Thi sĩ Phạm Hầu và
lời tỏ tình trên lá cây
Trong số những gương mặt thi sĩ được Hoài Thanh tuyển chọn
trong Thi nhân Việt Nam, tên tuổi Phạm Hầu vụt sáng như tia chớp của một
ngôi sao bay ngang bầu trời Thơ Mới.
Nhà phê bình Hoài Thanh đã dành cho ông những lời nhận xét thật
trân trọng và xác đáng: “Ở đời, có những người nói to bước vững, Phạm Hầu quyết
không phải trong hạng ấy. Ở giữa đời, Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để
dấu trên đường đi. Người còn mải sống với mình và con người ta tưởng không có
gì là một người giàu vô vạn. Lòng người là một Vọng Hải đài…”.Thi sĩ Phạm HầuPhạm Hầu sinh năm 1920, mất năm 1944. Ông là con tiến sĩ Phạm
Liệu từng làm quan Thượng thư dưới triều Nguyễn, một trong “ngũ phụng tề phi” xứ
Quảng, quê gốc ở Điện Bàn, Quảng Nam. Trong cuộc đời ngắn ngủi, chỉ với 24 năm
hiện diện trên dương thế, thi nhân đã để lại cho đời một gia tài thơ không lớn
nhưng có những bài khá đặc sắc. Đặc biệt bài Vọng Hải đài đã in một dấu
ấn đậm nét trong lịch sử thơ ca Việt Nam hiện đại. Hai câu kết của bài thơ:
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?
Đã thành “câu hỏi lớn không lời đáp” ám ảnh bao thế hệ người
đọc. Cảm giác vũ trụ mênh mang vẫy tay ngoài vô tận khi đứng trên đài cao Vọng
Hải vừa thể hiện khí phách cao ngạo vừa cho thấy nỗi cô đơn sâu thẳm của tâm hồn
thi nhân. Cần lưu ý xa lòng ở đây phải theo cách hiểu của người miền Trung: có
nghĩa người một lòng với mình mà phải xa cách, chứ không phải theo cách hiểu
thông thường: cách mặt xa lòng. Những câu hay của thơ Phạm Hầu lúc nào cũng đau
đáu một nỗi cô đơn không người chia sẻ:
Tôi theo tư tưởng vô cùng tận
Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu
Sáng sớm rạng đông, chiều chạng vạng
Những giờ mới lạ có bao nhiêu?
Và nỗi cô đơn dằng dặc ấy lại càng trở nên day dứt hơn khi
trong cuộc đời mình thi sĩ đã ôm ấp một tình yêu đơn phương, si mê thầm lặng.
Xung quanh mối tình này đã có bao nhiêu huyền thoại với những câu chuyện thực
hư lẫn lộn đan xen nhau.Vọng Hải đài trên núi Ngũ Hành Sơn,
Đà Nẵng. Ảnh: LGNhân vật chính của thiên tình sử này là một cô gái thuộc dòng
dõi hoàng tộc trạc tuổi với thi sĩ Phạm Hầu, tên là Tôn Nữ Lệ Minh (tên gọi ở
nhà là Mừng). Lệ Minh được nhiều người ngưỡng mộ vì có tài đánh đàn tranh, ngâm
thơ hay và rất xinh đẹp, được coi là hoa khôi của cố đô Huế thời đó. Cha
cô là một nghệ sĩ nổi tiếng.
Hai cha con Lệ Minh đã từng được vào dinh quan, phủ chúa dạy
đàn cho con cái những người quý tộc. Cô đã trở thành “người tình trong mộng” của
biết bao là tao nhân mặc khách. Và Phạm Hầu đã dành cho cô một mối tình thiên
thu vô tận.
Phạm Hầu biết Lệ Minh từ khi chàng là học trò trường Quốc học
Huế còn nàng là nữ sinh trường Đồng Khánh. Lệ Minh còn là bạn của em gái Phạm Hầu.
Thuở đó, mỗi lần Lệ Minh đi ra đường, lập tức xuất hiện một chiếc bóng theo
sau, giữ một khoảng cách nhất định, vừa như sợ người đi trước phát hiện, vừa
mong muốn người đó biết được tình cảm của mình.
Mối tình si thầm lặng cứ tiếp diễn mãi, kể cả sau này khi Phạm
Hầu đã ra Hà Nội học trường Mỹ thuật. Mỗi kỳ nghỉ hè về Huế, Phạm Hầu lại tìm đến
nhà Lệ Minh để được nhìn ngắm dung nhan người mình yêu dấu.
Mỗi buổi sáng cô ra quét ngõ, quét đường, cây lá quanh nhà cứ
như reo lên chào đón người đẹp. Và kỳ lạ thay, ở trên tất cả các lá cây ngang với
tầm tay có thể vít xuống được đều lấp loáng hàng chữ: Tôi yêu Mừng, Tôi yêu Mừng.
Chẳng khó khăn gì để đoán biết tác giả của những lời tỏ tình trên lá đó chính
là thi sĩ lãng mạn và tài hoa Phạm Hầu.
Căn cứ vào lời nhận xét của Hoài Thanh khi ông đọc những bài
thơ chép tay của Phạm Hầu thì chắc hẳn đó là “những chữ mảnh khảnh, nhỏ nét, nằm
trên trang giấy (trên lá?) như còn e thẹn, ngập ngừng. Lối chữ này đã giúp tôi
hiểu Phạm Hầu hơn”.
Và cách tỏ tình độc đáo, khác lạ này cũng giúp chúng ta hiểu
hơn tấm tình tha thiết đến si dại của thi nhân. Tôi cứ tin rằng hình bóng của
nàng Tôn Nữ chính là nguồn cảm hứng vô tận để thi sĩ sáng tạo ra những bài thơ,
câu thơ ghim được vào tâm trí người đọc:
Ngập ngừng ai vẫn qua êm nhẹ
Một cái nhìn hương, chỉ thế thôi!
Một cái nhìn hương – hình như trong thơ lãng mạn Việt Nam
chưa ai viết thế. Hương thơm từ một ánh nhìn, hay cái nhìn của người đẹp như một
làn hương thoảng nhẹ?
Chính thi sĩ đã “thú nhận” với người đời việc làm khác lạ đó
của mình:
Cái cây thi sĩ vô tình đã
Biên những dòng thơ lá bẽ bàng
Thẫn thờ lá trúc rưng rưng lệ
Như mắt đa tình lúc tiễn đưa.
Và đây nữa:
Tình tôi chót vót tựa non cao
Chỉ biết mình tôi thương nhớ thôi
Không cần ai phải nhớ thương tôi.Bà Tôn Nữ Lệ Minh và con trai Lưu Trọng
Văn bên mộ Phạm Hầu ở Huế, năm 1997Mối tình câm đã trở thành một nỗi đau không dễ nguôi quên “Ngày
một ngày hai thấm từng nét người yêu vào hồn mình. Hình ảnh thấm sâu đã thành sự
sống. Để cho vơi nỗi đau, Hầu tránh mọi con đường ngày thường qua lại, Hầu
tránh Bến Ngự, Hầu tránh cả Huế, Hầu ra Hà Nội ở một gác ba phố Săng-om, trên
gác nhỏ, la liệt những bức tranh phác họa… Những gì Hầu đã vẽ và viết cho Mừng,
Mừng không hề biết đó là một người đã vẽ, đã viết, đã mơ về Mừng” (Theo Hồi ký
Lưu Trọng Lư).
Nhưng thật đúng là “trớ trêu chi thế ôi tình yêu”, thi nhân
yêu si mê, đắm đuối đến như vậy nhưng không được người đẹp đền đáp. Nàng lại
trao gửi tình yêu và cuộc đời mình vào một thi nhân khác. Thời gian sau cô Lệ
Minh đã trở thành bà Lưu Trọng Lư.
Như một sự run rủi của số phận, có thời gian Lưu trọng Lư ở
trọ cùng nhà với Phạm Hầu ở Hà Nội. Phạm Hầu còn vẽ một bức tranh nai minh họa
cho tập thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Có đôi lần nhà thơ đã kể cho
Phạm Hầu nghe về cô cháu gái “họ xa” ở Huế.
Lưu Trọng Lư đã nói về Phạm Hầu với tình cảm thân thương, đầy
trìu mến “Anh lành lắm, chỉ nhìn mà ít nói… chỉ biết thương yêu, nhường nhịn
giúp ích cho đời, đúng là một con nai nhỏ của tôi. Trong con nai thu của tôi,
không phải chỉ có cái ngơ ngác của tôi mà thôi. Anh Hầu còn dại khờ đáng yêu
hơn cả thơ và tranh của anh. Tình thương của anh nhẹ nhàng kín đáo lắm, không để
ý không thấy, dễ tưởng như phơn phớt vô tình. Anh ở bên tôi lâu ngày, lúc anh
đi nơi khác tôi mới cảm thấy được sự trống rỗng anh để lại bên tôi. Tôi nhớ
thương anh hơn ruột thịt” (Trích hồi ký Nửa đêm sực tỉnh).
Con người Phạm Hầu được các nhà Thơ Mới kể lại khá thống nhất.
Theo đó ông là một người sống lặng lẽ, nhu mì. Với 24 năm ngắn ngủi trên dương
thế, ông chỉ kịp để lại cho đời 26 bài thơ (do Hoàng Minh Nhân sưu tầm được, gồm
cả 6 bài in trên các báo, tạp chí Tao đàn, Thanh niên, Bạn đường… trước Cách mạng).
Những bài thơ của Phạm Hầu in dấu một nỗi cô đơn thường trực trong tâm hồn (Vọng
lâu, Riêng Tây). Tình yêu trong thơ ông cũng chỉ là những thoáng mộng mơ trong
tâm tưởng (Mộng cù lao, Sầu thương).
Thế giới nghệ thuật trong thơ ông mang một vẻ riêng không dễ
lẫn, vừa mong manh hư ảo, siêu thực (Ai về lướt thướt trong đêm trắng), vừa dữ
dội và quyết liệt (Trong đầy ải mình trần tê ngọn lửa/ Tiệc chim bằng rỉa rói một
lòng đơn).
Cùng là thi nhân nên họ dễ có tâm hồn đồng điệu. Lưu Trọng Lư
thấu hiểu tình yêu của thi sĩ Phạm Hầu đã dành cho Lệ Minh. “Duyên trăm năm dứt
đoạn – tình một thuở còn hương”, về phần mình, bà Lệ Minh cũng rất trân trọng
tình cảm sâu nặng ấy.
Ngôi mộ của thi sĩ Phạm Hầu nằm ở chùa Vạn Phước (Trường An,
Huế) là một nơi chốn tâm linh của cõi lòng bà. Trong thời gian yêu thương rồi
khi đã trở thành vợ nhà thơ Lưu Trọng Lư, mỗi khi có điều kiện, bà lại cùng chồng
đi viếng mộ nhà thơ.
Trước khi từ giã cõi đời một năm – năm 1997, bà đã cùng con
trai là nhà báo Lưu Trọng Văn đến viếng thăm ông lần cuối. Trong mắt thi nhân,
hình ảnh người tình trong mộng tưởng của ông mãi mãi thanh xuân như thuở đầu đời,
thuở nàng xao xuyến, bồi hồi đọc những lời tỏ tình được ông viết trên lá cây.
21/7/2020 Lưu Khánh Thơ
21/7/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét