Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

Thân phận ma trơi 1

Thân phận ma trơi 1

Tựa
Năm 1987, sau khi ra khỏi tù và hết hạn quản chế, tôi bắt đầu gặp lại một số bạn cũ, phần đông do tình cờ. Và người chủ động tìm tới trong đó có Nguyễn Thuỵ Long. Long tới nhà tôi vào dịp cuối năm để cho tôi một chiếc bánh chưng vì biết loại thực phẩm này nằm ngoài tầm tay tôi. Long cũng là người đã tìm gặp vợ con tôi khi anh ra khỏi tù và đã viết vào trong tù cho tôi mấy chữ. “Cữ yên tâm về vợ con mày. Tao đã tới nhà và rất mến phục bà xã mày”..
Long viết mấy chữ đó trên bao thuốc Đà lạt gửi cho tôi qua một người quen đi thăm nuôi chồng.
Sau khi tới cho tôi chiếc bánh chưng, Long biến mất.
Thỉnh thoảng nghe vài người nhắc tới cảnh lặn đận của Long, tôi cũng chẳng lưu tâm, vì bản thân tôi đã dư loại chuyện này. Một thằng cháu phát biểu khi gặp lại tôi: “Những người như chú không thể bắt kịp xã hội hiện nay. Lúc này đừng nói chuyện lương tâm mà phải tìm ra cách cắn xé người khác, nếu còn muốn mở mặt với đời”. Tháng 4.75, thằng bé tròn mười bốn tuổi và khi nói với tôi câu đói nó đã là một kẻ từng trải có mười hai năm đối mặt tới cuộc sống của quê hương.
Rồi tôi lại gặp Long.
Sau nhiều năm trôi nổi mưu sinh, tôi trụ lại với một việc tương đối gần gũi sinh hoạt chữ nghĩa. Cái vốn ngoại ngữ lôm côm chữ còn chữ mất của tôi vẫn có người muốn dùng nên tôi được mướn dịch những bài báo ngoại quốc về cách trang điểm phấn son của nữ giới, cách xào nấu các món ăn, cách giao tế sao cho vừa lòng thiên hạ. Công xá không nhiều nhưng đủ giúp gia đình tôi tránh khỏi cảnh cơm ăn cách nhật như mấy năm đầu tôi ra khỏi tù. Việc làm này tự giúp tôi tiến thêm một bước là ngồi gõ máy thuê, tạo dịp cho bạn bè lui tới. Hai người thường gặp tôi là Thế Phong và Thanh Thương Hoàng, dù tôi đổi chỗ ở như cóc nhảy. Thanh Thương Hoàng tỏ ra ngán ngẩm cho cái thân phận “Làm đầy tớ thiên hạ” của tôi như anh vẫn nói nên thỉnh thoảng ghé qua dắt tôi đi chích một mũi thuốc xổ, hoặc mua cho vợ tôi một con gà, một miệng thịt để “cũng có chất bồi dưỡng”. Thế Phong có lẽ ngậm ngùi trước cảnh mỗi buổi sáng tôi chỉ có một chén cháo trắng hoặc một chén cơm nguội nên lâu lâu lại bất ngờ xuất hiện thật sớm dắt tôi đi ăn phở.
Rồi một hôm, Long xuất hiện cùng Thế Phong. Anh đưa ra một xấp giấy, nói:
- Đánh giúp tao. Công xá bao nhiêu, tao thanh toán đủ.
Mấy ngày sau, Long trở lại một mình, lầm lì trao cho tôi một tạp bản thảo. Anh ngồi xuống ghế nhấc cặp kinh ra lau bằng mấy ngón tay. Trong khoảnh khắc đó, tôi nhớ lại hơn mười năm trước, khi chúng tôi ở chung trên tù. Những ngày nghỉ lao động, tôi thường ngồi bên bàn cờ từ sàng sớm và gần như lần nào cũng vậy, tôi chưa chơi xong một văn, Long đã lù lù hiện ra hết hàm, nói cực ngủn:
- Đi mày!
Thuở đó Long có cái tên “Long mù” và được đám tù trẻ gọi là chú, là bố. Tới giờ này, tôi chưa tìm ra lý do khiến đám trẻ xưng hô với Long như vậy trong khi tất cả đều gọi tôi bằng anh, dù tôi hơn Long 5 tuổi. Long may mắn không rơi vào cùng đội với tôi là may mắn hơn là thỉnh thoảng lẫn được thăm nuôi nên ngày nghỉ có thể kéo tôi qua chỗ anh nhâm nhi vài hớp cà phê. Những dịp đó, Long thường rỉ rả với cách nói nhát gừng kể về những hoạt cảnh luôn hiện lên trong trí anh, lúc cửa phòng giam khoá lạii lào buổi chiều. “Hơn sáu chục thằng tù lăn kềnh trên những tâm ván sần sùi vỗ bụng lạch bạch đua nhau đánh rắm tùm lum”. Anh nhăn mặt nhắc tới con vẹt ở trạm xá “chỉ biết nói độc hai tiếng “khắc phục” và chấm dứt câu chuyện bằng một lời chữ thề. Tôi thường ngồi im, nghĩ đến cảm giác Long có. Long nói chậm, đôi lúc tựa hồ run giọng, nhưng cặp mắt lờ đờ của anh loé sáng từng chạp.
Lúc trao xấp bản thảo cho tôi, mắt anh cũng chợt loé sáng như vậy. Rồi vẫn bằng cái giọng nhát gừng, anh nói:
- Bây giờ tao thấy chỉ có mình mày thôi, chỉ mình mày là hiểu về tao hơn hết, nên tao muốn mày viết cho tao một bài giới thiệu tập truyện này. Muốn viết thế nào thì viết.
Đề tài của chúng tôi tức khắc rời khỏi chữ nghiã và như lệ thường tôi ngồi nghe Long nói. Anh kể những điều từng trải khi sống trong gian chuồng heo ở khu Tân Phú, rồi nhắc việc gặp một người bạn từ ngoại quốc về thấy cảnh sống của anh đã ngỏ lời muốn chăm sóc giúp đứa con nhỏ. Anh tả nỗi vui khi tưởng tượng đứa con trai được ăn no mặc ấm, được cắp sách sách tới trường, dù anh rất khổ sở vì phải xa nó. Thế rồi bất chợt anh chửi thề, mặt đổi sắc hầm hầm. Anh đưa cả hai cánh tay ra trước ngực như sắp lâm trận đâm đá, giọng trở nên khó nghe:
- Nếu là mày, tao chắc mày đã đấm vào mặt nó. Tao phải cố dằn, chỉ nhắc nó đừng bao giờ trở đi tìm tao nữa.
Thì ra sau phần mở đề bằng tình cũ nghĩa xưa, mấy hôm sau người bạn trở lại, đưa ra một tờ giấy viết sẵn bảo anh ký tên xác nhận tự nguyện cho con. Anh hậm hực kết luận:
- Nó chó má đến mức để trống tên người nhận nuôi đứa nhỏ. Nó đang làm cai trò buôn trẻ nít.
Tôi nghĩ Long còn may hơn tôi vì vẫn phát bẳn được. Từ lâu bạn bè thường chê tôi không nết xã giao, lúc nào cũng lầm lầm lì lì, lời lẽ nói ra như đấm vào mặt người nghe. Nhưng lúc đó tôi chỉ thấy mệt mỏi. Tôi không nổi cục được nữa. Mức độ chua xót và nhờm tởm đã biến tôi thành một kẻ dửng dưng.
Dù thế, tước mắt tôi vẫn bừng dậy hàng trăm mảnh đời hàng trăm khuôn mặt mà tôi từng gặp. Tôi nhớ lại ngày 1.5.75, tôi phải ráng sức nhấc bổng chiếc Honda để tránh lăn bánh qua xác một người lính Biệt Động Quân nằm úp ngang mặt đường trên cầu Thị Nghè trong lúc cả thành phố đỏ rực cờ! Một tuần sau đó, tôi bắt gặp một hình ảnh mới của thành phố Sài Gòn vừa đổi tên là những phụ nữ chùm khăn kín đầu, chân trần, quần xắn ngang đầu gối, rạp mình trên những chiếc xe ba gác chết đủ mọi thứ chổi cùn chiếu rách. Tại sao những phụ nữ kia lại gắn mình trên những chiếc yên ba gác? Họ đạp đi đâu làm gì? Tôi không biết, nhưng người nào cũng ướt đẫm mồ hôi.
Tôi chỉ trở lại Sài Gòn hơn mười năm sau nữa và hình ảnh đầu tiên của buổi tái hội là một người đàn ông cụt cả hai cành tay loay hoay len lỏi giữa bên xe mới lập gần cầu xa lộ. Tôi đang ngơ ngác nhìn quanh thì ông ta chìa phần cánh tay còn lại cho người đứng kề bên tôi. Ông ta bán vé số bằng cách buộc những tấm vé lên đầu cánh tay bị cụt ngang cùi chỏ. Tôi thắc mắc không hiểu ông ta thực hiện việc mua bán những tấm vé số cài trên mấy sợi thung quấn quanh khúc tay còn lại ra sao, vì cánh tay kia của ông ta cụt sát vai. Đang chờ để được thấy thì tôi bắt gặp ánh mắt lạnh như băng của người đọc mời mua đáp lại cái nhìn khẩn nài của ông ta. Phản ứng duy nhất của tôi là lạt đật quay đi để tránh gây thất đọng cho ông ta, vì chắc chắn tôi sẽ là khách mời kế tiếp. Bộ quần áo phát cho những tên tù được thả chỉ đủ đổi lấy tấm vé xe đưa tôi về đây và tôi còn chưa tính xong khoảng đường cuốc bộ vào thành phố. Trong bóng tôi chập choạng lúc ngày tàn. Tôi bước đi với ý nghĩ hỗn loạn về cảnh sống của con người và về cái cách con người nhìn nhau. Sau hơn mười năm cách biệt tôi đã gặp lên Sài Gòn, nhưng là một Sài Gòn xa lạ, thảm não, lạnh lùng. Tôi thấy mình lạc lõng, bơ bơ là nổi da gà khi nghĩ tới ngày mai.
Cảm giác này bừng sống lại khi tôi đọc truyện Nguyễn Thuỵ Long. Bóng tối chụp xuống là tôi cứ lòng vòng giữa một vùng nhầy nhụa, hôi thối với tâm trạng căng thẳng. Không một tia sáng nhỏ loé lên không một điểm tựa cho tôi bám víu. Trong tối tăm ngột ngạt, tôi chỉ thấy ở khắp nơi những con người khô đét như cây khô, nổi bạt hai hố mắt với cái nhìn đờ đẫn vô hồn. Những con người này khi thì bám lấy nhau, khi lại nhào vào nhau như một bầy chó đói giành mồi trên lớp bùn đen quánh của con kinh len lách dưới những cây cầu thành phố, trên những đống rác ruồi nhặng bay như ong vỡ tổ ở các góc đường Trương Minh Giảng, Nguyễn Thiện Thuật và giữa những nghĩa địa đang bị đào xới lổn nhổn gạch non, nồng nặc xú uế. Tôi không xua nổi hình ảnh từng đám đông bu quanh những tấm ni lông đựng các đống xương nhám nhúa nặng mùi mới vét lên từ lòng mộ, dưới cái nắng như đổ lửa, mà quơ múa tay chân đe doạ lũ chó đói lởn vởn xung quanh vừa ồn ào ngã giá một tấm bia, một chiếc túi nhựa bọc xác, một sợi dây lưng chưa mục của người chết. Đó cũng là thế giới văn chương của Nguyễn Thuỵ Long, thế giới văn chương không có gió mát, ào màu, không có những nụ cười e ấp. Ngay cả lời ca cất lên ở đây cũng chỉ là âm vang ai oán khơi nguồn cho những dòng nước mắt, những cảm giác nhức nhối.
Chính Nguyễn Thuỵ Long đã tâm sự là vẫn mong có những tác phẩm đem lại cảm giác nhẹ nhàng, thanh thoát cho người đọc, nhưng biết làm sao, khi văn chương không thể tách rời cuộc sống? Hơn một lần tôi nghe Long nói về điều này, rồi anh nhấc cặp kính ra, đưa mấy ngón tay lên mắt. Có thể anh chỉ làm cử chỉ ấy cho con một đỡ ngứa, nhưng tôi luôn nghĩ anh đang cố chặn một dòng nước mắt. Cuộc sống hàng ngày của Long, của tôi, của những người đang có mặt ở đây đã bó tay người cầm bút khi muốn vẽ một cảnh ấm áp, hiền hoà. Đối diện tới sự thảm khốc thì sự đoạ đầy chỉ là sự tàn nhẫn vì háo hức “mở mặt với đời”. Từ những ổ phế liệu xác xụa hôi thối trong vùng Tân Phú, Bình Hưng Hoà tới những toà nhà cao ngất giữa trung tâm thành phố luôn sáng loá ánh đèn xanh đỏ tím vàng khó tìm thấy thứ gì khác, ngoài những trái tim quắt queo vì roi đòn của thực tế hoặc vì những mê loạn của bản thân.
Tôi lại nhớ vẻ mặt hãi hùng của một người tù K.3 vào dịp cả nước chào mừng một ngày kỷ niệm lớn. Người tù là một nhà sư được gọi bằng cái tên thật Nguyễn Tiên Khánh đã đưa cả hai tay lên che mặt không nhìn phần đồ ăn đặc biệt nhân dịp này, do trại giam tặng cho tù, vì ba miếng thịt heo kho lớn cỡ ngón tay cái. Vừa bưng mặt quay đi, Nguyễn Tiên Khánh vừa la thết thanh: “Không, không ăn được! máu đó, máu đó!”.
Tiếng kêu hết hoảng của Nguyễn Tiên Khánh luôn vang lên trong đầu tôi hai chục năm nay khi tôi nghĩ đến thực tế xung quanh. Tôi không dập nổi ý nghĩ bên cạnh những con người đang cạn máu vì mọi lý do, là những kẻ say sưa uống máu đồng loại. Bằng mọi cách, trò uống máu diễn ra dưới trăm ngàn hình thức với nhịp độ tiếp nối không ngừng và quê hương chúng ta dường như càng lúc càng vắng bóng người. Trước mắt tôi hiện ra hình ảnh một thiếu phụ sang trọng đi bên chồng với nụ cười thoả mãn là ánh mắt kiêu kỳ ngó xéo trên đầu một kẻ mạt rệp ngồi lọt giữa đống xương bò heo trâu chó nhớp nhúa chất cao như đụn rạ trên mặt nền xi măng nóng hầm hập ở một góc nhà kho bên chợ Cây Thị. Kẻ mạt rệp đó là tôi đang chùi rửa những lóng xương cho một cơ sở chế biến thức ăn gia súc để có bữa cơm trưa. Dán mắtvào những lóng xương nhầy nhụa hôi thối, tôi nhớ tới nét mặt kinh hoàng của vợ tôi khi kể lại cách vượt lên của một thiếu phụ. Chị ta đã dắt đứa con gái gần năm tuổi ra mé sông vắng dìm cho chết, thả xác trôi theo dòng để trở thành người phụ nữ “cô đơn” như lời chị ta mô tả với người đàn ông đang theo đuổi mình. Tôi thấy câu nói của thằng cháu chưa diễn tả được bao nhiêu, khi nghĩ tới những người biết rõ chuyện đó, kể cả những người nhìn tận mắt nhưng không có hành vi nào khác một thoáng hoảng hồn rồi lạt đật bỏ chạy, miệng ngậm chặt như bị xiên lình. Người ta đã quen với nếp sống hồn ai nấy giữ, xác ai nấy lo.
Tôi đang sống ở đâu là giữa bầy lũ nào đây?
Một hình ảnh khác bỗng nhiên lên. Đó là hình ảnh con chó xác xơ với khung sườn nổi u như nắm que củi, chạy xiêu vẹo quanh mấy ngọn đồi ngoài vòng rào trại tù, ráng sức chồm táp mấy con cào cào. Đám tù trong đội tôi đều biết con chó. Nhiều tay đã mơ có thể bỏ nó vào nồi. Riêng một tay tù trẻ sau nhiều ngày quan sát chợt lên tiếng chửi đổng:
- Mẹ kiếp, tới cái mức cứt cho chó ăn cũng không còn!
Đúng là con chó đói lắm, nhưng đã hơn một lần tôi bắt gặp nó nằm dài dãi gốc xoài bên đường, dạng háng cho hai con chó con rúc nhay nhay cái vú teo nhếch như giẻ rách. Nó không kiếm nổi “cứt để ăn” là nó chỉ là chó, nhưng nó không cắn xé con và vẫn cố nuôi con bằng cái thân xác héo tàn.
Tôi đang nghĩ gì đây?
Dường như tôi chẳng nghĩ gì mà chỉ tự nhiên gợi lên những hình ảnh nằm trong ký ức.
Nguyễn Thuỵ Long đã vẽ lại thế giới đó của chúng tôi mới nguyên màu sắc cho thấy không ít kẻ đã bằng lòng xoá tiêu cái mức nhân tính còn sót lại, vì sự tồn tôi của nó ở nơi đây chỉ có tác động cào xé tan nát thêm cơn tim đã tan nát trăm bề. Dễ gì sống với tim óc con người i giữa bầy thú đói! Nhưng Long không chỉ vẽ lại mà vật vã vô vọng giữa thế giới đó. Qua từng dòng, từng chữ của Long, tôi luôn bắt gặp nét giễu cợt, lời lẽ bông lông bất cần mọi sự, những chập chờn ẩn hiện ở phía sau là nỗi đau xé ruột và tiếng than nghẹn uất.
Thằng lưu manh cố lột cái quần của con điếm đứng đường khách, thằng đàn ông què giò uốn bẻ chân tay đứa cơn sơ sinh cho thành dị dạng để tạo một “cục vàng” trong nghề ăn mày, tay cán bộ cách mạng nhiệt tình không chịu nổi một bà già còm cõi thờ tâm hình đứa con trai con là lính nguỵ đã chết từ lâu… trở thành cơn vật vã với thực tế và chữ nghĩa của Long, làm dấy lên những day dứt khó tả nổi về cuộc sống, về con người, nỗi day dứt do tuyệt trọng pha lẫn hờn oán, xót thương.
Tại sao Long phải vật vã đau đớn để dấy lên nỗi day dứt như vậy? Từ lâu, tôi thường nghĩ mỗi người có mặt trên đời đều gắn chặt vào một nghiệp dĩ. Long cũng thế thôi. Anh ra đời với điều kiện bẩm sinh không thể xa rời nghiệp dĩ văn chương. Cái không may của anh là phải sống trong thời kỳ con người bị bóp nghẹt, bị ngược đãi, bị biến dạng thành hoang thú. Ai còn ý thức mình đang là người mà thoát khỏi bị dằn vặt khi đối mặt với những mưu tính, những hành vi, những xu hướng tước đoạt mọi điều kiện tối thiểu để tồn tại của con người?
Có phải tôi đang biện bạch cho thái độ sáng tác của Long trước thói quen chẻ xác văn chương theo những ý nghĩ chủ quan?.
Người ta sẽ soi mọi màu kính lên tác phẩm của Long để thấy là vàng, là đỏ, là trong, là đen. Người ta sẽ ban cho nó những cái tên hiện thực, tượng trưng hoặc gì gì đó để chứng tỏ trí tuệ của mình. Người i ta sẽ xưng tụng nó là tiếng nói chính nghĩa, là văn chương phản kháng hoặc kết án nó là đồi truỵ, phản động, đi ngược khuôn vàng thước ngọc của văn nghệ cách mạng để biểu dương ý chí đấu tranh hừng hực.
Tôi thấy những trò đó chẳng đáng gì trước thực tế mà cây bút thẳng tay Nguyễn Thuỵ Long ghi lại. Những trò đó cùng nhữg con người đó cũng như tất cả những kẻ đang thét mưa gọi gió, những kẻ đang lăng xăng đồng hoá với chính nghĩa đều chẳng đáng gì trước cơn dãy dụa hiện nay của con người. Khi xã hội như cỗ xe đang tao xuống vực thẳm thì chẳng loại người nào, chẳng vấn đề nào trên xe lớn hơn một hạt bụi.
Chắc chắn Long chẳng cần biện bạch và cũng chẳng cần ai biện bạch giùm. Anh bị cột vào nghiệp văn chương và chỉ cố làm phần nào công việc của mình trong ý thức và trong cả nỗi đau về cái thân phận nạn nhân đang bị xô xuống đáy vực. Đúng như Long vẫn nói, dù tha thiết mong muốn, anh không thể viết khác. Vì văn chương không thể tách rời thực tế, vì thực tế bao giờ cũng là thực tế không thể đổi trắng thay đen bằng bất kể cách nào, bởi bất kể lý do nào.
Thêm nữa, chắc chắn anh cũng không nghĩ ngợi mảy may về màu sắc văn chương và không có một giây so đo về mức độ Việt Nam tính, thế giới tính hay giai cấp tính, cách mạng tính trong tác phẩm của mình. Điều đó chỉ cần thiết cho trò chơi chữ nghĩa vì những lý do nằm ngoài đòi hỏi của văn chương chứ chẳng ăn nhập gì tới việc sáng tác văn chương. Long đã viết bằng cảm xúc của một nạn nhân bị dập vùi, viết vềnhững thân phận bị dập vùi và viết bằng ý tình chân thật của một con người chưa biến dạng. Có lẽ Long cũng chẳng mưu cầu điều gì ở tác phẩm của mình ngoài hy vọng khơi gởi một nỗi đồng cảm nơi tất cả những người còn là người i đang có mặt trong cuộc sống, bất kể là ai và bất kể ở nơi đâu.

Riêng tôi, để chấm dứt những ý nghĩ lan man dấy lên khi đọc truyện của Long, tôi mong không bao giờ còn phải gặp những thân phận ma trơi, những bà mẹ sương sa, không bao giờ còn phải nghe Diêm Vương phán “mọi hình phạt lóc thịt lột da, chặt đầu đều cắt cổ, đun nấu trong vạc dầu nơi địa ngục đều không sánh nổi với việc trả bị cáo về làm người trên trần thế.
Sài Gòn tháng 6 - l999
Uyên Thao
Hồn bút
Tập Truyện Ngắn
Buổi sáng tôi thức giấc cùng tiếng chim hót. Nhưng không phải là những buổi sớm mai êm đềm trước kia, khoảng năm tháng trước.
Thú thật hồi nửa năm về trước, tôi cũng chẳng có thì giờ nghe chim hót. Tôi ra đi lúc còn tối trời, ngồi toà soạn nghe tin tức đài phát thanh, làm những bản tin thế giới xảy ra trong đêm. Công việc toà báo tất bật đến chín giờ sáng tôi mới có thì giờ ăn điểm tâm, rồi lại viết vài trang tiểu thuyết cho nhật báo. Công việc bận rộn suốt ngày, về đến nhà cũng phải bẩy tám giờ tối. Coi truyền hình, chơi đùa với vợ con một lúc rồi đi ngủ. Thời gian để nghe chim hót hoàn toàn không có, cũng bởi tại nhà tôi ở trong thành phố. Ngay bên kia sông Cầu Bông. Nay tôi về ở với mẹ, bên này sông, một vùng nửa thành thị, nửa thôn quê. Nhà cửa tôi đã mất, gia đình tôi thành ra ly tán từ sau ngày thành phố giải phóng. Tôi bị đuổi ra khỏi nhà, chỉ mình tôi, vì tôi thuộc thành phần nguỵ phản động. Những tác phẩm của tôi bị đốt ngay trước cửa nhà, vì bị kết tội là tác phẩm đồi truỵ, phản động, bản thân tôi cũng chẳng còn chút an ninh nào. Tôi về với mẹ, nơi căn nhà xưa. Căn nhà trống huếch trống hoác chỉ còn hai mẹ con. Em trai tôi đã lên đường trình diện đi học tập cải tạo bởi nó là sĩ quan quân đội chế độ cũ. Gia đình tôi đương nhiên phải có tên trong sổ đen. Hàng xóm nói, ban đêm, công an và những tay “cách mạng ba mươi” thường rình nghe ngóng trước cửa nhà. Giấc ngủ của tôi, của mẹ tôi thường không yên, khi nghe tiếng chó sủa, khi nghe tiếng bước chân đi rộn rịp ngoài hẻm. Tôi nằm cứng cả hai bàn chân như bị tê dại khi nghe có tiếng xe gắn máy ngừng lại một nhà nào đó trong xóm. Tiếng đập cửa, kiểm tra hộ khẩu. Mẹ tôi ngồi dưới nhà tụng kinh cầu Phật Bà Quan âm cứu khổ cứu nạn. Một đêm qua, tôi biết mình an toàn thêm được một ngày. Sáng ra, nghe chim hót ở khu vườn chùa sau nhà, mẹ tôi và tôi tạm thời an tâm.
Đồ đạc trong nhà bán dần dần để ăn. Cái đồng hồ treo tường, radio, bộ sa lông, chổi cùn rễ rách gì cũng bán được ráo. Tôi chẳng có gì bán ngoài bộ quần áo mặc trên người khi ra khỏi nhà. Tôi là một tên văn sĩ nguỵ, vợ tôi là con nhà liệt sĩ, gia đình cách mạng đương nhiên không thể thích hợp với nhau. Hai đứa con tôi, theo “luật” phải theo mẹ. Cuộc chia tay thảm hại. Tôi ra khỏi nhà tay trắng, vật vờ trên đường phố như cô hồn các đảng với niềm đau mãi khôn nguôi.
Tôi nằm nướng trên sàn gác, ngoài tiếng chim hót bên vườn chùa, tôi còn nghe đủ thứ ầm thanh của những thành phần mua bán. Có người rao mua tôn, gạch bông, thế có nghĩa là rỡ nhà ra mà bán đồ lạc son và cả vỏ bút nguyên tử hết mực, bút máy hư hỏng. Tại ngôi nhà này tôi còn để lại cả ngăn kéo vỏ bút bi, lưu cữu từ bao nhiêu năm nay. Từ khi tôi mới vào đời làm nghề cầm bút. Cho đến ngày người ta gọi tôi là nhà văn. Bây giờ thì là nhà văn chế độ cũ hết thời. Tôi có thể bán số tàn dư đó cũng được vài ba bữa cơm, điếu thuốc, ly cà phê đỡ vã. Nhưng khoan nào, tôi có thể sửa chữa lại những cây bút. Tôi đã học được nghề sửa chữa và bơm mực bút bi của một anh bạn như tôi sớm ra nghề. Đồ nghề để thực hiện ý đồ kiếm ăn đó thật đơn giản. Một cây căm xe đạp mài nhọn để thọc viên bi ra khỏi ngòi, lau chùi hết xét rỉ. Một chút acétone rửa ruột bút, cái ống tiêm bơm mực hoặc không thì mấy cái lọ kín, lọ péniciline, đựng mực làm theo nguyên tắc bình thông nhau cũng được. Mực tự chế bằng mực in pha với dầu nhớt loãng là xong. Nếu không làm được, bạn bè tôi sẽ giúp đỡ lúc ban đầu. Tôi chỉ cần tìm địa điểm ngồi hành nghề. Tôi miên man với suy nghĩ đó. Mẹ tôi lên lầu:
- Con chưa dậy sao?
- Con dậy lâu rồi.
- Mẹ muốn hỏi ý kiến con, mình có nên rỡ mái tôn bán không, nhà mình cũng được vài chục tấm.
Tôi lắc đầu:
- Không mẹ à, mình rỡ mái tôn bán rồi sẽ cậy gạch bông bán nết. Đừng mẹ…
Không lẽ mình chịu chết đói sao, mẹ muốn có chút vốn liếng bán bún riêu. Mẹ nấu, bán, con rửa chén bưng tô…
Tôi vẫn lắc đầu:
 - Không cần đâu mẹ à, có cách sống rồi. Hôm nay con ở nhà sửa soạn đồ nghề, mai con ra đường kiếm ăn được. Chiều mai con có thể mang gạo về nhà, chút mắm muối.
Mẹ tôi xuống nhà, còn nói với lại:
- Ôi dào, cậu chỉ nói cái mồm, đi rong chợ trời mãi có đến đâu.
Từ xưa tới nay tôi vẫn nổi tiếng là thằng con ba hoa, chẳng thực tế chút nào. Nói một tấc tới trời. Thằng láo khoét, phét lác, ưa tưởng tượng rồi cứ tưởng thật và phát ngôn bừa bãi. Có lần thì chết vì cái mồm! Mẹ tôi gọi là vạ miệng.
Kiếm để có ăn chẳng mấy khó. Tôi ngồi bên hông tường một trường học nữ nay đã đổi tên. Học trò mặc áo bà ba đủ thứ màu chứ không còn mặc áo dài tha thướt như hồi trước. Trường học không thuần nữ mà lan lộn cả nam sinh. Thời trang hiện tại là áo bỏ ngoài quần, có cậu còn diện cả dép râu. Học trò bỏ học nhiều, trường lớp xơ xác. Nhưng điều đó chẳng liên quan gì đến tôi và những bạn đồng nghiệp ngồi dọc theo tường bơm bút bi kiếm tiền lẻ. Tôi đã sửa được vài ba cây bút hoàn chỉnh, mực chảy tốt. Tôi có thể bán được hoặc cho khách hàng mượn vào lớp viết bài trong khi chờ đợi tôi sửa bút. Mới ra nghề vài ngày, tôi đã thành thợ sửa bút có tay nghề cao, sửa được đủ loại bút viết. Thời gian này toàn miền Nam chưa sản xuất được bút bi và cũng chẳng có bút nhập cảng. Những cây bút Bi được coi là hàng quí giá, đất tiền. Cái khó ló cái khôn, tôi tạm thời sống được.
Tôi thú vị với cái nghề mới của mình. Tôi bơm mực, thử bút qua những đường gạch xem mực chảy đều chưa, rồi tôi viết nguyên chữ, mực chảy nhuần nhuyễn tôi mới trao cho khách hàng, lấy tiền. Cuốn tập cũ dùng để thử bút lem nhem mực và những chữ ký tên của tôi do quen tay. Thói quen sẵn có từ xưa khi đang viết, bút bi trở ngại, tôi thử lại bút bằng cách ký tên mình.
Tôi gặp nhỏ khách hàng vào một buổi sáng sớm trước giờ vào học. Cô bé kháu khỉnh đôi mắt tròn to, luôn có vẻ ngạc nhiên khi nhìn, thêm chiếc răng khểnh coi thật duyên. Cô bé chừng mười sáu mười bảy tuổi. Nhìn dáng dấp và quan sát cách xử sự, tôi đoán cô bé là con em của người thuộc chế độ cũ. Cô bé còn học hành được là điều may. Tôi biết nhiều con em phải bỏ học gia nhập nghề buôn bán chợ trời. Nếu có thần thế do liên quan với người làm cách mạng, xin được chân công nhân viên, quét, hết rác cho sở vệ sinh là nhất rồi. Chính mắt tôi đã được đọc những tờ giấy chứng nhận có công lao, giúp đỡ cách mạng của một vài người quen. Viết lem nhem trên một tờ vở học trò. Có người mang bọc lát tích cẩn thận. Tôi cũng đã thấy tại nhà một anh bạn viết báo trước kia, có treo một tấm bằng, chứng nhận “Gia Đình Vẻ Vang “. Tấm bằng có đóng mộc ký tên, lộng kiễng treo ngay tường giữa nhà, ai vào cũng nhìn thấy. Như người xưa treo hoành phi câu đối. Anh khoe hai đứa con trai của anh sắp sửa đi làm công nhân viên, chân bảo vệ gì đó. Riêng tôi ngạc nhiên về anh, vì tôi biết anh là người đóng bè vượt biển vào Nam sau đợi di cư 1954. Sau đó anh là người viết nhiều bài báo chống Cộng kịch liệt. Tôi không biết gia đình anh vẻ vang nỗi gì, ở cái khổ nào. Thây kệ họ?
Cô bé ngồi xem tôi bơm mực, thử bút, chăm chú nhìn chữ ký của tôi. Mắt hơi nhíu lại, bất ngờ hỏi tôi:
- Thưa chú, nếu cháu không lầm, cháu đã thấy chữ ký này trên một cuốn tiểu thuyết ký tặng ba cháu.
Tôi ngẩng nhìn cô bé:
- Ba cháu là ai, tên gì?
- Ba cháu là thiếu tá Phùng Đại Hải, bây giờ đã đi học tập cải tạo rồi.
Tôi nhìn sững cô bé:
- A, thiếu tá Hải, chú có quen.
- Chính chú ký tên tặng sách ba cháu?
Tôi gật đầu thú nhận:
- Chính chú!
- Trời ơi, chú là nhà văn… bạn của ba cháu.
- Đúng thế, đừng nhắc lại nữa, thời gian đổi thay rồi. Cám ơn cháu còn nhắc đến chú.
Cháu cũng từng là độc giả của chú, bây giờ gặp được chú, ai dè chú lại làm nghề này…
Tôi không muốn cô bé thương thân phận tôi. Vì chính thân phận cô bé cũng đáng thương. Bố bé đi học tập cải tạo mẹ bé bán hàng rong, anh chị của bé chạy chợ trời. Bé sửa soạn bỏ học, thành phần gia đình
Nguỵ rất khó sống. Người ta truy tìm lý lịch đến ba đời! Bé cười nói thế. Tôi an ủi cô bé, muốn bé vui, đừng quá sớm chán đời:
- Tất cả đều vậy thôi, chú phải làm công việc này vì “sứ mạng “.
- Chú nói gì?
Máu bố láo hình như lúc nào cũng có sẵn trong người tôi, ít khi tôi nghiêm chỉnh được. Tôi bịa ngay ra được một câu chuyện để chống chế cho cái nghề mình đang làm:
- Chú làm nghề này vì phải đền mạng cho hàng bao nhiêu ngàn cây bút do chú đã tàn sát chúng cả chục năm trời nay. Đây là lệnh của Diêm Vương.
Cô bé cười giòn:
- Chú xạo?

- Ừ thì xạo giấc mơ hoặc cơn ác mộng nào chẳng xạo. Một đêm chú ngủ gặp một cơn ác mộng rồi sau đó chú quyết định phải làm nghề này.
- Chú kể cho cháu nghe với.
- Xong ngay.
Tủ sách của tôi bị xô đổ, cơ man là sách vở. Trong số đó có những tác phẩm của tôi viết hai chục năm qua, những cuốn sách quí hiếm của các bậc tiền bối, bậc thầy, đàn anh cổ kim mà tôi đã mất công sưu tầm cả đời. Những chồng sách quí giá ấy bị đám thanh niên nam nữ đeo băng đỏ, độ tuổi choai choai khiêng từ nhà tôi ra, chất đống tưới xăng thiêu huỷ. Khói lên cuồn cuộn ngút từng mây, vướng mắc cả vào cây thánh giá mỏng manh trên nóc tháp chuông nhà thờ Tân Định. Trong khu phố có nhiều đám cháy thiêu huỷ sách vở báo chí bị kết tội là đồi truỵ phản động. Tôi nhìn sách vở của mình bị thiêu đốt mà nhợt nhạt cả người. Tôi nhai theo những tàn tro bốc lên cao, những mảnh giấy cháy thành than như vẫn còn linh hồn, còn vương vấn trong lưỡi lửa bạo tàn. Tôi thấy những trang sách cháy đen bay nhập nhoạng như những bóng dơi trong hoàng hôn. Tôi nhìn lũ trẻ tay đeo băng đỏ hang trưng cho quyền lực vừa vỗ tay vừa ca hát những bài ca mới học thuộc. Chúng nhẩy múa quanh lửa hồng, vô tư và vô tội, vì chúng không biết mình đang làm gì. Chúng biết gì đâu mà cãi cọ với chúng, chúng giống như một đoàn âm binh bị phù thuỷ ếm bùa, phù phép sai khiến.
Tôi bước đi trong thống khổ, trong bóng dơi ma tro tàn khói bay và từ đó ném tôi vào cơn ác mộng. Tôi bị xô ngã xuống vực sâu. Hình như có đám khói đen nào đó đỡ lấy tôi, êm như đệm bông, đưa tôi xuống tận đáy vực, không đau, không xây xát. Nhưng ở nơi đó tối đen, lạnh lẽo. Tôi đang ở đâu? Tôi ngơ ngác trong bóng tối mung lung. Mất tôi còn tốt mà như mù tịt. Hay là tôi bị chôn sống? Không, tôi vẫn còn thở được mà, và còn có thể kêu được, nếu tôi dám kêu.
Nhưng sao tôi hãi sợ nơi thâm u này quá.
Tiếng rì rào xa rồi gần, tới sát bên tôi. Hai mắt không nhìn thấy, nhưng tai lại nghe rõ hơn. Các hồn ma rên rỉ, khóc lóc than thân trách phận cùng oán hờn ai đó. Sao lại là tôi? Có lời than nhắc tên tôi, lời lẽ xúc phạm, nhục mạ hạ cấp. Chỉ ma quỉ mới nhìn rõ được trong bóng tối, tôi còn là người nên tôi không thấy gì. Lửa bùng sáng làm tôi giật mình, loá cả mắt. Tôi định thần, đúng ỉa cảnh âm ti địa ngục. Tấm màn đỏ kéo lên, như sân khấu tuồng hát bội nơi đình miếu. Trên một án thư rộng, một vị coi dáng đường bệ hách dịch, mặt đen như nhọ chảo, mắt trắng dã, tròng trắng nhiều hơn tròng đen, râu dài thậm thượt bạc trắng như cước coi quái gở làm sao, đầu đội mão hoàng đế, mình bận áo bào thêu đỏ tía, thay vì thêu rồng phượng lại thêu toàn hình xương đầu lâu có hai gióng bắt chéo như cờ cướp biển. Hai bên án thư hai tên quỉ dữ cầm đinh ba, bồ cào. Đứa đầu trâu, đứa mặt ngựa. Sau lưng ngài, một thị tì xoã tóc, mặt dơi tai chuột, cầm quạt lông lợn lòi đứng hầu. Xung quanh tôi, đứng chật cả hang động không biết cơ man nào là các dạng bút hư hỏng. Cả những máy chữ bể càng gầy gọng. Quỉ sứ mặt thú cầm vũ khí ngăn đám đông, tôi đứng giữa hang, trước mặt là một vạc dầu nấu sôi sùng sục cùng đủ thứ cưa xẻ, kìm kẹp, kéo xiên, móc ngoéo. Tất cả dụng cụ đều được nung đỏ, bốc khói. Chỉ có loài quỉ mới xử dụng được. Tôi sợ hãi, hoang mang.
Vị tai to mặt lớn yên vị, vỗ án thư đến rầm một cái ra uy. Tiếng vỗ làm rung chuyển cả hang động, kinh hồn bạt vía thằng tôi nhỏ bé. Tiếng ngài vang như tiếng sấm rền:
- Tên Nguyễn Văn Tèo kia, trước đây trên dương gian ngươi làm nghề văn sĩ phải không?
Tôi run sợ, lắp bắp thưa:
- Dạ thưa, chính phải.
Tôi bị quỉ sứ mặt chim bồ nông có cái bìu cổ thật to đạp một cái vào nhượng chân, ngã thành thế quì gục.
- Hỗn, quì xuống tâu bày!
Vị tai to mặt lớn đưa bàn tay ngón chuối mắn lên vuốt râu, cười ha hả:
- Cho ngươi biết ta chính là Diêm Vương tầng địa ngục thứ mười tám, hôm nay được lệnh Ngọc Hoàng thượng đế xét xử tội ác ngươi đã gây ra trên dương gian. Nguyên cáo là hằng vạn cây bút để viết lách kiện ngươi phải được đem ra xét xử, vì trong đời ngươi đã tàn sát chúng quá nhiều, một tội ác thô bạo không thể tha thứ, làm ngơ được… Bị cáo chính là ngươi.
Tôi vỡ nhẽ hoảng hồn. Nguyên cáo quá đông mà bị cáo chỉ có mình tôi. Bản cáo trạng ngắn gọn buộc tội tôi nặng nề.
Diêm Vương hỏi tôi:
- Trên dương gian, nhà ngươi hành nghề viết văn làm báo được bao nhiêu năm?
- Thưa ngài Diêm Vương, con không nhớ chính xác được ngày tháng hành nghề. Nhưng tính tới nay cũng cỡ hai chục năm trời.
- Ngươi dùng gì để hành nghề ấy?
- Thưa ngài, tôi dùng đầu óc tôi và bút, mực, giấy, máy chữ.
- Đầu óc ngươi không cần nói đến, vì đó là rác rưởi Ta muốn nói đến những cây bút kia.
- Thưa vâng, phải có giấy bút mới diễn đạt được đầu óc tư tưởng mình.
Nhà ngươi coi những cây bút là thứ gì?
- Thưa là những dụng cụ để diễn đạt tư tưởng.
Diêm Vương nổi giận, tóc tai dựng đứng, mặt đỏ như cục than hồng, hai mắt như hai đèn pha:
- Láo, loài người nhà ngươi ngu dốt lại còn giở giọng khinh thị. Ngươi dám nói bút mực không có linh hồn sao? Chúng không phải dụng cụ vô tri. Nhờ có chúng, mi mới diễn tả được tư tưởng của mi, dù rằng thứ tư tưởng cỏ rác thấp hèn, chuyện đó loài người các ngươi xử lý với nhau, và ngươi đã được xử lý rồi. Ngày hôm nay ngươi là bị cáo, ngươi bị đòi từ dương gian xuống toà án Diêm Vương mười tám tầng địa ngục để trả lời tội ác ngươi đã gây ra trên trần thế. Nếu đúng ngươi có tội, pháp luật Diêm Vương sẽ xử phạt ngươi. Ngươi được phép bào chữa, được phép ăn năn tội lỗi để hưởng lượng khoan hồng của địa ngục do ta là Diêm Vương đang thống trị. Luật pháp là ta và ta là luật pháp hiểu không. Ngươi có biện hộ viên, không lo luật pháp chốn địa ngục này không công bằng, không quang minh chính đại. Biện hộ viên, tức thầy kiện, luật sư bào chữa cho ngươi là quỉ chim Chèo Bẻo. Chốn âm ti địa ngục ngày nay đã tiến bộ lắm roi. Quyền quỉ quyền người đều được bảo vệ, tôn trọng. Nghe ta hỏi này, trong đời xử dụng bút của ngươi, ngươi đã tàn sát bao nhiêu cây bút, máy chữ?
Tôi run lập cập:

- Thưa ngài chánh án Diêm Vương, tôi làm hư hỏng bút cũng nhiều, nếu chúng không gây trở ngại khi nguồn văn tôi đang lênh láng, bút Bic, hàng ngoại nhập mực chảy tốt, tôi xài đến hết mực mới liệng đi.
- Khá, ngươi đã thành thật khai báo và nhận tội, vừa tàn sát bút vừa khai thác bóc lột sức lao động của bút đến cạn kiệt rồi liệng đi.
- Thưa đúng vậy, con thưa với Diêm Vương, con không nhớ là bao nhiêu cây bút đã hư hỏng hết mực trong tay con, vì thời gian hành nghề của con quá dài… Toà Diêm Vương nhắc lại cho bị cáo rõ, tàn sát chứ không phải hư hỏng. Những cây bút cô linh hồn của nó, không còn là vật vô tri, chúng đã kéo nhau đến đây kiện ngươi, hàng hàng lớp lớp. Coi kìa, xung quanh ngươi, tất cả đều là nạn nhân của ngươi. Phen này chắc chết, sao mà chúng đông đến vậy Bút Bic, bút máy Parker, máy chữ Remington, cả bút lông, bút chấm mực. Tất cả họ hàng nội ngoại loài bút đều khập khiễng, thân tàn ma dại, sứt càng gây gọng. Chúng nhao nhao đòi mạng, đòi tôi phải trả nợ máu. Diêm vương và quỉ sứ phải vãn hồi trật tự rồi mới cho những tên đại diện ra tâu bầy buộc tội.
Chàng máy chữ Remington khập khiễng ra trước toà:
- Thưa ngài chánh án Diêm Vương, chính tên này một lần đã liệng con từ trên lầu ba ở toà soạn báo xuống đường vì hắn bực tức. Hắn vô cùng tàn nhẫn, thế là con du địa phủ. Linh hồn con đến nay vẫn chưa siêu thoát
Mụ nạ dòng bút Bic bước ra:
- Thưa ngài chánh án Diêm Vương, bậc đàn anh khả ái máy chữ Remington nói rất đúng, tên văn sĩ này rất độc ác, cộc cằn, nó xử dụng chúng con vô cùng tàn nhẫn. Nó viết nhiều và viết rất lâu, bất kể giờ hành chánh theo qui định, bất kể đêm ngày. Con, chị em con mệt hụt hơi. Chưa kịp chảy mực là nó đâm ngay ngòi xuống bàn, hết mực nó đập bút luôn. Giận dữ nó cũng bẻ đôi thân thể con ra ngay. Ngài thấy con mảnh dẻ, liễu yếu đào tơ chịu gì nổi tên cầm bút thô bạo vũ phu như vậy.
Người đẹp Parker ỏn ẻn bước ra:
- Chính nó, có kẻ đến nói với nó chịu uốn cong ngòi bút một chút nó sẽ sung sướng cái thân, lại có tiền bạc. Nó không chịu nghe lời người ta còn dùng ngay con đâm vào mặt người ta đến đổ máu. Thân con bị tiêu diệt ngay tức thì.
Ả hức lên khóc thảm thiết, đòi tôi phải đền mạng, trả nợ máu. Tôi nghe buộc tội mà muốn tự sát chết luôn, toát mồ hôi hột, mặc dầu ở chốn âm ti vô cùng lạnh lẽo. Tôi không ngờ mình gây tội ác với tộc họ nhà bút kinh khủng đến vậy. Bây giờ chúng đòi mạng tôi, hối không kịp, tôi chỉ chết một lần, làm cách nào tôi đền mạng nổi cả chục ngàn cây bút. Phần buộc tội đã xong. Biện hộ viên mặt quỉ Chèo Bẻo nhẩy ra bào chữa cho tôi ác liệt không kém:
- Thưa ngài chánh án Diêm Vương, thưa quí toà. Tôi là biện hộ viên của tên nhà văn thối tha bị lôi cổ ra toà do đơn tố cáo của nhân dân loài bút. Qua lời buộc tội gắt gao của nhân dân thì tên nhà văn này đã gây ra không biết bao nhiêu tội ác, nước giải của Thiên Hà ngoài vũ trụ cũng không thể rửa sạch. Một triệu lần chết hắn cũng không đền nổi tội ác của một đời lầm lỡ. Người biện hộ viên chân chính như tôi phải bênh vực bào chữa cho hắn cũng lấy làm xấu hổ và nhục nhã Nhưng vì lòng quỉ đạo, tôi cũng tình nguyện đứng ra bênh vực và bào chữa cho hắn. Tội ác đã rõ ràng, không thể chối cãi được. Nay thân chủ tôi đã cúi đầu chân tội. Vậy xin Diêm Vương mà chính Người là luật pháp mở lượng đèn trời soi xét tìm giúp cho thân chủ tôi một hình phạt xứng hợp với tội ác mà hắn đã phạm phải để chứng tỏ tính ưu việt của luật pháp tại tầng địa ngục thứ mười tám này trong cõi âm ti.
Toà ngưng để nghị án. Tôi khát khô cổ nên được phép giải khát bằng một lít nước đái ngựa. Tôi không thể tả nổi mùi vị ra đây được. Quỉ mặt thú hỏi:
- Có đói không ta cho bị can ăn?
Tôi thất kinh trả lời không còn đói khát gì nữa.
Sau mấy khắc nghị án, Diêm vương tuyên án, giọng ngài oai nghi vang như sấm:
- Xét rằng bị cáo, tên văn sĩ Nguyễn Văn Tèo là người ở dương gian đã gây nhiều tội ác nghiêm trọng. Xét rằng bên nguyên là những hồn bút kiện đòi mạng và có lời buộc tội chính đáng. Xét rằng qua lời bào chữa của biện hộ viên xin xỏ cho bị cáo là cao thượng, có tình có lý, có tính quỉ đạo Toà án tối cao chốn âm ti, tầng địa ngục thứ mười tám ra quyết định số I/ĐN 18:
Đối với bị cáo Nguyễn Văn Tèo, mọi hình phạt nơi chốn âm ti này như cắt cổ, mổ họng, lóc thịt, lột da, nấu trong vạc dầu đều không xứng với tội ác mà hắn đã phạm phải. Nên sau khi nghiêm túc luận tội, toà nhất trí xử phạt lưu đầy ngay hắn lên trần thế cho lao động cải tạo để đền tội ác. Hắn sẽ phải hành nghề bơm sửa bút bi. Các hồn bút sẽ được tái sinh trong những cây bút hư hỏng do tên Tèo sửa chữa.
Bản án được thi hành ngay.
Tôi choàng tỉnh cơn ác mộng và thấy mình là gã sửa bút bi ngồi dựa tường. Bấy giờ quanh tôi là các em học sinh há miệng ngồi nghe. Rồi đưa bút hỏng cho tôi bơm mực, sửa chữa, trả tiền sòng phẳng hậu hĩnh. Tôi vơi dần tội ác.

Nhưng sau đó tôi lại hoảng sợ ngay, tôi thú thật với các em:
- Ta nói láo đấy, ta có máu láu cá, đừng tin lời ta nói, hãy xem việc ta làm.
Một hôm không xa ngày tôi phía chuyện nói cho vui với các em nhỏ, những người mang băng đỏ tới tuyên phán:
- Riêng anh, chỉ có anh thôi, lên đường đi nơi khác. Anh không được phép ngồi đây để bôi bác chế độ. Anh nhớ tai mắt nhân dân ở đâu cũng có.
Lời nói nghiêm trọng của người cách mạng choai choai khiến tôi phải tuân thủ liền.
Tôi khiêng đồ đi nơi khác.
Hồn bút ám quẻ tôi mãi tới ngày hôm nay. Tôi giống như một kẻ bị quỉ ám, cứ lẩn thẩn mãi với mấy cây bút, tôi vẫn chưa trả hết nợ máu với chúng. Mà tôi thì không thể quịt nợ chúng. Tôi cặm cụi với cây bút trên tay và nâng mu nó.
Cái Còng
Tập Truyện Ngắn
Cái còng! Nói đến từ ấy tôi thất kinh. Mạng số không ra quái gì, bởi vậy nhiều lần trong đời tôi đút tay vào còng. Thời Ngô Đình Diệm làm tổng thống, tôi bị tống giam vào khám Chí Hòa. Hai tay bị còng, cái còng Tây để lại, bằng đồng, vặn vít chứ không khóa. Tất cả "quái khuếch " đều chịu thua khi bị mang loại còng này.
Thời Nguyễn Văn Thiệu là nguyên thủ quốc gia, tôi cũng bị ném vào Chí Hoà vì tội chống đối lăng nhăng gì đó. Bị khóa tay. Nhưng cái còng năm xưa vắng bóng đâu rồi. Một loại còng mới có răng cưa, dây xích ngắn, khóa chắc chắn do Mỹ quốc viện trợ. Tôi nhìn thấy cả thùng còng chưa dùng tới có dán nhãn hiệu hai bàn tay nắm lấy nhau, tỏ rõ lòng thân thiện, ném ở góc phòng can nhơn khám Chí Hòa.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, tôi quờ quạng lại bị tóm và bị còng. Nhìn lại cái còng, tôi thấy nó đã cũ kỹ, đúng là cái còng tàn dư của Mỹ Ngụy bỏ lại. Tôi bị khóa tay giải đi khám Chí Hòa. Tôi vô phúc nên bị khóa bằng cái còng xét rỉ. Khóa hóc, càng cựa quậy lưỡi răng cưa ở cái còng tối tân càng thít chặt, đến độ hai tay tôi sưng lên, đỏ lựng. Người cán bộ công an lôi tôi đi phá chiếc còng bằng búa và đục sắt. Hai cổ tay đau điếng mà không dám kêu. Tôi còn bị chửi lên đầu:
- Tổ cha thằng phản động, mày làm tao tiêu mất một cái còng rồi.
Khi vào xà lim, tôi bị cùm bằng sắt. Tới trại học tập cải tạo tay tôi bị cùm bằng tre, chân thì bị cùm gỗ cây thau lau, cổ cũng bị gông nốt. Khi bị kết tội chống đối hay trây lười lao động.
Nói tóm lại, cái còng, cái cùm, cái gông đều là một thứ dụng cụ để khống chế cơ thể con người. Nó muôn hình vạn trạng.
Tôi muốn quên chuyện đó khi được trả tự do.
Quên vĩnh viễn cái còng. Nó lâm sự xui xẻo cần được đốt vía xua đuổi đi như thay pháp trừ tà ma quỉ quái. Tôi trở về tự.do, thảnh thơi sống bằng nghề mua bán ve chai. Tôi rong chơi khắp thành phố, rao hàng và nhiều khi cũng trúng mánh. Thâu mua được nguyên một cục răng vàng, một cái đỉnh bằng bạc, một cái huy chương bắc đẩu bội tinh bằng vàng 18 K của một ông tướng, ông tá nào đó ở cư xá sĩ quan mà nay phải đi học tập mút mùa tận Hà Sơn Bình. Thằng con trai ngu dốt dại khờ của ông ta lục ra bán cho tôi. Thế là tôi trúng mánh..
Rõ ràng tôi là thằng mua gian bán lận. Đạp lên đầu nhau mà sống. Để chắc ăn, tôi móc ra hai chai át xít Một chai nước màu vàng, một chai nước màu trắng. Chấm lên đồ vật mình định mua. Một vệt đen nổi lên. Trúng rồi! Tôi phải ếm giá. Cái đồ khỉ này chỉ đáng giá một ly cà phê đen, thêm cho ba điếu thuốc lá Samit lậu Thái Lan! Tôi nói với chú nhóc:
- Cho chú em năm đồng đi uống cà phê, hít Samit cho đỡ vã, thật ra tôi chẳng muốn mua cái khuy đồng này làm gì.
- Cái huy chương của ba tôi, Bắc đẩu bội tinh.
-Chẳng cần biết, cũng như cái khuy đồng thôi. Chỉ có kẻ ngu dốt như tôi mới mua một cái khuy đồng tới năm đồng bạc.
Chú nhóc vã, đành ô kê ngay. Thế rồi tôi thơ thới ra đi. Thật ra chẳng cần mua bán nữa, tôi đã trúng mánh rồi. Tôi chạy về bọn thu mua ngồi ở góc đường Nguyễn Thiện Thuật, hùng dũng gọi rượu thuốc uống để nung chí anh hùng. Thằng phân lòm cân vàng trả tiền cho tôi theo giá vàng thị trường. Mặt tôi cứ vác lên, ra lệnh cho đám ve chai hết thời gọi rượu uống thả cửa. Thằng bạn tôi có bút hiệu là Sao Biển, trước kia làm nghề viết báo, nay cũng ra nghề ve chai mang cái bản mặt sưng tím, lỗ đầu, lỗ mũi ăn trầu, trẹo quai hàm trở về:
Xui quá, tao bị chúng nó quây lại "phện" cho một trận thừa chết thiếu sống. Chút xíu nữa thì chúng nó móc mắt tao cho tao chuyển sang nghề bán vé số. Tôi thân róc ly rượu xây chừng mời bạn:
- Cạn ly, lý do?
- Tao thử vàng, một bà lão có chiếc răng vàng lung lay muốn bán cho tao, nhưng còn ở trong miệng bả. Để chắc ăn tao biểu bả há miệng ra, lấy át xít thử. Không may một giọt át xít rớt ra nước răng bả, bả dẳy lên tê tê. Vậy là con cháu bả xúm lại đập tao. Phải thử vì răng vàng bây giờ nhiều loại giả, làm bằng đồng mạ vàng hay i-nốc. "Đại đế ve chai đã cảnh giác anh em như thế.
Chúng tôi hộc lên cười, uống rượu như điện, an ủi bạn gặp cảnh tai nạn nghe nghiệp. Thay vì ca hát, chúng tôi mở cuộc thi rao hàng xem đứa nào hót hay nhất. Nội dung bài thi chỉ như thế này:
- Mắt kiềng bể, vỏ đồng hồ, vỏ cà rá, răng vàng, bạc vụn, tiền xưa bạc cũ, ai bán không. Mua hết, bán hết, bà con cô bác ơi...
ấy vậy mà nhiều thằng rao không ra lời. Thằng thì nghẹn lời, thằng tủi thân, mấy con "ghệ" rao như khóc. Thằng bị bệnh sốt rét tắt tiếng ngang. Thằng sứt môi rao có âm điệu ễnh ương kêu. Tôi dĩ nhiên rao được, công phu tập luyện đi lại theo đại đế ve chai hết sáu tháng trời mới vỡ giọng.
Hôm nay tôi giật giải vì tôi là người trúng mánh.

Không phải ngày nào cũng giống như ngày nào.
Ngày vàng son có và ngày thê thảm cũng có. Vận bỉ đến không hẹn, tôi rao rát cổ bỏng họng mà chẳng có ma nào mang đồ ra bán. Tôi đi vào một xồm xưa, theo tôi đánh giá hẳn là có cối giã trầu bằng bạc, hay tiền xưa bạc cũ, chắc cũng bằng quí kim. Xóm Gà này có nhiều bà già trầu, ưa để dành chắt bóp, tiền bằng bạc chôn giấu cả hũ ngoài vườn. Thế là tôi cất tiếng rao giữa buổi trưa nắng cháy. Nâng giá đồ vật mình muốn mua lên cho thêm phần hấp dẫn.
Trong xóm có một quán nhậu đông đảo khách hàng. Tôi nhận ra họ đều là thanh niên, ở trần, mặc quần đùi ngồi chồm hổm ngay giữa quán nhậu đế với một mâm xíu quách, chấm nước mắm chanh ớt. Bữa nhậu đang đến hồi gay cấn, bầy hấy. Chẳng biết họ đã "cưa, hết bao nhiêu lít đế, văng tục và chửi bới nhau đến từ thứ bao nhiêu triệu. Những cục xương văng vung vãi khắp nơi. Ruồi nhặng bay như vãi đậu. Có người nghe tiếng rao, anh ta ngoắc tôi vào:
- Mày mua tiền xưa bạc cũ phải không?
- Dạ, đúng vậy.
- Mua với giá cao, một đồng ăn chín mười đồng?
- Đúng vậy.
- Kim loại màu vàng?
- Chính thế!
Người đàn ông hỏi tôi mặt đỏ như mặt gà chọi, kêu thằng nhỏ ngồi cùng bàn:
- Bẩy, mày về nhà tao mở cái ngăn tủ, lấy sang đây cho tao đồng kim loại màu vàng. Chủ quán đâu, đưa thêm một can rượu nữa, hết xíu quách thì nướng khô...
Thằng Bẩy phóng rẹc một cái. Nó sang đến bên kia đường. Chạy vào nhà, lục lọi. Tiếng đàn bà la chói lói. Thằng nhỏ chạy sang quán đưa đồng tiền cho tôi:
- Chung tiền đi, quí lắm đó?
- Cha mẹ ơi, một đồng tiền điếu, dùng để cạo gió.
Đồng tiền dùng lâu ngày mòn vẹt, màu vàng, bóng loáng. Không phải đồng tiền bà đầm xoè. Tôi chưa kịp nói gì mụ đàn bà đã nhào sang xoe xoè chửi:
- Nhậu nhẹt từ đêm qua tới giờ chưa đã sao, bây giờ lại về nhà khiêng của đi bán nữa.
Gã lớn tuổi bình tĩnh:
- Đừng ồn lên vậy, bà yên tâm bán được cho chú ve chai này, tôi chia cho bà năm chục.
Tôi lắc đầu đưa lại đồng điếu:
- Tôi không mua đâu.
Một gã khác trong đám nhậu:
- Tại sao không mua, rõ ràng mày nói mua mà.
Mụ đàn bà nhảy choi choi:
- Không bán, tao không bán cho đồ lưu manh chợ trời. Bọn này ghê lắm, chuyên đi lừa gạt người lương thiện.
Tình thế trở nên gay cấn. Đám đàn ông say rượu hung tợn. Chúng dám làm thịt tôi cướp hết tiền bạc vốn liếng lắm! Miệng mụ đàn bà điêu toa độc ác, kinh khủng không kém:

- Đồ buôn gian bán lận, trời ơi, đồng tiền cạo gió của tôi bằng vàng y mà rẻ mạt thế à. Lột da nó ra!
Không còn cách nào khác, chạy là thượng sách. Tôi nhẩy nai. Tôi phải nhanh hơn bọn say rượu kia, khoẻ hơn mụ nái xề chân yếu tay mềm. Tôi phóng đi, vẫn nghe tiếng chân đuổi theo đồng thời nghe tiếng ngã ạch đui. Chín mươi chín phần trăm tôi thoát hiểm. Nhưng này, sao lại có bàn tay ai túm cổ tôi. Sợ chết, tôi liền giở mặt hèn ra:
- Lạy ngài, tha cho con, con còn phải nuôi mẹ già, vợ dại, con thơ.
Tiếng cười hề hề:
- Bình tĩnh đi...
Gã đàn ông mặt rỗ chằng rỗ chịt, có hàm răng cải mả ố vàng, nam đen, trông cái mặt như trái xúp lơ.
Tôi vẫn chưa hoàn hồn:
- Thật tình tôi không thể mua được món hàng ấy của các ông. Tôi không gian dối gì hết...
Gã đàn ông buông cổ tôi, vẫn cười nhe hàm răng cải mả:
- Đúng rồi, tôi hiểu, cái đồng điếu hạng bét đó mà mua gì được. Vào nhà tôi đi, anh có hàng mua được. Tôi biết anh là "chuyên gia mua đồ cổ".
Tôi hoàn hồn thật sự, đứng trước mặt anh ta.
Hình dạng anh ta coi xấu xí vậy nhưng cũng không có gì nguy hiểm. Tôi chỉ nhận thấy anh ta có biệt tài bắt người. Chỉ một cái nắm cổ, hết cựa quậy. Hẳn là một cao thủ, giấu tung tích.
Tôi theo anh ta vào căn nhà rách nát. Mái lá, tường bằng tôn thùng khuy. Sàn xi măng loang lổ trơ cả đất Hai đứa trẻ ở truồng, mặt mày lem luốc nằm ngủ. Đứa nhỏ đút ngón cái vào miệng mút, dãi dớt nhậu nhão Căn nhà nhỏ thấp lè tè, nóng hầm hập. Gã đàn ông mặt mũi quái gở mời tôi ngồi xuống sàn:
- Ngồi chơi chờ tôi chút. Tôi mang ra món đồ "gia bảo" này chắc chắn anh mua được. Hắn khom người xuống mở cái cửa tủ nhỏ xíu lục lọi. Tiện tay tôi lột cái mũ ra quạt cho hai đứa bé. Tự nhiên tôi thấy thương chúng, như thương hai đứa con tội nghiệp của tôi. Mái tóc tơ của trẻ thơ phơ phất. Gã đàn ông lục một hồi, lấy ra một vật gói giấy cẩn thận đưa cho tôi:
- Đồ gia bảo đó, sự nghiệp đời tôi, bây giờ phải bán cho anh, tôi tiếc đứt ruột.
Vật tôi cầm trên tay nặng như sắt thép, có thể một vật gì đó không bằng vàng cũng bằng bạc, đồng đen? Tôi vẫn chưa mở giấy:
- Cái gì đây?
- Anh có quyền mở ra xem hàng, mình thuận mua vừa bán, tôi chỉ cần tiền mua đủ năm ký gạo cho các chịu Tội nghiệp chúng cả tháng trời nay ăn mì sợi khoai lang. Con vợ tôi đi bán tàu hủ mà không đủ tiền mua gạo cho tụi nó. Tôi thất nghiệp mấy năm nay rồi, không làm gì ra tiền, cứ phải bán dần đồ đi ăn... Tháng trước tôi bán chiếc xe đạp cũ, sườn hiệu Tao cho lạc xoong. Người ta tân trang sơn phết lại lời đáo để đó Tôi giở hai lần giấy gối lấy ra món đồ. Tôi thất kinh kêu lên: Trời, cái gì thế này, sao lại cái còng? ừ cái còng đồ, cái còng gia bảo của tôi, mua đi rẻ thôi mà.
Tôi vẫn giẫy lên:
- Không được tôi sợ cái này lắm.
Gã cười, nhe hàm răng cải mả và nước răng xám ngoét ra:
- Xem kỹ hàng đi, hàng tốt, cả một đời làm lính kín của tôi mới trúng thăm được cái này. Một triệu cái còng viện trợ mới có một cái đặc biệt, trong nghề tôi biết, không sét rỉ, khóa nhậy đàng hoàng, pặc một cái là khóa nghiến lại, hết đường cục cựa.
Anh bạn mới say sưa nói đến sự nghiệp lính kín chuyên đi bắt người của anh ta ngày nào, nay đã là dĩ vãng. Những cái hay cái đẹp và cái tốt của chiếc còng gia bảo mà anh may mắn làm chủ. Anh nói nó "o li din" đồ ngoại vì có chữ đề Ma de in USA. Tôi phải chặn anh ta lại:
- Tôi hiểu giá trị của nó rồi, nhưng cái này mua làm gì được?
- Đề phòng kẻ gian.
- Thôi đi cha nội, mua rồi tôi bán cho ai đây?
- Sao lại không, công dụng của nó ghê lắm chứ. Bây giờ kẻ gian hơi nhiều, anh dùng cái còng này khóa xe đạp, ông nội thằng vồ xế nào dám đụng đến. Mấy cái khóa xe đạp Trung quốc sản xuất đâu có bằng. Công dụng của nó đó, chưa kể...
Anh ta bỏ lửng câu nói, nhưng tôi cũng hiểu cái oai của cái còng khiến kẻ gian e ngại. Nhìn hai đứa bé ngủ say, tôi thấy tội nghiệp quá. Tôi nói thôi được. Trả cho anh ta năm đồng bạc, ném cái còng vào túi xách khoác vai, ra khỏi nhà anh cựu lính kín, nói cách khác là công an chìm thời chế độ cũ. Trời vào trưa, nắng gay gắt, nhưng tôi phải đi nữa, mua được món gì kha khá một chút. Không thì coi như hôm nay lỗ sở hụi. Tôi nghĩ đến vài địa bàn hoạt động: Tại sao tôi không đến nhà một bà quen mà ở đó tôi từng mua được nhiều món quí. Giới thiệu người ăn hoa hồng. Khu đó là nơi béo bở cho những thằng ve chai như tôi.
Tôi cuốc bộ đến nơi đó.

Cư xá buổi trưa vắng tanh. Hình như chỉ có mình tôi cầm xâu chuỗi máng đồ ve chai, - vừa lắc vừa điểm ngón tay từng món hàng:

Coi này, cái kiềng bể cũng mua được, cái nắp viết máy cũ rích cũng mua được. Cái vỏ cà rá mất hột cũng mua được. Tất cả mọi thứ trong nhà vứt đi đều mua được hết. Chung tôi không mua rẻ bán đắt mà chỉ lấy công làm lời. Bán hết, bán ráo trọi đi bà con ơi. Tôi lảm nhảm độc thoại, ai muốn nghe thì nghe, không thì thôi. Tôi giống như một thằng điên. Cuối cùng tôi cũng đến được ngôi nhà đó. Nhà chị Tư. Rung xâu chuỗi ve chai lên, cánh cổng mở. ở nhà đã hiểu ám hiệu của tôi.
Chị Tư tiếp tôi ở phòng khách. Chị lúc nào cũng mặt hoa da phấn, áo quần là lượt diêm dúa. Hôm nay mà chị bận bộ đồ suýt bóng màu tím hoa cà, thêu ren, móng chân móng tay sơn phết công phu. Người chị đẫy đà ấy vậy mà chị lại có bệnh. Căn bệnh hiểm nghèo là nhồi máu cơ tim. Bệnh hoạn như vậy, nhưng chị lại làm một nghề cực kỳ nguy hiểm gai góc là chủ tàu chuyên đóng tàu vượt biên đưa người ra nước ngoài. Sự khôn ngoan của chị không để đâu cho hết. Lời nói chị như mật ngọt róc vào tai người nghe. Đứa con gái lớn của chị bưng ra cho tôi một ly nước chanh ướp lạnh. Uống vừa mát vừa ngọt vừa giải cảm nắng. Chờ tôi uống hết ly nước chanh, chị hỏi tôi trong nụ cười:
- Thế nào, hôm nay định đưa đến chị mấy mối?
Tôi khẽ lắc đầu, chị hơi nhíu đôi lông mày "điêu thuyền":
- ờ sao lạ vậy, tôi nói với chú cả tháng nay mà không tìm được mối nào sao?
- Dạ, cũng có tìm, nhưng người ta không tin em có tàu. Người ta sợ em bịp.
- Chú cứ đưa đến đây, tôi bao hết, tiền mặt thì ba cây một người, nếu chung tiền bên kia thì bốn cây. Chung tiền bên kia, ở đây tôi vẫn cho chú hoa hồng trước Nhưng này, có đưa đến đây cũng phải đặt cọc cho tôi, tôi mới cho xem tàu. Dứt khoát là cọc năm chỉ, không ưng đi tôi trả lại cọc, không sợ mất, tôi giữ lại hai chỉ làm tin.
- Chi vậy chị?
Chừng nào tàu của tôi ra khỏi hải phận tôi trả nết. Chớ không nó đi tố cáo tôi thì ai chịu cho tôi đây, chiếc tàu của tôi cả mấy trăm cây vàng. Tính tôi thực thà có sao nói vậy, chuyện gì bảo đảm được tôi mới dám nói. Tôi bảo đảm bến bãi an toàn, tàu ra khỏi hải phận, được chưa, khi ấy tôi mới hết nhiệm vụ. Ra ngoài đại dương tôi không bảo đảm được sóng to gió lớn hay cướp biển. Chuyện đó thuộc về chuyện của ông Trời rồi.. Ta cầu xin Trời, Chúa, Phật. Người nào cầu xin theo đạo người nấy, nên cầu lấy bình an là đáng quí nhất. Sóng gió có thể vượt qua được, tàu của tôi không bao giờ dùng loại tàu nhỏ, ít lắm là dài hai mươi lăm thước, máy Ray 6. Bốn ngàn lít dầu dự trữ. Thủy thủ đoàn toàn là hải quân cũ, hai tài công một lái đường sông, một lái đường biển. Chú thấy đã mê chưa. Ba cây vàng rẻ rề...
Chính tôi nghe nói mà còn mê tít, vì tôi cũng muốn đi mà không có vàng, có cây cối gì ráo. Tôi đành thúc thủ, mặt buồn xo. Nhặt lẻ vài ba phân vàng, mua bán ve chai, đời thuở nào mới đủ "cây" để đi.
Chị Tư là người sểnh tâm lý, chị hiểu tôi, chị nói:
- Chú tìm cho tôi ba mối, mỗi mối ba cây chồng tiền bên này. Tôi cho chú một chỗ.
Tôi không tin được tai mình. Tôi nhìn chị, tự chỉ vào ngực mình:
- Em ấy à?
- Chính chú, chú tưởng tôi nói giỡn đó hả. Chú biết tôi là người làm ăn đàng hoàng mà, một là một, hai là hai. Thôi cố gắng lên, tôi thương chú như em, đáng ra tôi cho chú đi không, nhưng tôi e rằng người ta dị nghị.
Nụ cười của chị Tư nở tòe loe coi rất là... đã.
Thân phận tôi là kẻ hèn nên đành nhịn và cũng cười mỉm ăn theo. Chị Tư luôn luôn đoán trước được ý nghĩ của tôi, chị hỏi:
Hôm nay không có mối manh gì, chú đến chị có việc gì không?
Tôi như được gãi đúng chỗ ngứa, vọt miệng:.
- Chuyến này chắc chị có cho con chị đi theo tàu?
Có chứ, hai đứa, cũng để làm tin với khách hàng.
- Vậy thì chị bán lại cho em thứ gì của cháu không cần xài nữa, chẳng hạn như đồng hồ, cát xét, ra-đi-ô hay quần áo cũ gì cũng được. Em đi rạc cẳng từ sáng đến giờ mà chưa mua được gì.
Chị Tư lại cười:
- Mua bán khỉ gì, được rồi, tôi cho chú. Sang Mỹ thì xài đồ Mỹ, mấy thứ này ở Mỹ nó vứt ra nghĩa địa. Tôi khoái trong bụng. Tôi chợt nhớ ra tôi chưa hút điếu thuốc lá nào. Tôi có mấy điếu Đà Lạt xuất khẩu lẻ để trong túi xách. Tôi lục tôi tìm thuốc và cái bật lửa. Tay tôi lụp chụp, vô tình cái còng gia bảo mà tôi mua được lọt ra khỏi giỏ rơi cạch xuống nền gạch bông. Chị Tư nhìn xuống, hét lên một tiếng thất thanh, ngã bật ngửa ra ghế sa lông. Những đứa con của chị chạy ra cấp cứu mẹ vừa lúc tôi nhặt cái còng lên. Chị Tư chưa ngất xỉu hẳn, chị thều thào:
Công an, chú ấy là công an, cái còng kìa, còn súng... Chú ấy theo dõi nhà mình bấy lâu nay má không biết... Chuyến ngoài Bà Rịa mình bể... do... do chú... ấy...
Tôi cuống lên, xua tay lia lịa:
- Không phải, không phải...
Đứa con gái chị Tư, thuộc nòi làm ăn, phản ứng nhanh, quì ngay xuống chân tôi vái lấy như tế sao:
- Lậy chú, xin chú bỏ qua vụ này cho má cháu. Cháu không quên đền ơn chú ngay tức thì hai cây.
- Nhưng tôi.... số là thế này...
Tôi thấy chị Tư đưa bàn tay nguyên năm ngón lên. Đứa con gái líu tíu:
- Dạ, thưa năm cây vậy, cháu biết chú chia chác với anh em. Chú để cho tàu nhà cháu thoát chuyến này. Vâng, chú cứ cầm trước năm cây vậy. Tôi hết đường chối cãi. Tôi nhìn thằng con trai to con của chị Tư, mặt nó lầm lì coi thiệt dễ sợ. Tôi bắt buộc phải thủ thế, một tay cầm cái còng, tay kia đút vào túi xách. Tôi vừa bóp nát một điếu thuốc Đà Lạt. Không thể nói năng, giải thích gì được. Tôi lùi ra cửa và ra đường luôn.
Chỉ loáng sau tôi nhìn thấy chị Tư ngồi sau xe Honda của thằng con trai chạy vụt qua tôi. Họ mải nhìn sang phường công an bên kia đường nên không nhìn thấy tôi. Thiệt là một ngày xúi quẩy.

Chưa ra hết chung cư, tôi gặp thằng Sao Biển. Nó lắc xâu chuỗi ve chai, nhẫn nại rao hàng, người nó rạc đi như con ve sầu, mặt đỏ gay, gân cổ kéo lên cả chùm. Nhưng gặp tôi, nó cười ngay:
- Trúng mánh rồi hả, không thấy mày rao nữa.
Tôi chửi thề một câu:
- Đ. M. xui tận mạng.
Hai thằng kéo nhau vào quán, ăn đỡ đói rồi nhậu. Tôi kể cho bạn nghe vụ cái còng. Hắn nghe lấy làm thú vị. Rượu sừng sừng, hắn nói:
- Mày ngu quá, cứ lấy mẹ nó năm cây hối lộ đi, làm gì nhau nào. Mày đưa tao tới... Tao tính gọn sổ sách.
Tôi lắc đầu:
- Đầu óc tao chậm tiêu cũng có mà muộn rồi cũng có. Đừng nghĩ nuốt năm cây của nó dễ đâu. Nó có thể nhốt mình lại chờ cho chuyến của nó ra khơi mới thả. Hoặc băm xác mình như xíu mại, liệng xuống hầm cầu dội nước cho tiêu theo phân...
- Thôi ghê quá, mày? Đừng nói nữa. Có bao nhiêu bỏ ra đây mình ăn nhậu. Mai mình sẽ trúng mánh, tao với mày chia nhau.
- Vốn đâu nữa mà làm ăn?
- Vay vốn con Bokassa nhà tao, "xanh xít đít đui thôi, như bạn hàng chợ Tân Định.
Bokassa là cô gái lai da đen, con nuôi của bà mẹ vợ Sao Biển. Vì là da đen nên Sao Biển phong cho nó chức vị công chúa Bokassa, con gái hoàng đế Bokassa, vua kim cương, đá quí ở châu Phi.
Buổi nhậu của tôi với Sao Biển tàn cuộc về đêm. Khi trăng treo đỉnh đầu.
Trên đường về, Sao Biển nói với tôi rằng đã tìm ra nơi có chiếc thuyền buồm bằng bạc. Có khắc chữ Sterling, bảo đảm "din". Ngày mai trúng mánh đó tha hồ mà vẻ vang.
Đi qua cầu Bình Lợi, Sao Biển hỏi tôi có chán sống không. Hắn hỏi mượn tôi cái còng và quăng tòm luôn xuống sông.
Hắn nói:
- Tưởng mày chán sống thì khóa tay mày lại bằng cái còng gia bảo này quăng mày xuống luôn.
Tôi dựng tóc gáy.
Cái quần
Tập Truyện Ngắn
Trời chiều nhọ mặt người. Khi đôi mắt già nua không còn nhìn rõ lỗ mọt ở cái ruột xe đạp khách đưa vá nữa. Chúng tôi dẹp hàng. Nói là cửa hàng xe đạp thì hơi quá, một trạm hay một điểm sửa xe thô sơ dọc đường thì đúng hơn. Chúng tôi, tôi và người bạn già, ngang nhiên chiếm một khoảng lòng lề đường để hành nghề sửa xe đạp kiếm chác qua ngày.
Tôi cũng như anh bạn đều không phải thợ chuyên nghiệp. Chúng tôi là những tay ngang, đói đầu gối phải bò, bỗng nhiên một ngày nào đó thấy mình trở thành thợ, kiếm ra đồng tiền nuôi sống bản thân bằng chính mồ hôi, sức lao động chân chính của mình. Điếu đó đủ mãn nguyện rồi.
Tôi không phải người đầu tiên hành nghề ở chỗ này, chính anh bạn già của tôi, cũng là bạn cải tạo ngày nào. Anh đã ngồi một mình ở lề đường một thời gian dài rồi tôi mới vô tình ngang qua.
Chúng tôi tay bắt mặt mừng, ngồi với nhau, uống với nhau ly nước, hút điếu thuốc lào, hàn huyên kỷ niệm tù cải tạo. Khi biết tôi vẫn thất nghiệp, không nhà cửa, không gia đình, không hộ khẩu, nghèo kiết xác anh đề nghị tôi hợp tác với anh.
Đúng khi đó có người đến bơm xe đạp, tôi ra bơm thay bạn, nhận tiền khách đưa anh. Anh đề nghị:

- Bây giờ cậu ở đây sửa xe với tôi, đừng ngại, rồi nghề dạy nghề thôi, chúng ta cùng chia nhau mà sống. Chịu không nào? Chịu quá đi thôi. Từ ngày ấy, tôi trở thành anh thợ phụ, có thể thay anh trong những lúc anh phải vắng mặt. Buổi trưa tôi có cơm ăn, dù đạm bạc và không no lắm, đủ cho thể lực cầm được cái kìm vặn con bù loong. Buổi sáng là ly cà phê đen hạng bét, bảnh thì thêm điếu thuốc lá làm thơm râu, nếu không, điếu thuốc lào cũng xong thôi. Tôi được cái nết chịu thương chịu khó, thật thà như đếm nên bạn thương quí. Chập tối như bây giờ, bạn già gom những đồng tiền kiếm được suốt ngày, đếm chia cho tôi một phần ba số tiền đó. Rất sòng phẳng, nhưng tôi vẫn thấy nét áy náy trong mắt anh:
- Đáng nhẽ tớ phải chia đôi với cậu, nhưng vì tớ còn phải nuôi mẹ tớ và thằng cu, cậu chỉ có một thân một mình, thông cảm nhé!
Tôi cười, nghĩ thật nhanh, thời buổi này trên đời dễ gì đã có người tốt với mình. Tôi có máu quân tử Tàu, bạn bè cần phải gìn vàng giữ ngọc cho nhau, bèn làm mặt giận, nói dỗi:
- Biết rồi, khổ lắm nói mãi! Mai mà cụ còn phát ngôn cái kiểu ấy là tôi bỏ cụ cô đơn, tôi lại đi bụi...
Nụ cười của người bạn hiền lành, anh dẹp đồ chất lên xe đạp, dặn với tôi:
- Mai nhớ đến sớm, mình kiếm tiền uống cà phê.
Tôi khoác túi lên vai, lững thững quay đi. Tất cả cơ nghiệp tôi trong cái túi này. Một bộ quần áo cải tạo tương đối lành lặn, hai chiếc quần đùi, một đang mặc, một để "sơ cua", khăn mặt rách ngang ngửa cái giẻ lau nhà, kem và bàn chải cùn đánh răng mang nhãn hiệu Cà Là Mèng, một cái ca nhựa mẻ miệng, một cái ve đựng đúng một xị rượu, một miếng ni lông nham nhở thay chiếu, một cái mền rách bươm mà ấm áp vì đụp vá lia chia.
Tôi có thể nằm ngủ ở bất cứ lề đường, hàng hiên nào, đúng cảnh màn trời chiếu đất mà chẳng sợ trộm cắp. Còn có gì đáng giá đâu mà sợ mất. Tôi, một người vô sản chân chính sống trong "thành phố mang tên Bác".
Tôi mở to mắt nhìn thành phố ban đêm, ánh sáng chan hòa khắp nơi. Những công viên, những cửa hàng ăn uống, những xe cộ đời cũ được tân trang đẹp đẽ nối đuôi nhau, những lời ca tiếng hát rộn lên từ những quán cà phê, quán bia ôm. Thành phố thời gian này đang ở cuối thời điểm đỉnh cao của bao cấp, sửa soạn đổi mới, rập rình mở cưa bước sang kinh tế thị trường.
Tôi giống như một hạt bụi lãng đãng bay trong cảnh thanh bình. Tôi bay theo một anh bạn bán kẹo kéo, quần áo xanh đỏ "mô đen" chợ trời, nơi bán toàn những tàn dư Mỹ Ngụy, chiếc xe đạp chở quầy kẹo kéo có máy cát sét phát luồng âm nhạc chói tai. Hình như điệu nhạc Lămbađa thì phải, đèn âm thanh chớp chớp nháy nháy xanh đỏ. Tôi bay theo cặp nhân ảnh vào công viên lén nghe những lời tỏ tình lãng nhách nhạt phèo. Tôi bay theo những vị giám đốc đầy quyền uy khạc ra lửa mửa ra tiền vào nhà hàng uống bia lon, nhậu đặc sản rắn chuột, có người đẹp son phấn phục vụ hẩu hạ đến nơi dện chốn. Hạt bụi tôi vật vờ lãng đãng dạo chơi khắp chốn khắp nơi như hồn ma quên siêu thoát
Cuối cùng thì hạt bụi tôi đậu lại một quán cóc quen thuộc của bà già trầu mắt toét ngồi sau cái bàn bầy lổn nhổn nghêu sò ốc hến và những con khô đủ loại. Cái lò than nhỏ xíu bốc mùi thơm con khô đang nướng. Cái bàn nhỏ gần đó có mấy anh em vô sản ngồi nhậu la hét chẳng văn hóa tí nào: "Dô! Dô! Trăm phần trăm", chén tình chén nghĩa. Tôi đưa cái ve không cho bà chủ quán, khi bà ta đang đập chí chát con khô cá thiều trên cục đá:
- Đế nếp Gò Đen nhé! Trăm bạc đậu phong đưa cay.
- Một xị thôi hả chú?
Bà già hỏi tôi câu thường lệ, tôi chẳng buồn trả lời Cái ve của tôi cũng chẳng thể đựng được hai xị. Có một cơn gió mát nào đó vừa thổi đến, cơn gió lành lạnh hơi nước. à, thì ra trời sắp mưa. Một tia chớp nháy lên ở cuối trời.
Cầm xị rượu và gói đậu phong mà tôi thấy sảng khoái. Tôi sẽ đỡ chán đời, rồi ngày mai ra sao thì hãy hay.
Tôi giống như một đứa trẻ ăn tham, phải tìm một xó xỉnh kín đáo, riêng biệt để chẳng ai làm phiền mình. Rượu dứt khoát tôi phải uống một mình. Cha mẹ ơi? Những lúc ấy tôi lại thích làm thơ, nếu nhớ không lầm tôi cũng có tí ti tâm hồn thơ, nhưng nhiều năm rồi tôi vẫn không răn được một câu nào ra hồn, đành phải đọc thơ người khác vậy, mà chỉ nhớ lõm bõm. Rồi thời gian cũng qua đi.
Tôi trở về nơi quen thuộc, nơi đó một mình tôi một cõi, không một tên ăn mày, đui què mẻ sứt, một tay bụi đời chán đời hành nghề nhặt bao m lông. Tôi dừng bước giang hồ dưới hàng hiên một cửa hàng thương nghiệp lớn nào đó, tôi chẳng cần biết, chẳng thèm để ý đến bảng hiệu nó mang tên gì. Tôi trải tấm m lông, vậy là thành cái chiếu. Cái túi xách để lên đầu làm gối, cái mền vá chằng vá đụp chống được muỗi mòng.
Phía bên kia đường lại đông đảo rộn rịp. ớ đó là một mái hiên rộng, dài nếu tôi nhớ không lầm thì nơi đó là cửa hàng ăn uống La Pagode xưa kia, nơi các anh nhà báo thường ngồi trao đổi tin tức cho nhau, mà họ dịch nôm ra là quán Cái Chùa. Nay tên La Pagode không còn nữa. Những khách hàng xưa đã biến, như biến khỏi thế gian. Có một sự liên kết bất thành văn, hay hẹn ước bằng mồm, người về trước hay sau đều giữ "nhà" cho nhau, không cho bất cứ kẻ "lạ mặt" nào chiếm "nhà" của hàng xóm mình. Cái đó gọi là tình làng nghĩa xóm cửa tầng lớp người ở đáy tận cùng xã hội.
Cho dù tôi ở bên này đường, chưa bao giờ liên hệ với họ. Từ khi tôi đến ngủ, cho tới nay, chưa có ai xí chỗ của tôi, dù ban đêm nhiều khi tôi về muộn. Một luật hè phố cho những khách bụi đời, trong đó có tôi. Tôi có tính xấu ít ai chịu nổi, khi uống rượu là rống lên đọc thơ. Tôi nói là đọc thơ, chứ không phải ngâm thơ, có rống lên thì cũng tiếng được tiếng không, ùếng còn àếng mất.
Ba bài thơ tôi thường rống lên là bài Hồ Trường, Tây Tiến, Hành Phương Nam, đôi khi bài Tống Biệt Hành mà tôi quên tiệt tên tác giả. Tôi cảm khái lố lăng đến độ tưởng mình là hiệp sĩ, kiếm sĩ, hay cái con khỉ khô gì của thuở xa xưa.
"Vỗ gươm mà hát... nghiêng bầu mà hỏi... Trời đất mênh mang ai người tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ trường... ý... a... "
Thối không chê được, khi tỉnh rượu, lúc tàn canh tôi mới nhận ra điều ấy. Khốn nạn thân tôi, một thằng già keo bẩn, rượu chỉ uống một mình mà chỉ có một xị, lấy đâu ra vò ra hồ trường để mời khách thập phương. Chẳng ai thèm để ý đến làm gì.
Biên giới của sự sống là cái chết. một bậc hiền nhân chán đời nào đã nói như thế. Tôi thấy có lý. cái thân khốn khổ của tôi sống muốn không nổi nữa thì chết có nhằm nhỏ gì. Nhưng còn ở lại thế gian ngày nào tôi vẫn phải sống cho ra trò. Tuy cái miệng tôi có láo lếu nhưng tôi tự biết mình là người hiền, nên sẽ được hưởng phú c.
Tôi vẫn nghĩ đến một đêm nào, một làn gió độc vô anh dạo chơi, trúng ngay tôi, thế là ngủ luôn giấc ngàn thu, hồn phiêu diêu miền cực lạc, hoặc Chúa đứng ở cửa Thiên Đàng vẫy gọi, thế là tôi bèn trút bỏ cái thân xác thối tha cho cát bụi lại trở về với cát bụi...
Tôi tợp một miếng đế cười khà khà, ném hạt đậu phong vào miệng đưa cay. Bữa cơm chiều của tôi có thế Trời bây giờ mới lất phất mưa. Tôi nhìn sang bên kia đường, nghiêng người hàng xóm của tôi lác đác tụ về. Qua màn mưa, tôi vẫn quan sát được họ: ông già cô đơn nằm cuối hàng hiên, gia đinh mẹ mìn nằm kế, có anh chồng đui què mẻ sứt. Tôi nghĩ gia đình ấy hành nghề mẹ mìn vì có cả "cô lếch xông" con nít san sát tuổi nhau, mỗi sáng tôi thấy có người tới lãnh đi suốt ngày, tối trả về cho chị ta, tiền thuê mướn sòng phẳng, đôi khi còn kèm theo quà cáp. Tối, chị điểm danh con, đếm như đếm vịt. Tối nay tôi nghe chị la lên:
- Còn đứa vắt chân lên cổ nữa, sao giờ này nó chưa trả tao? Trời ơi, muộn chút nữa là nó phải trả thêm tôi hai ngàn, không thì tôi...
Anh chồng chột mắt, cụt giò đang gầy bếp lửa nấu nướng chi đó, gắt lên:
- Làm chi mà ồn vậy, con nhỏ mới ra nghề nhưng coi bộ cũng đàng "giàng", mày thiệt... Chị vợ lồng lên với cơn ghen, chửi chồng không thiếu một câu tục tĩu nào. Đổ thừa cho thằng chồng mê con ăn mày mới. Anh chồng cho con vợ lắm mồm một cái bạt tai, xàng luôn một cây nạng gỗ, rồi mọi chuyện êm ru. Anh chồng uống rượu, cuối cùng chui vào chiếu làm gì lục đục trong đó (tôi không biết). Dăm phút sau anh ta chui ra chửi thề một câu:

- Lần này mà mày không đẻ thêm đứa nữa thì chết mẹ với tao nghen. Nhớ lúc nào cũng phải khai là mới sanh lần đầu, đừng quờ quạng khai đã sanh nhiều lần, nó đè ra đoạn sản là mất giống. Tao sẽ bỏ mày, tao lấy con khác liền một khi. Đ.M coi đứa nào hận đứa nào.
Mụ mẹ mìn nằm trong chiếu, thò đầu ra quác lên:
- Giỏi thì vô đây thằng đui què kia, đừng đổ thừa tao, tưởng bảnh hả?
Cùng lúc đó chị ăn mày bế thằng bé vắt chân lên cổ về. Chị ta moi tiền ra trả, nhưng mụ mẹ mìn không chịu:
- Đâu được mày, giờ này mày mới đưa con tao về dễ gì... Đưa thêm tao, chớ không mai mày đi mướn chỗ khác nghen...
- Thì em đưa thêm chị một ngàn roi.
Anh chồng tật nguyền đĩnh đạc ra vẻ một đàn anh đầu nậu chủ gia đình:
- Đâu được tao không binh vợ, nhưng bà ấy nói có lý. Vì thương mày mới ra nghề, vợ chồng tao giao "cục vàng " cho mày. Mày phải biết làm cái chân nó vắt lên cổ nghệ thuật được như thế không phải dễ. Tao mất bao nhiêu công phu uốn nắn còn hơn mấy cha nghệ nhân uốn cây kiểng. Khai đi, khai thiệt đi, mày trúng mánh ở "tác phẩm" này phải không? Biết điều mai tao lại cho bế cây vàng của tao đi nữa, còn không thì biến đi nghe mây.
Con ăn mày mới lưỡng lự:
Em có trúng mánh, nhưng không nhiều nhặn gì, thằng nhỏ và em có được đĩa thịt bò lúc lắc thừa, chút xíu tiền bố thí mà. Thằng què la lên:
- ở đâu? Ai?
- Dạ nhà hàng nổi ngoài bờ sông!
- Việt kiều hay du khách nước ngoài?
- Hổng biết nữa, họ đều là người...
- Thôi mày ơi, đúng là Việt kiều rồi, mày trúng mánh rồi, đưa đây, đưa thêm cho tao vài đô thôi.
- Anh chị xử ép em quá, nhưng thôi cũng được, anh chị lên giá "goài" thì em cũng chết. Bộ dễ gì, em cũng phải "ca" chớ bộ...
Thằng què cười hô hố, nhét tiền vào cạp quần, hỏi tiếp:
- Mày ca sao, có thảm không, nói nghe coi!
- Dạ, em ca thằng bé bị "chất độc màu da cam" nên chân nó vắt lên cổ.
Bên này đường, tôi cười bò lăn bò càng. Đến bây giờ nhớ lại, tôi còn cười. Tôi nghĩ ngay đến bài hát gì đó có câu chất độc màu da cam mà tôi không nhớ hết nội dung. Quả thật con nhỏ ăn mày là thiên tài, có đấu óc sáng tạo.
Cuối hàng hiên bên kia đường, chỗ khuất nhất, bóng đèn đường chỉ rọi tới lờ mờ là "nhà" của em. Nhưng tới giờ này em chưa về.
Tôi vốn là kẻ nòi tình nên thương người đồng điệu Em bận bon chen kiếm khứa ở công viên nào đó, hoặc một khúc đường vắng nào chăng?
Đêm mưa buồn lê thê như vầy có mấy ai ra đường, vui chơi, gái đứng đường ế độ, cho dù đóng vai con nhà lành, ngây thơ khờ dại lỡ độ đường hay gì đi nữa khứa vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.
Nhiều đêm tôi thấy thương cô ta. Chờ mãi chẳng thấy nàng về, tôi tưởng tượng ra đủ thứ, dù tôi chưa một lần nhìn rõ mặt nàng, không biết tên nàng. Tôi thấy mình là một tay chơi. Một tay chơi gặp khó khăn ở giữa thành phố sa hoa, nhưng lại gặp nàng ở một nơi khuất tất nhất, đèn đường bị lưu manh đập bể, tối đến độ không nhìn rõ mặt người con gái đối diện với mình, như trong một bài thơ của Jacques Prévert, mà tôi được đọc qua bản dịch, dùng làm giấy gói đậu phong: Ba que diêm trong đêm đánh từng que một
Que u nhìn trọn mọt em
Que thứ hai nhìn đôi mắt
Que cuối nhìn miệng em
Rồi tối hẳn cho anh nhớ lại
Tất cả nét yêu khi xiết chặt em vào lòng.
Một con điếm đứng đường được thăng hoa do một tay chơi có máu thi sĩ.
Nhưng điều đó quan trọng gì, tôi thấy hồn tôi bay bổng nghĩ đến nàng, khi tôi cô đơn, tàn xị rượu mỗi đêm thay cơm chiều.
Tôi ngả người nằm xuống, giấc ngủ chập chờn và hình như nghe thấy cả tiếng bước chân em về.
Lãng mạn ra phết. Tưởng tượng ra cái lưng ong thon thả của em ngả xuống vỉa hè.
Mưa rả rích, những hạt mưa loang loáng qua ánh đèn đường. Tôi kéo cái mền phủ lên đầu. Tôi thiếp đi trong giấc ngủ bốc hơi men.

Tôi thức giấc không biết lúc ấy là mấy giờ đêm, mưa vẫn còn rả rích. Trong giấc ngủ vừa rồi tôi mơ thấy nàng, giấc mơ đẹp. Tôi và nàng cùng dạo chơi trong công viên và nói lời yêu đương chân thật, nhưng lời lẽ thế nào tôi đã quên ráo.
Bây giờ thì tôi tỉnh ngủ hẳn, tôi lại nghĩ đến nàng. Thế nằm của tôi xoay mặt vào tường, tôi muốn quay mặt trở ra. Nhưng hãy gượm nào, yêu mà, đi đâu mà vội. Con người như tôi chẳng nên làm chuyện gì hấp tấp, cứ từ từ rồi cũng có đêm tôi bò được qua bên kia đường.
Cũng một đêm mưa gió như đêm nay... Nghĩ đến mà tôi thấy nóng bừng cả mặt. Xây mộng đẹp mà nghĩ đến toàn chuyện ma bùn ma tịt thì thật chẳng còn ra làm sao nữa, nghiêm chỉnh chút coi. "Nhưng không, nàng phải bỏ ngay cái nghề đứng đường, phải sống trong sạch và lương thiện kia". Khi tôi xoay được nửa người, tôi cũng đã xây được nửa giấc mộng. Nàng là bà chủ một hàng. bán nước trà nóng ở ga xe lửa. Một cái điếu cày hút thuốc lào kêu thật giòn, trên một cái chiếu nàng ngồi giữa róc nước trà cho khách giang hồ. ở một góc gần đó, tôi đun nước cho nàng. Tiếng điếu thuốc lào rít lên xoe xoè, chuyện giang hồ nam bắc nổ như pháo ran. quanh chúng tôi. Tiếng còi tàu khởi hành rúc trong đêm. "Ôi chao, đời sống tuyệt vời và đơn giản biết bao".
Tiếng gió thổi vù vù, hình như có một vài giọt mưa hắt vào chỗ tôi nằm. Không biết giờ này nàng về chưa? Tôi xót sa và quay hẳn người hướng mặt sang bên kia đường. Tim tôi muốn đứng lại đập thình thinh. Rồi tôi thở, rồi vã mồ hôi.

Tôi chớp chớp mắt, banh to mắt ra mà nhìn. Giấc mơ đẹp được thành hình bây giờ như một làn khói thuốc lào tan loãng vào không khí. Tụ lại phía bên kia đường, ngay tại chỗ "con điếm" nằm. Nó nằm chình ình thõng thượt. Dáng điệu mời gọi cho hai bàn tay nhớp nhúa của gã cỡn trai ngồi cạnh lần mò. Con nhỏ ngủ say quá chăng, đến độ để cho trung lưu manh quờ quạng làm chuyện đồi bại? Hay nàng làm "ca đêm" bắt khứa về ổ kiếm chác ngoài giờ?
Những lời dự đoán xoay mòng mòng trong đầu tôi như dự đoán thời tiết.
Bên kia đường mọi chuyện cứ diễn ra nhịp nhàng. Một pha gay cấn sẽ xây ra trong ít phút nữa thôi. Tôi là người chứng kiến trọn vẹn.
Hai bàn tay nhớp nhúa của thằng khốn nạn "xoạng" loạn cào cào, thế mà con đượi vẫn ngủ say như chết.
Hay là mỗi tối khi nàng hành nghề xong nàng nốc vài viên "xì chọc xì kéo" hay "nốc tan nốc tiếc" gì đó, em "xỉn" nên không biết con mẹ gì nữa. Nếu quả vậy thì nàng đáng thương làm sao, ôi người tình một đời hư đốn.
Mắt tôi càng mở to hơn để nhìn rõ, quân khốn nạn kia bây giờ lần mò phần dưới thân thể nàng. Và rồi rất từ từ, rất thận trọng, hai bàn tay ma mãnh đụng vào dây lưng quần nàng. Cái quần được rút ra từ từ. Tôi quết nước bọt, tôi thấy hết. Đến đoạn nào đây, chắc sẽ tới ngay bây giờ. Ơ kìa, gã tuổi trẻ ấy thật từ tốn nắn vuốt cái quần vừa lột được gấp lại, lịch sự như Tây.
Rồi, thoắt một cái và nhanh như con sóc, gã co giò phóng. Nhanh hơn cả tiếng la của cô gái vừa nhỏm dậy. Gã đã biến dạng sau màn mưa bụi cuối đường. Cả khu xóm bên kia đường thức giấc, lao nhao. Chỉ riêng tôi còn nằm lặng người vì cảnh tượng vừa xảy ra. Cô gái bu lu ba loa chơi bới thằng khốn nạn. Rồi tiếng cười hô hố, khăng khắc của thmg chột què:
- Mẹ kiếp, ớ thúi, ngủ đến bị lột quần mà cũng không biết.
Con vợ mẹ mìn dài cái mỏ, luận điệu "giậu đổ bìm leo, cây cứt chó cũng leo theo":
- Đĩ gặp điếm rồi, con ơi? ủa mà sao nó không biết gì vậy. Còn thằng đui què kia không nhìn nó nữa, tao thì móc luôn tròng mắt kia của mày bây giờ.
Thằng chột què vẫn cười ngặt nghẽo. Cô gái tức tưởi khóc phân bua:
- Tôi biết chớ sao không, biết ngay từ lúc đầu lận, nhưng...
- Nhưng mụ nội mày, vậy mà để...
- Tôi đâu có dè nó đểu như vậy.
Mụ mẹ mìn chửi toáng, ra vẻ hiểu đời:
- A thôi, tao hiểu rồi, mày là đồ "nứng" bậy.
Con nhỏ la lên vì bị xỉ vả chạm tự ái:
- Nói cho các người hay, con này kinh nghiệm đầy mình không có nứng bậy đâu, hôm nay trời mưa nên ế độ, về đây đang nằm thì thằng khốn nạn kia nhảy a thần phù vô, tưởng nó biết thông cảm sau khi xong chuyện, ai dè... Trời đất ơi, cái quần của tôi.
Cô gái lại khóc nức lên. Lão già cô đơn cũng bò dậy, chép miệng chán cho tình đời đen bạc:
- Thời buổi làm ăn khó khăn, nói chuyện giá cả đàng hoàng chớ con, ủa mà quần gì vậy nhỏ?
Cô gái càng trở nên uất ức, tức tưởi:
- Cha mẹ ơi, cái quần của tôi là quần "mô đen" mới, có nhiều "li", nhiều túi, ống túm, dây nhợ tùm lum chớ đâu phải quần thường.
Gã chột què thôi cười:
- A, tao thấy thứ quần đó, bây giờ ở thành phố này mặc thiếu gì, nội hay "ngoại", mà sao mày có được?
Cô gái gào lên:
- "Ngoại", quần "ngoại" đàng hoàng, mà tôi có đâu, tôi theo chị em đi mướn của người ta mới chết chứ. Làm sao mai tôi đền cho người ta đây, cả trăm ngàn...
Cô gái ở truồng ngồi bó gối khóc hu hu. Đám con mẹ mìn cũng thức giấc bò lổm ngổm như cua. Thằng bé vắt chân lên cổ, lết đến cạnh cô gái, thao láo mắt nhìn, thò tay gãi đít xành xạch. Nó cũng đang ở truồng, chỉ khác một điều là nó vắt chân lên cổ. Những ngón chân dị dạng quặp lấy một bên vành tai vít nghiêng cái đầu. Vợ chồng mẹ mìn, lão già cô đơn không còn để ý gì đến cô gái bị cởi truồng nữa.
Họ quay ra tranh cãi nhau về giá cả cái quần "mô đen". Ai cũng tự cho mình là người nắm vững giá thị trường. Giá trị cái quần, chỉ giá trị cái quần thôi mới là đáng kể.
Cô gái giẫy đành đạch khi thằng bé vắt chân lên cổ mất thăng bằng ngã lăn kềnh ra ngay dưới chân cô ta.
Mẹ mìn chồm lên xoe xoè chửi:
- A con đĩ thối không đáng một xu kia, mày kẹp đầu con tao hả, tao thì xé xác mày ra.
Thằng vắt chân lên cổ được mẹ nó xách lên như xách một gốc củi khô, liệng lại vào chỗ nlm cùng đám con nít bò lổn nhổn.
Một thằng bé trong đám con mẹ mìn, vỗ tay nhảy tưng tưng hát:
- á li ba ba... cái quần rách làm ba... á li ba ba...
Cô gái bị trấn lột quần khóc vang cả một góc phố đêm. Đã đến lúc tôi trở dậy ra đi, vì muốn ngủ tiếp cũng chẳng được.
Trời vẫn còn tối, cô gái vẫn ngồi đó, rúc vào một xó tối nhất Nhưng đêm sẽ không dài mãi để che chở cho thân xác trần truồng của nàng.
Còn một chút xíu nhân tính sót lại trong người, tôi không đành lòng khi thấy một người gặp chuyện khó khăn. Tôi hy sinh chiếc mền rách quáng lại cho nàng. Tôi ra đi, không nghĩ ngợi gì nữa và quên luôn chuyện ấy.

Thời gian sau, tôi nghe có người nói. Thấy một cô gái nhem nhuốc, cởi truồng đi rong vỗ tay hát như điên:
- A li ba ba... cái quần Hara mất đêm qua...
Tôi thầm nghĩ, chẳng biết có phải nàng không?
Tự nhiên tôi thấy xót xa. Lại thêm một dạng điên, một hình thức điên nữa. Điên phải bị một cú "sốc" nặng, và quan trọng nhất là phải có thì giờ hành nghề điên, không thì người ta nói là điên giả vờ. Khối kẻ muốn điên mà không được.
Kim loại màu vàng
Tập Truyện Ngắn
Tôi chưa từng sống trong một phòng giam nào chật hẹp, ngột ngạt, đông người và nóng bức như trong phòng giam này. Tôi từng có kinh nghiệm ở tù. Tôi cũng không tưởng tượng được một miền nhiệt đới, một bãi sa mạc nào khủng khiếp hơn. Nhưng chúng tôi vẫn phải sống, hy vọng, và tìm mọi cách thích hợp cho đời sống tù ngục.
Ngót trăm người đồng cảnh ngộ trong chuyến vượt biên, cùng với khoảng sáu bẩy chục tù hình sự bị nhét chung một phòng giam, gồm ba phòng: một phòng nam, một phòng nữ và một nhà bếp. Trên lầu cũng có phòng giam nhưng tôi không biết chia ra mấy phòng, chỉ chừng bốn mét sáu mét cho trên một trăm tù nhân. Nghĩa là khi chúng tôi nằm xuống, phải lựa thế nằm đan háng vào nhau mới tạm đủ chỗ. Tắm rửa tiêu chuẩn chỉ có một ca nước, ngồi chồm hổm, để quần đùi dưới đít vò giặt cho ướt nước qua loa. Cả một bầy người hành động đồng loạt như thế nên người ta gọi là tắm heo.
Khi đó vào khoảng tháng tư âm lịch. Thời tiết miền Nam chưa mưa được mà chỉ ùn lên mây đen, những bọng nước khổng lồ lơ lửng trên trời đe dọa sẽ trút xuống những trận mưa lớn. Không khí hầm nóng khủng khiếp. Khắp cả miền đất rộng mênh mông còn như một lò lửa cây cối đứng im phăng phắc, nữa là đây một phòng hơi ngạt trong một lò lửa.
Người tù được làm tạp dịch ngoài hành lang nói đứng bên ngoài nhìn qua song sắt phòng giam thấy khói hừng hực bốc ra như đun bếp. Buổi tối qua ánh đèn mờ, hơi người bốc lên như sương mù. Tất cả chỉ mặc độc một chiếc quần đùi lúc nào cũng ướt nhem nhép, hôi thối. Cán bộ khi ló mặt vào phòng giam phải bịt mũi. Nóng bức đến độ cả phân nửa phòng giam phải trần truồng. Người ta nói bên phòng giam nữ cũng vậy, rồi có tiếng cười hí hí. Một anh nào đó pha trò vô duyên, bằng một câu tục tĩu. Một người khác nói:
- Đừng nói thế, bò heo bị nhốt trong chuồng dơ dáy nó có biết hôi thối đâu. Chúng ta cũng vậy, mình không ngửi thấy mùi hôi thối của mmh. Mày đang biến thành súc vật, mày có biết không?
Nước trong cơ thể vắt cạn từng giây, cùng những chất độc xì ra, đâm chồi nẩy lộc thành những mụn nhọt trên đầu, trên mặt, mông đít, háng. Đau đớn phát sốt Nói tóm lại ở khắp mọi phân vuông trên cơ thể, mụn nhọt, ghẻ lở đều chen nhau tranh sống và phát triển được hết. Cơ thể con người trở nên nhầy nhụa trơn tuồn tuột như lươn trong giỏ. Vậy mà chúng tôi vẫn sống, dù rằng thỉnh thoảng bất kể ngày đêm vẫn có những tiếng la cấp cứu cho người ngạt thở. Nạn nhân được khiêng ra ngoài hành lang hớp lấy chút đỉnh không khí rồi tống trở lại phòng giam. Đó là phương pháp cấp cứu của y tế trại giam. Ban đêm chúng tôi nằm đan háng vào nhau, xếp lớp như cá đóng hộp nghe kể chuyện, hai tù nhân đứng giữa phòng cầm hai góc mền quạt cho anh em. Đúng ra không phải quạt mát mà lùa bới hơi độc ra ngoài song sắt. Chúng tôi vẫn sống, thả hồn theo câu chuyện kể hấp dẫn hay chán phèo.
Sáng sớm tinh mơ, cửa phòng giam mở. Chúng tôi xếp hàng, công an trại giam dẫn ra ngoài ao cá làm công việc vệ sinh. Cố gắng hết sức, chúng tôi vẫn không đại tiện được. Lũ cá tra nuôi trong ao đớp chay bong bóng nước, đói meo. Đó là phản ứng sinh lý ất có của người bị giam những ngày đầu tiên. Hơn trăm người tù tội vượt biên chúng tôi đã không đại tiện được bảy ngày hôm nay. Kể từ đêm hôm ấy... Khi chúng tôi bị lùa từ dưới hầm tàu lên bờ. Chiếc tàu dài 25 mét với 4000 lít dầu dự trữ, thuyền trưởng lẫn tài công, thủy thủ đoàn cho biết con tàu có thể chạy thẳng một lèo tới ục Nhưng tàu chưa ra đến cửa biển đã bị bắn gầy bánh lái.
Ba trăm người chúng tôi, đàn ông, đàn bà, trẻ con, được đánh giá cao và phân phối giam cầm ngay những trại giam nhiều nơi ở các huyện xã ven sông. Đánh giá cao chúng tôi, vì chiếc tàu vượt biên đồ sộ, hoa tiêu, thợ máy là những tay lành nghề, từng lái chiến hạm vượt đại dương an toàn. Những khách đi tàu hầu hết là người Việt gốc Hoa chịu chi. Còn khách thuần Việt được đánh giá là cố "máu mặt".
- Hãy thành thật khai báo, đồ tế nhuyễn của riêng tây mang theo cứ khai ra, chúng tôi giữ cho, có biên nhận đàng hoàng. Ngày nào các người di lý đi nơi khác chúng tôi trả lại đầy đủ. Nếu giấu giếm bằng bết cứ hình thức nào, chúng tôi bắt được sẽ lập tức bị tịch thu và còn bị kỷ luật. Cách mạng luôn luôn công minh sáng suốt và nhân đạo.
Người cán bộ trưởng trại giam nói với chóng tôi như thế. Hầu hết người bị bắt đều thành thật khai báo. Nhưng riêng tôi biết cũng có người chưa mấy thành thật có trăm phương ngàn cách giấu giếm.
Ngay sau đó, họ thực hiện một loạt khám xét qui mô ti mỉ không chừa một ai. Từ cái lai quần, lai áo, lỗ tai, lỗ mũi, lỗ đít được lục soát kỹ càng, vẫn chẳng kiếm đâu ra một tí vàng.
Riêng tôi không có gì, nhưng vẫn phải làm thủ tục há miệng cho gã tù hình sự khám răng. Chổng mông, tụt quần đến gối khám lỗ đít. Tên tù được tin cẩn kêu lên đít tôi bị trĩ lòi con trê thối hoắc. Thời gian khám xét đó, khi ngước mặt, khi chổng mông, chỉ nhìn qua háng cũng đủ giúp tôi quan sát nơi mình bị giam giữ: một lô cốt lớn hai tầng chia làm phiền phòng giam xây giữa một cánh đồng ven sông, có lẽ là một pháo đài nhỏ thì đúng hơn. Lô cất có thể chứa được một trung đội lính Lê dương ngày xưa, khống chế cả một vùng đồng rộng và làng mạc xung quanh. Nay thuộc xã ấp nào đó, cách mạng dùng làm nơi tạm giam tù hình sự và tù vượt biên.
Tháng ba bà già đi biển. Chúng tôi đã chậm hết hơn một tháng nên mới gặp sự cố xui xẻo này. Thế là tôi không đến được đảo Bidon mà đang "bi đát". Tôi chặc lưỡi, liều với số phận. Thành thật nhận với chấp pháp mình là kẻ có tội, đã dám bỏ quê hương ra đi. Tôi phải trả nợ tội lỗi đó bằng giá nào chưa biết. Tôi nhìn qua lỗ châu mai phòng giam, cánh đồng xa tít tắp rực nắng lửa. Hàng dừa ven sông đứng im trong nắng. Vẫn không một cơn gió mát nào. Khí độc ùn lên như khói.

Anh trật tự trưởng phòng giam can tội làm huyện đề, người có nhiều kinh nghiệm sống trong phòng giam dõng dạc ra lệnh:
-Tôi ra lệnh và cấm anh em không ai được nói lớn, không được nói, vì cả phòng giam này mỗi người một lời, hơi thở của chính chúng ta sẽ làm chúng ta ngập thở. Để giải trí cho anh em đêm nay, chỉ có một người được nói thôi. Đó là anh bạn "quay phim". Nhưng rất tiếc anh bạn quay phim của chúng ta tối nay lại đau vì một cái nhọt mọc trúng quai hàm. Vậy thì... (anh ta hơi ngập ngừng nhìn sang phía chúng tôi). Tôi thấy rằng trong đám anh em vượt biên không thiếu gì người tài, có văn hóa, trí thức lẫn kinh nghiệm đời cũng lắm. Không lẽ hôm nay anh em vượt biên chẳng ai là người cống hiến cho anh em một câu chuyện vui vui nào hay sao? Dẹp bỏ chuyện buồn tù tội sang một bên, vui lên mà sống.
Anh trưởng phòng dứt lời. Tiếng vỗ tay rào rào. Đám tù vượt biên chúng tôi lặng thinh một lát, vì phần đông là người Hoa. Cuối cùng có một thanh niên trẻ, mụn nhọt đầy người ngồi dậy. Anh ta nhìn chúng tôi, nhìn những anh em hình sự, chậm rãi lên tiếng, giọng cố làm ra nhẹ nhàng, gợi cảm, nhưng vẫn không che giấu nổi vẻ láu cá:
- Xin lỗi quí bạn, tôi biết nói sao đây, tôi không có khiếu kể chuyện kiếm hiệp. Thực tế, đời sống chúng ta, đời sống ngay chính tôi vô khối chuyện kể, có nghe cũng chẳng hấp dẫn mấy. Nếu quí vị chịu nghe thì vỗ tay, còn không tôi xin nầm trở lại. úi da, mấy cái nhọt hành tôi đau quá.
Dứt câu nói hắn nằm xuống thật. Chờ một tràng pháo tay nổi lên rào rào, hắn trở dậy, cười, hai tay chắp vào nhau xá xá anh em:
- Cám ơn, cám ơn tất cả anh em, tôi không còn lý do gì tự cao nữa, vì chính tôi, thân phận tôi rõ ràng cũng cùn mằn hèn hạ. Nhưng quí vị không thể không tin rằng chính tôi là kẻ đã tìm ra cả mấy chục cây vàng chỉ trong vòng một năm...Vụ vượt biên này mất vài cây vàng chằng nhằm nhỏ mẹ gì với tôi hết.
Tôi muốn văng tục. Lại một thằng phét lác, đời này sao quá dư loại người đó. Thằng bé cứ khẳng định:
- Nhiều vị không tin, ngay cả anh em vượt biên chung chuyến với tôi cũng chẳng tin được điều đó.
Hắn cười khẩy, mỉa mai:

Vài ba cây vàng làm một chuyến vượt biên nhằm nhỏ gì, nhưng cũng là vấn đề lớn lao cho những kẻ khoái bỏ quê hương ra đi mà lại... không có xu mẹ nào. Đúng vậy không các vị đồng cảnh ngộ? Hằng triệu lý do khác nhau. Lý do cuối cùng vẫn là trốn ra nước ngoài kiếm ăn. Tất cả những người bạn của tôi. ở đây vượt biên đều là những người có tiền, có vàng.
- Đúng rồi!
Tôi bực mình la lên. Người trai trẻ khoái trí, hắn nói trong nụ cười:
- Tôi nói thật đấy quí vị ạ, tôi khoái vượt biên vì thích rong chơi cùng trời cuối đất, tôi không khoác lác đâu. Tôi không ngại kiếm thật nhiều vàng cho mục đích của tôi. Khi bị bắt tôi đã ném xuống biển cả kí lô vàng không tin thì mò đi, nó vẫn còn nguyên đó, không kể số vàng tôi đã đổ ra trong nhiều vụ vượt biên khác.Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, biết sao được. Trời không chiều người. Này, các bạn đừng hỏi tại sao tôi lại có nhiều vàng như thế, tuổi tôi lại còn trẻ quá, có nói phét không? Xin thưa rằng không, tôi không ăn cướp, ăn trộm, lường gạt, trấn lột dọc đường. Tôi kiếm ra vàng do chính sức lao động của tôi...
Tôi không cười được mà có cảm tưởng hắn ta chỉ là một hoạt náo viên hạng bét trong một chương trình văn nghệ rẻ tiền nơi thôn ấp. Tôi phe phẩy cái quạt cố xua đuổi cơn nóng bức, xua đi mùi hôi nách trầm trọng của thằng nằm bên cạnh. Tôi cố không nghe, không ngửi mà nghĩ đến chuyện lung tung ngoài đời. Nhưng lời nói mà tôi cho là phét lác của hắn ta vẫn lọt vào tai tôi trong giấc ngủ chập chờn:
-... có một ngày tôi vác cuốc lên rừng cùng với ba thằng bạn. Bọn tôi lập một băng đảng tổ bốn tên, trông thì có vẻ đầu trâu mặt ngựa, nhưng thật ra hiền khô mom mép như quạ kêu, cởi trần mặc quẩn bò, đầu đội mũ cói, lưng đeo mã tấu hoặc phảng, kiếm, dao quắm, búa, uống rượu như điên, hù nhau thôi mà. Bọn chúng tôi khoanh vùng đào bới như dế chũi suốt ngày... Địa danh nơi đó là gì, ở đâu hả? Tôi chẳng dại khai ra ở đây, chỉ nên biết nơi đó là rừng, một vùng trên miền cao gần cuối dẫy Trường Sơn. Vàng nhiều lắm, cứ đào lên là thấy, dù chưa đủ tuổi vẫn là vàng. Những trạm thu mua vàng ngồi ngay dọc đường ở một thị trấn gần đó, họ có cân tiểu ly, đôi khi phải dùng đến cân bàn. Ngày nào từ sáng tới chiều cũng có người đào vàng lai rai mang bán. Tôi chẳng biết nổi số lượng người ta thâu vào là bao nhiêu, riêng chúng tôi bán dăm bảy lượng là chuyện thường. Bỗng nhiên chúng tôi trở thành những con người được kính trọng, nể vì ăn to nói lớn, miệng có gang có thép... Chúng tôi thay phiên nhau về thành phố ăn chơi, mua sắm, riêng tôi hùng hục mới tìm mấy thằng chó chủ tàu. Tôi phải ra đi bằng bất cứ giá nào, chẳng phải tôi chán ghét đất nước hay chế độ, mà tôi chỉ thích rong chơi, phiêu lưu mạo hiểm, đi cùng trời cuối đất. Tôi khẳng định không có chuyện chính trị ở đó... Nhưng tất cả dự tính của tôi đều thất bại, bị gạt có, bị thua có, từng tù tội và bây giờ thì nằm đây cùng quí bạn. Tôi lại mơ đến xứ vàng, mơ một chuyến hải hành gian nan gặp cướp biển...
Câu chuyện nhạt phèo, khoác lác, rẻ tiền. Tôi kết luận như vậy. Có người đồng ý với tôi về nhận xét đó Gã Ba Tàu đan háng với tôi luôn tay quạt phành phạch. Gã chửi thề một câu nửa Tàu nửa Ta:
- Tíu hà ma... Đ.M cả tuần "dồi" ngộ không ể lược.
Đêm trôi trong oi bức khủng khiếp. Mồ hôi ròng ròng tươm ra khắp người, tôi có cảm giác nghe thấy các mụn nhọt đang đâm chối nẩy lộc, xúm xuê hoa lá trên từng vùng thịt mỡ tôi. Thân thể tôi đang hạn hán, vậy mà vẫn trơn tuồn tuột như lươn, ếch, nhái.

Giữa lúc không chờ không đợi thì phân tôi vãi ra khi mới bước chân tới cầu cá. Tôi thoải mái vì được hưởng cái khoái thứ tư trong tứ khoái mà loài người từng ca tụng. Bọn cá tra dưới ao tranh mồi làm nước bắn vung vít. Suốt một dấy cầu dài cung cấp được khá nhiều lương thực cho bầy cá đói. Tiếng chửi thề vang rân bằng tiếng Việt chen tiếng Hoa, Quảng Đông, Quảng Tây, Hẹ, Phúc Kiến. Theo phản ứng sinh lý tự nhiên, chúng tôi không tài nào đi đại tiện được ở những ngày đầu tiên khi bị giam. Lúc này phân lại ra không hẹn trước. Thường là những cơn té re vô kỷ luật. Phản ứng này cũng vậy thôi, chẳng có chi lạ. Một vài chú Ba Tàu tay cầm bao ni lông mặt nghiệt ra nhìn xuống ao tiếc rẻ. Người thì ngẩn ngơ.
Thằng Ba Tàu nằm đan háng với tôi trong phòng giam vò cái bao ni lông không, càu nhàu:
- Vậy là thua... ngộ phải thành thật khai "páo.
Tôi chẳng hiểu gì hết. Tù nhân về phòng giam. Khi đi qua cổng trại, gã người Hoa giơ tay với cán bộ hướng dẫn:
- Cho ngộ thành thật khai "páo".
- Cái gì?
Người cán bộ hét. Mặt gã Ba Tàu coi tội nghiệp làm sao. Gã giơ cái bao ni lông không lên:
- Ngộ thành thật khai "páo", ngộ mất hết "dồi".
- Mất gì?
- Vàng!
Một tiếng trả lời cộc lốc trong đám từ đứng dồn cục ở sân trại giam. Thằng láu cá đêm qua quay phim tìm vàng đang đứng cạnh tôi trả lời thay. Cái mặt gã hếch hếch coi đáng ghét, cái mỏ cười méo một bên mép coi đểu cáng làm sao.
Người cán bộ hết đầu ra hiệu cho gã:
- Mày nói gì?
- Vàng. mất vàng, kim loại màu vàng.
- Bước ra khỏi hàng, báo cáo rõ ràng, ai ăn cắp vàng?
Thằng láu cá bước ra, báo cáo vắn tắt:
- Chả có ai ăn cắp vàng hết, mấy con cá tra đớp hết rồi. Chúng tôi nuốt vàng, ai dè đến hẹn nó không ra, trật lấc hết trơn...
Ngót một trăm người chúng tôi bị lùa vào phòng giam, trừ thằng nhỏ người Hoa và thằng láu cá bị đưa lên văn phòng "làm việc". Tôi còn nghe thấy tiếng thằng Ba Tàu van vỉ:
- Ngộ thành thật khai páo, không dám giấu giếm.
- Mày chết, dám mang tài sản quốc gia ra nước ngoài, gây bệnh "chảy máu vàng ". Không thành thật khai báo, mày bị chồng án.
Tiếng thằng láu cá:
- Còn đó cán bộ à, tất cả ở dưới ao cá tra. Trong phòng giam tranh cãi loạn cào cào, tiếng Việt chen tiếng Hoa. Tôi chẳng hiểu gì hết và chẳng cần hiểu làm gì. Tôi khoan khoái vì được tháo dạ sau mười ngày ẩn ức. Tôi mơn man thăm dò cái nhọt mới u lên trên trán tôi hồi đêm qua như con bê nhú sừng non. Tôi hy vọng những cái nhọt sẽ lặn đi sau khi chất độc tháo khỏi cơ thể. Nhưng tôi không được nằm yên, tôi cùng tất cả các bạn tù vượt biên được lệnh ra tập trung ngoài sân.

ở đó tôi nhìn thấy bà cán bộ trưởng trại mang quân hàm đại úy công an ngồi uy nghi ở chiếc "ngai" sau cái bàn rộng. Bên cạnh có hai cán bộ chấp pháp. Tôi nhớ mặt một người đã hỏi cung tôi và tịch thu gói thuốc cán ngoại cùng cái bật lửa gaz hôm bị bắt. Chúng tôi ngồi chồm hổm dưới sân. Bà đại úy trưởng trại mặt đen hầm hầm, đôi mắt sắc như lưỡi dao mã tấu liếc nhìn khắp mặt chúng tôi thu hồn phách, giọng bà đanh đá, nhưng cũng tình nghĩa đáo để:
- Tết cả các người đều đầu đen máu đỏ, tại sao lại cố tình không hiểu lượng khoan hồng của cách mạng. Dù các người một lần lầm lỡ hay nhiều lần- lầm lỡ cách mạng vẫn tha thứ và khoan hồng. Các người có hiểu thế không?.
Bà ta im lặng một lát. gã láu cá, kẻ đưa tay đầu tiên hô:
- Hiểu!
Thằng nọ đẩy tay thằng kia hô theo, trong đồ có cả tôi Khí thế hào hùng như hô khẩu hiệu trong mít tinh. Bà trưởng trại hài lòng, giọng dịu lại, hòa nhã hơn:
- Vậy thì các người phải thành thật khai báo và nghe theo phương án của ban giám hiệu. Nhà nước cách mạng hôm nay quyết định thu hồi tất cả những tài sản bị thất thoát, các người trộm cắp tài sản của nhân dân, toan mang ra nước ngoài, may mà phát hiện kịp. Nhà nước đã khoan hồng, vậy các người phải thành thật. Cách mạng lấy cái tình đối với các người, các người phải xứng đáng.
Có tiếng ai đó nói nhỏ bên tai tôi:
- Nói thế mà nghe được..
Tôi hết hồn suýt khẽ. Bên trên đầu tôi tiếng bà đại úy trưởng trại vẫn oang oác, đanh thép khi mềm mỏng khuyên lơn, khi đe dọa nhằm mục đích tất cả người tù đều phải thành thật khai báo đã nuốt bao nhiêu vàng, cuối cùng bà hỏi:
- Sáng nay những ai không đi cầu cá?
Tất cả im lặng, bà đại úy hài lòng:
- Hà... vậy là tất cả đều có đi, có ai bón không đi được không?
Đám đông im lặng. Nụ cười bà trưởng trại cởi mở:
- Nếu có ai còn táo bón chưa đi cầu được, tôi lệnh cho y tế trại cấp thuốc để "hanh thông đường đại tiện".
Gã lắm điều ngồi cạnh tôi bình phẩm lãng nhách:
- Chẳng tốt lành gì đâu.
Tôi cau mặt khó chịu.
Tiếng bà đại úy dõng dạc:
- Bây giờ lần lượt từng người lên đây thành thật khai báo với cán bộ.
Người thứ nhất lên, gã đàn ông cao lớn được hỏi họ tên xong, vào phần chính:
- Sáng nay anh có đi cầu được không?
- Dạ có.
- Anh nuốt mấy chỉ vàng?
- Dạ, một chỉ.
- "Náo", anh đã thành thật khai báo chưa, cái bụng to như cái chum kia mà chỉ nuốt có chỉ vàng thôi sao, ít lắm cũng phải ba chỉ.
Mặt gã đàn ông to con cắt không còn giọt máu, gã xuống giọng:
- Dạ, có hai chỉ thôi, cán bộ.
Người cán bộ chấp pháp xẵng giọng:
- Đã thành thật khai báo chưa?
- Em xin thề.
- Thôi được, người kế tiếp, Lâm Tô Hà..
Hàng chục người đã được thành thật khai báo.
Nhưng nhìn mặt họ tôi vẫn thấy gian gian. Kẻ được lấy ra làm gương là gã "láu cá tìm vàng". Gã khai đã nuốt năm chỉ vàng, nuốt không nổi nữa phải nhờ người khác nuốt giùm. Sáng hôm nay đã cho ra hết rồi...
Người cán bộ chấp pháp đập bàn, la:.
- Mày nhờ ai nuốt, chỉ mặt coi..

Chúng tôi vờ vịt để thằng xỏ lá kia đừng chỉ bậy vào mặt mình. May mắn thay, chẳng đến đỗi nào, gã vẫn còn chút xíu lương tâm. Gã lắc đầu:
- Bị bắt ban đêm, tôi nhờ đại nên không nhớ rõ.
Gã đưa mắt nhìn tôi, tôi cúi xuống, run bỏ xừ.
- Nghĩa là mày có mang theo nhiều vàng lắm?
- Còn phải hỏi, tôi là thằng giầu mà.
- Cái ngữ mày mà giầu à?
Gã cười khẩy:
- Tùy ý, tôi chỉ biết tôi là một thằng trùm, đầu nậu đào vàng, có nhằm nhỏ gì ba cái lẻ tẻ vài ba ký vàng, cái đồ bỏ sông bỏ biển...
Thằng láu cá đối đáp đâu ra đó nghe có lý quá, cán bộ không hỏi đến nữa. Riêng tôi lo ngay ngáy. Nếu tôi thành thật khai báo thì tôi: sẽ nói chẳng nuốt chỉ nào hết vì có đâu mà nuốt. Tôi mang tiếng là kẻ vượt biên nhưng không mất tiền, nhờ quen biết tôi đi ké thôi. Nhưng nhìn mặt tôi, ai mà tin được. Tôi đeo kính trắng gọng vàng, trán hói, mặt mũi phương phi coi ra vẻ lắm. Trông tưởng là kẻ có tiền. Khi xuống tàu thấy tôi đi một mình, một em "nhí" cô đơn đã để mắt đến tôi, muốn tìm bạn đồng hành cho có đôi. Tôi chưa kịp thả lời ong bướm, mới sơ khởi đá lông nheo là đã bị "tó" rồi. Khách đi tàu xì xào về tôi: "May quá chuyến này mình đi lại có bác sĩ, chủ tàu tổ chức chu đáo thật. Thế có bỏ mẹ tôi không, cái mặt mày mà nói không tiền, chó cũng không tin được. Thôi thì cũng liều, tùy cơ ứng biến. Điều chờ đợi tất nhiên phải đến. Tôi đứng trước người cán bộ chấp pháp:
- Anh nuốt bao nhiêu "cây"?
- Dạ đâu có nuốt.
- Tầm bậy, hãy thành thật khai báo.
Không thể thành thật khai báo được, máu bố láo dậy lên trong đầu tôi, vẫn phải nói đỡ đòn:
- Dạ đâu có nhiều thế để nuốt.
- Vậy thì cũng có nuốt chớ gì, mấy chỉ?
Tôi liếc nhìn danh sách những người khai báo trước tôi người nào cũng nuốt chỉ không hà, không ai nuốt phân hết. Tôi phải tìm cho mình một con số tương đối:
- Thưa, hai chỉ.
Người cán bộ chấp pháp đập bàn cái rầm:
- "Náo", nhè anh mà nuốt hai chỉ thôi sao, cách mạng không tin.
Anh ta sắp sửa nổi giận. Tôi sợ, miệng lắp bắp.
Người cán bộ nổi cơn thịnh nộ, có thể tôi ăn ngay cái bạt tai. Khi đó thằng láu cá đầu nậu đào vàng đứng bật dậy, chỉ mặt tôi:
- Thưa cán bộ, em có ý kiến, em tố cáo cái anh này không thành thật khai báo. Sơ bộ em biết anh này nuốt tới năm chỉ chớ không phải hai.
Thằng khốn nạn ra mặt chơi đểu tôi rồi. Tôi toan cãi thì nó mồm năm miệng mười:
- Thưa cán bộ, em nhớ ra rồi, em có gởi anh ta ba chỉ nhờ nuốt giùm, em chọn mặt gởi vàng chớ bộ, của ảnh hai chỉ, của em ba chỉ có phải là năm chỉ không, em thành thật khai báo cách mạng khoan hồng cho em. Nếu cách mạng tìm lại được cho em xin vài chỉ để em bồi dưỡng sức khoẻ tốt còn lao động sản xuất đền tội ác với nhân dân.
Người cán bộ cấm gã láu cá không cho đôi co với tôi nữa. Ông ta gằn giọng:
- Vậy thì tôi ghi năm chỉ nhé.
Tàn dư máu bố láo tăng cao độ trong đầu tôi. Ném lao phải theo lao, tôi tố vượt chỉ tiêu:
- Dạ, thưa cán bộ, anh bạn trẻ nói đúng, tôi có nuốt giùm ảnh ba chỉ. Phần tôi không phải hai chỉ mà bốn chỉ lận, vị chi là bảy chỉ mới đúng.
Người cán bộ ghi ngay bảy chỉ vào cạnh tên tôi:
- ờ được, thành thật khai báo như vậy là tốt, đáng được tuyên dương.
Tôi trở về chỗ mặt vênh lên như kẻ có tiền thật.
Thằng láu cá nhếch nụ cười đểu với tôi:
- Em bái phục, cho em được tôn đàn anh là sư phụ. Đồng chí sư phụ.
Xong công tác chúng tôi được đưa về phòng giam. Thằng đểu lăn ngay ra sàn gãi háng xành xạch vê ghét búng vung vít.
Phía ngoài phòng giam, cán bộ xôn xao. Bà trưởng trại họp ngay phiên khẩn cấp đột xuất cắt cử công tác:
- Đồng chí kế toán lấy máy tính ra cộng đàng hoàng coi.
- Dạ, có tính rồi, trên ba trăm chỉ.
Tiếng bàn tán xôn xao, cuối cùng bà trưởng trại ra lệnh, rõ là cấp chỉ huy lãnh đạo có nghiệp vụ cao:
- Thôi hơn bù kém, kể cả những kẻ không có sợ quá khai bậy. Tôi lấy chỉ tiêu trung bình là hai trăm chỉ, vậy là mình đã thâu về được hai mươi lượng, cũng chẳng thiệt thòi gì, có phải hy sinh cái ao cá này cũng được thôi. Đồng chi tài vụ kế toán sửa soạn thu hoạch, các đồng chí khác làm tốt công tác đạt chỉ tiêu lãnh đạo đề ra. Bây giờ mình bắt đẩu phương án hai. Đồng chí trực ban khẩn trương tập trung tất cả tù hình sự ra ao cá. Lưới hết cá tra mang vô nhà bếp làm thịt, mổ bụng, kiểm tra kỹ lưỡng.
Gã láu cá giẫy lên, cái miệng gã oang oác:
- Xin báo cáo với anh em, thực đơn của chúng ta hôm nay có thêm món cá tra kho gừng. Một chỉ vàng một miếng cá, rẻ chán. Tôi có năm miếng.
Gã quay sang tôi chọc quê:
- Bác sĩ" có bảy miếng cá!
Tôi vặc ra một câu chửi tục tằn.
Cái mặt thằng láu cá vẫn cười cợt nhơn nhơn. Gã lại gãi xành xạch vê ghét búng lung tung, nặn mụn nhọt, bóc vẩy ghẻ bôi lên tường.

Tôi kết luận gã là thằng nghịch ngợm pha thêm liều lượng mất dậy. Loại "trôi sông lạc chợ". Tôi bực hắn, nhưng làm quái gì được, chỉ hậm hực xứng. Tù hình sự bị lùa hết ra khỏi phòng giam, căn phòng trở nên rộng rãi. Tôi lăn ra ngủ một giấc thoải thái. Tôi mơ thấy màu vàng, không biết có phải kim loại màu vàng không?
Thức dậy buổi trưa, được ăn bữa cơm cá tra kho, ai cũng khen ngon, sau mười ngày vắng bóng thịt cá. Bọn tù hình sự ăn cơm ngay tại hiện trường. Qua lỗ châu mai, tôi nhìn cái ao cá bị tát sạch, đám tù đầu mình lấm lem như lươn ngụp lặn mò tìm.
Tiếng cãi nhau, tố cáo nhau chí choé.
- Báo cáo cán bộ, em thấy thằng Hải cùi nuốt nguyên sợi dây chuyền. -
- Nói láo, nước ọc vào miệng, tao vuốt ngực chớ có nuốt gì đâu. Đứa nào nói láo xe cán. Tao thấy thằng Minh thẹo nuốt nè.
Cứ như thế, lời tố cáo vang rân dây chuyền cả một khoảng ao. Cuối cùng, tôi nghe tiếng bà trại trưởng dịu dàng:
- Thôi được cứ năng nổ lao động rồi về phòng, đưa cả mấy thằng làm bếp hôm nay vào phòng giam hết. Không một đứa nào được phép ở ngoài phòng.

Ngay buổi chiều hôm ấy, tù vượt biên chúng tôi được lệnh bộ Nội Vụ di lý đi nơi khác. Tôi không biết chuyện gì xảy ra sau đó ở trại tạm giam khủng khiếp này, ngoài điều trông thấy bọn từ hình sự, kể cả tù phụ trách nhà bếp được uống thuốc xổ do y tế trại cấp phát.
Tất cả bị nhốt km trong phòng giam, bị buộc phải uống thuốc xổ, liều lượng mạnh. Phía ngoài phòng có cán bộ võ trang túc trực nghiêm túc kiểm tra qua song sắt.
Mùi thối hoăng từ phòng giam bốc ra. Lúc bị giải ra xe, thằng láu cá bị cùm dính với tôi chung một còng, nói một câu bâng quơ:
- Hay, hay thật, một cách tìm vàng không giống ai. Sư phụ, đáng mặt sư phụ.
Tôi chẳng biết thằng ba trợn đó đang nói với tôi hay với ai.
Khi chúng tôi được giải qua sân ra ngoài xe ở cổng, tôi nghe tiếng chửi nhoi của đám tù hình sự bị nhốt.
Một gã tù già, trần truồng dái cú lòng thòng đeo song sắt chửi đặc giọng Bắc Kỳ 1975:
- Địt mẹ những thằng vượt biên, chúng mày làm khổ ông, chúng nó không tìm thấy kim loại màu vàng, chúng nó mổ bụng ông như mổ cá "cha " thì chúng mày chết mẹ với ông. Ông oán ông thù chúng bay. Tiên nhân cha quân vượt biên khốn nạn.
Tiếng chửi ray rứt theo mãi chúng tôi lên xe. Thằng láu cá cười bò lăn, giống giằng cái còng số 8 làm cổ tay tôi đau nhói.
Xe dập dình leo qua cầu cao đổ dốc vào thành phố về Chí Hòa. Thằng láu cá vẫn cười nghiêng ngả.
Tôi nhăn mặt.
1989
Cái giường
Tập Truyện Ngắn
Tôi không thể không có quyết định dứt khoát khi chấp nhận thuê cái chuồng heo bốn thước vuông làm nhà ở, che mưa đụt nắng cho hai vợ chồng và cái bào thai vợ đang mang. Dầu gì tôi cũng không thể lôi nàng lếch thếch, lang thang đi khắp đầu đường xó chợ, gầm cầu, công viên. Tuy trời đất mênh mông tha hồ màn trời chiếu đất, đâu cũng có thể là nhà. Nhưng căn bản vẫn là một mái nhà, an cư mới lạc nghiệp. Nói chuyện ấy mà buồn cười. Tôi còn nghiệp đâu mâ lập. Tôi vốn là nhà văn nhà báo hành nghề thời chế độ cũ, nay đã hết thời, chẳng còn ai dùng đến nữa. Tôi tạm thời gác bút, không nghĩ đến chuyện viết lách làm văn nghệ nữa. Tôi tìm một nghề khác, đang trên đường tìm kiếm.
Tôi trả tiền cò (hoa hồng) cho mụ dắt mối nhà. Đúng ra bây giờ là một cái phòng, nguyên là một cái chuồng heo đủ chỗ cho một con nái xề với một bầy con. Cái chuồng heo trong một dấy chuồng heo, nay đã được ngăn phòng ra cho thuê. Tiền thuê tính theo gạo, 15 kí gạo một tháng. Thôi cũng được. Nhà không có điện, tất cả phải thắp đèn dầu, nước thì có giếng chung, ỉa đái có ao cá tra gần đó, thoải mái đổ chất thải nuôi bầy cá đói. Vợ chồng tôi tự giấu thân phận mình, tôi khai tên tuổi, trình độ văn hóa với chủ nhà, tôi chỉ biết đọc biết viết, vợ tôi thì mù chữ. Có vậy mới mong hoà nhập được với đám cư dân ở đây, nếu muốn kiếm miếng ăn. Chốn này là vương quốc Ve Chai, buôn bán đồ phế liệu. Tân Phú, nơi mà trước đây linh mục Đinh Xuân Hải trị vì như một lãnh chúa, chính quyền hồi đó cũng phải nể vì. Tôi nhìn thấy tại nơi đây có hướng làm ăn tốt cho mình.
Căn nhà tôi thuê, nay gọi là nhà, không gọi là chuồng nữa. ở hương lộ 14, nhà ở sâu trong ruộng. Trên cánh đồng hoang, trên nghĩa địa phơi đầy bao ni lông phế liệu, được giặt phơi.
Hầu hết cư dân nơi đây là bọn khố rách áo ôm sống bằng nghề nhặt bao ni lông, sắt thép, vỏ đạn phế thải. Thu gom, phân loại ra bán lại cho vựa ve chai. Vì cơm gạo, tôi gia nhập làng ve chai học nghề. Tôi đường cùng rồi, không làm thì lấy gì mà ăn, trả tiền nhà linh tinh đủ thứ, còn phải lo cho cái bào thai của vợ tôi đang mang, mỗi ngày một lớn. Đến khi nào đó vợ chồng tôi có một hài nhi chào đời. Thương con như con chó con mèo biết thương con. Dù đời sống nghiệt ngã thế nào, tôi cũng phải giữ lấy huyết thống của mình. Tôi nghĩ thế. Như một thách thức. Tôi trở nên hung dữ và dễ nổi giận, đã có lần nổi giận vì có người nhân danh đạo đức loài người dám ra lời bắt vợ tôi phải phá cái bào thai đi vì họ cho rằng đứa bé này ra đời là nghiệp chướng.
Tôi thây kệ cuộc đời này lâu rồi, nhưng không thây kệ giọt máu của tôi. Người ta cho tôi là kẻ nghèo khổ hết thời, vô tích sự, lại ngang chướng. Thây kệ họ, bố mẹ vẫn mong mỏi ngày con ra đời, dù trong bão táp mưa sa, trong nghèo đói khốn khổ. Tôi thầm hứa vậy.
Bà chủ nhà đưa vợ chồng tôi vào phòng xem nhà. Bà đứng tuổi, vợ của một ông đại tá đã về hưu. Năm 1954, ông tập kết ra miền Bắc, rồi vượt Trường Sơn trở về Nam chiến đấu "chống Mỹ cứu nước". Bà vẫn ở lại miền Nam bí mật hỗ trợ cuộc chiến đấu của chồng.
Nay thì ông đã trở về, ông ở căn nhà ngoài chợ với bà nhỏ. Bà lớn được quyền thừa hưởng trọn vẹn căn nhà xưa, vườn và ao cá. Quyền lực ông to rộng nhưng đối với vợ lớn rất có tình có nghĩa. Bà chủ nhà tôi lấy làm hài lòng về chồng. Chúng tôi xem căn phòng bé tẻo teo, đại tá phu nhân nói:

- Hai vợ chồng bay ở đây là vừa gọn vừa xinh. Này tao nói nhé, vợ mày bầu bì đi thuê nhà rất khó, mày biết chủ nhà nào cũng kiêng kị người thuê nhà có bầu. Nhưng nhà tao có truyền thống cách mạng nên không kiêng kị gì hết, tiền nhà rẻ mạt, chỉ mười lăm kí gạo một tháng, tính bằng tiền như thuế má của nhà nước vẫn tính, chẳng ai thiệt thòi. Đúng đó, trước kia nhà này là dãy chuồng heo, nhưng tao thấy nuôi heo không có lợi, tao bèn thôi nuôi để cho thuê lấy phước. Này đừng cười tao, tao cho chúng mày thuê là làm phước, tao còn lạ gì tụi bay, toàn là thứ trôi sông lạc chợ, lính ngụy, lưu manh, không một mảnh giấy tùy thân, không hộ khẩu, mất quyền công dân, đâu phải người chân chính lương thiện. Vậy mà tao dám chứa chấp, công an phường mó đến tụi bay là không được với tao rồi. Ông ấy nhắc "máy" lên một cái, lính công an "teo bu ri", xin được thả ngay tụi bay về "nguyên quán". Ông là người có uy ở vùng này. Nói đến chú Bẩy ưng ai mà không biết, trưởng công an phường, trưởng phường đội, ủy ban đều là hàng con cháu ông hết. Bay cứ nói ở nhà Bảy ưng chẳng ai dám đụng đến bay. Tụi bay do tao quản lý.
Bà đại tá Bảy ưng nói một hơi. Trong hoàn cảnh này tôi thấy bà nói có lý và đúng quá. Quả thật vợ chồng tôi đang kẹt trong hoàn cảnh đúng như vậy. Bà là một bà tiên, ông Bảy ưng là một ông Bụt ban cho thế nhân những điều ước. Điều ước nào cũng được đáp ứng, hài lòng. Căn phòng tuy hơi nhỏ một chút, nhưng cũng đủ chỗ cho vợ chồng tôi, ở góc nhà có kê một cái giường hai người nằm. Bà chủ nhà mau mắn:
- ấy cái giường này của con mẹ thục nhà trước, nó trốn đi không trả tao một tháng tiền nhà nên bỏ lại đấy. Nếu vợ chồng bay có tiền trả tao được hai ngàn rưởi thì lấy xài luôn. Còn không mẹ kia nó chuộc lại tao chịu thôi. Hoặc tụi bay có giường thì cứ khiêng tới mà xài.
Tôi lắc đầu:
- Dạ không, tất cả đồ đạc chúng tôi chỉ có trong hai cái giỏ xách với mấy cái nồi niêu xoong chảo chở trên chiếc xe đạp kia.
Bà chủ nhà chặc lưỡi:
- Vợ chồng bay quả là nghèo, đến cái giường cũng không có, vợ mày bụng mang dạ chửa, bộ nằm đất sao?
- Dạ, cũng có manh chiếu rách lót miếng ni lông bên dưới nằm đỡ, dạ cũng có cái mùng...
- à thôi vậy cũng được, mà thôi tạm thời tao cho vợ chồng bay mượn đỡ cái giường này, vay mượn được ai tiền thì trả tao sau. Tao kỳ hạn cho bay một tuần. Chớ hôm nay tao biết bay cũng không có đủ tiền trả tao cái giường. Thấy người nghèo khổ tao cứ rớt nước mắt, tao không đành lòng đặng, tao có đạo đức cách mạng.
Vợ chồng tôi cảm ơn bà Bảy, thiệt tình tôi cũng không biết làm sao...
- Được được đừng nói nhiều, chuyện làm phước mà, này, mà tao cũng nói trước, mày trả tiền được sớm là cái giường của mày, còn mẹ kia đến chuộc sớm thì ráng mà chịu nghe.
- Dạ, bà Bảy cứ yên tâm.
Bà chủ nhà trở ra, vợ chồng tôi chuyển đồ từ xe đạp vào nhà giải chiếc chiếu rách lên giường. Việc đầu tiên, vợ tôi ngả lưng lên cái giường mượn tạm ấy:
- Gớm ê cả người, anh chở em trên xe đạp ấy đường xóc ơi là xóc.
Tôi nhìn vợ hài lòng:
- Thấy sao, cái giường được không?
Sao không được, mình nằm đất bao lâu rồi, bây giờ nằm giường mà không được nữa sao.
Tôi mỉm cười tự tin:
- Mình sẽ có cái giường này, anh có thể mượn được tiền để mua. Cái giường gỗ chắc chắn như thế này chỉ có hai ngàn rưởi thì cũng không mắc mỏ gì.
- Anh chỉ được cái lúc nào cũng lạc quan.
- Không lạc quan sống sao được, em nhớ mình sẽ còn có con.
Suốt một buổi chiều tôi sắp đặt nhà cửa, một cái bếp nho nhỏ, chén đũa nồi niêu xoong chảo tôi nhặt ván vụn ở quanh nhà kê gạch lên cũng xếp được gọn ghẽ. Nhà cũng có chỗ lui ra lui vào. Tôi càng trở nên lạc quan về căn nhà mới của mình, như thuở nào cách đây hai mươi năm, tôi có một căn nhà do tôi làm chủ. Buổi chiều đầu tiên tôi nằm lăn lộn trên sàn gạch bông mát mẻ. Nỗi vui mừng ấy không chỉ có trong đầu mà còn thấm cả vào da thịt. Căn nhà đó nay vẫn còn, nhưng tôi không được ở nữa, vì nếu tôi ở là phạm pháp, tôi cư ngụ bất hợp pháp trên căn nhà tôi làm chủ. Đơn giản là tôi không được cấp hộ khẩu trên căn nhà ấy. Tôi vẫn chưa có quyền công dân, mà chẳng biết bao giờ mới có. Tôi kéo theo người vợ trẻ sống bơ vơ giữa chợ đời. Hai vợ chồng tôi sống như con sâu cái kiến. Phần thua thiệt nhiều nhất vẫn nghiêng về phía vợ tôi. Nếu nàng không theo tôi, một kẻ hết thời, trở nên bần cùng khố rách áo ôm thì đâu đến nỗi này. Với độ tuổi trung niên mà sức lực đang trên đà tàn tạ sau những năm dài học tập cải tạo, lao động kiếm ăn, liệu tôi có bảo vệ được nàng không. Nàng mang trong bụng cái bào thai, huyết thống của tôi. Tôi sẽ phải làm việc, lao động cật lực, bỏ ngoài tai ngoài mắt mọi lời đàm tiếu, tiếng thị phi. Tôi có thêm sức mạnh. Ngày mai tôi gia nhập nghề ve chai, lượm lặt bao ni lông, tôi lang thang trên những bãi rác, để đố phế thải được tái sinh, dù chất lượng có kém đi nhưng vẫn còn xài được.
Tôi loanh quanh trong căn nhà nhỏ và nghĩ đến đứa con sẽ chào đời, nơi ăn nằm của nó, giấc ngủ yên trong tiếng ru hời của mẹ. Tôi phải lo cho bầu sữa được căng, con tôi không bị khát sữa mẹ nó. Tôi lãng mạn rồi, lãng mạn này đưa đến lãng mạn khác. Tôi nhìn lên trần nhà chuồng heo có cái xà ngang khá vững chãi. Tôi nói với vợ:
- Anh sẽ treo lên cái xà ngang này một cái thúng, lót vải rách và che miếng vải mùng để làm cái võng cho con, vừa tầm tay em đưa, ru con ngủ.
Vợ tôi cười lộ chiếc răng khểnh:
- Ông này chỉ lãng mạn, sao không tính đến một cái nôi hay cái võng mà lại là cái thúng.
- Đây không phải sáng kiến của anh, anh vay mượn của đồng bào thổ mán ở miền thượng du Bắc Việt hồi anh còn nhỏ tản cư lên đó. Em công nhận không, sáng kiến ấy hay đáo để, đứa bé nằm trong cái thúng, đi đâu, làm gì cũng mang theo được, cứ treo lên cây vừa làm việc vừa trông chừng nó, lớn hơn nữa thì thả nó lê la, chạy chơi quanh quanh. Anh đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
Vợ tôi cười rũ:
- Thôi ông ơi, ông đừng mơ mộng nữa, tôi nghe thảm quá rồi.
Tôi cho vợ tôi trẻ người non dạ nên không nghĩ xa chứ tôi có mơ mộng bao giờ, tôi hơn nàng ở chỗ biết nhìn xa hơn lỗ mũi mình. Tôi trở nên kiêu ngạo một mình, cho mình là người chồng vững tay chèo, biết lèo lái con thuyền gia đình con con. Việc người ta liệu cơm gắp mắm. Tôi sẽ có tất cả, sẽ...
Vợ tôi đưa tôi về thực tế.
- Này anh, nhà mình sắp hết gạo rồi đó, chỉ ăn được bữa chiều nay, sáng mai nữa thôi, còn tiền mua mắm muối....
Tôi đang hưng phấn, nói với vợ:
- Thôi chiều nay mình không ăn cơm nhà, mình ra chợ ăn hủ tíu, em gầy lắm, nên bồi dưỡng tí nước xương thịt để lấy chất bổ nuôi con. Mọi chuyện để mai tính.

Chúng tôi ra khỏi nhà, không cần khóa cửa, thời buổi thanh bình chẳng còn sợ trộm cắp. Vả lại, tôi còn cái đếch gì mà mất nữa.
Ra khỏi cửa, tôi gặp vợ chồng con cái người hàng xóm, cũng thuê chuồng heo ở như vợ chồng tôi. Anh chồng, chị vợ đang thui một con gì đó nho nhỏ trên bếp lưa. Anh chồng cười mời tôi:
- ở lại nhậu với tôi, thịt con linh miêu này ngon đáo để. Mình trước lạ sau quen, lại là hàng xóm...
Tôi đành xin lỗi vì phải đi có công chuyện. Anh chồng vui vẻ:
- Thôi vậy sáng mai đi quán bà "Ba Đít Láng" uống cà phê với tôi. ở đây thiếu gì công chuyện mần ăn. Nơi đất lành chim đậu mà.
Tôi đạp xe chở vợ tôi ra chợ Tân Phú, vợ tôi nói:
- Buổi trưa ra ngoài giếng, em thấy anh này mới đập chết một con mèo của nhà ai đó. Có lẽ anh ta nói linh miêu là con đang bị nướng đó.
Sau này thì tôi biết từ chó, mèo, chuột chù, chuột cống, gà vịt, cá tra dưới ao thấy bóng anh ta đều lặn sâu lánh xa. Một tay săn lùng miếng ăn nguy hiểm. Cả vợ lẫn chồng đều là loại lưu manh chuyên nghiệp. Cái gì cũng có thể làm được, miễn là có tiền có ăn. Anh ta nói đó là bản năng sinh tồn. Buồn cười thật, tôi chót giấu thân phận mình là một kẻ dốt nát nên chẳng có lời nào phản bác.
Tôi chán cho đời, nhắp chén rượu khan, mặc kệ mẹ đời. Tôi hùng hục đi làm như con trâu. Đời sống lưu manh của những kẻ phạm pháp đường cùng vây chặt lấy đời sống nhỏ bé của tôi. Tôi có bị ảnh hưởng hay không thì hạ hồi phân giải. Tôi đang sững trong vũng bùn, nơi gió tanh mưa máu. Đồng tiền kiếm lương thiện quả có khó khăn. Cái bao tử đương nhiên thiếu thứ để bóp nặn, xay nghiền. Cái bụng vợ tôi không to được, có lẽ bào thai cũng èo một lắm. Có được chất bổ béo nào đâu để nuôi lớn. Những cái đạp nghịch ngợm của bé cũng yếu ớt, không như con người ta. Tôi lo lắng không biết là chính đáng hay vẩn vơ do đời sống thường xuyên thiếu thốn xúc tác vào đầu.
Những tiếng chửi thề, văng tục nổ giòn rôm rộp về miếng ăn miếng uống của vợ chồng hàng xóm và những người quanh vùng, quả tôi khó mà hoà đồng hòa nhập được với họ. Nhưng vẫn cứ phải sống chung, và cố giữ hòa khí. Tôi vẫn coi đời sống này là tạm mà.

Ngày hôm sau tôi lên Sài Gòn, tìm đến người bạn xưa. Anh Nhã. Tôi với anh là bạn từ lứa tuổi choai choai kéo dài cả mấy chục năm trời. Tôi tin anh là người thân duy nhất, vì tôi không đối xử xấu với bạn bao giờ. Chẳng những chúng tôi thân nhau mà hai bên gia đình cũng thân nhau. Sau này khi tôi khổ, tôi không mặc cảm vẫn lui tới anh và gia đình anh bên ấy. Ngược lại, anh cũng lui tới với tôi. Đời sống gia đình anh Nhã khá hơn tôi nhiều. Không có những ngày đói rã họng như tôi. Đời sống anh bình bình, không sóng gió khi có cuộc đổi đời. Tuy không làm gì, nhưng anh có "ngoại viện", những thùng đồ từ ngoại quốc của người thân gửi về anh tương đối đều đặn. Vợ anh cũng buôn bán nhì nhằng. Nhưng chị ở bên nhà mẹ đẻ nên anh rảnh rang chỉ phải lo săn sóc đứa con gái, để cháu tiện đi học. Khi buồn anh tới bạn bè, trong đó có tôi, uống chén trà, ly rượu cho đỡ sầu đời. Thường thì anh là người chủ chi.
Tôi đến anh Nhã khi anh vừa ngủ dậy. Tôi nói vợ chồng tôi mới dọn nhà. Anh nói "thế à" rồi tiếp: "Tôi đi với bạn, xem vợ chồng bạn sống ra sao.
Anh Nhã chắt ra từ trong hũ một chai rượu thuốc ngâm mang theo. Anh mua thêm ít đồ mồi. Anh vẫn giữ phong độ của một tay chơi thuở nào. Anh có vẻ ngậm ngùi khi thấy đời sống quá cực khổ của vợ chồng tôi. Cụng ly với tôi, anh nói một câu chữ:
- Gặp thời thế thế thời phải thế... Ráng chịu đựng đi.
Tôi vào thực tế, nói đến cái giường:
- Vợ chồng tôi cần một cái giường, nhà tôi còn sinh nở, có cháu bé...
- Thì cái giường này cũng được rồi, cần gì mới me.
- Giường này của người ta cho mượn, có hạn định chỉ trong bảy ngày, nếu không mua kể như không có, lại nằm đất. Nằm đất thì tội vợ tôi quá. Tôi mượn bạn hai ngàn rưởi thôi để mua lại cái giường này.
Anh Nhã cười:
- ồ được thôi nhưng hiện giờ tôi không mang theo tiền, để lúc khác vậy. Thôi ăn nhậu đi.
Tôi cố với vát:
- Bạn giúp tôi, cố có trước hạn định.
- Chuyện nhỏ.
Tôi tin tưởng bạn. Tôi có một buổi chiều thoải mái. Anh bạn hàng xóm cũng sang góp vui, anh ta ăn nhậu một cách tục tằn, ba hoa và chửi thề luôn miệng. Anh ta nói đến thời vàng son đã qua của anh. Những ngày học tập cải tạo. Những tên trại anh đã đi qua, anh thuộc hàng "sĩ quan chế độ cũ, về những tên trại cải tạo anh ta nói sai bét, toàn là trại giam cưỡng bức lao động cho loại tội phạm hình sự, lưu manh. Rồi đây anh và gia đình anh phải được hưởng qui chế đặc biệt, vì anh là "lính đánh thuê cho Mỹ". Tôi muốn nổi nóng, nhưng dằn lại được và cả anh bạn tôi cũng dằn nóng. Vì tôi đã dặn bạn giấu thân phận mình ở chốn này. Một thằng lưu manh láo khoét, hoàn toàn láo lếu lại đa ngôn. Một loại người càng nói càng sai, nhưng cứ nói, vì với hắn "mục hạ vô nhân".
Đến sẩm tối, anh bạn tôi đậy nút chai rượu lại, coi như ngưng bữa nhậu. Anh hàng xóm vẫn chưa đã:
- Này, đi đâu thế, mình chưa hết chuyện mà, thời của mình.
- Xin lỗi, thời của anh chứ không phải thời của chúng tôi.
- Vậy thì để lại rượu đi
- Không được, giọt rượu là giọt máu, đương nhiên là tôi phải mang đi, tôi và bạn tôi có chuyện riêng cần nói.
Anh hàng xóm nát rượu trơ trẽn:
- Tôi bị gạt ra ngoài?
Đúng thế, tôi nói là chúng tôi có chuyện riêng mà.
Ra khỏi nhà, anh Nhã nói với tôi:
- Tôi muốn nổi nóng rồi, vì bạn mà tôi nhịn.
- Đúng vậy tôi đã phải và đang sống chung chạ với những loại người ấy, đó là điều khổ tâm cho tôi. Tôi thông cảm bạn.
Hàng ngày tôi đi làm. Công việc tôi không phải nhặt bao ni lông mà xé bao thuê, đem giặt sạch rồi phơi khô, phân loại. Mùi hôi thối đựng trong bao ni lông khiến người xé bọc muốn nôn oẹ tại chỗ nhưng vẫn phải chịu đựng. Vợ tôi, không giúp gì được trong cái thứ nghề quái gở này. Nàng có thể ói ra mật xanh, mật vàng, nàng đang có thai. Không thể để nàng kéo dài tình trạng ốm nghén bất đắc dí.
Bà chủ vựa ve chai của tôi còn rất trẻ, son phấn loè loẹt vàng đeo đỏ người. Bà mới giàu và cũng mới cưới chồng, một tay chơi nửa đời nửa đoạn nào đó nói giọng Bắc kỳ cố sửa giọng nhưng vẫn ngọng, khi nổi giận đến mất khôn. Anh ta đủ cái hách dịch để điều khiển bọn người làm thuê như tôi, mà anh gọi là "công nhân viên". Vợ anh là "giám đốc", anh là "phó giám đốc điều hành". Cái xe Honda đời cũ của anh mua lại tân trang sáng loáng một cách hợm hĩnh chạy vòng vòng trên bãi phơi bao, sân ngồi xé bao và nhà giặt bao, mùi át xít trong xà bông bột của các hãng xà bông tổ hợp xông lên chóng mặt. Chị vợ ngồi thu gom mua phế liệu rành rọt đến độ không một bạn hàng nào qua mặt được. Tiếng chị ta choe choé suốt ngày:
- Này, mang đi vựa khác mà bán nghe, vựa này không mua đâu.
- Sao vậy, bao ni lông mà, cân lên rồi trả tiền như mọi khi...
- Mọi khi thì mua được, nhưng lần này thì không mua. Tôi mua của người khác chớ không mua của chú. Tại sao?
- Muốn biết hả, thông Tư đâu, mày xổ tung bao ni lông đó ra, nếu không có độn đá thì tao cùi...
Quả nhiên trong bao ni lông ấy có tới bốn hòn đá xanh, cân nặng đến hơn ba kí lô. Miệng bà giám đốc vựa ve chai Thành Công quang quác:
- Rõ chưa nào, thôi mang đi vựa khác, nhớ nhặt lại mấy hòn đá bỏ vào bao, nhà anh đừng hòng qua mặt con này. Con này có thừa kinh nghiệm.
Anh bán bao ni lông đành năn nỉ bán giá hạ để lấy tiền mua gạo sống qua ngày. Một bạn đồng nghiệp xé bao ni lông cạnh tôi nói:
- Đừng hòng qua mặt con Ngọc Tũn này, nó chuyên nghề nhặt bao ai lông từ hồi sáu tuổi. Bây giờ thì nó giầu lên làm chủ. Sang rồi nó đổi tên từ Ngọc Tũn thành Ngọc Tuyết..
- Tôi muốn hỏi về cái tên trong hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân kia.
- Đúng, tên trong hộ khẩu và chứng minh thư nhân dân bây giờ là Nguyễn Thanh Ngọc Tuyết. Có tiền là xong hết.
- à, thì ra chị muốn bỏ luôn chữ Thị quê mùa, thay vào đó chữ Thanh cho sang, xứng đáng với cuộc đổi đời, với địa vị sang cả của chị.
Tôi vẫn còn thắc mắc tại sao từ một con bé nghèo đói bẩn thỉu lại trở thành bà chủ giàu có như vậy. Sự thắc mắc ấy được giải tỏa ngay. Cô bé gập may, một lần ngồi xé bọc ni lông thuê cho người ta, chị thấy một bao ni lông đầy những khoeo vàng. Chị thủ chị giấu và trở nên giàu có, nhất nghệ tinh nhất thân vinh, chị theo nghề truyền thống. A ra vậy, hèn chi khâu xé bọc ni lông, người ta xé rất kỹ. Ai cũng mang một hoài vọng, hy vọng mà người ta không chê là hão huyền. Biết đâu lại không có một bà già lẩm cẩm nào đó gói vàng vào bọc ni lông giấu con chấu rồi quên, liệng đi. Mùi hôi thối từ những bao phế liệu xông lên nồng nặc, những con chó đứng vây quanh đang muốn chôm vồ một cái bao nào đó tha chạy.
Một con cún đã vồ được một bao, cong đuôi té chạy. Tiếng người la lối:
- Bắt nó, bao ni lông lụa...
Lụa là tên gọi thứ bao ni lông có màu trắng tinh mềm nhuyễn, loại Một. Anh phó giám đốc điều hành gầm lên:
- Bắt ló đập chết ngôn, à thằng lào đập được tao cho nuôn xác ló, nhớ để cho tao miếng chả chìa...ờ thằng Lam hả, tao cho mày nàm nính bảo vệ, chiến đấu với mấy con chó.
Tiếng con chó kêu đến "đắng" một cái, nhả cái bao ni lông đựng phân, dấy lên tê tê... Kẻ đập được con chó chính là thằng Nam, người lùng săn trộm, hàng xóm nhà tôi. Phân vãi tung toé, thối hoăng, còn cái bao ni lông được lấy lại.
Anh phó giám đốc điều hành cố vẻ hài lòng:
- Nàm thế nà đúng, không để thất thoát nguyên vật niệu của cơ sở. Phải giết chết, phải ăn thịt những con chó tham nhũng.
Những cục phân té đổ vung vãi được đám chó ăn cướp dọn đến loáng là xong. Một anh ngứa miệng nói không ngãi trước nghĩ sau với đám chó đang tranh ăn:
- ồ lẹ lên tụi bay, ông phó giám đốc biết lại mệt bây giờ.
Anh phó giám đốc ngồi ghếch chân lên chiếc xe Honda tân trang. Nhậy cảm, ra họng liền:
- Ê thằng kia, nói gì vậy? Tao mà đi ăn tranh cứt với chó à?
- Tôi có nói gì đâu, tại anh nghĩ như thế.
- Tao cho mày nghỉ việc.
- Làm thì làm, mà nghỉ thì nghỉ, trả tiền thuê cho tôi đi
- Mày muốn vậy hả, dễ thôi. Mày đừng tưởng mày nà công nhân viên, mày nà cu ni, tất cả đều nà cu ni, thứ không có biên chế. Đừng lói chuyện nuật pháp với tao, tao nà luật mà luật nà tao. Truyền đời cho chúng bay biết, ông đi từ bắc chí lam đã từng nàm ông nớn. Thằng lào, con lào không muốn nàm lữa thì nghỉ. Không có luật nao động bồi thường cho bất cứ đứa lào. Có nàm thì có ăn. Không kỷ luật thép với chúng mày thì không xong.
Tôi biết tôi đang sống ở đâu, đang làm gì, tôi câm họng suốt một con giáp, mười hai năm trời. Tôi vầy vò những chiếc bọc ni lông thuộc loại hàng "hắc quẩy. Tôi thuộc tên hàng như cháo, như những tay chuyên nghiệp. Những bao ni lông phế liệu được tái sinh và tôi cũng được xào nấu tái sinh nhiều lần.
Tôi về đến nhà người mệt nhoài, buổi chợ chiều muộn mằn, đồ ăn mua được đều là thứ ế ẩm, mà cũng chẳng có gì giá trị vì số tiền tôi kiếm được trong suốt một ngày làm việc cật lực chẳng đáng là bao, gạo cho hai người ăn, đồ ăn thì khiêm nhượng miễn là mặn miệng để nuốt trôi cơm. Tôi muốn làm thêm "ca" đêm, là đi giặt bao ni lông thuê, nhưng vợ tôi cản:
- Thôi anh, hồi này anh yếu lắm rồi, anh lại húng hắng ho, coi chừng anh nhiễm ho lao, đám phế liệu bẩn thỉu như thế anh hít ngửi cả ngày... Có được hai bữa cơm là quí rồi, buổi sáng anh cũng có được ly cà phê, nắm xôi, điếu thuốc. Mình sống qua ngày chớ có làm giàu làm có gì đâu.

- Mình còn phải lo cái giường, em cũng cần tí thịt cá bồi dưỡng cho cái thai.
- Biết rồi, không can gì đâu, hồi này em ăn được, đồ ăn chẳng có gì mà em ăn tới gần ba chén cơm đấy. Còn tiền mua cái giường anh Nhã đã hứa cho mượn.
- Mượn thì cũng phải trả, dù là bạn bè...
Đang nói đến bạn thì anh Nhã đến. Tôi cười nói:
- Bạn linh thế, tôi biết bạn đến đúng hẹn mà.
Anh Nhã cười, ngồi ghé xuống một góc đầu giường, đặt xị rượu xuống, rượu trắng và một cái ly con con, chúng tôi thường uống "xây tua ", nghĩa là người này uống cạn giao ly cho người kia xoay vòng.
Cuộc uống "xây tua" đều đặn thì phần mỗi người là tám ly con đủ sừng sừng, không hẳn say mà cũng không đủ tỉnh táo. Nhưng cũng dễ quên buồn. Nhã róc rượu anh mời tôi uống trước:
- Rượu đế nếp Bà Bóng Gò Đen đấy, nước nhất nhé. Uống say êm lắm, không nhức đầu, tôi đặt nó từ Gò Đen Long An đó, hôm nay nó mới mang lên. Một can hai mươi lít, quí lắm nên tôi phải lấy luôn để dành uống. Xị này tôi mang tới cho bạn uống, tôi chỉ nhâm nhi chút chút với bạn cho vui thôi, ồ quên mất rồi, tôi không mang theo tí đồ mồi nào.
- Có đấy, tôi còn mấy miếng thịt Tam Tạng.
- Thịt Tam Tạng?
Tôi mang ra món tàu hủ kho tương, hai đôi đũa, giải thích:
- Tôi gọi món tàu hủ kho này là thịt Tam Tạng cho sang. Vì thịt cá dị ứng với khẩu vị vợ chồng tôi từ lâu rồi. Hai vợ chồng tôi lại có bệnh viêm màng túi, nên phải kiêng kỵ kỹ lưỡng, nhiều hôm chúng tôi hạt muối cắn đôi, phòng bệnh hơn chữa bệnh. Thầy thuốc dặn thế.
Tôi uống rượu và lòng cảm thấy hưng phấn, vợ chồng tôi sẽ có một cái giường. Có thể sau xị rượu này tôi sẽ hùng dũng lên đập cửa má Bảy đang ở nhà trên trả tiền. Cái giường thuộc về tôi, tôi thuộc về cái giường, cái giường sẽ là thành viên thân thiết của gia đình tôi. Nó sẽ là một đồ vật yêu quí như con chó, con mèo trong một gia đình. Ngược lại, tôi phải săn sóc nó, khi nó long đinh tôi đóng lại, nước véc ni tróc nham nhở tôi sẽ mua hộp sơn sơn lại cho sáng sủa. Lúc tôi đang hứng khởi như vậy, đang mơ mộng như bản chất tôi thì anh bạn bèn "pạc xơ cờ..." Lý do anh chưa cho tôi mượn được số tiền tôi yêu cầu để mua lại cái giường. Một thoáng sững sờ, nhưng rồi tôi giữ được bình tĩnh ngay nghe anh nói:
- Đến hẹn rồi mà đồ ngoại quốc của tôi chưa về tới. Thế có kẹt không chứ, hôm nay còn mấy ngàn, cái thằng bán rượu Gò Đen lại mang lên, tôi trả hết cho nó rồi. Đúng cái rượu bạn vừa uống đó, ngon như thế mà mình không mua thì uổng. Tôi hứa với bạn tôi nhớ chứ, hay là bạn xoay tạm ở đâu, rồi tôi sẽ đưa bạn sau vậy Tôi hỏi bà già thì không tiện, vì mẹ con tôi mới có chuyện xích mích, mà hỏi bà xã tôi lại không tiện nữa vì vốn buôn bán của bả. Bạn biết bản thân tôi có làm gì ra tiền đâu. Này, bạn có thể nói với bà chủ nhà thư thả được không?
Tôi đặt ly rượu xuống:
- Chắc chắn là không rồi, tôi cũng chẳng xoay được ở đâu hết. Tôi chỉ biết xoay đằng trước ra đằng sau thôi. Nhưng thôi, bạn đừng quan tâm đến chuyện đó nữa. Đối với tôi là chuyện lớn nhưng đã là chuyện nhỏ rồi. Trước đây chúng tôi từng nằm đất, đừng vì chuyện ấy mà sứt mẻ tình bạn.
Tôi vốn là kẻ nông nổi, không ngờ tôi lại ăn nói bình tĩnh như thế. Nhìn vợ, tôi thấy nàng cũng rất bình tĩnh. Nàng đã rửa xong mớ bát đĩa, đang xếp vào rổ trên cái kệ dã chiến do tôi đóng. Xị rượu ngon tôi không uống hết, đậy nút lại đưa bạn tôi mang về. Tôi tự đo lường được thân phận mình.
Tôi tiễn bạn ra về, hình như trời đang về khuya. Chốn ngoại thành này vắng vẻ. Hương lộ 14 ai đóng lên ở ngã ba đường cái tên mới đường âu Cơ, tổ tiên dân tộc tôi, tôi nhìn mờ mờ thấy dưới ánh điện vàng. Tôi trở về ngôi nhà chuồng heo. Vợ tôi đã lên giường nằm, mùng đã buông, cái mùng vá chằng vá đụp màu cháo lòng. Tôi cài cửa tắt đèn, chui vào mùng. Bóng tối âm u, ngoài mùng muỗi reo vo vo, ngoài trời gió nổi. Có một con cá tra nào đó quậy trong ao. Mái tôn hở, tôi nhìn thấy một ngôi sao đơn độc trong trời đêm. Thốt nhiên thở dài.
Vợ tôi nắm tay tôi:
- Đừng buồn anh, em chịu đựng được mà. Người ta nắm kẻ có tóc chứ ai nắm kẻ trọc đầu.
- Đừng nói thế thêm mích lòng.
Tôi đặt tay lên cái bụng lúp xúp của vợ. Bé đang cựa quậy, nhưng sao yếu quá. Tôi im lặng trong đêm. Ngôi sao ở khe hở mái tôn hồi nãy đã di chuyển theo vòng quay trái đất. Tôi không nhìn thấy nữa. Con dế mèn ngoài đầu hè cất tiếng gáy hoà nhập với nhiều âm thanh côn trùng khác. Cái giường ngày mai hết hạn cho mượn.
Lồng ngực tôi nặng nề, tôi bật lên tiếng ho.

Sáng sớm tinh mơ tôi đã mò ra quán cà phê bà Ba Đít Láng ở chợ Tân Phú. Quán cà phê bình dân không trưng bảng hiệu mà lại mang cái tên tục tĩu như thế Nhất định là cái tên của bọn giang hồ, quân khố rách áo ôm đặt cho, nhưng nguyên do tôi vẫn chẳng rõ vì sao. Quán đông khách như được quỉ thần phù hộ trong khi cà phê bắp rang, pha túi dở òm. Tôi mua một cái dầu cháo quẩy vừa uống cà phê vừa nhai. Đúng ra chẳng ngon lành no nê gì mà chỉ đỡ buồn miệng, có cảm tưởng mình có lương thực, đang nhai nuốt nó. Như kẻ sắp chết đói nhai cỏ, rễ cây, đánh lừa cái dạ dày khốn khổ của mình.
Tôi thắc mắc về tên quán cà phê, nhưng rồi cũng biết. Chẳng phải hỏi ai, cứ nghe khách giang hồ nói chuyện với nhau rồi khắc biết thôi.
Bà chủ quán góa chồng, sống với hai cô con gái đã đỡ đần được mẹ. Bà tuy hơi đứng tuổi nhưng vẫn còn nét mặn mà, là niềm mơ ước của nhiều tay chơi tỉnh lẻ, những mong làm nên chuyện "rổ rá cạp lại". Nhưng lâu rồi, niềm mơ ước ấy vẫn chưa được đáp ứng dù lời ong bướm dập dình quanh người thiếu phụ tuổi đời đang ở độ "ngon lành". Thể hình tròn trịa, nụ cười tươi hết cỡ như đóa hoa mãn khai lấn lướt cả hai đóa hoa hàm tiếu của hai đứa con gái. Bà Ba không xe xua trưng diện, tứ thời cái áo bà ba cổ tròn màu xanh, màu tím, màu mỡ gà hoặc màu trắng thắt eo hông ôm lấy cái quần đen vải Mỹ A láng bóng, tròn vo, mượt mà khiến nhiều tay hảo ngọt vùng Tân Phú phải hít hà thèm muốn. Một tay chơi hết thời, nửa đời lỡ, giờ làm nghề nhặt bọc ni lông thấy chịu không đặng, nhân buổi uống cà phê sáng, do bạn bè thách thức và cũng muốn bày tỏ tình cảm bằng thái độ bạo dạn, anh ta xoạng bậy "cái chảo" láng mướt của bà. Bà chửi, suýt đánh. Công an bèn túm lên phường bắt làm kiểm điểm rồi đưa đi giáo dục qua lao động hết ba tháng trời. Tên quán cà phê bà Ba Đít Láng có từ đó.
Quán ngày một phát triển, đông khách, bà Ba Đít Láng không có tình thì cũng có nghĩa. Bà có một dịp lên thăm người khách hàng bị đi học tập vì bà, đồ tiếp tế hậu hĩnh, không quên một bình cà phê biếu bạn. Như một lời hứa hẹn, nhờ anh ấy mới có tên quán mà ai cũng biết, đông khách. Cuộc tình, nếu có thể gọi như thế, dừng lại ở đó hay đi đến đâu tôi không biết. Nhưng người khách hàng "tội lỗi" xưa cũng có trở lại và được uống cà phê miễn phí. Lại được bà Ba Đít Láng sai vặt, còn hai cô con gái thì lườm nguýt, dầu mỏ ra chửi:
- Chú tưởng đã làm được dượng tôi mà lên mặt. Uống cà phê thí mà còn đòi cà phê sữa, coi có được không?
Bà Ba Đít Láng khóa cửa động đào hay mở có Trời biết. Tất cả đều bù trật trong cái ồn ào của buổi sáng quán cà phê bình dân đông khách.
Tôi cặm cụi lao động xé bọc ni lông cho tổ hợp phế liệu Thành Công của Thị Ngọc Tũn hy vọng vay mượn được tiền, trừ lương mỗi ngày có tính lời để mua lại cái giường. âu đó cũng là niềm vui, tặng phẩm sinh nhật cho vợ. Tôi chưa vô tích sự. Hai ngày nữa thôi, tôi sẽ cầm được số tiền "lớn " ấy, khi bà chủ đã đủ tin cậy ở tôi. Cái giường sẽ thuộc về gia đình tôi. Tôi hưng phấn, tay nghề mỗi lúc một cao, xé đến loáng đã được cả kí bọc ni lông, bất kể dơ bẩn. Thây kệ những cơn ho rũ rượi làm mềm cả thân xác.
Phiên chợ chiều muộn màng, chợ chẳng còn gì, không lẽ bắt vợ ăn hoài cái món thịt Tam Tạng, nàng sẽ lả người đi mất, và cái bào thai, con tôi sẽ yếu không giẫy đạp nữa thì khốn, nó bị suy dinh dưỡng khi còn nằm trong bụng mẹ.
Tôi vào quán cơm bình dân mua ít thịt kho, cái trứng vịt kho và chén canh khổ qua nhồi thịt. Tất cả được đựng vào bao ni lông mà nhà hàng cho là bao sạch. Tôi chấp nhận, lom khom xách đồ ăn về cho vợ trong niềm hạnh phúc tràn trề. Canh khổ qua mát, miếng thịt, rừng kho nước dừa khiến gia đình tôi ngon miệng, con tôi tha hồ giẫy đạp trong bụng mẹ nó.
Không biết phải gọi là hồi sinh hay tái sinh cho đúng. Thây kệ sao cũng được ăn mừng cái giường, cũ người mà mới ta.
Tôi bước chân vào nhà trong niềm hưng phấn, nhưng buồn ngay khi thấy nàng, vợ tôi ngồi bệt dưới đất. Nàng ngồi trên tấm chiếu rách. Tôi kêu lên:
- Sao lại thế này?
- Người thuê nhà cũ đã đến chuộc lại cái giường mất rồi.
- Kỳ vậy, anh đã khất với bà Bảy...
Vợ tôi thở dài đến thượt một cái:
- Ai biết được, đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn.
- Để anh lên nói chuyện với bà Bảy.
- Kệ anh, nhưng em biết chẳng ăn thua gì đâu.
Anh nói gì thì cứ nói, coi chừng bị bứng ra khỏi nhà, mình sẽ mất an toàn. Có người đến đòi thuê căn nhà này giá cao hơn đấy. Lại có đặt cọc, mình ganh nổi với họ không? Anh liệu lời mà nói.
Mẹ kiếp, lại còn thế nữa. Nhưng tôi vẫn nói để vợ an lòng:
- Anh biết, anh tin ở cách ăn nói của mình. Đại tá Bảy ưng chẳng từng khen anh là người ăn nói có văn hóa đó sao. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Vợ tôi đang buồn cũng phải bật phì cười, cái răng khểnh mới duyên làm sao, hớp hồn tôi:
- Anh chỉ được cái vậy, ai bơm vào cho cứ tưởng thật. Thôi em sửa soạn cơm, a hôm nay cơm có thịt, có canh, có trứng. Sao mà sang quá vậy? Lẹ lên rồi về ăn nghe.
Tôi lên gặp bà Bảy. Bà đang ngồi xỉa trầu thuốc dưới ánh đèn điện từ cái bóng máng trên bình "ắc quy. Thấy tôi, bà hỏi ngay:
- Mày lên tao về vụ cái giường, phải không?
- Dạ đúng vậy, má Bảy đã hứa...
Bà Bảy nhổ một miếng cất trầu vào cái lon sữa bò:
- Tao đã gia hạn cho mày, người ta đến chuộc, tao làm sao được.
- Hai ngày nữa tôi đủ tiền mà.
Bà Bảy nhìn nhanh tôi:
- Tao biết, nhưng không làm sao được, người thuê nhà cũ cũng nghèo như mày vậy. Tao không đành, giúp đứa này bỏ đứa kia. Cứ công bình mà làm. Tao là người có đạo đức cách mạng.
Bà Bảy nhìn lên bức chân dung vẽ truyền thần của chồng là đại tá Bảy ưng, đủ cả cân đai mũ mãng.
Bà vững lòng tin truyền sang cả tôi phải nghĩ là nền đạo đức của bà đúng, rất đúng.
- Tao nói vậy, phải không mày?
Tôi mềm lòng gật đầu:
- Dạ phải, chỉ mong má Bảy giúp cho vợ chồng tôi một việc khác.
- Khất tiền nhà phải không?
- Dạ không, một chuyện khác.
- Cứ "trình bày" hợp lý tao chấp nhận.
- Vợ tôi có thai, nằm đất thì hại sức khỏe quá...
- ờ ờ, cũng đúng, vậy thì mày mang một cái giường khác vế mà nằm.

- Cái giường tre cũng mắc, tôi không đủ tiền mua, đồ cũ họ cũng nói trời thần lắm.
- Vậy hả, mày tính sao?
Thấy tôi liếc nhìn cái giường nhỏ ở góc nhà, bà Bảy giẫy lên:
- Không được đâu, cái giường ấy tao không bỏ không, của con tao đấy. Nó đi bộ đội chiến đấu ở phía Tây Nam tổ quốc, chống Khờ Me đỏ, lâu lâu nó về nó phải có giường nằm nghỉ ngơi. Mày biết nó cũng là sĩ quan ở binh đoàn Cửu Long, con dòng cháu giống.
Tôi cười:
- Dạ không phải, tôi không mượn giường, mà cũng không mua lại nữa.
Đến lượt má Bảy ngạc nhiên:
- Vậy là cái gì? Nói rõ ra nào!
- Muốn xin má Bảy cho đóng xuống sàn bốn cái cọc, tôi đi tìm ván cốt pha về làm mặt, kê làm giường cách mặt đất cho đỡ ẩm thấp.
Bà Bảy rơ miếng thuốc xỉa trên hàm răng có dính quết trầu màu đỏ, móc miếng thuốc lên môi thành một cục to bằng trái tắc. Suy nghĩ một lát rồi lắc:
- Cũng không ổn, mày biết sàn chuồng heo tao đổ bê tông, mày đào bới tầy quầy ra, hư nền nhà tao. Mai mốt tao nuôi heo, heo phải nằm sàn, ỉa đái tùm lum. Chớ heo có nằm giường bao giờ. Cái giường của mày cố định ở đó coi sao được. Tao bác ý kiến "ngông cuồng" của mày. Tao thiệt hại quá, ông chồng đại tá nhà tao rầy la tao. Thấy cũng thương, mà tao biết làm sao được.
Tôi thua, năn nỉ vô ích với một người có đạo đức cách mạng như bà Bảy, được huấn luyện cứng như thép
Tôi lui về chốn chuồng heo. Tôi nghĩ đến câu chuyện đại tá Bảy ưng nói với tôi, ngày ông và đồng đội "xẻ dọc Trường Sơn", nằm bờ nằm bụi để có ngày hôm nay. Giải phóng cho nửa phần đất nước, thống nhất đất nước. Các vị ấy gian khổ biết bao nhiêu. Sự đau khổ của vợ chồng tôi có nhằm nhỏ gì. Ba cái lẻ tẻ. Cần phải lấy đó mà làm gương.
Đêm hôm ấy ngủ đất, nằm lạnh lưng nên tôi ho hơi nhiều, vợ tôi cũng ho và trăn trở không ngủ được, cái cống thoát nước trên đầu nằm chảy róc rách, muỗi bay vo vo góp sức phá thêm giấc ngủ chập chờn... Tôi biết rằng miếng ni lông mỏng rách trải dưới cái chiếu rách không ngăn nổi khí lạnh dưới nền sàn, nếu có miếng dầy hơn? Nhưng làm sao được. Tôi nằm tính toán thâu đêm. Tôi không kêu trời mà chỉ hiểu thấu thêm câu nằm gai nếm mật, hiểu giá trị anh hùng của những người xẻ dọc Trường Sơn. Đẹp đẽ biết bao, hào hùng biết bao! Con ngựa chướng trong người tôi muốn lồng lên phi nước đại. Buổi sáng hôm sau tôi đi làm sớm, uống vội ly cà phê đen nhỏ ở quán cà phê bà Ba Đít Láng. Tôi đến cơ sở gặp bà chủ:
- Tôi xin rút lại lời xin mượn tiền bà.
- Vậy hả? Có món khác rồi chăng?
- Không, thứ tôi định mượn tiền bà để mua, người ta bán mất rồi.
- Chú mua món gì vậy?
Tôi không thể giấu được bà chủ, tình thật kể lể câu chuyện cái giường cũng là câu chuyện giải tỏa ẩn ức. Bà chủ vựa ve chai của tôi tỏ ra thông cảm và nhân hậu. Luôn miệng nói "thế à" và câu "tội nhỉ".
Cuối cùng bà nói:
- Tiếc rằng nhà tôi không có dư cái giường nào, chớ không, tôi cho chú mượn. Mình cùng cảnh nghèo với nhau dễ thông cảm. Được thôi, nếu thấy, tôi sẽ mua giùm chú, một cái cũ cũ cũng được chớ gì. Hồi trước thiếu gì, tôi phải chẻ làm củi, nay lại không thấy nữa.
Tôi nghĩ bụng tôi cần ngay hôm nay, chứ chuyện mai sau thì nói làm gì. Tôi hùng hục làm việc, đến chiều trời bới nắng, tôi được cắt ra thu gom bao ni lông phơi ngoài ruộng mang về cất trong kho. Bao ni lông khô ran vì hôm nay trời nắng và nóng đến 39 độ, tôi loáng thoáng nghe đài phát thanh nói thế khi đang ngồi xé bọc ni lông, mồ hôi chảy ròng ròng. Thế mà vẫn có cả trăm người lui cui trên bãi rác đổ nắng lửa, phơi lưng với trời, gục mặt trên đất, bãi rác lúc nào cũng như chực bốc cháy. Những con người như đám thiêu thân. Những đôi mắt trẻ thơ nguyên xanh trong, dưới cái nắng gay gắt đó biến màu đỏ, màu vàng như mắt khỉ, mớ tóc rối chuyển sang màu rơm rạ. Bao nhiêu con người lang thang kiếm ăn như bầy chó hoang. Tôi thương cho họ, chính là thương tôi, tôi cũng đang ở hoàn cảnh đó. Tôi mơ ước một ngày nào đó được nói lên cảnh này, nhưng không vì vậy mà hận thù ai cả. Một tinh thần rất Việt Nam, thụ động mà không thụ động: Ngồi buồn mà trách ông xanh, khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười.
Trời tắt nắng, tôi thu gom được hết bao ni lông phơi đóng bao, thồ lên xe đạp chở về kho. Có thể ngay tối nay có người sẽ phân loại, một bộ phận khác phân loại rồi chở đi nhà máy tái sinh qui tụ ở quận 5 tức vùng Chợ Lớn. Những đồng bào người Hoa cần cù chịu khó làm ông chủ lớn, đón gió. Có tổ chức nhịp nhàng như trong cỗ máy hay một tổ kiến. Tôi nhìn thấy cái vĩ đại trong hoạt cảnh xã hội, tôi ghi nhận như người quay phim ghi nhận những thước phim tư liệu. Tôi xổ tung mớ ni lông, đặt lên bàn cân tạ có trừ bì. Tôi khám phá ra những bao ni lông thật to rộng, mỗi cái phải to bằng cái chiếu con, dài cỡ hai thước, ngang cũng tám mươi phân, ni lông khá dày. Có thể người ta dùng để bọc một cỗ máy gì chăng, nay là dạng phế liệu, đã được giặt sạch, phơi khô. Tôi nở nụ cười.
Thực tế tôi đang nghĩ đến một cái giường vừa hẫng hụt khỏi niềm mơ ước. Bây giờ tôi phải lót ổ để nằm, tấm ni lông mỏng rách lót dưới một cái chiếu rách không thể ngăn khỏi chướng khí ẩm thấp chốn chuồng heo. Tôi cần một cái ổ lành lặn, dầu cho là tạm thời thay cho cái giường. Sáng kiến loé trong đầu tôi nhưng tôi phải thực thà, tôi tới chị chủ vựa:
- Tôi cần hai miếng ni lông lớn kia, bà có thể để lại cho tôi giá đặc biệt được không?
Chị chủ vựa ve chai nhíu mắt nhìn hai tấm ni lông tôi đã nhặt ra. Sau một phút suy nghĩ cắn môi thoa son đỏ loét hình trái tim, chị gật gật:
- Cần dùng có công chuyện hả, được thôi.
- Bà chủ cho biết bao nhiêu tiền, tôi cân cả hai tấm được hai kí tư, dạng ni lông lụa dầy.
Tất cả đều có giá của nó và đã phân loại, tôi nói theo đúng kinh nghiệm của kẻ trong nghề.
Bà chủ lại nhíu mắt, ghếch một chân lên ghế. Tôi nhìn thấy những móng chân sơn màu tím xẩm. Nhưng gót chân thì vẫn nứt nẻ dài, đen xì, chứng tỏ bà có một thời cực nhọc từng lang thang trên những bãi rác. Sự lao động của bà được đền đáp mang đến vinh quang. Bà cắn môi rồi nở nụ cười, kiểu nụ cười của một ngôi sao, trong làng cải lương hay tài tử nữ phim ảnh Hồng Lông:
- Được thôi, nhưng chú thì tôi không bán mà tôi biếu chú đấy. Chú đàng hoàng, lương thiện, lại biết chữ, chồng tôi nói thế. Vì hoàn cảnh chú phải làm nghề này.
Tôi ngạc nhiên, nhưng cũng phải cảm ơn một người có lòng tốt, có con mắt tinh đời. Họ biết gì về mình, khi tôi đã ngụy trang, đã ẩn mình, giấu tung tích như một kẻ tội phạm đang bị truy nã. Khi tôi không có một tội gì, tôi chỉ muốn không ai biết đến tôi, không ai nhớ ra tôi thôi.
- Tôi chỉ biết đọc biết viết!
Không đâu, chồng tôi biết rõ chú mà, thôi được ngày mai chú làm lại sổ sách giùm tôi thật rõ ràng. Cái thằng thư ký của tôi nó mới học đến lớp ba, sổ sách làm teng beng, nhầm lẫn thất thoát bao nhiêu tiền bạc.
- Còn công việc xé bọc?
- Sẽ có người khác làm thay chú. Cháu nâng đỡ chú lên địa vị cao hơn, người tài mà, chồng cháu nói quyết không bỏ sót nhân tài.
Tôi để ý thấy cô chủ xưng cháu với tôi. Tôi có được bơm lên không. Cô ta như một nữ hoàng tự hạ mình xuống đám tiện dân, hết một tên nâng lên hàng kẻ sĩ. Cuộc đời có lắm chuyện bất ngờ. Như trước đây ba mươi năm, tôi đang làm cu li bên kho 5 Khánh Hội được chủ thầu bốc lên làm cai cu li rồi lên địa vị cao hơn nữa. Rồi tôi trở thành nhà văn nhà báo trong những sự bất ngờ. Lại là chuyện hạ hồi phân giải.
Tôi cám ơn cô chủ, ôm hai tấm ni lông về nhà, không quên hứa sáng mai sẽ trở lại cùng anh thư ký coi việc sổ sách cũ. Tôi chỉ muốn giúp anh ta thôi chứ không có ý tranh việc.
Tôi về nhà, vứt đi tấm ni lông rách ở dưới, trải lên hai tấm ni lông mới, lành lặn, cái bao có hai lớp. Tôi giải tấm chiếu rách lên là có một cái ổ khá xinh xắn. Tôi nói với vợ:
- Thôi cũng được, anh sẽ mua một cái chiếu mới lành lặn, trước khi mua cái giường.
Từ nãy vợ tôi không nói gì, nàng quan sát tôi như con chim mái quan sát con chim trống làm tổ. Lòng tôi thấy vui vui. Vợ tôi nói:
- Sao hôm nay anh vui thế?
- Anh sẽ kể cho em nghe tối nay, khi ngủ giường mới.
- Cái ổ mới mới đúng.
- Cái tổ chim bồ câu được không?
- Khỉ ơi là khỉ!
Căn nhà nhỏ của tôi vang tiếng cười. Có phải hạnh phúc đó không? Chỉ vợ chồng tôi biết với nhau.
Ngoài sân tôi nghe tiếng bà Bảy ưng xoe xoè chửi vợ chồng thằng Nam ở chuồng heo cùng dấy:
- Mày thiệt tệ, ăn cắp ăn trộm quanh hàng xôm láng giềng, giờ có con gà mái đẻ nhà tao mày cũng câu luôn, lông gà còn đây mày chối cãi cái gì. Bao nhiêu lần mày ăn cắp trứng, lưới trộm cá tra của tao, tao thương hại không nói đến, chớ tao không đui. Nhà tao không chứa quân ăn trộm ăn cắp. Tao muốn bay ra khỏi nhà tao, càng sớm càng tốt, tao thí luôn cho số tiền nhà vợ chồng bay còn thiếu tao...
Tiếng con vợ thằng Nam năn nỉ:
- Má tội nghiệp cho vợ chồng con, vì hoàn cảnh mà phải vậy thôi, chớ trước đây chúng con cũng sống trong nhà cao cửa rộng vậy. Anh ấy đi học tập cải tạo về...
- Câm ngay, chúng mày nói láo, chẳng phải ông nọ bà kia gì ở chế độ cũ được đi học tập cải tạo mà là đôi vợ chồng lưu manh chuyên nghiệp trộm cắp vặt bị tù nên mới có tư cách ấy. Tao không đui, vợ chồng mày đâu phải như vợ chồng nhà người ta.
Con vợ thằng Nam oé lên, tôi nghe giọng điệu nó chĩa sang vợ chồng tôi nói xiên nói xỏ. Tiếng thằng Nam ồm ồm:
- Thôi bà ơi, bà đừng nói đụng chạm đến danh dự tôi. Bà khen đứa này chê đứa kia. Tôi lưu manh nhưng cũng không lưu manh bằng kẻ khác sống ở đây. Tôi chỉ bần cùng sinh đạo tặc. Có sao đâu, đời mà... Cái nhà bà cho thuê là cái chuồng heo chớ là gì mà báu giá thế.
Bà Bảy ưng tức cành hông, giọng bà gay gắt:
- Ngay sáng mai tụi bay đi khỏi đây, nếu không tao cho công an xúc bay đi đổ ngoài bãi phế liệu.
- Xong ngay, bà đuổi hết chứ? Hay chỉ một gia đình tôi?
- Vợ chồng con cái mày thôi, người khác có tội tình gì.
Thằng Nam cười lên khăng khắc, có lẽ nó đang tu xị rượu để "nung chí anh hùng".
- Tôi đi, nhưng kẻ khác đừng hòng ở đây để bà làm giàu. Tôi kiếm chuyện đó.
Tôi liếc nhìn vợ tôi như thầm hỏi. Vợ tôi nói:
- Kệ họ, mình chẳng dính gì đến họ.
- Dzăng miếng!
- Mình có làm gì đâu, ăn cắp ăn trộm của ai cái gì đâu.
- ấy vậy mới dzăng miếng, bởi mình không là đồng bọn.
Tôi muốn nói đến cái ngược ngạo của cuộc đời. Nhưng thây kệ, tôi mệt mỏi quá rồi. Tôi thèm một giấc ngủ hơn tất cả. Làm việc ban ngày ở nơi hôi thối không được nghỉ ngơi, đêm thường xuyên bị mất ngủ thì chết mất.
Tấm ni lông giải dưới chiếu quả nhiên đỡ ẩm thấp. Tiếng gió thổi qua vách liếp nghe êm như lời ru.
Tôi thiếp đi không biết bao lâu.

- Thằng giặc kia, bước khỏi nhà tao ngay, mày hiểu rằng đàn ông đàn bà không quen biết nhau không thể ở chung một nhà, đừng nói chi nằm chung một giường. Cút xéo, biết điều thì cút xéo ngay...
Đúng là một người đàn bà trọng tuổi mà lạ hoắc đối với tôi. Mụ có son phấn mà mặt xanh nhợt nhạt như ma, đôi mắt quắc lên đổ lửa, lạnh lùng. ừ, tôi đang ở trong một căn nhà lạ, nằm trên giường với người đàn bà lạ. Kỳ vậy, không biết tại sao nữa. Tôi chưa kịp giải thích thì mụ đàn bà hung dữ giương những móng tay nhọn hoắt lên cào mặt tôi. Tôi né tránh, mụ vồ hụt nhưng mười móng nhọn cứ múa vèo vèo trước mặt tôi. Tôi hét lên...
- Anh! Anh! Tỉnh dậy, anh!
Tôi thở hào hển, đêm tối mò mò, một cơn ác mộng, chỉ là một cơn ác mộng. Vợ tôi đang ngồi bên cạnh lay gọi.
- Anh tỉnh rồi, thắp đèn lên.
Vợ tôi chui ra khỏi mùng thắp ngọn đèn dầu. Tôi hoang mang về cơn ác mộng, mồ hôi vã như tắm. Tôi hổn hển nói:
- Ghê quá, một cơn ác mộng ghê quá.
Vợ tôi sờ trán tôi:
- Anh bịnh rồi, tại anh làm việc nhiều quá đấy mà, anh cần được nghỉ ngơi. Đừng nghĩ ngợi lung tung. Anh la hét mà em bắt sợ.
Vợ tôi róc cho một hớp nước lạnh, thoa dầu rồi ép tôi ngủ. Nhưng không ngủ được, tôi cứ hoảng sợ. Cái đèn dầu để ngoài mùng rọi ánh sáng vàng vọt, mờ mờ. Tôi thao thức nghĩ hoài đến cơn ác mộng vừa rồi. Bây giờ đến lượt vợ tôi, có lẽ đã quá mệt nên ngủ say. Tôi nghe tiếng ngáy của nàng, rồi tiếng ú ớ. Nàng lại nói mê chăng? Tôi cầm tay nàng bỏ xuống khỏi ngực, nàng xoay người nằm nghiêng. Rồi nàng giẫy đạp, nàng hét. Tôi ôm lấy nàng, nàng đánh vào mặt tôi bôm bốp. Rồi nàng hồi tỉnh, nhin tôi kinh hãi:
- Ma, ma, anh ơi!
- Em ngủ mê, làm gì có ma.
- Thật đấy thật đấy, đúng là một con ma. Em không ngủ nữa đâu, cứ nhắm mắt lại là thấy nó.
Nàng kể cho tôi nghe cơn ác mộng. Một gã đàn ông lạ hoắc, kéo nàng, ép nàng nằm chung giường với hắn. Hắn than hắn cô đơn, đang cô đơn thì có người đến chung sống. Nàng phản kháng mãnh liệt. Khi nhìn kỹ thì thấy hắn là một con ma. Đúng là một con ma kinh khủng, hắn cứ nhất định đòi bắt nàng, nàng chống trả đánh đấm hắn túi bụi...
Tôi phi cười:
- Có thể con ma đó là anh!
- Nỡm, thế mà cũng đùa được, nhà này có ma.
Tôi suy nghĩ một lát:
- Nếu có ma thật thì đâu cũng có ma chứ riêng gì nhà này. Chúng ta đang sống trên mảnh đất lắm người mà cũng nhiều ma, mà thôi, không nói nữa, em lại sợ không ngủ được.
- Em không ngủ đâu, nằm canh cho anh ngủ.
- Anh cũng không ngủ được.
- Vậy thì mình nằm chờ sáng, anh chở em đi uống cà phê.
- Mình sẽ uống cà phê sữa, đã lâu lắm mình không uống cà phê sữa. Anh phải hút một điếu thuốc thơm. Em ăn tô hủ tíu, chịu không?
- ừ nhưng anh ăn gì?
- Gói xôi hay cái dầu cháo quẩy như mọi khi.
- Không chịu đâu, anh có ăn hủ tíu thì em mới ăn, anh làm việc cực nhọc...
Tôi đặt tay lên bụng vợ:
- Tất cả dành cho con, nghĩ đến nó bất kỳ là trai hay gái, anh đều thương, đều muốn hy sinh cho nó. Em nhớ chỉ chúng ta là bố mẹ mới thương yêu nó thôi. Ngoài ra, xin lỗi anh không còn dám tin tưởng ai.
Không ai thương chúng ta cả, nói chi thương nó, hài nhi vô tội này bị coi là nghiệt chướng.
Anh thù hằn đời sống đến thế sao?
- Không thù hằn mà chỉ cảnh giác, chính đời sống này đã dậy anh như thế...
Chúng tôi chung sống với nhau, nhưng vì chuyện cơm áo ít có dịp tâm tình. Đêm nay nhân chuyện sợ ma, chúng tôi nói chuyện thâu đêm. Sáng sớm tinh mơ, vợ chồng tôi trở dậy đã thấy bà Bảy ưng quét sân quèn quẹt. Bà nhìn vợ chồng tôi, hỏi:
- Sao chúng bay dậy sớm vậy?
Vợ tôi mau mắn:
- Chúng cháu ra chợ uống cà phê.
- Đêm qua tụi bay làm chi mà um xùm vậy, đánh lộn hả?
- Không có đâu...
Tao tối qua cũng không nói gì vợ chồng bay, chỉ vợ chồng thằng lưu manh kia phải bước khỏi nhà tao ngay ngày hôm nay. Vợ chồng bay đừng hiểu lầm, tao thương vợ chồng bay ít học mà hiền lành, không xạo sự. Giúp đỡ được tụi bay tao giúp liền, vợ chồng có điều gì không phải thì bảo nhau, đừng đánh lộn, nghe không...
- Dạ, tụi cháu không đánh lộn, tại đêm qua thấy ma nên cháu mới la.
- Ma hả, ứa tao sẽ cúng kiềng, oan hồn uổng tử ở đây thiếu gì. Xưa kia nơi đây là bãi chiến trường mà. Ông Bảy nhà tao có đánh trận này, tao là giao liên.
Buổi chiều tôi trở về, vợ chồng thằng Nam hàng xóm đã dọn nhà đi.Vợ thằng Nam trút giận ngoặt sang gây lộn với vợ tôi. Nhưng chuyện cũng đã qua. Cái giống ti tiện hạ cấp ấy vẫn thế, chấp nhất làm chi. Tôi thấy thuộc lối vào nhà có treo một nhánh xương rồng, cửa lại dán một lá bùa nào đó viết vẽ lăng quăng. Vợ tôi hiểu thắc mắc của tôi, nàng giải thích:
- Má Bảy "ếm xì bùa" con ma đó. Bùa má lấy của thầy nào đó em không biết, anh đừng có bóc đi mà bả giận.
Tôi ừ ào cho qua chuyện. Cuộc sống yên ổn hơn khi bên cạnh tôi không còn gia đình hàng xóm ồn ào toàn những chuyện trộm cắp lừa đảo. Nhưng bùa chú cũng vô ích, những con ma vẫn lộng hành. Tôi mất ngủ, người gầy dốc, tuy rằng công việc không đến nỗi nặng nhọc như lúc đầu. Tôi đi làm không cần phải mặc những quần áo xấu, rách. Tôi được cầm lại cây bút, không phải để viết văn, làm thơ mà để viết những con số trong sổ hàng. Nhưng cũng là cầm bút vậy. Địa vị tôi được nể vì, có người ve chai còn gọi bằng thầy.
Tôi huấn luyện cho cậu thư ký trình độ học vấn lớp ba đỡ nhầm lẫn hơn trong sổ sách. Thuở đó người có học vấn làm việc trong một cơ sở hiếm hoi như lá mùa thu.
Chuyện tôi được trọng dụng không có chi lạ. Giám đốc của tôi ký tên bằng cái gạch chéo chữ thập. Tôi làm giùm cho họ những đơn từ gởi nơi này nơi kia, lại "có tài điều khiển nổi cái máy chữ cũ rích hiệu Remington, những đơn từ trở nên trang trọng hơn, có mộc xanh mộc đỏ mang tên cơ sở, tên giám đốc Ngọc Tũn. Như vậy làm gì mà tôi không được trọng dụng, ở xứ mù thằng chột làm vua. Đúng là trường hợp của tôi.
Những con ma vẫn quấy phá gia đình nhỏ bé của tôi. Tôi không tin chuyện ma quỉ mà buộc phải tin, thây kệ bà Bảy ưng cúng kiềng cho vợ tôi, vì nàng ngã bệnh mà bà già trầu Bảy ưng nói là bị ma làm. Nhưng tôi vẫn phải cho nàng uống thuốc hàng ngày. Tiền bạc kiếm được đổ vào thuốc và những bữa ăn có thêm chất lượng, nên vẫn chưa mua được cái giường cho ra hồn. Cái giường bây giờ là những tấm ván kê lên mấy viên gạch cách mặt sàn xi măng mươi phân, hai tấm ni lông dầy ngăn cách hơi ẩm thấp, cái chiếu mới. Như vậy cũng tạm ổn rồi.
Ông bà chủ tỏ ra biết điều và trọng dụng tôi, giao tôi điều hành hầu hết công việc trong cơ sở, trừ công việc mua bán và xử dụng người. Tôi không thể hiểu được cái lắt léo mánh mung trong công việc, kể cả việc đi mua bán đồ phế liệu có tôi được đi theo. ông bà chủ dự tính thành lập hẳn một nhà máy tái sinh đồ phế liệu. Cho đến một ngày, vợ chồng ông bà chủ đề nghị tôi mở một lớp bổ túc văn hóa cho riêng hai vợ chồng... Tôi cũng đành chấp nhận, vì tôi có thêm thu nhập. Nhưng sao tôi vẫn chán công việc ấy, chán những tiếp xúc hàng ngày đầy những mánh mung. Đôi khi những quyết định của tôi làm mếch lòng chủ.
Mướn thêm một người, hoặc sa thải một người... ông phó giám đốc điều hành gay gắt:
- Chú nên hiểu rằng đây là cơ sở làm ăn, không phải viện tế bần, mình không nên giúp ai hết vì lòng nhân đạo.
Thực tế là thế tôi phải nhận sự sai trái.
Vợ tôi bị ma làm nên ốm đau quặt quẹo hoài, ốm đau như giả vờ... Tôi buộc phải tin rằng trên đời có ma hiện hình hay ở trong những cơn ác mộng để dọa người. Nạn nhân của ma toàn là những con người hiền lành, yếu đuối hay hết thời như... tôi chẳng hạn. Những con ma đều có tư cách hèn hạ như nhau, nhưng nguy hiểm vô cùng. Nguy hiểm ở điểm đó.

Sửa soạn cho một đời sống văn minh, một cuộc đổi mới nào đó sau ngày chiến thắng. Thành phố được giải phóng phải giàu đẹp gấp mười ngày xưa. Con người ở đó phải sống văn minh hơn để theo kịp đà tiến bộ của thế giới, của nhân loại. Tôi đứng lại tức là tôi tụt lùi. Con người tiến bộ là con người biết bỏ thuốc lào hút sang thuốc lá, thuốc có cán (đầu lọc) mang mác ngoại quốc càng tốt. Biết bỏ dép râu, mũ cối để đi dép sa bô da, tiến tới đi giầy, đội mũ giô kề hoặc mũ phớt. Phụ nữ phải biết bỏ áo bà ba để mặc đầm, bỏ khăn rằn đội đầu để làm tóc kiểu cọ, biết trang điểm son phấn. Tất cả những thứ cũ kỹ xưa kia đều nên chui vào tủ kính ở viện bảo tàng lịch sử, nhà truyền thống.
Một ngày nào đó ai muốn biết phải giở tư liệu lịch sừ ra tham khảo hoặc nghe hướng dẫn viên thuyết minh. Tôi vẫn tin như thế và có những suy nghĩ lẩm cẩm. Vì nhìn đà tiến bộ quay đến chóng mặt. Đối với thế giới chẳng nhằm nhỏ gì, nhưng với đất nước này thì đã ghê gớm lắm. Dập dình chuyện đổi mới, có thể đổi mới luôn tư duy. Nhưng tôi thấy vẫn còn nhiều khó khăn lắm, vì ở các cơ quan, các công sở vẫn còn những người dân thấp cổ bé miệng khi muốn xin xỏ một điều gì trên mặt giấy tờ, tay vẫn lo le điếu thuốc có cán hiến dâng lên vị cán bộ để cán bộ thông cảm. Kẻ tự coi là nhỏ bé làm việc nhỏ, các ông lớn thì làm việc lớn, muốn làm ăn phải biết chi đẹp, nơi bàn chuyện là cửa hàng bia có ôm để nói chuyện phải quấy. Tôi nghe ông bà chủ tôi nói vậy.
Tôi an phận thủ thường, tuyệt chẳng nghĩ đến chuyện bon chen. Hiền như chưa bao giờ hiến thế, như một lão bộc ở nhà quê có cơ may được vào nhà chủ giàu có.
Dân số thành phố bùng nổ, vì những lý do gì đó, người ta dồn vào thành phố để làm ăn, để kiếm sống. Nhà nước phải nới rộng vùng ven đô để trở thành đô thị. Các nghĩa địa chôn người chết nên đi chỗ khác chơi, di dời đi nơi xa hơn nữa, nhẩy cứ như cóc nhẩy. Xương cốt người chết cũng điêu linh. Người còn thân nhân thì đỡ, người không còn thân nhân cũng được nhà nước liệu bề lo toan hợp tình hợp lý. Tôi được biết chừng đó thôi.
Buổi trưa, vợ chồng cô Ngọc Tũn rộn lên về việc đi thâu mua bao ni lông. Dĩ nhiên tôi là người được đi theo để lo chuyện sổ sách. Anh thư ký lo chuyện cân đo Hẳn phải là một đám bán đồ phế liệu to nên Ngọc Tũn lo một số tiền lớn mà nàng vẫn chưa an tâm, nói với chồng:
- Anh đi theo tôi, nếu thiều tiền bạc anh chạy về lấy liền. Mình tiền trao cháo múc nó không ép giá được. Có phải sang tay ngay mình cũng có lời.
Anh chồng mà số tử vi có sao thân cư thê chiếu mệnh, hỉ hả:
- Cần gì phải sang tay ai, mình dư sức xử lý nó, làm thành phẩm khi đó bán còn lời gấp mấy...
Anh ta còn tỏ ra nắm bắt được nền kinh tế thị trường trên đà phát triển mà vợ chồng anh đang gặp thời cơ:
- Ta có thể không cần bán, chờ cho nhà máy tái sinh của mình hoạt động, ta sẵn vật liệu, có giải tỏa cả mười nghĩa địa ta cũng chẳng lo.
Thế là sao? Thế nào? Tại sao lại liên quan đến việc giải tỏa nghĩa địa? Tôi không hỏi ai cả, lặng lẽ đi theo họ. Anh chồng, phó giám đốc điều hành, hôm nay không nói ngọng vì anh đang hồ hởi chứ không tức giận. Anh chỉ tức giận mới nói ngọng. Điều đó ai cũng biết.
Nghĩa địa bị đào bới đông nghịt người. Người công tác lao động có, thân nhân những bộ xương khô vừa gào khóc vừa la lối:
- Khi chôn má tôi, ngoài những vòng vàng bà mang theo, tôi nhớ còn bỏ vào miệng bà một chỉ vàng mà, bây giờ sao không có...
Bà ta gào khóc, trong khi mấy người làm công việc đào mồ mồm năm miệng mười:
- Có thì lẫn đâu đó chớ ai ăn cắp của người chết, mang tội...
Chị đàn bà đốt nhang khấn vái lia lịa:
- Má ơi, má có khôn thiêng thì phù hộ cho con tìm lại được chỉ vàng, tưởng má được mồ yên mả đẹp, ai dè. Má có khôn thiêng thì vặn cổ chúng nó. Mùi hôi hám của những xác chết được đào bới lên thật khó ngửi, hòa lẫn không khí nóng hầm hập càng dậy hơi. Bây giờ thì như một khu chợ trời, người ta ngã giá đủ thứ được xử dụng lại, từ cái nắp ván thiên gỗ còn tốt, đến một cái vòng ngọc thạch, chẳng may bị vỡ. Tất cả đều là đồ ve chai được đánh giá. Quần áo của xác chết nếu không mục nát cũng được đánh giá. Những mộ bia, những phiến đá, những chồng gạch được đập ra từ các ngôi mồ, có thể dùng lại để xây cất. Tiền, tất cả đều là tiền, ngoại trừ những bộ xương, mảnh xương dược rửa sạch trước khi bỏ vào cái tiểu sành do thân nhân mang tới. Nhiều bộ xương chưa tiêu còn dính thịt da bầy hầy dậy mùi hôi đến phát khiếp. Những xác chết khó tiêu được khâm liệm trong bao ni lông dầy buộc chặt ngăn không khí. Nhưng khi bao được mở hơi xì ra, xác chết đột nhiên phồng lên rồi xẹp xuống, chảy nước màu gì đó coi kinh khủng, không hẳn màu bùn xám, màu máu mủ, xương thịt thối rữa. Những xương thịt đó bị dốc ra khỏi túi ni lông, được rửa sơ trong một vũng nước lớn, ném sang một bên. Ruồi nhặng bay như trấu, va đập vô tội vạ người đứng xung quanh. Những chiếc khăn bịt mũi trở nên vô ích. Những khăn tẩm dầu gió, dầu cù là càng trở nên vô ích hơn nữa, dậy mùi hơn. Có những người nôn oẹ. Nhưng họ vẫn lăn xả vào tranh nhau thu mua.
Bà chủ Ngọc Tũn là người có tiền và dầy dạn kinh nghiệm trong những việc mua bán như thế này. Chờ cho các bạn hàng nhỏ tranh cướp, thâu mua hết. Bà ra một giá cao nhất, mua mão toàn thể những bao ni lông vĩ đại của những bạn hàng nhỏ. Tôi nhìn những bao ni lông và nhận thấy quen quen. Rồi tá hỏa, thì ra thế, toàn là bao ni lông khâm liệm người chết, như những chiếc áo quan tráng chì kẽm mà tôi từng thấy thuở còn chiến tranh. Thuở tôi còn làm phóng viên chiến tranh chạy rong trên những mặt trận. Quá giang những chuyến máy bay C.130 chở xác tử sĩ từ Quảng Trị về Sài Gòn, sao bây giờ tôi mới nhận ra những bao ni lông ấy. Những kẻ khác vẫn làm việc vô tư nhiều bao còn nhầy nhụa thịt da. Có cả đội người đứng xua đuổi, đánh đập bầy chó đói chỉ toan đánh cắp xương. Tiếng bà chủ bên tai tôi:
- Chú vô sổ giùm tôi, tôi thâu mua được sáu trăm bảy mươi ba bọc ni lông. Cho nó chuyển lên xe lam của cơ sở mình. Tối nay chú cho điều động người giặt sạch, đừng tiếc xà bông, sáng mai cho phơi khô rồi nhập kho.
Tôi xây xẩm mặt mày, những tia nắng chiếu trên nghĩa địa loé lên thành hằng vạn ngôi sao. Tôi muốn ói. Bà chủ nhìn tôi:
- Mặt chú xanh quá, sao vậy?
Tôi dốc bi đông nước, uống ừng ực, nhưng tôi vẫn thấy chóng mặt, bây giờ hình như nhức đầu.
Tôi nói với bà chủ:
- Tôi bị trúng gió rồi.
Bà chủ đưa tôi chai dầu gió:
- Chú thoa đi, ờ thôi, chú cứ về, giao lại công việc cho thằng nhỏ.
Tôi loạng choạng leo lên xe đạp ra khỏi nghĩa địa đang bị đào bới trong cảnh hỗn loạn của phiên chợ trời về chiều. Cái oi bức, nồng nực của nắng tháng hai vùng nhiệt đới làm tôi muốn ngất xỉu. Trời ơi, cái giường của tôi, tấm ni lông khâm liệm người chết. Tôi đã nằm chung với ma quỉ bấy lâu nay. Vợ tôi đau ốm, cái bào thai cũng đau ốm lây. Bố đã lầm lẫn! Cả nhà tôi bị ma làm bấy lâu nay. Tôi phải đốt nó không phải trả thù mà trả lại những gì của người cõi âm, tôi khấn khứa. Tôi cuồng lên đạp xe, mà sao hai chân tôi cứ ríu lại Tôi ngã lăn trên đường.
1990
Thân phận ma trơi
Tập Truyện Ngắn
Trời trở mặt như trở bàn tay. Mới nắng đó rồi mưa đó. Trận mưa dai dẳng suốt từ ba giờ chiều đến tối mịt không ngớt.
Tôi không thể không về, không thể đứng mãi ở hàng hiên này với thùng đồ nghề sửa xe đạp lỉnh kỉnh. Ngoài kìm búa ra còn bơm, bàn vá ép và một cái giỏ đựng đồ ăn cho ngày hôm sau. Số đồ nghề nghèo nàn đó tôi không thể gửi ai được, bởi tôi chẳng còn tin ai, từ khi bị thằng khách hàng nhóc lừa lấy mất chiếc xe đạp
Cái thân tôi cùng khổ, tôi chán đời, không tin đời. Một mảnh đất lắm người mà cũng nhiều ma. Tôi lụi hụi ngồi sửa xe đạp một mình, từ sáu giờ sáng đến chập tối mới ra về, kiếm tiền mua kí gạo, chút mắm muồi về nuôi vợ và đứa con sơ sinh ở túp lều cạnh ao cá. Số tiền ít ỏi kiếm được của một tay thợ tồi, tay nghề thấp như tôi chẳng đáng bao nhiêu, mà chiều đến còn phải đóng góp tiền lời cho một tay cho vay nợ lãi chính là vợ một anh bạn thân của tôi, giúp đỡ bạn bè gặp cảnh nghèo khó.
Sau một thời gian dài tôi trả nợ mỗi ngày, tiền vốn vẫn còn nguyên, tôi chỉ trả nổi tiền lời. Tôi vẫn là một con nợ, con nợ kinh niên. Chiều đến, tôi ngồi nán kiếm thêm tí tiền còm về nuôi vợ con. Tôi chán đời nên uống rượu, tối về không bao giờ quên một xị đế cho mình.
Ngồi trong túp lều cạnh ao cá, uống rượu nhậu với mấy con tép kho muối, nghe tiếng ễnh ương kêu ngoài ao, nỗi sầu khổ dâng kín đầu óc, không giãi bầy nổi. Nó thấm vào máu tôi qua từng hớp rượu độc ẩm. Tôi sống không bạn bè, không đồng đội, không cả người thân. Ngoại trừ vợ và đứa con gái sơ sinh, nó nằm trong cái rổ, treo lên xà nhà thay cho võng, quấn tã bằng mớ giẻ rách.
Vợ tôi còn quá yếu sau ngày sinh nở thiếu thốn, nhưng cũng phải lết ra ruộng hái rau dại và mót tép sót ở những xe đầu tép dùng làm lương thực cho cá. Tranh cướp con tép với đám trẻ nghèo quanh xóm. Tòi uất hờn, hận đời, vừa đưa võng cho con vừa uống rượu. Nhìn vào mặt con mà khóc. Sự cay đắng không thể nuốt xuống, tôi thốt ra thành lời với vợ:
- Anh không thể không đóng tiền lời cho mụ ấy, nếu không nó xiết kìm xiết búa, lấy đồ nghề đâu mà kiếm ăn. Đã vậy còn bị công an dẹp lòng lề đường lấy mất bơm, bàn vá ép, phải lên tận phường chuộc, đóng phạt. Có được gạo ăn là do ngồi nán về muộn, nhưng lại gặp chợ vãn, mua gạo tiệm người ta đóng cửa không bán vì tưởng là thằng ăn cướp thừa cơ làm bậy.
Nhục ơi là nhục, tôi không buồn chán sao được.
- Nhưng anh uống ít thôi, anh nghĩ đến con của chúng ta chứ?
Tôi lại nhìn con, khóc tấm tức. Rồi đây tương lai con sẽ ra sao? Bố đã ngã ngựa rồi, bố kiệt sức, bố còn gượng dậy được không. Bố mòn mỏi, chán chường, tiêu sầu qua chén rượu.
Khi đó tôi thường nghe tiếng đàn Tây Ban Cầm và tiếng hát nữ của đôi vợ chồng bán vé số sống ngoài nghĩa địa gần ao cá vọng tới.
Đôi vợ chồng hàng xóm, chưa một lần tiếp xúc, anh chồng tật nguyền gảy đàn, chị vợ hát. Những bài ca về lính Cộng Hoà rẻ tiền mà hồi xưa tôi không thể chịu nổi, ghét luôn cả ca sĩ hát loại nhạc đó. Nhưng sao nay tôi lại thấy ngậm ngùi. Thương nhớ một cái gì đó không định hình. Một thuở nào tôi còn hành nghề viết văn làm báo, dự những đêm nhạc hội, khi thì ở tiền đồn heo hút nghe những bài ca của lính trong buổi phát thanh đêm, lời tâm anh êm dịu của Dạ Lan qua làn sóng điện.
Nay tôi là một anh già coi ao cá không lương. Được phép ở túp lều hai mùa mưa nắng quạnh hiu. Tôi hết thời, xa lìa nghề nghiệp sau nhiều năm tháng tù tội Đầu óc tôi mách bảo rằng tôi phải làm nghề sửa xe đạp kiếm ăn, nếu không chỉ có cạp đất. Đói khổ và trách nhiệm khiến đầu gối phải bò. Tôi đắp đổi qua ngày, dù với nghề sửa xe tôi chỉ là tay ngang.
Những đắng cay cuộc đời ngày nào đó sẽ thành sẹo trong đầu tôi. Như thương tật của người chiến binh lên da non, chai lỳ là sự đương nhiên của đời sống. Số phận xoay vần, định mệnh đã an bài.
Tôi suy nghĩ như thế qua trời mưa mù ngoài đường. Dù trời còn mưa, tôi cũng phải về. Mớ đồ nghề của tôi đã xếp gọn vào trong bao cát. Tôi địu nó lên lưng, đi bộ một quãng đường dài về lều ao cá.
Sắt thép có nặng trên vai, tôi nghĩ, cũng chưa nặng bằng thập tự giá Chúa vác lên đồi Golgotha. Tôi nặng nề đi dưới trời mưa, mua gạo, ít thức ăn và không quên xị rượu. Tôi nghĩ đến vợ và con, nàng cũng ngồi dưới mưa, trên đầu chùm miếng in lông ôm con vì lều bị dột. Ngọn đèn dầu leo lét, nàng giống như một con ma ngồi ru con, rũ rượi hốc hác. Vú nàng còn sữa cho con bú không? Sao nàng theo tôi để khổ thân như thế. Cái duyên chồng vợ này đi đến đâu, về đến đâu. Đứa con, hài nhi đang hòa nhập đời sống. Một tương lai mịt mù như mưa giăng bụi trên đường kia. Tôi rời con đường sáng đèn điện mưa giăng mờ, vào một con hẻm lầy lội, ngoằn ngoèo vang tiếng máy dệt. Xóm dệt gia công người Quảng Nam. Rời đi xa dần mớ âm thanh đều đặn và nhức nhối đó. Tôi đến khu nghĩa địa hoang.
Khu nghĩa địa đang bị giải tỏa, nhưng vẫn còn sót lại nhiều ngôi mộ xây kiên cố. Khu chôn người chết ấy lan đến tận bờ ao, nơi túp lều tôi đang cư ngụ. Từ phía sâu trong nghĩa địa, gạch vữa bị đập phá, xà bần ngổn ngang, cả những nắp ván thiên. Tôi nhìn thấy một ánh đèn vàng ệch, leo lét như bóng ma trơi, chỉ khác là đốm sáng đó không di động. Tiếng đàn Tây Ban Cầm và tiếng ca nữ từ đó văng vẳng vọng tới. Đôi vợ chồng tật nguyền dệt bài bản mỗi đêm để ngày mai đi bán vé số, dùng tiếng đàn lời ca mua vui cho đời. Thế nhân vơi sầu muộn mua giùm tấm vé số.
Tôi thấy đôi vợ chồng ấy nhiều lần đi lang thang qua chợ, tiệm cà phê, tiệm ăn uống. Chị vợ đi trước, giắt theo anh chồng cụt giò, mù, đi bằng một chân gỗ giả, nay đã mất bàn chân chỉ còn cái cọc chống xuống đất. Cái áo cải tạo rách tơi tả. Trên đầu đội cái be rê xẩm màu máu mà tôi không phân biệt được là loại be rê của Biệt Động Quân hay Nhảy Dù xưa kia. Có lẽ anh là chiến binh rồi thương phế binh của chế độ cũ. Nhưng tôi thắc mắc, sao anh lại mặc áo cải tạo? Tiếng đàn lời ca như ma tru quỉ hờn giữa vùng nghĩa địa điêu tàn đó hấp dẫn tôi. Tôi đi tới như bị ma am.
ánh đèn dầu, lời ca, tiếng đàn từ một nhà mồ song lập hắt ra. Trong mưa gió đêm hôm tôi vẫn nhận ra đó là một nhà mồ khá đẹp, xây gạch, tường granito, có chạy những đường hoa văn ghi số năm xây dựng, nhưng tôi không nhìn rõ.
Tiếng đàn lời ca bỗng im bặt. Chỉ còn ánh đèn vàng hiu hắt bóng hai người in lên tấm mộ bia lung linh như bóng quỉ.
- Em có nghe tiếng chân ai đó đi tới đây?
- Không đâu, có lẽ tiếng chân chó hoang.
Rõ ràng, người mù nghe không lầm mà em, anh có thể nghe được tiếng thở của một người, khác với tiếng thở chó hoang.
- Đêm mưa gió không thể có người nào tới nghĩa địa hoang này, ngoài vợ chồng mình. Tiếng người chồng cười hì hì, gấy lên một tiếng đàn:
- Ai đó ở ngoài cửa nhà mồ, xin mời vào nhà trú mưa.
Tôi tằng hắng, ho một tiếng bước lên bậc gạch. Tôi bước hẳn vào nhà mồ, hai vợ chồng thảm hại, họ như loài quỉ, người hủi bị cách ly đời sống:
- Tôi đây, không phải chó hoang, già ao cá tới thăm hàng xóm, được chớ ạ!
- Hân hạnh, xin mời ngồi, tìm viên gạch nào đó làm ghế. "Nhà tôi" không có khách viếng thăm bao giờ.
Tôi tháo đồ nghề Linh kỉnh đeo trên người bỏ xuống, đang muốn tìm vài viên gạch kê làm ghế thì người thiếu phụ đã mau mắn làm xong cho tôi mấy cục gạch cao vừa tầm với chồng.
Anh ta ngồi ở đầu mồ người đàn ông già mà tôi nhìn thấy hình trên tấm mộ bia. Quần áo tôi ướt lướt thướt, tôi ngồi xuống "ghế", dù sao cũng mới chỉ sơ giao, tôi cần tự giới thiệu:
- Tôi là người bảo vệ ao cá, tối nay đi làm về qua thấy "nhà" đèn sáng, nghe tiếng đàn tiếng ca tiện thể vào thăm anh chị. Mình là hàng xóm với nhau, lần đầu tiên tôi ghé thăm. Có gì phiền anh chị không? Người chồng mù đặt chiếc đàn lên trên mả, chiếc mũ be rê vẫn đội trên đầu. Tôi nhìn chiếc mũ có lỗ thủng ngay trước trán như lỗ đạn xuyên, bên cạnh là huy hiệu lính nhẩy dù. Anh mù mau mắn:
- ồ không, hân hạnh cho chúng tôi, lâu rồi không có bạn, nhà không có trà mời khách. Nhưng tôi có rượu, ông bạn dùng được chớ?
- Được mà, tôi cũng có một xị, miếng đậu hủ chiên chấm muối ớt đưa cay, mình ngồi với nhau được chớ?
- Vâng, vâng, hân hạnh, em đi thắp đèn lên để anh tiếp khách.
Người vợ đang ngồi bên lò than, nướng con khô. Chị nói:
- Thì đó, đèn vẫn sáng, có anh mù chớ có ai mù đâu
Anh mù chặc lưỡi cười:
- Tôi còn một mắt, nhưng cũng kể như mù hẳn rồi, tôi nhìn gì cũng chỉ thấy mờ mờ nên nhắm tịt lại luôn. Cứ coi mình là thằng mù lại khoẻ.
Chị vợ đã nướng xong con khô bốc mùi thơm lừng. Chị dọn đồ nhậu lên chiếc bàn gỗ bằng mảnh ván ọp ẹp. Tôi nhìn cái bàn thô sơ mà nghi ngờ quá. Tôi gõ gõ ngón tay lên gỗ, gỗ tốt. Anh mù nghe thấy:
- Một mảnh gỗ ván thiên đó, người ta đào mả lên láy xương cốt, quăng lại gỗ, tôi dùng làm bàn. Này em, sao không giải miếng ni lông nên cho đỡ gớm.
- Anh tha lỗi, anh làm khách ngại. Anh không biết giữ mồm giữ miệng gì hết.
Tôi đỡ lời chống chếch anh chồng:
- Không sao, tôi quen cảnh này mà, nhà tôi, cạnh ao cá dưới cây bạch đàn cũng có chiếc bàn đá bằng tấm mộ bia. Tôi thường ngồi đó uống rượu đêm trăng.
Mình sống chung với ma quỉ mà dễ chịu. Tuyệt diệu, nào chúng ta bắt đầu, nhưng trước hết...
Anh mù cầm ly rượu nhỏ đã được róc đầy đổ xuống đất, nói:
- Trước hết mời thổ thần và những hồn ma quanh đây về uống rượu với anh em ta đã..
Tôi cũng làm như anh. Ngoài trời vẫn mưa gió, tiếng sét nổ điện nhoang nhoáng trên bầu trời đen. ánh chớp làm tôi nhìn rõ mồ mả ngổn ngang và cây cối ngả nghiêng, túp lều của tôi cạnh ao cá. Tôi nghĩ đến vợ và đứa con sơ sinh của tôi, bé có giật mình khóc khi sét nổ không? Tôi ân hận:
- Ngồi chơi với anh chị một lát, còn vợ tôi và cháu nhỏ ở nhà..
- Anh ngồi chơi với tôi đã, cần thì vợ tôi sang bên đó với chị và cháu. Mình mới ngồi với nhau mà, đã có dịp nói chuyện gì đâu..
Tôi phải từ chối đề nghị đó, vợ tôi sẽ đứng tim nếu thấy người đàn bà hốc hác, gầy ốm tóc tai rũ rượi này hiện ra giữa căn lều hoang. Tôi nghĩ thế thôi, đâu dám nói ra sợ xúc phạm. Có thể trước kia người đàn bà này cũng có nhan sắc, nhưng nay thì giống ma quỉ. Cũng như tôi vậy, một con ma vất vưởng trên thế gian. Một đêm mưa bão những hồn ma hiện hình ngồi trong nhà mồ tụ tập uống rượu nói chuyện đời. Tôi nói:
- Thôi được chẳng dám phiền chị, tôi sẽ ngồi đây một lát.
Hai chúng tôi cụng ly, người vợ anh mù cũng tham dự tí chút. Chị nhắc nhở chồng:
- Kìa anh, lột cái mũ trên đầu ra chớ, đội hoài à...
Anh ta lột cái mũ rúm ró bẩn thỉu ra, cầm ở tay trái. Tự nhiên tôi lại nghĩ anh ta cầm dĩ vãng, kỷ niệm trong tay. Anh đã mất đi một chân, đôi mắt ở chiến trường nào đó trong đời binh nghiệp lỡ. Chỉ còn lại đây cái mũ có dấu đạn xuyên thủng. Anh phải đội mãi, dù đã tả tơi như chính cuộc đời anh bây giờ. Còn cái áo học tập cải tạo kia, tôi lại thắc mắc về nó. Cũng là dấu chấm đánh dấu những ngày tù tội của người chiến binh bại trận. Tôi không hỏi điều đó. Sự thắc mắc để nguyên trong đầu.
Tiếng mưa gió ngoài trời gợi cảm ma quái không thể để chúng tôi ngồi lặng thinh, uống rượu mà không nối gì với nhau. Tiếng anh mù âm âm:
- Tôi không thể quên được những đêm mưa gió trong chiến trận, chúng tôi vừa đánh nhau vừa truyền tay nhau bi đông rượu đế để nung chí anh hùng, ấm lòng chiến sĩ. Có thằng cha chưa kịp nuốt hớp rượu đã gục xuống bên súng. Máu rượu hòa chung cùng mùi thuốc súng làm thành mùi khó tả thế nào ấy, tôi không tả nổi.
Anh bạn mù xác nhận anh từng là chiến binh, coi chiến trận như trò đùa. Tôi hỏi:
- Anh từng là quân nhân chế độ cũ?
- Đúng vậy, một chiến binh cho tới trước ngày tàn cuộc chiến.
- Anh là thương binh sau đó?
Anh mù lắc đầu:
- Không, tôi bị bắt làm tù binh rồi sau đó đi học tập cải tạo khi ta hoàn toàn bại trận. Tôi bị cụt giò mù mắt trong lao động. Tôi cuốc trúng mìn, không chết nhưng tật nguyền như anh thấy đó. Vết thương lành, tôi ở lại trại chăn bò và coi đồi nghĩa địa một thời gian, tôi vẫn còn một mắt để tìm vợ. Được coi là học tập tốt tôi được trở về vợ tôi vẫn chờ đợi. Tôi không còn nhà trong khu gia binh nữa. Chúng tôi sống lang thang bằng tiếng đàn của tôi và lời ca của vợ. Mãi sau cùng tôi tìm ở nhờ được "nhà" này. Hai ông bà cụ chủ nhà cũng nằm đây. Thay vì trả tiền nhà thì chúng tôi nhang khói cho các cụ, ngày rầm đốt vàng bạc tiền âm phủ xuống cho các cụ tiêu xài. Vì nhà đẹp kiên cố nên người ta chưa giải tỏa đến, nhưng cũng đến thôi. Vợ chồng tôi chưa biết đi đâu. Nhưng được ngày nào hay ngày nấy, như đời sống mình vậy. Chúng tôi kiếm ăn từng ngày, từng bữa, chẳng xin xỏ ai hết. Đời sống bấp bênh nhưng thú vị. Thú vị nhất là tôi mù, không phải nhìn thấy đời. Bây giờ thì mù tịt rồi. Sống trong nghĩa địa này không nhìn thấy ma nên không sợ ma. Nhưng tôi nghe thấy ma nói chuyện, hỗn ma đồng đội tôi nói chuyện với tôi. Nhắc nhở lại những kỷ niệm và tình nghĩa, tôi chẳng đến đỗi quá cô đơn.
Anh mù vầy vò cái mũ be rê trong tay. Điều thắc mắc về một thương phế binh phải đi học tập trong tôi đã được giải tỏa. Có lẽ lâu quá rồi anh không được dịp nói chuyện với ai, ngoài vợ. Anh tâm sự tiếp:
- Như chủ nhân chiếc mũ này, trung sĩ Ninh, bạn tôi, anh chuyên đội mũ be rê khi ra trận, anh không đội mũ sắt, mặc áo giáp. Người anh nhẹ nhõm nhanh như một con sóc, quân trang anh mang trên người đơn giản tối đa, ngoài vũ khí cần thiết, bi đông rượu đế, cái be rê đỏ không bao giờ quên trên đầu. Anh nhìn thấy lỗ thủng cháy xém không? Một viên đạn trúng đầu khi anh xung phong. óc và máu anh đựng đầy cái mũ. Tôi giữ lại cái mũ làm kỷ niệm. Tôi đội nó và thường xuyên nghe hồn bạn tôi về nói chuyện lúc buồn phiền. Ngày tôi trúng mìn tưởng chết. Trong cơn mê loạn, tôi gặp lại bạn, anh nói tôi phải sống, sẽ trở về vì vợ tôi đang chờ đợi. Quả nhiên đúng như vậy.
Men rượu làm tôi hứng khởi:
- Tuyệt vời, hiện giờ thì anh đang nói chuyện với một con ma trước mặt anh, đang uống rượu với nó đấy. Anh có "nhìn" thấy không?
Anh mù tợp một hớp rượu, hố mắt sâu hoắm hướng vào tôi:
Có chứ, anh giống như một con ma thật. Quần áo rách rưới, lam lũ đầu bạc. Người ta gọi anh là lão già coi ao cá. Nhưng anh chưa già, vì giọng anh còn rất trẻ. Có hôm nghe anh ngâm thơ bên ao cá, có câu thơ như thế này: Chí chẳng thành, danh chẳng toại. Trai trẻ bao lâu mà đầu bạc. Trăm năm thân thương tà dương... Anh có đúng như tôi tả không nào?
Anh nói xong điểm nụ cười. Tôi nói:
- Đúng, anh tả tôi như một con ma rất đúng, chịu thầy.
Anh mù hứng chí nói tiếp:
- Đời sống anh bây giờ rất khổ, như vợ chồng tôi vậy. Tôi nghĩ trước đây anh không đến đỗi như thế. Tôi im lặng uống rượu. Anh ta đã tâm sự về cuộc đời anh. Tôi hiểu anh muốn tôi cũng nói về tôi. Tôi không thể không tâm sự khi đối diện với một con người thành thật, một con người hình thể đang biến dần thành con ma. Nhưng còn kết tinh được những tốt lành của con người.
- Tôi hiện đang giống một con ma như anh, sống vất vưởng trên dương gian, nửa là người nửa là ma. Đời sống này đã vùi dập tôi xuống tận cùng. Ngày nay thì thân tàn ma dại, có vợ và một đứa con sơ sinh. Tôi làm nghề coi ao cá, danh từ gọi là "nhân viên bảo vệ ao cá ". Tôi làm việc đó để lấy một chỗ ở, túp lều tồi tệ bên ao. Một ngày phải đẩy hai xe phân heo và đầu tép ở xưởng tôm đông lạnh dùng làm lương thực nuôi cá. Đầu tiên thì tôi hợp đồng làm việc có lương, chằng đáng bao nhiêu, nhưng sau người ta không trả lương nữa vì biết tôi đang cần một chỗ ở có bảo đảm phần nào do tôi là kẻ không hộ khẩu. Vì đói, tôi nhảy ngang ra nghề sửa xe đạp lề đường. Tôi thuộc loại thợ tồi nên kiếm ăn cũng chẳng khá, nuôi được vợ con bữa đói bữa no là may. Nghề chính trước kia của tôi là cầm bút, nhưng nay thì không dùng được nữa vì tôi hết thời roi.
Người bạn mù ngắt lời tôi bằng ly rượu mời:
- Tôi mù, tôi không nhìn thấy người nữa mà tôi chỉ nhìn thấy ma qua tâm anh. Những con ma đầy màu sắc. Anh là một con ma có mùi phân heo. Chúng ta là đồng đội, hai thằng đồng đội tật nguyền tìm đến nhau. Mưa gió và đêm đen xúi bẩy anh tìm tôi. Hai chúng tôi xiết chặt tay nhau rồi anh đưa tay quờ quạng tìm chiếc đàn. Chị vợ biết ý đưa đàn cho chồng. Tiện tay, anh choàng lên cổ vợ. Chị vợ ngồi dưới, nép vào cái chân cụt của anh. Giọng anh trạm trầm:
- Ngày đó ở một nơi chiến trường heo hút, có đoàn nữ sinh đi ủy lạo chiến sĩ, trong đó có một nữ sinh lên hát tặng chiến sĩ, tôi đệm đàn ghi ta. Chúng tôi cảm tình với nhau rồi thư từ qua lại. Khi về hậu tuyến, tôi cưới nàng. Nàng ở lại trại gia binh, tôi tiếp tục đi chiến đấu. Không dè đến hôm nay cũng lại tôi đàn nàng hát, dắt tôi đi khắp các ngả đường bán vé số, mang hy vọng cho người đời. Đúng là một nghiệp dĩ.
Anh mù bỗng thở dài, buông vợ, gẩy lên vài tiếng đàn lạc lõng, vô nghĩa:
- Anh nên về với chị và cháu, anh cứ đi, tôi đàn hát tặng theo anh một bản nhạc. Bản nhạc anh đã từng nghe và chắc anh thích.
Tôi từ giã hai vợ chồng, lội qua những vũng nước và mồ mả giải tỏa ngổn ngang gạch vữa cùng gai góc cỏ dại. Tiếng hát người mù đuổi theo tôi. Bài Chiều Mưa Biên Giới của Nguyễn Văn Đông. Chiều mưa biên giới anh đi về đâu? Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu Lòng trần còn tơ vương khanh tướng... Thì đường đời mưa bay gió cuốn... còn buồn anh ơi...
Những bước chân bì bõm lội làm nhịp cho lời ca.
Tôi về đến túp lều thảm hại. Mưa gió dai dâng, không biết bắt đầu cho một cơn bão hay bão rớt? Tiếng đàn lời ca theo mãi tôi vào giấc ngủ mệt nhoài. Lần đầu tiên và lần cuối cùng tôi gặp đôi vợ chồng mù.
Một lần tôi đi về khuya, không còn nghe tiếng đàn và lời ca nữa. Cả đến ánh đèn ma trơi trong nhà mồ cũng tắt ngủm. Khu nghĩa địa đã bị giải tỏa san bằng. Tôi lầm bầm nói. Mình không hẹn tái ngộ mà, có đúng không? Từ đó tôi không còn gặp anh mù đội be rê đỏ, thủng lỗ đạn cùng vợ đàn ca trên những nẻo đường nữa. Hai vợ chồng đó biến mất như ma. Một thời gian sau, vợ chồng con cái tôi cũng bị đuổi khỏi ao cá.
Câu chuyện đêm mưa chỉ đơn giản thế thôi. Hãy coi như chuyện ma quỉ hiện hình. Những con ma trơi nhởn nhơ trong đêm tối. Tôi kể lại trong cơn điên dại.
Người ta cho tôi nói xàm về thân phận ma trơi.
Nguyễn Thụy Long
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chị tôi

Chị tôi Hai bữa nay Sài Gòn hửng nắng, đường sá khô ráo đôi chút. Thật dễ chịu… Tôi buộc miệng với câu hát quen thuộc: “Nắng Sài Gòn anh đ...