Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

Thân phận ma trơi 2

Thân phận ma trơi 2

Bà Mẹ Sương Sa
Tập Truyện Ngắn
Mẹ đã già lắm, áng chừng cũng phải tám mươi tuổi.
Tóc mẹ bạc trắng, còn lơ thơ ít cọng trên đầu, nhưng lúc nào cũng trùm cái khăn rằn ri cũ vắt ngược bỏ ra phía sau đầu gọn ghẽ, lối đội khăn của phụ nữ Nam bộ lao động, tiện lau mặt khi tươm mồ hôi hoặc lau miệng khi dính quết trầu. Mẹ móm mém, trầu cau phải nghiền nát bằng cái cối đồng nhỏ xíu, cái chày nghiền có răng, lúc nào cũng ở bên mình mẹ.
Da mẹ nhăn nheo, lưng còng, mắt kém, nhưng được cái đôi tai còn thính, còn nghe rõ tiếng người gọi mua hàng. Ngần ấy tuổi với một thể lực tàn tạ, mẹ vẫn phải lao động kiếm sống, dù nhu cầu sống của mẹ chẳng là bao.
Gánh sương sa hạt lựu nước dừa vừa lành vừa mát của mẹ mỗi ngày một nhẹ hơn, địa bàn gánh đi bán rong của mẹ cũng thu hẹp lại dần.
Xưa kia mẹ gánh đi bán tận phía trên chợ Bà Chiều, vòng ra Tân Định qua cầu Kiệu về Phú Nhuận, gần hết hàng mẹ mới trở về ấp Đông Ba, băng vào đường Thái Lập Thành (nay là đường Phan Xích Long) về khu Rạch Miễu. Nhà mẹ ở đó, trong một túp lều thảm hại. Mẹ sống cu ki một thân một mình. Được cái ai cũng thương mẹ, vì mẹ ở đây đã lâu năm, không mấy ai rõ từ hồi.nào đến giờ, mẹ trung thành với gánh sương sa. Đã nhiều thế hệ ăn món quà giải khát vừa lành vừa mát của mẹ.
Lối xóm không mấy ai rõ tên tuổi mẹ, họ đặt cho mẹ cái tên "bà mẹ sương sa", riết rồi thành quen.
Cũng đúng với số kiếp hai sương một nắng của mẹ. Chắc chắn trong con người già nua cũ kỹ ấy phải có một dĩ vãng. Bây giờ mẹ đi bán sương sa phải chống gậy, bởi một lần gánh sương sa qua cầu gỗ Trần Khánh Dư, mẹ bị té lọi giò.
Ông thầy nắn xương La Văn Lường trong ấp Đông Ba nắn lại xương cất miễn phí cho mẹ. Ông khuyên mẹ nghỉ ngơi, đừng lao động nữa, vì mẹ đã vượt quá tuổi lao động. Mẹ không nói gì mà chỉ gạt nước mắt. Thầy Lường hiểu hoàn cảnh của mẹ, thầy tặng mẹ Sương Sa một cây gậy trúc, một xị rượu thuốc bóp xương khi nhức mỏi.
Từ ngày ấy mẹ đắt hàng, do khách hàng thương tình, mà cũng muốn kín đáo giúp đỡ mẹ. Gánh hàng sương sa hạt lựu nặng vừa đủ sức, mẹ chống gậy gánh đi.
Mẹ đi loanh quanh mà hàng đã hết, địa bàn bán hàng của mẹ không còn phải đi xa trong một vùng rộng nữa. Mẹ giữ cây gậy chống đến bây giờ. Cái chân thứ ba này tốt đáo để. Mẹ Sương Sa sống một mình trong căn lều nát, nhưng mẹ không cho mình là người cô đơn. Mẹ tất bật trong mua bán, trong việc săn sóc cái bàn thờ gỗ quí mà trên ấy thờ chồng con của mẹ. Cái bàn thờ dứt khoát phải sạch sẽ, nhang khói mỗi chiều tươm tất khi mẹ đi bán về. Ngày rằm mồng một, mẹ cúng cơm chay cho ba cha con nhà nó. Hằng năm ba buổi giỗ. Kẻ đi trước người theo sau. Còn mẹ chẳng biết sao đây, vì mẹ không có ai là thân quyến. Nhưng cũng chẳng đáng lo chi, mẹ đã qui y trên Chùa, gửi linh hồn mẹ khi nằm xuống nương nhờ cửa Phật. Cả cái tủ thờ này cũng sẽ được sư cụ trụ trì cho đệ tử khiêng lên Chùa, thi hài mẹ được thiêu, nắm xương tàn của mẹ bỏ vào hũ, lại nằm trên bàn thờ này, đời đời nghe lời kinh tiếng kệ. Sư cụ đã hứa với mẹ như thế. Nên khi rảnh rỗi, mẹ Sương Sa lại lên Chùa làm công quả.
Buổi tối trước khi đi nằm, mẹ Sương Sa lau cái tủ thờ sạch bóng, bộ lư nhang sáng đẹp ánh vàng. Hai tấm hình hai đứa con trai của mẹ và tấm bài vị của ông chồng quá cố lúc nào cũng sạch bóng. Hai tấm hình bán thân của hai thằng con trái ngược nhau, cả hai đều bận quân phục, nhưng là quân phục của hai bên hai chếđộ kình chống nhau. Mẹ biết chứ, nhưng xét nét làm chi. Chúng đều trở thành người thiên cổ như cha chúng. Nghĩa tử là nghĩa tận.
Trước bàn thờ là bộ ván ngựa mẹ Sương Sa nằm ngủ. Khi mệt, mẹ ngả lưng. Thường thường mỗi đêm mẹ thiếp đi lại nằm mộng thấy chồng con mẹ vẫy gọi rủ mẹ dạo chơi miền tiên cảnh.
Mẹ Sương Sa tỉnh giấc sau giấc mơ, nhìn lên mái tôn mục nát có những lỗ thủng lỗ chỗ, ánh sáng ban mai chan hòa trên mái lều như ngàn vạn những vì sao.

"Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm...Mái tranh nghèo ai người sửa sang...Khu vườn cũ hoa vàng trước ngõ...
Cứ nghĩ đến câu hát ấy, bà mẹ Sương Sa muốn khóc. Câu hát ấy chính thằng Bờ, con trai lớn của mẹ, và bạn nó đã hát lần về phép thăm mẹ cuối cùng. Sau đó nó ra đi và đi mãi. Mẹ đã khóc đến chảy cả máu mắt. Như lần đầu mẹ khóc chồng trên sông Cầu Bông chảy qua Thị Nghè rồi ra cửa biển.
Khi đó con sông cầu Bông chưa ai gọi là con kinh hay con rạch, nước đen hôi thối. Hai bên bờ sông vắng vẻ, thưa thớt nhà cửa, là những mảnh ruộng đất bỏ hoang. Đứng ở cù lao Rạch Miễu này nhìn ra tuốt tận Thị Nghè.
Gia đình mẹ Sương Sa sống trên ghe trôi dạt từ sông nước miền Tây, đồng bằng sông Cửu Long lên. Nói là gia đình thì cũng hơi quá, vì chỉ có hai vợ chồng và một thằng con nhỏ chập chững biết đi, thằng Bờ, vì khi sanh nó, anh chồng phải tắp ghe vô bờ, nhờ người ở xóm ven sông kêu mụ đỡ đẻ. Rồi cũng mẹ tròn con vuông, vợ chồng đặt tên nó là thằng Bờ. Cuộc đời tưởng mãi trôi dạt trên sông nước. Bến cuối cùng họ dừng lại ở cù lao Rạch Miễu. Anh chồng nói với chị vợ:
- Mình đã qua biết bao nhiêu cái cầu xi măng có lính gác, cả Ta cả Tây, họ sắp đánh nhau rồi đó. Mình cũng hết sông rạch đi, phía trước kia là cửa biển. Ngoài đó có tàu chiến của giặc Pháp, đi không được, quay về cũng dở. Tao nghi ở trên cù lao này có nước ngọt, không phải nước phèn miệt Long An. Phía bên kia sông có lẽ là thành phố. Má nó lên kiểng Chùa kia xin nước đi.
Nơi gia đình mẹ Sương Sa dừng bước lênh đênh là cù lao Rạch Miễu tỉnh Gia Định. Nhà cửa lúp xúp trong đám lá cây rậm rạp kia là ấp Đông Ba. Bên kia sông là thành phố Sài Gòn, Tân Định, Dakao, đất Hộ, nối qua bằng mấy cây cầu xi măng: cầu Kiệu, cầu Bông, cầu Thị Nghè.
Tình thế sắp chiến tranh nên những cây cầu được canh gác cẩn mật, kỹ lưỡng, sự qua lại cũng khó khăn. Nhưng với dân bản xứ không khó khăn chi mấy. Con đường sông rạch có những chiếc ghe tam bản qua lại ở bất cứ khúc nào. Có những người chèo đò thuê, chuyên nghiệp hoặc tay ngang đều được hết. Anh chồng chị Sương Sa lợi dụng cái ghe của mình chở đò đưa khách qua lại khúc sông Cầu Bông. Anh cắm dùi làm nhà cho vợ con ở ngay cù lao ven sông. Chị vợ ra nghề bán sương sa hạt lựu, đời sống tạm thời ổn định. Chị vợ lại có thai khi chiến tranh bắt đầu bùng nổ. Người Sài Gòn chạy tản cư, cầu đường bị tắc nghẽn, người ta đổ xuống mé sông, những chiếc đò ngang đưa đồng bào sang bên kia bờ, nơi xa súng đạn. Địa đầu tỉnh Gia Định cũng được coi là miệt quê, chạy dài lên tận Bà Điểm, Hóc Môn hoặc Mười Tám Khu Vườn Trầu.
Anh chồng chị Sương Sa bận túi bụi ngày đêm với những chuyến đò, không thuần chỉ có đần mà cả những toán du kích nhập thành phố tiếp viện cho mặt trận Sài Gòn. Những chuyến đò trên sông nước cũng khá nguy hiểm, vì những chiếc ca nô tuần tiễu của giặc Pháp chạy dậy sóng, bắn thị uy vô tội vạ. Nhưng đôi khi cũng nhằm trúng mục tiêu. Những con đò tan nát từng mảnh, người chết máu loang đỏ khúc sông trong tiếng cười say máu như say rượu của lũ lính Tây trên ca nô.
Mẹ Sương Sa khi ấy còn trẻ lắm, bụng mang dạ chửa, gào khóc chạy như điên sau hồi súng nổ. Tiếng máy ca nô mất hút phía hạ nguồn dòng sông. Con đò quen thuộc tan nát, chỉ còn máu đào loang đỏ, nạn nhân táng mạng, không tìm thấy xác.
Chị Sương Sa gào khóc chạy dọc theo dòng sông, thằng Bờ nhỏ bé lúp xúp chạy theo mẹ cũng nhễ nhãi khóc.
- Mình ơi, mình đâu rồi, còn sống với mẹ con em không, mình ơi!
Chỉ có gió sông vì vèo trả lời, chị Sương Sa gục ngã dưới chân cầu Bông, những xác người đã mất tăm chỉ còn những mảnh ván vụn của chiếc đò quen thuộc bập bềnh trôi về hạ nguồn. Mẹ con đành bồng bế nhau về chiếc chòi lá. Chị Sương Sa bỗng dưng thành góa phụ. Buổi tối hôm ấy, mẹ con chị Sương Sa đốt bó nhang cắm bên bờ sông van vái linh hồn chồng, van vái Phật Trời. Chị không còn nhớ mình van vái gì nữa, vì thời gian lâu quá rồi.
Chị Sương. Sa định cư luôn ở xóm này, dù không còn những chiếc đò bập bềnh trên sông nước, không còn người chồng vững tay chèo. Một nách chị ôm hai đưa con thơ dại. Thằng Bụi ra đời sau đó hai tháng. Chị đẻ nó trong bụi cây ven sông, khi giặc Pháp ruồng bố. Người goá phụ phải dùng răng tự cắn rốn cho con. Rồi thành phố cũng yên, chiến tranh lui ra ngoài xa, gánh sương sa nặng trũ trên vai, chị ở vậy nuôi con khôn lớn. Trời cũng thương hai đứa trẻ: thằng Bờ, thằng Bụi hay ăn chóng lớn. Thằng Bờ đã ra được sông câu cá, thằng Bụi có chiếc chạc ná bắn hạ được những con chim trời, thêm thắt vào bữa ăn đạm bạc của ba mẹ con.
Chị Sương Sa có thể giao nhà cho hai đứa trẻ nhỏ, lo việc buôn bán từ sáng đến chiều. Chị mơ ước mươi mười lăm năm nữa, khi có tuổi, chị sẽ làm bà nội, có cháu bồng. Một ước mơ giản dị của bất cứ con người bình thường nào. ôi sung sướng biết bao nếu điều mơ ước đó thành sự thật! Sao lại không, ngày kỵ giỗ nào của chồng, ba mẹ con không cắm nhang khấn vái! Linh hồn ông có sống khôn thác thiêng phù hộ độ trl cho ba mẹ con tui. Cũng do điều này chị ở vậy nuôi con, kiên quyết không bước đi bước nữa.
Đó là nói thuở mẹ còn trẻ kia, khi cô hàng bán sương sa nhan sắc còn mặn mà, một cô gái miệt sông nước Nam bộ, đôi mắt có buồn một chút, nhưng nụ cười thì tươi tắn dễ làm ngẩn ngơ khách si tình. Thuở đó cũng lại xa rồi...
Thằng Bờ đã lớn, khi chị Sương Sa bước vào tuổi già. Thằng Bờ cùng em là thằng Bụi dựng lại căn nhà cho mẹ khang trang hơn, mái lợp tôn và đổ nền láng xi măng, có thể gọi là một căn nhà được, không còn là túp lều tạm bợ nữa.
Đến lúc này mẹ Sương Sa lại có một ao ước khác:
- Tao ước chi có một cái tủ thờ để thờ ba mày, rồi sau này tụi bay thờ tao. Tao tính trước cả rồi, tao có ra ngoài chợ Bà Chiều chụp một tấm hình lộng kiềng để tụi bay thờ tao lên bàn thờ, cùng với bài vị của ba mày.
Thằng Bờ la lên:
- Má lẩm cẩm rồi, đang sống nhăn đã lo chuyện chết, được tôi sẽ mua cho má cái tủ thờ.
- Mày làm gì mà lo được, một tủ thờ làm bằng danh mộc, tao đặt đóng tận Bình Điền, đâu phải ít tiền, còn bộ lư nhang bằng thau, rồi dĩa trái cây ngũ qua...
- Được mà, con lo hết..
Có phải một lời nói gở không? Nhiều năm sau bà mẹ Sương Sa vẫn còn nhớ.
Thuở ấy thằng Bờ tròn hai mươi tuổi. Số tuổi lý tưởng cho người ta bắt lính. Chiến tranh ác liệt xảy ra quanh thành phố, ở khắp mọi nơi.
Sau trận Mậu Thân đánh nhau trong nhiều thành phố, người chết đếm không xuể. Trên rạch Cầu Bông và những con rạch khác, xác người trôi bồng bềnh. Những con tôm đeo trên thi thể những xác vô thừa nhận no căng lương thực, đến đỗi cả tháng trời dân thành phố không dám ăn tôm, ăn cá sông. Mẹ Sương Sa còn nhớ như in hình ảnh hãi hùng ấy. Thương cảm những xác người vô thừa nhận, trôi dạt vào gầm cẩu, mẹ thắp cho họ những nén nhang. Mẹ đứng bên ngoài chính trị và cũng chẳng biết chính trị là gì, như nhiều năm sau cũng vậy.
Thằng Bụi khi đó mười lăm mười sáu tuổi chi đó, nó cũng đỡ đần được cho mẹ. Thằng Bờ bị bắt lính. Khi mẹ hay tin, lên Trung Tâm 3 thì thằng Bờ cầm lấy tay mẹ, nói chuyện thật tình:
- Nhà mình lấy tiền đâu mà chạy chọt, má đừng tính quẩn mất công. Tuổi này, đằng nào thì con cũng phải đi lính, con đăng lính luôn, em con được miễn dịch vĩnh viễn, ở nhà phụng dưỡng má. Rồi đây sẽ hết chiến tranh, người ta không còn bắn giết nhau nữa, con sẽ về với má với em, con sẽ có vợ có con, má có cháu nội bế bồng...
Thằng Bờ nói trong nụ cười, giống hệt như nụ cười cha nó ngày nào, khi lái mái chèo quay con đò vào bến, nhìn thấy vợ con đứng đợi trên bờ.
Bà mẹ Sương Sa yên lòng.
Thằng Bờ nhiều lần về phép, nó bận quân phục rằn ri mũ nồi xanh. Nó nói nó ở Thủy Quân Lục Chiến, phải đi đánh nhau như điên mà chẳng hề hấn chi cả. Nó lại tặng mẹ tấm hình bán thân bận quân phục, tô màu trông "kền sì po" ra phết. Những lúc vắng con, mẹ Sương Sa mang hình ra ngắm cũng thấy đỡ nhớ.
Lần cuối cùng thằng Bờ về phép thăm mẹ, mang theo bạn bè về ăn nhậu rồi ca hát suốt một buổi chiều. Nó đã hát bài có những câu gở mồm gở miệng như thế. Mẹ Sương Sa thấy lo lo, rồi như những lần trước thằng con lại ra đi. Mẹ nhớ mãi dáng người cao cao, dẻo dai và cái cười nửa miệng giống hệt cha nó, khi chống ghe ra giữa dòng sông.
Một mùa hè đỏ lửa năm 72 ở Quảng Trị. Những trận đánh kinh hồn ở Cổ Thành, ở La Vang, trên đại lộ Kinh Hoàng, cướp đi bao nhiêu sinh linh, gây lo lắng cho những người có thân nhân tham chiến trong thời kỳ Việt Nam hóa chiến tranh. Mù chữ như mẹ Sương Sa mỗi ngày cũng mua báo nhờ người đọc nghe tin chiến sự.
Thủy Quân Lục Chiến đổ quân tiếp viện cho Quảng Trị. Thành phố Quảng Trị trở thành đống gạch vụn.
Hằng đêm mẹ Sương Sa cầu trời khấn Phật, cầu bình an cho con mình. Lời cầu xin đó có lẽ không thấu
Trời xanh nên mẹ Sương Sa phải nhận tin xấu. Người sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến, thuộc phòng Quản Trị Nhân Viên đơn vị tìm đến nhà, đứng chụm chân giơ tay chào mẹ Sương Sa:
- Xin thành thật chia buồn với bác và gia đình. Đơn vị chúng tôi báo tin binh nhất Nguyễn Văn Bờ được vinh thăng hạ sĩ, đã anh dũng hy sinh vì tổ quốc tại mặt trận Mỹ Chánh Quảng Trị. Đơn vị đã cố công tìm kiếm mà không thấy thi hài hạ sĩ Bờ. Bà mẹ Sương Sa khóc ngất khi nghe tin dữ, thằng Bụi phải giật tóc mai cho mẹ mới lai tỉnh. Người sĩ quan vẫn lạnh lùng, không tỏ về xúc động. Trên tay ông còn cả xấp giấy báo tử, luật chiến tranh phải khắt khe như vậy rồi. ông ta nói một câu máy móc:
- Tổ quốc ghi ơn hạ sĩ Bờ, mang ơn các vị phụ mẫu đã cống hiến cho tổ quốc những đứa con dũng cảm. Mai bác ở nhà, chúng tôi tới đưa bác đi làm thủ tục nhận tiền tử tuất và từ nay bác được ăn tiền tổ phụ.
Người sĩ quan trao giấy báo tử rồi chụm chân chào, đằng sau quay dứt khoát, đúng quân cách. Tiếng động cơ xe Jeep nổ ngoài đường.
Thế là thằng bé tử trận, mất xác, như cha nó cũng mất xác trên dòng sông.

Thằng Bờ tử trận, để lại cho mẹ Sương Sa nỗi buồn, nhưng cũng để lại cả tiền tử tuất mà mẹ Sương Sa coi là quá lớn lao. Một đời mẹ chưa bao giờ cầm số tiền lớn như vậy.
Mẹ lại được ăn tiền tổ phụ, mẹ đỡ lo về mặt sinh kế. Nhưng nào mẹ có ham. Nghề bán sương sa bây giờ là bán chơi, nhưng mẹ yêu nghề và nhớ khách hàng, mẹ không thể ở không, đó cũng là cách giải khuây. Điều mừng vui nhất là thằng Bụi vĩnh viễn không phải đi lính, không phải ra nơi trận mạc nữa, sẽ được ở lại hợp pháp để phụng dưỡng mẹ già, để nối giỏi tông đường. Rồi chiến tranh cũng phải yên, phải chấm dứt thôi. Ngôi nhà này sửa lại khang trang, thằng Bụi sẽ có vợ, rồi những đứa cháu ra đời gọi mẹ Sương Sa là bà nội. Mộng ước bình thường của mẹ Sương Sa vẫn còn tồn tại...
Bà mẹ Sương Sa nghĩ đến lời nói gở của thằng con hồi sinh tiền, mẹ lại nghĩ đến cái tủ thờ. Chồng mẹ, con trai của mẹ xứng đáng ngồi trên đó, dĩa ngũ quả và khói nhang linh thiêng gọi hồn người đã khuất về chứng giám cho người vợ, người mẹ gần trọn một đời đau khổ, nghiệt ngã triền miên..
Sẵn tiền trong tay, mẹ thực hiện ngay điều ước mơ ấy. Mẹ cùng thằng con còn lại đi ngay xe đò xuống Bình Điền đặt đóng cái tủ thờ bằng danh mộc, chạm trổ xà cừ tinh vi, toàn là tiên cảnh, thanh bình như lạc vào xứ thần tiên mà người phàm không thể đến được. Núi non có cây tùng cây bách, trời có mây nổi, suối có hoa trôi, có đôi chim hạc bay cao tít. Trên thạch bàn có tiên ông ngồi đánh cờ, đoàn tiên nữ xách giỏ đào tơ dâng Tây Vương Mẫu. Tuyệt vời quá đi thôi.
Mẹ Sương Sa tin rằng một ngày nào đó mẹ nằm xuống, hồn mẹ phải được vui chơi miền tiên cảnh, không còn là ước ao nữa. Một đời mẹ sống hiền lành, trung hậu. Mẹ hiền như đất phù sa bồi bên bờ Cửu Long. Mẹ tin như thế và mãi mãi tin như thế. Một miền tiên cảnh vẫn chờ đợi mẹ lên dạo chơi, người ở cõi trên đón tiếp mẹ, không phải giống quỉ sứ đầu trâu mặt ngựa nhận lệnh Diêm Vương đi bắt hồn mẹ về địa phủ. Tiếng nhã nhạc cõi tiên nổi lên trong đầu mẹ mà chỉ mình mẹ nghe thấy, cảm được ý nghĩa của nó. Dù ngoài xa kia tiếng đại bác vẫn nổ ùng oang hằng đêm, những quả đạn pháo kích vẫn rơi vào thành phố. Trời kêu ai người đó dạ.
Khi mẹ Sương Sa mua được cái tủ thờ và bộ lư đồng như ước mong, thằng Bụi đề nghị mẹ mua thêm bộ ván ngựa dầy, cũng thuộc hàng danh mộc, mọt muôn năm không đục khoét được, kê trước tủ thờ để mẹ nằm nghỉ. Bộ ngựa không cần trải chiếu, mát rười rượi khi trời nóng bức. Mẹ Sương Sa đồng ý, sướng cho thân già của mẹ lại chiều được lòng thằng con hiếu thảo.
Thằng Bụi chống, sửa sang lại căn nhà cho thêm phần khang trang. Nó tự nhủ nó làm thay thằng anh khuất bóng.
Bài hát ngày nào anh nó hát trước lúc ra đi sẽ không còn ngậm ngùi mãi trong lòng mẹ: Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm... Mái tranh nghèo ai người sửa sang...? Có em đây, anh! Thằng Bụi nói thầm như thế khi nó trần lưng trên mái nhà. Nó lay thử cột nhà, lấy dây kẽm giăng kềm tứ phía, chắc lắm rồi, căn nhà không thể đổ ụp hay tốc mái khi gió bão. Hai mẹ con đứng ngắm căn nhà hài lòng..
Tất cả tình thương yêu của mẹ Sương Sa đều dồn cho đứa con còn lại, mẹ âu yếm hỏi con:
- Mày chịu lấy vợ chưa, má đi hỏi cho.
Thằng Bụi lắc đầu quầy quậy, mẹ Sương Sa hỏi tới:
- Hay mày ưng đứa nào, đưa về tao ngó được tao hỏi liền...
Thằng Bụi vẫn lắc đầu:
- Không đâu má, tôi chưa ưng lấy vợ, cũng chẳng mèo mỡ với con nào, chẳng để ý đến ai. Nghề nghiệp tôi chưa ổn định, chưa kiếm ra tiền làm sao nuôi vợ, ỷ lại má hoài coi sao được. Tôi muốn ở với má, làm ra tiền nuôi má đã, chuyện kia tính sau. Tôi chỉ sợ lấy con nào về, nó làm buồn lòng má, tôi mang tội với ba, với linh hồn anh hai tôi thôi. Con gái bây giờ ghê lắm, đâu có được những người như má, các bà già xưa. Thiếu gì đứa bỏ chồng con đi lấy Mỹ, lấy Đại Hàn...
- Mày đừng nói vậy, tội chết, có người thế nọ kẻ thế kia.
Câu trả lời của thằng Bụi dứt khoát, hiếu nghĩa trọn bề. Thôi thì hai mẹ con sống với nhau trong ít năm nữa, mẹ Sương Sa thầm nghĩ thế.
Thằng Bụi tập sự theo nghề thợ tiện. Mẹ Sương Sa có vẻ hài lòng, thường khoe với hàng xóm: "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh".
Nhưng thằng Bụi không học được nghề trót lọt, nếu không nói là dở dang vì thời thế.

Căn nhà của mẹ Sương Sa và thằng Bụi xiêu vẹo vì Sài Gòn bị pháo kích liên miên. Tuy nhà không trúng đạn nhưng sức nổ gây áp suất mạnh thổi ào ào cũng làm cái nhà muốn bung ra, kết quả là nhà bị xiêu vẹo
Nhà cửa chưa kịp sửa sang lại thì giải phóng ập vào Một cuộc đổi đời vĩ đại qua những anh bộ đội lạ hoắc mà xưa kia họ được gọi là Vi Xi. Họ có vẻ hiền lành nhưng cũng thật kiên quyết. Có vậy họ mới đánh thắng được một triệu lính Cộng Hòa, đuổi được Mỹ. Giới lãnh đạo làm cách mạng của họ còn kiên quyết hơn, nói nhiều điều nhân nghĩa mà cứng rắn nghiêm minh. Quân bại trận, lớp lớp sĩ quan đi học tập cải tạo, để trở thành người tốt hơn, binh sĩ học tập ngắn ngày rồi trở về làm dân, để kiến thiết đất nước, dân từng bị chế độ cũ kìm kẹp được cai trị uốn nắn cho thích hợp với hoàn cảnh mới để trở thành nhân dân một nước tự do độc hạnh phúc, sàng lọc kỹ những tàn dư Mỹ Ngụy! Chính sách như thế. Mẹ con bà mẹ Sương Sa tạm thời yên ổn, sống trong chế độ mới. Chỉ có một lần, một cán bộ mà người ta gọi là cách mạng ba mươi (tức theo cách mạng ngày 30.4.75) tới nhà nạt nộ bà già, chỉ lên bàn thờ, ngay cái hình thằng Bờ mặc quân phục rằn ri, lính ngụy:
- Hộ này, hạ ngay cái hình thằng lính ngụy đánh thuê kia xuống, thờ cúng chi cái giống phản dân hại nước.
Bà mẹ Sương Sa đang ngồi nhặt thóc và sạn trong kí lô gạo tổ vừa mua được ở Hợp Tác Xã, ngẩng lên hỏi:
- Chú nói sao?
Tôi nói là hạ ngay cái hình thằng lính ngụy kia xuống.
- Ơ hay, nó là con tôi mà, nó đã chết trận. Nghĩa tử là nghĩa tận, chú ơi.
Anh cán bộ ba mươi cười:
- à ra vậy, nhưng cũng phải hạ xuống không thì lôi thôi to đấy chết trận hả, tội ấy còn nặng nữa kia, có nợ máu với nhân dân.
Bà mẹ Sương Sa vẫn không rời mắt khỏi rá gạo, thủng thẳng nói:
- Đúng đấy, chính nó đã nợ máu tôi, ngày tôi đẻ nó trên bờ sông, tôi đã đổ biết bao nhiêu là máu...
Thằng Bụi ở trần, bận quần đùi, vê lên tận bẹn, như đóng khố, mặt nó đen nhẻm coi lì lì cuất hiện, hất hàm:
- Này, hình thờ anh ruột tao đấy, muốn hạ hình đó thì mày bước vào mà hạ. Tao mời đó, cứ bước qua xác tao...
Rõ ràng là một câu đe dọa rất giang hồ anh chị. Câu đe dọa của thằng cùi không sợ lở. Kìa, cây chĩa ba nhọn hoắt rung lên trong tay thằng thanh niên mới lớn. Răng thằng Bụi nghiến trèo trẹo, đôi mắt nó không hiền, đôi mắt dám ăn thua đủ:
- Thằng Tèo, nếu mày không dám vào thì về đi. Mày về nhà mày hạ hình thờ bố mày xuống để làm gương, bố mày đi lính ngụy từ hồi nào đến giờ, cũng đã chết trận rồi đó. Tao không lạ gì cái bản mặt mày đâu Tèo à... Đ.M cái quân theo đóm ăn tàn... Coi khí thế thằng này thiệt hung, nhịn đi là hơn, thằng Tèo trả lời yếu xìu:
- Tao hạ rồi.
- Chuyện của mày không làm gương được cho ai đâu, cút ngay!
Ngay chóc, nhà cách mạng ba mươi Nguyễn Văn Tèo phải lủi ngay. Cái thằng Bụi này có tiếng bắn chạc ná giỏi, bây giờ nó cầm cái chĩa ba xiên cá trên tay. Ai dè nó lại là con cái nhà này. Thế là chuyến lập công bị tổ trác. Thằng Tèo cúi xuống xỏ lại quai dép râu đi chưa quen. Bà mẹ Sương Sa nhắc nhở con:
- Mình không hạ hình anh hai mày thì thôi, ra lời làm chi cho nó thù oán mình.
Nhà mình còn quái gì mà mất nữa, má sợ cái chi! Thằng nào đến nói cái giọng xấc xược ấy nữa, má đơm chổi chà lên đầu nó cho tôi.
Thằng Bụi nói xong quay ra bờ sông đâm cá chùm phục. Nó hy vọng tìm ra chút thịt cá cho mẹ ăn mặn miệng, chút bổ dưỡng cần thiết cho người già. Tội nghiệp bà ăn khoai lang khoai mì hoài, người gầy nhom. Gạo tổ do bà Năm Buồm bán, bà chỉ mua được hạn chế. Cái khó khăn chung của cư dân thành phố sau ngày được giải phóng.
Món quà mẹ Sương Sa bán, không phải nhu yếu phẩm cần thiết, khách ăn giải khát cũng được mà không cũng được. Món thèm thuồng của họ là cơm, gạo. Chuyện ấy người ta nghĩ rỗng không bao giờ có thể xảy ra ở miền Nam, vựa lúa gạo của cả nước. Thời kỳ còn chiến tranh, ruộng vườn không làm được thì dân có gạo viện trợ, chưa một ngày nào dân phải ăn khoai, mì thay cơm. Vậy mà thật đấy. Biết bao nhiêu là lý lẽ tung ra để biện bạch cho việc miền Nam thiếu cơm gạo. Chẳng ai cãi làm chi cho mắc tội, vì vẫn có những phần tử được ăn cơm độn thịt gà hay sườn heo nướng. Có người ăn để mà sống thì cũng có người sống để ăn, để bù lỗ...
Thời gian trôi trong rộn ràng qua loa phóng thanh của người cách mạng vinh danh cho cuộc chiến thắng thần kỳ. Phát động đủ thứ chiến dịch để xây dựng quê hương, kiến thiết xứ sở, đất nước bằng mười ngày xưa!
Một miền tổ quốc vốn đã bị kẻ thù làm cho thối nát, nay phải làm lại tất cả, coi như từ đầu, đạp đổ san bằng không thương tiếc bằng khí thế cách mạng có đường lối đúng đắn qua kinh điển. Thanh niên nam nữ lên đường làm thủy lợi. Những lời tuyên truyền huênh hoang, đội đá vá trời. Một dân tộc thần kỳ có thể làm được tất cả mọi chuyện, kẻ thù nào cũng đánh thắng, khó khăn nào cũng vượt qua! Tất cả phải nằm trong guồng máy quay, phải đều đặn và nhịp nhàng như vào máy khoa học kỹ thuật của nhà máy đóng nút chai nước mắm. Tất cả nên trở thành quốc doanh. Người ta nói nhiều quá đi thôi, vậy mà vẫn có những phần tử "xìu xìu ển ển". Thành phố phát động chiến dịch giãn dân đi kinh tế mới lập nghiệp. Kẻ nào chống đối lại là phản động. Nhân dân ngoan như cừu. Trong lúc ấy hai nước anh em lại giở mặt như giở bàn tay mà không biết ngượng. Đất nước núi liền núi sông liền sông ở miền Bắc đổ quân xâm lăng biên giới.
Miền tây nam tổ quốc, Căm Pu Chia có bọn Khơ Me đỏ ngày nào nào còn là bạn bè nay cũng bày đặt chuyện chiến tranh. Dù vậy chính sách trong nước đã đề ra vẫn được thực thi quyết liệt, vẫn đào kinh vét mương làm thủy lợi, vẫn tang gia sản xuất, vẫn phát động dân nghèo đi kinh tế mới lập nghiệp, khắp mọi quận, phường trong thành phố. Nhân dân có thể tự nhổ nhà mình, mang theo chổi cùn rề rách, nhà nước giúp phương tiện cho ra đi. ấp Đông Ba cũng có nhiều hộ tuân hành pháp lệnh, không đi hết gia đình thì cũng đi phân nửa. Những phần tử còn lao động được ra đi, ông già bà cả ở lại giữ nhà, đề phòng đường rút. Họ gạt nước mắt lên đường... "trong hạnh phúc tràn trề"! Báo, đài tường thuật vậy. "Tất cả nhân dân đều hồ hởi phấn khởi lên đường xây dựng vùng kinh tế mới"! Báo, đài cũng tường thuật như thế.
Thằng Bụi vô công rỗi nghề được bà Phấn, vợ một ông trung tá ngụy đang đền tội ác, trả nợ máu cho nhân dân ở một trại học tập cải tạo nào đó, thuê cùng một số thanh niên khác trong xóm đến phá xập ngôi nhà bà thành một đống gạch vụn, đồ đạc trong nhà cũng đập nát luôn, giá nào cũng không bán lại cho ai.
Người ta nói ngày trước chồng của bà tham nhũng, bóc lột nhân dân nên vẫn còn nhiều đô la, kim cương, vàng ròng.
Bà Phấn coi phá xong nhà, trả công sòng phẳng cho người thuê mướn rồi dắt lũ con ra đi. Lối xóm hỏi đi đâu, bà nói đi kinh tế mới ở quê nhà, để ông chồng bà học tập tốt, sớm trở về xúm họp với gia đình. Nhưng rồi ai cũng biết bà dắt con đi vượt biên, ông chồng bà chết bỏ xác trong trại cải tạo vì say khoai mì.
Phường, tổ họp phê bình bà Phấn ỷ có tiền bạc, "phát sinh" hành động ấy, là xấu xa phản động. Nhà cửa như thế mà không để lại cho "nhân dân", hoặc làm nhà trẻ, làm việc công ích, cũng cho nhân dân. Tồi tệ không chê được. Nhân dân phải lên án. Nhiều cái mồm phát biểu lao nhao như mở máy phát thanh và có những bộ mặt nghiệt ra. Chẳng còn ra làm sao sất cả.
Một tấc không đi, một ly không rời, thế có nghĩa là ỳ thân xác ra. Thừng Bụi nghĩ nông cạn như thế cho gia đình mình. Không kinh tế mới, kinh tế cũ gì ráo. Cả gia đình chỉ có hai mẹ con, cái tủ thờ có bố và anh hai nó ngự trị trên đó...
Một ngày đẹp trời, cán bộ phường xuống nhà bà mẹ Sương Sa động viên mẹ lên đường đi vùng kinh tế mới lập nghiệp. Mẹ Sương Sa đang ngồi trước rổ khoai lang, phải gọt đến ba phần tư khoai sùng bỏ đi, ngẩng lên hỏi:
- Các chú nói gì, tôi nghe không rõ và cũng không hiểu. Nói lớn giọng một chút, cái tai tôi điếc mất rồi.
Thật ra tai mẹ không điếc, mẹ giả đò thế thôi. Nhưng anh cán bộ vẫn phải lớn giọng giải thích, cố nhồi nhét vào cái đầu tối tăm của "bà già nhân dân" ở tỉnh thành mà quê mùa này hiểu thế nào là ý nghĩa cao đẹp của chính sách đi lập nghiệp Kinh Tế Mới.
Bà già lần thẩn:
- Thế hả, vậy thì có được ăn cơm không, lâu nay không ăn cơm, tao thèm lắm. Gạo tổ của bà Ba Thi bán ở bà Năm Buồm này tao ăn không đặng, nhiều sạn quá, khoai lang thì sùng đắng, tao phải bỏ quá nửa nè. Nói thiệt cho bay biết, mấy thứ này hồi trước người ta cho heo ăn, khoai sùng khoai đắng heo chê nên người ta phải nấu cám trộn với gạo, cho heo ăn. Vậy mà bây giờ bán cho người ăn thì tội chết, tao già, sống quá nửa đời người rồi, tính tao chân thiệt có sao nói vậy, tội lắm bay ơi...
Bà già thật quá sức lẩm cẩm, nhưng với cương vị người làm cách mạng, anh cán bộ cũng phải giải thích cho dân hiểu, dân nghe, phối hợp với tuyên truyền:
- Đó là khó khăn chung của nhân dân cùng chịu, chúng ta đang làm cách mạng, rồi đây đất nước sẽ được giàu đẹp, nhân dân cơm no áo ấm, ăn sang mặc đẹp Đồng chí lãnh đạo đã nói thế.
- Không dám đâu, tụi bay làm cách mạng đi, tao hổng thèm đâu, tao tuổi già sức yếu rồi...
Ngu ơi là ngu, anh cán bộ thầm kêu như vậy, giống người này cần được giáo dục, đả thông tư tưởng để biết thế nào là cách mạng, nếu bà còn trẻ, tôi sẽ gửi bà đi trường học tập cải tạo một khóa. Nhưng bây giờ thì vẫn kiên nhẫn, ngon ngọt, không được nổi nóng:
- Má à, ta cần phải hy sinh, hễ là nhân dân Việt Nam, không kể già trẻ lớn bé đều phải hy sinh, bao nhiêu thế hệ người phải hy sinh xương máu để có ngày hôm nay, đất nước được độc lập tự do, phải noi gương nhân dân miền Bắc đã hy sinh suốt mấy chục năm qua. Ta thống nhất được đất nước, đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào...
Tao đã hy sinh rồi, mạng sống của chồng tao, một thằng con trai tao dứt ruột đẻ ra. Bây giờ cha con nó ngồi cả trên tủ thờ kia, hai thằng bay thấy không? Hai anh cán bộ nhìn lên tủ thờ, họ thất kinh. Hình một thằng lính ngụy, đủ cả cân đai mũ mãng trông ác ra mặt, đập vào mắt họ, bà già này to gan thật:
- Nhưng má... có thể thờ thằng con, nếu thằng ấy bận quần áo khác...
Bà mẹ Sương Sa lắc đầu, chẳng còn biết nói sao. Thằng Bụi xuất hiện. Nó vừa đi kiếm ăn ở ngoài chợ về, mặt nó coi có vẻ hình sự, côn đồ, vỡ giọng nói ồm om:
- Hình anh ruột tao đó, con đẻ của má tao. Mẹ tao ưa nói lẩn thẩn, nhưng tình thiệt, dù bà không biết chữ, nhà tao ba đời mù chữ, kể cả tao, nhưng tao cũng biết phải quấy. Tao nói cho tụi bay biết má con tao không đi đâu hết, má tao mất sức lao động rồi, còn tao đã trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, chưa biết ngày nào tao lên đường...
Thằng thanh niên không biết thế nào là lễ độ, mày tao vung xích chó, chẳng còn coi ai ra gì. Cũng chẳng trách nó được vì nó đã sống và lớn lên trong chế độ cũ nên thiếu giáo dục. Hai anh cán bộ đành rút lui. Còn gì mà nói nữa! Nhưng một đồng chí cán bộ cũng ghi nhớ vào sổ đen: Hộ đó, trong con hẻm nhà không số, không tên đường, thuộc gia đình đáng lưu ý để giáo dục. Bằng cách nào thì hạ hồi phân giải, cấp trên quyết định...
Thằng Bụi mang về cho mẹ một bọc cơm nguội ngắt, một túi ni lông thịt heo kho nước dừa với hai cái hột vịt:
- Má đổ cái rổ khoai heo ăn kia đi, hấp cơm lên mà ăn, kho lại thịt heo hột vịt, "chất đốt" trong bếp còn mấy thanh củi đó. Má nhớ giặt cái bọc ni lông để trả lại người ta.
Bà mẹ Sương Sa ôm bọc cơm:
- Thiệt quí giá, người nào mà tốt vậy bay, sao không mang gạo thịt sống cho mà lại kho nấu chi cho mất công?
Tại má không biết đó thôi, những thứ này bạn con ở dưới quê mang lên làm quà cho bà con, phải nấu chín, mang những đồ sống lên thành phố không thoát khỏi trạm kiểm soát kinh tế đầu. Người mang sẽ mắc tội buôn lậu, thiếu gì người đã bị bắt.
Lạ nhi, tao mới nghe "chiêng" đố lần đầu trong đời. Nghĩ đến gạo trắng nước trong tao bắt thèm. Bà già trầu xỉa miếng thuốc lên hàm răng chiếc còn chiếc mất. Mẹ Sương Sa lo lắng miếng trầu từ Hóc Môn đưa lên bị coi là hàng lậu nữa thì thiệt tội nghiệp cho những bà già trầu.
Tâm thần mẹ Sương Sa mỗi ngày một thêm lẩn thẩn, lo lắng toàn chuyện không đâu. Mẹ không sõng vô tư buông thả như thằng con của mẹ. Như tinh thần truyền thống dân Nam bộ sống hôm nay không cần dành dụm cho ngày mai. Một xứ chim trời cá nước, đời sống dễ chịu, bằng chứng là mẹ đã sống được gần trọn một đời người. Từ thuở cùng chồng trôi sông lạc chợ, lênh đênh trên sông nước, không biết đâu là bến là bờ.
Rồi thân góa bụa, một nách hai đứa con.

Thằng Bụi lên đường vào một sáng mùa xuân, khi pháo hồng còn nổ ran trong thành phố, mừng thêm một mùa xuân thanh bình. Khi đàn trẻ thơ chạy nháo lên trong phố phường nhặt pháo lép đốt nổ đì đùng góp vui ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền.
Bà mẹ Sương Sa cùng một số bà mẹ khác thuộc phường 6 ra sân hội trường ủy Ban Nhân Dân đưa tiễn con lên đường làm nghĩa vụ quân sự. Cờ rong trống mở rập rình. Trong buổi lễ tiễn đưa biết bao nhiêu là diễn văn nổ át cả tiếng pháo mừng xuân. Người ta thi nhau phát biểu, nói lên cái cao đẹp của việc tòng quân bảo vệ non sông gấm vóc, làm ngha vụ quốc tế, cứu giúp nước bạn anh em. Bởi vậy mới gọi là trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, trái ngược hẳn với chuyện lùa bắt trai trẻ đi quân dịch, hay gọi nôm na là bắt lính như thời ngụy. Các thanh niên thi hành ngha vụ quân sự được võ trang tinh thần, lý tưởng cao cả. Không có gì hãnh diện bằng, các thân nhân chiến sĩ cũng được thơm lây!
Tiếng vỗ tay nổi lên nhịp nhàng khi dứt bài diễn văn, do chính vị đọc diễn văn khởi xướng, đánh nhịp. Sau chót là màn chụp hình kỷ niệm. Nhà đạo diễn phó nhòm nhắc nhở những bà mẹ:
- Cười lên, các má các chị tươi lên nào, để chụp ảnh đăng lên báo, đài, nở mày nở mặt với năm châu bốn biển, đất nước có những bà mẹ chiến sĩ anh hùng.
Thằng Bụi đã lên xe ra đi. Bà mẹ Sương Sa đứng nhìn theo con, nhưng bà không nhìn thấy nữa. Bụi đường cuộn lên sau xe tải. Bà lẩn thẩn quay trở về nhà mình. Bà thấy tâm hồn mình trống vắng trong căn nhà vốn dĩ quạnh hiu càng quạnh hiu hơn. Bà lẩm bẩm trong miệng:
- Buồn thấy mụ nội mà nó lại biểu mình phải cười. Con tao dứt ruột đẻ ra chớ có phải chúng nó đẻ đâu.
Bà mẹ Sương Sa được coi là mẹ chiến sĩ, có thể được coi là diện chính sách, nhà nước đặc biệt quan tâm giúp đỡ, nhưng bà vẫn phải ăn độn dài dài, khá hơn một chút có bo bo mà người ta gọi là cao lương, ăn đầy hơi và đau bụng thấy mụ nội. Bà mẹ Sương Sa không thể không chửi thề. Khá hơn một chút nữa thì ăn mì sợi nấu với nước muối thay cơm. Nhà nước vẫn bảo đảm với nhân dân rằng họ không để bất cứ người dân nào bị chết đói. Báo hại một chục năm sau, nhiều người nhìn thấy tô mì còn thất kinh, xe hủ tíu mì của chú Lì đầu xóm ế sưng ế xỉa, đến phải dẹp nghề xoay nghề ve chai.
Bà mẹ Sương Sa biết con bà đang chiến đấu bên Căm Pu Chia, làm nghĩa vụ quốc tế. Bà không mấy quan tâm mình thuộc diện nọ kia nào, mà chỉ lo lắng cho tính mạng thằng con bị "cáp dồn". Nó chưa một lần nào được về phép thăm mẹ, cũng chứng thư từ gì ráo, vì nó có biết chữ đâu, mà mẹ cũng lại mù chữ nữa. Tin tức biền biệt..
Gánh sương sa ngày một oằn nặng trên vai bà mẹ già. Cái nhà ngày một thêm xiêu vẹo, nó xuống cấp trầm trọng như sức khoe cùng tuổi tác ngày một cao của mẹ. Căn nhà sắp trở lại nguyên trạng cái lều hay cái chòi cũng vậy. Như thuở mẹ Sương Sa cùng chồng trôi sông lạc chợ, lên cắm dùi ở đất này. Chỉ có cái tủ thờ lúc nào cũng sạch bóng. Đôi mắt thằng Bờ trên tủ thờ nhìn mẹ đăm đăm. Đôi mắt của nó lạc cả vào giấc mơ của mẹ.
Con hài lòng hay oán hận mẹ, hỡi con? Đừng oán hận mẹ, nhé con. Tội nghiệp con quá! Mẹ dứt ruột đẻ con, dẫu rằng đời sống con có ngắn ngủi ở thế gian. Mẹ vẫn sống đây để chờ đợi em con, thằng Bụi, đứa con bé bỏng, út ít của mẹ, chỉ còn mình nó nối giòi tông đường... Mẹ Sương Sa thức giấc lúc trời sáng bạch. Mẹ nhìn thấy một trời đầy sao lúc ban ngày.

Bà mẹ Sương Sa được báo tin thằng Bụi hy sinh trong khi làm nghĩa vụ quốc tế bên Căm Pu Chia.
Một lời "tổ quốc ghi công" là đủ, cũng như mẹ đã nghe câu "tổ quốc ghi ơn " hồi thằng Bờ tử trận. Hình như hai câu ấy có khác nhau chút đỉnh, mẹ không quan tâm nữa, mẹ chỉ nghĩ đến con, đứa con mẹ phải dùng răng cắn rốn cho nó khi chạy giặc Tây.
Một đời mẹ ba lần khóc chồng, khóc con, mẹ khóc đến chảy máu mắt, đến chết giấc, ai thấu hiểu cho nỗi đau khổ của mẹ, chẳng còn ai cả, phải không?
Thế là chỉ còn một mình bà mẹ Sương Sa còn lại ở thế gian, trong túp lều xuống cấp trầm trọng.
Trận mưa dầm tháng bẩy kéo dài lê thê cùng với lời khóc than của mẹ trong niềm bất hạnh tận cùng.
Mẹ được cán bộ động viên tinh thần để khắc phục đau buồn. Phấn đấu sống để làm mẹ Việt Nam anh hùng. Nhưng nước non mẹ gì, mẹ buồn thì cứ buồn. Chuyện đau khổ là chuyện của mẹ thôi, ai mà chia xớt được. Tổ quốc ghi công là quá đủ. Tổ quốc còn nghèo, tổ quốc tặng mẹ một món quà nhỏ ghi công.
Giữa lúc mẹ Sương Sa cúng cơm thằng con, đốt giấy tiền vàng mã cho con tiêu xài trong cõi âm, mẹ tin rằng linh hồn nó còn lẩn quất đâu đây. Dù xác nó có mất ngoài sa trường, linh hồn nó vẫn ở bên mẹ. Kìa nhìn tro tàn giấy bay!
Sự đau khổ buồn phiền của mẹ chỉ biết thể hiện như thế qua mê tín dị đoan của dân tộc suốt bao đời. Mẹ lại muốn một ngày nào đó, qua một trăm ngày con táng mạng, mẹ đi gọi hồn nó qua hồn Cậu linh thiêng, nghe lại lời nhắn nhủ cuối cùng của nó với mẹ.
Bà thày, trung gian của người phàm với hồn ma, sẽ phán rằng, ba bố con nó đã gặp nhau, hiện họ đang tung tăng dạo chơi miền tiên cảnh, nhòm xuống thế gian thấy mẹ nó còn khoẻ mạnh, vẫn còn gánh sương sa rong ruổi trên từng chặng đường trong xóm nhỏ. Bố con nó sống sung túc vì được cúng cơm, được nhang khói, được tiêu những đồng tiền âm phủ, do mẹ nó đất cho. Bố con nó sẽ phù hộ cho bước đi của mẹ vững chãi, chân cứng đá mềm. Như vậy, bổn phận làm vợ, làm mẹ của mẹ vẫn chưa hết. Mẹ phải làm sao sống cho vừa lòng người thân ở cõi âm đang được dạo chơi miền tiên cảnh chờ đón mẹ, ít ngày, vì một ngày ở xứ tiên bằng một năm ở cõi trần. Mẹ tin như thế và nhất định chỉ tin như thế.
Trên tủ thờ bây giờ chỉ còn thiếu tấm hình của thằng Bụi, thuở sinh tiền thằng Bụi không có một tấm hình nào. Mẹ cầu xin linh hồn những người thân phù hộ cho mẹ một lần được nhìn lại thấy mặt thằng con út ít. Lời cầu xin của mẹ hằng đêm được linh hiển, không phải trong giấc mơ, mà là thật. Một ngày cuối mùa mưa, một anh thương binh cụt giò tìm đến mẹ. Tặng mẹ tấm hình con trai mẹ, đóng khung lộng kiễng đàng hoàng. Tấm hình thằng Bụi bán thân, bận quân phục bộ đội, đầu đội mũ cối có dính sao vàng, nụ cười của nó tươi trẻ làm sao.
Anh thương binh giải thích:
- Cháu cùng đơn vị với Bụi, bạn bè chụp chung nhau tấm hình này hồi ở Căm Pu Chia làm kỷ niệm. Cháu cắt riêng ra hình của Bụi, đem phóng lớn đóng khung tặng lại bác. Cháu nghĩ bác cũng cần một tấm hình để trên bàn thờ như anh nó.
Bà mẹ Sương Sa cảm động vô cùng, lời khấn khứa cầu xin của bà đã linh hiển. Đúng là bà đã thấy lại con, bà phải để ngay lên tủ thờ, đứa bên phải, đứa bên trái cái bài vị của cha nó. Tuy hai cái hình mang hai bộ quân phục khác biệt nhau, nhưng có sao đâu, chúng nó vẫn là anh em ruột thịt do một mẹ sinh ra. Anh bạn thương binh cũng nói, chuyện bình thường để cho nó bình thường đừng làm nó thêm rắc rối nặng nề. Không một ai có quyền đặt vấn đề bắt bẻ mẹ phải thế này hoặc không được thế này. Còn ai khổ hơn mẹ, bất hạnh hơn mẹ suốt nửa thế kỷ qua.
Anh thương binh kể cho mẹ Sương Sa nghe về cái chết của con bà:
- Chiến tranh là tàn nhẫn, cháu nhớ ngày Bụi hy sinh cũng chính là ngày cháu bị bắn gẫy giò. Cháu bị thương nằm lại, bạn Bụi tiếp tục xung phong, một tiếng nổ lớn, cháu không còn nhìn thấy Bụi nữa, xác bạn tan ra từng mảnh bay tứ tán. Cháu về nằm Viện mà cứ nghĩ đến bạn cháu hoài, cháu tự nghĩ bác còn thiếu một tấm hình của Bụi. Cháu xuất viện nghĩ ngay đến chuyện làm một tấm hình của bạn tặng bác...
- Đúng, đúng, cháu nghĩ rất phải. Bác cám ơn cháu vô cùng. Trên đời này bác không quí gì hơn hai tấm hình của anh em nó, nhìn hình, bác thấy chúng chưa chết, vẫn còn lẩn quẩn bên bác như hồi nào. Thân bác một kẻ trôi sông lạc chợ còn gì quí hơn đâu
- Biết đâu là bến bờ.
- Vâng thưa bác, cát bụi lại trở về với cát bụi, như tên bạn cháu.
Tên Bụi của thằng Bụi có nghĩa khác, như gắn liền với tên anh nó, đánh dấu giai đoạn sinh ra nó, nhưng vì bà già dết nát quá nên không thể giải thích được Bà nói sang chuyện khác rồi đề nghị:
- Cháu ở lại ăn cơm với bác nhé, đừng từ chối, bác không còn ai ngồi ăn cơm cùng. Hôm nay, bác có hai con cá rô kho tộ, do một thằng nhỏ lối xóm mang cho, món thằng Bụi thích nhất đấy. Cháu ngồi ăn chung với bác như thằng Bụi từng ngồi ăn với bác khi nó chưa được con cá ngoài đìa.
- Vâng, thưa bác. Đáng lẽ cháu xin được từ chối, nhưng bác đã nói thế, cháu phải vâng lời.
Thằng nhỏ ăn nói ngoan quá. Bà mẹ Sương Sa vui lây, cười:
- Hằng năm cháu đến ăn giỗ nó nhé, gặp bạn bè thằng Bụi thì cứ rủ, đừng lo thiếu thốn, vì hồi này bác cũng kiếm ăn được. Bà con lối xóm thấy bác neo đơn nên cũng giúp đỡ, không khó khăn như hồi đầu giải phóng nữa. Nay người đi kinh tế mới làm ăn thất bại đã trở về rồi đấy. Nếu ngày ấy thằng Bụi không cứng thì bác cũng bị lùa đi rồi, cán bộ người ta nói khéo ơi là khéo hứa hẹn đủ thứ...
- Rồi không có gì phải không hở bác?
-Bác không biết, vì bác không đi kinh tế mới, nhưng người đi rồi trở về nói lại như vậy.
Hai người ngồi ăn bữa cơm đạm bạc mà ngon miệng. Anh thương binh khéo đưa đẩy câu chuyện làm cho bà già vừa thương vừa hài lòng. Bà mẹ Sương Sa có cảm tưởng mình ngồi ăn với con trai mình thuở mẹ còn sung túc, anh ta cũng trạc tuổi con mẹ. Mẹ gắp thức ăn cho anh, mẹ gọi anh bằng con và xưng má. Ngoài trời cơn mưa cuối mùa vẫn dai dẳng. Chưa biết đến hôm nào trời mới nắng đây?

Bà mẹ Sương Sa bận tất bật từ buổi chiều đến sáng ngày hôm sau, cho bữa giỗ thằng Bụi. Lễ vật đóng góp cho bữa giỗ của bạn bè thằng Bụi mang đến hậu hĩnh từ ngày hôm trước, mẹ phải nhờ người hàng xóm sang làm phụ mới xong công chuyện. Mỗi năm mẹ phải lo chu toàn cho ba bữa giỗ của ba bố con, do tiền mẹ dành dụm từ gánh sương sa hạt lựu bán từng ngày. Mẹ tiếp tục nuôi chồng nuôi con ở bên kia thế giới mà mẹ tin rằng nhất định nơi đó là miền tiên cảnh.
Đời sống kinh tế của mẹ Sương Sa thời gian này cũng đỡ hơn. Nghe đâu đất nước mở cửa, nhân dân có đồng ra đồng vào tiêu xài, cũng hết luôn cảnh ngăn sông cấm chợ, lương thực được lưu thông. Gánh sương sa của mẹ cũng bán buôn khá hơn. Lại có Việt kiều về nước thăm lại quê hương, giúp đỡ bà con. Những sĩ quan ngụy quân, ngụy quyền ở tù cũng đã trở về và số đông đã ra đi, rồi lại trở về thành Việt kiều. Phần đông họ có lòng tốt, trọn vẹn tình làng nghĩa xóm.
Bà trung tá Phấn ở ấp Đông Ba, ngày nào thuê thằng Bụi phá xập nhà trước lúc ra đi, nay cũng từ Mỹ trở về thăm lại xóm cũ, tình làng nghĩa xóm rôm rả. Nhà bà đương nhiên không còn nữa, bà ở khách sạn rồi về thăm bà con láng giềng. Bà lội đến thăm bà mẹ Sương Sa, nhìn hình thằng Bờ thằng Bụi trên bàn thờ, bà chấm nước mắt:
- Bà chỉ còn một mình thôi hả?
Bà mẹ Sương Sa trả lời theo thổ ngữ vùng sông nước Cà Mau, nơi bà đã ra đi theo chồng từ thuở còn con gái, từ đó trôi sông lạc chợ chưa một lần trở lại quê hương, nên cũng chẳng biết bà con ai còn ai mất:
- Dạ, có mình "ên", chồng con chết ráo trọi rồi, họ ngồi trên tủ thờ đó. Tôi còn phải sống để nuôi linh hồn họ. Nhang khói cho họ đỡ quạnh hiu.
- Bây giờ bà sống ra sao?
- Một gánh sương sa bán mỗi ngày, chiều về lo làm hàng cho ngày hôm sau, lo nhang đèn cho cái bàn thờ bố con nó, rảnh rang tôi lên Chùa làm công quả, nghe kinh. Đời sống vậy cũng được rồi. Bà con quanh đây thương mà giúp đỡ tôi, tiếng là chỉ có mình "ên" nhưng có sao đâu, tôi còn tình làng nghĩa xóm.
Bà mẹ Sương Sa không ngờ mình lại biết nói nhiều như thế trước một bà sang trọng. Bà mẹ Sương Sa còn tiếp:
- Khi nào tôi về chầu trời, tôi cũng muốn bố con nhà nó lên Chùa nghe kinh. Tôi đã có lời nhờ trước sư cụ rồi.
Đó là mơ ước cuối cùng của bà lão, hết chồng bị giết lại đến con hy sinh vì những thế lực nào đó trên quê hương đầy những bất hạnh nghiệt ngã này. Sau những lời tâm sự nôm na và chân thành của bà lão, bà Việt kiều sang trọng biếu bà lão một chai dầu gió xanh Con ó gọi là quà nước ngoài để thoa bóp lúc trái nắng trở trời, một ít tiền để bà lão ăn trầu cau, sắm nhang đèn cho cái bàn thờ kia đỡ phần quạnh hiu. Bà lão Sương Sa lấy làm hả lòng hả dạ, cám ơn hết lời con người từ tâm.
Sáng nay mẹ thức giấc, mở mắt ra lại nhìn thấy một trời đầy sao. Mái tôn quá mục nát đây mà mẹ không còn ớn ưc leo cao để tự che chắn cái mái nhà. Mẹ nằm nán trên bộ ngựa lên nước bóng láng, mát như bàn thạch. Nếu ngày ấy không liều mua thì cũng chẳng có bộ ngựa này, cái này cũng chính là xương máu của con mẹ. Mẹ thầm khấn khứa chồng con, mời họ về ăn giỗ, ngày giỗ nào cũng là ngày giỗ chung của ba người, họ đoàn tụ và gia đình đoàn tụ.
Sáng nay bà mẹ Sương Sa không đi bán, dĩ nhiên mẹ phải ở nhà làm giỗ, dù đã có người giúp đỡ. Bữa giỗ đơn sơ nhưng cũng phải có út rượu ngon cho đám bạn bè của hai con. Chúng nó đến đều vì tấm lòng, nhưng cũng không quên mang theo lễ vật đèn nhang, hoa quả trái cây. Chúng đốt nhang đứng vái trước bàn thờ bạn. Hai chục năm đã qua, chúng đều trở thành những người đàn ông có tuổi, nhưng mẹ Sương Sa vẫn coi chúng như con cái, ngang bằng phải lứa với thằng Bờ thằng Bụi ngày nào. Chính họ cũng bawfng lòng như vậy, họ gọi bà già bằng má xưng con, tự coi mình như con cháu của bà. Hầu hết họ là người khuyết tật nạn nhân chính qua hai lần chiến tranh, thế hệ của thằng Bờ thằng Bụi. Họ quí mến nhau, coi nhau như anh em ruột thịt dưới một bà mẹ neo đơn cũng vì chiến tranh, vì thời cuộc.
Mỗi người trong bọn họ đều nghèo, sinh sống bằng nghề tự do trong cái đa dạng của nền kinh tế thị trường. Nhưng tất cả xúm lại, mỗi người một tay giúp mẹ làm bữa giỗ cúng người đã khuất. Để mẹ được rảnh rang ngồi nhai miếng trầu. Sau là để ngồi với nhau. Ngồi với nhau thoải mái, tự do, không còn phân biệt như thuở nào.
Những cây nhang cắm trên tủ thờ cháy hết, cong vòng mà không rụng tàn, mọi người nhìn lên. Bà mẹ Sương Sa mặt vui chớ không buồn, nói:
Bố con nó về đó, các con à. Ba nó và hai con cho tôi hạ đồ cúng xuống cho các anh em ăn nhậu, chắc tất cả đều đói cả rồi. Bà già nhắc nhở với đám con:
- Tao có lít rượu đế ngon cho tụi bay.
Một anh nói:
- Con cũng có mang rượu theo, không dám mang ra, sợ má la.
- Không, tao không la đâu. Chồng tao ngày xưa thường nói câu chữ "nam vô tửu như kỳ vô phong". Nhưng chúng mày không được uống say quá rồi làm bậy, nói bậy thôi.
- Chúng con xin hứa với má.
Anh Thuận lớn tuổi nhất, được xếp ngồi trên bộ ngựa với mẹ, cùng với các chú các bác lớn. Anh Thuận là bạn chiến đấu với anh Bờ ngày xưa, thuở còn đi lính Thủy Quân Lục Chiến chế độ cũ. Anh Bờ tử trận, sau đó anh Thuận bị thương cụt giò trở thành thương binh. Bây giờ anh Thuận không nhận được một sự trợ cấp nào. Anh làm nghề hát dạo bán vé số độ nhật. Cái chân gỗ của anh do di chuyển lâu năm, đã mòn vẹt hết bàn chân, anh lại trở thành khập khiễng. Bữa giỗ năm nay, anh thay thế cái chân gỗ mòn bằng cây nạng. Anh Thuận hiền khô, trông chẳng dữ dằn tí nào, như sắc lính anh từng theo qua lời tuyên truyền. Đi đầu, anh cũng khoác theo cây đàn cũ. Anh hát xong, mời mọi người mua vé số, anh không nhận của bố thí.
Hai mươi sáu năm trước anh đã ngồi với Bờ ở căn nhà này. ăn bữa cơm canh chua đầu cá lóc của mẹ Sương Sa nấu làm tiệc tiễn con lên đường. Khi đó thằng Bụi vẫn còn nhỏ, gầy nhom. Anh ôm vai nó, vòng ôm chưa khít cánh tay. Vậy mà bây giờ nó đã ra người thiên cổ, ngồi trên bàn thờ kia trong quân phục bộ đội, mũ cối gắn sao vàng. Hình ảnh hai anh em chung một bàn thờ tương phản nhau.
Ngày anh Thuận và thằng bạn tên Bờ ra trận, cái tủ thờ này chưa có và bộ ván ngựa này cũng chưa có. Anh Thuận gặp lại mẹ Sương Sa sau mười lăm năm, khi anh đang hát và bán vé số dạo ngoài chợ. Mẹ òa khóc khi nghe hát bài quen thuộc thuở nào, mẹ ôm lấy anh gọi "con ơi". Từ đó mẹ Sương Sa đã già lắm, nhưng chưa già như hôm nay. Từ đó Thuận năng lui tới với mẹ, không bỏ một ngày giỗ nào của gia đình mẹ. Thực tình khi nào Thuận đến thì mẹ biết, mẹ cũng chẳng biết anh ở đâu, nơi nào trong cái thành phố ngày một thêm đông đúc này.
Anh Thuận ngồi ăn, uống tí rượu, cây đàn ghi ta cũ cũng không rời anh, nó tạm thời được chống cán lên tủ thờ.
Trời chính ngọ, nắng rọi lốm đốm hình trứng gà lên bàn thờ, trên bộ ngựa bầy mâm cỗ, bởi tại mái nhà nát. Những anh em ngồi chiếu dưới rượu đã ngà ngà say. Đám người ấy hầu hết là bạn bè thằng Bụi, đã một thời từng đi chiến đấu bên Căm Pu Chia trở về, ít người lành lặn. Có người bị thương đổ nhột mà còn sống, bây giờ hành nghề đạp xích lô, người bán vé số, người đi ve chai buôn bán bất cứ thứ đồ phế thải nào, nếu không nuôi được ai thì cũng nuôi được chính thân họ, những đứa con của đất nước anh hùng. Lương gia đình diện chính sách như mẹ Sương Sa đây cũng chỉ đủ mua trầu cau nhai đỡ buồn. Nhưng cũng chẳng bao giờ nghe mẹ Sương Sa nói đến. Mẹ vẫn sống qua gánh sương sa hạt lựu nước dừa làm mát lòng khách thập phương, đêm đêm có nhang đèn cho chống con.
Một anh ngà ngà say đứng lên nói với mẹ:
- Má à, làm đơn đi, địa phương mình đang tuyển "mẹ Việt Nam anh hùng" đó.
- Phải tuyển sao mày, tao một chữ không biết, đơn mới từ gì?
- Má thuê người viết, má đủ điều kiện, má diện chính sách, mẹ liệt sĩ...
Một anh giật bạn ngồi xuống:
- Câm họng đi, đừng làm má khổ thêm nữa, má không trúng tuyển thì sao nào?
- Sao không trúng tuyển được, má dư điều kiện ma.
- Đồ ngu, mày banh mắt ra mà nhìn trên bàn thờ kìa, hai tấm hình của hai anh em nhà này...
Anh bạn lắm điều hiểu ra, gật gật đầu:
- ờ há!... Tao quên mất "chiệng" đó. Mà sao vậy há, cũng là "chiệng" bình thường thôi mà.
- Tao không biết, nhưng vẫn phải dè chừng. Mày nên uống ít thôi, tao biết tính mày cứ "xỉn" vào là nói lung tung.
Anh nhậu sắp "xỉn" úp cái ly không xuống, thái độ dứt khoát của những tay nhậu, khi không uống nữa:
- Đồng ý, tôi có tính xấu ưa nói khi nhậu, tốt nhất là không nói nữa.
Nhưng xung quanh bạn bè vẫn nhậu lia chia, phát ngôn vung vít nhiều ý kiến, nhưng chẳng hại gì, tất cả đều vì má, cho má, những gì tốt hơn lợi hơn cho đời sống má những ngày còn ở lại thế gian. Có anh em thấy mâm trên nắng rọi đến chỗ má và anh Thuận ngồi, lên tiếng:
- ý không được rồi, phải lấy cái gì, miếng bạt hay tấm ni lông che chỗ nắng rọi cho má mình chớ? Kìa, anh hai Thuận cũng bị nắng rọi trúng.
Giọng má từ tốn:
- Không sao đâu các con, má quen rồi.
- Đâu được, mùa nắng còn có mùa mưa nữa chớ.
- Mùa mưa thì tao giăng miếng ni lông lên cho nước lọt ra ngoài, mùa nắng tao bỏ tấm ni lông ra cho thoáng và nhìn thấy sao trên nóc nhà ban ngày... Tất cả cho rằng má nói chơi, mang ý nghĩa cay đắng cho số phận của mình. Nhưng không, má chân thật thiệt tình, sự ngay thẳng bẩm sinh. Mẹ Sương Sa nói lại: -
- Tao nói thiệt đó, tao không thấy chi là khổ, đời tao chỉ đau khổ có ba lần khi mất chồng, mất con, còn chuyện này thì nhằm nhỏ gì, tao từng lênh đênh trên sông nước với bố chúng nó, gió dập mưa vùi có hề hấn chi. Hôm nay ngày giỗ thằng Bụi, cũng như thằng Bờ và cả cha chúng nó. chúng bay đến thắp cho cây nhang, không phân biệt thế là quí rồi, đã bao nhiêu năm qua chúng mày không quên, tao đỡ buồn... Uống nữa đi, nhậu đi cho nhà này vang tiếng cười. Đột nhiên mẹ Sương Sa ngỏ mấy lời tâm sự chân thành. Đám trẻ thuộc hàng con cháu vỗ tay, muốn làm không khí bữa giỗ vui hơn, tức là vui lòng mẹ. Đám trẻ thấy anh Thuận kè kè cây ghi ta, họ chúng lạ gì anh thương binh chế độ cũ, hành nghề hát rong bán vé số ở các tiệm cà phê lề đường, nơi chợ búa. Những người cựu lính trẻ, bạn của Bụi, nay đã luống tuổi yêu câu:
- Đề nghị anh hai Thuận ca một bản, bài ca anh từng ca.
Thuận ôm đàn, dạo một khúc:
- Tôi ca chứ, nếu có yêu cầu, nhưng tôi chỉ sợ bài ca không được vui, đó là kỷ niệm cả một đời người, như hai mươi sáu năm trước đây tôi đã ca trong căn chòi này, không có đờn, tay tôi ôm vai chú Bụi, má khi đó bước vào tuổi già, nhưng chưa già như hôm nay. Tôi lên đường ra trận với bạn tôi, anh Bờ, anh đã trở về "rửa chân" lên ngồi ở bàn thờ kia, sau lại đến chú Bụi, ở một chế độ khác. Nhưng hai đứa đều là con của má. Tôi tin rằng linh hồn hai anh em còn lẩn quất đâu đây, nhìn má và anh em mình.
Một tiếng nói từ đám trẻ:
Không sao, anh hai Thuận cứ hát, đời ta có vui thì cũng có buồn.
Giọng Thuận cất lên buồn da riết, cái buồn rưng rưng như hạt lệ đọng trên mi mắt, rơi xuống những nốt nhạc trên cây đàn ghi ta cũ kỹ, cái buồn rưng rưng từ thuở nào mà còn mãi mãi trong tim: "Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm, mái tranh nghèo ai người sửa sang... Khu vườn cũ hoa vàng trước ngõ... Đàn trẻ thơ ngây chờ mong anh trai... sẽ đem về cho tà áo mới... ba ngày xuân vui chơi xóm làng... "
Bà mẹ Sương Sa lắng nghe, mẹ ngậm ngùi rồi nước mắt ứa ra gặp những vết nhăn ngăn lại loang ra trên khuôn mặt già nua, sương gió như loang trên vết rạn nứt cổ vật sành sứ. Không khí bữa giỗ như trùng xuống. Ai cũng chung một ý nghĩ thương cảm, hướng về mẹ, hướng về cái mái nhà dột nát kia. Ôi, mẹ hiền như đất phù sa bồi bên bờ Cửu Long.
Bài ca của người hát dạo dứt, dư âm còn mãi, không phải tiếng vỗ tay tán thưởng mà đúc kết thành một quyết tâm chung, mẹ Sương Sa phải có một mái nhà, một mái nhà tình người, do bàn tay của những đưa con của mẹ che chắn gió mưa, nắng hạn trong một thời tiết thất thường.
Bữa giỗ rồi cũng tàn, nắng vàng tắt lui về một nơi nào đó, phải giấu mình trong đêm đen.
Năm Mậu Dần
1998
Bà cháu, bố con
Tập Truyện Ngắn
Hai mươi năm trước, nghĩa là sau ngày chế độ cộng hòa ở miền Nam bại trận, toàn cõi miền Nam sống dưới chế độ Cộng Sản. Đất nước thống nhất. Trở thành nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, độc lập - tự do - hạnh phúc!
Tôi là nhà văn nhà báo thuộc chế độ cũ nên sớm thất nghiệp, sống lêu bêu giữa lòng Sài Gòn, gia đình tan nát trong cái nháy mắt.
Tôi là dân ngụy, vợ tôi không ngờ là con nhà liệt sĩ, hai đứa con thơ của tôi bị gia đình cách mạng nhà vợ bỏ vào viện mồ côi để mấy bà sơ đói rách nuôi dưỡng. Thật tội nghiệp những bà sơ nghèo tiền bạc mà giàu lòng bác ái.
Tôi lồng lên đi tìm con, rồi cũng thấy chúng, khi bà sơ Nhất sửa soạn cho hai đứa con tôi, mỗi đứa một mẹt hành tỏi ới để ra chợ Tân Định bán buôn kiếm thêm tiền nuôi thân và chị em đồng cảnh ngộ còn quá bé nhỏ.
Đứa con gái lớn của tôi khi đó mới tám tuổi, mách tôi tội của em nó:
- Bố ơi, em Bambi bới thùng rác nhặt khúc bánh mì ăn dở của ai đó, em nó dám ăn.
Con bé bảy tuổi đang ở trong vòng tay tôi, cãi:
- Bởi tại em đói quá, thèm quá!
Tôi không kềm nổi xúc động, không kềm nổi nước mắt. Tôi oà khóc, ôm hai con vào lòng trước mặt bà sơ Nhất.
Bà sơ hiền từ nhìn ba bố con tôi:
- Anh không cần phải có giấy tờ chứng minh hai cháu là con anh. Tôi nghe mẹ nó nói anh là ngụy đã bị bắn chết ngày 30-4 rồi, nên chúng tôi nhận hai cháu, mẹ nó không còn đủ sức nuôi cháu nữa. Thôi được, nếu muốn anh cứ mang các cháu về, anh chứng minh tấm lòng chân thật của anh với Chúa là đủ.
- Thưa còn trách nhiệm của bà với mẹ nó, người gửi con cho bà?
Bà sơ nói khi quay đi:
- Có Chúa biết tôi phải làm gì khi tôi gặp hoàn cảnh này. Tôi làm theo Chúa sai bảo...
Tôi không quên hình ảnh chiều hôm ấy. Không thể nào quên hình ảnh bà sơ Nhất đứng trên thềm nhà thờ Tân Định nhìn theo bố con tôi, hình ảnh một bà sơ khác đang đu mình trên bánh xe như con nhái bén quay ép nước mía ở ngoài cổng viện mồ côi, lấy tiền nuôi bày trẻ đói, hình ảnh những trẻ thơ bưng mẹt hành tỏi ớt ở chợ về.
Khi đó vào đầu mùa hè, hoa phượng vĩ nở đỏ sân trường. Cây thánh giá mỏng manh chót vót trên đỉnh tháp chuông nhà thờ Tân Định. Hình ảnh đó còn lại mãi trong tôi cho tới ngày nay và không biết đến tận bao giờ. Tôi nói nhỏ với hai con:
- Bố còn sống đây, nhưng bố không thể đưa các con về nhà cũ ở đường Nguyễn Phi Khanh được nữa, bố đã bị đuổi ra khỏi nhà ấy rồi.
Có chút tiền bạc nhỏ nhoi trong túi, tôi mua cho con hai miếng bánh mì, cho chúng uống ly nước mía. Ngon đến độ chúng phải nhắm tịt cả hai mắt để thưởng thức cho hết hương vị lương thực hiếm hoi.
Vượt qua hai cây cầu gỗ ọp ẹp, qua cù lao Rạch Miễu có nhiều ao rau muống lầy lội, trở về đến ấp Đông Ba, nơi ấy có căn nhà hoang mẹ tôi đang cư ngụ. Bố con tôi sống với bà nội của các cháu. Ngày ngày tôi đi kiếm công việc làm, nhưng chẳng được gì. Tôi lại nhớ đến nghề cầm bút của mình, nhưng tôi nghĩ ngay đó là điều xuẩn động. Ông cậu ruột của tôi, một vị khoa bảng, đại trí thức ở miền bắc vào thăm mẹ tôi, có thành tích học tập cải tạo hết mười lăm năm trời, mười năm làm việc lao động hốt phân bằng tay vì sợ mòn xẻng. Ông ngao ngán lắc đầu nói với tôi:
- Cháu ơi, vác cây bút ở Xã Hội Chủ Nghĩa nặng lắm, cháu nên tìm nghề khác mà làm nuôi con. Mao chủ tịch đã nói trí thức không giá trị bằng một cục phân bón ruộng. Nhớ lấy, không nên quên...
Cậu ruột tôi nay đã khuất bóng, tôi vẫn không quên lời cậu dạy.
Suốt mùa hè năm ấy, ba bố con tôi kiếm sống bằng cách lang thang chợ trời. Nơi nào cũng đi, nơi nào cũng ghé. Ba bố con trên chiếc xe đạp cọc cạch trong thành phố, dưới rừng cờ sao và khẩu hiệu. Hai cái bánh xe đạp của tôi không thể bị bể nổ được vì tôi nhồi vào đó đủ thứ cao su, rác rưởi làm thành bánh đặc như thuở chiếc xe đạp thời sơ khai. Cái thắng xe bằng miếng ván gỗ ráp sát bánh sau, chỉ cần đạp chân một cái xe cũng đứng lại, dù rằng tốc lực không cao lắm, chiếc dép tôi mang ở chân đỡ mòn. Tôi thầm chấp cả ngàn vạn dặm đường trong thành phố.
Ba bố con tôi bữa đói bữa no nhưng cũng hưởng thụ được chút lương thực. Tôi cứ tưởng rừng bố con tôi được sống mãi bên nhau... Đó là điều tôi tưởng, không phải đời sắp xếp cho.
Một buổi trưa, ba bố con tôi dừng chân trước một biệt thự xinh xinh, bên kia cầu Công Lý, nghe tiếng hát tiếng đàn từ trong ngôi biệt thự phát ra... như thấy bác Hồ trong ngày vui đại thắng... "
Ngôi biệt thự có khu vườn nhỏ xinh xinh ở sân trước. Tôi nhìn vào đó thấy những luống khoai lang mới thay vì những cây hoa, chuyện đó cũng thường thôi ở những vỉa hè thành phố bấy giờ. Một cô bé nhỏ xíu chừng tuổi con tôi lúi húi trong vườn. Cánh cửa sắt mở rộng, hình như nơi đó ai ra vào cũng được. Chờ gì nữa mà tôi không vào, biết đâu không mua bán được gì ở trong ngôi nhà này. Tôi chưa phải đi ăn mày, nhưng có thể "trúng mánh " kiếm được tí cháo.
Tôi dừng xe trong sán, hai đứa con tôi nhảy xuống, nhìn cô bé đang lúi húi chơi ở khu vườn. Nó vun đất thành một nấm nho nhỏ, thoáng nhìn bố con tôi một tí, rồi lại tiếp tục trò chơi một mình.
Trên nhà vẫn vang tiếng đờn ca, mãi một lát sau mới có một bà già, một bà cụ thật già lưng còng từ một ngách cửa ga ra, có lẽ là ga ra xe hơi, đi ra. Tôi thưa với bà cụ:
- Cháu thưa với cụ xem trong nhà có gì bán được không?
Bà cụ ngước nhìn tôi, đôi mắt mờ đục như cùi nhãn:
- Anh đến lầm địa chỉ rồi, bây giờ nhà này không phải nhà tôi nữa, không có gì bán đâu. Các ông cán bộ ở trên kia mới là chủ.
Bà cụ chỉ lên nhà trên, nơi phát ra tiếng đờn ca bằng ngón tay già nua cong queo, run rẩy. Cụ quay ra vườn gọi:
- Thủy ơi, cháu lại nghịch đất nghịch cát đấy hả, vào đây với bà nào.
Hai đứa con gái tôi làm quen với cô bé gái xinh xinh ấy thật nhanh. Chúng cũng đang vầy vầy đất với cô bé.
Bà cụ lại hỏi:
- Ai đó cháu?
- Bạn mới của con, gượm nhé bà, cho cháu chơi đắp mồ cho Tu Ti một tí!
- Rõ thật là con nít!
Bà cụ lẩm bẩm nói thế rồi lững thững quay vào, để mặc tôi đứng ngoài sân. Tôi chang là cái thá gì để ai phải quan tâm. Tôi biết rõ thân phận tôi. Bà cụ coi bộ cũng có một dĩ vãng hách dịch thời chếđộ cũ.
Nhà trên đã im tiếng hát, tiếng một ai đó gắt gỏng:
- Các anh các chị hát thế không được, phải hùng dũng lên. Coi này, tôi hát cho nghe để làm mẫu.
Một giọng nam opéra cất lên nghe thật hùng dũng, phấn khởi đến khiếp đảm cũng bằng bài hát ấy, bài hát tôi được nghe khi bước chân vào sân nhà này. Một lát sau tôi nghe lệnh nghỉ giải lao. Những người ở trong nhà ấy ùa ra sân, như bầy trẻ được nghỉ ra chơi từ một lớp học trường Mầm Non.
Tôi bắt gặp một vài mặt quen ở đó. Nữ ca sĩ Ngọc Minh, tài tử điện ảnh Trần Quang, nhà báo thuộc chiến tranh tâm lý thời chế độ cũ Vũ Duy, các anh các chị ấy đều là người cư ngụ thuộc quận Phú Nhuận...
Họ cũng nhận ra tôi và hỏi:
- Đến tham gia vào ban văn nghệ quận hả?
Tôi lắc đầu:
- Không, tôi đi chợ trời vô tình ghé qua thôi.
- Nếu muốn tham gia, tôi giới thiệu cho.
- ăn cái giải gì không?
- Chẳng có giải gì hết, chỉ là phong trào.
à ra vậy? Tôi chỉ nói thế, tuyệt nhiên không có ý kiến gì khác. Cũng là lúc tôi phải đưa hai con về. Một người quen trong đám người tôi mới gặp giữ tôi lại nói cho biết:
- Ngôi biệt thự này nhà nước mới tiếp thu của gia đình ngụy quyền bỏ đi, còn sót lại một bà cụ già và đứa trẻ, cách mạng đã thu xếp cho họ ở dưới bếp. Nhà trên tạm thời dùng làm trụ sở cho ban văn nghệ quận.
Tôi ừ hữ, vì chuyện đố có thiếu gì ở Sài Gòn sau ngày giải phóng. Chính tôi cũng đã được giải phóng. Buổi chiều tôi chở xe đạp hai con về nhà. Qua cù lao Rạch Miễu, ao rau muống hoa tím nở đầy, con gái tôi đòi xuống xe lội ra ao hái hoa.
Tôi hỏi:
- Con hái làm chi vậy?
- Con hái để lên mồ chó Tu Ti.
- Mồ chó Tu Ti?
- Con chó của bé Thủy, con mới quen, con chó dễ thương đã chết rồi, bé Thủy làm mả cho nó, trong vườn không còn bông hoa nào, người ta làm luống khoai hết rồi, bố thấy không?
Tôi nhớ ngay ra câu chuyện mới gặp trưa nay.
Buổi tối, tôi nằm nghe hai con gái tôi líu tíu kể chuyện. Dù không chú ý nghe mấy, nhưng tôi cũng nắm bắt được sự kiện về con chó lông xù, người bạn độc nhất của cô bé Thủy bị người lạ vào ngụ trong ngôi biệt thự ấy đập chết làm thịt nướng ăn uống rồi vứt lại xương, lông. Cô bé vừa khóc vừa thu gom những tàn dư của con chó yêu quí chôn ở góc vườn hoang, không còn một bông hoa. Mà trước đây là một vườn hồng khoe sắc thắm.
Tuy lối kể chuyện của con tôi còn trẻ thơ, không gẫy gọn. Nhưng tôi cũng nhìn thấy nét bi thương ở câu chuyện.
Tôi nói với con:
- Lúc về bố thấy bé Thủy bế một con chó búp bê mà, cũng màu trắng, lông xù.
- Của một ông lấy trong ba lô ra đền lại cho bé Thủy đó. Bé Thủy nhận ra con chó ấy của mình, trong tủ đồ chơi trước kia. Con chó gắn pin biết sủa gâu gâu và vẫy đuôi mừng. Như bố đã mua cho con và em Bi hồi trước, sinh nhật con ấy mà, bố nhớ không?
- Bây giờ con chó ấy có sủa nữa không?
- Không thưa bố, nó coi như chết rồi. Vì nó hết pin thôi nên bị câm bị què cái đuôi.
- Thôi ngủ đi hai con, mai bố đưa con đi sớm ra hái hoa rau muống rồi con đến bé Thủy chơi, bố đi chợ trời biết đâu không mua được cục pin còn xài được, con chó lại sủa, lại ngoắc đuôi.
Tôi chiều con nên làm theo ý chúng nhưng có một điều tôi không làm được vì không kiếm đâu ra một cục pin còn điện. Con chó đành câm luôn và không biểu lộ nổi tình cảm bằng cái ngoắc đuôi mừng rỡ. Đó là sự thật của một con chó giả hết pin.
Cục pin cũ không thể tái sinh như cây bút bi hay cái vỏ xe. Cả một thành phố như thế, chợ trời thuốc Tây bán nhiều loại thuốc hết " đát ". Đồ giả hiệu hơn đồ thật cả con người cũng còn sống giả nữa là đồ vật vô tri. Hình như không ai còn tin ai, không muốn nói thật với nhau điều gì. Có một cái gì đó, như bóng đen đe dọa chụp xuống đời sống. Đời sống trở nên nặng nề, khó thở. Điều tôi nói ra vẫn là sự thật ở thời điểm đó.
Nhưng, riêng tôi được hưởng một đặc ân, ráng trong những điều không tin nhau trong đời sống, bà cháu bé Thủy lại tin bố con tôi.
Bà cụ không ngần ngại cho tôi biết rằng cụ vẫn sống no đủ với cháu. Cụ có cả mấy thùng khuy gạo ở trong nhà, lương khô mắm muối còn vô số, kể cả một số vàng phòng thân. Cụ dành dụm từ hồi còn trẻ như các bà già xưa. Cái nhà kho và nhà bếp người ta dành cho cụ ở lúc nào cũng khóa cửa, chìa khóa luôn luôn trong hầu bao bà cụ.
Một thời gian, tôi không nhớ dài ngắn bao lâu, thường xuyên con gái tôi có những đóa hoa rau muống màu tím trên mồ chó Tu Ti nên đi đến chỗ thân tình với bà cháu bé Thủy.
Các con tôi trở thành bạn thân của cô bé cô đơn. Tôi trở thành người đáng tin cậy của bà cụ, bà cụ có thể trút nỗi niềm tâm sự được.
Đồ chơi của đứa bé là con chó giả và hai đứa bạn cùng trang lứa trong khu vườn hoang. Những trò chơi có mẹ có cha, có một gia đình hạnh phúc. Tôi xúc động vì những trò chơi của chúng, gọi nhau bằng má, xưng con rồi nũng nịu, rồi hờn dỗi, dỗ dành y như thật, tôi phải cảm phục trí tưởng tượng phong phu của chúng. Con chó giả cũng được cưng chiều, sống động như con chó Tu Ti nào đó đã chết.
Chúng làm sống dậy mọi thứ mà tuổi thơ của chúng đã bị mất đi, bị tước đoạt.
Tôi nghe con gái tôi hỏi bé Thủy:
- Tại sao chú người lớn chiếm nhà Thủy cho lại Thủy con chó giả này?
- Chú ấy lấy của Thủy đấy chứ. Chú định mang về cho con chú chơi, nhưng tội nghiệp Thủy bị ăn thịt mất con chó thật nên cho lại con chó này để Thủy khỏi khóc. Chú ấy nói nếu Thủy còn khóc nữa thì chú ăn thịt Thủy luôn. Thủy sợ quá nên chỉ khóc lén bên mồ con Tu Ti một mình thôi.
Con bé Bambi của tôi le lưỡi nói "eo ơi! ".
Con chị Minou thì hỏi trống không: "Sao người ta ác thế nhỉ Đó là lời trẻ thơ, tôi không đề ý cũng phải quan tâm.
Bé Thủy còn tâm sự nữa với bạn, là hai con tôi:
- ở nhà trên còn có cây đàn dương cẩm của má Thủy nữa. Thủy nhớ má Thủy đàn, nhiều khi muốn lên nhà ấn một cái vào phím đàn cho đỡ nhớ má, bị các chú ấy đuổi, Thủy sợ quá chạy ra vườn trốn, bên cạnh mồ Tu Ti này. Tu Ti hồi trước hay bênh vực Thủy, nó đã bị ăn thịt rồi còn đâu.
Tôi nhìn thấy nỗi tuyệt vọng và chưng hửng tiếc nuối ở nét mặt còn măng sữa của cô bé. Tôi tiếp tục nghe lời tâm sự của bà cụ:
- Số là thế này, con trai và con dâu tôi sợ gia đình thiếu lương thực khi Việt Cộng đánh vào thành phố nên mua trữ sẵn, cả một bể nước vĩ đại xây ở sau bếp. Lương thực cả nhà có thể sống được năm tháng trời. Nay chỉ còn hai bà cháu dùng bao giờ mới hết được. Tôi và cháu Thủy ăn như mèo. Có hôm hai bà cháu không ăn hết một gói mì Đại Hàn.
- Những người ở nhà trên không tiếp thu những thứ này sao?
- Có đấy, nhưng tôi không cho, bà cháu tôi đứng chắn cửa.
Một chuyện vô lý ngoài sức tưởng tượng của tôi, sức vóc hai bà cháu nhà này? Nhưng bà cụ giải thích ngay:
- Tôi liều chết, liều cái thân già này, tôi nói với họ có giỏi thì bắn chết hai bà cháu tôi đi mà cướp lấy miếng ăn của bà cháu tôi... Họ cũng phải giữ mẽ, nên kệ tôi. Họ nói gì nhỉ, à động viên tôi, nói tôi hiến nết phần lương thực này cho nhân dân, họ cũng không để bà cháu tôi chết đói. Nhưng tôi nói tôi đã từng là mệnh phụ phu nhân cháu tôi là tiểu thư khuê các không biết ăn sắn ăn khoai... Không cho bà cháu tôi ăn những thứ này thà chết còn sướng hơn. Cả cái áo quan kia nữa. Bà cụ kéo tấm bạt nhà binh phủ trên một cái hòm dài trong ga-ra, lộ ra một cái áo quan đồ sộ chạm trổ tinh vi đánh véc ni bóng loáng. Bà cụ bình tĩnh nói:
- Cái này cũng của tôi. Hồi tôi ốm nặng tưởng chết, tôi ao ước có cái áo quan sang đẹp nên con trai tôi báo hiếu tôi bằng cách đặt cho tôi một cái áo quan này ở Tobia cho tôi nhìn thấy trước khi nhắm mắt. Thế mà tôi lại không chết, bây giờ tôi khoẻ cùi cụi, chẳng cần thuốc thang gì hết. Không biết tôi được hưởng phước hay bất hạnh sống để nhìn cảnh này, thật tan nát cả cõi lòng... Cháu nội tôi còn thơ dại quá, như con anh. Tôi không còn thương tôi mà thương chúng, những trẻ thơ... Chả biết nó sẽ ra sao khi mất tất cả. Bỗng dưng chúng thành trẻ mồ côi. Một hôm tôi đang ngồi lau cái áo quan này thì có lẽ một ông lớn đi vào. Ông ta hỏi, tôi nói cái áo quan này của tôi. ông ta nói không nên để đây choán chỗ, vì chỗ này có thể dành cho một hộ nhân dân ở thì tốt hơn... Nghĩa là tôi nên quăng cái áo quan này đi chỗ khác hoặc chẻ làm củi đun bếp. Tôi nổi tam bành, không hiểu sao tôi lại trở nên dữ thế. Tôi hỏi ông ta có súng không, nếu có đủ lòng bất nhân thì bắn chết bà cháu tôi đi rồi lấy hết, sẽ chẳng còn ai nói gì nữa... ông ta liền quay ra nói, cách mạng không tơ hào đến cây kim sợi chỉ của nhân dân.
Tôi chẳng hiểu gì cả.
Tôi thầm nhủ, thôi bà cụ ơi đừng kể lể nữa, con khóc mất. Nhưng bà cụ vẫn kể, lời ai oán ấy vẫn lọt vào tai tôi:
- Mẹ con tôi là Bắc kỳ di cư đấy. Tôi là địa chủ, suýt nữa thì bị đấu tố chết, may mà trốn thoát được. Con trai tôi đã học hành nên người đọc có cái cơ ngơi này. Hôm 29 tháng 4 hai bà cháu tôi mắc đi chơi về không kịp, con trai và con dâu tôi chạy thoát ở cái máy bay bên kia đường. Chắc vợ chồng nó cũng khóc hết nước mắt. Tôi mong có một ngày cháu tôi không côi cút, cái thân tôi thì có sá gì. Cái áo quan có cũng được mà không cũng chẳng sao.
Tôi vốn là nghệ sĩ dễ xúc động, tâm hồn yếu đuôi Tôi nhòa nước mắt lúc nào không biết. Tôi nghĩ đi ri hoàn cảnh của chính mình, tôi thương hai đứa con của tôi.
Buổi tối, ba bố con tôi trở lại căn nhà xưa ở ấp Đông Ba Gia Định. Tôi kể chuyện thần tiên cho con tôi nghe. Tôi hoài vọng ở những đứa con của tôi:
- Này Minou, bố gọi con là Minou không phải tên một con chó đâu. Tên ấy là tên - một nữ thi sĩ thần đồng của Pháp, Minou Drouet. Còn Bambi, tên một chú nai con trong phim hoạt họa của đại họa sĩ Walt Disney của Mỹ. Toàn là những con người dù trong tưởng tượng cũng trong sáng hiền hòa. Bố hoài vọng ở các con... các con mãi mãi là niềm yêu thương và tin tưởng của bố. Dù bất cứ trong hoàn cảnh nào các con cũng làm con người.
Tôi cũng không ngờ đó là lời nói cuối cùng của tôi với hai con, sau những năm dài, tôi bị bắt, bị tù đầy, đưa đi học tập cải tạo.
Ra tù, tôi vẫn không trở thành một con người khác, tôi vẫn thế. Tôi được biết tin con tôi ra sống ở nước ngoài.
Căn nhà cũ ở đường Nguyễn Phi Khanh đã có chủ khác. Tôi đến thăm ngôi biệt thự của bà cháu bé Thủy cũng thấy khác rồi. Ngoài cổng có lính gác. Ngôi biệt thự đã được tân trang.
Kỷ niệm khốn khó thời thơ ấu của các con tôi. Tôi nay đã là một lão già, có lẽ đã lẩn thẩn, sống trong căn nhà xưa ở ấp Đông Ba xưa, nay ngươi ta không còn gọi tên địa danh ấy nữa. Ruộng, ao rau muống đã lấp rồi, không còn những đóa hoa tím con gái tôi hái ngày nào.
Bấm đốt ngón tay tính toán, nay con gái tôi đã vào tuổi 29, 30. Ngày sinh nhật của gà, của heo con, bố còn nhớ.
Tôi viết truyện ngắn này gửi cho con, những bạn bè cùng lứa tuổi con. Truyện này tôi đã viết từ lâu rồi, nhưng một người bạn thân đọc được, anh đã xé, xé, hủy hoại nó vì anh thương tôi, sợ tôi gặp nạn. Nay tôi viết lại. Bây giờ cũng đang độ vào hè.
Buổi hoàng hôn tôi ra khỏi ấp Đông Ba, xuống cù lao Rạch Miễu, nơi có những ao rau muống đã bị lấp bằng. Tôi lẩn thẩn nói:
- Lá rụng về cội cũng được mà trôi theo dòng cũng xong.
Không bàn tay ai che kín được mặt trời.
ấp Đông Ba, năm Kỷ Mão 1999
Ông Đồng trời
Tập Truyện Ngắn
Ông "Đồng Trời" vuốt bộ râu ngả bạc, vấn lại cái búi tó củ hành, giắt lại cái răng lợn rừng lên tóc.
Ông cúi xuống xắn ống quần móng lợn, buộc lại chiếc thắt lưng điều. Mặc dầu trời lạnh, ông vẫn cởi trần, da ông nhăn nheo vì tuổi tác, nhưng khoẻ mạnh rắn rỏi.
Ông Đồng Trời rút phắt thanh mã tấu cắm ở thân cầy chuối, hoa một đường bao quanh người, dừng lại rồi nhìn cung kính về hướng mặt trời mọc. Phía bên này núi Tam Đảo là vùng Vĩnh Phúc Yên. Rặng núi chưa tan hết sương mù.
Tôi nhìn thấy ở mũi mã tấu một dòng nhựa chuối chảy ròng ròng. Tôi tưởng tượng ngay thanh mã tấu đó vừa chém ngập vào thân thể một thằng giặc Tây, và chất nhựa kia là dòng máu đỏ lòm của hắn ta. A, tại sao tôi lại căm thù thực dân đến vậy? Tôi nhớ đến gương hy sinh anh dũng của một anh Kim Đồng nào đó, như đã nghe kể lại, xem diễn kịch ngoài đình.
Tôi ngắm ông Đồng Trời.
Ông có dáng uy nghi của ông tướng hát tuồng ở rạp Quảng Lạc Hà Nội. Con người ông đầy sắc thái của một con người thái cổ. Mắt xếch, lông mày xếch mũi mác, những móng tay ông dài nhọn, khoằm như vuốt chim ưng. Tóc bới gọn ra sau và được chêm bằng một cái răng lợn rừng (theo lời ông kể lại). Ông chính là một tì tướng của cụ Hoàng Hoa Thám (cũng chính lời ông kể).
Tôi cung kính nhìn ông Đồng Trời biểu diễn và phục lăn.
Sau khi ông Đồng Trời biểu diễn bái tổ xong, ông bước một bước ra trước, xoạc cẳng đứng tấn vững chãi. Lưỡi đao kẹp đọc sau cánh tay theo thế sắp tấn công của một con bọ ngựa. Đôi mắt ông quắc lên, thình lình hét lên một tiếng:
- Cha chả, sát!...
Tôi chỉ kịp thấy thân hình gọn ghẽ của ông tung lên như ngọn pháo thăng thiên, lưỡi đao chém gió vụt một cái, và nửa cây chuối đổ xầm xuống. Lưỡi đao ngọt quá đến độ một giây sau cây chuối mới đổ. Ông Đồng Trời xoay người một vòng như con vụ đứng theo thế chụm chân lúc đầu, mũi đao chỉ xuống đất tay kia xoè ra áp lên tay cầm chuôi đao. Ông chào theo thế con nhà võ, một kiếm khách.
Tôi lại phục lăn. Bọn nhi đồng đứng xem reo rầm lên:
- Hoan hô đồng chí " ông Đồng Trời".
Tôi rút phắt thanh kiếm gỗ ra khỏi sợi dây buộc ở cạp quần, múa mấy đường ngậu xị hạ những thằng Tây tưởng tượng. Ông Đồng Trời cưới hê hê khoái trá.
Bọn nhi đồng nhô con lên tiếng can tôi:
- Thôi, xin can đồng chí Long vàng,. mười hai thằng lính Tây chết tiệt rồi.
Cơn "hăng máu của tôi" hạ xuống.vì những lời chế giễu của bạn bè.
Tôi vốn là thằng bé cứng đầu và bắng nhắng ở khu phố Nỉ nhỏ bé này. Hỗn danh của tôi là thằng Long vàng, vì hay mặc quần đùi màu vàng, chạy chơi la hét om xòm từ đầu phố đến cuối phố.
Tôi nói phét mình biết võ... gia truyền, đã từng đá lòi phèo một tràng Tây con ở Hà Nội. Bọn nhóc tì ở vùng quê mùa này tin rầm rầm, tin răm rắp. Tôi với mọi tính nết xấu xa, láu cá được ngụy trang bằng những lời khoác lác, như cha tôi, bác Cả của tôi...
Tôi lại là thứ con cháu địa chủ ruộng đất ăn từ Vĩnh Phúc Yên lên đến Thái Nguyên. Những lần đồn điền ông bà ngoại tôi mổ bò khao quân là dịp tôi được các anh bộ đội bế ăm, dậy hát.
Cha tôi chưa tới bốn mươi tuổi đã được gọi là "đồng chí cụ, mẹ tôi tuổi xuân còn hơ hớ đã được gọi là mẹ chiến sĩ. Ông bà ngoại tôi được gọi là đồng chí "cụ cố, ông bác Cả của tôi lại được dịp ngồi khề khà uống rượu, vuốt râu, nhắm với lòng lợn tiết canh, chấm mắm tôm với một anh tiểu đoàn trưởng răng đen mã tấu, nói phét sướng mồm:
"Ngày xưa khi tôi còn làm cách mạng với Cụ ở Pắc Bó..."
Đồng chí phó Ngọt bước ra, tay anh lăm lăm thanh mã tấu đẽo bằng gỗ thật đẹp, vì anh vốn là thợ mộc ở khu phố Nỉ. Bây giờ anh là du kích xã. Nhất nhất anh theo từng động tác của ông Đồng Trời, anh chỉ không có râu để quết, không có tóc dài để búi tó củ hành. Ông Đồng Trời hô sát, anh cũng hô sát. Một lúc sau anh thở hồng hộc. Ông Đồng Trời lắc đầu:
- Đồng chí yếu thế làm sao chém đứt đầu được thằng Tây, cổ nó to gấp hai cổ người mình, bằng cổ con bò mộng.
Đồng chí phó Ngọt nhe hàm răng cải mả cười ngu ngơ:
- Đồng chí "Đồng Giời" cứ quyện cho em một ít nâu nà em giỏi giền.
Tôi nhại theo giọng nói ngọng của anh phó Ngọt rồi ôm bụng cười bò lăn bò càng.
Nắng đã lên cao, sương mù tan hết, bọn nhi đồng tản đi chơi. Cô Thắm, con gái ông Đồng Trời tất tả chạy ra gọi:
- Thầy ơi, về có người gọi đi cúng giải sao.
Mắt ông Đồng Trời sáng rực, ông hấp tấp nhặt thanh mã tấu và chiếc áo:
- Mày chạy về trước nói với người ta chờ tao một nhát!
Còn lại đồng chí phó Ngọt. Anh ta nhìn ông Đồng Trời, rồi nhìn xuống thanh mã tấu gỗ của mình. Anh lại nhe răng cười ngu ngơ.
Tôi nhăn mặt, nhe răng nhại đồng chí phó Ngọt rồi ú té chạy, tôi la hét om xòm trong dãy phố Nỉ, vung kiếm gỗ chém lung tung vào bụi cỏ bên đường...
Mùa đông đã đến đây rồi...gửi mau áo rét...cho người... chiến binh... Nào ai vui thú gia đình... gửi cho chiến sĩ chút tình... nhớ thương...
Tiếng đồng ca của bọn nhi đồng âm vang sân đình. Đêm lạnh như cắt da, chiếc áo len đan theo kiểu trấn thủ của tôi không đủ ấm. Tôi phải hát thật to để quên rét, vậy mà răng tôi vẫn đập vào nhau cầm cập. Tôi ôm lấy một thằng bạn nhỏ để hai đứa truyền hơi ấm cho nhau.
Ngọn gió Thượng Lào năm nay thổi về Việt Bắc quá sớm. Rét đến độ làm nứt nẻ chân tay, cây cũng trụi lá.
Bài hát gợi nhớ cho tôi, và có thể những đứa trẻ bằng lứa tuổi tôi đang ngồi quây quần bên nhau, mơ tưởng đến những anh chiến sĩ ngoài tiền tuyến. Những giai thoại về anh Kim Đồng nào đó vẫn bừng bừng trong đầu óc non nới của chúng tôi. Những gương hy sinh dũng cảm làm sôi động tâm hồn tôi. Những chiến công ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch, những quyết tử quân lấy xác mình bịt lỗ châu mai. Những hình ảnh oai hùng đó được tôi mường tượng qua hình ảnh đồng chí Viên, người hiện đang coi sóc đám nhi đồng chúng tôi, cán bộ Thông Tin Văn Hoá phố Nỉ.
Anh Viên chỉ còn một chân. Anh là chiến sĩ thuộc trung đoàn bảo vệ thủ đô, từng dự những trận đánh long trời lở đất với giặc Pháp ở Hà Nội khi bùng khói lửa. Anh đã để lại cố đô Thăng Long một bàn chân. Đồng chí Viên hát hay, đánh đàn măng đô lin như gió.
Bài hát dứt, đồng chí Viên ngừng đánh nhịp. Tiếng bọn nhi đồng nhao nhao yêu cầu:
- Yêu cầu đồng chí Viên kể chuyện bộ đội Bình Xuyên ở Nam Bộ.
Trong ánh sáng nhấp nhá của sao đêm, tôi nhìn thấy nụ cười tươi tắn của đồng chí Viên, giọng nói của đồng chí đầm ấm:
- Chuyện bộ đội Bình Xuyên chiến đấu anh dũng ở Nam Bộ anh đã kể cho các em nghe nhiều rồi. Hôm nay anh kể chuyện khác, cũng xảy ra ở Nam Bộ...
- Hoan hô đồng chí Viên!
Đồng chí Viên tủm tỉm cười, nhìn sang đám thiếu nữ, mắt anh dừng lại ở chị Thắm, con gái ông Đồng Trời:
- Anh sẽ kể cho các em nghe, nhưng với điều kiện khi anh kể xong, một chị phụ nữ phải hát.
Bọn nhi đồng và thiếu nữ nhao nhao:
- Chị Thắm xung phong hát Cò Lả!
Trong đám thiếu nữ có tiếng cười rúc rích:
- Nhận lời đi đồng chí Thắm.
Mãi một lát sau, chị Thắm mới dụi dè đứng dậy:
- Thưa đồng chí Viên, em xin nhận lời yêu cầu của đồng chí.
Tiếng vỗ tay rào rào cùng lời hoan hô. Đồng chí Viên giơ tay ra hiệu cho chúng tôi giữ trật tự, im lặng.
Tất cả im phăng phắc, tiếng nạng gỗ của đồng chí Viên khua lọc cọc trên sân đình, anh chống nạng đi đi lại lại
Anh ngồi xuống một cái bệ:
- Hôm nay anh muốn kể cho các em nghe về chuyện trung tướng Nguyễn Bình, tư lệnh quân đội Nam Bộ, chuyện mới toanh anh mới nhận được và được lệnh phổ biến trong quần chúng.
Chúng tôi như cái máy ca tụng nào biết Nguyễn Bình là ai, được nói đến phải là người anh hùng, đồng thanh hô:
Hoan hô đồng chí Nguyễn Bình!
- Hoan hô!
Đồng chí Viên giơ tay:
- Khoan đã nào!
Anh ta thở dài:
- Tôi tiếc cho sự nghiệp đồng chí Nguyễn Bình, nếu ông ta là anh hùng thật sự của Việt Nam yêu dấu thì những lời hoan hô của các em đẹp biết bao nhiêu.
Tôi lo lắng thay cho vị trung tướng đó, ông ta đã làm gì, đầu hàng giặc Pháp chăng, hay lại dại dột làm Việt gian?
Đồng chí Viên hình như đoán biết sự lo lắng của đám trẻ. Anh ta chậm rãi nói:
- Trung tướng Nguyễn Bình là một tướng tài giỏi, một người chỉ huy trăm trận đánh trăm trận thắng. Ông ta từng làm nên bao chiến công hiển hách. Nhân dân nhớ ơn ông ta. Chúng tôi thở phào sung sướng.
Anh Viên ngưng kể ngước nhìn trời sao lưa thưa như cố nhớ lại. Lát sau anh tiếp:
- Chúng ta đã xét đến cái công của trung tướng Nguyễn Bình, bây giờ chúng ta xét đến cái tội. Thật tình tôi tiếc cho tài năng của ông ta là một tướng tài nên kiêu căng, sau những chiến thắng và chiến công, ông ta thật khốn khổ tệ hại. Hơn nữa ông ta còn giết hại đồng bào nào làm trái ý ông, một tật xấu nhất là ông ta thường bắt phụ nữ hãm hiếp. Tôi được lệnh phải học tập và phổ biến để tránh chuyện ngộ nhận, hay những nguồn tin tức xuyên tạc của bọn Việt gian tung ra. Sự thật là thế...
Thật anh tôi không biết danh từ hãm hiếp là gì, nhưng tôi tưởng tượng ra chuyện đó phải dã man tàn bạo lắm. Tôi hăng hái giơ tay hét lên:
- Đả đảo, xử tử Nguyễn Bình.
Bọn nhi đồng đả đảo rùm trời. Đồng chí Viên mãi một lúc mới vãn hồi được trật tự, khí thế đấu tranh bừng bừng trong những cái đầu bọn nhô con vắt mũi chưa sạch. Anh ta nhìn thẳng vào chúng tôi:
- Bác Hồ đã nghĩ đến điều đó, bác Hồ đã ra lệnh gọi trung tướng Nguyễn Bình về chiến khu Việt Bắc để khuyên nhủ và giáo dục lại tư cách của một chiến sĩ. Nhưng trên đường về, trung tướng Nguyễn Bình bị nhân dân ghét bỏ nên nhân dân đã giết chết. Thật tiếc cho một vị tướng hữu tài mà vô hạnh.
Bọn nhi đồng chúng tôi thở phào, câu chuyện dứt, chúng tôi bàn tán, thảo luận lao nhao về công, tội của tướng Nguyễn Bình. Có một lập luận tướng Bình còn nguy hiểm hơn cả bọn Việt gian bán nước. Đồng chí Viên đánh giá cao lời nhận xét đó. Rồi tôi thấy anh ta nhìn về phía chị Thắm tủm tỉm cười. Chị Thắm e lệ cúi xuống, chiếc khăn vuông mỏ quạ của chị đội xùm xụp trên đầu. Bọn thiếu nữ huých đẩy giục giã mãi chị Thắm mới đứng dậy hát.
Giọng hát trong trẻo của chị như kết bằng gió, bằng hương thơm đồng nội:
- Con cò...cò bay lả bay la...Bay về...về ông nội...bay ra...ra...chiến trường...tình tinh tang... tang tính tình... cô mình ràng, cô mình ơi, ràng có nhớ...nhớ anh chăng... ràng có nhớ... nhớ anh chàng... ràng có nhớ... nhớ anh chăng...
Đêm khuya dần, tiếng hát câu ca không còn hăng hái như lúc đầu. Nhi đồng giải tán, đứa nào về nhà đứa nấy.
Gió đêm lạnh buốt vi vút thổi trong khu phố vắng.
Tôi liếc nhìn về phía nhà tôi, nhà vẫn có ánh sáng đèn. Tôi nghe thấy tiếng cười của bác tôi vẳng ra. Tôi yên tâm, mình có thể đi chơi một lúc nữa. Tôi thu hai tay vào trong bọc lủi thủi đi trên đường phố, tôi nhìn vào khu chợ Nỉ nơi có nhiều cây cổ thụ. Người ta đồn rằng ngày xưa nơi đó có nhiều yêu tinh.
Tôi mím chặt môi, sờ vào túi áo đụng chiếc súng cao su và một túi đạn đá xanh. Tôi vững bụng hơn dấn bước vào chợ, tự nhủ mình sẽ đi vòng đường tắt về nhà. Tôi men theo những lều quán chợ trống dưới bóng cây đa âm u. Tôi bỗng hồi hộp, dón dén bước nhẹ nhàng như bước chân mèo hoang. Tay tôi cầm chắc chiếc chạc súng cao su, viên sỏi nạp san trong miếng da đệm. Tôi luồn lỏi đi, đôi mắt dào dác cố chọc thủng màn đêm.
Tôi bỗng choáng người, lẫn trong tiếng gió thổi rì rào, tôi nghe có tiếng người thì thào nói chuyện. Run bắn lên, ngồi thụp xuống và thấy lạnh gáy, tôi thụt cổ lại mong cái cổ mình như cổ con rùa. Tôi nghe giạng chân đi trong chợ và nhìn về phía đó một đôi trai gái ôm nhau đi về cái quán có quầy rộng ở dưới gốc cây đa. Tôi nghe rõ tiếng nạng lọc
- Mình ngồi lại đây em? ở đây khuất gió.
Người con gái lo lắng, đúng là tiếng chị Thắm:
- Khuya rồi em phải về, không thầy quở.
Tôi suýt reo lên vì mừng. Hai người ấy không ai xa lạ, chính là đồng chí Viên và chị Thắm. Nhưng tôi bình tĩnh ngay, tôi tò mò muốn xem họ làm gì. Tôi men đến gần, nấp sau gốc đa. Tôi thấy đồng chí Viên ôm chị Thắm, hôn chùn chụt lên má chị, bàn tay anh thoăn thoắt trong chiếc áo bông của chị, làm chị cười lên khanh khách:
- Nỡm, làm người ta buồn buồn là ý?
Chị Thắm nguây nguẩy:
- Thôi em về đây, đừng làm thế thầy biết thì chết đòn.
Tôi nghe rõ tiếng thở hổn hển của đồng chí Viên:
- Thầy em biết sao được, thầy em đang ngồi tán hươu tán vượn ở nhà thằng tiểu tư sản phản động kia kìa, đến hư thân vì chúng nó mất thôi, huyện đang điều tra.
Thì ra đồng chí Viên gọi bố tôi, bác tôi là thằng tiểu tư sản phản động. Tôi nghe tiếng chị Thắm ứ hự, tôi nhìn lén, đồng chí Viên vật chị Thắm ngã xuống phản rộng.
Chị Thắm khóc rấm rút:
- Anh đã phá hoại đời tôi rồi, trời ơi, thầy tôi biết thì tôi chết mất.
Đồng chí Viên đỡ chị Thắm ngồi dậy:
- Đồng chí thật hủ lậu, bây giờ là đời sống mới, chuyện luyến ái là chuyện thường, có gì đâu mà phải quan trọng quá vậy, đồng chí cần phải học tập nhiều, tôi sẽ đích thân chỉ dẫn cho đồng chí, mình là người tiến bộ, chỉ có hạng địa chủ, phong kiến phản động mới quan trọng hóa vấn đề, mình là giai cấp bần cố nông của Xã Hội Chủ Nghĩa Mác Lê Nin.
Mặt tôi nóng ran, tức tối, tôi nghĩ đến danh từ địa chủ phản động của gã gán cho gia đình tôi. Tôi căng dây cao su, nhắm trúng chiếc chân cụt của hắn, buông đạn.
Nghe tiếng la ối của đồng chí Viên, tôi lủi nhanh, chuồn thẳng ra cánh đồng, đi tắt cửa sau vào nhà. Bác tôi đang ngồi nói chuyện với ông Đồng Trời, bác vuốt những sợi râu bạc loe ngoe:
- Sao lại có tin vô lý vậy được, Tây nó muốn nhảy dù, việc trước hết là chúng phải khai quang nơi nào chúng định đổ quân, gần như thành bình địa. Chứ có đâu mà khơi khơi nhảy dù xuống. Lệnh cắm chông khắp cả đối núi và bãi trống là lệnh tầm bậy. Bao nhiêu là sức người sức của, tre rừng đốn về rồi đẽo rồi gọt để cắm cả những đồi núi mênh mông này thật là vô lý. Như vậy mà phát động phong trào bắt dân phải bỏ sức người sức của và tự nguyện làm cu ly để làm một chuyện vô lý thì tài thật đấy. Ai không có công có sức thì phải góp tiền bạc, để rồi đi đâu, vào túi ai, chẳng ai cần biết. Công việc đồng áng, tăng gia sản xuất bỏ tuốt...
Bác tôi tặc lưỡi một cái:
- Thôi tôi hiểu rồi, đây là một công việc vác ngà voi ăn cơm nhà vác ngà voi, chính sách như thế, chỉ con chó trắng nói con chó đen, dân nói theo, xúi trẻ con ăn cứt gà được, cuộc kháng chiến này ắt thành công.
Bác tôi nói xong cười khè khè, ông Đồng Trời lại hỏi:
- Thưa cụ nói gì thế ạ!
- Tôi nói cuộc kháng chiến này ắt thành công, khi người ta dậy được dần nghe theo. Ông Đồng Trời hình như hiểu câu được câu không, nhưng cũng gật đầu:
- Vâng, chính vậy.
Bao giờ thì cụ phải đi đốn tre về vót chông cắm lên núi chống Tây nhảy dù?
- Dạ, cũng mai kia thôi, khi nào các ông ấy bảo thì đi, không nghe lời họ không được cụ ạ.
- Chính thế.
Bác tôi nói chuyện khác, bây giờ là chuyện vui, ông cười hô hố, nói phét sướng miệng. Tôi đang định len lén vào giường ngủ, bác tôi gọi giật lại:
- Long, cháu đi đâu về đó?
- Dạ, cháu ra đình họp nhi đồng rồi tập hát!
Bác tôi kéo tôi vào lòng xoa mái tóc ẩm sương đêm của tôi:
- Tối nào cũng bắt con người ta tập hát tập hỏng đến ốm chết thôi, cháu ạ!
Hơi ấm từ người bác tôi tỏa ra, làm tôi trở nên lười biếng. Tôi nằm im trong lòng bác và thấy tâm hồn mình thoải mái. Phút chốc tôi quên chuyện xảy ra hối nãy. Tôi rúc đầu vào chiếc áo bông của bác, quên chuyện mách ông Đồng Trời về chị Thắm bị đồng chí Viên hành hạ đến phát khóc ngoài chợ.

Quân đội viễn chinh Pháp thình lình tấn công từ mạn Phủ Lỗ lên. Lệnh tiêu thổ kháng chiến ban hành khẩn cấp. Cha tôi gạt nước mắt châm ngọn lửa vào cơ nghiệp của mình. Gia đình tôi chạy tản cư vào đồn điền Nam Lý của ông ngoại tôi. Đêm ra đi tôi nhìn lửa bốc cháy khu phố Nỉ mà lòng thấy rưng rưng buồn.
Quân Pháp chỉ càn qua một trận rồi rút lui, chúng chiếm núi Đôi làm đồn bót. Gia đình tôi trở lại phố Nỉ ngay sau khi dút tiếng súng.
Điều đầu tiên hàng xóm hỏi thăm nhau là ai còn ai mất.
Ông Tổng Tề làng Trung Giã thượng bị Tây chặt đầu bằng dao cùn ngắc ngoải mãi mới chết.
Cô Thắm con gái ông Đồng Trời chạy không kịp bị hàng chục thằng Tây hiếp và còn nhiều nữa, chẳng hạn một số người bị qui tội là Việt gian phản động bị bắt đi chôn sống đâu đó.
Sinh hoạt của dân chúng phố Nỉ trở lại trong cảnh điêu tàn. Những mới lá dựng lên tạm thời sơ sài để che mưa nắng. Tôi cùng bọn trẻ còn lại, tiếp tục hoạt động nhi đồng. Ngôi đình rộng năm gian ngày nay chỉ còn lại đống gạch vụn, đêm đêm chúng tôi đến đó tập hát, những bài hát mới mẻ hơn, căm thù giặc Pháp cướp nước hơn và nhất là yêu bác Hồ hơn:
- Bác Hồ ơi!... Bác Hồ có biết... sau lũy tre xanh có đoàn em bé chi biết yêu bác Hồ Chí Minh...
Hoặc bài hát chế giễu mấy ông sư mà đồng chí Viên thường xui bọn chúng tôi đến trước cửa chùa hát: Ba cô đội gạo lên chùa... một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư... sư về sư ốm tương tư, ôm lăn ôm lóc cho sư trọc đầu... Tôi thấy vị sư già trụ trì chắp tay trước ngực đôi mắt buồn vời vợi nhìn chúng tôi. Và chúng tôi cười vang khi thấy hai dòng lệ của vị sư già ứa ra, những vết nhăn ở mắt ngăn lại và loang ra bóng nhoáng... Bọn nhi đồng quái quỉ chúng tôi hỗn như ranh còn khám phá ra nhiều chuyện động trời khác, chẳng hạn đồng chí Viên từng rủ các chị phụ nữ vào chợ hằng đêm, những chiếc váy sồi ngắn cũn cỡn đối với việc làm ma mãnh của đồng chí Viên thật dễ dàng. Nhưng chuyện đó chúng tôi tự khuyên bảo nhau nên kín miệng, hở ra không chừng bị người lớn cho ăn đòn. Tôi cũng khám phá ra một thằng nhô leo lên cây soạn đầu nhà nghe ngóng bác tôi, bố tôi nói chuyện để tố cáo với đồng chí Viên. Tôi cho cu cậu một viên đạn vào mông đít, cu cậu sợ đến són đái.
Tôi nổi danh thằng Long vàng bắn súng cao su, trăm phát bắn trăm phát trúng.
Buổi tối hôm đó chúng tôi lại tụ tập ở sân đình học hát.
Bỗng tất cả đều im bặt, khi thấy bóng dáng chị Thắm. Chị đứng dựa bên một bức tường đổ, nhìn chúng tôi, cái nhìn sao buồn bã lạ...
Không ai nói với chị một lời và chỉ nhìn lại. Chị lạc lõng, xa lạ ngay chính với những người bạn của chị. Tôi nhận thấy trong thời gian gần đây, không ai còn muốn nhận chị là bạn hoặc người cùng đoàn thể.
Tôi nghe thấy một tiếng nói trong đám phụ nữ:
- Con Tây hiếp còn vác mặt đến đây làm gì.
Đồng chí Viên ngước lên nhìn chị Thắm rồi im lặng. Chị đứng một lúc rồi bỏ đi. Tiếng hát lại cất lên, đuổi theo từng bước chân lạc lõng trong phố Nỉ điêu tàn.
Bóng dáng chị Thắm mờ dần trong sương đêm. ánh trăng đêm nay sáng vằng vặc, bầu trời như được nạm bạc bằng lớp mây vẩy tê tê. Tự nhiên tôi thấy thương chị Thắm quá. Sau ngày bị Tây hiếp, vẻ vui tươi ngày xưa của chị không còn nữa.
Tôi cũng không được nghe điệu hát cò lả của chị. Tôi không hiệu tại sao hôm nay chị lại mò ra đây, chị nhớ thương gì ở ngôi chùa bị tàn phá này chăng?
Sau buổi tập hát, tôi được đồng chí Viên giữ lại để nói chuyện cần. Đồng chí Viên rủ tôi ra bãi đá bóng ngồi chơi. Khung cảnh ở đây rộng rãi, thoáng đãng, tôi có thể nhìn rõ ngọn Tam Đảo hơn. Những đám rừng cháy xa xa trên sườn non như những vệt lân tinh của con dời bò trườn trên tường. Hình ảnh đó với tôi thật quen thuộc. Chiếc chân cụt của đồng chí Viên gác lên chiếc nạng gỗ đu đưa, đồng chí Viên thân mật khoác vai tôi:
- Em có ghét giặc Tây không?
Tôi gật đầu, đong chí Viên hỏi tiếp:
- Em có ghét những kẻ theo Tây không? Những kẻ Việt gian bán nước?
- Có!
Đồng chí Viên cười nhẹ, nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Ai nói xấu bác Hồ của các em nhi đồng, em có ghét không?
- Có ạ!
Đồng chí Viên xoa đầu tôi:
- Em ngoan lắm, em sẽ được bác Hồ thương yêu, em được làm cháu ngoan bác Hồ.
Tôi nghĩ đến nhân vật bác Hồ, người từng gây ấn tượng đẹp đẽ trong đầu tôi qua những câu ca lời hát: Bác chúng em dáng thanh thanh, người cao cao, râu dài...
Tôi lột chiếc mũ chào mào nhung đen xuống, ở trên đó tôi gắn một ngôi sao vàng bằng đồng, trong lòng ngôi sao có tấm ảnh bác Hồ nhỏ xíu. Tôi giữ huy hiệu này như báu vật. Tôi từng khoe bọn nhi đồng quê mùa ở khu phố Nỉ:
- Bố tao mua cho tao hồi cách mạng tháng Tám ở Hà Nội đấy, tao có trông thấy bác Hồ thật rồi, vào đêm rằm tháng Tám ở thủ đô. Nhi đồng Thủ đô tụi tao diễn kịch ông Đinh Bộ Lĩnh cưỡi trâu quanh hồ Hoàn Kiếm, tao được bác Hồ xoa đầu...
Thật ra tôi nói phét để loè bọn nhi đồng nhà quê, tôi chưa bao giờ được bác Hồ xoa đầu, tôi chỉ nhìn thấy bác Hồ từ phía xa, giữa lớp sóng người trùng điệp lô nhô
Đồng chí Viên đội lại chiếc mũ chào mào lên đầu tôi, thân mật vỗ vai:
- Em hãy tố cáo tất cả kẻ nào nói xấu bác Hồ, nếu cha mẹ chú bác em có phản động em cũng đừng ngần ngại, mình đã làm cách mạng bắt buộc phải gạt bỏ tình cảm riêng tư.
Lời nhắn nhủ của đồng chí Viên làm tôi lạnh toát người, tôi hiểu ngụ ý của câu nói ấy. Tôi đứng dậy, kiếm cớ:
- Em về đây!
Đồng chí Viên vẫn ở nguyên chỗ cũ, tôi nhìn thấy nụ cười méo miệng bẩm sinh của anh ta, giọng nói của anh ta trở nên nghiêm nghị như ra lệnh:
- Em là cháu ngoan bác Hồ, em là nhi đồng tiến bộ ở Thủ đô nên em cần làm gương cho các em nhi đồng khác.
Tôi ù té chạy về nhà. Bác tôi vẫn ngồi uống trà. Tôi leo lên nằm rúc đầu vào lòng bác, bàn tay xương xấu của bác vuốt lên tóc tôi:
- Chó con, cứ dầm sương rồi đến ốm mất thôi! Tự nhiên tôi thấy thương yêu bác tôi hơn bao giờ hết. Tôi lắng nghe từ ngoài đường vẳng vào tiếng nạng gỗ khua lọc cọc của đồng chí Viên. Tôi ôm chặt lấy bác:
- Bác ơi, bác đừng nói xấu cụ Hồ nữa nhé.
Bác tôi ngạc nhiên nhìn sững tôi, đôi mắt bác từ từ dịu lại, bấc ôm chặt tôi vào lòng:
- Khuya rồi đó, cháu yêu của bác đi ngủ nhé!
Trong giấc ngủ chập chờn tôi nghe thấy tiếng ho của bác, bác vẫn ngồi nhìn ngọn đèn dầu lạc, tiếng ngâm thơ quen thuộc của bác lại cất lên:
Quân bật kiến Hoàng Hà chi thủy
thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi?
Đêm về khuya, thỉnh thoảng tôi lại choàng thức giấc vì tiếng súng nổ cầm canh từ đồn Tây ở núi Đôi bắn đi. Vòng tay ôm của bác tôi sao mà ấm cúng thế.

Ba chiếc máy bay cổ ngỗng quần trên bầu trời chói nắng. Tiếng loa lẫn tiếng trống ngũ liên vang rền khu phố Nỉ. Chợ Nỉ nhốn nháo, dân chúng chạy túa ra đồng, kêu gào thất thanh.
Một chiếc cổ ngỗng bay vút lên cao, tôi chỉ nghe thấy tiếng động cơ máy bay xé gió rít lên khi đâm bổ xuống, kế đến tiếng đạn đum đum nổ giòn rã. Tiếng bom rơi rung chuyển cả căn hầm tôi đang nấp, ngực tôi tức thở Tôi nghe tiếng kêu rú của đàn bà, tiếng báo cáo tình hình ngọng líu của anh du kích phó Ngọt:
- Tầu bay địch đã bắn và thả bom nàng Trung Giã, nàng đang bốc cháy, yêu cầu đồng bào trật tự, ai lằm nguyên chỗ lấy, không được chạy nộn xộn.
Tiếng máy bay hú lên, tiếng đạn bom lại nổ long trời lở đất át cả tiếng báo cáo của du kích phó Ngọt.
Máy bay quần khoảng mười lăm phút rồi bay đi, xung quanh tôi lặng lẽ đến khủng khiếp. Tôi ngửi thấy mùi khen khét của khói súng, mùi đất khô, mùi tanh lờm lợm, tôi nín thở nghe ngóng. Một hồi kẻng rung, tiếng kêu gào bùng lên:
- ới Tí ơi! Mày ở đâu lên tiếng cho bu biết?
- Thầy ơi, Bu ơi! Con còn sống!
- Làng Trung Giã cháy to quá, bà con ơi!
Tôi nhảy ra khỏi hầm, tôi cũng kêu gào cuống lên:
- Bố ơi, mẹ ơi, bác Cả ơi!
Cảnh tượng lúc đó vô cùng hỗn độn. Anh du kích phó Ngọt mặc bộ quấn áo vải nâu, ống quần buộc dây lạt túm lại, đi chân đất, ngang bụng thắt một sợi dây thừng, một tay cấm loa, một tay cầm mã tấu. Trên chiếc mũ đan tre như cái sọt ngụy trang đầy lá cây. Anh ta không ngớt kêu gọi đám đông, cảnh giác:
- Đồng bào chú ý, coi chừng máy bay địch có thể về nấy thêm bom để giết đồng bào.
Nhưng anh ta nói khản cổ mà chẳng ai buồn nghe, họ còn lo tìm kẻ còn người mất, gào khóc, chơi bới vang rân.
Làng Trung Giã cháy bùng bùng, tiếng tre nổ lốp bợp, khói bốc cao làm mờ cả bầu trời buổi trưa. Tôi chạy băng qua cánh đồng về nhà, gia đình tôi yên ổn tôi lại chạy loanh quanh những nơi bị bắn phá, người chết đứt đầu cụt tay nằm rải rác khắp cánh đồng. Những chiếc cáng, chiếc võng khiêng vội vã những người bị thương đi cứu cấp, máu nhỏ giọt khắp lối đi thấm xuống nền đất in hình những ngôi sao thẫm màu.
Bác Cả tôi là thầy thuốc đang băng bó cho người bị nạn. Tiếng than khóc vang rền khắp nơi. Tôi từng quen thuộc với cảnh tượng đó, tôi nhập bọn với đám bạn nhóc đi nhặt vỏ đạn, mảnh bom để làm đồ chơi. Mãi đến chiều mới vãn hồi được sự hỗn độn. Đồng thời du kích cũng tóm được một tên Việt gian nguy hiểm. Kẻ đó chính là ông Đồng Trời. Ông Đồng Trời mặc áo the đen, đầu chít khăn nhiễu, ngang bụng thắt một chiếc thắt lưng xanh, mặc quần trắng. Rõ ràng dấu hiệu cờ tam tài. Ông bị trói giật cánh khuỷu giong đi khắp phố Nỉ. Anh du kích phó Ngọt cầm chiếc dây thừng kéo ông Đồng Trời đi như giong con bò chướng tính, anh bô bô nói trong loa:
- Đây chính nà tên Việt gian đã chỉ điểm cho máy bay địch thả bom nàng Trung Giã giết hại đồng bào. Du kích nàng đã bắt quả tang khi tên lày đánh "móc" cho máy bay địch. Ló giả vờ cúng thổ thần thổ địa giữa trời, van vái để đánh moóc. Đây, bằng chứng cờ tam tài của giặc Pháp còn trên người hắn. Du kích nàng còn khám phá thêm là trên những thỏi vàng bạc giấy của nó đều có gắn những miếng kính tròn.
Chị Thắm bụng chửa vượt mặt chạy theo cha khóc như ri, đầu tóc chị rũ rượi như con ma, chị xồ xề như một con lợn nái:
- Thầy ơi thầy, sao thầy khổ thế thầy ơi, thầy tôi oan, làng xóm ơi!
Những tiếng mắng mỏ của đồng bào mất của, thiệt hại, đồ lên đầu bố con ông Đồng Trời:
- Con gái vừa được Tây hiếp, thằng bố đã vội đi làm Việt gian rồi. Quần bất nhân bạc ác. Giết chết chúng nó đi.
Những mụ đàn bà quai mồm chửi bới không thiếu một lời lẽ tức tằn nào. Bố con ông Đồng Trời bị xô đẩy ngã xiêu ngã vẹo trên đường giải đi. Anh du kích phó Ngọt lo le thanh mã tấu đi trước, người anh ngụy trang lá cây, hò hét luôn miệng như sắp sửa lâm trận. ông Đồng Trời không cãi tiếng nào, ông cúi gầm mặt nhìn xuống chân mình...
Tôi thấy bác Cả của tôi đứng bên lề đường, tay cầm thùng thuốc nhìn theo rồi quay đi.
Có người còn dựng đứng câu chuyện ông Đồng Trời làm Việt gian cho thêm phần quan trọng:
- Khi tàu bay địch đánh bom, tôi nằm gần đó, tôi thấy chỗ tên Việt gian Đồng Trời nhá nhá ánh sáng chiếu lên trời thành một quầng sáng toàn là "moóc" không. Chúng ghê thật, trăm phương ngàn kế. Rồi coi, du kích làng ta sẽ còn bắt nhiều tên Việt gian nữa. Phải cảnh giác có người trông tử tế lại chính là những quân Việt gian phản động hạng nặng.
Một bà mẹ chiến sĩ đội khăn vuông xùm xụp tấm tắc khen:
- Du kích làng ta giỏi thật, thế nào cũng có giấy ban khen.
Dân phố Nỉ có vẻ hả hê về thành tích bắt sống tên Việt gian liếm gót giầy cho Tây. Bác Cả tôi lắc đầu:
- Nó tìm ra con dê tế thần rồi!
Buổi tối hôm đó, đồng chí Viên tập họp tất cả nhi đồng, thiếu niên, thiếu nữ ở phố Nỉ tại sân đình. Chống nạng đi đi lại lại trong bóng tối nhá nhem, đồng chí Viên lắc đầu:
- Thật buồn quá, chúng ta sống trong tình cảnh này không còn tin được ai. Tất cả mọi người không có ai nghi ông Đồng Trời là Việt gian, vậy mà lão ta làm Việt gian cho Tây, liếm gót giầy cho Tây. Tôi báo cáo cho các em biết tên Việt gian Đồng Trời đã được tòa án nhân dân kết án tử hình chiều nay, tên này đã thú nhận tất cả tội lỗi. Ngày Tây đi qua đây hiếp con gái lão ta, cho lão ta rất nhiều bơ sữa. Thế là lão bán rẻ lương tâm, làm chó săn cho chúng, con gái lão, con đĩ Thắm đã chửa với Tây. Bố con lão phản quốc. Nhưng nhân dân vì lòng nhân đạo, tha tội cho con gái lão, chỉ tuyên án chặt đầu lão thôi.
- Đả đảo Việt gian!
Hằng trăm cánh tay giơ lên cương quyết. Đuốc được đốt sáng trưng. Tàn lửa bay tứ tung, những khuôn mặt non choẹt đằng đằng sát khí, những cái miệng còn hôi sữa hò hét giết người, sân đình ồn ào, đồng chí Viên hét lên:
- Chính lão ta đã thú nhận, lão bảo tại thương con, thương đứa trẻ sắp ra đời. Các em thử tưởng tượng xem nếu con gái Việt gian đẻ, nó có đẻ ra người Việt không?
Đồng chí Viên quắc mắt nhìn đám đông, đám đông bỗng cuống lên:
- Không, nó đẻ ra Việt gian con?
Một đứa nào đó nói chữa:
- Nó đẻ ra thằng Tây con.
Giọng đồng chí Viên đanh lại:
- Kẻ thù của chúng ta là ai?
Bọn trẻ trả lời như máy:
- Kẻ thù của chúng ta là giặc Pháp và Việt gian!
- Các em có thể để cho một thằng Tây hay Việt gian sống ở đây được không?
- Không, cương quyết không!
- Vậy chúng ta phải làm sao?
- Giết chúng!
Tiếng hô xôn xao sắt thép vang dội sân đình.
Đám trề con trở nên cuồng nộ, tôi cuồng nộ, tôi thét lên những tiếng giết ghê rợn. Rồi đám đông kéo đi. Tiếng đồng chí Viên vang vang:
- Ngày mai chúng ta kéo ra sân đá bóng xem chặt đầu tên Việt gian phản động? Giết, đả đảo Việt gian, giết Tây con.
Tiếng giết kéo dài cuồng nộ như cuồng phong thổi vào khu phố Nỉ vốn dĩ hiền hòa. Vó ngựa sắt Phù Đổng Thiên Vương đã phi qua con đường này sau khi dẹp xong giặc Ân từ bốn ngàn năm trước, dấu chân ngựa còn in lên đỉnh núi Sóc Sơn ở mạn xuôi kia. Tôi nhìn thấy ngọn núi Sóc Sơn.

Sương sớm còn phủ mờ cảnh vật. Ngọn Tam Đảo trắng xóa mây mù. Núi Sóc Sơn mạn Đông Anh chưa nhìn rõ, trên đó có đền thờ đức Phù Đổng Thiên Vương khi ngài hiển thánh bay lên trời, mà chúng tôi quen gọi là Thánh Gióng. Những bước chân âm thầm từ các ngả đường đổ về bãi đá bóng. Tất cả mọi người đều lặng lẽ, không ai nói với ai một câu, trời rét căm căm.
Tôi thu hai tay trong bọc, răng đập vào nhau cầm cập, bàn tay tôi chạm vào túi áo, ở đó có viên đá xanh to tướng. Hòn đá đó tôi đã nhặt trên đường đi, như những đứa trẻ khác. Hãy giết nó, giết nó! Câu nhắc nhở của anh Viên gào thét trong đầu tôi, thôi thúc tôi, thôi thúc những đứa trẻ hối hả đi về bãi đá bóng trong tâm địa giết người. Chắc chắn trong tôi áo mỗi thằng đều có một viên đá xanh. Cảm nghĩ chúng như tôi, phải tiêu diệt thằng Tây con ngay lúc còn trong bụng mẹ. Thế nào con Thắm cũng phải có mặt. Dù nó được nhân dân ta tha thứ, nhưng các cháu ngoan của bác không tha thứ. Dù đầu óc bị xao động, tôi vẫn thấy mình quan trọng vì sắp góp một tay vào công cuộc diệt địch của toàn dân. Đồng chí Viên đã nói với chúng tôi như vậy. Sương mù vẫn còn dầy đặc, tôi nhìn thấy một chiếc cọc tre mới đóng ở giữa sân bóng, chiếc cọc cao chừng một thước, đầu cọc bị vồ đập bẹt dí toét toè loe. Du kích làng đứng gác dung quanh bãi, họ vác mã tấu, bụng đeo lựu đần và khắp người ngụy trang lá cây như sắp ra tđa.
Bọn nhi đồng chúng tôi đứng lẫn trong đám đông đứng xem chờ đợi, ngong ngóng nhìn về phía cổng đồn. Tử tội sẽ bị điệu từ trong đó ra trói vào chiếc cọc tre kia để thọ hình.
Họ xầm xì bàn tán về tử tội:
- Không ngờ hắn ta lại có thể là Việt gian.
Một bà phụ lão dài mồm ra nói có vần có điệu:
- Con ăn phải bả Tây, bố lây lạ gì!
Họ nói nhiều chuyện động trời khác về ông Đồng Trời. Toàn chuyện xấu xa. Tôi nhìn thấy sự căm thù hiện trên mặt họ, hình như họ có sn quyết tâm. Tôi cũng căm thù vì những chuyện họ kể. Tay nắm chặt hòn đá, tôi nghếch cổ nhìn về phía cổng đồn.
Bỗng đám đông nháo nhác:
- Nó ra là, cả con nó!
Ông Đồng Trời bị trói giật cánh khuỷu, hai du kích xã cắp mã tấu đi hai bên. Ông chủ tịch xã đi đầu, phía sau ông Đồng Trời, chị Thắm lúp xúp chạy theo gào khóc. Đi sau rốt là đồng chí phó Ngọt. Anh ta vác cây mã tấu lưỡi sáng quắc trên vai. Mặt trời mọc, tôi nhìn thấy trên lười mã tấu phản chiếu ánh nắng loè sáng khi vai anh ta đung đưa theo nhịp bước chân. Đám đông lao nhao hỏi nhau:
- Hôm nay ai được trúng tuyển chém Việt gian?
- Chắc đồng chí phó Ngọt, hắn có nghề đồ tể lại có quyết tâm cao.
- ừ thảo nào hắn oai gớm.
Ông Đồng Trời càng bị điệu gần đến cây cột thọ hình, tiếng khóc của cô con gái càng thê lương:
- Con cắn rơm cắn cỏ lạy các ông các bà, thầy con oan, con xin thế mạng cho thầy con...
Hai anh du kích chạy ra giữ rịt cô Thắm lại. Cô lăn lộn trên bãi cỏ ướt sương đêm. Ông chủ tịch xã kiêm chánh án tòa án nhân dân lớn tiếng:
- Đừng nỏ mồm, tội ai làm người nấy chịu, nhân dân không lầm. Bố con mày cần nói với nhau điều gì thì nói đi. Đó là ân huệ cuối cùng của nhân dân ban cho.
Chị Thắm khóc khản cổ không ra tiếng, cái bụng bầu của chị xề xuống, chị lê lết trên bãi cỗ:
- Bố ơi, thầy ơi!
Ông Đồng Trời đã bị ấn quì xuống, những vòng dây thừng quấn vội vã ông ta vào cọc. Mặt ông hướng về phía núi Tam Đảo. Mặt trời đã lên cao được hai con sào nắng từ phía sau lưng chiếu lại làm bóng ông ta và bóng mấy người du kích đổ dài trên cỏ. Ông Đồng Trời tuyệt vọng. Ông không hề than thở hay xin xỏ một câu. Ông nhìn đứa con gái bụng chửa vượt mặt đang lồng lộn trong bốn cánh tay lực lưỡng của hai gã du kích. Ông gân cổ nói với con:
- Thôi con ơi, số mạng thầy đến đây là tận, con có khóc có xin thì thầy cũng chết. Con can đảm lên, cố sống để nuôi con, đứa con trong bụng mày, dù nó là con Tây đen, Tây trắng thì cũng là giống người.
Bỗng có tiếng hét trong đám đông:
- Đập vỡ mõm nó ra, chết đến đít mà vẫn phản động?
Chị Thắm nhếch nhải khóc:
- Thầy ơi, con của con là người Việt Nam, con đã có mang nó trước khi...
- Đả đảo phản động! Phải giết luôn con Tây hiếp phản quốc đó đi, cho tuyệt nòi tuyệt giống, nhà nước ta nhân đức quá, thà giết oan hơn tha lầm.
Những tiếng la ó của đám đông dậy khí thế đấu tranh lấn át tiếng gào la của chị Thắm. Chị bị một gã du kích bịt miệng lôi ra xa, đầu tóc xổ tung. Tiếng cán bộ nào đó phân giải:
- Muốn thế thì sẽ được thôi, ý nguyện của nhân dân, nhà nước chấp hành.
Tôi thấy đồng chí Viên len lỏi trong đám đông, tìm từng đứa nhi đồng ghé tai nói nhỏ, chúng gật đầu. Đồng chí Viên nói với tôi:
- Tí nữa chém xong là tràn ra ngay nhé? Chúng ta phải tiêu diệt giặc Pháp ngay từ trong trứng nước. Tôi hăng hái gật đầu, tôi đưa cho đồng chí Viên nhìn thấy hòn đá trong tay mình. Đồng chí Viên có vẻ hài lòng, xoa đầu tôi rồi chạy ra chỗ khác ghé tai. ở ngoài bãi, ông chủ tịch kiêm chánh án đã đọc xong bản án, lui ra. Anh du kích phó Ngọt bước lại gần nạn nhân, tay cầm thanh mã tấu. Ông Đồng Trời bình tĩnh một cách kỳ lạ:
- Có chém thì chém cho ngọt nhé, phó Ngọt, tao không sợ đâu, tao từng đi theo ngài Đề Thám chém giặc nhiều rồi. Mày nhớ mấy đường đao tao đã dậy mày...
Du kích phó Ngọt hơi ngần ngại, ông Đồng Trời vươn cổ ra chờ:
- Can đảm lên, mày chém đi!
Hình như sự dũng cảm của ông Đồng Trời làm phó Ngọt kinh hãi, anh ta giơ lưỡi mã tấu lên bằng cả hai tay nắm cán mà vẫn run bẩn bật, ánh mặt trời lấp loáng. Pháp trường im phắc, nghẹt thở.
- Phập!
Lưỡi dao vạt xuống như lằn chớp, tôi giật nẩy mình.
- Ôi!
Nạn nhân hét lên, nhát dao trúng vai, chiếc đầu vẫn đính ở cổ. Phó Ngọt cuống cuồng chém thêm nhát nữa. Tôi nghe tiếng nạn nhân ong óng kêu:
- Chém tao chết đi.. ối trời...
Pháp trường xôn xao, ông chủ tịch xã hét toáng:
- Chém cho đứt đầu đi!
Không hiểu sao anh phó Ngọt đưa lưỡi mã tấu lên coi, giọng anh ta báo cáo líu cả lưỡi:
- Báo cáo nưỡi dao mẻ rồi, cổ ló cứng quá!
Nạn nhân giẫy giụa rên rỉ, chiếc cọc rung lên bần bật như muốn bung khỏi mắt đất, máu phun cả lên người phó Ngọt, chiếc đầu nhầy nhụa máu, phun phè phè. Ông chủ tịch lại hét:
- Chém nữa đi Ngọt!
Phó Ngọt cuống cuồng, chém lia lịa, băm vằm rồi cuối cùng dùng cả hai tay ấn chuôi dao xuống nhay cưa. Nạn nhân dẫy đành đạch, đổ xiêu người một bên. Chiếc cổ nát bét và chiếc đầu vẫn không chịu lìa. Du kích phó Ngọt quăng con dao xuống cỏ cúi ngó nạn nhân, máu phun ướt mặt anh ta như nhuộm đỏ. Anh vuốt mặt:
- Ló chết rồi?
Tôi thấy nhiều người yếu bóng vía nhắm nghiền mắt, rùng mình. Có người rú lên ngã lăn ra. Chị Thắm ngã trên cỏ bất tỉnh, nhưng rồi chị tỉnh ngay, chồm lên lăn vào xác cha.
- Đả đảo Việt gian!
- Đả đảo! Giết nó?
Những tiếng hò hét cuồng nộ vang rần, hàng trăm bước chân chạy ra pháp trường, đá xanh bay vun vút. Tôi nghe tiếng rú của chị Thắm. Tôi nhấc chân không nổi, hòn đá trên tay tôi bây giờ nặng đến ngàn cân, những ngón tay tôi không còn giữ nổi, nó tuột khỏi tay rơi xuống đất. Một cái gì đó trong đầu tôi dậy bảo làm thế là dã man tàn bạo. Tôi bỏ mặc đám đông, thết thểu đi như một kẻ mất hồn. Có lẽ mặt tôi thất sắc, ấn tượng quá mạnh cho tuổi ấu thơ.
Mặt trời đã lên cao, sương mù vẫn chưa tan hết trên ngọn Tam Đảo. Kia lâ đinh Sóc Sơn, núi Đôi, thành Cổ Loa.
Vòng tay bác Cả ôm quanh vai tôi, dìu tôi về nhà.
Sài gòn 1958
Đống gạch
Tập Truyện Ngắn
Chiếc xe nhà binh lùi sát vào rào dây thép gai. Thùng xe sau nâng cao, dốc ngược. Những phiến gạch cũ từ thùng xe đổ xuống rào rào, bụi hồng bốc lên mù mịt.
Người tài xế điều khiển cho thùng xe hạ xuống bình thường, đoạn lái xe ra đường, phóng thẳng về phía cổng đồn.
Buổi sáng cuối đông, sương mù còn phủ mờ trên bầu trời trắng đục.
Tiếng kèn chào cờ từ phía đồn vọng lại. Lá cờ tam tài từ từ kéo lên, phất phới trên nóc lô cất. Bụi gạch hồng lúc này đã dịu xuống và sương mù cũng tan dần.
Tôi vén tay áo lên xem đồng hồ, tám giờ kém mười, đi dậy học là vừa.
Tôi gọi hàng bún riêu trả tiền bữa ăn sáng rồi cắp cập ra ngoài. Tôi quấn thêm một vòng khăn len quanh cổ, kéo cái khẹc mơ tuy áo bờ lu dông cho giồ lạnh khỏi lùa vào người.
Tôi mới về đây ngồi dậy học được hơn tháng nay. Một thị trấn nhỏ thuộc quyền kiểm soát của quân đội viễn chinh Pháp, vùng Tề, nhưng cũng là vùng xôi đậu. Nổi tiếng có nhiều Việt Minh trà trộn. Không đêm nào tôi không nghe tiếng súng đại liên nổ giòn ở phía đồn lính. Thỉnh thoảng vài căn nhà trong làng bị đạn lạc bốc cháy. Buổi sáng hôm sau tôi nghe tiếng khóc của đàn bà, trẻ con có thân nhân bị chết. Cảnh đó diễn ra rất thường, nên chỉ trong vòng mười ngày tôi quen, coi như chuyện đương nhiên trong thời buổi chiến tranh.
Giá như những lúc khác tôi đã nhớ Hà Nội và khao khát về đó. Nhưng tôi đang muốn đi cho khuất mắt, bất cứ nơi nào, miễn là không phải nhìn lại Hà Nội. Tôi nhờ một người bạn xin giấy tờ cho tôi vào Nam. Sài Gòn có lẽ đối với tôi dễ chịu hơn. Tôi chưa thấy Sài Gòn bao giờ, nhưng tôi nghe nói đẹp lắm, người dân lại hiền hòa chân thật. Tôi chán ngấy Hà Nội, Hà Nội gắn liền với hình ảnh người yêu tôi nay đã thuộc về người khác, nên tôi nhất quyết xa lánh và quên đi. Trong khi chờ đợi tôi xuống đáy dậy học qua ngày.
Những ngọn gió lạnh buốt xương từ thượng Lào thổi sang làm mùa đông năm nay lạnh hơn bao giờ hết. Suốt ngày trời u ám, ngoài giờ dậy học tôi la cà trong những hàng bán rượu lẻ nhắm rượu quên sầu. Những cô gái bán quán ở đây xấu kinh khủng, phần đông lấy Tây đen gạch mặt làm chỗ dựa. Họ cũng phấn sáp lụa là, cũng hách dịch ra vẻ bà, nhưng tôi thấy có một vẻ gì kệch cớm, con đượi vẫn hoàn con đượi.
Có thể tôi quá khó tính, quá khích trong tùth trạng hiện tại của xứ sở. Chiến tranh dai dẳng, chán ngấy, tôi không theo phe nào, đứng ngoài nhìn vào như một kẻ bàng quan. Tôi dửng dưng và cố tránh sao cho khỏi bị lôi kéo vào cuộc chiến phi lý giữa hai khối Thực Dân và Cộng Sản.
ở vùng Pháp chiếm đóng, tôi trốn lính, thây kệ sự đe dọa thường xuyên của họ. Tôi chai lỳ trước mọi lời tuyên truyền yêu nước, tự do no ấm của phe Cộng mang danh nghĩa kháng chiến. Bao nhiêu là hồn tử sĩ gió ù ù thổi, mặt chinh phu trăng giõi giõi soi. Chết lúc này thật vô lý, tôi phải bảo vệ từ ngón chân đến ngón tay. Kẽm gai không thể làm xước da tôi, nói chi đến chuyện ôm bom ba càng. Nghĩa là tôi ích kỷ, tôi sống cho mình hoàn toàn, chẳng có tí ti lý tưởng nào. Thất tình đau khổ, tôi bỏ Hà Nội đi biệt tăm, chờ một chuyến đi xa. Xuống đây tôi bị chiến tranh vây quanh.
Có thể một ngày nào đó chính tôi là nạn nhân không chừng? Mạng người như con ngoé, nếu phải chết như vậy thì vô lý quá Tôi chẳng là cái quái gì hết, nhưng cẩn sống, sống qua cuộc chiến này.
Cái nhìn của tôi chạm vào đống gạch bên đường, đống gạch đó cao ngất. Nhưng chỉ qua một đêm, sáng hôm sau tôi thấy hết nhẵn.
Chiếc xe nhà binh GMC quen thuộc lại đến đổ đống gạch khác. Tôi vẫn thắc mắc về đống gạch đó, không lẽ lính viễn chinh và lính liên hiệp Pháp ăn gạch thay bánh mì, cơm. ý tưởng dí dỏm đó làm tôi mỉm cười một mình.
Tôi đến lớp học hơi muộn, nhìn xuống đám học trò có vài ngoe mà chán. Chúng lấm lét nhìn tôi, cái nhìn vừa ngu độn vừa sợ sệt.
Tôi lật sổ điểm gọi một đứa lên đọc bài. Nó lễ phép trình cuốn vở bẩn lem nhem, đứng khoanh tay, mắt lấm lét nhìn xuống những ngón chân bết bùn khô cứng. Tôi không buồn giở vở ra xem nữa, nói cộc lốc:
- Đọc bài!
Tên học trò tằng hắng, như lên dây đàn cò, ê a chán mới răn ra được một câu: "Nước Việt Nam a... a... Nước Việt Nam a... a..." Nó nhắc đi nhắc lại mãi điệp khúc đó như một cái hát mòn kim, tôi gắt:
- Nước Việt Nam làm sao?
Tên học trò bấn lên, rồi không biết tại sao nó bật Nước Việt Nam hình cong như chữ "ét sì", chia làm ba miền: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Phía bắc giáp Trung Hoa, phía đông giáp biển Nam Hải, phía nam giáp mũi Cà Mâu, phía tây a... a... giáp nước Tầy...
Tôi đập cái thình xuống bàn:
- Láo, thuộc bài không?
Tên học trò mặt tái mét, trời lạnh mà mồ hôi nó toát ra trán, nó cuống lên:
- Nước Việt Nam sống bằng nghề làm ruộng và có bốn ngàn năm văn hiến.
Lần này tôi nổi nóng thật sự, tôi vụt cho cu cậu ba cái thước kẻ:
- Cút, dê rô!
Lũ học trò ngồi dưới cười ồ, tên đọc bài sợ bị phạt năn nỉ:
- Thầy cho con đọc lại.
- Không hôm nào tao thấy mày thuộc bài hết, tại sao?
Tên học trò vẫn sợ sệt tìm cách chống chế.
- Dạ, đêm qua Việt Minh vào làng thu thóc nên con không học được, tảng sáng vừa giở sách ra thì Tây đồn càn, con sợ quá trốn xuống hầm.
Lý do chính đáng quá, tôi nhún vai gấp cuốn sổ điểm:
- Thế thì học hành quái gì nữa.
Tôi nhìn xuống đám học trò ngồi co ro:
- Tụi bay nên về cày ruộng còn có ích hơn, hoặc đi lính cho Tây hoặc theo Việt Minh ôm bom ba càng. Rồi tôi thấy mình không được bỏ nhiệm vụ của nhà mô phạm nên hỏi một lần nữa cho yên tâm:
- Đứa nào thuộc bài?
Không bàn tay nào giơ lên. Tôi lật cuốn Việt Sử cho học trò chép và cầm cuốn sách đi xuống hàng ghế học trò:
- Hôm nay thầy dậy các em bài Trịnh Nguyễn phân tranh. Đó là thời kỳ đen tối nhất của nước ta, nội chiến kéo dài cả trăm năm. Các vua chúa phong kiến tham quyền cố vị, vì quyền lợi riêng ru nên dân tình khổ sở. Ngoài Bắc có chúa Trịnh, trong Nam có chúa Nguyễn. Cả hai xưng hùng xưng bá mỗi người một phương. Gian thần lộng hành, tham quan ô lại nhũng nhiễu dân tình ngoài phủ huyện. Ngoài Bắc có loạn Tam Phủ, Kiêu Binh. Trong Nam, thừa tướng Trương Phúc Loan chuyên quyền làm nhiều điều tàn bạo khiến dân tình đố thán...
Tôi đang nói thao thao bỗng nghe một tiếng nói nhỏ ở bàn học trò:
- Mình sắp học đến hoàng đế Quang Trung rồi.
Tôi ngừng lời quay lại:
- Dân tình khổ sở thì phải có minh quân ra đời. Nhưng danh tướng có mấy ai sống đến bạc đầu. Số mạng nước mình phải chịu điều nghiệt ngã, một tiểu nhược quốc hẩm hiu thay... Chúng ta có bốn ngàn năm lập quốc viết sử toàn bằng máu, nhưng chúng ta đã hưởng được gì? Mọi bất hạnh đều trút lên đầu lên cổ dân tộc nhỏ bé này. Nhưng tôi nói thế, tôi không muốn các em nhiễm tư tưởng yếm thế, phó mặc. Chúng ta đi tìm, chờ đợi thời cơ. Theo lẽ tuần hoàn của trời đất thì hết suy phải đến thịnh. Dù là cái thịnh ngắn ngủi, nhưng chính nó là nguồn sống cho dân tộc này vươn lên và trở nên bất diệt..
Tôi đi đi lại lại quanh lớp học, ngẩng nhìn lên mái ngói xiêu vẹo, nhìn đám học trò lem luốc, tôi ngậm ngùi.
Giọng tôi thấp xuống, trở thành lời tâm sự, dù chúng không hiểu gì:
- Tôi chán cái cuộc chiến này, tôi thú thật với các em như thế. Không phải tôi không yêu nước, mà vì tôi chỉ muốn không đổ máu vô lý cho bất kỳ chủ nghĩa nào. Với thứ chiến tranh phi chính nghĩa đó tôi có quyền đứng ngoài mà không xấu hổ chút nào. Tôi có quyền nói với các em điều đó, vì tôi từng vác súng lên rừng kháng chiến sốt rét đến vàng da. Tôi không chịu được sự phỉnh phờ lừa bịp, bọn thực dân Pháp với chiêu bài tự do, quốc gia cũng không hơn gì... Tôi quay ra ngoài trời u ám. Lớp học im phăng phắc, đến đỗi tôi nghe thấy cả tiếng lá bàng rụng ngoài sân.
Phía trước cửa lớp học có một cây bàng trụi lá giơ những cành khô cong queo in lên nền trời trắng đục Một nóc tháp chuông nhà thờ vươn cao, chóp đỉnh có cây thánh giá mảnh mai, phía sau là lô cốt, ngọn cờ tam tài bay phấp phới. Tôi nghe xa xa tiếng đại bác nổ ầm vọng vế. Tiếng chuông nhà thờ thường rung lên bất thường trong đêm sau hồi súng bên thanh nổ phía cầu Tôi hoang mang về những hồi chuông đó không kém gì hoang mang về chuyện đống gạch vơi lại đầy mỗi ngày.
Tôi quay nhìn vào lớp học, giở sách, nói:
- Thôi các em chép bài đi?

Tôi giở tấm điện tín của Uyển ra xem lại:
- "Về Hải Phòng ngay stop giấy tờ đã xong stop đã lấy vé tầu thủy".
Việc trước tiên là tôi thu dọn hành lý, chẳng có gì ngoài va ly quần áo và ít sách vở. Xong, tôi tới thanh toán tiền nong với nhà trọ. Tôi phải tới trường học nói chuyện với ông hiệu trưởng tìm người khác thay thế tôi và nhân thể lấy nốt số tiến còn lại. Tuy chúng đáng bao nhiêu, nhưng cũng giúp tôi thanh toán nổi tiền xe, tiền ăn đường từ đây về Hải Phòng.
Ông hiệu trưởng tiếp tôi ở phòng khách. Hương trà tươi thơm, chát làm người tôi tỉnh táo. Buổi sáng cuối đông trời lạnh lạ lùng. Ông hiệu trưởng ngồi thu tay trong bọc. Trông dáng dấp nhỏ bé của ông, tôi bỗng thấy tội nghiệp. Ông nhìn tôi hấp háy sau cặp kính trắng, gọng được nối lại bằng sợi dây thép:
- Vậy thầy nhất định đi sáng nay đấy phỏng?
Tôi đặt ly trà xuống bàn:
- Dạ phải!
Ông kéo chiếc điếu bát đến gần, châm lửa hít một hơi thuốc lào, nhả khói mù mịt:
- Đường từ đây về đến Hải Phòng cũng nguy hiểm lắm đấy, tụi Vẹm giật mìn luôn xoành xoạch, hôm rồi có một đoàn công voa Táy bị phục kích chết ráo. Chỉ khổ cái thằng dân cứ đưa lưng ra mà chịu. Cha bố cái chiến tranh, khổ ơi là khổ, thời buổi làm ăn gì cũng khó. May bà nhà tôi còn buôn bán, chứ không cứ gọi là chết đói. Cái trường của tôi chỉ kiếm đủ tiền hút thuốc lào, học trò có đâu mà dạy. Cũng phải đến dẹp thôi, lớp học tôi làm chuồng bò, chuồng lợn, sân trường rào lại nuôi gà.
Tôi ngồi nói chuyện với ông hiệu trưởng khá lâu để chờ bà vợ ông đi chợ về mới có tiền. Khi tiễn tôi ra cửa, ông nắm chặt tay tôi nói lời chí tình:
- Thầy đi chắc chẳng bao giờ còn trở lại chốn quê mùa này. Vào Nam nếu thầy làm ăn khem khá thì viết thư cho tôi, tôi cũng vào. Xưa kia các cụ mình cứ bỏ xứ đi là điều nhục nhã, nhưng ngày nay khác phải không thầy?
Tôi nhìn ra lớp học, lũ trò nhỏ thập thò ở cửa lớp nhìn tôi. Nhìn chúng, tôi thấy lòng mình se lại, chẳng gì tôi cũng để lại đây ít nhiều kỷ niệm. Tôi giơ tay lên vẫy chúng:
- Thầy đi các em nhé!
Chúng nhao nhao chào tôi và chúc tôi lên đường bình an. Tâm hồn chúng mộc mạc ngu đần, dậy chúng nhiều khi tôi tức uất vì sự ngu dết của chúng, nhưng nghĩ lại tôi thấy thương chúng nhiều hơn là ghét bỏ. Tôi nói với ông hiệu trưởng:
- Chưa biết bao giờ tôi mới trở lại đây, có lẽ phải hết chiến tranh.
Ông hiệu trưởng dường như còn quyến luyến nên tiễn tôi ra tận cổng:
- Chúc thầy lên đường bình an, hai giờ chiều có chuyến xe lên Phòng đấy, thầy liệu thu xếp thì giờ kẻo trễ. Tiếc là hôm nay thầy đi gấp quá không kịp mời thầy bữa cơm xoàng.
Tôi buông tay ông hiệu trưởng:
- Cám ơn cụ, thôi cụ vào đi, cho tôi gửi lời chào cụ bà, hai cụ đối với tôi như vậy là quí hóa lắm rồi. Tôi men theo cánh đồng, qua cầu rồi tới thị trấn.
Con sông ở đây rộng, nước chảy xiết, uốn khúc vòng vèo tới một miền xa thẳm nào đó. Suất ngày trên cầu có lính gác, hai bên bờ sông rào kẽm gai, dân chúng vùng này không được phép lai vãng gần bờ, không một con thuyền nào qua lại ngoài mấy chiếc tầu tuần tiễu của quân đội viễn chinh. Cầu trước kia xây bằng xi măng, nhưng hồi mới kháng chiến Việt Minh phá xập. Bây giờ công binh Pháp làm lại bằng sắt và những tấm ván ghép. Điều đặc biệt nhất là cầu chỉ có một bên tay vịn. Nhiều hôm đi qua cầu, tôi nhìn xuống dòng nước cuồn cuộn mà thấy rợn cả người, chóng mặt lao đao.
Tôi tới thị trấn khoảng trưa, trời bớt lạnh, cảm thấy đói nên rẽ vào hàng cơm. Tôi ngồi ăn, vô anh lại nhìn ra đống gạch cao nghêu.
Tôi thắc mắc về đống gạch cả tháng rồi. Hay là quân viễn chinh xây thêm một đồn nào đó. Tôi tò mò hỏi vài người ở đây lâu năm, họ trả lời không biết. Có người khuyên tôi đừng tò mò, không nghe và không thấy là tốt hơn hết.
Hai giờ trưa, hành lý tôi sẵn sàng. Chiếc xe hàng ngừng lại.
Tôi lên xe, thị trấn lùi lại phía sau, đống gạch khuất bên một khúc rẽ. Gía từ. Tôi nói thầm. Bây giờ thì hết thắc mắc, tôi nghĩ đến Hải Phòng, con tầu biển đưa tôi ra vịnh Hạ Long, men theo hải phận rẽ sóng tiến về phương Nam.
Tôi tưởng tượng đến Sài Gòn hoa lệ, hòn ngọc Viễn Đông, những cánh đồng lúa vàng cò bay thằng cánh, những chàng công tử Bạc Liêu hào hoa phong nhã nức tiếng phong lưu mà tôi nghe đồn đại, những nàng con gái Cần Thơ, da trắng như ngà, mắt bồ câu, hơi thở thơm mùi nước dừa. Tôi tưởng tượng về miền Nam đủ thứ trong giấc ngủ lơ mơ.
Cửa kính xe đóng kín, nhưng tôi vẫn run lên vì lạnh. Hành khách ngồi trong xe phần nhiều là đàn bà nhà quê, họ có vẻ yên phận chịu đựng. Có những xe nhà binh chở đầy lính chạy ngược lại, người tài xế phải lái xe dạt vào bên đường. Anh ta luôn miệng càu nhàu vì đường xấu, ổ gà, sống trâu.
Trời về chiều, xe hàng xọc xạch cố mở hết ga để kịp đến nơi an toàn. Xe đang chạy bỗng một chiếc xe nhà binh chạy ngược chiều ra hiệu cho ngưng lại. Hành khách trong xe nhao nhao bàn tán:
- Chắc khám giấy?
Không, hình như có chuyện gì xảy ra phía trước.
Xe nhà binh ngưng lại, người lính Việt nhảy xuống, nói chõ vào trong xe hàng:
- Không đi được đâu, xe trước mới bị mìn chết vô khối.
Nói xong anh ta nhảy bíu lên xe, xe nhà binh đi ngược trở lại. Anh tài xế thở phào:
Thôi ngủ lại ở đây đêm nay vậy, chỉ còn hai chục cây số nữa là đến Phòng. Thật tội vạ... Mấy người đàn bà hình như quen thuộc với cảnh này nên chỉ than thở qua loa, lấy lệ rồi tìm chỗ nằm ngả lưng.
Trời xụp tối, tôi mang cơm nắm ra ăn đỡ dạ. Ngồi mãi trên xe cũng chán, tôi leo xuống tìm chỗ đi tiêu Người lơ xe dặn:
- Nhớ đừng đi xa, quanh quẩn ở đây thôi.
Tôi gật đầu, đi xuống bờ ruộng cách xe hàng không quá trăm thước. Sau khi đi tiêu xong, tôi toan trở lại xe, bỗng có bóng người trong bóng tối nhô ra:
- Ai, đứng lại!
Một cảm giác kinh hoàng chạy dọc sống lưng.
Tôi run run giơ tay lên, qui lát đạn xoành xoạch. Không phải Việt Minh, một tiểu đội hỗn hợp vừa lính Tây, lính ta. Người lính cầm súng ngắn đến bên tôi lục soát khắp người:
- Mày ở đâu ra?
Tôi ở xe hàng kia, tôi đi tiêu!
Thình lình một báng súng nện hự vào ngực tôi:
- Nói láo, mày là Việt Minh phải không?
- Dạ không, tôi lên Hải Phòng, tôi cồ đủ giấy tờ.
Thằng lính ta quay lại nói nhố nhăng gì đó với thằng chỉ huy Tây, rõ ràng tôi nghe gã chỉ huy nói tha tôi tôi khấp khởi mừng.
Nhưng gã lính Việt quay lại nhìn thẳng vào mặt tôi. Trong bóng tối nhá nhem tôi nhìn thấy đôi mắt gã long lanh:
- Quan bảo đưa mày về đồn điều tra!
Tôi há miệng cãi:
- Quan nói tha tôi rồi!
Gã dộng thêm một báng súng nữa vào ngực tôi:
- á à mày biết tiếng Tây phải không? Mày lại dám giỏi hơn cả ông nữa kia à! Mày khinh ông thì mày chết con ạ! Tôi bị đạp ngã khụy. Gã lính Việt ra lệnh cho hai tên lính khác tới xốc nách tôi. Chúng trói nghiến tôi lại nhét giẻ vào họng, bịt mắt:
- Mang nó ra xe! Cái đồ lên giọng học thức đó thì cho chết!
Tôi hoàn toàn không trông thấy gì, bước đi chệnh choạng trên đất ruộng khô nứt, đi một quãng khá xa. Hai thằng lính luôn mồm càu nhàu:
- Có đi hẳn hoi không, ông lại dộng thêm cho mấy báng súng nữa bây giờ.
Lần này thì chết thật rồi, họ không để cho tôi giải thích một cáu. Những hình ảnh loáng thoáng chạy qua đầu tôi rất nhanh. Mộng đi Nam tiêu tan, nhưng tôi vẫn còn hy vọng, may ra về đồn, tôi được phép giải thích. Tôi có cảm giác mình bị nhấc bổng, ném vào một thùng xe lúc nhúc những con người, hình như họ cũng bị bịt mắt. bịt miệng và trói giật cánh khuỷu như tôi Tôi ngửi thấy mùi hôi hám của những chiếc áo nâu lâu ngày không giặt, mùi bùn đất, tai nghe tiếng thở phì phò, mệt nhọc.
Xe chuyển bánh, giật ngã chúng tôi, những người đồng cảnh ngộ không quen, không kêu ca. Xe chạy băng băng, bất kể ổ gà đường xóc, chúng tôi bị nhồi, bị tung lên, dập xuống, thân thể tôi đau nhừ. Tôi không biết xe đưa chúng tôi đi đâu, tai nghe tiếng gió ù ù và mặt se lại vì lạnh. Số phận tôi sẽ ra sao, điều đó không thể biết được. Thời buổi này mạng người như cỏ rác, phe nào cũng có thể giết người. Tôi buồn vì mình thành nạn nhân một cách phi lý. Những ý nghĩ lan man trong đầu tôi, những hình ảnh gần nhất lần lượt hiện ra. Xe đi chậm lại, hình như rẽ vào một nơi nào đó đông người.
Chúng tôi được móc giẻ trong miệng ra, xuống xe, tháo băng mắt. Bên trong một đồn lính, chúng tôi bị dồn vào một góc.
Tôi nhìn quanh, đồng bào tôi tất cả. Họ run sợ nhìn những người lính cầm súng rồi nhìn nhau:
- Đây là đâu?
Tất cả đều lắc đầu, lúc này tôi thấy mình cần phải thưa thốt. Tôi gọi người lính:
- Ông ơi, cho tôi thưa chuyện.
Người lính đi lại:
- Mày muốn gì?
- Tôi muốn gặp ông xếp để thưa chuyện tôi bị bắt oan.
Tên lính thuận tay giáng liền một báng súng vào miệng tôi:
- Hỗn, quan nào thèm nói chuyện với mày, câm miệng ngay, ông thì đánh hộc máu mày ra.
Tôi ngồi im thúc thủ, lúc này tôi mới nhận ra mình không có quyền làm người. Tôi nhìn lên lô cất, ánh đèn pha quét thủng màn đêm âm u. Chiếc đồng hồ vẫn đeo ở tay tôi, kim dạ quang chỉ đúng ba giờ sáng. Đám đông quanh tôi thì thào hỏi nhau:
- Nó làm gì mình nhỉ?
- Ai biết, hồi chiều chúng bị phục kích chết mấy đứa, chúng bắt mình làm con tin. Cùng lắm là giết bọn mình chứ gì. Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, tội cái thằng dân, sống với Việt Minh cũng khổ, về Tề cũng khốn nạn. Chết là rảnh, tôi chả sợ gì, chỉ lo cho vợ con.
Anh chàng cao gầy, có vẻ cán bộ Việt Minh thừa địp tuyên truyền:
- Nhân dân ta thà chết vinh hơn sống nhục, đảng và nhà nước ghi công anh hùng liệt sĩ. Không có sự dã man tàn bạo của thực dân Phấp thì...
Tôi nổi giận, ném một câu cộc cằn vào mặt gã:
- Câm mẹ nó cái mõm thối của mày lại, chúng mày chỉ được cái họng...
Đám đông gần kề cái chết nhao nhao hưởng ứng lời nói của tôi. Tên cán bộ im bặt ngồi một xó. Tôi bực mình vì mình bị chết quá sớm, bị chết mà chưa được hưởng hết tuổi trẻ.
Cái rét cuối đông làm chúng tôi ngồi co rúm lại với nhau, đến năm sáu chục người chớ không ít. Tiếng xe tăng mở máy rầm rầm. làm chúng tôi choàng tỉnh, mở mắt thật to nhìn. Xe tăng ra ngoài cổng đồn, tiếng máy xa dần.
Một lát sau những người lính gác thúc chúng tôi đứng lên:
- A lê? Dậy! Đến giờ rồi!
Một chiếc xe nhà binh khác mở máy. Chúng tôi bị dồn lên thùng xe.
- Chúng mang mình đi đâu nữa đây?
Một người nào đó nói nhỏ vào tai tôi:
- Chúng bắt mình đi đắp đường, may ra chuyến này mình được thả về.
Nghe xong câu nói, lòng tôi nhóm lên một tia hy vọng. Anh chàng đó nói cũng có lý. Xe chạy ra ngoài cổng đồn, trong bóng tối mờ mờ tôi nhận ra lần lần nơi ở quen thuộc mà tôi mới bỏ đi lúc hai giờ chiều. Vậy ra mình lại bị tụi chúng đưa về nơi cũ, nóc chuông nhà thờ thị trấn, các hàng ăn và đường phố lầy lội. ánh đèn pha trên lô cốt quét từng vệt dài vào bóng tối. Sao lại đống gạch?
Người lính ra lệnh cho chúng tôi xuống xe, gã hét:
- Mỗi đứa lượm sáu cục gạch!
Sao lại chỉ có sáu cục gạch? Tôi tự hỏi. Chắc chắn những người khác cũng cùng một ý tưởng như tôi. Tất cả đều thi hành theo mệnh lệnh. Xong xuôi chúng tôi bị giong đi. Đống gạch hết nhẵn, có người thiếu phải xin thêm bạn đồng cảnh một hai cục. Có lẽ đắp đường thật.
Tôi khư khư ôm sáu cục gạch. Nhưng tôi vẫn thắc mắc, sao chỉ có sáu cục gạch? Chúng tôi bị giong đến chân cầu thì dừng lại, bị lùa vào một đám:
- Tất cả đủ gạch chứ?
- Dạ đủ!
Một người lính khác phát cho mỗi người năm cái túi bao cát, bắt chia gạch bỏ vào trong đó, bốn túi bốn cục và một túi hai cục. Mọi người nhìn nhau ngơ ngác, không ai hiểu gì, nhưng vẫn phải thi hành lệnh. Người lính giục:
- Mau lên
Chúng tôi răm rắp làm theo lệnh, đeo túi gạch hai cục vào cổ, tứ chi bốn cục. Tôi nghe dưới chân cầu nước xoáy ầm ầm.
Tôi chợt hiểu, hoảng hốt la lên:
-Tôi oan các quan ơi!
Cả bọn hình như cũng vỡ lẽ ra, họ kêu rầm rĩ:
- Lạy các quan tha cho con, con còn mẹ già vợ đại con nhỏ. Trăm lạy ngàn lạy các quan.

Những chiếc báng súng đập như tưới lên mình mẩy chúng tôi. Tôi nhìn thấy chiếc xe tăng đậu sừng sững giữa cầu, khẩu đại liên trên tháp xe đen ngòm chĩa xuống. Túi bao cát đựng gạch treo lủng lẳng trên cổ tứ chi tôi. Chúng tôi bị dẫn từng tốp mười người ra đứng ở cầu, lưng quay ra sông, phía không có tay vịn. Lúc này chúng tôi không còn kêu ca nữa. Vô ích, chúng nó sắp sửa làm thịt chúng tôi. Tôi lấy làm lạ khi gần kề cái chết mình lại trở nên bình tĩnh lạ lùng. Có lẽ những nạn nhân kia cũng đồng tư tưởng như tôi. Hình ảnh dĩ vãng hiện ra trong đầu rất rõ và rất nhanh.
Người lính bắn súng liên thanh từ pháo tháp xe tang nhẩy nhanh xuống, bước cồm cộp qua mặt chúng tôi, tiếng giầy đinh sắc đanh buốt óc. Hắn tới lục soát, móc trong túi các nạn nhân bất cứ thứ gì có thể lấy được thồn đầy vào hai túi quần "trây di".
Mồ hôi tôi toát ra lấm tấm trên trán, tôi không run lên vì lạnh mà vì sợ, tôi sắp lìa cõi thế, tôi không theo đạo nào để có bài kinh đọc lúc lâm chung. Dưới chân cầu nước xoáy ầm ầm. Ai có thể ngờ được tôi chết một cách nhục nhã như thế này. Ông hiệu trưởng chắc đã ngủ say và yên chí tôi đến Hải Phòng từ hồi chiều. Còn Khanh, nàng đang nghĩ gì, đang mơ thấy gì chắc chắn không còn nhớ đến tôi. Trời lạnh này, đệm chăn ấm áp. Hà Nội! Hải Phòng! Sài Gòn! Tôi nghĩ đến tên các thành phố mà lòng bỗng sót sa. Bên tai tôi văng vẳng tiếng học trò đọc bài: "Nước Việt Nam hình cong như chữ S. chia ra làm ba miền: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt..."
Nước mắt tôi chảy ràn rua trên má, tôi cúi đầu nhìn xuống chân mình.
Gã bắn súng liên thanh đi tới, tiếng giầy gõ cồm cộp trên ván cầu khô khan, nặng nề. Tiếng động đó xoáy cuồn cuộn trong đầu tôi như tiếng sóng. Chỉ còn một cơ hội chót, tôi nói liệu dẫu có phải ăn thêm hai ba cái báng súng trước khi chết:
- Tôi còn chiếc đồng hồ vàng, ông tháo giùm, tôi là thầy giáo ở thị trấn này, chiều nay đi lên Hải Phòng, chẳng may bị các ông bắt lầm...
Gã bắn súng liên thanh đứng dừng lại, bàn tay hộ pháp của hắn nâng mặt tôi lên, nhìn:
- Thật không? à, à! Tôi nhận ra rồi, anh dạy trường làng.
Tôi cũng nhận ra hắn, hắn vẫn thường đến quán uống rượu với lũ Tây gạch mặt. Có một lần hắn cụng ly với tôi và nhờ tôi dậy đứa nhỏ con của mụ nhân tình hắn. Hắn cười, kéo thốc tôi ra:
- Anh mà không nói, tôi đâu có biết, đứng đó để tôi xét lại trường hợp anh. Nhanh nhầu cái mồm như thế là may đấy. Thấy tôi được tha, đám nạn nhân lại nhao nhao:
- Lậy quan tha cho con, con oan.
Gã cai đội bắn súng liên thanh không đếm xỉa đến những lời xin xỏ đó. Gã leo lên ổ súng máy ngồi dạng háng. Hắn còn ngoái cổ xuống nói với tôi:
Anh nhờ lính cởi gạch ra cho, muốn chết chìm à?
Tiếng đạn nổ giòn đinh tai nhức óc. Tôi nghe thấy những tiếng thét ghê rợn, tiếng xác người rơi xuống sông lõm bõm, tiếng sóng vỗ vào mạn gầm cầu và mùi khói súng khét lẹt.
Tôi nhắm nghiền mắt cho đến khi tiếng súng ngưng. Tiếng gã bắn súng liên thanh hét to:
- Xong rồi, về!
Gã nhảy xuống xe, xoa tay khoan khoái:
- Chết mát mẻ nhé! A men!

Tên lính đi theo chiếu đèn pin xuống chân cầu, chạy lại báo cáo:
- Thưa xếp chìm hết!
- ừ phải chìm chứ, nổi thế chó nào được? Thôi rút!
Lúc đó tiếng chuông nhà thờ bỗng nhiên đổ hồi.
Gã bắn súng liên thanh gầm lên:
- Điếc tai quá, mai tao phải mang súng ra bắn xập cái gác chuông mới được. Bảo bao nhiêu lần rồi mà cái ông cố đạo đó không nghe. Tim tôi còn đập thình thịch, gã bắn súng liên thanh kéo thốc tôi lên xe:
- Sợ không?
Tôi gật đầu, khi đi qua đống gạch tôi nói:
- Bây giờ tôi hiểu tại sao đống gạch lại vơi đầy.
Gã nhìn tôi đe dọa:
- Muốn sống thì câm họng!

Tôi đã câm họng suốt mười lăm năm nay. Bây giờ tôi mới nói ra điều đó. Nói cho tất cả mọi người biết đống gạch tại sao vơi lại đầy. Bao nhiêu sông ngòi Việt Nam còn giấu bao nhiêu bí ẩn.
Tất cả những dòng sông chẩy ra biển cả.
1962
Ngày xưa
Tập Truyện Ngắn
1.
Mưa bụi từ trời cao rắc xuống.
Tôi khoác chiếc áo mưa trắng, đầu để trần, bụi nước mưa làm mát mặt.
Ngõ hẻm sâu hun hút, tối đen, không lẽ điện lại tắt suốt đêm nay. Không lẽ một cột điện Danhim nào lại bị phá hoại? Tổ cha quân phá hoại, tôi chửi thầm. Tôi đang về nhà, mò mẫm trong đêm hôm khuya khoắt. Thuốc lá không còn một điếu, tôi vò nát bao không ném ở đầu hẻm. Tôi thèm một hơi khói. Nếu có thể thì một điếu thuốc lào cũng đủ say đê mê. Chỉ còn một quãng ngắn nữa tôi về đến nhà, sẽ được hưởng thú vị đó
Đường đất gập ghềnh trơn trượt, tối thui, thỉnh thoảng tôi lại bước lầm xuống một vũng nước. Tôi chửi thề. Gã phu xích lô đạp nhất định không chịu đưa tôi vào ngõ hẻm:
- Thầy hiểu cho, tôi không thể vô trỏng.
- Tại sao?
Đường tối khó đi, vả lại nguy hiểm cho tôi.
- Ai làm gì anh mà nguy hiểm?
- Bộ thầy không thấy báo đăng du đãng lợi dụng đường tối cướp của giết người đó sao?
Tôi nhìn chiếc nón rúm ró trên đầu hắn, chiếc áo xanh rách xả vai, chiếc quần đùi để hở cả "của quí" ra yên xe.
- Anh còn có c.. c. gì nữa mà lột?
Hắn cười nhe hàm răng chiếc còn chiếc mất:
- Dạ còn chứ, thẻ căn cước bọc lát tích và năm chục bạc lẻ. Du đãng hồi này trốn lính nên ưa làm ẩu, mười đồng nó cũng lột đó thầy. Thẻ căn cước thì nó lột hình liệng đi dán hình nó vô, ba chớp ba nháng xài tạm được rồi.
Tôi phải lần mò đi vào một mình.
Có thể lắm chứ, anh xích lô nói có lý, một vài tên du đãng đói nào đó đang rình mò quanh đâu đây. Nó sẽ bước ra chặn lối, trong tay có một lưỡi lê nhọn hoắt, dí vào bụng tôi:

- Người anh em, qua là du đãng đây, lột cho qua mượn tạm chiếc đồng hồ, hà, có tiền hôn? Tết, tốt, cám ơn, thôi yên trí về nhà nghe.
Nghĩ đến điều đó, tôi vừa tức vừa sợ. Tôi thọc tay vào túi quần tìm bật lửa Zippo cầm tay. Tôi hoạch định ngay một đòn giang hồ chống cự trả miếng. Tưởng tượng ra tôi là một tay cự phách, đánh chúng bò lê bò càng. Nhưng đó chỉ là tưởng tượng
Đường vẫn vắng tanh vắng ngắt. Tôi không mong gặp du đãng để thử lửa, có thể gặp trục trặc trong khi thi hành kế hoạch chớ. Nếu bọn du đãng có súng đứng xa tôi khạc bậy một viên vào bụng. Chính tôi là kẻ nằm xuống.
Tôi bước hụt xuống một vũng nước suýt ngã. Màn mưa và bóng tối làm nổi bật những cây thập tự giá ở nghĩa địa ngay sát đường, những cây thập tự giá quét vôi trắng. Cỏ ở đó mọc cao che gần kín những ngôi mả xây, chỉ còn những cây thập tự vươn cao, như những oan hồn mặc áo liệm trắng đứng dang tay. Tiếng gió buồn trong cỏ sắc cùng với tiếng mưa rơi tạo thành thứ âm thanh rì rào, tiếng côn trùng hòa nhịp buồn bã.
Tôi bước thấp bước cao, nước bắn tung toé làm ướt cả vớ trong giầy. Tôi chửi thầm luôn miệng. Tôi tránh nhìn ra nghĩa địa, nhưng tầm mắt tôi không thể quá thu hẹp. Tôi bỗng thấy rờn rợn sau gáy.
- Gì đó?
Tôi quay phắt lại.
Chẳng có gì hết, cổ áo mưa lạnh chạm vào gáy tôi đó thôi. Thần hồn nát thần tính.
Tuy chẳng có gì nhưng tôi vẫn thấy rờn rợn. Phải, tôi đã nghe chuyện đó rồi.
Trong đêm mưa gió sụt sùi, bỗng nhiên có một người con gái mặc áo đen từ đâu đi lại. Nàng đẹp não nề, nàng khóc lóc và nói, rồi nàng nhấc chiếc đầu ra khỏi cổ xách lủng lẳng đi vào nghĩa địa, cái đầu vẫn than khóc. Ghê thấy mẹ, tôi rợn cả người. Tôi muốn chạy, nhưng tôi lại không chạy, hồn ma có thể đuổi theo như quỉ nhập tràng. Tôi tự nhủ không nghĩ đến chuyện đó nữa.
Tôi thở phào vì đã ra khỏi con đường trong vòng đai nghĩa địa. Tôi ngoặt vào một con đường nhỏ hơn, tối hơn, gồ ghề hơn.
Hai bên đường tre mọc kín, gió làm những thân tre cọ vào nhau nghe cót két, cọt kẹt. Gió thốc tháo trong lòng hẻm sâu.
Tôi nghe tiếng giầy mình đạp bình bịch trên nền đất Bên cạnh con đường nhỏ có một cái hào dài, chạy suốt nước từ trên cao đổ dồn xuống chảy ồ ồ. Tôi quen thuộc với con hào này nên không sợ sa xuống hào.
Tôi cẩn thận đi men theo bờ tre. Tôi nghe rõ hơn tiếng cót két. Nếu lúc này bỗng dưng có một thân tre ngã rạp xuống. Tôi không biết mình sẽ đứng lại hay bước qua. Nếu tôi bước qua, cây tre sẽ bật lên hất văng tôi lên cao như một cây pháo thăng thiên. Có chuyện đó được không? Tôi tự hỏi.
Một người lớn tuổi một lần ngồi ở quán chú Lì đã nói chuyện.
Cách đây gần hai chục năm, những đêm mưa dầm, người ta thường thấy lủng lẳng trên ngọn tre những chiếc đầu lâu còn nhỏ máu... Chúng há hốc miệng cười như nắc nẻ.
Tôi nghiến chặt răng, đừng nghĩ quẩn. Tôi mạnh dạn hơn, mắt nhìn thẳng. Chỉ có tiếng gió đấy thôi. Không, không phải tiếng gió. Tiếng người. Một câu hát, kéo dài như rên xiết:
- như chim li..ề..ề..n... cánh...như... cây... l..i..ê..ề n... c..à..à..nh..
Tôi đứng dừng lại, nấp bên cạnh một mô đất, nín thở, hồi hộp. Tiếng bước chân chệnh choạng của người nào đó bước gần lại phía tôi.
Miệng hắn vẫn líu lo hát, líu lo nồi lối như giọng phường tuồng:
- Có nghe chăng trăm vạn hồng binh rồi cũng trôi theo thời gian... Mộng bá vương... ha ha... Mộng bá vương còn trơ nơi cổ mộ... nực cười thay chuyện thế thái nhơn tình...
Người đàn ông đi tới, hắn chệnh choạng bước. Tôi thở phào, ra khỏi chỗ nấp. Màu áo mưa tôi khoác trắng lôm lốp.
Hắn đột nhiên đứng xửng lại. Hắn lùi, hai tay giơ lên trời, chới với:
- ối đừng, con lạy ngài.. ối! ối?
Hắn ngã tòm xuống hào nước. Bàn tay hắn cố gắng bíu lấy chỗ vịn trên bờ đất trơn, nước xoáy giằng co với thân thể hắn.
Tôi nhẩy đến, túm cồ áo hắn lôi lên, hắn không ngớt kêu oan:
- Lậy ngài... con có nói gì đâu.
- Không tôi đây mà, tôi là người.
Hắn co rút như con tôm, mặt giấu vào hai cánh tay:
- Con có nói bậy đâu, lạy ngài?
Tôi bật sáng hộp quẹt, ánh lửa bập bùng, hắn từ từ buông tay, một khuôn mặt già, nhăn nheo, đôi mắt lờ đờ có những tia máu đỏ. Hắn mở to mắt nhìn ngọn lửa, uể oải đứng dậy. Hắn nhìn tôi không nói.
Tôi đậy nắp hộp quẹt, lửa tắt.
Từ hơi thở lão già bốc ra mùi rượu nồng nặc.
Lão lại ề à:
- Như chim l..i..ê...ền...cánh... nhức..ô..y.. l..i..ề..ri cành...
Lão tập tễnh đi, cách tôi chừng ba bước, dừng lại có vẻ nghe ngóng. Đột nhiên quay lại phía tôi, lão đưa tay che miệng thì thào:
- Này, mày có nghe thấy gì không?
Tôi lắng nghe, lắc đầu:
- Có gì đâu?
- Có, tiếng loa!
Tôi lắng tai nghe lại, lắc đầu nữa:
- Chẳng có gì hết, tôi không thấy gì.
Đồ điếc rõ ràng có tiếng loa. Tiếng loa nói như vầy tên Việt gian Nguyễn Văn Khôn là kẻ đại gian đại ác. Để xây dựng cách mạng, nhân dân tuyên án chặt đầu kẻ phản bội dân tộc... Nghe thấy không, ở ngay dưới ruộng kia..
Tôi lắc đầu, nắm bả vai lão, đẩy đi:
- Thôi bác về đi, khuya rồi.
Lão đứng trầm ngâm, nói với vát:
- Đêm nào cũng vậy, tao nghe thấy hoài, từ hai mươi năm nay chúng nói hoài câu đó.
Nói xong lão bỏ đi. Lão bị ám ảnh vì một chuyện gì đó. Lão lại nghêu ngao hát. Tôi đứng ngẩn ngơ một lát. Tôi thở phào cũng quay lưng đi, thầm nghĩ bằng tiếng thở ra: Ôi dào, bợm nhậu hơi sức đâu...
Mưa nặng hạt dần. Ngõ hẻm tối đen, gió thổi ào ạt làm cây cối la đà. Đâu đó có tiếng chó tru...

Tiếng cầu kinh, tiếng mưa rơi rỉ rả. Ngần ấy âm thanh hòa hợp nhau nhịp nhàng buồn nản. Hình như có nhiều ông sư cùng xướng lên một lượt. âm thanh đó từ phía sau nhà tôi vọng lên.

Tôi nằm yên, đêm tối đen. Tôi đoán ngôi chùa phía sau nhà chắc có mở một đàn chay nào đó. Tôi liền hình dung ra những vị sư mặc áo vàng, nối đuôi nhau vừa đi vừa niệm Phật. Người đi đầu cầm cái thanh la nhịp nhàng gõ, người thứ hai điểm nhịp bằng tiếng mõ. Họ cứ nối nhau đi quanh như thế suốt đêm, dưới ánh hồng lạp âm u từ chánh điện rọi xuống. Bóng họ khi chập vào nhau, khi dang xa, phóng lớn rồi loãng như sương. Họ cứ đi vòng tròn, đi mãi đi mãi, nhẫn nại, thống khổ, miệng xướng lên thứ ầm thanh trầm, buồn nản. Đôi mắt luôn luôn nhìn xuống những ngón chân trần. Cho tới khi trời tang tảng, những ngọn hồng lạp trên chánh điện tàn lụi dần. Tiếng cầu kinh suốt đêm đó lâu lâu tôi lại nghe thấy một lần. Những lần trước tôi dễ ngủ, âm thanh như lời ru bất tận, kéo mí mắt tôi nặng trĩu xụp xuống. Khi tôi bừng mở mắt ra, trời sáng, tiếng cầu kinh tắt. Nhưng đêm nay, tiếng cầu kinh không ru tôi vào giấc ngủ, trái lại còn làm tôi nhức nhối.
Tôi giở mình, xoay tròn trên chiếc giường rộng thênh thang. Ly cà phê đen đặc ở quán đầu Phú Nhuận hồi tối làm tôi tỉnh táo kỳ lạ. Tôi mở mắt thao láo nhìn lên đình mùng, tôi quấn kín mền chỉ để hở đầu
Đêm mưa không khí se se lạnh. Tôi thấy lòng mình rộn rã, nghĩ bậy, ước ao bậy. Trong đầu ộc tôi lúc này lổn nhổn những hình ảnh khêu gợi, phía dưới thân thể tôi nóng rẩn rần, những thớ thịt tự động rung lên. Tôi ép khít hai đùi vào nhau lăn tới góc giường, ôm lấy cái gối kẹp vào đùi.
Tôi tự nhủ, tự trấn tĩnh mình không nghĩ đến nữa. Thật khó khăn, những hình ảnh khác chỉ mỏng manh như khói. Trời lạnh thế này nếu có một con nhỏ nằm bên cạnh? Phải, đúng con nhỏ đó, đôi chân thuôn dâi, mũi cao và đôi mắt màu hạt dẻ. Con nhỏ ở cuối xóm, nó như đầm lai. Thỉnh thoảng tôi gặp nó đi rong trong xóm. Ngực và mông nó ngồn ngộn dễ sợ.
Tôi nhắm nghiền mắt, tự xỉ vả mình. Đồ đốn, nghĩ tầm bậy hoài.
Tiếng tụng kinh im bặt, tôi mở bừng mắt nghe ngóng. Chỉ còn tiếng gió reo, tiếng mưa rơi rỉ rả. ý tưởng bậy bạ bỗng nhiên bị phân tán nhanh chóng. Phải chăng những nhà sư đã dừng lại, họ không còn đi vòng tròn? Những ngọn hồng lạp đã tàn lụi rồi chăng? Buổi chiều tôi đã leo lên nóc nhà ngắm nhìn tứ phía, xem xét địa thế.
Tôi mua căn nhà gần được một năm, nhưng chưa lần nào tôi đi sâu vào trong xóm. Tôi đứng trên cao nhìn xuống, buổi chiều thật đẹp, nắng quái chiếu qua lá cây những luồng sáng vàng chói lói. Thấp thoáng sau rặng tre những mái lá tỏa khói lam êm đềm. Ngay đằng sau nhà tôi là một ngôi chùa cổ. Tôi nhìn thấy chiếc sân gạch rộng vắng bóng người. Gần đó có một ngôi nhà lợp ngói âm dương, tường đất. Ngôi nhà ẩn sau hàng chuối rậm rạp. Tôi nghĩ đến việc mở một chiếc cửa hậu, tôi sẽ được khu đất hoang. Thuê người dọn cỏ, quây hàng rào, tôi sẽ có một khu vườn. Hàng xóm vẫn nói đất đai ở đây vô tội vạ ai chiếm lấy miếng nào được miếng đó Tôi dự định làm theo họ.
Những đêm trăng sáng, tôi bắc ghế ra ngồi ở vườn sau hút thuốc lá, uống cà phê, ngắm phong cảnh. Mình phải thực hiện điều đó bằng được, chắc cũng chẳng tốn kém bao nhiêu.
Bên cạnh nhà tôi có một ngôi mả cổ xây bằng đá ong đố sộ, ngôi mả kiên cố như một cái thành nhỏ bỏ hoang, rong rêu mọc đầy. Những ngày mưa, những con ốc sên to không biết từ đâu bò ra, bám đầy trên rêu xanh.
Lọt vào trong sân nhà tôi, một chiếc mả khác, cũng bằng đá ong nhưng nhỏ hơn. Những phiến đá ong lỗ chỗ bị thời gian làm lún sâu xuống đất, chỉ còn chừa lại bốn cái cọc hình búp sen nhô cao.
Tôi từng thắc mắc về lai lịch hai ngôi mả đó.
Một tên bạn giang hồ, một lần đến nhà tôi, nhìn thấy ngôi mả bỗng reo lên:
- Nhà này có một kho vàng, kho báu vật.
Tôi ngạc nhiên, hắn chỉ vào ngôi mả:
- ở dưới này, chỉ cần bỏ một ngày công đào sâu xuống năm thước đất. Một gia tài khổng lồ chôn theo người chết chứ không ít.
Đêm đó, hắn ngôi uống rượu với tôi ngay trên ngôi mộ cổ, hoạch định một chương trình đại qui mô. Rồi những đêm sau nữa. Viễn tượng đào vàng mỗi lúc một lớn dần trong đầu tôi. Chúng tôi tưởng tượng ra một cuộc sống nhàn hạ phong lưu trong những ngày sắp tới. Đêm đêm ngồi uống rượu dưới trăng phó mặc chuyện đời.
Nhưng chuyện đó không bao giờ thực hiện được, người anh em tôi bị chết mất xác trong một trận đánh lớn ở miền đông. Kho vàng vẫn còn đó, và tôi vẫn tin như vậy.
Câu chuyện đào vàng đành gác lại. Khi đi làm, mỗi lúc bực mình với chủ, tôi vẫn thầm đe: "Đồ khốn, mấy ngàn bạc của mày chưa to đâu, con ơi! Chưa biết ngày nào ông đấm b... vào, ông về nhà đào vàng xài mệt nghỉ".
Tôi miên man với ý nghĩ ấy cho tới khi tiếng cầu kinh buồn bã lại nổi lên. Mưa vẫn không ngớt, bóng tối mông lung, tôi thấy chóng mặt vì hình ảnh các ông sư đi vòng tròn trong đầu.
Tôi thấy ý nghĩ mình kỳ quái. Tại sao tôi cứ phải nghĩ là những ông sư đi vòng tròn mới cầu kinh được. Tại sao tôi không nghĩ họ ngồi kiết già. Nhưng ý nghĩ tiên khởi cứ bám chắc lấy đầu óc tôi như những con ốc ma bám trên rêu xanh ngôi cổ mộ. Tôi mệt mỏi thiếp đi, hình ảnh những ông sư áo vàng cầm thanh la, mõ, gõ nhịp đi vòng tròn lán quẩn trong đầu tôi suốt giấc ngủ mệt mỏi.

Khi tôi ra đi, người thợ hồ nói với tôi:
- Được thầy cứ yên tâm, chiều nay thầy về tới nhà là có cửa sau rồi.
Tôi còn dặn với, nửa đùa nửa thật:
- Anh phải làm cho xong, nội trong chiều nay, tôi về mà không có cửa là không yên với tôi đâu.
Anh thợ hồ cười nhe cả hàm lợi xám:
- Mà làm chi gấp vậy thầy?
Tôi nói không cần suy nghĩ:
- Hôm nay ngày rằm, tôi muốn mở cửa này để ngắm trăng.
- Chỉ có vậy thôi sao?
- Vậy thôi
Buổi chiều năm giờ tôi đã vội ra về. Chiếc cửa ra vào và cửa sổ đã hoàn tất. Tôi xoa hai tay khoan khoái Tôi mở rộng cánh cửa sổ, gió lùa vào mát lồng lộng Tôi mở tiếp cánh cửa ra vào. Khu đất hoang hiện ra trước mắt. Buổi chiều thật đẹp, thật êm đềm trên những mái tranh tỏa khói lam.
ánh nắng chiếu lung linh trên lá cây như bụi kim nhũ, gió làm lay động lá cây la đà. Mặt trời xuống thấp làm mặt nước sông xa ánh vàng. Ngôi chùa vẫn vắng vẻ quạnh hiu, chiếc sân gạch Tầu rộng vắng bóng người.
Tôi bước ra hắn ngoài cửa, gai cỏ chắn lối đi. Tôi cúi xuống vạch cỏ tìm chỗ đặt chân. Cỏ sắc xước vào da thịt tôi rát, xót. Không chừng còn cả rắn rết đang rình núp đâu đây.
Lối đi gập ghềnh, chắc chắn từ bao nhiêu năm nay không có ai đặt chân đến chỗ này. Một cái vấp đau điếng, tôi mất đà ngã trên cỏ. Những con kiến to bằng đầu đũa từ trên lá cây rụng xuống người tôi. Một vài con luồn nhanh vào cổ áo chạy lung tung trong ngực. Tôi dí tay đè nát chúng sau lần vải.
Khi ngồi dậy, tôi nhìn thấy một phiến đá xô nghiêng. Chính nó làm tôi vấp ngã, ngón chân cái đau điếng. Tôi vạch cỏ, phiến đá được đẽo gọt vuông vức, trồi một nửa lên mặt đất. Những hàng chữ khắc trên đá đã mòn nhưng còn đọc được. Một tấm bia. Tôi ghé sát đọc: Trần thị Nhan Sắc, sinh năm 1930, chết 1948.
Tôi đứng dậy, nghĩ bụng trong khu đất hoang này hẳn còn nhiều mồ mả khác. Tôi vén cỏ tìm tòi, khoảng nửa giờ sau tôi tìm thấy gần một chục ngôi mả. Ngót chục ngôi mả trong một khoảnh đất không tới năm mươi thước vuông. Toàn những người chết trẻ. Họ chết trong những năm 45, 48. Tôi đang đứng trên hài cốt họ, có những ngôi mộ không còn nấm.

Buổi chiều đang tàn, mặt trời chìm dưới lòng sông, tôi nghĩ thế, nó lặn xuống nằm ngủ yên lòng đáy nước mát mẻ sau một ngày vã mồ hôi. Tôi vẫn thường có những phút mơ mộng như trẻ thơ. Tôi đứng thẳng người, vươn vai. Tiếng những lóng xương sống kêu lắc cắc. Bầu trời sẫm màu dần, gió khua nhẹ lá cây rì rào, ánh nắng còn thoi thóp.
Tôi nhìn ra căn nhà sau rặng chuối, căn nhà vắng vẻ, hình như những người ở đó đều sống âm thầm. Tôi vạch lá tìm một lối đi nhỏ. Tôi nhìn thấy một khung cửa sổ trấn song gỗ. Tôi vượt qua một rãnh nước đen ngòm, tới sát tường nhìn qua cửa. Căn nhà hoang, tường đất xiêu vẹo, có chỗ tường lở nhìn xuyên được ra sông. Trên nền nhà bằng đất bừa bãi rác rưởi, những mảnh vải trắng, đèn cầy, vài cánh hoa héo. Hình như tất cả những rác rưởi đó còn mới, ai mới liệng ra vung vãi bồi đêm rồi. Căn nhà bao phủ không khí lạnh lẽo âm u. Tôi phân vân, không có ai ở đây sao? Tôi nhíu mày, lắng nghe.
Có tiếng chân ai đó đang lạo xạo bước trên lá cây âm thanh đô không phải từ phía sau lưng tôi mà từ phía bên kia căn nhà, nơi mặt tiền nhìn ra sông. Rồi, một bóng người hiện ra, một lão già, chính lão già say rượu tôi gặp đêm rồi ngoài ngõ. Lão đứng nghiêng ngó vào nhà. Khuôn mặt lão tối, tôi chỉ nhìn thấy đôi mắt, mái tóc và những sợi râu bạc. Tôi đứng sát tường xem lão làm gì.
Lão nhìn đống rác, đi thẳng vào nhà, đá tung rác rưởi. Đột nhiên lão bật ra một câu chửi thề:
- Đ M. hết trơn hà!
Có vẻ thất vọng, lão ra cửa, ngồi xuống thềm, quay lưng lại phía tôi, mặt hướng ra sông. Lão lẩm bẩm nói, giọng than vãn:
- Mới lai rai ba sợi hồi trưa mà ngủ dữ, nếu biết sớm đâu đến đỗi.
Lão nói xong, im lặng thật lâu. Lão ngồi như tượng đá. Lão gầy ốm, chiếc áo đen bận trên người bạc phếch. Tôi nổi tính tò mò, muốn biết lão già tìm kiếm cái gì trong ngôi nhà hoang này giữa đống rác rưởi bừa bộn kia.
Tôi rời chỗ nấp, bước thật nhẹ để khỏi gây tiếng động. Tôi luồn qua một khoảng tường vỡ nhẹ nhàng vào nhà, lão già vẫn không hay biết. Tôi gây một tiếng động nhỏ, lão già nghe ngóng nhưng vẫn không quay lại. Tôi tằng hắng, lão già chồm lên, quay phắt lại đôi mắt trợn trừng khiếp sợ. Lão há hốc mồm nhưng như á khẩu. Tôi tiến tới, mỉm cười:
- Xin lỗi, tôi làm bác giật mình.
Vẻ khiếp sợ vẫn hằn trên khuôn mặt già cỗi:
- Ông... Ông... là ai? Vào đây lúc nào?
Khuôn mặt lão dịu dần, lão thở phào vuốt ngực, bàn tay có những móng dài bẩn thỉu, khô khan như rễ cây:
- Ông làm tôi hết hồn, gặp ông hoài toàn trong những mửng này, có bữa tôi đứt mạch máu chết tốt.
Tôi cười dễ dãi:
- Tôi cũng gặp bác hoài à, tôi tưởng bác không nhận ra tôi chớ?
Lão già đứng dậy:
- Người lối xóm mà, mới cũ gì tôi đều biết hết trơn.
Tôi nói "vậy hả " rồi ngồi xuống cạnh lão thán mật gợi chuyện:
- Chắc bác ở đây lâu lắm rối?
Lão già nhìn ra sông, mặt nước sông buổi chiều óng ánh như tráng kim nhũ:
- Lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ... à mà tôi sinh trưởng ở đây, lớn lên ở đây và rồi có lẽ cũng sẽ chết ở đây, như ông cha tôi vậy.
Giọng lão già trầm xuống, người lão tỉnh táo hơn bao giờ. Lão nói giọng lơ đãng:
- Nhà cửa trong xóm này mỗi ngày mọc lên một nhiều.
Lão giơ tay chỉ bao quát một vùng trước mặt:
- Ông biết không, ngày xưa nơi đây rậm rạp như rừng. ừ, đúng là rừng, những con rạch chạy ngang dọc khắp xóm. Dưới cù lao kia là bãi tắm voi, bên kia sông là bãi tắm ngựa, voi chiến, ngựa chiến. Vậy mà bây giờ...
Lão già bỏ lửng câu nói, đôi mắt lão nhìn xa xôi. Những ngón tay như rễ cây của lão tần ngần lồng vào nhau. Lão bẻ lóng tay kêu lắc cắc:
- Mấy giờ rồi ông?
Tôi không nhìn đồng hồ đeo tay, trả lời phỏng chừng:
- Độ sáu giờ, còn sớm mà.
Bỗng nhiên lão già hỏi:
- Ông ra đây làm gì?
Tôi chỉ ngược lại phía sau lưng:
- Nhà tôi mới mở cái cửa hậu, phía trước ồn ào quá nên tôi muốn ra phía sau yên tĩnh hơn.
- Hèn gì.
- Tôi muốn chiếm khu đất trống kia làm vườn để lâu lâu đêm sáng trăng ra ngồi nhậu đế.
Lão già bỗng cười rung những sợi râu bạc ở cằm:
- Ông cũng biết nhậu?
- Tôi nhậu hoài.
Lão già nói "vậy hả" rồi tiếp tục về khu vườn:
- Ông gặp toàn mồ mả, phải không?
Tôi trả lời "đúng vậy " và nói không còn ý định làm vườn nữa. Giọng lão già tranh cãi:
- Không ăn thua gì, mình sống toàn trên xương cốt thiên hạ không. Ông tưởng cái nhà ông ở không có mả sao? Thiếu giống. Ngày xưa ở đây là một bãi chiến trường. ở đâu có hơi người là ma quỉ tự khắc đi hết.
Lão nhìn vào bức tường đổ nát của căn nhà hoang:
- Hồi trước căn nhà này có một gia đình hai vợ chồng và một đứa con trai nhỏ. Hai vợ chống không phải người xóm này, họ ở đâu đến mua đất làm nhà ở đây Người vợ trẻ và đẹp. Khi Tây càn quét vào đây cả gia đình bị bắt. Đứa bé bị chúng đập đầu vào mả đá kia tan sọ rối xé tan xác. Người chồng bị trói ném nằm một xó, chị vợ bị đến mười lăm thằng Tây vừa đen vừa trắng hãm hiếp trước mặt chồng...
Đôi mắt lão già ánh lên nét kinh hoàng:
- Tôi còn nhớ như in mà, tôi nằm dưới đường mương kia, bên trên có lá bao phủ. Tôi nghe rõ tiếng rên la của người vợ, tiếng chửi bới của người chồng, tiếng cười man rợ của tụi mọi đen trắng. Cuối cùng cả hai vợ chồng bị chúng giết nốt. Tôi nghe rõ cả tiếng rú thất thanh của họ. Khi chúng đi khỏi, tôi mò lên, thật khiếp đảm ông ạ.
Lão già chỉ ngay chỗ tôi đang ngồi:
- Người vợ nằm chết ở đây, một nhát lưỡi lê rạch suốt từ âm hộ lên tới ức, ruột gan lòi ra cả đống, hai vú bị cắt ném ra góc nhà, máu lênh láng. Còn người chồng nằm chết gục ở kia, hai mắt bị khoét, cổ họng bị đâm nát bấy, khắp người bị băm ra, con cu cũng chẳng còn nguyên vẹn.
Tôi chặc chặc lưỡi, nói khiếp thế, dã man quá. Lão già nhìn ra một bụi rậm phía trước mặt:

- Tôi thương tình đào hố chôn họ ở bụi rậm đó, cả xác của đứa nhỏ nữa. Từ đó căn nhà này bỏ hoang, không ai dám đến ở vì có ma, nhiều người nói ban đêm họ thấy nhà này vẫn sáng đèn. Người chồng mặc bộ bà ba trắng đọc báo, người vợ ngồi cạnh may vá còn đứa con nhỏ lê la dưới đất. Cảnh tượng hệt như khi họ còn sống.
Tôi thấy rợn khắp người, lão kể thản nhiên, bình tĩnh và chân thật:
- Căn nhà này bỏ hoang suốt từ đó đến nay, dễ thường gần hai chục năm, lâu lâu nhà chùa dùng một lần.
- Nhà chùa dùng làm gì vậy?
Bỗng nhiên lão già nhìn tôi hỏi:
- Đêm qua ông có nghe tiếng tụng kinh gõ mõ không?
- Có họ tụng kinh suốt đêm.
- Họ tụng kinh ở đây! Không phải ở trong chùa sao?
- Không, họ tụng kinh siêu độ cho một xác chết mang tới đây trước khi nhập quan, tụng kinh luôn cho những linh hồn uổng tử quanh đây.
Tôi thấy rợn tóc gáy:
- Ghê quá nhỉ, hồi đêm tôi nghe thấy họ tụng kinh hoài, tôi cứ ngỡ trong chùa cúng.
Lão già vẫn ngồi thản nhiên, tư lự nhìn ra khúc sông và bầu trời sẫm màu dần. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao lão già vào bới đống rác, có lẽ lão muốn tìm đồ cúng kiễng bỏ lại. Tôi chỉ đoán vậy thôi chớ không hỏi, tôi tránh làm lão phật ý.
Lão già đứng dậy, ngáp, vươn vai, nói:
- Gần tối rồi đó.
Tôi đề nghị mời lão ra đầu xóm nhậu. Lão cười, nhe hàm răng khấp khểnh chiếc còn chiếc mất: "Số dách! " Bóng tối phủ nhờ nhờ khuôn mặt lão làm những vết nhăn trên trán thêm sâu. Khi đi qua khu đất hoang, lão nói:
- Hồi cách mạng ở đây Việt Minh giết biết bao nhiêu người. Đêm đến họ đưa tội nhân ra ruộng bắc loa tuyên án rồi chém đầu. Chính tôi cũng bị giết hụt nữa.
Tới cửa tôi giữ lão lại, hỏi:
- Tại sao bác không bị chúng giết?
Lão cười hì hì:
- Mấy tướng tự vệ bắt nhầm tôi. Chúng đi bắt thằng Việt gian Nguyễn Văn Khôn nào đó, nhè tôi tên Nguyễn Văn Khuâng, khi nghe đọc bản án thấy không phải tên mình tôi mừng hũm, tôi la chói lói kêu oan, chúng tính giết đại cho xong, may nhờ có thằng biết mặt tôi xin cho chớ không bây giờ tôi thành đất rồi. Mẹ, mạng người hồi đó rẻ như bèo, chúng muốn giết ai là giết hà. Tôi còn nhớ như in đêm hôm đó, tôi sợ đến đái ỉa ra quần. Nghĩ đến con dao mã tấu cùn tôi còn rợn ở ót. Có người chúng chém đến cả chục nhát không đứt đầu. Đêm đến người trong xóm nghe tiếng loa đều nằm im không dám cựa, sau đó nghe tiếng thét hãi hùng của từng nạn nhân, tiếng chửi rủa. Ông biết họ chửi ra sao không?
Tôi lắc đầu. Lão già nhăn mặt, đôi mắt kinh hoàng:
- Đ M quân cướp cạn, mày chém tao một nhát cho chết đi. Trời ơi là trời Tiếng chửi rủa của cả chục người chớ không ít, dai dẳng cả tiếng đồng hồ. Ngày hôm sau dân ra xem, nhiều người chưa đứt hẳn đầu. Khiếp quá ông ơi? Rồi đến chính phủ Nam Kỳ Quốc, bọn tay chân chúng nó trả thù mới rùng rợn, cỡ Bắc kỳ như ông, chúng trùm bao bố đập đầu chết như đập đầu cá lóc
Trời tối dần.Tôi mời lão vào nhà. Lão đứng lại trước hai cái mả đá, nói:
- Tôi biết hai cái mả này mà.
Tôi mời lão điếu thuốc lá. Tôi nói:
- Chắc mả ông tướng nào hồi xưa.
Lão già hỏi một câu bất chợt ngoài câu chuyện:
- Mình có đi nhậu không?
- Đi chớ, chờ tôi khóa cửa.
Tôi và lão già ra ngoài. Trời tối hẳn, gió mát hây hây.
Những đứa trẻ đang chơi, ngưng đùa nghịch. Chúng nhìn tôi, nhìn lão già. Chúng lên tiếng trêu chọc lão. Lão dừng lại nạt nộ, lũ trẻ càng cười dữ. Tôi ghét cay đắng lũ trẻ trong xóm. Nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn phải cười với chúng, xoa đầu chúng, đôi khi phải cho tiền để chúng khỏi phá phách. Tôi dừng lại rút mười đồng đưa cho thằng lớn nhất bọn:
- Nè, cho tụi bay, chia nhau.
Quả nhiên chúng buông tha chúng tôi. Chúng bu lấy đứa cầm tiền. Lão già vừa đi vừa nói:
- Con nít ở đây mất dậy quá trời!
Khi đi đến lòng hẻm sâu, hai bên tre mọc cao, một đứa con gái đi ngược chiều lại. Đứa con gái lai, có đôi chân dài, đôi mắt màu hạt dẻ và chiếc mũi cao. Nàng đứng lại, lão già cũng đứng lại.
Đứa con gái lên tiếng:.
- Tía đi đâu đó?
Lão chỉ tôi:
- Ông này mời tao đi nhậu, sao hôm nay mày về sớm vậy?
- Hết việc tía à.
Lão chỉ nàng giới thiệu:
- Con gái tui đó, hai cha con tui sống với nhau.
Đứa con gái nhìn tôi cười, hàm răng đều trắng bóng. Bóng tối loáng thoáng trên mặt nàng. Tôi nhìn nàng rồi nhìn lão già xấu xí. Nhan sắc nàng lồ lộ không có một nét nào giống lão. Nàng khoảng mười bảy mười tám tuổi. Và tôi chợt hiểu.
Tôi nói cho đỡ trống trải:
- Tôi gặp con gái bác đi trong xóm này luôn. Lão nói "vậy hả? Thiệt duyên kỳ ngộ". Lão kéo tay tôi đi, ngoái cổ lại dặn con gái:
- Lát để cửa tao "dĩa" nghe Đầm.
Nàng khẽ cúi chào tôi.
Khi nàng đi khỏi, lão già nói:
- Con nhỏ ngộ há ông, nó chưa chịu lấy chồng, nó thương tui lắm, nó không muốn lấy chồng xa. Lão quay lại nhìn tôi, cười một cách vô cớ:
- Tôi cũng ưng gả chồng làm ăn đàng hoàng cho nó.
Lão đi cạnh tôi, im lặng một lát. Lão nói:
- Sao ông chưa chịu lấy vợ?
Tôi nói:
- Tôi chưa ưng ai.
Lão nói:
- Ông kén quá!
Tôi im lặng cho tới khi bước chân vào quán nhậu chú Lì. Trời đã tối hẳn.

Lão già khà một tiếng sau khi nốc cạn ly đế. Lão dằn mạnh cái ly xuống bàn gây một tiếng động nhỏ:
- Ngày xưa, khi loạn quân Lê Văn Khôi nổi dậy, chống lại quân triều đình ở vùng Gia định này, chính ông cố nội tôi là lính của ngài. Thành Gia Định bấy giờ rộng lớn lắm, phải tính luôn cả Sài Gòn, Chợ Lớn bây giờ.
Lão già nhìn ra ngoài trời tối, chỉ tay một vòng:

- Tất cả vùng này là thành trì của ổng, quân triều đình phải dẹp mấy năm mới yên, nói ví thử ngài Lê Văn Khôi không chết sớm thì còn lâu quân triều đình mới thắng nổi. Ông cố nội tôi nói thế mà. Khi thắng trận, quân triều đình giết hại biết bao nhiêu là người dân vô tội, có đến năm trăm nghĩa sĩ tự sát chết theo thành. Mả ngụy chôn dài dài khắp Gia Định. Còn hai cái mả đá trong nhà ông, tôi biết, ông cố nội tôi có kể lại tới ngày nay tôi còn nhớ rành rọt, vì tôi có kể lại nhiều lần cho bà con lối xóm nghe chơi. Tôi tiếp đồ nhậu vào chén của lão, rớt thêm rượu:
- Bác biết rõ thiệt sao?
Men rượu làm lão sừng sừng, tiếng nói của lão trở nên lè nhè:
- Vậy ra "chú nghĩ tôi không biết gì ráo trọi? Thằng này ở đây lâu quá rồi mà, mấy thứ vặt đó mà không biết thì biết cái gì.
Tôi vỗ về lão:
- Tôi đâu có định nói thế, tôi chỉ là thứ sinh sau đẻ muộn...
- Khà khà chú em ăn nói đàng hoàng hết sức vậy đó tôi càng ưng gả con gái cho chú. E, bà con, chú này là thằng rể tương lai của tôi đó. Bảnh hôn, bà con?
Lão già cười rung cả chòm râu bạc. Những người trong xóm cũng cười theo, họ nhìn tôi.
- Con gái anh mà lấy được chồng chịu ăn nhậu như vậy là phước. Nhậu tỉnh chớ không nhậu say như anh.
Chú Lì vừa châm đế vào xị vừa nói đùa. Lão già vỗ tay đen đét vào đùi cười rầm rĩ:
- Không ngờ về già tôi sướng ta, số được nhờ con gái.
Bỗng nhiên lão nắm tay tôi:
- Con ơi con, con ở đâu tới đây để nên duyên chồng vợ trong cái xóm hẻo lánh này. Con xứng đáng lắm, con là dân Bắc kỳ phải không? Ngày xưa ngài Lê Văn Khôi cũng là dân Bắc Kỳ, ngài có cọng rau muống lòng thòng ở lỗ đít, con có không?
Mọi người cười cái rầm, tôi ngượng chín người. Cũng sừng sừng men rượu, tôi nói mạnh luôn:
- Con gái bác ở đâu lạc vào xóm này?
Nó là đồ nhập cảng ở bên Tây, một thằng lính Lê Dương nhập cảng vào vợ tao, vợ tao đẻ ra nó, nó lại là con tao. Đồ Tây "o-li-din" quí lắm chớ bộ. Vậy mà tao nuôi nó bằng giá sống đó. Hà, hà, duyên kỳ ngộ. Tao không đòi gì hết, vợ chồng mày chỉ cần cho tao mỗi ngày một bữa nhậu xoàng. Tao sẽ làm vườn cho mày, sửa nhà và trông con cho mày. Vậy thôi. Tôi nói dút dạt vậy đó, có bà con đây làm chứng.
- Nhưng con gái bác không ưng tôi thì sao?
- Ưng, ưng liền, nó chịu mày hết sức vậy đó, nó có nói với tao.
Tôi hoang mang:
- Nói với bác hồi nào vậy?
- Nó nói mày là người đàng hoàng, dân thầy chú. Nó mới nói với tao mấy hôm rày.
- Vậy đâu đã chắc cô ấy ưng?
- Ưng là cái chắc, tao rành đời mà mày, nghe nó nói cái, tao hiểu liền, tao biết nó để ý đến mày, tại sao nó không nói gì đến những thằng khác trong xóm. Nhưng con gái nó đâu có nói ra miệng, tâm lý mà mày. Mày khù khờ vậy thì biết bao giờ mới có vợ. Tao cho mày ba ngày o nó. Nó xinh đẹp vậy mà chưa xứng với mày sao, hay mày khi bố con tao nghèo?
Tôi xuống giọng an ủi lão:
- Đâu có chuyện đó, tôi cũng biết điều mà bác, chỉ bởi tại tôi khù khờ.
Lão cười khà khà khoái chí tử. Lão uống rượu tràn cung mây.
Những người nhậu lai rai ra về, tôi và lão già vẫn ngồi uống. Lão nói huyên thuyên từ chuyện nọ sang chuyện kia. Lão trở lại chuyện ngôi mộ đá trong nhà tôi:
- Một đêm kia, hổ tướng Phan Nhà của ngài Lê Văn Khôi đang ngồi uống rượu ngắm trăng với phu nhân thì quân vô báo có bọn quân binh triều đình tới khiêu chiến dưới thành. Tướng quân Phan Nhà nổi giận, bóp nát ly rượu trợn mắt quát:"Cha chả là tức, đêm hôm khuya khoắt bọn gà chết còn muốn đánh nhau, vậy để ta ra xách vài cái đầu về cắt tai nhậu chơi". Nói xong, tướng quân xách đao nhẩy lên ngựa không thèm mặc giáp trụ. Ngài không quên dặn phu nhân hâm rượu nóng chờ ngài về cùng vui. Đơn thương độc mã ngài phóng như bay ra trận tiền. Quân trên thành giục trống trợ oai hùm. Qua giờ tí, ngài phóng ngựa trở vào thành, trên cồ ngựa treo lủng lẳng đầu lâu, trong đó có cả đầu tướng địch. Ngài vừa cười ha hả vừa phóng ngựa như bay. Khi phu nhân nhận thấy chồng về thì tất tả ra đón. Ngài ngồi trên ngựa ngửa mặt nhìn trăng cười ha hả, ném đầu quân địch xuống cho ba quân xem. Dứt hồi cười, ngài té nhào xuống ngựa. Lúc đó mọi người mới nhận ra ở lưng ngài ghim một mũi tên, máu chảy ướt đầm chiến bào. Ngài nhìn quân tướng xung quanh mím môi trợn mắt nói: "Ta buồn vì không bị địch giết mà bị chính quân nhà, trong bọn ngươi có kẻ bội phản, tiếc cho chí lớn của ngài Lê Văn Khôi, ôi mộng bá vương..." Đôi mắt ngài dịu lại khi nhìn thấy phu nhân, phu nhân khóc nức nở. Tướng quân Phan Nhà buồn bã:"Phu nhân ơi, ở lại ta đi, mộng lớn của ta đến đây là dứt". Nói rồi ngài nhắm mắt, hơi rượu vẫn chưa hả.
Lão già khà tuôn miệng, lão chóp chép. Tôi hỏi:
- Sao bác biết chuyện đó?
- Ông cố nội tao phục vụ dưới trướng ngài, chính ông chứng kiến. Tao nghe chuyện này đến thuộc lòng. Thiệt là một dũng tướng có một không hai.
Lão hớp thêm ly rượu nữa:
- Sau khi chôn cất xong, phu nhân thương nhớ chồng cũng tự tử chết theo, vẹn tình vẹn nghĩa. Khi đó ngài Lê Văn Khôi còn sống, chôn cất hai người cạnh nhau để sống làm chim liền cánh, chết làm cây liền cành. Đó chính là hai ngôi mả đá trong nhà mày hiện nay.
Tôi thắc mắc:
- Nếu tôi không lầm thì sau khi thành Gia Định bị phá, quân binh đến nhân dân trong thành đều bị tàn sát, đến độ mả ông Lê Văn Duyệt, bố nuôi của Lê Văn Khôi cũng bị khai quật trị tội thì ông cố nội của bác làm sao sống được để kể lại chuyện này.
Lão già đặt ly rượu xuống bàn:
- Một ổ kiến ai có thể giết được hết không bỏ sót con kiến nào, ông cố nội tao sống sót như con kiến, trốn chui trốn nhủi ở vùng này, riết thành quê hương luôn.
Tôi gật đầu nói "có lý, có lý". Đêm khuya dần. Trăng sáng vằng vặc ngoài nghĩa địa. Những cây thập tự giá trắng toát dưới ánh trăng bạc. Tôi và lão dìu nhau về. Trên con đường gập ghềnh lão lè nhè hát: Như chim liền cánh, như cây liền cành... Tới một khúc quanh bỗng nhiên lão hỏi tôi:
- Mày nghĩ sao lại mua nhà tuất tận trong xóm này?
Tôi nhìn con đường gập ghềnh thấp thoáng bóng trăng:
- Tôi nghe nói ít lâu nữa chính phủ sẽ phóng một con đường qua xóm này, đâm ngang từ đường Chi Lăng sang Tân Định, căn nhà của tôi sẽ có giá trị vì ở ngay cạnh lộ.
- Thiệt vậy sao?
- Thiệt mà.
- Con đường chúng ta đang đi đây xưa là đường của voi chiến đi tắm, vòi đi riết thành đường cho người
Lão già đưa mắt nhìn khắp vùng:
- Đâu có ai ngờ xưa kia nơi đây từng là bãi chiến trường, sông máu núi xương, nơi đây vợ con tao đã chết, bao nhiêu người đã chết. Ngày xưa loạn quân Lê Văn Khôi... Hai chục năm trước là bưng biền của Việt Minh, ma quỉ đã hoành hành ở đây...Tao biết nhiều quá bao nhiêu là biến cố, bao nhiêu là thay đổi... Đọ, đọ tao lại nghe thấy tiếng loa rồi... Tao không muốn chúng trở lại đây, mày thấy đó, hết đất chôn rồi.. Tao cũng cần một nấm mồ...
Lão già lắc đầu liền liền, giọng lão trở nên hổn hển và nét mặt kinh hoàng:
- Tao cứ uống rượu vào là nghe thấy tiếng loa, kỳ quái thiệt.
Lão già từ giã tôi, lão đi xuống con dốc, ở đó thưa thớt cây cối. Tôi nhìn theo, bóng lão mờ dần dưới ánh trăng bạc. Tiếng nói của lão văng vẳng từ miệt ruộng cạnh bờ sông vọng lên: "Tên Việt gian Nguyễn Văn Khôn là kẻ đại gian đại ác, để xây dựng cách mạng, nhân dân tuyên án chặt đầu kẻ phản bội". Từ hai mươi năm nay, tiếng loa cứ sống mãi trong đẩu lão già hằng đêm.

Tôi chợt liên tưởng đến những nhát mã tấu chém xuống, những tiếng thét hãi hùng. Sáng ngày hôm sau người ta nhìn thấy những cái đầu chưa lìa khỏi cổ. Bất chợt tôi đưa tay sờ cổ và rùng mình. Tóc gáy tôi dựng đứng. Con đường sáng bạc ánh trăng mù mù sương đêm. Bóng lão già kỳ quái đã mất tăm. Đêm chuyển mình trong tiếng đại bác từ phương xa vọng về. Rượu ngấm. Tôi hoa mắt ôm đầu chệnh choạng trở về Tôi nghe như có tiếng sắt thép khua động đâu đây, tiếng mã tấu xé gió vụt xuống. Tiếng thét hãi hùng. Tôi lao đao gục ngã dưới chân dốc. Tôi mơ hồ cảm thấy móng tay mình cào xuống đất lạnh.
11-1965
Chim trên ngọn khô
Tập Truyện Ngắn
Nắng tắt sớm vì những đụn mây đen kéo về phủ kín bầu trời. Gió lặng không khí bỗng trở nên oi bức lạ thường. Một trận mưa có thể thình rinh ập xuống.
Trên những cành cây sao trụi lá, hàng chục con chim kền kền đứng củ rũ nhìn xuống khu nhà xác, cây khô héo vì đã chết lâu ngày. Bao nhiêu năm nay dân ở quanh khu nhà xác không thấy cây mọc lá. Có người nói hồi bốn lăm, khu này bị bom, cây cháy và chết khô luôn từ đó. Cây quá cao, nặng, đất lại mềm, người ta khám phá ra nhiều đường nứt phát xuất từ gốc cây. Một dạo dân quanh nhà xác la hoảng vì sợ cây đổ đè xập nhà. Người có trách nhiệm viết bài nhờ đăng báo kêu gọi bộ Công Chánh tới triệt hạ cây. Nhưng bài báo đó không gây nổi tiếng vang, mất tâm như viên sỏi ném xuống ao. Riết roi không ai để ý đến việc đó nữa. Cây chết vẫn đứng trơ, cành khô vươn ra bốn phía như những cánh tay xương. Và những con chim kền kền, có lẽ là chim cùng loại, không biết từ đâu bay tới đậu đầy trên những nhánh cao. Mỗi con đứng riêng rẽ một cành, chúng bất động, chỉ khi nào cửa nhà xác mở, xác chết mang vào hoặc khiêng ra mới làm chúng kêu lên quang quác, cánh vỗ phạch phạch, tung mình bay lượn vòng tròn trên khu nhà xác. Chúng xà thấp, lướt trên xác chết. Đôi cánh chúng quạt mạnh làm mát mặt người. Gã lao công coi nhà xác lại ngẩng lên chửi:
- Đ M chúng bay, bộ thèm lắm sao, tao mà có quyền tao cho tụi bay tuốt luốc, đỡ chật đất chôn.
Chiều hôm nay những con chim đậu bất động, chi riêng cái cổ ngó ngoáy nhìn bốn phía. Mùi hôi khăm khẳm từ khu nhà xác xông ra, tỏa khắp một vùng. Chiều hôm qua hai chuyến xe nhà binh vừa đổ xuống ngót sáu chục xác chết đã thối, những xác chết đó được bao kín trong bọc ni lông, vậy mà mùi hôi vẫn xì ra.
Ban đêm xóm nhà xác vang động tiếng búa, tiếng đục, tiếng cưa. Họ phải hoàn thành gấp hàng áo quan. Công nhân đào huyệt làm việc luôn tay, rảnh tay kéo nhau ra quán cóc ngồi nhậu đế lai rai. Nửa đêm lão già coi nhà xác cầm xị rượu ngất ngưởng đi ra. Lão say mèm, lão hát líu lo, lão nhẩy nhót băng qua những nấm mồ mới nhấp nhô, như bóng quỉ. Những con chim to xác đậu trên cành cây cao thấy động vỗ cánh phành phạch và kêu quang quác. Tiếng kêu lạnh lẽo khô khan. Chúng tung mình bay lượn trên nền trời tối đen, xà thấp, có lúc như muốn bổ nhào xuống đầu lão già. Lão vung tít chiếc chai không, chửi bới om xòm: Mẹ cha tụi bay, còn lâu các con mới được đớp, xéo đi nơi khác kiếm ăn, ở đây có mà hít hơi thối thôi các con ạ. Để xác chết cho tụi bay thanh toán thì dân vùng này chết đói ráo trọi sao?
Những cánh chim dang rộng, đen, lao bổ xuống đầu lão già, chúng không mổ vào đầu lão, không tấn công mà chỉ làm lão mát mặt. Lão già cười xằng xác:
- A ha, mát quá! Mát quá! Quạt nữa đi các con để bố già ngủ.
Lão lăn ình ra sàn gạch bông hàng hiên nhà xác, tu đế ừng ực Một lát sau lão ngáy pho pho. Đàn chim vẫn bay lượn, chúng đậu trên nóc nhà xác hít hơi, vỗ cánh phành phạch.
Nửa đêm lão già bỗng kêu rú lên, ôm lấy mặt.
Đôi cánh đen trùm nửa người lão, chiếc mỏ khoằm của con chim vừa xả vào mặt lão, trúng ngay con mắt. Lão hét lên, chống trả kịch hệt. Con chim bay lên. Lão ôm mặt, lao mình vào bóng tối, chạy xuyên qua nghĩa địa vào xóm. Lão kêu la rầm rĩ làm cả xóm thức giấc. Họ bật đèn sáng, mở toang cửa nhìn ra. Lão già điên cuồng:
- Chết tôi rồi, bà con ơi!
Một người đàn ông tung cửa chạy ra, ôm lấy lão rối rít:
- Gì đó, bác Sáu?
Gã giằng tay bịt mắt lão ra:
- Trời ơi, máu? Sao vậy?
Lão già giẫy đành đạch:
Chết tao rồi, chim, những con chim mổ lòi tròng tao. Khốn nạn, bất nhơn, tụi chúng tưởng tao là xác chết.
Thêm ba người đàn ông từ xưởng hòm chạy ra ôm lấy lão. Khi đó máu ở mặt lão chảy chan hòa. Lỗ mắt mất tròng sâu hoắm.
Họ dìu lão vào nhà, đặt nằm trên đi văng:
- Phải cấp cứu ngay!
- Mẹ, mất trọn tròng mắt, may mới bị một bên. Một người đàn bà cầm khăn vừa lau máu cho lão vừa đắp lên mắt. Lão rên rỉ. Sáu cánh tay trần, cứng như thép dần lão xuống mới giữ nổi. Lão quằn quại, giẫy đạp kêu la, đập chân thình thình trên đi văng, làm náo động cả xóm.
Y tá Chín trong xóm xách thùng thuốc cấp cứu chạy đến, rẽ đám đông bu cửa, vào nhà:
- Các người dang ra để tôi coi.
Gã mở thùng thuốc lấy bông gòn tẩm an côn, lau rửa, đắp lên mắt. Lão già xót, giẫy lên đành đạch. Y tá Chín hét ra lệnh:
- Nằm yên để người ta băng cho, phải sát trùng chớ. Anh em giữ chặt cho tôi, còn phải chích thuốc cầm máu, thuốc giảm đau.
Lão thầy cúng kiêm thầy pháp trong xóm cũng có mặt. Lão ngó qua cửa, lắc đầu:
- Thánh thần ơi! Bọn chim này lộng quá rồi, mới hôm qua chúng nó xơi tái con chó nhà Hai Thợ. Riết rồi chúng làm luôn cả người sống, nhà nào có con nít phải coi chừng...
Y tá Chín băng mắt và chùi máu cho nạn nhân xong, nói với bà con lối xóm đang bu quanh:
- Phải mang bác Sáu đi nhà thương gấp.
Một người cãi:
- Mang sao được giờ này, khoan chờ một giờ nữa, hết giới nghiêm.
- ừ thôi cũng được, vô nhà thương họ cũng chỉ làm như tôi vậy thôi. Để chả nằm nghỉ ít phút không hại gì.
Thầy giáo Lượn nhìn ra ngoài cửa, hướng lên phía ngọn cây sao chìm trong bóng tối chặc lưỡi:
- Chà, phải tìm cách diệt bọn này, chúng lộng quá rồi.
Y tá Chín ngồi xuống đi văng an ủi nạn nhân. Nạn nhân vẫn quằn quại rên rỉ, chửi lảm nhảm. Anh Bẩy Xê ra cửa nạt đám người hiếu kỳ:
- Các người về chớ, đứng xem gì đây, liệu mà giữ lấy thân.
Đám đông từ từ rút lui, họ sát vào nhau, nhìn lên cây cao bàn tán về những con chim quái ác và tai nạn vừa xẩy ra cho bác Sáu coi nhà xác.
Đêm vẫn còn tối đen.

Buổi tối, các đạo tì, âm công, thợ đóng áo quan rảnh rang kéo nhau ra quấn nhậu lai rai ba sợi. Quán ở đầu hẻm, chuyên bán đế và rượu rum Vĩnh Sanh Hòa. Món bia ở đây coi như đồ bỏ, vì không ai thèm uống. Dân nhậu toàn là những tay có thể tu nguyên xị đế một hơi mà vẫn ngồi tỉnh. Qua hết nguyên lít người say mặt tím ngắt lại rồi từ từ đổ xuống, không một tiếng la lối hay phá phách. Đồ nhậu phổ thông nhất vẫn là món canh chua lươn, trộn rau chuối và phi hành thơm ngậy, món canh có thể ăn với bún no bụng.
Anh Bẩy Lươn Um chủ quán là một người đàn ông đứng tuổi, tóc hoa râm, tối ngày ở trần, cái quần đùi đen rộng thùng thình ngắn ngang đầu gối, khăn rằn ri vắt vai, mặt và người đỏ như mặt gà chọi. Miệng luôn luôn phì phà cái ống đót tiện bằng xương beo lên nước vàng. Tay anh cầm cái ly cối đầy rượu Vĩnh Sanh Hòa đi từ bàn này sang bàn khác. Bọn khách nhậu là người trong xóm, như có bổn phận, mỗi tối đều đến, mỗi lúc một đông. Họ bận quần áo đen, có xọc trắng, những chiếc kết đội đầu cũng màu đen, huy hiệu kim tuyến thêu hoa lá cành. Họ lột mũ ra liệng chúng ở một cái bàn trống. Hai Thợ, một gã trong bọn lên tiếng:
- Anh Bẩy à, sửa soạn đồ nhậu cho nhiều nghẹn. Hôm nay anh trúng mối đa.
Bẩy Lươn Um khật khưỡng đi ra:
- Nhấp nháy mà các cha, có chuyện gì đó?
- à vụ cha Sáu nhà xác và mấy con chim.
- ứa, mấy con chim, mấy con ác điểu.
Nói xong Bẩy Lươn Um ngửa cổ nốc một hơi cạn gần nửa ly cối Vĩnh Sanh Hòa. Đám âm công, đạo tì nhao nhao mời:
- Anh Bẩy ngồi luôn đây nhậu với bọn này cho vui.
Bẩy Lươn Um khà một cái:
- ấy cái đó hổng được, tôi mà không để mắt vào mấy món nhậu ở nhà bếp là hư hết ráo.
Từ bao nhiêu năm nay, chưa có một khách hàng nào mời được Bẩy Lươn Um ngồi chung bàn. Anh luôn luôn tìm cách này hay cách khác từ chối. Khách hàng thì không nghĩ thế, họ cho rằng anh coi thường lượng nhậu của họ. Bẩy Lươn Um cầm ly cối, luôn luôn châm đầy, trong khi khách hàng ngã như chuối thì anh vẫn tỉnh khô, vẫn cười khà khà ngồi ở một góc bàn trống, lâu lâu góp một lời vô hại. Anh chưa từng chê bai tửu lượng khách nhậu. Anh im lặng, nhũn nhặn, chính điều đó làm các bợm nhậu trong xóm tức ói mật. Có người ngầm so tài với anh bằng cách ngầm uống đua cùng lúc Bẩy Lươn Um cầm ly cối đầu tiên trong ngày. Họ ngồi từ sáng đến tối, khi Bẩy Lươn Um buông ly vào dọn dẹp, khách ra về vừa bước chân ra cửa là khụy xuống hôn mê bất tỉnh. Bẩy Lươn Um mỉm cười ra đỡ địch thủ dìu về nhà. Trong cơn say, địch thủ bèn phun ra hết ý nghĩ của mình và tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Bẩy Lươn Um nghe nói vậy vẫn chẳng có một lời nào, anh chỉ mỉm cười. Nụ cười đó như ngầm bảo với địch thủ: "Còn khuya con mới theo kịp bố già, bận sau đừng có dại dột thế nghe con".
Mười mấy năm qua vẫn chưa có kẻ nào đánh gục được Bẩy Lươn Um bằng rượu. Bẩy Lươn Um có cái đức của kẻ uống rượu. Không còn một ai dám thách thức nữa. Bẩy Lươn Um vẫn ngồi riêng rẽ một ghế. Khách hàng muốn giữ tiếng của mình là tay chơi, tửu lượng cao, chỉ còn một cạch tán nhảm, tào lao cho hết giờ. Không nói bậy và khi say chịu hết nổi chỉ ngã âm thầm. Họ ngán nụ cười kiêu ngạo của Bẩy Lươn Um.
ánh sáng từ chiếc đèn măng sông treo giữa quán bỗng tối lại. Bẩy Lươn Um đặt ly rượu xuống bàn, anh bê chiếc ghế đẩu ra giữa nhà rồi leo lên, một tay giữ đèn, một tay bơm. Tiếng ga bị ép xịt ra tim đèn kêu khè khè quán sáng trưng trở lại. Vừa lúc đó có thêm mấy người nữa vào quán. Lão thầy pháp, mặt xùi như đá ong cao lỏng khỏng. Y tá Chín miệng lúc nào cũng cười toe toét. Đi sau rốt là thầy giáo Lượn, giáo viên độc nhất kiêm hiệu trưởng trường học tư của thầy trong xóm. Hầu hết con nít trong xóm đều là học trò của thầy. Thầy giáo Lượn người như cái que, nhưng lúc nào trông cũng có vẻ chải chuốt, tóc phết "bi ăng tin" bóng lưỡng, cầm mặt nhăn nhụi, mắt mang kính trắng gọng vàng. Thầy giáo là người được quí trọng nhất trong xóm rồi mới tới thầy chích, rốt là thầy pháp Ba Gà Mổ. Thầy pháp Ba Gà Mổ không lấy làm hài lòng về địa vị của mình, nhất là cái tên chó đẻ do Hai Thợ, chủ nhân xưởng đóng hòm ôn dịch đặt cho, bởi tại cái mặt lão lỗ chỗ như bị gà mổ. Tên đó dân trong xóm tránh kêu trước mặt thầy. Còn y tá Chín lúc nào cũng toe toét với tất cả mọi người, lúc nào cũng nồng nhiệt với nghề nghiệp "cấp cứu" của mình. Hắn cười nhiều quá nên trở thành vô duyên. Trong ba người, chi riêng thầy giáo Lượn trẻ nhất và còn độc thân. Do độc thân và dáng trí thức diêm dúa đó mà thầy giáo Lượn hưởng được nhiều điều tốt lành ở bà con lối xóm. Nhà nào có con gái lớn, tuổi cập kê cũng chỉ mong được thầy giáo để mắt tới. Nhưng dân trong xóm nhận xét hình như thầy chưa để mắt đến đám nào. Họ kính phục thầy hơn vì thầy là người đứng đắn đàng hoàng.
Tất cả mọi người trong bàn đều đứng dậy mời ba vị vào bàn. Hai Thợ dành chỗ cho thầy giáo ngồi cạnh mình. Anh ta lấy cớ phải bàn với thầy giáo nhiều điều quan trọng, vả lại anh ta là liên gia trưởng.
Bốn tô canh lươn và những đĩa bún từ dưới bếp mang lên bầy ra bàn. Rượu Vĩnh Sanh Hòa pha soda đá lạnh đã được mang ra. Liên gia trưởng Hai Thợ nói:
- Hôm nay thầy giáo lai rai với tụi tui chớ?
Thầy giáo Lượn gật đầu:
- Nhậu thì nhậu tôi đâu ngán, hôm nay tôi thả dàn...
Mọi người trong bữa nhậu cười phụ họa. Những chiếc ly cối nâng lên cụng nhau lanh canh. Sau đợi rượu đầu, Hai Thợ đặt ly xuống bàn, lên tiếng:
- Sở dĩ hôm nay có bữa nhậu này do tui muôn bày tỏ với anh em một vấn đề quan trọng về an ninh cho bà con trong xóm.
Hai Thợ nhìn đảo một vòng:
- Nhiều anh em ở đây đã biết lý do, nhưng tôi muốn nói rõ hơn. Tôi muốn nói đến những con chim, giống ác điểu, không hẳn là quạ, không hẳn là kền kền, chính những con chim đậu trên ngọn cây sao kia, loài chuyên ngửi hơi thối và ăn xác chết.
Hai Thợ ngoái cổ chỉ ra ngoài trời, nhiều người như máy nhìn theo. Hai Thợ tiếp, giọng gay gắt:
- Chúng đang phá chúng ta, như trường hợp tai nạn xây ra cho bác Sáu nhà xấc.
Một người trong đám nâng ly uống:
- Biết rồi, vòng vo hoài, muốn gì thì nói phứt cho rồi.
Đang ngon trớn bị kê ngược, Hai Thợ đổ quạu:
- Đ M. dân gì đâu không hà, bộ mày muốn chửi cha tao sao đấy, hả Cộc? Trình bầy chuyện gì cũng phải có đầu có đuôi chớ, đây là chuyện quan trọng đến đời sống bà con, mày biết rồi kệ xác mày, nhiều người không biết thì sao? Mày muốn chơi cha tao. Kê tủ đứng vào họng tao...

Vẻ mặt Cộc lạnh như tiền, như khi đào huyệt cho người ta. Hắn uống thêm một hớp rượu nữa, nói: ở đây không ai chơi cha ai hết, tôi khoái cái gì cũng vắn tắt nên lên tiếng đó.
Đôi mắt Hai Thợ nẩy lửa. Bàn nhậu xôn xao, mỗi người can một câu. Hai Thợ bắt buộc phải nhịn, nhưng vẫn thấy ấm ách trong lòng. Hắn tiếp tục trình bày:
- Chúng ta phải tìm cách triệt hạ những con chim kia.
Cộc vừa uống rượu vừa cười khinh khỉnh:
- Rồi, gọn bàn vậy có tốt hơn không.
Như lúc khác thì Hai Thợ không ngần ngại cho thằng chả một búa, nhưng lúc này, Hai Thợ thấy mình quan trọng hẳn lên, chẳng gì thì gã cũng là liên gia trưởng, một người chức sắc trong xóm. Anh ta đành làm lơ để bàn đại sự:
- Đó, bà con nghĩ sao?
- Đồng ý.
Cả bàn tiệc đồng ý, kể cả Cộc, thằng cha đào huyệt lý lắc nhất xóm. Hai Thợ nhìn khắp lượt:
- Ai có ý kiến gì nên trình bày ra dể thảo luận.
Thầy giáo Lượn ngồi trầm ngâm trước ly Vĩnh Sanh Hòa đã vơi được một phần tư ly. Thầy y tá mủm mỉm cười, những người khác thì ngồi gật gù ra điều suy nghĩ lung lắm. Thầy pháp Ba Gà Mổ sau khi nhằn hết một khúc lươn, bỏ xương ra bàn, lên tiếng:
- Há... bà con, tui có ý kiến!
Những con mắt đổ dồn nhìn thầy pháp:
- Sao thầy Ba Gà... có ý kiến gì?
Thầy pháp Ba Gà Mổ nhìn gã vừa buột miệng ra câu Ba Gà. Nhưng thầy bỏ qua, thầy sắp sửa bàn đại sự. Giọng thầy trầm xuống:
- Chim kền kền ở đây là một giống quái điểu, không thể sống chung lộn với người được.
Một người nóng ruột hỏi:
- Hẳn thầy đã có phương pháp trừ khử.
Thầy pháp Ba Gà Mổ hơi ngưng lại, đoạn tiếp:
- Ngày xưa, khi tôi còn theo thầy học đạo trên núi Tà Lơn, thầy tôi có luyện được một đạo bùa...
Có tiếng cười xì ra, thầy pháp Ba Gà Mổ làm lơ, kể tiếp:
- Một ngày kia hai thầy trò xuống núi, tới một vùng kia có một cây đa vĩ đại, nghe đồn cây đa đó có ma nên thầy tôi liền ra tay. Sư phụ tôi ếm một đạo bùa vào gốc cây, niệm chú. Sáng hôm sau dân làng ra xem, thấy một con chim mỏ khoằm có mào đỏ nằm chết dang cánh dưới gốc cây, từ đó cây hết còn ma.
- Hay quá há, nhưng xin thầy Ba vắn tắt cho vì ở đây, chúng ta đang bàn chuyện trừ khử mấy con chim quái ác chớ không bàn chuyện ma quỉ thánh thần.
Thầy pháp Ba Gà Mổ cau có:
- Các người đừng có nóng, từ chuyện nọ mới sang chuyện kia được, tui có học được đạo bùa đó.
- Bộ thầy tính ếm vào gốc cây?
- Uà tôi ếm, nếu chúng không chết thì cũng bay đi hết ráo.
Giọng thầy trầm xuống:
- Chỉ cần một cái lễ nhỏ cho thánh thần, một con gà đĩa xôi và nải chuối.
Đám nhậu phát cười ồ:
- Bỏ đi thầy Ba, thời đại xe tăng máy bay mà bàn chuyện bùa ngải nghe lỗi thời làm sao.
Thằng Cộc, vô địch đào huyệt, nhai luôn cả xương lươn rau ráu nuốt chửng bằng một hớp rượu:
- Đ. M. xôi gà no thầy, no vợ bé của thầy, chớ thánh thần ma quỉ ăn cái giải gì.
Thầy Ba Gà Mổ tức ói máu, gây gổ lại:
- Này Cộc, mày moi móc tao đó hả, cứ ra lời rồi coi, tao thờ thiên linh cái, không ngán thằng nào đâu.
Thằng Cộc không vừa:
- Thằng này từng đào huyệt chôn cả chục thằng như anh, ngon mà, quân buôn thần bán thánh thì thằng này chửi liền vào mặt chớ chẳng thèm nói moi nói móc. Về mà dậy con vợ bé của anh, anh là cái đồ mù...
Thầy pháp Ba Gà Mổ xấn xổ như con gà chọi sắp lâm trận đấu. Thầy cầm cái ly cối lên toan xàng vào mặt thằng Cộc. Hai Thợ nắm được cổ tay thầy can:
- Thôi chớ các người, nếu ai có ý kiến cứ trình bày, đâu có phải ý kiến nào cũng được chấp thuận. Còn các người muốn đánh lộn, tui mời các người ra ngoài.
Thầy pháp Ba Gà Mổ còn cố với vát:
- Cộc mày có ngon thì ra ý kiến đi, ngồi đó mà chọc quê người ta thì chó làm cũng được.
Cộc chỉ cười nhạt:
- Chẳng ngu gì, nghề tôi là nghề chôn xác chết mà.
Không khí lặng dần, thầy y tá Chín chậm rãi lên tiếng:
- Theo tôi thì mình thuốc chết hết mấy con chim.
- Thuốc bằng cách nào?
Chích một mũi thuốc độc vào một con chó chết liệng dưới gốc cây. Mấy con chim ăn phải lăn ra chết ráo.
Thấy ý kiến có vẻ hợp lý, vài tiếng vỗ tay lốp bốp trong bàn nhậu. Cử tọa im lặng, nhiều người gật gù:
- ý kiến hay đó, nhưng xin anh Chín cho biết công việc đó ai làm?
- Tui làm, cấp thuốc cho tui, tui làm liền.
Thằng Cộc nóng nẩy:
- Dẹp, dẹp! Các người bàn toàn chuyện tào lao không đâu hà.
Hai Thợ cố vãn hồi trật tự:
- Thôi, giờ ai có ý kiến trình bày hết đi, đêm khuya rồi đó.
Chờ cho mọi người chịu trận hết, Cộc mới ra lời:
- Phương pháp của tôi giản dị lắm, chúng ta cần có súng bắn rầm rầm là chim chết cả chùm. Bắn chừng năm ngày liền là chúng hết còn dám đến nữa.
Thầy pháp Ba Gà Mổ được dịp trả thù:
- Súng ở đâu nhiều quá vậy hả Cộc?
Cộc vênh váo trả lời:
- Súng trên đồn dân vệ.
- Bộ lên đó cướp giựt sao?
Cộc phanh nút áo cho đỡ nóng, ngửa cổ uống ực hết nửa ly Vĩnh Sanh Hòa, gắp một khúc lươn cho vào miệng, nhét theo một nắm rau chuối. Hắn khề khà, nhai nhồm nhoàm:
- Có hạng người chuyên lừa gạt mới tính đến chuyện ăn cướp, cướp giựt thôi. Thằng này ngon lành, từng đi lính, hào khí ngất trời có đâu làm chuyện đó được Thằng này không có loại thầy, loại sư phụ nào dậy nghề lừa gạt ăn cướp hết.
Mặt thầy pháp đã đỏ săn bây giờ thành tím ngăn ngắt. Hai mắt đỏ ké trông càng thêm dữ dằn. Cộc vẫn thủng thẳng nói:
- Tôi muốn khuyên bà con lối xóm làm cái đơn đệ lên ông đồn trưởng mượn ba người lính mang súng xuống, thứ súng bắn đạn chài đó. Mình cũng trình bày lý do chính đáng thì ổng có tiếc gì vài ba viên đạn. Nè, cô bác nên nhớ rằng đạn chài chỉ cần nổ một phát là chết cả chục mạng như chơi, nó văng miệng tùm lum. Đằng này những ba khẩu kê bắn một lượt lận. Rầm, rầm...
Thằng Cộc đứng thẳng dậy, cung tay như người bắn súng, miệng phát ra những tiếng rầm rầm tưởng tượng. Dân xỉn vỗ tay lốp đốp:
- ý kiến nghe được đó.
Cộc cao hứng càng ba hoa dữ. Nói huyên thuyên vế thời hắn còn ở lính, ngày hắn xử dụng khẩu súng đạn chài, chống lại súng ngựa trời của Vixi và chống lại những đợt tấn công biển người.
Sau câu nói, Cộc nhịp nhịp bàn tay như đang hình dung ra phía trước mặt xác người ngổn ngang. Hai Thợ bèn giơ tay vin Cộc ấn ngồi xuống ghế.
- Thôi xin cha nội, bộ mới uống nhiêu đó đã lên vậy sao?
Tóc tai Cộc dựng đứng, hắn líu ríu nói:
- Các người có công nhận súng đạn chài ăn trùm không?
Hai Thợ xuống nước:
- ăn trùm là cái chắc, rồi mình phải bàn đến chuyện làm đơn chớ.
Cộc phát vỗ tay bạch bạch:
- ý kiến của tôi được bà con chấp nhận chớ, nào chúng ta cụng ly.
Tất cả mọi người đều nâng ly cụng vào nhau lanh canh. Họ ngửa cổ uống ừng ực, nhiều người đã cởi áo vắt vai, rượu tràn ra khỏi miệng chảy dài theo cần cổ xuống ngực. Những đôi mắt đỏ ngầu mất hết vẻ tinh anh, họ cười vu vơ, nói năng lộn xộn. Chiếc đèn măng-sông bị gió từ ngoài thổi vào lao chao làm ánh sáng trong quán trở nên nhấp nhá. Cuối cùng cuộc bàn cãi về việc trừ khử chim cũng xong. Thầy giáo Lượn được chỉ định việc làm đơn đệ lên đồn trưởng xin lính bắn súng. Thầy giáo Lượn không mấy quan tâm về việc đó. Thầy thấy người mền mệt nên cứ nhấp nhổm muốn về. Khuya cơn hen xuyễn của thầy thường nổi lên bất tử.
Thầy giáo Lượn đưa mắt nhìn thầy pháp Ba Gà Mổ, thằng cha coi bộ đã đời. Câu chuyện nói trong bàn nhậu trở nên bát nháo không còn ra đầu ra đuôi gì nữa.
Bẩy Lươn Um thấy trời khuya nên nhắc khéo:
- Khuya rồi đó cô bác, liệu về sớm mai còn đi làm.

Cuộc ăn nhậu tàn, mọi người tản mát ra về. Cộc vừa đi vừa nhìn lên trời. Những cành cây sao khô vươn lêu nghêu lên bầu trời như những cánh tay xương. Những con chim vẫn đậu củ rũ trên đó. Có lẽ chúng đói lắm, thỉnh thoảng có một con vỗ cánh phạch phạch kêu lạc lõng. Trời nóng nực đến ngột ngạt. Có thể đêm nay sẽ đổ xuống một trận mưa. Cộc chỉ tay lên trời hăm:
- Tụi bay sẽ chết mẹ hết nghe, đồ ăn cướp, đồ phá hoại. Hãy kêu đến cho thiệt nhiều rồi chết một lượt cho vui.

Căn nhà của thầy giáo Lượn ở tuốt tận cuối xóm. Cách gốc cây sao chừng hai chục thước. Một cành khô to vươn ngang nóc nhà, căn nhà làm bằng cây, lợp lá gồi, tầng dưới dùng làm lớp học, căn trên có cầu thang gỗ bắc từ ngoài lên bao lơn làm lối đi riêng. Hàng đêm, một vài con chim cao hứng tung cánh bay vù vù, xà thấp Đôi khi chúng đánh nhau chí choé. Giáo Lượn về tới nhà vào khoảng mười hai giờ đêm. Hắn bật quẹt châm vào ngọn đèn Hoa Kỳ trên bàn làm việc. Hắn mở cửa sổ đứng nhìn mung lung ra ngoài trời. Phía xa là nghĩa địa, căn nhà xác ở phía trái, một con đường nhỏ lượn vòng đủ lọt chiếc xe nhà binh từ ngoài lộ dẫn vào nhà xác.
Giáo Lượn nhìn lên cao, những cành cây khô trụi những con chim đậu trên cành thành những chấm đen bất động. Một cơn gió bỗng dấy lên làm ngọn đèn trong phòng lao chao như muốn tắt. Giáo Lượn nhìn bầu trời không một vì sao. Có lẽ trời mưa mất, hắn nghĩ thầm. Hắn khép hai cánh cửa sổ, gài then cẩn thận, trơ vào cởi quần áo. Gió bên ngoài mỗi lúc mỗi thổi mạnh hơn. Mái lá mỏng manh chuyển động, các cột kèo kêu răng rắc, bức tường ghép bằng cạc tông cũng rung rinh. Giáo Lượn lay lay chiếc cột gỗ như thử lại sức chịu đựng của căn nhà với gió mưa. Hắn chẳng quan tâm đến điều đó. Hắn trở vào lấy bình thuốc xịt có chiếc bơm cao su dài lòng thòng kê vào miệng bơm xịt xịt. Hắn ngáp ngáp mấy cái. Dễ chịu. Giáo Lượn tắt đèn lớn, thắp lên chiếc đèn dầu hột vịt, ánh sáng mờ mờ, hắn vào giường nằm. Tiếng gió vẫn rít lên không ngừng, hình như mỗi lúc một mạnh hơn làm căn nhà chuyển mình rắc rắc dễ sợ. Những con chim đậu trên cành cây nháo nhác. Giáo Lượn thây kệ, nằm xái tay lơ mơ ngủ. Mùi rượu nồng nặc vẫn chưa hả, giáo Lượn cảm thấy mệt mỏi một cách lạ lùng...
Đang chập chờn, bỗng tiếng gõ cửa nổi lên dồn dập, giáo Lượn ngồi nhỏm dậy nghe ngóng. Khi nhận rõ tiếng gõ cửa có ám hiệu quen thuộc, giáo Lượn vén mùng chui ra. ánh sáng đèn lung linh chiếu hắt bóng giáo Lượn lên vách. Tiếng gõ cửa đều đều, mỗi lúc một mạnh hơn. Giáo Lượn gắt:
- Biết rồi, làm chó gì mà rộn lên vậy?
Giáo Lượn cầm đèn đi ra cửa. Hắn nâng then.
Tiếng đàn bà vọng vào:
- Em đây mà cưng, bộ mệt sao mà gắt dữ vậy?
Cánh cửa hé mở đủ để một người vào lọt, giáo Lượn đưa đèn vào phía trong cho khuất gió. Một khuôn mặt đàn bà ló vào, vợ bé của thầy pháp Ba Gà Mổ. Giáo Lượn hỏi nhỏ:
- Hắn đi đâu rồi?
Chị đàn bà lọt hẳn người vào phòng, tự động đóng cửa cài then:
- Say mèm còn biết trời đất gì nữa đâu!
Giáo Lượn trở lại giường chui vào mùng, hắn nói vọng ra:
- Coi chừng có lần mất mạng cả đôi, thằng thầy pháp Ba Gà Mổ không vừa đâu nhá.
Chị đàn bà chui theo vào mùng:
- Nhằm nhỏ gì, thằng chả ngu như bò.
Giáo Lượn nằm ngửa, thở. Chị đàn bà cúi xuống trên mặt hắn. Giáo Lượn cằn nhằn:
- Thôi để nguyên cho người ta ngủ. Chị đàn bà có vẻ bất mãn, mụ nhìn sững vào mặt người anh, gằn giọng:
- Nè, nói thiệt cho mà nghe, đừng có tính đến chuyện phụ rẫy con này.
Tiếng nói của giáo Lượn trở nên yếu ớt:
- Không phải vậy, nhưng hôm nay anh mệt quá, hồi tối nhậu hơi nhiều, không quen...
Chị không còn gay gắt nữa sau câu nói của giáo Lượn. Chị hỏi:
- Có phải các anh bàn về vụ mấy con chim không?
- ứa!
- Rồi sao?
- Giết chúng, anh được chỉ định làm đơn gửi lên đồn mượn súng và lính về bắn.
Gió ngoài trời mỗi lúc một mạnh hơn. Một tiếng động trên mái nhà. Chị đàn bà ôm lấy người tình:
- Cái gì đó?
Giáo Lượn nghe ngóng rồi trả lời:
- Có lẽ một cành cây gẫy.
Bàn tay mát rượi của chị ta lần vào trong áo giáo Lượn, mắt nhìn lên mái:
- Phía trên mái nhà anh có một cành cây lớn lắm, nó mà rớt xuống là bỏ mạng cả đôi.
Giáo Lượn tỉnh khô:
- Còn khuya em ơi, vả lại mình đâu có ở đây lâu nữa. Được chết bên em là hạnh phúc nhất cho đời anh.
Đôi mắt chị đàn bà hấp háy trong ánh sáng nhá nhem, đôi mắt chị trở nên long lanh tình tứ:
- Thiệt há mình, em chán thằng cha Ba Gà Mổ quá rồi, nó lường gạt tía em để lấy em, hại cả một đời son trẻ.
- Biết rồi, ráng chịu ít lâu nữa đi nghe, anh còn phải thu xếp...
Giọng chị đàn bà trở nên hờn dỗi:

- Ráng chịu, ráng chịu hoài à! Tình trạng phập phồng này mỗi lần đến với mình em lo lắm.
Giáo Lượn vuốt ve người yêu:
- Nhà mình ở tách biệt hẳn với lối xóm ai biết được. Vả lại, em chỉ đến vào đêm hôm khuya khoắt, mưa gió thế này.
Chị đàn bà dúi mặt mình vào khuôn mặt lép kẹp của người tình. Những chiếc hôn thật dài điểm trên da thịt giáo Lượn làm hắn thấy xốn xang. Chị như con cọp cái trước miếng mối xương xẩu. Giáo Lượn năn nỉ:
- Tội nghiệp anh mà, đêm nay anh mệt quá sức rồi. Ngọn đèn dầu quên tắt trên bàn lao chao. Gió rít mạnh ngoài trời và mưa xối xả trên mái lá. Quá nửa đêm, chị đàn bà tỉnh dậy khi nghe thấy âm thanh gù gù cạnh mình. Đèn tắt, giáo Lượn đang ngồi bó gối trên giường thở gấp, hơi thở hắn hình như bị tắc nghẹn ở cổ họng. Hắn ráng thở nên âm thanh trở nên gù gù. Chi đàn bà mò thấy giáo Lượn, chị phát cười như nắc nẻ:
- Coi kìa, coi kìa, anh gù như con chim bồ câu gọi mái.
Giáo Lượn ráng nhịn thở khều tay ra hiệu cho người tình:
- Cái bơm, cái bơm ở bàn...
Lời nói của giáo Lượn trở nên tội nghiệp. Chị biết mình đùa hơi quá trớn và không phải lúc. Chị lại cảm thấy yêu thương người anh hơn. Chị đỡ giáo Lượn nằm xuống. Nhưng hắn gạt tay ra, hắn không thể nằm được khi cơn hen đang hành hạ.
Chị đàn bà tung màn ra bàn lấy cái bơm, trở lại kê vào họng giáo Lượn. Giáo Lượn ngửa mặt, quờ lấy cái bơm cao su bóp lấy bóp để, như đứa trẻ đói sữa mò được vú mẹ. Một lát cơn xuyễn dịu xuống, giáo Lượn dễ thở hơn. Bấy giờ chị mới đỡ người tình nằm xuống. Gió mưa bên ngoài ào ạt, tiếng chị nói nhỏ bên tai người tình đầy xót xa:
- Tội nghiệp mình quá, tội quá!
Giáo Lượn lim dim trong sự vuốt ve trìu mến của người yêu, sự sảng khoái dâng lên ngập hồn. Gần sáng, mưa gió bão bùng mỗi lúc một dữ dội hơn, căn nhà chuyển mình răng rắc làm hai người thức giấc hốt hoảng.
Giáo Lượn tốc màn ngồi dậy, hét lên:
- Nguy rồi em ơi!
Nguyên tấm mái lá bị trốc, gió cuốn bung đi, mưa ào ạt tạt vào nhà. Gió thổi bung mất vách, Giáo Lượn và tình nhân chạy cuồng lên trong căn nhà tan hoang. Tiếng thân cây chuyển mình. Cả hai cùng thét lên.
Liên gia trưởng Hai Thợ ngồi bật dậy khi nghe tiếng đổ xầm ở cuối xóm, tiếng đổ nặng nề làm rung rinh cả nhà cửa. Hắn lay vợ:
- Nguy rồi, cây đổ!.
Mưa gió vẫn ào ạt. Chị vợ cũng ngồi dậy ngơ ngác:
- Cây đổ vào nhà ai rồi?
Hai Thợ lo lắng:
- Mạn cuối xóm, không chừng chỗ nhà thầy giáo.
- ứa, em cũng nghĩ vậy.
- Để anh chạy ra coi.
Chị vợ níu tay chồng:
- Đừng anh, nguy hiểm lắm, chờ mưa ngớt đã.
Mãi tảng sáng mưa mới tạnh, cơn bão đã đi qua.
Người lối xóm chạy ra chỗ cây đổ hối hôm. Cây vẫn đứng trơ trơ, chỉ riêng một cành lớn gầy, cành cây to bằng một thân cây đè lên sườn nhà còn lại của thầy giáo Lượn. Thầy pháp Ba Gà Mổ từ trong xóm chạy ra kêu um lên:
- Bà con cô bác thấy vợ tôi đâu chỉ giùm làm phước, đêm qua khi tôi về nhà còn thấy nó ngủ kia mà.
Những người khác nhớn nhác gắt gỏng:
- Ai biết, nhà thầy giáo bị cây đè xập rồi, thấy không?
Y tá Chín lon ton xách thùng thuốc chạy ra:
- Có người bị thương không?
Người đầu tiên chạy tới nơi xảy ra tai nạn là liên gia trưởng Hai Thợ. Anh nhìn vào căn nhà nát bấy rồi đứng cúi mặt. Những người chạy chưa tới lên tiếng hỏi:
Có ai làm sao không, anh Hai? Hai Thợ không trả lời, anh quay lưng lại. Rồi đám đông cũng tới nơi. Họ đứng lại, có người ôm mặt kêu lên thảng thốt:
- Trời ơi?
Y tá Chín bỏ rơi thùng thuốc xuống chân:
- Vầy còn cứu sao nổi! ở quanh đó, nóc vách nhà bay tứ tung, bàn ghế cũng vậy, như có một bàn tay khổng lồ bốc từng nắm tung hê ra bốn phía.
Thầy pháp Ba Gà Mổ chạy tới. Hắn đứng khứng:
- Trời ơi, vợ tôi đây mà!
Dưới chàng ba cây, xác giáo Lượn và xác vợ thầy pháp Ba Gà Mổ chết bẹp bên nhau. Cả hai cùng lõa lồ. Ba Gà Mổ điên tiết, lão dẫm chân bành bạch, mắt quắc muốn tét mí, tay xỉa xói:
- Trời phạt tụi bay, tổ cha quân gian phu dâm phụ, đồ quạ mổ ó đâm. Trời ơi, tôi đâu có ngờ...
Hai người đàn ông níu chặt hai cánh tay Ba Gà Mổ không cho lão nhào tới xác chết. Xác chết nằm bật ngửa, khắp người đầm đìa máu, máu loang ra cả sàn nhà ướt rác rưởi. Khắp người nạn nhân hình như sau khi chết còn bị những mỏ nhọn rỉa rói, có chỗ trơ xương, bụng bị xé rách toang, ruột gan lòng thòng. Bốn lỗ mắt sâu hoắm.
Hai Thợ thở dài buồn bã:
- Tôi đâu có dè sự thể như vầy!
Thầy pháp Ba Gà Mổ vẫn gào thét chửi bới. Mọi người ngửa mặt nhìn lên những cành cây sao còn lại. Những con chim vẫn đậu ở đó, chúng rỉa lông rỉa cánh, có con nghển cổ kêu khét khét. Một đứa trẻ chỉ lên cành cây cao:
- Coi kìa, có khúc ruột thòng lòng.
Mọi người định thần nhìn theo hướng tay trỏ của đứa bé. Họ nghi ngờ:
- Hình như không phải khúc ruột.
Mãi sau y tá Chín mới nhận ra:
- A đúng rồi, cái bình bơm thuốc xuyễn của giáo Lượn. Trời, mấy con chim thiệt là...
Y tá Chín bỏ lửng câu nói.
Bầu trời xám ngoét như thấp hẳn xuống. Chín Méo từ đâu tới xăm xăm đi vào, cái thằng làm nghề tảo mộ bất lương, chuyên môn ăn cắp đồ người chết chôn theo:
- Cô bác yên chí, để tôi bao thầu dọn dẹp luôn đám này cho.
Không chờ ai đồng ý, Chín Méo tự ý dọn dẹp bươi móc những đồ vặt vãnh, hình như hắn vừa đút cái gì vào túi. Có người trông thấy la lên:
- E, Chín Méo hôi của!
Chín Méo nhe răng cười:
- Sức mấy không hôi!
Trẻ nhỏ và người lớn nhảy ùa vào. Chỉn Méo vùa la vừa nạt nộ:
- Ê, hổng được nghe, tôi tới trước.
- Bỏ đi Tám!
Đám người như giặc cướp xông vào bới tung lên.
Một đứa nhỏ ôm được chiếc la dô chạy pin, một đứa khác có chiếc đồng hồ để bàn, đứa lượm được cái bóp tiền của giáo Lượn. Đứa không có gì liền nhảy đến chụp. Thế là một cuộc xô xát xảy ra, tiếng chửi thế vang rân át cả tiếng quát tháo nạt nộ của ông liên gia trưởng Hai Thợ.
Không ai nghe, nói đúng hơn chẳng ai eần nghe. Đám xô xát mỗi lúc một dữ dội, có kẻ đã đổ máu, lần này thêm cả người lớn nhập cuộc binh con. Hai xác chết thê thảm vẫn nằm trơ trơ. Thầy pháp Ba Gà Mổ lên cơn, nhẩy múa như lên đồng, hô hoán gọi âm binh. Những con chim đậu trên cành cây ngó ngoái cổ nhìn xuống. Chúng kêu khét khét như âm thầm hỏi nhau chuyện gì xảy ra ở dưới kia thế
Chiếc ống bơm bằng cao su đu đưa trong gió sớm mai.
Bầu trời nặng màu chì.
1960
Người ở lại thế gian
Tập Truyện Ngắn
Lão ba Nghiêu suốt ngày ngồi trên ghế xích đu hút thuốc rê. Một nửa người lão bị tê liệt từ mười năm nay. Chiếc ghế lão nằm kê ngay ở hàng hiên nhìn ra khu vườn xanh rì cây lá. Lão ba Nghiêu đã già lắm, mặt lão nhăn nheo, nhăn nheo như da quả trám khô. Mùa nắng lão chỉ mặc có chiếc quần đùi rộng thùng thình, cổ vắt một chiếc khăn rằn ri cũ mèm để lau mồ hôi. Thân hình lão gầy còm khô héo như xác ve sầu, hai chân lâu ngày không vận động trở nên nhỏ teo khô quắt lại như hai khúc ống sậy. Cái bụng luôn luôn hở rốn, nhăn nhúm như một cái túi da mốc thếch. Thú vui độc nhất của lão là hút thuốc rê, trên cái miệng móm mém lúc nào cũng bập bập điếu thuốc quấn vụng to bằng ngón tay cái. Lão có thể điều khiển điếu thuốc chạy từ mép bên này sang mép bên kia rất gọn. Nhưng đừng tưởng lão nằm một chỗ như vậy mà không biết gì. Lão là người kỳ cựu ở đây. Lão nằm, lão nghe ngóng và hiểu hết mọi chuyện. Thằng cháu nội của lão là cu Sún, chính nó là cái máy truyền tin nhanh chóng nhất. Bố cu Sún là anh hai Khâu chạy xích lô máy suốt ngày. ở nhà chỉ có hai ông cháu. Cu Sún chạy rong trong xóm, nó lưu ý đến tất cả mọi chuyện để về kể lại cho ông nghe.
Khi cu Sún chạy về nhà, lão ba Nghiêu đã hút tàn một điếu thuốc rê, lão đang vấn điếu khác. Lão để miếng giấy vào lòng bàn tay trái, rắc một ít thuốc lên trên, kế đó lão hơi uốn cong góc giấy, lão dùng bàn tay kia xoe tròn một cái. Thế là điếu thuốc thành hình sâu kèn, lão đưa lên miệng, thè lưỡi rơ qua một đường, dán lại. Lão dùng móng tay út lùa những sợi thuốc lồm xồm vào điếu thuốc cho gọn gàng, đoạn để lên môi.
Điếu thuốc được chuyển đi chuyển lại nhiều lần từ mép này sang mép kia. Lão chưa đốt vội, lão ngẩng lên hỏi thằng cháu mặt mày bẩn tèm lem:
- Có chi lạ không mày?
- Bữa nay trên chùa ông Tám Tô có đám ma.
Vậy hả, hèn gì tao nghe chuông trống dộng hoài từ sáng đến giờ, mà ai chết hồng?
Thằng cu Sún quệt ngang mũi:
- Anh hai Du, nội à.
Lão ba Nghiêu đang định mồi lửa. Lão ngừng tay bật quẹt máy ngẩng lên hỏi:
- ủa, thằng hai Du đi lính mà?
- ứa, ở nhà ảnh mới nhận được tin ảnh chết trận.
- Vậy hả, có mang xác về không?
- Chết mất xác đâu đó.
Lão ba Nghiêu bật quẹt máy xoè xoè. Lão bập bập điếu thuốc nhả khói mù mịt, chép miệng:
- Tội nghiệp không, nó mới cưới vợ năm rồi. Nè, mày qua bền thì nói với ông cụ Chất tao gởi lời chia buồn nghe.
- Dạ!
Thằng cu Sún định chạy đi. Lão ba Nghiêu gọi giật lại:
- Nè, đi đâu đó?
Cu Sún tưởng nội nó hỏi tin tức nữa, nó nói:
- Hết chuyện rồi, nội à!
- Tổ cha mày, tao đâu thèm hỏi chuyện nữa, mày mang cái quẹt máy đi xin cho tao ít xăng.
Nói xong, lão trao cho cháu cái quẹt, thằng bé chạy khỏi. Lão nằm hút thuốc nhả khói tùm lum nhìn ra ngoài vườn cây, lắng nghe tiếng tụng kinh từ trên chùa Tám Tô vẳng lại. Lão lầm bầm chửi thề:
- Đ M. thằng Tám Tô đạo đức giả!
Lão ba Nghiêu vốn ghét Tám Tô từ hồi nhỏ, lớn lên lão lại mang một mối hận tình.
Hồi đó lão Nghiêu còn trai trẻ, lão yêu thương con Hồng. Tám Tô cậy thế con nhà giàu cướp của lão.

Sau này vợ chồng Tám Tô cũng chẳng được hạnh phúc gì, con Hồng sinh ra bài bạc. Tám Tô lập chùa. Dân trong xóm nói Tám Tô chán đời nên muốn nương nhờ cửa Phật. Riêng lão Nghiêu không nghĩ thế, lão cho rằng có một âm mưu đen tối trong vụ đi tu này. Lão kinh tài bằng cửa Phật. Này nhé, lão có một trại đóng hòm, có chùa, có nghĩa địa cho thuê. Dân vùng này chết, ai cũng phải qua tay Tám Tô hết. Tám Tô bán hòm, làm ma rồi cho thuê luôn đất chôn. Thế là bao nhiêu mối lợi người chết đều vào tay thầy chùa Tám Tô.
Lão Nghiêu nằm nghĩ lan man về dĩ vãng mình.
Cuộc đời lão gắn liền với xóm này, lão ra đời, sống, lấy vợ, sinh con đẻ cái ở đây. Lão nghèo nhưng cũng còn mảnh vườn ông cha để lại. Lão biết rõ từng gia đình trong xóm. Qua bao nhiêu cuộc đổi đời, lão Nghiêu vẫn sống ở đây. Lão ghét Tám Tô, nhưng vẫn phải sống gần Tám Tô, đó là điều ân hận nhất đời lão. Nhiều khi uất hận quá, lão nói với thằng con trai, hai Khâu:
- Tao nói thiệt cho mày biết, tao mà chết thì để quạ đến rỉa xác tao, chớ mày mà nhờ thằng thầy chùa Tám Tô làm đám, tao vế bóp cổ mày chết tươi đó, Khâu à?
Hai Khâu nghĩ cha mình già nên lẩm cẩm, anh gạt đi:
- Tía thiệt kỳ, chuyện ngày xưa mà hơi sức đâu nhắc hoài, nghe bắt ngấy!
Lão Nghiêu nói trớ đi:
- Tao ghét thằng chả đạo đức giả.
Hai Khâu đi làm về mệt nhọc nên không khỏi bực tức, anh nói bét ra:
- Chớ không phải chuyện bà Hồng sao?
Thế là lão Nghiêu to tiếng, lão ngoan cố, vừa chửi vừa giải thích. Lão nhất định không nhận lời nói của con gán cho.
Hai Khâu không trả lời cha nữa. Anh bỏ ra quán chú Lì nhậu lai rai ba sợi. Lão Nghiêu càng tỏ ra thâm thù Tám Tô, có dịp là lão không tiếc lời chửi bới.
Nắng đã lên cao, chờ mãi không thấy thằng cu Sún mang quẹt về, lão đã vấn sẵn hai ba điếu thuốc rê mà không có lửa mồi. Lão ngậm một điếu thuốc trên môi đưa qua đưa lại, lão thắc mắc:
- Thằng Sún đi đâu mà lâu vậy cà?
Có ai đi qua lão mồi nhờ miếng lửa.

Quán chú Lì ở ngay đầu xóm. Địa điểm đó là một ngã ba đường dẫn ra lộ chính. Người ta không biết chú ba Tầu này đến đây mở cửa hàng từ đời thuở nào, nhưng từ bao nhiêu năm nay vẫn không có gì thay đổi. Bàn ghế cũ kỹ, quán hàng lụp xụp. Thực đơn: Buổi sáng có cơm tấm, bàn bì, cà phê. Buổi chiều có cháo giò heo, bì cuốn, đồ nhậu lai rai và rượn đế. Quán đông khách thường xuyên vào buổi sáng sớm, dân lao động ra ăn điểm tâm đôi ba đồng bạc trước khi ới làm. Buổi tối gần như dành riêng cho các tay nhậu. Họ bàn tán với nhau đủ mọi chuyện xảy ra ngoài thành phố.
Cầu chuyện chỉ tàn khi rượu đã cạn và đêm về khuya. Một vài người quá chén nói bậy bạ vài câu trước khi ra về.
Buổi tối hôm nay, trên chùa Tám Tô làm đám cho Hai Du, dân nhậu bu đông ở trên.
Quán chú Lì vắng khách.
Dân nhậu lai rai chỉ có vài ngoe ngồi trông buồn xo một vài người bàn tán về cái chết của Hai Du, tất cả đều nói trật lấc, họ nói Hai Du bị mã tấu chém lìa đầu người nói bị súng ngựa trời bắn banh xác. Người ôm xác Hai Du lần cuối đang ngồi đây, nó là bạn Hai Du từ hồi nhỏ. Nó bận quần áo lính nhảy dù rằn ri ngồi uống đế lầm ri ở một góc quán. Mặt nó sắt lại như đá, nó lặng nghe những bậc chú bác nói chuyện về bạn, nhưng không lên tiếng. Đôi mắt nô ngầu đỏ nhìn ra ngoài trời tối mông lung. Con hẻm tối có những cơn gió chạy dài khua động lá cây xào xạc. Gã thanh niên mặc bộ đồ dù tu nốt xị đế, đặt cái chai không đến cộp xuống bàn:
- Chú Lì, cho thêm một xị nữa đi!
Chú Lì ngần ngại nhìn nó:
- Keo à, mày uống nhiều rồi đó!
Thằng Keo một lần nữa dằn mạnh cái chai, mắt dữ tợn, nhắc lại:
- Cho một xị nữa!
Chú Lì thấy bắt ớn. Chú hơi ngạc nhiên vì tính nết thay đổi bết thường của thằng Keo. Hồi chưa đi lính, nó là thằng thanh niên hiền lành nhất xóm. Vậy mà... Roạt? Nó rút mạnh con dao lê dấu trong bụng ra cắm phập xuống bàn. Cán dao rung lên. Chú Lì đành ra phía sau nhà róc đế. Chú gặp thằng cu Sún đứng thập thò ở đó. Chú nói nhỏ:
- Sún, mày "dĩa" kêu ba thằng Keo ra giùm tao, biểu rằng thằng Keo nhậu say sắp phá quán tao nghe mây!
Sau đó chú Lì cũng mang đế ra cho thằng Keo. Nó tu đế khè khè như rắn. Đôi mắt đỏ ngầu rọi ra đầu xóm tối om. Tất cả mọi người có mặt ở đó thầm hỏi:
"Thằng Keo chờ đợi ai?".
Thắc mắc ấy chỉ một lát sau được chính thằng Keo giải đáp. Nó uống hết già nửa xị đế, tay cầm cổ chai chống lên đùi, tay kia nắm lấy chuôi dao, mắt quắc dữ tợn, răng nghiến trèo trẹo. Tiếng nói nó trở nên cay nghiệt:
- Mẹ nó, tôi phải xả thịt nó ra, quăng cho chó ăn, quân phản bội, đồ đàn bà chó đẻ. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Thằng Keo rít lên, nhưng rồi nó cười nhạt:
- Đàn bà, đàn bà thề non hẹn biển rồi nuốt lời. Quân chó đẻ đó tôi không thể để nó sống được ở trên đời này. Dân nhậu lại đưa mắt dò hỏi nhau:
- Nè, ai đó?
- Hổng biết!
Mặt thằng Keo lạnh như tiền, làm nhàm:
- Về đây con, về đây, ông cố nội mày lụi mày đủ mười lát dao thôi. Đ.M mới đi lính mười tháng, thót đi làm điếm rồi. Đ.M nhơn tình thế thái. Đ.M mình chết lên chết xuống, cực nhọc hơn con chó để nó ở đây chửng giỡn với ba thằng Mỹ.
Chửi rủa như vậy hình như thằng Keo chưa đã giận. Nó đứng dậy rút phất con dao cầm lăm lăm trong tay. Dân nhậu hoảng hồn, một người lên về kêu ba thằng Keo. Một vài người khác bạo dạn hơn trờ tới tìm lời mềm mỏng khuyên giải:
- Keo à, mày có điếu gì buồn phiền thì vô đây nói tụi tao nghe coi. Hung hăng vậy coi sao đặng, dân nhậu phải tỉnh táo mới đáng mặt chớ mày.
Thằng Keo trừng mắt:
- Mấy người biết gì! Đ.M. đừng xía vô chuyện tôi chết oan à! Giết con Lan xong, thằng này tự sát liền cho coi.

Lúc đó đám nhậu mới hiểu nỗi lòng thằng Keo. Thì ra mèo thằng Keo là con Lan hiện giờ đi bán "ba " ở Sài Gòn. Chú U thấy mình có ít nhiều trách nhiệm trong vụ này. Chú xông ra nắm tay thằng Keo:
- Keo à, tao nói phải quấy mày nghe, giết con Lan tội nghiệp nó. Hoàn cảnh bắt buộc đó mày.
Thằng Keo la lên:
- Ai bắt buộc nó, phải con đĩ mẹ nó không. Tôi vô lụi chết luôn một thể.
Chú Lì xuống nước năn nỉ:
- Keo ơi, tao xin mày, van mày, quanh đây bà con cô bác không à. Mày xử vậy coi sao được.
Thằng Keo hậm hự:
- Tôi chán đời rồi, tôi đếch cần? Tôi thề con Lan phản bội tôi, tôi giết nó.
Chú Lì phân lẽ phải trái:
- Mày còn thương con Lan chớ gì, mày để nó làm ăn, tội nghiệp nó vì hoàn cảnh gia đình. Nó đâu muốn vậy!
Thằng Keo bớt hung hăng, tay cầm con dao bỏ xuôi lơ. Mắt nó mở thao láo nhìn con hẻm tối. Tất cả bực tức dồn nén bao lâu nay bất giác làm nó tủi phận. Nó nghĩ đến hình ảnh người yêu, rồi nước mắt nó chảy ra, nó gục đầu khóc trên bàn.
Nó thật tình thương con Lan, nhưng nó tự ái. Lâu nay con Lan không còn viết thư cho nó nữa, cho đến bây giờ nó trở về để tìm hiểu sự thật. Một sự thật đắng cay. Bao nhiêu nỗi buồn đè nặng trong lòng nó. Hai Du chết rồi và con Lan đi bán "ba ", nghề đó đâu có xa nghề làm điếm. Đêm nay nó ngồi đây, chờ người tình phụ bạc để lụi ít dao. Nó tự hỏi không biết mình có mù quáng không?
Khách nhậu thấy thằng Keo ngồi gục đầu trên hai tay, đôi vai rung lên. Nó đang khóc, nó nức nở gọi tên người yêu:
- Lan ơi, Lan ơi!
Một khách nhậu đến định an ủi nó thì chú Lì can:
- Đừng anh, để cho nó khóc, tội nghiệp, nó khóc được thì nó đỡ khổ.
Trong khi đó mẹ con Lan đã được thằng cu Sún chạy đến báo tin dữ. Bà hoảng hồn, miệng nam mô chạy ra đầu xóm kêu xe dông tuốt lên chỗ con Lan bán, dặn nó đừng về mà nguy hiểm đến tính mạng.
Con Lan nghe tin đó không hề xúc động, nó nhún vai:
- ảnh giết con cũng được chớ sao?
Bà Hoa gắt nhỏ:
- Mày nói chi kỳ vậy. Tao đẻ ra mày để thằng nào muốn đâm muốn chém cũng được sao. Mày còn phải trả hiếu cho tao, phải nuôi tao. Mày vẫn còn thương thằng đó sao? Đừng có lãng mạn rởm, chết vì tình.
Lan thản nhiên:
- Hết thương rồi, từ ngày má biểu con, con đâu dám thương ảnh nữa. ảnh đi lính đâu có tương lai, con ra đây bán ba kiếm chồng Mỹ bảnh hơn nhiều mà.
Bà Hoa biết con gái nói mỉa, bà cau có:
- Tao có cấm cản mày đâu!
- Dạ, nhưng ảnh không vừa ý má thì con thôi liền. May ra bán hàng ở đây kiếm được chồng sĩ quan Mỹ, má à.
Nghe con gái nói móc mình, bà Hoa đay nghiến:
- Có phải mày gài tiếng ác cho tao không?
Lan cười thản nhiên:
- Má đâu có ác, chỉ có con xấu thôi, con chót thề thốt với người ta rồi con lại nuốt lời. Đứa con gái như vậy đáng chết, thôi má "dĩa" đi, mặc con.
Bà Hoa đi khỏi, Lan thở dài. Nàng lẩm bẩm một mình:
- Em đáng tội chết lắm, anh ơi. Phải chi anh hiểu cho em.
Nói xong muốn bật khóc, nàng trở vô quán. Nàng bắt gặp những khuôn mặt đàn ông phè phỡn. Khi bà già con Lan về tới xóm thì bà con cho biết tiếng Keo bị bố nó ra xàng cho một cây rồi xách cổ về nhà. Bà già con Lan đứng phân bua:
- Đó, cô bác coi, tôi khổ vì con quá sức. Biết vậy hồi con Lan còn nhỏ, tôi bóp mũi nó chết ngắc cho rồi. Tôi biểu hoài nó đừng thương thằng đó, nó đâu có nghe tui.
Một người ngứa miệng xía vô:
- Mà chị cản ngăn nó chi vậy, tụi nó thương yêu nhau thì gả phút đi cho rồi.
Mẹ con Lan trề môi:
- Tui biết người biết của mà, tui biết con Lan dại dột bị rù quên nên khuyên bảo vậy thôi. Cô bác tính coi lấy cái thằng suốt ngày chỉ đờn ca, hát xướng mất công mình nuôi rể luôn, cái thứ nghệ sĩ đó đói rã họng suốt đời
Bà con lối xóm thấy trời khuya tản mát ra về. Họ chán nghe cái giọng điệu của bà già con Lan. Bác Bẩy Thương đóng cửa cái rầm:
- Đ.M đêm khuya mà um xùm hoài. Mẹ, cái thứ đạo đức giả đó sao không có thánh thần nào vặn họng đi cho rồi.
Chị Bẩy Thương nằm trong mùng cho con bú, gắt vọng ra:
- Ông thiệt kỳ, chuyện người ta mắc mớ gì đến mình.
Bị vợ át giọng, Bẩy Thương nổi nóng:
- Nè, câm miệng, xía vô tao dộng chết mẹ.
Nói xong Bẩy Thương bỏ ra hàng ba tới ghế bố nằm. Anh thoáng nhìn thấy bóng một thằng nhỏ lấp ló gần đó. Anh lên tiếng hỏi:
- Đứa nào đó?
- Cháu đây bác Bảy!
- Sún đó hả mây?
- Dạ!
- Không đi về ngủ còn đứng lấp ló chi đó?
Thằng cu Sún lủi thủi ra về. Nó chợt lo ngại. Chết mẹ, cái máy quẹt chưa tìm thấy, về ăn nói sao đây với ông nội? Quả nhiên khi về tới nhà, nội nó còn nằm ở ghế xích đu hút thuốc rê. Bây giờ lão Nghiêu phải dùng chiếc đèn dầu hột vịt mồi lửa. Thấy cu Sún nép nép đi vào, định chui vào mùng, lão gọi giật giọng:
- Sún, ra tao biểu!
- Dạ!
Thằng Sún đành leo xuống. Chờ cho nó tới gần, lão Nghiêu hỏi giận dữ:
- Máy quẹt của tao mày kiếm thấy chưa?
Cu Sún đứng gãi đầu gãi tai:
- Dạ, cháu kiếm hoài mà... mà...
- Mà cái con ớ mẹ mày! Tao cho mày một ngày nữa đó, không kiếm thấy thì đừng vác cái bản mặt về đây!
Chửi cháu xong, lão nằm ngửa mặt hút thuốc, lão thưởng thức hương vị đậm đà của điếu thuốc rê. Lão biết bây giờ có la thằng cháu cũng vô ích. Lão nghe tiếng trống tung tung từ trên chùa Tám Tô vọng xuống. Lão bực mình lẩm bẩm chửi:
- Đ M thằng thầy chùa Tám Tô um xùm hoài.
Quay lại thấy thằng Sún còn tần ngần đứng đó, lão biết ý nó muốn thông tin. Lão hất mặt hỏi:
- Chi lạ không mày?
- Dạ, thiếu giống.
- Nói tao nghe coi.
Thế là thằng cu Sún kể thao thao câu chuyện rùng rợn thằng Keo tính giết con Lan ngoài quán chú Lì cho nội nghe. Lão già hỏi tới:
- Vậy hả, rồi sau sao?
- Anh Keo bị ông già xách đầu về dộng vô lu nước.
- Đ.M. vậy mà không để cho nó lụi chết thứ đàn bà phản phúc đó cho rồi. Còn má con Lan sao?
- Bả chửi anh Keo quá trời!
- ứa, còn con mẹ đó nữa, cũng đáng lụi cho nhát dao lắm. Bà con lối xóm đâu có ai ưa.
Thằng Sún chộp được cơ hội:
- Dạ, phải đó nội, con có nghe bác Bẩy Hương chửi thề!
- Vậy hả, chửi thề sao, nhắc lại coi.
Thằng cu Sún cố nhớ lại:
- Chửi... chửi à... "Đ.M đêm khuya um xùm hoài, mẹ cái thứ đạo đức giả đó sao không có thánh thần nào vặn cổ chết cho rồi..."
Lão Nghiêu nhả điếu thuốc, phun nước miếng cái phẹt, vỗ bụng đét một cái:
- Đ.M. thằng chả thạp tao đa.
Nói được một câu nghĩa lý, lão Nghiêu khoái tỉ cười hê hê. Đêm khuya trời nóng, cây lá ngoài vườn đứng im phăng phắc.
Thằng cu Sún làm xong nhiệm vụ thông tin. Nó chun vô mùng nằm ngủ ngáy khè khè. Lão Nghiêu nằm hút thuốc đập muỗi phành phạch. Một lát sau lão nghe tiếng xích lô máy của Hai Khâu trở vế. Chưa bước chân vô cửa, Hai Khâu đã than:
- Trời nóng quá chừng!
Anh thấy cha còn thức liền hỏi:
- Khuya rồi, tía không đi ngủ sao?
- Trời nóng quá, tao muốn nằm chơi một lát.
Hai Khâu cởi chiếc áo nhà binh cũ rách liệng lên bàn. Anh ra hàng ba đứng ngó trời ngó đất:
- Không chừng đêm nay mưa.
- Tao cũng đoán vậy!
- ờ mưa cái cho mát mẻ, cuối năm trời nóng dữ, à, hôm nay trên Sài Gòn người ta chích ngừa bệnh thiên thời, sao vùng này chưa thấy động tĩnh gì há?

Lão Nghiêu quạt phành phạch. Lão lại nghe tiếng trống trên chùa gõ tung tung. Lão bỗng nhớ đến cách đây mấy năm, bệnh thiên thời phát sinh tại vùng này làm chết vô số người. Hồi đó Tám Tô mới có một kiểng chùa nhỏ. Sau vụ đó Tám Tô giầu lớn. Lão Nghiêu búng mẩu thuốc ra ngoài vườn:
- Trời giúp Tám Tô mãi.
Hai Khâu đang đứng tựa cửa, anh quay lại hỏi:
- Tía nói sao?
- Tao biểu trời giúp Tám Tô làm giầu, một vụ thiên thời nữa thì chả mua hết đất vùng này chôn xác chết, lập thêm mấy kiểng chùa, trại hòm của chả đóng hòm không kịp.
Hai Khâu bực mình:
- Tía cứ hằn thù Tám Tô hoài à, thôi bỏ đi, chuyện xưa nhắc lại hoài.
Lão Nghiêu cũng nổi nóng. Lão la bài hoải:
- Tao nhắc lại chuyện xưa hồi nào?
- Vậy sao tía cứ kiếm chuyện nói xấu Tám Tô hoài, người ta tu hành...
Lão Nghiêu càng nóng:
- Đ M cái quân buôn xác chết đó mà mày biểu là tu hành à! Đ.M cái thứ ba đời cho vay lời, mười đời buôn xác chết đó mà đạo đức cái nỗi gì..
Hai Khâu hừ một tiếng, cười kháy:
- Tui biết tại sao tía thù Tám Tô?
Lão Nghiêu bị câu nói móc tức cành hông:
- Mày biết sao, nói tao nghe coi.
Hai Khâu bỏ vô mùng, cười khẩy, nói vọng ra:
- Tại sao thì tía biết đó, hỏi lại tui làm chi.
Một lát sau lão Nghiêu nghe tiếng con trai ngáy như cưa cây, lão nằm ở ghế xích đu rồi ngủ quên. Nửa đêm trời mưa lớn. Tỉnh dậy lão thấy người lạnh run, miệng há ra mà không nói được. âm thanh cuối cùng lão nghe là một tiếng sét và tiếng giồ mưa ào ạt Ngọn đèn dầu đã bị gió thổi tắt.

Tờ mờ sáng hôm sau, Hai Khâu trở dậy. Anh không quên để lại tiền cho cha và thằng cu Sún. Hai Khâu đi khỏi một lát thì thùng cu Sún cũng thức giấc.
Nó bò ra khỏi giường lấy tiền nhét túi, ra khạp nước rửa mặt. Thấy ông nội ngủ ở ghế xích đu, nó không để ý dông tuốt ra đường kiếm xôi mua ăn điểm tâm. Cu Sún đoán chừng ông nội còn lâu mới thức nên chưa cần mua cà phê sữa vội. Nó cẩm gói xôi đi ăn cùng xóm, đâu đâu cũng xà vào một lát. Nó hy vọng kiếm thấy cái quẹt và tiện thể kiếm ít tin tức sốt dẻo để về kể lại cho ông nội. Nó cố moi khối óc tối tăm coi xem hôm qua bỏ quên cái máy quẹt ở đâu. Nó lẩm nhẩm điểm lại từng nơi tới, đứng thẫn thờ ở ngã ba đường, liệng từng hòn xôi vô miệng.
ở nhà ra đây, gặp thằng Túm, hai đứa ra quán chú Lì nhặt nút phéng, ờ ờ... rồi sau đó... sau đó, Đ.M ngu quá! ứa, phải rồi, chạy lên chùa Tám Tô, "dô" nhà con Bích...rồi...chạy ra ruộng...cha...khó quái Đ.M nhớ chi nổi. Cái máy quẹt đút túi này, không, túi này... rớt sao được.
Thằng cu Sún đang cố moi khối óc rối beng của mình thì thằng Túm ở đâu chạy tới. Nó thấy bạn đứng tần ngần như trời trồng ở ngã ba đường liền hỏi:
- Đứng chi đô mày?
Thằng cu Sún đang cố gắng nhớ lại một lần chót nhưng rốt cục nó chịu thua. Thấy bạn hỏi, nó chửi thề liền:
- Đ M khó quá!
- Chi khó mày?
Cu Sún quay sang hỏi bạn:
- A, mày thấy cái máy quẹt của nội tao đâu không?
Thằng Túm ngớ ngẩn:
- Cái máy quẹt nào?
- Cái máy quẹt của nội tao đó, hôm qua ổng đưa tao đi xin xăng rồi tao bỏ đâu mất, ổng bố tao quá trời.
- Vậy hả, nhớ lại coi.
Cu Sún nhún vai:
- Đ M tao hỏng chớ nối.
Thằng Túm nhanh nhẩu:
- Đâu, mày tính lại cho tao nghe coi.
Thế là thằng Sún lại tính toán từ đầu, cuối cùng thằng Túm cũng chịu thua luôn, nó đánh trống lảng:
- Lúc ở ruộng, má tao kêu, tao về rồi thày đi đâu?
Thằng Sún lắc đầu:
- Đó tới khúc đó rồi tao ngắc luôn.
Thằng Túm lên mặt:
- Đ M ngu quá, phải chi tao, tao nhớ ra liền.
Bị chê ngu bất tử, thằng Sún tức cành hông:
- Đ.M chớ có làm tàng, không chừng mày còn ngu hơn tao kia. Tao ngu sao được.
Không ngu hả?
- Uà đó.
- Đ M không ngu, không ngu?
Thằng Sún nhẩy chồm tới xàng luôn hai thoi vào mặt bạn. Thằng Túm không chịu kém, nó lao đẩu vào bụng địch thủ loi chí mạng. Bốp, bốp! Thằng Túm té nhủi vào bụi cây. Khi nó rút đầu ra được thì thằng Sún cắm đầu chạy mất. Nó sờ vào lỗ mũi. Cha, máu! Nguy quá? Nó đút hai ngón tay vào lỗ mũi, ngửa mặt lên trời cho máu ngưng chảy. Và cứ như thế, nó đi lêu đêu về nhà. Nó lầm bầm chửi:
- Đ M thằng Sún, thù này quyết trả. Tao đâm mày cho coi, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ.
Hai ba lần nó sa xuống hố lại leo lên, máu cứ òng ọc chảy ra hai lỗ mũi làm ướt cả bàn tay lem luốc.
Nó nghĩ đến cách chữa cầm máu. Nó chợt nhớ người ta biểu phải kiếm rẻ rách ở đũng quần đàn bà đút nút lỗ mũi lại mới hết chảy máu. Tới sân nhà, nó kêu lên:
- Chị Hai, chị Hai, cho xin một miếng vải quần coi
Chị hai nó đang ở trong bếp thò đầu ra, thấy máu be bét ở mũi em liền la lên:
- Trời ơi Túm, sao đó mày?
Thằng Túm vẫn ngửa mặt lên trời:
- Xé cho miếng vải quần lẹ lên.
Chị Hai chạy lại đỡ em:
- Vô nhà! Thằng nào "uýnh " mày vậy?
Thằng Túm lắc đầu:
- Cho xin miếng vải quần!
Chị nó không nghe, giắt tuốt nó vô nhà, đặt nằm xuống ván ngựa, chạy đi lấy khăn ướt đắp lên trán nó:
- Ngu quá à, nằm đó tao chữa cho. Thằng nào uýnh mày?
Thằng Túm giữ bí mật, nó muốn thanh toán riêng với cu Sún nên nói láo đại:
- Hổng có, tôi té? Mà chị xé cho tôi miếng vải đũng quần nhét vô lỗ mũi tôi.
- Xé sao được, quần tao đang bận, nằm đó tự khắc máu cầm liền.
Quả nhiên một lát sau máu hết chảy. Nó lại nghĩ đến mối thù với thằng cu Sún. Nó thầm hăm:
- Mày làm chảy máu tao, tao cho đổ máu lại.
Khi chị Hai nó xuống bếp, nó len lén lấy con dao nhét vô bụng. Nó chuồn ra cửa, Chị nó ngó thấy la lên:
- Chạy đâu đó Túm?
Thằng Túm trả lời nhưng không thèm ngó lại:
- Tui đi chơi!
Nó chạy ra đầu dốc. Tới ngã ba nó gặp thằng cu Sún đang nhếch nhải khóc, chạy ra. Thấy bạn khóc, Túm quên luôn chuyện vừa rồi. Sún vừa khóc vừa nói:
- Nội tao chết rồi, Túm ơi! Thằng Túm đứng khứng. Nó bỏ rơi con dao đến cạch xuống đất:
- ủa, chết hồi nào? Sao chết mày?
- Tao "dĩa" đến nhà thấy ổng chết ngắc, hổng biết tại sao nữa. Hồi sáng tao vẫn thấy ông nằm ở ghế xích đu như mọi khi...
Mắt nó nhìn xuống con dao liệng dưới đất:
- Mấy... mấy...
Thằng Túm thấy cơ sự như thế, liền quên luôn mối thù. Nó nhe hàm răng đen thui ra cười làm lành:
- Thôi mình huề nghe mày.
- Mày tính mang con dao đi đâu đó?
Thằng Túm cười hì hì:
- Tính lụi mày ít dao.
- Chà, nói thấy ghê!
Thằng Túm trở lại chuyện ông nội thằng Sún:
- Mày tính sao cái xác ông nội mày? Ba mày đi làm rồi.
- Tao đi kêu bà con lối xóm.
Thằng Túm đứng suy nghĩ một lát:
- Mày lên kêu cha thầy chùa Tám Tô coi.
- ứa, phải đó, coi bộ chả rành về vụ xác chết lắm.
Khi Hai Khâu về tới nhà thì bà con lối xóm đã lo liệu gần xong việc tẩm liệm ông già anh. Tám Tô đứng chỉ huy lớp người làm như ông tướng cầm quân. Ông tự đứng ra coi sóc công việc đó một cách tận tình. Thấy thế tuy không vui, nhưng Hai Khâu chẳng biết nói sao. Anh chỉ chép miệng cám ơn chung bà con, Tám Tô biết ý chạy lại nơi anh:
- Vì cháu vắng nhà nên bác phải lo liệu giùm, cháu đừng ngại cái đó, dẫu sao tía cháu và bác ngày xưa cũng có ít nhiều... bà con. Nghĩa tử là nghĩa tận mà cháu.
Hai Khâu riu ríu cảm ơn. Anh cũng cố nói một câu cho đỡ tủi vong linh ông già:
- Dạ, bố con cháu xin cám ơn bác mà cháu nghe đâu giữa tía cháu và bác ngày xưa có điều không hợp nhau...
Lão thầy chùa Tám Tô vỗ vai Hai Khâu thân mật:
- Bác biết điều đó chớ, nhưng mình già rồi hơi sức đâu nhớ hoài chuyện ngày xưa chi cho mệt.
Nét mặt Tám Tô buồn buồn:
- Ngày xưa, tuổi trẻ... mà thôi, nhắc lại chuyện đó làm chi. Con người mình sống ở đời này đâu có được là bao. Giầu sang phú quí hay nghèo hèn lúc chết cũng như nhau, còn lại được ngày nào trên thế gian này thì cốt sao giữ cho tâm hồn được thanh thản.
- Bác hiểu anh Nghiêu không ưa gì bác, nhiều lần bác muốn làm huề, nhưng chưa kịp thì... chao ôi! Một đời người có nghĩa lý gì đâu... Hồi sáng chính tay bác vuốt mắt ảnh, bác thấy như chính một phần hồn bác chết theo. Cháu tính coi suốt mấy chục năm trời sống chung trong một xóm. Với lớp người xưa, giờ đây còn lại mình bác ở lại thế gian.
Khi lão thầy chùa Tám Tô ngưng lời, đôi mắt Hai Khâu đỏ hoe. Anh buồn bã nhìn bài vị của cha anh, ở đó có ba nén nhang tỏa khói nghi ngút. Đêm hôm đó, lão Tám Tô ở lại tụng kinh siêu thoát cho ông già Nghiêu. Tiếng tụng kinh ê a điểm tiếng chuông, tiếng mõ buồn tênh như tiếng khóc than cho kiếp người.
Anh Hai Khâu và thằng cu Sún mặc đại tang quì phủ phục trước linh cữu. Anh lẩm nhẩm khấn vái:
- Tía ơi! Con mong rằng tía không phiền trách con là đứa con bất hiếu không nghe lời tía. Nếu linh hồn tía thấy cảnh này thì tía sẽ hết hằn thù với Tám Tô. Cuộc đời người ta có được bao lâu đâu tía, vợ con nó bỏ chồng con đi theo trai, con cũng bỏ qua luôn thì tía cũng đừng để tâm đến chuyện ngày xưa chi nữa mà khổ linh hồn.
Bà con lối xóm mang đồ phúng điếu đến, mỗi người đều có lời chia buồn. Bà già con Lan đứng ở góc nhà luôn miệng nói "tội nghiệp", tay lần chuỗi tràng hạt lên nước nâu không biết lần thứ bao nhiêu. Bẩy Thương vừa đi vào thấy cảnh đó tức lộn tiết. Khi trở ra, anh chửi thầm:
- Đ M sao đời này nhiều loại người đạo đức giả vậy cà?
Về khuya, tiếng cầu kinh siêu thoát càng buồn. Ngoài trời nổi gió lớn, cơn gió chạy dài trong lòng hẻm sâu hun hút, làm những cây tre chuyển động cọ vào nhau kêu kèn kẹt như tiếng nghiến răng của người mơ ngủ.
Con Lan đi làm về khuya. Nó bỗng rùng mình khi nghe tiếng kinh siêu thoát. Nó hỏi thầm:
- ủa! Ai chết đó?
Một bóng đen từ trong hẻm đi ra, tay cầm dao sáng loé. Lan nhìn thấy và nhận ra thằng Keo. Nàng không hề sợ hãi, bình tĩnh tiến lại. Hai đứa nhìn mặt nhau không nói một câu. Lan thấy tâm hồn mình rạo rực. Nàng chờ đợi, không phải một nụ hôn cháy bỏng như ngày xưa, một mũi dao của người anh cắm ngập vào thân thể đang tàn tạ. Tay Keo run lên, nó thất vọng, không có một lời van xin, không giải thích. Tay nó từ từ xuôi xuống, thở dài:
- Mai anh đi rồi?
Trong ánh sáng nhá nhem của sao đêm, Keo nhìn thấy hai giọt nước mắt của người tình chảy dài trên gò má phấn son tàn phai. Keo cúi đầu đi:
- Vĩnh biệt Lan!
Con dao bị bỏ rơi đến cạch xuống nền đất dằn.
Tiếng từng niệm của ông thầy chùa Tám Tô như đuổi theo từng bước chân Keo và đôi mắt người tình của nó cũng đang nhìn theo. Keo chẳng bao giờ nhìn lại nữa, mai nó đi rồi, đi mãi, không bao giờ còn trở lại xổm này. Đêm nào đó, Lan về, tiếng kinh siêu thoát đếm bước nàng trên thế gian. Trong tiếng tre già nghiến răng mơ ngủ và tiếng gió chép miệng thở dài.
Thầy chùa Tám Tô thỉnh xong hồi chuông chiều, lão ra đằng sau chùa. ở đó là nghĩa địa, ngôi mồ của lão Nghiêu mới đắp, đất còn tươi rói. Buổi chiều cuối năm, các gia đình có người thân chết chôn tại đây đều đến làm cỏ sạch trơn. Trời cũng sắp tối, người thăm mả về hết, nhưng những cây nhang vẫn còn cháy, những bó hoa cúc còn tươi.
Lão Tám Tô đi vòng qua từng khu mồ mả, ông đọc tên từng người chết ở từng tấm bia, hầu hết là những người quen biết Tám Tô hoặc thân hoặc sơ. Lão Tám Tô bỗng nhiên thấy buồn mang mang. Lão trở lại đứng trước nấm mồ mới của lão Nghiêu, thở dài nhè nhẹ, nhớ lại ngày xưa, hồi năm chục năm về trước.
Đêm động phòng hoa chúc của vợ chồng Tám Tô, Tám Tô bỗng thấy đôi mắt vợ mình dại đi khi lời ca điệu "hoài tình " của Nghiêu cất lên trong vườn bên cạnh. Tiếng ca của Nghiêu buồn rười rượi như than thở trách móc kẻ bạc tình.
Năm chục năm thấm thoắt trôi, lời ca đó thấm sâu vào tâm hồn Tám Tô, buổi chiều nay nô lại dậy lên khi thể xác Nghiêu đã nằm sâu trong lòng đất, khi tâm hồn Tám Tô tưởng chừng như không còn vương vấn chuyện đời.
Đang suy nghĩ miên man, bỗng nhiên Tám Tô nghe tiếng động. Lão quay lại. Thằng cu Sún hiện ra, mặt mũi nó bẩn tèm lem. Tám Tô cất tiếng hỏi:
- Ra đây chi đó cháu?
Thằng cu Sún nhìn nấm mồ ông nội. Nó giơ cái máy quẹt ra:
- Cháu tính ra bươi đất chôn cái máy quẹt này xuống mồ nội cháu kẻo ổng không có gì mồi lửa hút thuốc rê.
Lão Tám Tô xoa đầu nó:
- Sao hồi tẩm liệm cháu không đưa để bỏ vô hòm luôn?
- Tại cháu mới kiếm thấy. Bữa hổm nội cháu đưa máy quẹt cho cháu để đi xin xăng, cháu làm mất. Hôm nay biết con Bích ăn cắp, cháu uýnh nó đòi lại đó.
Tám Tô cười dễ dãi:
- Thôi cháu đưa đây, để mỗi đêm ông dùng thắp nhang cắm mộ nội cháu.
- Nội cháu còn hút thuốc rê Gò Vấp nữa đó.
- Được, ông sẽ cho nội cháu hút.   
Lúc đó trời xụp tối. Tám Tô dắt thằng cu Sún trở về chùa. Lão nhìn ra chân trời thấy vì sao hôm mọc đơn độc. Lão thở dài, lão thấy mình cô đơn.
Tám Tô có cảm tưởng lão là người độc nhất còn ở lại thế gian. Buồn bã và già cỗi như ngôi sao hôm kia. Rồi đây kẻ nào sẽ vuốt mắt mình khi nằm xuống?.
Gia Định 1965
Nguyễn Thụy Long
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

5555555 hai mươi hai Út thấy người mình bải hoải, mệt mỏi và đầu váng vất khó chịu. Nàng trở dậy, nhưng không xuống khỏi giường. Út nhìn đồn...