Yêu nước trước hết
là yêu tiếng mẹ đẻ
Năm 1917, tạp chí Nam Phong đăng bài Văn Quốc ngữ và
một số bài liên quan của nhà báo Phạm Quỳnh hai mươi nhăm tuổi. Một trăm năm
sau, khi đọc lại mấy bài ấy người ta lại một lần nữa thấy tác giả thực là yêu
nước và uyên bác.
Những người tinh hoa phát tiết sớm như Phạm Quỳnh rất hiếm [1].
Suốt 15 năm (1917-1932) làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Nam Phong, ông đã
dùng tờ báo này trình bày quan điểm của mình trên lĩnh vực văn hóa – xã hội.
Cho dù quan điểm chính trị của ông có thể không phù hợp với phong trào giải
phóng dân tộc đương thời, nhưng rõ ràng ông là một nhà trí thức yêu nước đã hiến
dâng cả đời mình cho sự nghiệp cao quý dùng tiếng Việt và chữ Quốc ngữ để xây dựng
nền Quốc học của nước nhà.
Có điều Phạm Quỳnh chủ yếu thể hiện tình yêu nước theo cách
lo gìn giữ, tôn vinh tiếng nói của dân tộc, lo gây dựng nền học thuật riêng cho
nước nhà. Tiếc thay, vì người cùng thời không hiểu được ông nên rốt cuộc ông phải
hứng chịu một kết cục cay đắng. Nhưng chắc chắn lịch sử cuối cùng sẽ đánh giá
đúng về ông, và có lẽ đã đến lúc nên đánh giá lại nhân vật này.Học giả Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp
chíPhát triển quốc ngữ, xây dựng nền quốc học Việt Nam
Quốc học là nền văn hóa và học thuật truyền thống của một quốc
gia-dân tộc, được xây dựng trên nền tảng quốc văn, tức nền văn học của quốc
gia. Một nước văn hiến mấy nghìn năm như Việt Nam đã có nền Quốc học của mình
hay chưa?
Phạm Quỳnh là người đầu tiên nhận thấy nước ta cho tới đầu thế
kỷ XX vẫn chưa có quốc văn, do đó chưa có nền Quốc học của mình, và vì thế đất
nước chưa thể phát triển. Ông day dứt đặt câu hỏi: Một nước muốn mưu sự sinh tồn,
tìm đường phát đạt, có thể đời đời học mướn viết nhờ mãi được không? [2] Dù
chưa nói thẳng ra nhưng hiển nhiên ông trả lời không, và vạch ra vì sao ta chưa
có quốc văn, quốc học: Đó là do người Việt xưa nay đều học và dùng học thuật của
người Hán cũng như viết bằng chữ mượn của họ.
Dân tộc ta thời xưa không có chữ viết nên phải dùng chữ Hán
suốt hai nghìn năm, chữ Nôm chỉ dùng trong thời gian ngắn. Phạm Quỳnh nhận xét:
Không một nước châu Âu nào trong hai nghìn năm chỉ chuyên học chữ Hy Lạp hay chữ
La Mã như nước ta chuyên học chữ Hán… Hán văn tự nhiên trở thành quốc văn của
nước ta, còn “Nôm” là lời tục trong dân gian, của những kẻ không biết “chữ”.
Tình trạng học mướn viết nhờ ấy đã kìm hãm bước tiến của dân tộc ta.
Học giả – chí sĩ cách mạng Ngô Đức Kế (1878-1929) cũng nói:
Nước Việt Nam ta mấy nghìn năm nay học chữ Hán, theo đạo Khổng. Hán văn tức là
quốc văn, Khổng học tức là Quốc học [3]. Nghĩa là nền học thuật của nước ta
không có hệ tư tưởng, phải theo tư tưởng Nho học của Quốc học Trung Quốc (TQ).
Toàn bộ thể chế chính trị, văn hóa-xã hội nước ta, nội dung học tập và quy chế
thi cử của nền giáo dục nước ta đều bắt chước TQ.
Người TQ từng nói: vì chữ Hán khó học nên hầu hết dân TQ mù
chữ, ngu dốt, đất nước lạc hậu hèn yếu. Ta dùng chữ Hán tất nhiên cũng phải hứng
chịu các di hại ấy. Đặc biệt mặt tiêu cực của Khổng học (tức Nho giáo) đã kìm
hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam. Năm 1908, nhà ngôn ngữ học TQ Tiền Huyền
Đồng nói Muốn phế bỏ Khổng học, không thể không trước tiên phế bỏ chữ Hán. Ngay
từ năm 1907, Phan Châu Trinh kêu gọi Không bỏ chữ Hán thì không cứu được nước
Nam! Năm 1936, Lỗ Tấn trăng trối Không diệt chữ Hán thì TQ sẽ mất nước!
Nền văn học Việt Nam viết bằng chữ Hán là Hán văn, không phải
Việt văn, dập khuôn văn học Trung Hoa, không thể phản ảnh ngôn ngữ mẹ đẻ của
dân ta, là thứ văn bác học của tầng lớp thượng lưu, người dân chỉ hiểu qua bản
dịch. Cho nên nền văn học ấy tuy là một bộ phận của quốc văn nhưng không làm
nên nền học thuật truyền thống của nước ta. Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Trương
Chính… không coi là văn học dân tộc ta [4]. Vì thế nền học thuật chữ Hán này tuy
có góp phần xây dựng nền văn minh Việt nhưng không thể gọi là Quốc học của nước
ta.
Tất cả là do chữ Hán không ghi âm được tiếng Việt, cho nên
văn học chữ Hán bế tắc không phản ánh đời sống đông đảo dân ta! Song không phải
ai cũng hiểu ra lẽ đơn giản ấy. Chữ Hán chủ yếu ghi ý, không ghi âm. Việt Nam,
Nhật, bán đảo Triều Tiên đều mượn dùng chữ Hán, văn học chữ Hán của ba dân tộc
này đều bế tắc, cuối cùng đều phải tìm lối thoát bằng việc sáng tạo ra loại chữ
ghi âm tiếng mẹ đẻ của mình: chữ Nôm ở Việt Nam, chữ Kana ở Nhật, chữ Hangul ở
Triều Tiên.
Chữ Nôm xuất hiện đã dẫn đến sự ra đời một nền văn học dân tộc
rực rỡ với đại diện ưu tú là Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,… Nhưng do chữ Nôm chưa
hoàn thiện và thời gian dùng làm chữ viết chính thức quá ngắn, lại quá ít người
biết dùng, vì thế văn học chữ Nôm vẫn chưa trở thành quốc văn của nước ta.
Về sau, các nhà truyền giáo Ki Tô đã sáng tạo ra chữ Quốc ngữ,
món quà vô giá của văn minh phương Tây tặng dân tộc ta, hơn hẳn chữ Hán và chữ
Nôm ở chỗ ghi được toàn bộ ngữ âm tiếng Việt, lại dễ học dễ viết, có thể phổ cập
toàn dân. Phạm Quỳnh đánh giá rất đúng đây là công cụ kỳ diệu để giải phóng trí
tuệ[5], và ông dẫn đầu sự nghiệp dùng chữ Quốc ngữ để xây dựng nền Quốc học.
Đúng là từ ngày có chữ Quốc ngữ, trí tuệ người Việt được giải phóng, mở mang,
văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật… phát triển, chỉ sau khoảng trăm năm đã đạt
được thành tựu hơn mấy nghìn năm trước.
Phạm Quỳnh nhận xét: Vấn đề quan trọng nhất ở ta ngày nay là
vấn đề văn quốc ngữ. Vấn đề ấy có giải quyết được thì sự học mới có thể tấn tới,
dân trí mới có thể mở mang, cuộc tiến hóa sau này mới có thể mong mỏi được. Đến
ngày chữ Quốc ngữ dùng làm quốc văn được thì người nước Nam mới có thể thâu
thái các khoa học mới mà gây thành một nền học [tức Quốc học] thích hợp với
trình độ, với tính cách dân ta… Nói rút lại, văn quốc ngữ có phát đạt thì nền
quốc học mới gây dựng được, mối tư tưởng mới mở mang được, quốc dân ta không đến
nỗi chung kiếp đi học mướn viết nhờ như từ xưa đến nay vậy... Ta chẳng nên oán
gì các cụ ta ngày xưa vì say đắm chữ Tàu nên lãng bỏ tiếng Nôm, để cho con cháu
ngày nay khổ vì có nước mà không có văn, có người mà không có cách nói cho nhau
nghe ngoài những câu nhật dụng thường đàm… Chữ Quốc ngữ chính là cái bè để cứu
vớt bọn ta trong bể trầm luân vậy.
Ông kiến nghị: Đời trước đã lầm, đời nay phải biết tránh vết
xe cũ mà đừng đi… Các cụ đã sao lãng, bọn ta phải chăm chú… Trước ta không có
ai làm văn bằng Nôm, ta không thể lấy người trước làm gương làm mẫu được… Xin
đồng bào ta chớ lãng bỏ, chớ khinh rẻ văn quốc ngữ. Tương lai nước nhà chính ở
đó.
Người xưa sao lãng văn Nôm vì chữ Nôm chưa hoàn thiện lại khó
học, phải biết chữ Hán mới học được chữ Nôm, trong khi tổ tiên ta giỏi Hán văn,
như Khương Công Phụ đỗ Trạng nguyên ở cả Việt Nam và TQ, được phong làm Tể tướng
nhà Đường TQ.
Trước Phạm Quỳnh, các sĩ phu phong trào Duy Tân (1904) và
Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) đã nhận thấy vai trò quan trọng của chữ Quốc ngữ.
“Bài ca khuyên học chữ Quốc ngữ” của ĐKNT có câu Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước/
Phải đem ra tính trước dân ta/ Sách các nước, sách Chi-na (TQ)/ Chữ nào chữ ấy
dịch ra tỏ tường. ĐKNT đả phá “cựu học”, tức nền học thuật Nho học, chủ trương
xây dựng nền học thuật mới dùng chữ Quốc ngữ và tiếp thu các giá trị tiên tiến
của văn minh phương Tây. Nhưng hai phong trào cách mạng nói trên đều sớm bị thực
dân Pháp bóp chết.
Phạm Quỳnh không chỉ đề cao chữ Quốc ngữ mà còn đặt mục tiêu
phát triển tiếng Việt: phải sáng tạo dựng đặt ra, từ chữ dùng cho đến phép đặt
câu. Đó là vì vốn từ ngữ tiếng Việt thời ấy rất nghèo, phải dùng từ Hán-Việt du
nhập từ Nhật và TQ khi họ chuyển thành chữ Hán các khái niệm của văn minh
phương Tây. Chính ông cũng còn dùng kiểu hành văn cũ và nhiều từ cổ như bất nhược
(chẳng như), mang nhiên (không biết gì)…
Ông kịch liệt phản đối việc dùng tiếng Pháp thay cho tiếng ta
trong giảng dạy và trong đời sống và cho rằng sự “đổi não” [tư duy bằng ngoại
ngữ] ấy theo lẽ tự nhiên là không thể nào thành công. Mà dù có làm được đi nữa
cũng chẳng nên làm.
Khi diễn thuyết tại Viện Hàn lâm Pháp ở Paris (1922), ông đã
phê bình việc chính quyền Pháp buộc các trường Pháp-Việt ở ta học tiếng Pháp từ
bậc tiểu học mà không học tiếng Việt: Nếu dân Việt Nam là một dân tộc chưa có lịch
sử thì quý quốc cứ việc dạy cho học chữ Tây hết cả… Nhưng dân Việt Nam không phải
là một tờ giấy trắng muốn vẽ gì cũng được, mà là một tập giấy đã có chữ sẵn từ
đời nào đến giờ rồi, nếu bây giờ viết đè một thứ chữ mới lên trên thì e thành
giấy lộn mất… Bây giờ dạy khắp chữ Tây cho dân chúng tôi từ nhỏ đến lớn như ở
các trường Pháp-Việt hiện nay, kết quả chỉ làm cho người Việt Nam mất giống Việt
Nam…
Đứng giữa thủ đô Paris tố cáo chính quyền Pháp mưu toan đồng
hóa dân tộc ta cho tới mất giống Việt Nam – điều đó chứng tỏ Phạm Quỳnh là một
nhà yêu nước ở tầm cao tri thức hiếm thấy. Không chỉ nói, mà sau khi nhậm chức
Thượng thư Bộ Học ở triều đình Huế (1932), ông đã đòi được từ chính quyền Pháp
quyền quản trị bậc tiểu học rồi chính ông ban hành lệnh dạy chữ Quốc ngữ ở bậc
tiểu học trong cả nước.
Phạm Quỳnh cũng dẫn đầu phong trào viết văn Quốc ngữ, hồi đó
còn rất ít người tham gia. GS Dương Quảng Hàm đánh giá các bài viết của ông đã
luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học,
khoa học mới.[6] Như vậy ông đã đóng vai trò một nhà khai sáng của nước ta.
Yêu quý và độc tôn tiếng Việt - tiếng mẹ đẻ của dân tộc
ta
Phạm Quỳnh tự nhận Tôi đây chính là một người nhiệt thành
thương tiếng nước nhà, lâu nay đã tự nguyện cúc cung tận tụy một đời để gây dựng
cho tiếng ấy thành văn chương, cho nước ta có một nền quốc văn đứng riêng được
một cõi, cho người mình khỏi phải cái cực chung thân cùng kiếp đi học mướn viết
thuê.
Ngày nay được đọc được ngâm những mảnh thơ Nôm, văn Nôm của
các bậc tiền bối còn sót lại đến giờ, trong lòng có cái cảm vô hạn. Tưởng như hồn
xưa của đất Việt ta còn phảng phất đâu ở trong mảnh thơ tàn văn vụn ấy mà vẳng
đưa đến tai ta những giọng vui sầu của người thủa trước. Cùng một tiếng khóc,
cùng một giọng cười mà sao giọng cười tiếng khóc bằng cái lời họ Hàn [Hàn
Thuyên, ông tổ chữ Nôm] kia, nó cảm ta như thế? Là bởi trời sanh ta để nói cái
tiếng ấy, trời sanh ra cái tiếng để ta nói, ta có nói bằng tiếng ấy mới nói được
lòng ta, nói bằng tiếng khác là nói những chuyện không đâu cả. Trong trời đất
chỉ có tiếng nói ấy với ta, ta với tiếng nói ấy, là sẵn có duyên nợ với nhau vậy.
Đó là tiếng mẹ đẻ của người Việt, gắn chặt với vận mệnh dân tộc
ta, được Phạm Quỳnh tôn vinh, coi là hồn của đất nước. Với suy nghĩ ấy, ông
dâng cả cuộc đời mình cho sự nghiệp gìn giữ và độc tôn tiếng Việt trong tình
hình văn hóa phương Tây ồ ạt tràn vào, nền học thuật cũ dựa trên Hán học đang bị
loại bỏ, chữ Quốc ngữ vẫn còn bị coi khinh.
Tuy rất giỏi chữ Hán và tiếng Pháp nhưng Phạm Quỳnh chủ
trương Quốc văn một nước phải dùng tiếng gốc của dân nước ấy, không thể dùng chữ
Hán hoặc tiếng Pháp làm văn nước Nam. Ông sáng suốt hiểu rằng Tiếng nói là phần
cốt yếu làm thành ra một dân một nước. Cho nên xưa nay nước nào dân nào cũng có
một thứ tiếng riêng; có dân có nước bờ cõi đã mất, quốc thể không còn mà còn giữ
được quốc âm cũng không đến nỗi tiêu diệt đi được.
Đúng vậy, ngôn ngữ quyết định sự hình thành và tồn tại của một
dân tộc, là tiêu chí chủ yếu để phân biệt các dân tộc. Một dân tộc để mất tiếng
mẹ đẻ thì có nguy cơ bị tiêu diệt theo nghĩa bị đồng hóa, tan biến vào một nền
văn hóa khác. Nếu giữ được tiếng mẹ đẻ thì dù nước bị mất nhưng dân tộc vẫn
không bị tiêu diệt. Người Do Thái mất nước, 2000 năm phiêu bạt khắp nơi nhưng
nhờ giữ được tiếng Hebrew nên dân tộc này vẫn tồn tại, cuối cùng lập nên quốc
gia Israel hùng mạnh.
Phạm Quỳnh rất quan tâm chữ Nho, tức chữ Hán đã Việt hóa thành
từ Hán-Việt, và đưa ra quan điểm nên dùng từ Hán-Việt cho các từ ngữ có tính học
thuật. Ông nêu ví dụ: Nếu nói “Nhà vua Việt Nam đi chơi Bắc Kỳ, nay đã về Kinh
rồi” thì nghe sống sượng quá, không trang trọng bằng nói “Hoàng thượng ngự giá
Bắc Kỳ, nay đã hồi loan”. Những từ Hán-Việt ngự giá, hồi loan này thời ấy quen
dùng nhưng ngày nay hầu như đã biến mất.
Ông nói ta phải học và dùng chữ Nho, nhưng Xưa học chữ Nho là
vì chữ Nho, nay học chữ Nho là vì quốc văn; mục đích đã khác thì phương pháp
cũng khác; xưa học trăm phần nay chỉ học một phần thôi, nhưng là cái phần rất cần
nhằm để đọc hiểu thơ văn người xưa, chứ không phải học để mà viết văn làm thơ bằng
chữ Nho.
Dĩ nhiên quan điểm trên chỉ hợp với tình hình 100 năm trước,
khi tiếng Việt còn quá thiếu từ ngữ. Ngày nay người Việt tự tạo ra nhiều từ ngữ
mới, nhiều từ Hán-Việt nhập tịch biến thành từ Việt, tiếng Việt có thể diễn đạt
mọi khái niệm mà không cần dùng chữ Hán (Nhật và Hàn Quốc vẫn cần). Bởi vậy
ngày nay người Việt không cần học chữ Hán ở bậc phổ thông. Riêng sinh viên khoa
học xã hội-nhân văn thì cần học chữ Nho để đọc hiểu thư tịch tổ tiên để lại.
Tình yêu tiếng Việt của Phạm Quỳnh thể hiện rõ khi ông ra sức
đề cao giá trị văn chương của Truyện Kiều, bất chấp bị giới học giả yêu nước đả
kích: Truyện Kiều quả là một nền văn chương tuyệt bút, có lẽ văn Tàu cũng không
có gì bằng… có thể sánh với những sách thật hay trong văn chương các nước khác…
Suốt truyện không một câu nào đặt non đặt ép… lời văn luyện cho đến nỗi tưởng
không ai có tài nào đặt hơn được nữa… Nhiều câu trong truyện đã trở thành lời
cách ngôn thiên cổ.
Thời ấy một số học giả yêu nước còn nặng tư tưởng lễ giáo cũ
coi Truyện Kiều là “dâm thư ”, coi việc Phạm Quỳnh suy tôn Truyện Kiều là thủ
đoạn thâm độc của thực dân Pháp nhằm làm thanh niên ta bị mê hoặc mà sao lãng
nhiệm vụ cứu nước. Thực ra Phạm Quỳnh đã đi trước thời đại, đánh giá đúng tác
phẩm này. Điều đó chứng tỏ ông rất mực uyên bác và yêu nước.
Trong lễ kỷ niệm ngày sinh Nguyễn Du năm 1924, ông trịnh trọng
thề: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn! Nói cách khác,
Phạm Quỳnh thề gìn giữ Tổ quốc ta trường tồn trên lĩnh vực ngôn ngữ.
Tiếng ta còn, nước ta còn! – chân lý bất hủ ấy đã được người
Việt Nam chứng minh một cách hùng hồn nhất. Suốt nghìn năm Bắc thuộc, nước ta bị
biến thành một quận của Trung Hoa, tổ tiên ta buộc phải dùng chữ Hán, nhưng nhờ
giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ mà dân tộc ta không bị đồng hóa, tổ quốc ta vẫn
tồn tại tới nay. Thượng Chi Phạm Quỳnh đi đầu thấu hiểu và suốt đời phấn đấu thực
hiện chân lý nói trên. Ông thực sự là một học giả yêu nước và uyên bác hiếm có
của dân tộc ta.
Chú thích:
[1] Phạm Quỳnh 15 tuổi làm phụ tá ở Viện Viễn đông Bác cổ,
cơ quan nghiên cứu khoa học cao nhất của Pháp ở Đông Dương; 21 tuổi dịch các
bài văn học, triết học và đăng trên Đông Dương tạp chí.
[2] Những chữ in ngả trong bài nếu không ghi chú là lời
Phạm Quỳnh, trích từ Thượng Chi Văn tập.
[3] Trương Chính: Bàn thêm về cuộc tranh luận chung
quanh Truyện Kiều khoảng năm 1924.
[4] Bùi Duy Tân: Vị thế của văn học Hán Việt qua một
cuộc tranh luận lớn.
[5] Nguyễn Văn Huyên: Văn minh Việt Nam (chương
XII).
[6] Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu, 1941.
13/6/2021 Nguyễn Hải HoànhNguồn: Văn hóa Nghệ An
13/6/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét