Tô Hoài, một phong cách
văn xuôi nhiều màu sắc *
Trong dòng văn học hiện thực thời kỳ 1939-1945 - Tô Hoài là một
cây bút tiêu biểu đa năng. Ông có tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, truyện thiếu
nhi… Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám khối lượng tác phẩm lại được nhân lên với
nhiều thể loại, nhiều màu vẻ.
Trọng điểm của một đời văn là quê hương. Bộ ba tác phẩm Quê
hương, Quê người, Quê nhà là dòng chảy qua nhiều thập kỷ nhiều tư liệu về quê
hương Việt Nam. Hơn thế nữa sau Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp
ông lại có một quê hương mới. Truyện Tây Bắc rồi Miền Tây là
quê hương của nhiều dân tộc vùng cao. Ông tiếp tục truyền thống của những trang
viết về làng quê của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng trong hoàn cảnh
của thời kỳ mới khắc nghiệt và nặng nề của chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp
và phát xít Nhật.
Nhà văn Tô Hoài1. Tô Hoài có một cách nhìn làng quê vừa chân thực, xác thực vừa
cởi mở. Điều này phụ thuộc một phần vào đặc điểm của các vùng quê. Theo Tô Hoài
những làng quê xa thành phố xa phủ huyện thường hương lý, cường hào ra sức áp bức
bóc lột dân quê như các trường hợp trong Tắt Đèn, Bước đường cùng. Tô Hoài
sống và viết ở vùng quê ngoại thời không khí làng quê có phần cởi mở hơn. Vẫn
là cảnh dân quê bị bần như tơ nhện giăng mắc con mồi cho đến khi chết, dân quê
nhiều khi có nhiều người phải bỏ làng ra đi (Quê người). Tuy nhiên vẫn có cảnh
người dân quê đi cùng xe với ông lý ra bưu điện tỉnh lĩnh tiền. Nhiều làng quê
ngạt thở với sự tàn ác của hào lý nhưng cũng dễ thở trong những ngày lễ hội
trong cảnh làng xóm được mùa và niềm vui của các gia đình trong ngày cưới xin
cho con cái.
Vùng quê ngoại thành cũng vắng bóng những nhân vật hách dịch
tàn ác kiểu Nghị Quế, Nghị Lại, Bá Kiến.
2. Nhà văn Vũ Ngọc Phan trong tác phẩm Nhà văn hiện đại đã
xem Tô Hoài là nhà phong tục. Chính xác trong phân loại. Nói tới phong tục là
nói tới những điều tốt đẹp cần giữ gìn bảo vệ trong cuộc sống. Làng quê Việt
Nam có nhiều phong tục tốt đẹp trong sinh hoạt làm ăn cư xử. Chỉ riêng tết
Nguyên đán đã có nhiều điều cần biết trong ứng xử: xông nhà, mừng tuổi, lễ tết
cha mẹ… Về giao tiếp xã hội mỗi dân tộc, miền đất, vùng quê cũng có những phong
tục cần bảo vệ. Phong tục là việc tốt, điều hay hàng ngày được lắng đọng và bền
vững theo thời gian. Nước Nga có tục dâng quà quí là bánh mỳ và muối cho việc
đón tiếp các vị khách lãnh đạo nước ngoài tại sân bay. Nhỏ bé bình dị nhưng là
một phong tục cần bảo vệ những phong tục cho từng miền đất làng quê. Trên xu hướng
hiện đại hóa các phong tục biến dần không được bảo vệ. Chỉ còn những ngày kỷ niệm
sự kiện lớn, sự việc nhỏ. Điều này thể hiện rõ nhất ở các dân tộc vùng cao.
Trở lại với phong tục trong tác phẩm của Tô Hoài. Đọc Quê
người và những truyện ngắn của Tô Hoài thời kỳ trước Cách mạng viết về
làng quê dễ thấy khung cảnh hội hè của cả làng trong dịp tết nhất, hội làng, hội
thi văn nghệ, thi đánh vật. Các hoạt động trên được tổ chức theo phong tục thường
niên nhất là vào dịp đầu xuân. Điều này dường như trái ngược với việc khai thác
miêu tả lệ làng trong tác phẩm Việc làng của Ngô Tất Tố. Hai nhà văn
với hai mục đích khác nhau. Ngô Tất Tố viết Việc làng để phê phán những
lệ làng lạc hậu mà chế độ thực dân phong kiến vẫn duy trì, ảnh hưởng đến cuộc sống
của người nông dân và văn hóa làng xã. Đó là một đóng góp của những trang viết.
Tô Hoài tả phong tục góp phần miêu tả những tập quán lành mạnh cần lưu giữ,
trang văn cũng vui vẻ phong phú hơn.
3. Các nhà văn hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam
Cao… ít miêu tả thiên nhiên. Các tác giả dường như tập trung miêu tả những xung
đột xã hội, những mâu thuẫn của làng quê nên thiếu đi một phần cần có khi viết
về làng quê là thiên nhiên.
Tô Hoài chú ý đến vẻ đẹp của thiên nhiên. Từ một câu chuyện gặp
gỡ giữa đôi trai gái ở đầu làng cũng có bờ tre che chở, có ánh trăng soi rọi. Với
đề tài miền núi thiên nhiên càng có vị trí quan trọng. Mùa xuân trong Vợ
chồng A Phủ có rừng núi cao cây cối nở hoa dập dìu với tiếng sáo, tiếng nước
suối chảy tạo không khí tươi vui. Tô Hoài có viết một chi tiết vui là trong
sáng tác Nam Cao miêu tả giỏi về tâm lý và ít viết về thiên nhiên nên thỉnh thoảng
nhờ Tô Hoài tả giúp cho một đôi cảnh thiên nhiên trong câu chuyện.
Nói tới thiên nhiên là nói tới bầu trời xanh, rừng núi, con
suối, bờ tre giếng nước nhưng cũng phải chú ý đến thế giới những bạn nhỏ của
con người: con chim, con cá, rồi các loài vật con mèo, con gà xung quanh ta. Tô
Hoài là nhà văn viết giỏi, viết hay về các loài vật.
Chỉ riêng một chuyện Dế mèn phiêu lưu ký cũng đã
ghi một điểm son cho trang viết. Loài vật trong truyện của Tô Hoài thường gần
gũi và ám chỉ vào cảnh ngộ của con người nhất là người nông dân ở làng quê.
Truyện ngắn Gà Trống ri gợi thương cảm cho những hoàn cảnh không may,
con gà trống ri bé nhỏ không được các bạn mái để ý phải lạc loài đi tìm con mái
bé nhỏ ở cuối làng để có chút hạnh phúc lứa đôi. Nồi nào vung ấy không phải chỉ
ở thế giới người mà cả ở sự kén chọn của loài vật. Có bạn đọc hỏi ông, sao ông
không viết về các loài vật to như La Phông-ten nhà văn Pháp nổi tiếng. Ông cười
và cho biết cái gì gần mình thì dễ viết dễ thân thiết hơn còn với hổ báo, sư tử
xa lạ và phải lên vườn bách thú.
4. Khuynh hướng sử thi hóa đề tài quê hương đất nước.
Miêu tả một đối tượng Tô Hoài quan tâm đến quá trình và diễn
biến phù hợp với quy luật vận động và phát triển xã hội. Tô Hoài muốn ghi nhận
những chuyển biến những thành quả của miền đất quê hương của mình qua thời gian
nhất là qua mốc lớn của xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám đi kháng chiến theo bộ đội vào giải
phóng Tây Bắc Tô Hoài có tác phẩm Truyện Tây Bắc được tặng giải nhất
cùng với Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc. Hai tác phẩm đã miêu tả
thành công những con người mới trong văn học. Đinh Núp chân dung một người thực
việc thực, và vợ chồng A Phủ hai nhân vật chính của câu chyện gợi cảm và gây ấn
tượng.
Vợ chồng A Phủ và miền đất quê hương của đồng bào Mông đã neo
giữ ở tác giả những tình cảm và kỷ niệm tốt đẹp. Tác giả vẫn quan tâm theo dõi
sự đổi thay của miền quê hương này trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
núi qua tác phẩm Miền Tây tiếp nối nhưng không trùng lặp. Qua nhiều
năm trưởng thành miền Tây trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội có một bộ mặt
mới tươi đẹp. Những nhân vật như A Phủ, Mỵ ngày xưa đã nhường lại cho hình ảnh
những con người mới. Hai phiên chợ cũ và phiên chợ mới hai miền hay là hai hình
ảnh của thời kỳ. Vốn sống của Tô Hoài phong phú, phát triển nhiều sáng tạo mới.
Nói như nhà văn Hữu Mai trong một cuộc hội thảo ở Viện Văn học năm 2001 “Tô
Hoài viết bằng vốn sống cũ nhưng luôn mới và hấp dẫn”.
5. Đề tài Hà Nội.
Vốn là một thư ký bán giầy cho hãng giày Bata ở Hà Nội Tô
Hoài hiểu biết và có một vốn sống phong phú về đề tài Hà Nội cũ. Là một nhà văn
sớm có sáng tác viết về Hà Nội càng khích lệ và thúc đẩy ông đi sâu tìm hiểu về
Hà Nội. Có một Hà Nội trong văn chương Tự Lực văn đoàn. Cuộc sống phồn hoa ăn
chơi của những người giàu có. Hà Nội ba mươi sáu phố phường của Thạch Lam là một
Hà Nội đẹp, nên thơ trong nhiều cảnh đời bình dị. Có một Hà Nội trong văn
chương Vũ Trọng Phụng tập trung với nhiều cảnh đời đua chen, cạnh tranh xô bồ ở
khu phố cổ, Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng… Phía trên là cảnh ăn chơi của một số gia
đình bắt chước theo kiểu tân tiến, “văn minh” vẫn còn một khoảng trống dành cho
Tô Hoài. Đó là cảnh Hà Nội đời thường của các tầng lớp trung lưu và người nghèo
khổ sinh hoạt nơi phố phường. Có không khí vui tươi của những ngày lễ hội hội
Tây, Tết Trung thu, lễ hội chùa, có không khí tấp nập mua bán quần áo, tơ lụa,
vải vóc và nhộn nhịp nhất là các hàng ăn đường phố. Các thức ăn bánh cuốn, chả
cá, phở, cơm đầu ghế, rồi các hàng quà rong của người Tàu như bánh rán, bánh
chín tầng mây, bát bảo lường xà. Tô Hoài miêu tả chân thực, không tô điểm nhưng
luôn trong lòng vẫn là ý thức và tình cảm tôn trọng cảnh và người của Hà Nội
cũ. Với sở trường của một ngòi bút giỏi quan sát Hà Nội cũ hiện ra như những bức
tranh sinh động.
Ngoài những tác phẩm chính Tô Hoài còn quan tâm đến những
giai thoại truyền thuyết và tạo dựng nhiều tác phẩm sinh động như Đảo
hoang, rồi chuyện thiếu nhi, chuyện loài vật… Nhà thơ Hữu Thỉnh cho rằng Tô
Hoài là tác giả có nhiều đầu sách nhất. Chính xác nhưng điều quan trọng là một
phong cách văn xuôi chân thực hấp dẫn, nhiều màu sắc.
Nguyễn Đình Thi về Nguyễn Sen Tô Hoài có thể lập được một bộ
tự điển Tô Hoài. Trong con người Nguyễn Sen khó mà tách bạch ra được chỗ nào là
nhà văn, chỗ nào là nhà báo, nhà quản lý, chỗ nào là người công dân, người đảng
viên.
… Một số bài thơ của tôi Sen đọc và bảo thẳng với tôi “Thi
không biết làm thơ. Tên anh là Thi nhưng anh không làm nổi một câu thơ xoàng.
Tôi định đùa lại Sen: Vâng tôi không viết nổi một câu thơ xoàng bởi vì tôi chỉ
làm được những câu thơ hay, nhưng nghĩ thế nào tôi lại không nói như vậy”.
Nhà văn Đặng Tiến: Tô Hoài là nhà văn không bao giờ già. Vì
con người anh chưa bao giờ trẻ. Tô Hoài miên viễn là buổi trưa mùa thu, mùa thu
có những ngày không sáng cũng không chiều. Nhưng vẫn có những chiều chiều. Những
chiều chiều mãi mãi trong chúng ta.
Năm 1957 sau khi tốt nghiệp ngành văn Đại học Sư phạm Hà Nội
tôi được giữ lại làm cán bộ giảng dạy của trường. Ngoài việc chuẩn bị cho việc
giảng dạy tôi quan tâm đến việc nghiên cứu. Năm cuối của khóa học tôi viết hai
chuyên luận về Nguyên Hồng và Nguyễn Công Hoan. Tôi không có ý viết tiếp hoàn
thiện hai chuyên luận vì các nhà văn đang sung sức đang cho xuất bản. Tôi nghĩ
đến Nam Cao và quyết định tìm hiểu và nghiên cứu về nhà văn hiện thực nổi tiếng
này. Nam Cao ngoài tiểu thuyết Sống mòn thường viết nhiều truyện ngắn
đăng trên Tiểu thuyết thứ 7 tờ báo này không còn số nào lưu trữ ở Thư
viện Trung ương.
Hội Nhà văn cho biết nhà văn thân tín gần gũi nhất của Nam
Cao là Tô Hoài. Tôi tìm đến ông để xin ý kiến về Nam Cao. Cuối phố Trần Quốc Toản
có một phố nhỏ, đường lát đá và nằm sâu trong ngõ là nhà của nhà văn Tô Hoài.
Tôi xin gặp và được ông đón tiếp niềm nở. Chuyện kể về Nam Cao thời kỳ trước
Cách mạng, những năm kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc. Về các tác phẩm của Nam
Cao. Càng nghe càng thấy thú vị sáng ra nhiều ý tưởng và kiến thức bổ ích. Lúc
này ông khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, lãnh đạo Hội Nhà văn. Nhà văn Tô Hoài
có trí nhớ tốt nhận xét về người về việc công bằng và nhân ái của một người
giàu trải nghiệm am hiểu việc đời.
Về tư liệu bài báo Nam Cao tôi tìm ở các hiệu sách cũ đặc biệt
ở cửa hàng sách cũ phố Lãn Ông khi các bà đồng nát vào buổi trưa đổ sách báo cũ
về bán cho cửa hàng. Nhiều truyện ngắn như Trạch Văn Đoành, Một đám cưới đều
được tìm thấy ở đấy. Cuốn Đôi lứa xứng đôi (1941) do nhà Cộng lực xuất
bản, vẫn chưa tìm được. Tôi đã đến Nxb Cộng lực nhưng không thu thập được gì.
Sau mấy năm viết xong tác phẩm Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc tôi
nhờ nhà văn Tô Hoài đọc hộ và cho tôi nhận xét. Ông đã viết cho tôi bài giới
thiệu in ở đầu tập sách. Nhà xuất bản văn hóa ấn hành. Tác phẩm đầu tay được
báo Văn học khen ngợi. Tôi vui mừng và biết ơn Tô Hoài ân nhân đầu
tiên với người mới vào nghề. Trong lời giới thiệu ông viết “Đọc tập nghiên cứu
này dù chỉ vài dòng nhận xét tôi cũng không thể viết. Nhưng trang sau đây Hà
Minh Đức đã làm tất cả vì chúng ta. Tôi chỉ biết có đồng tình và nhiệt liệt
hoan nghênh” **. Sau này tôi tìm được cuốn Đôi lứa xứng đôi lại có
thêm đầy đủ các truyện ngắn của Nam Cao, tôi đã bổ sung và đặt tên là Nam
Cao – Đời văn và tác phẩm (Nxb Văn học. 1998). Cuốn sách được tặng Giải
thưởng Nhà nước năm 2000 về Khoa học công nghệ trong cụm ba tác phẩm (Thơ và mấy
vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nam Cao – Đời văn và tác phảm, C. Mac Ph.
Anghen V.I Lênin và một số vấn đề lý luận văn nghệ) sau này trong nhiều năm tôi
vẫn đến thăm anh trong dịp ngày lễ, ngày Tết. Ông đã giúp cho tôi hiểu biết
thêm nhiều về miền Tây, về các dân tộc ít người, về Hà Nội xưa và về chuyện của
các nhà văn. Trên cả ba vấn đề ông kể vui sâu sắc, mới lạ và vui vẻ. Tôi nghĩ
thầm nghe chuyện nhà văn Tô Hoài như nghe chuyện kể Một nghìn một đêm lẻ không
bao giờ vơi cạn. Điều tôi ngạc nhiên là ông chủ động và không hề ngạc nhiên với
bất cứ chuyện gì phức tạp, nan giải. Tất cả đều được ông chỉ ra cái gốc sự thật
như thế nào và được lý giải nhẹ nhàng thanh thoát. Điều quan trọng và đáng quý
là sự thành thực đến tự nhiên vui vẻ khi kể về chuyện mình. Khi ông được tặng
giải nhất Truyện Tây Bắc của Hội Nhà văn. Về chuyện này một vài tờ
báo trong Nam thêu dệt, bịa đặt về chuyện Tô Hoài đi thực tế ở vùng dân tộc được
chính quyền địa phương buổi tối cho các cô đến mắc màn, quạt cho ông ngủ. Tô
Hoài kể cho tôi nghe và ông nói “Được như thế thì tốt quá”. Ông cũng là người
đa tình nhưng kín đáo và biết hạn chế. Có lần ông tâm sự “Mình yêu nhiều hơn
Thi nhưng không có sự cố. Một lần tôi hỏi ông: Người ta nói anh và chị T.N yêu
nhau. Ông cười và bảo “Mình cũng nghe nói thế.” Đời của nhà văn Tô Hoài có nhiều
kỷ niệm đẹp. Ông nhắc nhở tôi sống phải có kỷ niệm”. Và chắc chắn muốn có kỷ niệm
phải biết yêu thương, gắn bó với những gì tốt đẹp của cuộc sống, không thể vô cảm,
cưỡi ngựa xem hoa. Ông sống giản dị dễ chan hòa với cuộc sống đời thường. Tôi
chưa bao giờ trông thấy ông đi xe đạp, xe máy. Ông thích tản bộ. Khi công tác ở
Hội Nhà văn Hà Nội ở phố Hàng Buồm ông thường đi bộ từ nhà phố Đoàn Nhữ Hài lên
và đi bộ về. Thỉnh thoảng ông tạt qua chỗ tôi ở phố Hàng Ngang chơi. Có lần ông
dẫn cả cụ Nguyễn Tuân lên nhà tôi. Căn nhà cũ dễ lạc lối để cụ phải kêu lên
“Tôi lạc vào Hồng Kông cũ rồi”. Trong một vài lần vào hiệu ăn với ông, ông ăn rất
ít và chỉ thích nhấm nháp rượu vang. Một tinh thần minh mẫn, nhạy cảm và một cơ
thể khỏe mạnh, nhẹ nhàng, bền bỉ. Phải chăng nhà văn đã được rèn luyện từ ngày ở
Tây Bắc đi ngựa qua vùng đất núi ăn ngô bung, hòa mình với cuộc sống của đồng
bào vùng cao. Ông tôn trọng thời gian và ví mình như người thợ khâu lúc nào
cũng phải giữ mũi kim đường chỉ cho tươi tắn, đều đặn, trong công việc.
Trong những năm cuối đời tôi được tháp tùng và mời ông đi
thăm lại cảnh Hà Nội. Từ câu chuyện ở nội đô, khách sạn Mêtropole mà ông quen
thuộc khi mới tiếp quản thủ đô đến các làng quê ngoại thành. Mùa xuân và những
ngày giáp Tết tôi mời ông bà đi dạo cảnh ngoại thành. Ông chăm chú quan sát dừng
xe ở nhiều chỗ. Ông xuống xe trầm ngâm ngắm cảnh Hồ Tây, phần cảnh đẹp xưa còn
lại và phần đã đổi thay. Một lần tôi kể cho ông nghe chuyện một cháu bé gặp nạn
và tay có quyển Dế mèn phiêu lưu ký, ảnh chú dế mèn bị ướt và nhầu nát.
Ông rưng rưng không cầm được nước mắt thương cháu bé và con dế mèn. Dế mèn từ
tuổi thơ đã bay xa đến nhiều xứ sở làm bạn với các em nhỏ và hôm nay vẫn còn
gây xúc động với chính tác giả.
Một đời văn với nhiều tác phẩm có giá trị, một cây bút sáng tạo
với nhiều thể loại văn chương, một cây đại thụ của làng văn mãi mãi được ghi nhớ:
nhà văn Tô Hoài.
* Xem chuyên luận Hà Minh Đức: Tô Hoài - sức sáng tạo
của một đời văn, Nxb Giáo dục. 2010. 311 tr.
** In trong cuốn Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc.
15/12/2020 Hà Minh ĐứcNguồn: Văn Nghệ số 31/2020Theo https://vanhocsaigon.com/
15/12/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét