớ thương mà mỗi khi đọc bài thơ lòng chúng ta không khỏi cồn
cào, se thắt khi nhớ về một dòng sông tuổi thơ nào đó!? Còn đây là hình ảnh
“con sông quê” trong tâm thức Tế Hanh:
Quê hương tôi có con sông
xanh biếc
Nước
gương trong soi tóc những hàng tre.
Tâm hồn
tôi là một buổi trưa hè,
Toả nắng
xuống lòng sông lấp loáng.
Chẳng
biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ
bao nhiêu kỉ niệm giữa dòng trôi?
Hỡi
con sông đã tắm cả đời tôi!
Tôi giữ
mãi mối tình mới mẻ.
(Nhớ con sông quê hương)
Và với “hồn/ tình quê” day dứt ấy, tâm thức làng quê trong
thơ của Tế Hanh không chỉ là hình ảnh “con sông quê hương”, là “mảnh vườn xưa”
mà còn là “tiếng sóng” xao xác trong hồn thơ của ông. Vì vậy, cho dù sống trong
xa cách nghìn trùng, “tiếng sóng” ấy vẫn hiện hữu trong tâm thức thi nhân. Bởi,
với ông cái “hồn quê sông biển” ấy là hiện thân của quê hương, vừa thực lại vừa
mộng, khi ẩn, khi hiện, thấp thoáng trong cõi chiêm bao.
“Nơi rất thực và cũng là rất mộng.
Của đời tôi yêu biển tự bao giờ
Trong giấc ngủ vẫn nghe tiếng sóng
Như tiếng lòng, giục giã những lời thơ.”
(Tiếng sóng)
Và cũng như bao người dân quê sống bằng “nghề chài lưới”,
hình ảnh sông biển đã trở thành một biểu hiện sinh động của tâm thức làng quê,
là sự kết tinh của cái “hồn / tình quê”, của văn hoá làng hiện hữu trong thơ Tế
Hanh. Vì vậy, nói đến thơ Tế Hanh không thể không nói đến tâm thức sông biển
như một phẩm tính thơ mà ông luôn hướng đến, muốn tìm về:
Tôi nói đến trời mây, tôi nói đến
Những cánh đồng, nhà máy, những hoa chim
Nhưng muốn nói nhiều hơn về xứ biển
Như cái gì thầm kín nhất trong tim
(Tiếng sóng)
Quả thật, tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh chính là kết
tinh của “mảnh hồn làng” và đó là cái làm nên giá trị của thơ ông. “Mảnh hồn
làng” ấy đã ôm ấp trong nó không chỉ có sông biển quê hương, có con
đường quê với những ngày nghỉ học, những toa tàu, những vườn
xưa lối cũ, những bãi mía xạc xào, những tiếng lòng thương nhớ
mà còn có cả hình ảnh của những con người dân quê lam lũ “Sớm khuya chài lưới
bên sông / Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng“, mà kết tinh đẹp đẻ cho biểu tượng
của những con người quê hương ở tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh là hình ảnh
người mẹ dấu yêu, bên “cái rỗ may”, bên “mảnh vườn xưa” năm nào với ước mơ: “Mẹ
ơi! Ngày gặp mẹ/ Mùa thu hay mùa hè/ Con sẽ là đứa bé/ Đọc sách mẹ nằm nghe”
(Nhớ mẹ). Nhưng khi, nhà thơ được trở về với quê hương dấu yêu thì mẹ không còn
nữa, chỉ còn trơ trọi một nấm mồ quạnh quẻ, Tế Hanh như thấy cả đất trời sụp đổ:
Con lặng nhìn chung quanh
Thấy mồ to mả bé
Và nhìn lại đời mình
Thấy từ đây thiếu mẹ
(Bên mồ mẹ)
Bên cạnh hình ảnh người mẹ, tâm thức làng quê trong thơ Tế
Hanh, còn là hình ảnh người cha mà thi nhân hết mực kính trọng và thương yêu,
qua nỗi nhớ về cái tủ sách của cha mà với nhà thơ “cái hòm nhỏ
con con / với tôi là của quý / thơ đã hoá tâm hồn / sách đã thành tri kỉ” (Cái
tủ sách của cha tôi) … Và tất nhiên trong sâu thẳm của tâm thức làng quê ấy,
không thể thiếu vắng hình ảnh “người thương” của “cái thuở ban đầu”, để rồi,
cho mãi đến bây giờ thi nhân vẫn cứ thấy lòng ngẩn ngơ, trong tiếng xạc xào của
làn sóng tình êm ái “ngây thơ tự thuở nào” với “cô bạn nhỏ”:
Câu chuyện ngây thơ tự thuở nào
Bây giờ nhớ lại ngỡ chiêm bao
Ơi cô bạn nhỏ đâu rồi nhỉ?
Chỉ thấy trong tôi mía xạc xào…
(Mía)
Và, cái làm nên tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh là thế
đó. Tất cả chỉ là những ảnh hình thiên nhiên, con người bình thường, gần gũi
trong cuộc sống, không hề nhuốm một chút gì “hào nhoáng, màu mè” vậy mà lại ẩn
sâu trong tâm cảm người đọc. Thơ Tế Hanh vì thế là thơ của tình yêu thương chan
chứa và ông cũng chỉ thành công ở những bài thơ mang nặng tâm tình nầy. Đó là
cái duyên, cái độc đáo trong thơ Tế Hanh tạo nên gương mặt riêng của Tế Hanh
trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Điều ấy mãi mãi hiện tồn như chính cái “hồn
quê” trong thơ ông. Và chính cái hồn quê thấm đẫm chất văn hoá làng thuần Việt
này đã trở thành máu thịt nuôi sống ông. Thế nên, dẫu đang sống ở Bắc Kinh
tráng lệ, thi nhân vẫn thấy hồn quê, tình quê “lai láng chảy” trong tâm thức của
mình
Đêm nay trăng sáng Bắc Kinh
Nhớ trăng Hà Nội thấm tình quê hương
Lòng như cuộn chỉ yêu thuơng
Quấn theo mỗi một đoạn đường ra đi
(Dặm liễu)
Để rồi như một qui luật tất yếu của tình cảm đối với đất nước,
quê hương mà Tế Hanh đã cảm nhận từ sự trải nghiệm của mình: “Anh xa nước nên
yêu thêm nước“, thi nhân đã mơ thấy “Hàng châu thành Hà Nội/ Nước Tây Hồ bỗng
hoá nước Hồ Tây” (Bài thơ tình ở Hàng Châu).
Thế mới biết cái tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh sâu nặng
đến dường nào!? Và nói như nhà thơ Phạm Hổ, trong lời giới thiệu tuyển tập thơ
Tế Hanh (1938 – 1988) do Sở Văn hoá và Thông tin Quảng Ngãi, xuất bản năm 1989:
“Nếu tôi không nhầm thì thời ấy, (thuở phong trào Thơ mới 1932 – 1945 –
THA) khi Xuân Diệu say đắm làm thơ về tình yêu, Lưu Trọng Lư mơ màng làm thơ về
sầu mộng, Chế Lan Viên suy tư về sự điêu tàn, Phạm Huy Thông hướng về lịch sử,
Huy Cận cảm xúc với đất trời…thì Tế Hanh đã nói đến cái làng quê của
mình: làng tôi vốn làm nghề chài lưới… (Quê hương). Tôi con đường
nhỏ chạy lang thang, kéo nỗi buồn không dạo khắp làng – chữ “không” sao mà
đáng yêu và đáng thương (Lời con đường quê). Và ngay từ đầu, anh đã nói về quê
hương của mình với một nỗi buồn lặng lẽ, khá mênh mang… Có lẽ đó là cái “tạng”
cái bản chất của anh chăng?”(5)
3. Suy niệm về hành trình sáng tạo thơ của Tế Hanh, đặc biệt
là những bài thơ thể hiện tâm thức làng quê, Phạm Hổ có nhận xét đại ý rằng: Có
thể nói, Tế Hanh là một con người có tấm lòng gắn bó với quê hương một cách tự
nhiên như “trời sinh” nhưng cuộc sống lại dành cho Tế Hanh những điều không
may, mà lại rất may cho sự nghiệp làm thơ của mình: “Yêu quê hương nhưng không
mấy khi được sống với làng quê!”. Phải chăng, chính cái điều tưởng chừng như
nghịch lý này lại là căn tố hình thành nên tâm thức làng quê trong thơ Tế Hanh
và phóng chiếu thành những năng lượng để thi nhân sáng tạo những bài thơ viết về
quê hương, đất nước hay và da diết đến như thế. Những bài thơ không chỉ đi vào
sách giáo khoa, để lại những mỹ cảm trong tâm hồn bao thế hệ học trò, cũng như
biết bao người đọc mà còn là tài sản vô giá của thơ ca Việt Nam hiện đại. Bởi,
nói như Michelet: “Quê hương phải được thấm nhuần trong học đường”.(6) Và
điều này đã làm nên hệ giá trị riêng cho thơ Tế Hanh trên thi đàn thơ Việt.
Vì thế, dẫu hôm nay Tế Hanh đã đi ra “ngoài cõi sống” để trở
về với “mảnh hồn làng” mà ông luôn trân quí và nhớ thương nhưng thơ ông, trong
đó có những bài thơ chứa đựng tâm thức làng quê vẫn là một giá trị vĩnh hằng
trong cuộc sống, vẫn mãi mãi xanh tươi như “Bài ca sự sống”(**) chứa chan
tình yêu đất nước, quê hương.
Và, hôm nay trong tận cùng niềm yêu thương và tiếc nhớ, nghĩ
về Tế Hanh, một người con dấu yêu, một trong những thi tài của quê hương “Núi Ấn,
Sông Trà”, nhân 100 năm sinh của ông, chúng ta không khỏi ngậm ngùi xa xót, thốt
lên những lời thê thiết tự đáy lòng: “Những người muôn năm cũ / hồn ở đâu bây
giờ!?” (***)
PGS-TS. TRẦN HOÀI ANH
_____________________
(*) Thơ trích dẫn trong bài đều lấy trong Tuyển tập Thơ
Tế Hanh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1987, do Nguyễn Bao (sưu tầm, tuyển chọn).
(**) Tên một tập thơ của Tế Hanh
(* * *) Ông Đồ – Vũ Đình Liên
(1) (3) (6) Hoàng Xuân Việt, Danh ngôn từ điển, Nhà
sách Khai Trí xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr.21
(2) Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (Q.
hạ) Ba thế hệ của nền văn học mới (1862 đến 1945), Nxb. Trình bày,
Sài Gòn, 1967 tr. 802.
(4) Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb. Văn
học, Hà Nội, 2003, tr.149)
(5) Tế Hanh, Tuyển tập thơ (1938 – 1988), Sở
Văn hoá và Thông tin Quảng Ngãi, xuất bản, 1989, tr.5
21/8/2021
Huỳnh Như Phương
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu Văn học, số 5-5/2011
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét