Cái lưới 1
Phần 1
Vào một ngày mùa đông năm 19..., ông bà Hạ dọn đến biệt thự
Hoàng Hôn. Trong khi ông Hạ còn mải đốc thúc người nhà khuân hòm xiểng đựng quần
áo và những đồ dùng lặt vặt vào nhà, bà Hạ một mình lẳng lặng dạo thăm một lượt
tất cả các phòng.
Tuy đây là chiếc biệt thự xưa kia bà Hạ và các con thiết tha
mong ước được làm chủ, nhưng mọi công việc trông nom xây cất điều đình với kiến
trúc sư, đốc thúc thợ thuyền bà đã để mặc ông tự ý lo liệu. Nếu ông cố gặng:
"Mình đến ngó qua một chút! Thợ đương xây đến phòng
khách... Mình có muốn xây một chiếc lò sưởi thật lớn hay không? Đà Lạt vào mùa
rét lạnh lắm đấy!"
Bà chỉ lắc đầu, thờ ơ trả lời:
"Tùy mình quyết định!"
Tuy bận chỉ dẫn người nhà kê tạm những đồ đạc cồng kềnh, ông
Hạ vẫn kín đáo theo dõi những cử chỉ hơi khác thường của vợ. Ông băn khoăn tự hỏi,
lần đầu tiên bước chân đến biệt thự, bà Hạ nghĩ sao về cách kiến trúc, sự sắp đặt
các phòng và trang hoàng bên trong? Tự nhiên ông e ngại bà sẽ không hài lòng. Tự
bao giờ ông bắt đầu quan tâm đến ý kiến của vợ?
Sau một hồi hò hét các người làm, ông thấm mệt và ngồi nghỉ
trên một chiếc ghế bành rộng trong phòng khách.
Bà Hạ đang đứng trong căn phòng đáng nhẽ là phòng dành cho Di
– đứa con trai thứ nhì của hai vợ chồng – quay lưng về phía ông. Cửa phòng mở,
nên ông quan sát những hành động của vợ rất dễ dàng. Sau mấy phút trầm ngâm, vợ
ông đặt một bức ảnh lên bàn – chắc vừa lấy ở va li ra – lùi lại mấy bước và
ngây người ngắm nghía. Ngồi hơi xa nên ông khó nhận biết là ảnh ai.
Chợt bà Hạ đưa hai bàn tay lên ấp lấy mặt, hai vai rung nhẹ.
Vợ ông khóc, ông đoán vậy, vì sống bên nhau bao nhiêu năm, ông không còn xa lạ
gì lối khóc im lặng không một tiếng nức nở, đầy chịu đựng và nhẫn nhục của vợ.
Ông cảm thấy nửa như bực tức nóng nảy, nửa như lo lắng trước
những cơn khóc lóc, rầu rĩ bất chợt của vợ trong những năm gần đây. Sức khoẻ của
vợ ông cứ theo ngày tháng mà kém sút. Trước kia không hiểu sao ông có thành kiến
vợ ông không bao giờ có thể ốm được. Từ khi lấy ông, đẻ con, qua thời kỳ gia
đình tản cư và trở về Hà Nội sa sút đi, bà Hạ không lúc nào ngừng tay chân, làm
lụng quần quật, xoay xở vay tiền, nhưng hiếm khi ốm.
Các con ông Hạ thường đùa me:
"Me không biết đau gì! Làm thế nào me ốm được nhỉ?"
Nhưng sau cái chết của Di, bà Hạ không còn được như xưa. Thân
hình đẫy đà sút hẳn, làn da không còn trắng hồng, dáng đi chậm chạp nặng nề và
đôi mắt to đã sâu lại sâu thêm.
Ông đứng dậy nhẹ nhàng lại gần vợ. Ông đến sát sau lưng mà bà
không hay biết. Nhìn qua vai bà, ông nhận ra người trong ảnh là Di.
Chân ông đột nhiên trùn lại. Ông muốn lùi bước. Trong ngày
theo ý ông, đầy vui vẻ và khoái hoạt này, ông không muốn nghe những lời trách
móc và đối diện với khuôn mặt u tối của vợ.
Bà Hạ quay đầu lại, nhìn thấy ông. Trong một giây ngắn ngủi,
ông Hạ bắt buộc phải nhìn thẳng vào cặp mắt đầy trách móc và oán hận chưa kịp
che giấu của vợ.
Bà Hạ quay mặt đi lấy khăn lau nước mắt. Hai vợ chồng im lặng
một phút. Đoạn ông đằng hắng, giọng nói làm ra vẻ cứng rắn, thản nhiên:
"Mấy cái thằng phu thật đổ đốn! Mình có thấy thiếu chiếc
hòm nào không?"
Bà Hạ không đáp. Ông vội vã ra khỏi phòng không quay mặt lại.
Suốt trong ngày, ông tránh ngồi lâu một mình cạnh vợ. Ông
tránh một trận cãi nhau giữa hai vợ chồng. Tâm tính vợ ông không còn giản dị
như xưa. Bà có thể tức giận, gây chuyện với chồng gì những lý do không đâu. Một
vài khi, những lời trách móc chua chát từ miệng bà Hạ thốt ra, khiến ông sửng sốt.
Những nguyên nhân thầm kín nào đã biến chuyển tâm hồn vợ ông đến thế?
Sau bữa cơm tối, ông Hạ ngồi đọc sách, bà Hạ ngồi ở divan gần
bên. Thói quen đọc sách từ bao năm nay ông không hề bỏ. Chiếc biệt thự rộng yên
lặng lạ lùng. Tiếng các trang sách ông dở nghe rõ mồn một.
Một tham vọng nữa của ông Hạ đã thành sự thật: Ông hiện là chủ
nhân một chiếc biệt thự lớn, đầy đủ tiện nghi. Ông không còn phải lo đến việc
kiếm tiền. Hai vợ chồng có thể sống đến già mà vẫn giữ được một mức sống khá
cao.
Nhưng, những căn phòng bày biện sang trọng và không người ở
trong biệt thự làm giảm hẳn sự kiêu hãnh của ông. Các con ông đâu? Bên phải là
phòng dành cho Tô – đứa con cả của ông bà – còn bên trái là những phòng của Lan
và Di. Tại sao các con ông lại đã đều rời bỏ gia đình, cách này hay cách khác?
Bà Hạ đang mải mê đọc mấy bức thư mới nhận được. Chắc là thư
của Tô và Lan. Một chiếc ảnh nhỏ lọt khỏi mấy tờ thư, rơi xuống đất. Bà cúi xuống
nhặt lên và ngắm rất lâu. Bà mỉm cười, nụ cười hiền dịu âu yếm đầu tiên trong
ngày xuất hiện trên mặt bà. Bà Hạ hình như có chuyện muốn nói với ông. Ông chờ
đợi, mắt không rời khỏi trang sách. Nhưng bầu không khí yên lặng trong phòng vẫn
tiếp tục kéo dài.
Ông giận dữ dỡ mạnh liền mấy trang sách và ho khan mấy tiếng,
như muốn nhắc nhở là ông đang ngồi đây. Tại sao vợ ông không nói một lời nào?
Thà rằng hai vợ chồng cãi nhau còn hơn ngồi bên nhau mà xa cách hàng vạn dậm, mỗi
người theo đuổi một sự suy tưởng riêng biệt. Vợ ông không có quyền giữ riêng những
thư của các con, đọc một mình. Chúng cũng là con ông, sao bà lại quên điều đo?
Nhưng suy đi nghĩ lại ông thấy thầm trách vợ như vậy cũng có
phần bất công. Thư chúng ông đọc làm chi; khi mà ông còn nhất định cấm cửa
chúng, không cho phép trở về với gia đình.
Đêm đã khuya. Ông bà Hạ sửa soạn đi ngủ. Bà loay hoay mặc chiếc
áo ngủ bằng hàng bông điểm những cành hoa nhỏ, cắt theo lối âu phương, cổ áo viền
đăng"ten xanh nhạt. Chiếc áo này và một chiếc khác mầu hồng nhạt đều đã
cũ, nhưng đi đâu bà cũng mang theo và nếu không mặc lên người thời khó mà ngủ
yên giấc.
Chính tay Lan đã vẽ kiểu và may những áo ngủ đó cho mẹ. Hồi
công việc doanh thương của ông thua lỗ, cả gia đình phải sống chen chúc trong một
căn nhà nhỏ hẹp không tối nào Lan không chui vào giường mẹ, nằm trò chuyện cho
đến khi ông xem sách xong và kỳ kèo mẹ phải mặc chiếc áo ngủ hơi kỳ khôi cho bằng
được. Lan viện cớ:
"Me mặc áo ngủ con may trông quý phái lắm. Trông mặt me
chung quanh tóc lõa xõa con thú ghê."
Lan thường trò chuyện với hai anh là nó muốn luôn luôn được
ngắm khuôn mặt thanh tú của mẹ nổi bật trên gối trắng và màu hồng xanh nhã nhặn
của áo ngủ. Mới đây ông đã có lần càu nhàu:
"Sao mình không vứt mấy cái áo ngủ rách nát đó đi. Dễ
thường tôi không đủ tiền may cho mình áo mới hay sao?"
Bà đáp ngay, giọng hơi sẵng:
"Mình để mặc tôi…!"
... Và rồi lẩm bẩm một mình:
"Áo mới mua dễ, nhưng ai mua được con gái."
Ông Hạ cứng họng không biết đáp ra sao.
Ông Hạ mang sách vào giường đọc thêm. Ánh đèn không làm bà
khó ngủ. Hồi mới lấy nhau vợ ông chỉ ngủ dễ dàng trong bóng tối hoàn toàn,
nhưng nể chồng nên cũng đã phải tập ngủ dưới ánh đèn sáng cho quen. Bây giờ
trái lại nếu không có ánh đèn nhẹ, bà lại hay mê hoảng.
Bà Hạ giở tập ảnh gia đình ra xem một lúc đoạn thiếp ngủ lúc
nào không biết.
Ông đặt sách xuống đùi, nhặt mấy chiếc ảnh vợ bỏ rơi xuống ngực,
định cất vào ngăn kéo bàn ngủ, nhưng rồi không hiểu sao vẫn giữ chúng trên tay
ngắm nghía rất lâu. Đó là những bức ảnh chụp các con hai ông bà qua nhiều thời
ký: Hồi chúng còn nhỏ, khi đến tuổi bắt đầu lớn và cả những bức chụp mới đây
khi chúng đã trưởng thành.
Hình như ông nghe thấy vài tiếng động nhỏ ở đâu đây: Có lẽ là
những tiếng cười ròn rã của con trẻ, tiếng cười đùa văng vẳng, lẫn lộn với những
tiếng khóc thút thít thật dễ thương.
Ông lắc đầu mạnh và tỉnh hẳn. Óc tưởng tượng vừa đánh lừa
ông: Đấy chỉ là một giấc mơ.
Thực tại trần trụi khiến ông choáng váng: Chỉ có ông và vợ sống
lủi thủi trong toà biệt này, hai vợ chồng già và cô độc.
Dầu ông muốn hay không, tất cả những kỷ niệm xưa cũ, hoặc
không xa lắm trong thời gian lại vụt trở về, tràn ngập tâm hồn ông. Ông thở
dài, hạ cặp kính lão xuống, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng trời tối đen ngoài
khung cửa sổ. Dĩ vãng! Ông không sợ đối diện với dĩ vãng, nhưng ông đâu ngờ dĩ
vãng lại có thể khiến ông xúc động đến thế.
Giai đoạn đầy rẫy những thay đổi quan trọng và đau thương của
gia đình ông Hạ bắt đầu ngay sau khi hai vợ chồng ông và các con hồi cư về Hà Nội
vào năm 194...
Hồi V.M. đảo chính, nắm chính quyền, hai đứa con trai ông –
Di và Tô cũng tham sự những đoàn thể thanh niên và cũng sống ồ ạt, sôi nổi
không khác những đứa trẻ cùng tuổi. Công việc làm ăn khó khăn buổi giao thời
không cho phép ông Hạ có thời giờ chăm sóc con cái về mặt giáo dục cũng như
tinh thần.
Chiến tranh bùng nổ. Gia đình ông bà Hạ tản cư về quê nội
cách Hà Nội khoảng gần 20 cây số. Sau gần hai năm trời di chuyển từ vùng này
sang vùng khác, số tiền dự trữ cạn hết. Hai vợ chồng cũng không tìm nổi cách gì
để kiếm sống nuôi một gia đình năm miệng ăn.
Tuy ông từ trước đến nay, không hề tham dự trực tiếp hay gián
tiếp vào một phong trào hay đảng phái chính trị nào, nhưng vì mấy người anh ruột
của bà Hạ đều là những cấp lãnh đạo trong V.N.Q.D.Đ., nên các ủy ban kháng chiến
tại làng ông bà cư ngụ vẫn ngấm ngầm theo dõi để mắt tới mọi hoạt động dù nhỏ
nhặt nhất của gia đình ông Hạ. Gia đình ông bà luôn luôn sống trong sự lo ngại
phập phồng và không dám ở lâu tại một làng nào nhất định.
Cho đến ngày, ông bà Hạ rồn rập tiếp được những tin tức đen tối,
người anh thứ hai của bà vừa bị V.M. bắt đem đi, anh cả – một công chức cao cấp
trong chính phủ hồi Pháp thuộc cũng như hồi V.M. – cũng bị ngầm mang đi an trí
và giam lỏng, còn người vợ và đứa con trai cả của anh Bằng vừa bị V.M. bắt giam
cách đây mấy ngày; hai vợ chồng sau một đêm bàn bạc suy tính, đành phải quyết định
tìm cách trở về thành càng sớm càng hay.
Về Hà Nội nhà xuất bản trước kia ông Hạ hùn vốn và đồng thời
làm quản lý bị đốt cháy tan tành. Người chủ chết trong cuộc chiến tranh. Tạm thời
ông Hạ phải nhẫn nhục làm thư ký cho một hãng buôn ngoại quốc để chờ thời cơ. Cả
gia đình chỉ còn trông cậy vào số lương quá ít ỏi của ông để sống. Đang quen với
một mức sống vật chất tương đối sung túc, những sự túng thiếu không thể tránh
được trong thời kỳ này ảnh hưởng đến tâm tính ông không ít.
Tuy ông cũng cố hết sức xoay xở tìm lối thoát, nhưng vốn
không có, bạn hữu cũ đều thất lạc, ông đành bó tay. Làm một thư ký quèn, nhiều
khi ông Hạ tưởng điên lên vì phải chịu lụy những kẻ trước kia chỉ đáng làm công
cho ông.
Càng cảm thấy bất lực trong việc kinh doanh xây dựng lại sự
nghiệp, ông càng trở nên gay gắt và khe khắt hơn đối với gia đình. Hễ đi làm về
là ông gắt gỏng, hậm hực với tất cả mọi người – không kể một ai.
Ông Hạ luôn luôn lấy sự nghèo khổ ra làm đầu đề, phóng đại nó
lên. Ông cũng cố ý hạ mình xuống để làm nổi bật sự nhục nhã chung của gia đình.
Tuy thừa biết vợ con rất sợ phải nghe những lời lẽ thô tục,
mai mỉa độc ác của ông, nhưng hễ cứ ngồi nung nấu những tư tưởng đen tối và
chua chát, chỉ một lúc sau chính sự bất mãn của ông làm ông say lên và ông bật
nói rất lớn. Tuy nhiên ông vẫn còn đủ bình tĩnh để chọn lựa những câu nói cay đắng
và thấm thía nhất.
"Tôi nói cho mà biết! Chưa ăn thua gì đâu. Bây giờ còn
miếng cơm mà ăn là phúc lắm. Tôi thì tôi quen rồi. Từ bé tôi đã hiểu thế nào là
thân phận một kẻ nghèo hèn. Nhưng nói đến đời tôi làm gì, tôi đâu có đáng kể...
Sinh ra chỉ làm đầy tớ và lo lắng nuôi sống mọi người. Phải! Có ai lo đến kiếm
ăn bao giờ đâu mà biết cuộc sống chật vật ra sao. Sinh ra đã được chiều chuộng,
nưng như nưng trứng hứng như hứng hoa. Đã có người lo việc tiền nong... Hà! Tiền!
tiền đâu mang lại hạnh phúc. Đúng lắm! Đẹp lắm! Cao thượng lắm! Chỉ đời sống
tinh thần mới đáng kể. Giá tôi có hơi chút mắng mỏ đe nẹt, các ông con của tôi
đã cho tôi là ác nghiệt độc tài..."
“Mà thôi nói làm gì nhiều vô ích. Có ai thèm nghe tôi đâu.
Đành vậy, số tôi còn phải khổ nhiều. Nhỡ một cái tôi chết đi. Chết có lẽ lại
may, đỡ phải lo kiếm tiền...”
Ông lấy cớ nhà không đủ tiền nuôi người ở, bắt các con phải
làm đủ mọi việc. Ông cũng hay nhắc đến dự định trong tương lai cắt ngang mọi việc
học hành của các con và bắt chúng đi làm sớm hầu giúp đỡ gia đình. Ông nêu ngay
đời ông làm thí dụ.
“Học nhiều mà làm gì. Có bao nhiêu vĩ nhân lúc trẻ con nhà
nghèo khổ nên phải làm những nghề hà tiện làm bồi, bán báo... Tao đây cũng thế!
Tao có bằng cấp gì đâu, sao ra đời ai cũng kính nể. Học như con vẹt, nhồi vào đầu
óc toàn lý thuyết chỉ làm mụ người đi và đảm óc phấn đấu.”
Ông không quên kể lại, lần này là lần thứ mấy mươi, quãng đời
thơ ấu vất vả của ông. Để nêu gương khắc khổ, ông không hề nhếch miệng cười, bỏ
hẳn sự ham mê mua và đọc sách báo. Những ngày lễ và chủ nhật ông cũng nhất định
không đi đâu và cũng không tìm những cách giải trí không mấy tốn tiền như uống
trà, sưu tầm tem thư hay hội họp với một số bạn đồng sở nói chuyện gẫu cho
khuây khoả.
Vào năm ấy, những người buôn bán rau cỏ, thực phẩm tập họp tại
bờ hồ Hoàn Kiến, ngay cạnh ngã tư Tràng Tiền, làm thành một cái chộ lộ thiên ở
ngay trung tâm thành phố. Chẳng biết vợ con ông bàn nhau ra sao, nhờ vớ được mấy
bao tải lá vối và một số sách cũ, tại mấy căn nhà bỏ hoang cùng phố, Di đột
nhiên trở thành một chú bé bán nước và sách ở chợ.
Các bà các cô bạn hàng dần dần quen với khuôn mặt trắng trẻo,
đẹp trai của “cậu hàng nước”. Tính hay ngượng, Di có một lối bán hàng rất kỳ
khôi. Suốt buổi chợ, Di ngồi chúi mũi vào một cuốn sách, không mảy may quan tâm
đến việc bán hàng. Có khách muốn uống nước, Di miễn cưỡng múc nước chè ra bát,
mắt vẫn không rời trang sách. Ai muốn trả bao nhiêu thì trả, Di không hé miệng
kì kèo.
Đôi khi, mấy bà mau mắn không muốn làm phiền Di, tự tiện lật
bát, múc nước, đặt tiền trả trên giá hàng, Di cũng mặc. Tiền lãi kiếm được cũng
tạm đủ để bà Hạ mua thêm ít món ăn cho bữa cơm gia đình bớt phần đạm bạc.
“Cậu hàng nước tài tử thường là đầu đề cho những câu chuyện
khôi hài, cười ra nước mắt, của bà Hạ và các con. Riêng ông Hạ, ông bất mãn ra
mặt trước thái độ coi việc buôn bán như một trò chơi của vợ con.
Khi số lá vối dự trữ cạn hết, ông Hạ đã tưởng câu chuyện buôn
bán của vợ con chấm dứt luôn ở đây; thời đến một hôm, trong bữa cơm, Tô tự
nhiên đề nghị:
"Ba! Me và con định bắt đầu đi buôn kể từ ngày
mai."
Ông ngạc nhiên, cau mày nghiêm khắc nhìn Tô và vợ. Bà Hạ mà định
đi buôn?
"Me mày thì buôn cái gì. Từ bé đến giờ ăn sung mặc sướng,
buôn bán chịu đâu nổi cực nhọc. Mà...bây giờ buôn cái quái gì lời lãi cho được.
Vốn đào ở đâu?"
Tô đỡ lời mẹ:
"Me đã vay được ít tiền vốn và dự định buôn rau cỏ, gạo,
gà vịt ở vùng quê mang về Hà Nội bán. Mấy bà ở chợ nói rau quả hiếm, nên bán rất
được giá."
Ông vặn hỏi:
"Đã xin được giấy phép chưa? Có mối bán không..."
Trước những câu trả lời gẫy gọn, đâu ra đấy của vợ và Tô, ông
Hạ cảm thấy cay đắng, bực bội và thầm suy luận “À ra thế! Vợ con ông định buôn
bán vì cho rằng ông không kiếm đủ ăn cho gia đình. Tại sao vợ ông không chịu
đem bàn trước với ông. Vợ ông không còn tin tưởng vào ông?”
Ông im lặng ăn. Ông biết mọi người đang hồi hộp chờ đợi phản ứng
của ông nhưng ông kéo dài giây phút chờ đợi. Ông cảm thấy đầy sức mạnh. Tuy vậy,
ông không phản đối và cũng không nổi giận, ngửng đầu thản nhiên bảo:
"Được nếu mình đã tính toán kĩ càng hơn thiệt, mình cứ
việc đi buôn. Càng hay! Tô chút nữa mang giấy tờ ra đây, ba viết cho lá đơn xin
giấy phép thông hành."
Tất cả mọi người đều sửng sốt chưng hửng. Riêng Tô, sau giây
phút ngạc nhiên ban đầu, yên lặng nhìn ông dò hỏi, ánh mắt thoáng nghi ngờ.
Không ai hiểu được sự ưng thuận của ông Hạ có ẩn dấu một chủ
ý thâm hiểm như thế nào.
Trong mấy tháng đầu việc buôn bán của bà Hạ có vẻ phát đạt rõ
rệt. Ông Hạ là người ngạc nhiên hơn ai hết. Vợ ông thạo buôn bán? Ông tưởng vợ
ông chỉ có thể là một người vợ, người mẹ kiểu mẫu. Ông tự hỏi tại sao vợ không
bỡ ngỡ, lầm lỡ khi phải tiếp xúc giao dịch với những con buôn quỷ quyệt.
Ông xin nghỉ việc một hôm, đi theo vợ xem buôn bán ra sao. Đi
đâu ông cũng thấy vợ được mọi người vì nể một cách đặc biệt. Đứng giữa đám người
buôn bán chuyên nghiệp, vợ ông và Tôi nổi bật hẳn lên. Khuôn mặt thanh tú của
bà Hạ, thân hình giong giỏng cao hai bàn tay ngón dài chưa bao giờ phải dùng tới
để khuân vác của Tô, khiến mọi người lưu ý bàn bạc. Họ kháo nhau, phỏng đoán
thêu dệt rất nhiều chuyện về bà Hạ. Nào bà là con nhà gia thế, trước chiến
tranh rất giàu, tản cư về gia sản khánh kiệt nên phải buôn bán nuôi con v.v...
Họ quan sát bà, tò mò nhưng rộng lượng. Họ cười khi thấy bà vụng
về hớ hênh trong việc mặc cả, thương lượng. Họ chỉ dẫn cho bà những mánh lới của
các con buôn thiếu lương tâm. Dần dần, bà Hạ cũng tìm được một số mối hàng
quen.
Khi lên tàu xuống tàu, ông Hạ lưu ý thấy rất nhiều người
không nề hà giúp bà bốc hàng lên hoặc rỡ xuống. Vợ ông chỉ biết cám ơn họ bằng
những nụ cười. Họ tỏ vẻ hài lòng ra mặt.
Một buổi tối, bà Hạ và Tô đi buôn về, mọi người thấy mặt Tô đầy
những vết tím và trán xưng lên. Trong bữa cơm ông hỏi tại sao, Tô đáp ngay:
"Bị ngã tàu đấy!"
Bà Hạ tủm tỉm cười, liếc nhìn đứa con cả. Ông nghi ngờ vặn hỏi:
"Mình! Có thật nó ngã tàu không? Me con mày dấu tao chuyện
gì đây."
Lan sờ sờ cái bướu trên trán anh, ngây thơ:
"Ngã tàu thời phải gãy chân tay chứ đâu sưng trán."
Ông gắt:
"Tô! hay ai đánh mày? Nói cho tao biết để tao còn liệu
can thiệp chứ!"
"Mình đừng mắng Tô! Nó bênh cô Khanh nên bị thằng đội
Tây ở đồn đánh cho đấy!"
Khanh là tên một cô bạn buôn bán của bà Hạ, goá chồng nhưng
còn trẻ và xinh đẹp nên hay bị tên đội Tây theo đuổi tán tỉnh. Ông Hạ vừa bực
mình vừa cười thầm Tô trong bụng: Máu con ông cũng nóng và bướng bỉnh, lại hay
quyến luyến gái đẹp chẳng khác gì ông hồi trẻ.
Ông mỉa:
"Anh hùng nhỉ? Gặp thằng hung dữ, có phen nó đánh cho
què cũng chẳng biết kêu ở đâu. Thời này ấy mà."
Vẻ mặt Tô xầm tối, nhưng nó vẫn lầm lì không cãi lý với cha.
Công việc buôn bán nặng nhọc, sức chịu đựng của bà Hạ cũng có
hạn. Bà xanh và gầy trông thấy. Tuy vậy vợ con ông Hạ vẫn nhất định đeo đuổi
buôn bán.
Mấy tháng sau, số người đi buôn tăng lên, mối lời ít. Những
con buôn khôn ngoan dần dần chuyển sang buôn đồ lậu: Thuốc tây, dầu hoả. Bà Hạ
một phần không đủ vốn, một phần không có gan kiếm lời một cách nguy hiểm, nên
tuy việc buôn bán rau quả chưa đến nỗi thua lỗ, ăn lạm vào số vốn, nhưng lời
lãi chẳng được bao nhiêu:
Một buổi tối ông Hạ bảo vợ và Tô:
"Trước đây tôi ưng thuận để mình buôn bán là cốt ý để
mình quen với đời sống chật vật. Tôi cũng thừa biết lời lãi không mấy, chẳng bỏ
công. Đã đến lúc mình nghỉ ở nhà đi thì vừa. Dạo này tàu hoả hay bị giựt mìn.
Nhỡ một cái rồi ra hối không kịp."
Bà cúi đầu im lặng, khuôn mặt hốc hác thoáng vẻ thấy vọng, buồn
rầu. Ông Hạ đoán vợ chắc cũng đã nhiều lần cân nhắc, suy tính nên bỏ hay tiếp tục
buôn bán.
Còn đương lưỡng lự chưa quyết hẳn bề nào, thời mấy ngày sau một
tai nạn xảy đến cho bà Hạ, khiến bà đành nghỉ hẳn ở nhà. Tàu hoả bị giật mìn và
bà bị thương ở chân.
Khi Tô về báo tin xấu, ông hốt hoảng hỏi:
"Có nặng không? Me bị thương ở đâu?"
Tô vội đáp:
"Không sao đâu ba ạ! Me được đưa ngay đến nhà thương và
bác sĩ có nói với con chân me chỉ phải bó bột và nằm dưỡng bệnh vài tuần là khỏi."
Yên tâm và biết chắc vết thương không trầm trọng mấy, nên suốt
thời gian cùng Tô đi đến nhà thương, thái độ ông Hạ nghiêm khắc và lạnh lùng.
Tô đi bên ông lặng lẽ. Cách đó hai, ba hôm, Tô đã cãi lại
ông:
"Ba luôn kêu ca nhà thiếu tiền và muốn các con đi làm.
Đi buôn dù không lãi nhiều nhưng cũng giúp được gia đình phần nào. Tại sao ba
không chịu? Theo ý con, cứ tiếp tục đi buôn cho đến khi hoàn toàn không lãi nữa
mới thôi."
Ông Hạ cũng tự biết, vì đã tỏ ra coi thường sự cản ngăn của
ông nên vào giây phút này con trai ông đành câm miệng hến. Ông cũng không cần
lên tiếng trách móc, hoặc mỉa mai cay độc. Cái chân bị thương của chính bà Hạ
chắc cũng đủ dạy cho Tô một bài học cụ thể và đích đáng.
Vừa bước chân vào phòng vợ ông nằm ở nhà thương, bà ã vội nói
ngay, giọng e dè và ngượng ngập:
"Tôi không sao đâu, mình đừng lo. Chỉ phải nằm đây ít
lâu."
Ông yên lặng. Vợ ông thu hết can đảm tiếp:
"Mình...! Tôi xin mình đừng mắng Tô tội nghiệp. Tại tôi
ham mấy món lời. Và...cũng chính tôi xui nó cãi lại mình. Vả lại... Tôi vừa nhất
định sẽ thôi đi buôn, sau khi ra nhà thương... Ông đáp ngắn ngủi:
"Thế cũng phải! Dạo này mình gầy đi nhiều. Lãi chẳng thấy
đâu, đã thấy ốm với què."
Bà Hạ thở dài. Cặp mắt đầy thương xót hướng về phía Tô, đang
đứng tựa vào thành cửa sổ nhìn ra ngoài trời, quay lưng về phía hai vợ chồng
ông bà Hạ.
Sau khi bà Hạ rời nhà thương về nhà, không ai bảo ai, bà và
các con đều tránh không đề cập tới chuyện làm ăn buôn bán.
Việc chi tiêu trong gia đình từ đó trở đi hoàn toàn ông Hạ nắm
giữ. Vợ ông không dám phản đối. Tô và Di, dù muốn hay không, cũng vẫn phải tuân
theo những quyết định độc đoán của ông về mọi vấn đề. Trong khi chờ đợi ông kiếm
cho chúng mỗi đứa một việc làm thích hợp, ông cho chúng theo học một trường
trung học công lập. Tuy vậy thỉnh thoảng ông cũng không quên nhắc nhở chúng đừng
quên đó chỉ là một đặc ân. Ông sẽ bắt chúng thôi học ngay, nếu chúng dám cãi lại,
hoặc chống đối với ông.
Ông Hạ vẫn ngày hai buổi đi làm và nhẫn nhục chờ thời.
Năm năm qua. Ông Hạ xin được một chỗ làm tại một công sở. Số
lương cũng tạm đủ cho sự chi dùng của gia đình. Tô và Di thay đổi hẳn. Chúng đã
vượt qua tuổi thiếu niên đầy phức tạp và bắt đầu bước chân vào quãng đời thanh
niên. Lan càng lớn càng xinh đẹp và giống mẹ hồi trẻ.
Hai đứa con trai ông Hạ càng lớn, ông càng chua chát nhận thấy
những thay đổi trong tâm tính chúng không hợp với sự mong muốn của ông chút
nào.
Riêng Di, chỉ trong có mấy năm nó đã gây cho ông bao nhiêu buồn
phiền thất vọng. Di không sợ và kiêng nể ông như hồi còn nhỏ. Di không hề giấu
diếm che đậy lòng oán ghét bố của hắn. Hắn không để lỡ bất cứ cơ hội nào để chứng
tỏ bằng hành động, lời nói: Hắn phủ nhận trọn vẹn quan niệm sống của ông Hạ.
Làm thế nào để uốn nắn Di. Đánh hay chửi mắng? Không lẽ Di đã 17, 18 tuổi cao lồng
ngồng mà ông còn đánh nó như một đứa trẻ.
Ngay từ hồi nhỏ, Di cũng đã tỏ ra có một tâm hồn rất dễ xúc cảm
và một óc tưởng tượng quá phong phú. Rất dễ khóc và cũng rất dễ cười. Vì không
muốn con trai tâm tính ủy mị và đàn bà nên ông Hạ hay mắng – “Con trai gì động
tí thì khóc. Mày sinh ra làm con gái đúng hơn”. “Khóc! Khóc mà kiếm được cơm ăn
à? Hồi tao bằng tuổi mày tao đã kiếm được tiền rồi”.
Về thể chất, Di giống mẹ nhiều hơn là bố: Đôi mắt sáng to,
lông mi dài và cong, nét mặt đầy đặn và đường môi thanh tú, làn tóc mềm sõa
trên trán rộng. Các bà rất ưa Di, hay nưng niu và cho quà. Thấy Di được nuông
chiều quá đáng, ông bất mãn. Ông không trách vợ, đàn bà nào chẳng chiều con,
nhưng ông đổ nỗi bực bội vào đầu Di: “Con trai sao cứ quấn lấy mẹ! Phải cứng rắng
mạnh bạo chứ”.
Di sợ những hành động mạnh và có tính cách áp chế. Nó hình
như không thể nào hiểu nổi tại sao trẻ con lại thích hợp thành bè phái, bắt nạt
và đánh nhau. Tô hay phải bênh vực Di chống lại những đứa trẻ không ưa giáng dấp
như con gái của em. Khi Tô một mình đánh nhau với hai ba đứa trẻ, Di đứng ngẩn
người, mắt mở to đầy ngạc nhiên và cũng không hề nghĩ đến chuyện tiếp tay với
anh.
Về nhà, bà Hạ lấy cồn soa bóp những vết xưng trên trán và tay
chân Tô, Di còn hỏi những câu thật chướng tai, “Tại sao chúng lại đánh anh Tô hở
me? Tại sao trẻ con thích đánh nhau? Di kinh lắm! không bao giờ Di đánh ai đâu
me ạ!"Trước thái độ ông cho là hèn nhát của Di, ông Hạ quát lên: “Sao mày
hèn thế? Chúng nó xúm lại đánh anh mày mà mày để mặc à? Tay chân mày để đâu...?
Hừ! Nhớn lên thằng Tô cho làm quan võ được. Còn thằng Di? bộ mày suốt đời chắc
chỉ quanh quẩn xó nhà bám váy me. À! Hay đi đóng tuồng giả làm con gái được đấy”.
Di sợ những lời chế giễu cay độc của bố hơn cả bị đánh mắng.
Bà Hạ lắm khi thấy ông cứ nhắm vào đứa con thứ nhì làm tình làm tội, lên tiếng
bênh: “Sao mình ác thế! Mình không biết nó khổ sở khi mình mang nó ra làm trò
cười hay sao? Di hãy còn bé. Nhớn lên nó khác đi chứ”. Ông đáp tàn nhẫn “Phải
thế mới được. Bé không vin, cả gẫy ngành. Nếu hành hạ nó mà nó khá lên được thời
cũng rất nên”. Vợ ông im lặng không cãi, nhưng ông biết bà hầm không đồng ý với
lối răn dạy con cái khe khắt của ông. Vợ ông đồng ý không thực ra ông Hạ cũng
chẳng quan tâm.
Càng nhớn Di càng ít nói và không ưa những trò chơi mạnh. Khi
Tô 12 tuổi, ông Hạ mua cho một chiếc xe đạp. Hễ nhàn rỗi, Tô nhảy lên xe đạp đi
thật xa. Mới đầy, Tô còn chịu khó rủ em, nhưng sau nhiều lần thúc dục, thấy Di
tỏ vẻ không thích thú những cuộc đi chơi ngoài những khoảng rộng, Tô đành đi một
mình.
Di ham mê đọc sách từ nhỏ. Sách ông Hạ mua rất nhiều đủ mọi
loại. Ngoài những sách viết cho trẻ con đọc, còn có những tiểu thuyết của các
nhà văn hữu danh V.N. và sách dịch? Mặc dầu cấm các con đọc sách của người lớn,
nhưng ông biết Di luôn luôn lấy sách cấm ra đọc. Mắng mãi cũng không chừa.
Di còn cố ý tránh dàn mặt với bố. Trừ trong những bữa ăn Di bắt
buộc phải đối diện với ông Hạ, còn vào những khoảng thời gian khác trong ngày,
Di tìm đủ mọi cách để có thể ngồi yên trong một xó kín đáo nào đó trong nhà, đọc
sách và mơ mộng một mình.
Di tin tưởng vào Tkhông và coi như một người kiểu mẫu. Di cố
gắng dập mọi hành động, suy luận ý hệt anh, một cố gắng không mấy khi đạt được
kết quả. Mỗi khi ông Hạ mắng Di mà Di không tìm được đủ lý lẽ đối đáp, Di nhìn
Tô cầu cứu. Ông Hạ bắt gặp nhiều lần hai anh em nghiêm trang ngồi bên nhau, Tô
giảng giải, Di lắng nghe. Dần dần thái độ của Di cũng có vẻ cứng rắng mạnh bạo
hơn trước phần nào.
Thấy Di có thể dựa vào Tô, bà Hạ cũng lấy làm mừng. Yêu con
nhưng không dám bênh con ra mặt vì nể chồng, nhiều lần bà chỉ còn biết than thở
với con cái, sau khi chồng rời khỏi nhà.
Ông Hạ cũng hay bắt gặp ba mẹ con Di, Tô thủ thỉ chuyện trò.
Đôi mắt sáng lên thương yêu mến phục của vợ ông không rời khuôn mặt linh động của
Tô. Hễ thấy ông, ba mẹ con tự động ngừng câu chuyện nói dở, trao đổi những cái
nhìn kín đáo, hoặc lảng sang một vấn đề khác.
Sau khi nghĩ buôn bán, gia đình ông bà Hạ bắt đầu nợ. Vợ ông
vay chỗ này một ít chỗ kia một ít, không cho ai hay biết, kể cá các con. Tiền
chợ và chi tiêu lặt vặt ông giao cho bà quá ít – bà Hạ lại không phải hạng người
có thể khoanh tay bất lực trước những kham khổ, thiếu thốn của những người
thân.
Nếu ông biết vợ vay lãi ngay từ đầu, chắc ông đã có thể hoặc
dùng uy quyền hoặc doạ nạt để ngăn cản. Nhưng thực ra ông đâu có thời giờ và
tâm trí để theo dõi mọi hành động của vợ. Nhưng tình cảm hậm hực, bi quan đã
chiếm hết tâm óc ông, ám ảnh ông ngày đêm.
Bà Hạ nay sắm món đồ này, mai sửa chữa món đồ khác, mua thêm
thức ăn, chăm chút cho chồng và các con. Những món nợ chồng chất mãi lên nhau.
Hàng tháng, bà Hạ chỉ vay nổi tiền trả nợ lãi, còn số nợ gốc tăng vùn vụt một
cách đáng sợ.
Đến hôm chủ nhà đến tận nhà đòi và làm ầm lên, ông Hạ và các
con mới khám phá ra bà nợ nhiều đến mức nào. Và từ đó trở đi chuyện nợ nần chẳng
khác lửa được đổ thêm dầu, gây ra bao nhiêu cuộc cãi cọ, tranh luận giữa ông Hạ
và vợ con.
Sau một thời kỳ trên bề mặt tương đối yên tĩnh, sóng gió lại
xáo động cuộc sống của gia đình.
Vào một buổi sáng chủ nhật, cả gia đình ông Hạ đều ở nhà, một
người khách đàn bà đến hỏi bà Hạ. Vừa trông thấy mặt bà ta, khuôn mặt bà Hạ tái
nhợt nhạt. Bà vội chạy ra tiếp khách, dáng điệu lúng túng.
Bà Hạ thì thầm với bà khách những gì không hiểu, nhưng sau
vài câu trao đổi, bà ta lộ vẻ tức giận, cất cao giọng nói không kiêng nể một
ai:
"Thế bà nhất định không chịu trả? Bà còn khất đến bao giờ
nữa? Tôi nể lắm mới gia hạn cho bà đến buổi nay, chứ người khác thì tôi đã lôi
ra cẩm rồi."
Bà Hạ bối rối nho nhỏ:
"Chết! Tôi xin bà. Bà nói khe khẽ thôi chứ...! Vâng, tôi
sẽ cố..."
Người chủ nợ đứng phắt dậy, hai tay chống cạnh sườn, nhìn tất
cả mọi người trông nhà một lượt, giọng thách thức:
"Tôi không việc gì phải nói khẽ. Tôi đến đây đòi nợ chứ
không phải để xin tiền bà."
Quan sát thái độ của vợ, ngay phút đầu ông Hạ đã nghi nghi,
bây giờ mới vỡ lẽ: bà này là chủ nợ của vợ ông. Bà Hạ quay đầu nhìn chồng rất
nhanh, khuôn mặt sợ hãi trông thật đáng thương.
Bà nắm tay người chủ nợ, nói liều:
"Vâng! Bà cứ về đi: đến sáng mai tôi sẽ đem đến trả
bà..."
Người chủ nợ giật tay ra giận dữ:
"Tôi không đi đâu hết. Tôi sẽ ngồi lì đây đến hồi nào bà
chạy được tiền trả tôi cả gốc lẫn lãi... Tôi tin vào lời hứa của bà để tôi chết
đói rã họng ra ấy à. Hừ! Hứa với hẹn, khất ba lần bẩy lượt rồi chứ phải không
đâu."
Tô đứng dậy lại gần me, trán nói cau nhẹ, mắt nhìn người chủ
nợ đầy khinh bỉ. Tô hỏi thẳng mẹ:
"Cái gì thế me? Có thật me nợ bà này một số tiền?"
Bà Hạ nghẹn ngào không nói lên lời, chỉ khẽ gật đầu.
"Bao nhiêu hở me?"
Bà Hạ yếu ớt đáp:
"Hơn bốn vạn!"
Ông Hạ vùng đứng dậy như ngồi phải lửa. Thế này thì quá lắm!
Lỗi lầm của vợ ông không thể tha thứ được. Tại sao vợ ông dám tự ý vay một món
tiền lớn đến như vậy? Chắc hẳn vay tiền để các con được ăn sung mặc sướng.
Nhưng nhìn khuôn mặt rắn như sành và đanh đá của người chủ nợ,
sự thận trọng cố hữu của ông ghìm cơn nóng giận của ông lại. Ông phải thật khôn
khéo và dò hỏi xem vợ có làm giấy tờ gì không. Nếu bị tù vì nợ, danh dự của
ông, của gia đình còn gì?
Tô ngạc nhiên hỏi mẹ:
"Bốn vạn! Sao me không nói cho con biết? Mà mấy món nợ
bà Bốn, bà Chi con đã đưa tiền me trả đầy đủ cơ mà?"
Người chủ nợ giơ tay lên sỉa vào mặt bà Hạ, giọng chua ngoa
và đe doạ:
"Gớm thật! Bà có tiền mà bà không chịu trả tôi. Bà định
ăn quịt phải không? Rồi bà sẽ biết tay tôi. Con mẹ này không phải tay vừa..."
Tô quay phắt lại nhìn thẳng vào mặt người chủ nợ, giận dữ.
"Tôi xin bà im ngay! Tôi đang nói chuyện với me tôi. Mà
bà không cần phải nhiều lời. Chúng tôi không phải hạng người quen quịt nợ. Rồi
bà sẽ được trả đầy đủ."
Người chủ nợ vừa hé miệng định làm dữ, Tô đã tiến lên một bước,
giọng cả quyết và đe doạ:
"Nếu bà mà nói thêm một câu thiếu lịch sự, tôi bắt buộc
phải mời bà ra khỏi nhà. Đây là nhà chúng tôi. Nợ bà chúng tôi sẽ trả nhưng bà
không có quyền làm ồn ào."
Thấy tình thế có vẻ gay go, ông Hạ vội lại gần người chủ nợ,
cười rất xã giao:
"Mời bà vào trong này ngồi chơi. Xin bà yên tâm! Tuy tôi
không được biết rõ về chuyện nợ nần của nhà tôi nhưng rồi tôi xin lo liệu. Tôi
là chủ gia đình, có gì tôi xin chịu trách nhiệm..."
Người chủ nợ còn lưỡng lự, ông vội thêm một câu:
"Chúng ta là người lớn cả! Đâu mỗi lúc mang nhau ra trước
pháp luật. Gia dĩ, chắc khi cho nhà tôi vay tiền bà cũng quên một điều là vợ
các công chức không có quyền vay nợ, nếu không được chồng cho phép."
Biết gặp người thông thạo pháp luật, dù có làm ầm cũng không
chắc đi đến đâu, người chủ nợ theo ông vào trong nhà. Ông khôn khéo hỏi cặn kẽ
về món nợ của vợ nợ gốc hiện lên đến bao nhiêu, những điều kiện trả lãi và giấy
tờ làm bằng chứng.
Sau gần một giờ đồng hồ điều đình, người chủ nợ ra về.
Không khí trong gia đình trở nên nặng nề khó thở, ngay sau
khi người chủ nợ rời khỏi nhà. Bà Hạ ngồi cúi đầu gầm ra vẻ chăm chú khâu. Tô
thì thầm trò chuyện với me. Bà lẳng lặng nghe, đôi mắt xâu chớp chớp, thỉnh thoảng
lại thở dài. Nhưng tiếng thở dài não ruột của bà Hạ càng khiến ông, điên ruột.
Di, từ lúc người chủ nợ bước chân vào nhà làm ầm ĩ và lăng nhục mẹ, vẫn ngồi bất
động ở bàn học, khuôn mặt nó nhăn nhúm, cánh mũi phập phồng, đôi lông mày rậm
nhíu vào nhau.
Ông Hạ mặt hầm hầm, đi đi lại lại trong nhà. Ông thầm nghĩ:
“Được lắm! Thường lệ vợ con đoàn kết thành một phe để bênh vực lẫn nhau. Lần
này thử xem còn ai bênh vực nổi ai nữa hay không”.
Ông lật đi lật lại chuyện vay nợ trong đầu, nhìn vấn đề dưới
đủ mọi khía cạnh, cố tìm một lối thoát khỏi tình trạng tuyệt vọng này của gia
đình. Ông cũng không quên một sự kiện hiển nhiên: Vợ ông đã vay một món tiền lớn
và đã lại dại dột làm giấy tờ hẳn hoi. Ông đã viện lý lẽ vợ một công chức không
có quyền vay mượn tiền không có sự ưng thuận của người chồng để làm kế hoãn
binh. Nhưng ông đã phải hứa sẽ trả thành nhiều tháng, vì biết nếu người chủ nợ
nhất định kiện vợ ông trước toà, tên ông sẽ bị trưng lên mặt báo. Được toà xử
vô can thì không sao nhưng nếu chẳng may bị tù tội...? Ông sẽ không còn hi vọng
gây dựng lại sự nghiệp một khi danh dự mang một vết nhơ khó rửa.
“Bốn vạn bạc”. Với số tiền lương của ông dù trả thành nhiều
tháng, đến bao giờ mới dứt món nợ. Mà chắc đâu vợ ông chỉ nợ có món đó. Chắc chắn
còn vài món nợ khác vợ ông hãy còn dấu ông.
Suốt mấy năm hễ ông dự định làm gì là y như gặp khó khăn.
Chưa bao giờ vận ông đen đến thế? Nhiều khi ông đâm nghi ngờ cả tài năng soay sở
kinh doanh của ông. Nếu thực ông là người có bản lĩnh tại sao lại gặp hết thất
bại này đến thất bại khác. Thoạt đầu ông còn có thể đổ cho vận đen, nhưng dần dần
lòng tự tin của ông bị lung lay đến tận cội rễ. Ông tự hỏi “Đen một hai lần chứ
đâu có thể đen cả chục lần”. Hay có lẽ ông đã hết thời và bắt đầu già rồi?
Ông Hạ kéo một chiếc ghế, ngồi phịch xuống. Ông giang tay gạt
mạnh. Mấy chồng sách, cốc chén văng xuống đất vỡ nát. Tiếng thủy tinh vỡ làm tất
cả mọi người ngửng đầu quay mặt về phía ông.
Ông bắt đầu nói, giọng như quát. Càng nói cơn giận của ông
càng bừng lên.
Ông hỏi vợ:
"Thế nào! Bây giờ bà nói ra làm sao? Tôi sẵn sàng giỏng
tai lên nghe...! Bà vay tiền làm gì mà nhiều đến thế? Mà tại sao bà lại dám dấu
tôi...? Bà tưởng bà vay nợ thời không liên can gì đến tôi phải không? Bà nhầm
to! Nếu bà không trả nổi, con mẹ chủ nợ mang bà ra toà thì rồi chính tôi, bà
nghe rõ chưa, chính tôi sẽ bị trừ lương hàng tháng cho đến khi nào hết hạn nợ..."
Trước những câu hỏi dồn dập bà Hạ không biết trả lời ra sao.
Tô bênh me:
"Ba hỏi từ từ, chứ ba quát lên me trả lời sao kịp."
Ông quắc mắt:
"Tao không nói chuyện với mày! Để mặc me mày trả lời..."
Bị dồn đến bước đường cùng, bà Hạ cũng đâm liều.
"Tôi vay để tiêu cho gia đình... Để mua thêm cái ăn cái
uống cho ông cho các con... Để may thêm quần áo cho chúng và mua sách vở chúng
cần dùng... Lâu ngày nợ gốc không trả được, lãi chồng lên nhau mới nhiều đến thế."
"À!... Thế bây giờ người ta không còn coi tôi ra cái thớ
gì nữa! Tôi ngồi đây để làm gì? Tôi là phỗng đá hả? Dính đến chuyện nợ nần gỡ
ra đâu dễ! Vào tù như chơi. Trời ơi! Vợ với con. Tại sao bà không cho tôi biết
từ đầu? Tại sao?"
Câu trả lời của vợ càng khiến ông tức giận thêm, mất hẳn bình
tĩnh và tự chủ.
"Nói với ông chẳng ích gì! Ông lại la hét mà rồi con cái
đói rách vẫn đói rách...'
"Bà cấm tôi la hét phải không? Từ bao giờ bà cho rằng
tôi không đủ sức nuôi gia đình? Bà phải nhớ tôi la hét là có lợi cho bà. Tôi lo
lắng kiếm tiền vì ai? Cho tôi à? Dễ thường trong gia đình này chỉ có tôi ăn,
tôi tiêu, tôi phung phí tiền bạc... Phải chỉ có tôi ăn báo hại, báo cô..."
Tô bất mãn, ngắt lời bố:
"Ba nói hơi quá! Me chúng con đâu ăn báo hại lúc nào
cũng tìm cách kiếm thêm tiền đỡ ba đấy chứ! Me chẳng đi buôn là gì?"
"Đi buôn! Mày đừng nhắc đến chuyện đi buôn nữa mà tao lộn
ruột. Suýt nữa què một cẳng, mà lãi đâu? Lãi đâu?"
"Cứ cho là không lãi đi, nhưng ba cũng phải công nhận là
me đã làm hết sức rồi..."
"Tôi không cầu ai làm hết sức! Tôi chỉ mong mọi người để
tôi yên. Đừng phá tôi, đừng làm nhục tôi, đừng đưa tôi đến cảnh tù tội! Nợ đến
hàng chục vạn trả đến kiếp nào mới hết!"
Quay về phía vợ, ông hỏi mỉa:
"Bà tưởng tôi là con trâu kéo cày trả nợ cho bà phải
không?"
Bà Hạ tự nhiên ôm lấy đầu, mắt nhắm lại, nước da tái xanh miệng
kêu lên:
"Sao tôi chóng mặt thế này…?"
Tô đỡ me nằm xuống giường. Lan chạy vội lấy nước và mấy viên
thuốc cảm.
Ông còn cố nói với:
"Sao lại vác cái lo lắng vào người. Vay nợ phải suy tính
trước sau chứ…?"
Hình như bị động lực mãnh liệt thúc đẩy, Di vùng đứng lên mặt
nhăn nhó, ánh mắt oán ghét. Giọng nói run rẩy:
"Sao ba không thôi đi! Ba nói thế chưa hả hay sao? Ba
không thấy me ốm nặng mà còn hành hạ me?"
Ông Hạ hơi ngạc nhiên, nhìn Di. Thằng này điên hả? Dám hỗn cả
với bố nó. Ai hành hạ gì me nó? Ông chưa kịp mắng Di, nó đã rảo bước ra khỏi
phòng, không quay đầu lại.
Bà Hạ ốm dai dẳng hơn một tuần lễ. Căn bệnh của bà không rõ rệt,
không hẳn ra cảm sốt, cũng chẳng phải là cúm. Người bà cứ rạc đi, mắt trũng
sâu, không ăn không ngủ được. Mặc các con thúc dục, bà cũng không chịu đi khám
bác sĩ và thoái thác: “Me khó chịu soàng thôi mà. Mai khỏi!”
Ban ngày bà tránh nói chuyện với chồng. Đêm đến nằm cạnh ông,
bà hay trở mình vật vã, chốc chốc lại thở dài.
Trước đây trong đời sống vợ chồng, những lúc nằm trò chuyện
trước khi ngủ là giây phút tương đối gần gũi và thân mật giữa ông bà Hạ.
Muốn biết điều gì về các con ông có thể hỏi vợ và nếu bà muốn
bênh vực tranh đấu cho các con thời cũng lợi dụng được mỗi thời gian đó nêu các
vấn đề gay go lên mà không e ngại ông gắt và mắng lấp đi.
Dạo này, mặc dầu ông cố ý gợi chuyện, bà cũng chỉ trả lời cho
qua, đoạn nằm vắt lên trán mắt nhắm lại giả vờ ngủ. Ông hơi bực mình trước thái
độ cách biệt đó của vợ. Vợ ông không có quyền giữ những mối lo âu riêng cho
mình. Ông muốn vợ phải hỏi ý kiến, nương tựa vào ông, bám víu vào ông, trong mọi
trường hợp.
Cả đêm ông Hạ nghi ngờ tự hỏi: Hay có lẽ vợ ông không còn tin
cậy trông mong vào ông như xưa? Vợ ông cũng như các con, cho rằng ông là một
người bất đắc chí, hết thời mà vẫn cứ tưởng mình tài giỏi.
Lần đầu tiên trong đời ông hiểu thế nào là cô độc.
Đêm này qua đêm khác vợ chồng ông nằm cạnh nhau, chia cách bởi
một bức tường thành vô hình và cùng cảm thấy bất lực như nhau trước số mệnh.
Ông có thể chịu đựng cô độc, nhưng cảm thấy mình bất lực thật
là một cực hình ghê khiếp.
Trong thời kỳ bà Hạ ốm đau và dưỡng bệnh, ông nhượng bộ không
hề đả động đến nợ nần. Ông kiên nhẫn đợi đến khi vợ hỏi hẳn bệnh. Tuy ông đã
giao hẹn với người chủ nợ, hàng tháng sẽ thân hành mang tiền đến tận nhà, nhưng
không hiểu tại sao ông lại không cho vợ hay biết sự thoả thuận đó giữa ông và
chủ nợ. Hễ có tiếng gõ cửa vợ ông lại giật mình, khuôn mặt nhợt nhạt, nằm trên
giường thân hình bất động và chờ đợi...
Hôm vợ gần khỏi, ông Hạ mới kể vắn tắt công chuyện nợ nần đã
được giải quyết cách nào. Bà Hạ ngồi yên, đầu cúi, không hé miệng nói một câu.
Ông Hạ tưởng với tư cách một người chủ gia đình, cố gắng thu
xếp như thế là hết, không thể chê trách được. Thế mà ông linh cảm hình như các
con – nhất là Di và Lan – lại còn đổ hết lỗi cho ông: Lỗi tại ông nên bà Hạ nợ
nhiều đến thế, lỗi tại ông nên bà Hạ ốm đau. Sự vô ơn của các con làm ông Hạ
thâm gan tím mật. Chúng đã không hiểu ông, tại sao ông còn tỏ ra rộng lượng làm
chi?
Khi vợ ông khỏi hẳn và bắt đầu ăn trả bữa, ông lại mang chuyện
nợ nần ra nói. Gia đình đã túng thiếu, mỗi tháng lại phải trích 2.000$ tiền
lương để trả nợ, nên các sự chi tiêu lại càng phải dè sẻn hơn. Ngay đến thuốc
lá rẻ tiền ông Hạ nhiều lúc cũng không đủ tiền mua. Các món ăn quá thanh đạm
ông nuốt không nổi. Thời tiết mùa nực khiến nhà biến thành một cái hòm lớn. Hà
tiện tiền điện đến nỗi có cái quạt máy cũ ông cũng không dám bật lên. Ăn không
được, ngủ không được, ông gầy đi và ngày càng khó tính và khe khắt.
Đêm đến trằn trọc trở mình đi trở mình lại, giấc ngủ vẫn
không đến: Ông Hạ dằn vặt vợ, nói những câu mỉa mai như róc thịt. Nằm nghe hoài
những lời trách của bố, Di đang đêm đùng đùng dậy mặc quần áo, mở cửa đi đâu
không biết, mặc dầu ông Hạ đe.
"Muốn chết hả! Nhà binh đang thiết quân luật, đi lớ quớ
lính tuần bắn chết mất xác."
Những ngày đen tối của gia đình ông Hạ tiếp tục trôi qua. Vợ
ông ngày nào cũng phải nghe những lời trách móc dai dẳng của ông, nên tâm tính
thay đổi hẳn. Trước kia bà tươi tắn hay cười nói, duyên dáng không ai gặp mà
không ưa mến; bây giờ ít nói, ra vào như một cái bóng, lúc nào cũng ngẩn ngơ
như người bị một ác mộng ám ảnh. Nhiều lúc bà ngồi thừ người hàng giờ đồng hồ.
Đôi khi ông còn bắt gặp vợ khóc một mình.
Trong câu chuyện với các con, dần dà bà Hạ đưa ra những lý luận
lời lẽ hơi kỳ lạ.
Bà nhận hết lỗi về phần mình. Lỗi với chồng vì không biết thu
va thu vén, tiết kiệm mọi chi tiêu để đến nỗi sợ như chúa chổm, vì buôn bán vụng
về không kiếm thêm được tiền nuôi con ăn học đâu ra đấy; vì không khéo léo hoà
giải mỗi người trong gia đình nên không lấp được vực sâu oán hận thù ghét nhau
giữa chồng và các con.
Bà lại còn bênh chồng “Trước kia ba đâu có thế! Tại me cả!
Các con cứ trách me đây này!"Bà còn nhắc lại hồi mới cưới nhau và có con,
ông đã chứng tỏ là một người chồng người cha kiểu mẫu thương mến vợ con như thế
nào. Các con bà ngạc nhiên, bỡ ngỡ. Không biết chúng có tìm ra nguyên nhân thầm
kín đã khiến mẹ chúng thay đổi thái độ hay không, nhưng nể và yêu mẹ, chúng bảo
nhau tạm thời tránh đề cập tới những sự “độc ác"của bố. Chúng còn cố gắng
tìm đủ mọi cách giúp mẹ quên đi một phần nào cảnh buồn của gia đình. Chúng khôi
hài và làm ra vẻ coi nhẹ chuyện nợ nần. Nghe những câu khôi hài của các con, bà
Hạ cũng chiều chúng cười đấy, nhưng rồi sau đó buồn và lo lắng hơn.
Về phần ông Hạ, ông không chịu nổi sự khôi hài cười cợt giả tạo
và không đúng chỗ đó của các con. Ông cho thế là hèn nhát và trốn tránh thực tại.
Nghe chúng bông đùa về chuyện quần áo mỗi người đều cũ và mạng tứ tung, thiếu
tiền ăn sáng phải ăn cơm nguội. Di đi học phải lê một đôi giày há mõm, Tô không
bao giờ có đến chục bạc trong túi v.v... Ông lộn cả ruột gan muốn tát cho mỗi đứa
một cái – như hồi chúng còn nhỏ – để làm chúng tỉnh ngộ. Chúng không biết thế
nào là nhục nhã hay sao mà còn cười.
Chiều đến, và các con thích bác chõng ra hiên trước nhà hứng
gió và chuyện trò mơ tưởng những chuyện cao xa, tưởng tượng ra những thú vui mọi
người sẽ được hưởng nếu có nhiều tiền. Bà Hạ mơ xây được một biệt thự ở Đà Lạt
có đầy đủ phòng cho cả gia đình, hoặc hè đến rồi rào tiền nong cho các con ra bể
tắm, nghỉ ngơi. Bà còn gợi lại những kỷ niệm êm đẹp của thời con gái sống trong
một gia đình khá giả.
Ngồi bó gối lẻ loi trong nhà, xa cách hẳn vợ con, ông Hạ nhiều
lần tưởng chừng đang nghe một lũ người điên hay dở người trò chuyện. Mơ mộng
hão huyền hoàn toàn xa lạ đối với ông.
Tuy ông Hạ soay sở tìm được mấy chỗ làm cho Tô, giúp đỡ một
ông bạn thầu khoán của ông trông nom các tù binh tại một công trường, hay làm bồi
cho một sĩ quan Pháp, nhưng hễ ông đưa đề nghị nào ra, vợ ông – thường lệ vẫn
phục tòng ông – đều khăng khăng phản đối “Thà để các con chết đói còn hơn làm đầy
tớ cho người ngoại quốc”. “Trông nom phu phen thường có kham khổ may ra. Tô còn
kham nổi, nhưng đốc thúc tù binh phải đánh đập họ dã man lắm. Vả lại, nếu các
bác thằng Tô một ngày kia trở về biết chuyện, tôi còn mặt mũi nào...”
Cho vợ chỉ là đàn bà câu nệ, ông hỏi thẳng ý kiến Tô. Tô nín
lặng. Khuyên nhủ nhẹ nhàng, mắng mỏ, Tô lơ đãng miễn cưỡng nghe. Tô đợi khi ông
hết lời, buông độc một câu ngắn ngủi “Con chịu thôi. Con không thể làm vừa lòng
ba”, ông nản lòng, đành bỏ cuộc. Nhưng, ông đâu ngờ Tô đã ngầm đến gặp ông bạn
của bố, nhận một chân phu đốc công trại một công trường bên kia Gia Lâm, trông
nom phu mộ ở mấy làng kế cận. Trong mấy tháng liền, Tô xin nghỉ học để “dưỡng bệnh”,
đạp chiếc xe cọc cạch qua cần sông cái, làm việc suốt ngày ngoài nắng đến tối mịt
mới trở về, ông Hạ cũng không hay biết mảy may.
Mãi đến hôm Tô hỏi me trước mặt người chủ nợ “Con đã đưa tiền
me góp trả đầy đủ các món nợ bà Chi, bà Bốn rồi cơ mà..." ông mới nghi ngờ,
và sau đó tra hỏi Tô:
"Mày góp tiền trả nợ hộ me? Mày lấy tiền ở đâu?"
"Con giúp bác Phú trông nom phu bên Gia Lâm, mỗi tháng
bác trả 1.200$."
"Sao mày không cho tao biết?"
Tô nhún vai thản nhiên đáp:
"Cho ba biết thì làm sao góp được tiền trả nợ cho
me."
Ông Hạ thầm nghĩ “À ra vậy! Nó đi làm cốt để trả nợ cho me,
không phải vì bị mình bó buộc”.
"Hiện thời mày còn làm với bác Phú không?"
"Không! Con xin thôi ngay sau khi trả xong hai món nợ
cho me."
Đôi mắt long lanh sáng của Tô soi mói nhìn bố. Tôi tiếp luôn,
miệng thoáng một nụ cười chua chát, khinh thị:
"Chắc ba muốn con đi làm chứ gì? Đáng tiếc, bác Phú đã
tìm người thay chỗ con mất rồi. Tuy nhiên nếu ba muốn, còn cái chân bồi hay bếp
gì đó ba nói đến dạo trước, còn trống hay không? Kể ra, làm bồi cho một sĩ quan
Pháp vào thời này cũng vinh dự cho cha mẹ lắm đấy chứ? Con cũng chỉ bắt chước
óc thực tế của ba thuở nhỏ, đâu có gì xấu phải không ba?"
Bất giác ông vung tay tát Tô một chiếc. Tô đưa tay lên xoa
má, vẻ mặt đanh lại. Hắn nhìn chăm chăm vào mặt bố, môi mím chặt, những thớ thịt
hai bên hàm nổi hẳn lên. Nhưng rồi hắn trấn tĩnh được, gượng gạo nói:
"Xin lỗi ba!"
Tuy miệng xin lỗi, khuôn mặt Tô lại thoáng một vẻ kiêu hãnh
khác lạ. Thật trái ngược, ông Hạ cảm thấy trong hai người kẻ thua trận bị lăng
nhục lại là ông.
Tô ra khỏi phòng, ông Hạ vẫn ngồi trầm ngâm.
Về phần Di, Di đi về thất thường, nhiều tối không ngủ nhà. Di
vẫn đi học nhưng hắn không mấy quan tâm đến bài vở thi cử. Thông minh thứ hạng
điểm số của Di luôn luôn dưới mức trung bình. Ông Hạ mắng, Di cúi đầu nghe, vẻ
mặt thờ ơ, chịu đựng – một sự thờ ơ còn khiêu khích và hỗn xược gấp trăm nghìn
lần những câu phản đối cãi hướng.
Tệ hơn nữa, Di hình như còn định tâm gây ra nhiều chuyện rắc
rối cho gia đình, và dĩ nhiên cho chính bản thân nó.
Đầu tiên là chuyện Di gây sự và cãi bướng với một người đội cảnh
sát Tây.
Hôm đó ông Hạ đi làm về chưa kịp thay quần áo thời có tiếng
gõ cửa. Một người cảnh sát Việt, đứng tuổi, tóc và bộ râu ghi đông cuốc điểm bạc,
khuôn mặt vuông hiền lành, bước vào nhà hỏi:
"Đây có phải nhà cậu Di? Xin lỗi ông! Tôi chắc ông là ba
cậu Di, vậy xin mời ông lên cẩm làm giấy bảo đảm và đón cậu ấy về..."
Ông hỏi Di bị bắt về tội gì, ông ta cười đáp:
"Cậu ấy đi xe không phanh lại đi trái đường. Ông đội Tây
ra lệnh cho tôi bắt cậu ta vào bóp hỏi giấy tờ. Ông đội hỏi tên tuổi giấy tờ cậu
ấy chẳng buồn cho biết lại còn cãi bướng “Tôi không có giấy tờ. Tôi không có
nhà. Hỏi gì mà lắm thế!" Bị ông đội tát cho mấy chiếc cậu Di trừng mắt lên
mắng “Đồ thực dân!" May mà ông đội không biết tiếng Việt. Rồi cậu ấy bảo
tôi “Cụ làm ơn dẫn tôi đến phòng giam. Tôi không trả lời đâu”.
Ông ta cười tha thứ, lắc lắc cái đầu:
"Con trai thời này bướng thật! Tù cũng chẳng sợ!"
Ông Hạ cám ơn ông đã bênh vực cho Di. Ông đáp giản dị:
"Đâu có gì! Chẳng là tôi cũng có một thằng con trai tính
nết bướng bỉnh chẳng khác gì cậu Di... Nó bị đạn lạc chết hồi Tây Ta đánh nhau
trong thành phố..."
Ông thở dài nhỏ nhẹ khuyên ông Hạ:
"Tôi không muốn xen vào chuyện dạy dỗ con trẻ của ông,
nhưng có lẽ ông nên răn dạy cậu Di bớt ngang tàng một chút. Nhỡ ra bị nghi là
Việt Minh rồi tù tội thì khổ."
Ông Hạ sượng sùng không biết đáp ra sao. Nếu trả lời người
cha yêu con đó “ông cứ bỏ tủ nó đi cho nó sáng mắt ra”, chẳng hoá ông thú nhận
không những không dạy nổi con cái mà còn phải nhờ pháp luật trừng phạt để thoả
lòng oán ghét của ông.
Sau khi ông Hạ giở hết tài ngoại giao ra xin lỗi viên đội
Tây, Di được tha. Di lẳng lặng theo ông về nhà không hề lộ vẻ biết ơn. Về đến
nhà ông mắng, Di đáp gọn lỏn:
"Ba đến đón con làm gì cho mất công. Cứ để mặc con bị
giam ở bóp có hơn không. Con đâu có sợ! Hay ba tiếc trăm bạc nộp phạt…?"
Ông nổi giận cổ nghẹn tức chưa kịp phản ứng, Di thọc xâu hai
tay vào túi, cánh môi trề xuống, buông một câu:
"Mà xin xỏ cái thằng đội Tây đó làm gì! Trông cái mặt thực
dân của nó, con chỉ muốn tát chuyện cho mấy cái rồi muốn ra sao thì ra..."
Bà Hạ ngồi gần đó, hốt hoảng nhổm dậy níu chặt lấy cánh tay
chồng. Ông gạt vợ ra quăng cái gối xuống đất, giọng đầy khinh bỉ:
Bà không cần phải can. Đánh đứa con bất hiếu vô ơn này làm gì
cho bẩn tay. Di! Mày đi đâu thì đi cho rảnh mắt tao..."
Di không nói nửa lời, lầm lũi ra khỏi nhà.
Tô từ đầu đến cuối vẫn ngồi im lặng quan sát bố và Di không
can thiệp.
Tối đến ông Hạ trằn trọc mãi không ngủ được. Ông nằm vắt tay
lên trán nghĩ ngợi miên man. Xưa nay trong vẫn ghét thậm tệ những tình trạng
tranh tối tranh sáng.
Trong một khoảng thời gian ngắn ông đã đánh đập hai đứa con
trai. Từ khi chúng bắt đầu lớn và hiểu biết, nhiều khi ông quát mắng chúng,
nhưng chưa lần nào phải dùng đến chân tay. Đánh chúng là phải hay trái? Ông có
thể tự bào chữa: Chúng hỗn láo và xúc phạm đến ông, đánh là đáng lắm. Nhưng một
câu hỏi quái ác vẫn lởn vởn trong trí óc ông. Ông đã khổ công nuôi dạy chúng đến
khi khôn lớn, tại sao chúng lại trả ơn bằng khinh bỉ oán ghét, hoặc thờ ơ cách
biệt? Dĩ nhiên đôi khi ông cũng đã tỏ ra quá khe khắt và hành hạ chúng đôi
chút, nhưng cũng vì bị thúc đẩy bởi thiện ý muốn chúng nên người, đầy đủ bản
lĩnh đối chọi với đời. Ông đâu có sống chỉ vì đồng tiền. Sở dĩ ông say mê với
tham vọng làm giàu là khổ vì đồng tiền quá nhiều trong thời thơ ấu và tuổi thiếu
niên, ông không muốn vợ con ông nhục nhã trong cảnh nợ nần nghèo túng. Các con
và kể cả vợ ông không chịu hiểu cho ông điều đó. Mà thực ra có ai chịu tìm hiểu
tâm sự thầm kín của ông đâu?
“Vợ và các con ông không chịu tìm hiểu ông!"Tất cả những
chuyện rắc rối trong gia đình đều phát xuất từ đấy mà ra. Đã vậy, tại sao ông
không giải thích cho họ hiểu? Các con ông lớn rồi, óc phán đoán cũng đủ vững
vàng để phân biệt phải, trái. Gặp cơ hội thuận tiện ông sẽ giải thích cho cả
gia đình hiểu tâm sự của ông.
Sau hôm bị bố đánh, Di bỏ nhà đi dâu ba, bốn hôm không về.
Ông Hạ vịn vào sự vắng mặt của Di, hoãn ít lâu ý định giải thích cùng mọi người
trong gia đình. Thực ra ông cũng chưa quyết định hẳn; hễ định mở miệng thổ lộ
những tư tưởng thầm kín là y như có một sức mạnh vô hình chặn họng ông. Sau năm
hôm vắng mặt Di trở về nhà. Suốt trong bữa cơm chiều ông Hạ trò chuyện với vợ,
Lan và Tô làm ra vẻ không lưu tâm đến sự có mặt của Di. Cơm nước xong xuôi ông
ngồi ở bàn và tiếp tục câu chuyện dở dang với vợ. Khi ông cố gắng giảng giải là
món nợ bốn vạn của bà sẽ trả xong trong năm tới, Di ngồi ở cạnh đó tự nhiên cười
khảy một tiếng và nói khá to:
"Tiền! Lúc nào cũng kêu ca thiếu tiền..."
Ông Hạ quắc mắt, giọng đanh lại:
"Thế thì sao?"
Vợ ông lo lắng nhìn ông và Di. Giọng của Di ngầm mang một ý
nghĩ thách thức. Tô thấy câu chuyện có vẻ gay go chêm vào, giọng khôi hài:
"Thì kiếm thêm chứ sao phải không me?"
Di mím môi ngồi không yên, dáng mặt nóng nảy. Ông Hạ gay gắt:
"Tôi xin nói để mọi người hiểu là để mặc tôi lo liệu!
Hay có ông con nào muốn kiếm tiền thay tôi? Hừ còn là mệt mới thay nổi thằng bố
già này..."
Di buông sõng một câu:
"Thật không! Ba cứ làm như kiếm tiền khó lắm..."
"Thưa ông không khó đâu, nhưng cái mẽ ông đi làm phu
chưa chắc ai mướn..."
"Nếu ba cần tiền đến thế thì tiền đây!"
...
Mọi người hồi hộp chờ đợi phản ứng của ông Hạ. Ông hơi ngạc
nhiên nhìn tập giấy bạc rồi lại nhìn Di. Chẳng lẽ Di thay đổi chóng thế, hết mơ
mộng viễn vông và đã chịu khó kiếm việc làm giúp gia đình? Nếu vậy thì hay lắm!
Ông sẽ cầm tiền, khen Di mấy câu và tiện thể hoà giải với tất cả mọi người
trong gia đình. Đây là cơ hội ông không bỏ qua...
Nếu Tô không khéo can thiệp kịp thời, chắc ông Hạ đã vứt tiền
vào mặt Di và đánh Di mấy cái tát. Di tưởng ông không đủ thông minh để hiểu ý
nghĩa hành động hỗn sược của nó. Di cho rằng kiếm được một món tiền đưa cho
ông, nó đã có quyền khinh bỉ sự tha thiết đồng tiền của bố. Di muốn làm nhục
ông trước mặt mọi người.
Khi thấy mặt bố cau lại và rút mạnh tay về, Tô thản nhiên cầm
số tiền lên, miệng tươi cười.
"À! Nhà phải ăn khao cái đã! Đây là tiền Di đi làm buổi
tối đây mà. Con giao cho me làm một bữa cơm gà vịt ăn cho sướng mồm."
Di nhìn ông một lần nữa.
Mấy ngày sau tình cờ nghe hai anh em Di, Tô chuyện trò với
nhau ông Hạ có dịp biết thêm ít điều mới lạ và khá bất ngờ về ý nghĩ của các
con trai ông về chính ông.
Trưa hôm đó sau bữa cơm, ông nằm ngủ ở giường phòng ngoài.
Đêm đến ông thường trằn trọc khó ngủ, nên giấc ngủ trưa tuy ngắn ngủi thường vẫn
giúp ông lấy sức khá hiệu quả. Ngủ mê mệt được một lúc, ông Hạ chợt tỉnh giấc.
Ông không ngồi hẳn dậy, nằm mơ màng, vì đoán chưa đến giờ đi làm. Tiếng Di và
Tô rì rầm nói chuyện ở đâu đây. Chúng ngồi ở chiếc bàn phía trong. Ông không
nhìn thấy chúng, một chiếc màn ngăn chia chỗ ông nằm và nửa phòng phía trong.
Thoạt đầu ông không lưu ý đến câu chuyện giữa Tô, Di nhưng
sau thấy thoáng nghe thấy những tiếng “ba"ông đoán chúng đang nói đến ông.
Ông lắng tai nghe. Chắc chúng tưởng ông ngủ say sưa như thường lệ, nên bàn tán
không giữ gìn.
Tiếng Tô hỏi Di vẳng đến tai ông Hạ:
"Suỵt! Ba còn ngủ đấy chứ?"
Ông nhắm mắt lại vờ ngủ, cố giữ hơi thở đều đặn. Di vạch màn
nhìn sang chỗ bố nằm
Di trả lời ngay:
"Ba ngủ say lắm!"
Chúng tiếp tục câu chuyện dở dang.
Tiếng Tô nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc:
"Tại sao hôm đưa tiền cho ba, Di có vẻ hằn học thế?"
"Em đâu muốn vậy! Mà nếu thật ra em đã có thái độ hằn học,
em cũng chẳng cần."
Giọng Tô châm biếm:
"'Di đâu có muốn hằn học!'. Di không đùa đấy chứ? Tại
sao không thú thật đó là một thái độ cố ý!"
"Anh rắc rối lắm! Em đã bảo em cóc cần mà! Mà tại sao em
không có quyền hằn học, nếu em muốn thế!"
"Đấy nhé! Di công nhận Di cố tâm kiếm bằng được một số
tiền để có thể “ném"vào mặt ba và có cơ hội bộc lộ tất cả sự hằn học của
Di. Đúng thế không?"
"Cứ cho rằng Di công nhận đi thì sao? Anh định đưa câu
chuyện đến đâu?"
Tô rành rẽ:
"A! Anh muốn biết sau khi chứng tỏ Di kiếm nổi ra tiền
và tự lập, Di có ý định rời bỏ gia đình hay không?"
Im lặng một phút. Di lẩm bẩm chua chát:
"Anh suy luận nhanh nhỉ! Anh tưởng anh đọc rõ những tư
tưởng trong óc Di phải không? Phải rồi anh vẫn thường tự phụ rất sành tâm lý mọi
người mà!"
"Di cáu với anh đấy hả?"
"Không! Di không cáu khi thấy anh soi mói tâm hồn người
khác, nhưng rất 'bực mình – và – khó chịu' vì cái giọng làm ra vẻ thản nhiên của
anh khi đề cập tới những đau khổ của mọi người."
Tô láy lại, chế riễu:
"Anh thản nhiên khi nói tới những đau khổ của Di! Lạ nhỉ!
Anh có cảm tưởng Di giận anh."
"Phải nói là Di bất mãn mới đúng! Ừ! Tại sao anh cứ đòi
đóng cái vai quan toà hạch tội nhân? Tại sao Di hằn học? Tại sao Di làm thế
này, thế kia? Anh đừng quên anh cũng là người trong cuộc! Anh cũng hằn học và
oán ghét ba không kém gì em!"
Im lặng. Tiếng Tô lại cất lên:
"Di khó tính lại nhiều tự ái! Làm gì có chuyện ai là
quan toà ai là tội nhân ở đây. Có điều Di quên mất là anh và Di tính nết khác
nhau. Di hằn học, Di muốn lộ tình cảm đó ra mặt, anh cũng có thể hằn học, nhưng
anh dấu kĩ thì sao."
Ngừng một chút, Tô tiếp giọng thành thật và dịu dàng như muốn
làm lành với em:
"Hay bây giờ Di và anh gạt sang một bên những chuyện cãi
vã rắc rối về bản chất của anh và Di. Tại sao Di không nghĩ rằng anh hỏi Di chỉ
vì muốn tìm hiểu chút ít về Di. Dạo này Di và anh không có dịp nói chuyện với
nhau... Anh ngại rằng nhiều điều anh nghĩ về Di có thể sai lầm. Di hình như muốn
sống cách biệt với mọi người... với anh. Dĩ nhiên anh không trách móc Di nhưng
ít nhất Di cũng phải để mọi người giúp Di chứ."
Trước những lời lẽ lúng túng của anh. Di ngắt lời:
"Em hiểu anh!"
"Nếu vậy Di nói thẳng ra đi! Có phải vì muốn tỏ ra khinh
bỉ ba nên Di đã quyết định bỏ học đi làm kiếm thêm tiền. Trong tuần qua, Di
không bước chân đến trường, anh đã làm giấy phép xin nghỉ cho Di, nhưng anh dấu
cả me lẫn ba. Di còn muốn đi học nữa hay không?"
Di trả lời, giọng mệt mỏi chán nản:
"Em không biết nữa! Em cũng không rõ sẽ phải nghĩ gì làm
gì. Bao nhiêu vấn đề cấp bách phức tạp em cần phải giải quyết. Ngay vấn đề ba
và em chẳng hạn!"
Di ngừng một chút, đoạn tiếp giọng cả quyết:
"Em sẽ nói hết anh nghe ý nghĩ của em về ba. Từ dạo tản
cứ về ba không ngớt than phiền kêu ca về chuyện tiền. Đối với ba kiếm tiền và
thành công là những chuyện quan trọng nhất trên đời. Ba than phiền nhà mình
nghè. Ba đe doạ anh em chúng mình sẽ có ngày phải đi ăn mày làm phu phen để kiếm
sống. Chuyện này em chẳng phải nói dài, anh cũng rõ như em. Nhưng ba tha hồ mắng
nhiếc và hành hạ mọi người, anh và em nhớn rồi cũng đủ sức chịu đựng ba. Miễn
là ba đừng đụng chạm đến me."
Giọng Di nghẹn ngào:
"Em không tưởng tượng nổi, khi hành hạ áp chế một người
yếu hơn mình, người ta lại có thể cảm thấy vui thú. Thử hỏi me có tội gì? Từ
khi lấy ba đến giờ me ăn bao nhiêu cơm và tiêu bao nhiêu tiền của ba? Lúc nào
me cũng tươi cười, nhẫn nhục chịu đựng ba. Ba đâu biết ba làm khổ me đến bực
nào. Me không than thở kêu ca, nhưng me khổ ngấm ngầm? Nghe những lời riếc móc
ray rứt me muốn khóc mà cũng không dám. Dạo chúng mình còn bé chẳng nhiều lần bắt
gặp me khóc thầm là gì? Ba luôn luôn chỉ biết có ba. Ý kiến của ba là nhất ai
cũng phải theo. Nếu cưỡng lại ba sẽ tìm cách ép buộc phải vâng theo ba."
Tô xen vào:
"Di! Di muốn thêu dệt ra những chuyện thực ra không hề xẩy
ra hay sao?"
"Thôi Di! Làm sao chúng mình biết được những chuyện thầm
kín giữa ba và me. Hơn nữa, nếu kết tội ba một phần nào Di cũng kết tội me.
Theo ý anh, không ai hoàn toàn vô tội cả, kể cả me chúng ta."
Di bướng bỉnh cãi:
"Em không tin me có lỗi!
"Hay em không 'muốn' tin thì đúng hơn… Anh yêu me, nhưng
cũng không lạ gì tính me. Một khi đã yêu con chiều con, me quên hết mọi thận trọng,
tính toán. Me vay nợ lu bù để bù đắp cho chúng ta. Làm sao anh lại có thể trách
me yêu các con? Anh tự hào có người mẹ như me! Tuy nhiên gia đình mình sẽ đi đến
đâu, nếu me tiếp tục vay nợ? Em thử nghĩ xem?"
Hai anh em lại im lặng. Ông Hạ nằm không động cựa, và không
dám thở mạnh. Ông đâu ngờ Di khe khắt với ông đến thế.
"Anh không biết chứ dạo me đi buôn, ngồi ở lớp học em lo
lắng ghê rớm. Lúc nào cũng thấp tha thấp thỏm chỉ sợ tầu bị mìn và nhỡ me làm
sao mỗi buổi tối thấy me và anh trở về bình yên, em nhẹ hẳn người và mừng không
thể tưởng được. Càng mừng em càng thù ghét ba. Tại ba hết! Sau này, me ốm và
gãy chân, ba chắc hể hả lắm. Ai bảo mọi người trái lời ba! Trông bộ mặt đắc thắng
của ba, em mong me và anh chết cả trong một tai nạn tàu để xem ba phản ứng ra
sao. Liệu ba còn sống nổi một mình hay không?"
"Sao Di hay nghĩ ra nhiều chuyện rắc rối làm khổ mình
cho mệt. Chỉ vì muốn 'trả thù' ba, Di muốn me và anh chết đi hay sao?"
"Em cũng biết nghĩ thế là bậy, nhưng anh đã hỏi em cũng
không giấu."
"Em thật kỳ lạ!"
Di nhắc đi nhắc lại hai chữ “trả thù" Tô vừa nêu ra.
"Trả thù! Trả thù! Có lẽ anh nói đúng! Em thù ba! Ngay từ
hồi bé. Anh còn nhớ hồi nhỏ, em đâu bạo dạn như anh. Em rút rát như con gái.
Nhưng, tại sao ba không để em yên thân? Ba chế nhạo em, mắng chửi em và không hề
quan tâm là tâm hồn một đứa trẻ nhạy cảm và mỏng manh đến mực nào. Dĩ nhiên em
khác hẳn tính ba hồi nhỏ. Nhưng, tại sao ba muốn em phải có được bộ óc thực tế
sát đất của ba? Tại sao ba muốn em phải sớm đụng chạm với những sự ti tiện của
đời sống? Ba khổ thuở bé, nên thấy các con được hưởng một đời sống vật chất và
tình cảm tương đối sướng hơn, ba không chịu được!"
Giọng Tô suy nghĩ:
"Em nói cũng có phần nào đúng. Nhưng suy đi nghĩ lại
mình cũng khó trách ba được. Nếu lúc bé em hay anh cũng phải khổ như ba?"
Di nóng nảy:
"Em không chịu cái lối suy luận của anh. Anh quá rộng lượng
đối với ba. Mình đã khổ sở, thời mình phải cố gắng giúp những người thân yêu khỏi
bị khổ như vậy chứ. Không lẽ nếu người khác tát anh một cái, anh sẽ có quyền
tát cho người thân của anh một cái hay sao?"
Tô không cãi lại em, Di tiếp:
"Vì vậy hồi nhỏ, và ngay thời kỳ cách đây mấy năm, cứ
nghe ba nói mãi, mắng mãi em đâm mất cả tự tin. Em nghĩ có lẽ em là một đứa trẻ
bỏ đi và không có một khả năng, đức tính nào hết. Rất nhiều lần em ngồi khóc thầm
một mình trong căn phòng xép. Khóc, em cũng dấu mọi người. Em sợ nhỡ ba bắt gặp,
em lại phải nghe những lời chế diễu. Em so sánh em với anh, với những đứa trẻ
bình thường khác. Càng so sánh, em càng tủi thân và hoang mang. Em tự biết
không bao giờ em bạo rạn được bằng anh. Em cũng không ưa thích lối sống hoạt động
như anh. Thời giờ của em chỉ dùng để tưởng tượng, mơ mộng hão huyền. Dần dần em
đâm ra ít nói, không thích chơi bời với bất cứ ai. Vì em cho rằng, em chỉ là một
đứa trẻ bệnh não, gần như tàn tật. Anh xem, chỉ vì ba mà thời thơ ấu của em
không còn chút gì là ngây thơ, êm đẹp!"
Di nửa đùa nửa thật:
"Em nói điều này chắc anh không tin. Còn bé, em đã nhiều
lần nghĩ đến chuyện tự tử. Không có anh và me, không biết chừng em khó sống được
đến nay."
"Di nhiều óc tưởng tượng quá!"
"Giàu óc tưởng tượng đâu phải lỗi tại em!"
"Dĩ nhiên! Nhưng, anh nghĩ không chừng vì quá giàu tưởng
tượng, Di đã gán cho dĩ vãng một ý nghĩ đen tối hơi quá sự thực chăng? Hồi nhỏ
em ngây thơ, em đâu đã thù ba ghê gớm đến như vậy. Bây giờ, em mới thù ba đấy
chứ!"
Di nồng nhiệt:
"Không! Anh đừng nhầm! Em thù ba bất cứ vào thời kỳ nào
– Xưa nay em vẫn thù ba."
Tô cười nhẹ, chế giễu:
"Di nói thế, anh cũng biết vậy. Nhưng, tính em ấy mà...
Hôm nay thế này mai thế khác. Lúc nào cũng cả quyết, nghe phát ớn. Không hiểu
sao anh tin rằng một ngày kia Di sẽ hết thù ba. Di sẽ hướng lòng thù hận của Di
vào một nhưng khác, hướng khác, cũng hăng hái chẳng kém."
Di cười khảy:
"Anh lại giở giọng tiên tri gàn rồi?"
Tô, Di cùng im lặng. Ông Hạ tưởng chúng đã trò chuyện xong,
nhưng rồi Tô lại lên tiếng:
"Anh cũng đồng ý với Di là ba không dễ dãi với mọi người.
Ba ích kỷ độc đoán và nhiều khi rất tầm thường. Nhưng Di phải công nhận một điều:
Làm sao thay đổi được ba. Ba cứng rắn như một hòn đá! Anh chắc ba sẽ vẫn như thế
mãi, suốt đời ba. Di, me, chính anh, chúng ta một phần nào cũng đã là những 'nạn
nhân' của ba."
"Nhưng đó là chuyện 'ngày xưa'. Hiện tại anh và Di đều lớn
cả rồi, không lẽ chịu sống dưới ảnh hưởng của ba. Ô! Tại sao chúng mình không
nhìn đời khác đi? Tại sao lại oán và thù ba? Làm khổ mình sống trong những tư
tưởng đen tối như Di. Phản đối, trả thù mà làm gì? Ba nói gì mặc ba. Nói lắm
cũng mỏi mồm. Di cứ làm như ba không có đấy. Di có đời sống riêng của Di. Di
còn phải lo cho tương lai nữa chứ?"
Di ngắt lời anh, giọng gay gắt hẳn lên:
"'Làm như ba không có đấy'. Nói đến thì ngon lành nhưng
trong thực tế đâu dễ như vậy. Anh khéo lý luận lắm nhưng em không rơi vào tròng
đâu."
Tô cất cao giọng một chút, ngạc nhiên:
"Tròng nào? Em nói cái gì đấy anh không hiểu!"
Im lặng.
Tô gặng:
"Di điên đấy à! Di làm như anh dùng lý luận để đánh lừa
Di. Đâu có, anh chỉ muốn giúp Di."
Di nói như khóc:
"Không! Bây giờ em mới thấy chính anh cũng không thể
giúp được Di... Vì anh không bao giờ có thể là Di, nghĩ được, cảm được, đau khổ
giống hệt Di! Anh là anh, Di là Di! Anh không ghét ba 'giống' Di. Anh đâu biết
oán hận đã ăn xâu vào tâm hồn em. Dứt đi sao được. Lắm khi em sợ chính nguồn
tình cảm mãnh liệt của em. Em không biết rồi đây lòng oán ghét ba của em sẽ đưa
em đến đâu... Em muốn bỏ gia đình mà đi. Nhưng thế là hèn nhát là trốn tránh.
Em còn cảm thấy ghét ba, em còn nhìn thấy mẹ héo hon, chết dần chết mòn đi. Vì
mẹ vì mọi người; em càng thấy rõ 'Em không thể rời bỏ nơi đây được'. Anh hiểu
chưa? Em – không – thể!"
Giọng Tô trầm hẳn xuống, khắc khoải và thương xót:
"Kể ra những điều anh nghĩ về Di cũng không sai lầm bao
nhiêu. Anh cũng đoán biết có một nguyên nhân nào, rất quan trọng lôi kéo Di, và
giữ Di sống tại gia đình. Nhưng anh cũng đã lầm, khi tưởng đó là tình yêu! Anh
không ngờ lòng oán hận đã giữ Di. Không phải tình yêu!"
"Làm sao em phân biệt được tình yêu hay oán hận đã giữ
em ở lại gia đình? Mà có lẽ cả hai thứ không chừng?"
phần 2
Sau một phút yên lặng, ông Hạ nghe thấy Di và Tô bảo nhau sửa
soạn sách vở vì sắp đến giờ đi học.
Bỗng nhiên Tô cười khẽ một tiếng lẩm bẩm như nửa nói với Di,
nửa với chính mình:
"Có một đặc điểm của gia đình mình mỗi khi nghĩ tới anh
lại buồn cười. Tại sao chúng ta lại sống kỳ khôi như thế? Tại sao chúng ta hành
hạ lẫn nhau, làm khổ nhau chẳng khác những nhân vật trong một tấn bi hài kịch?
Tại sao không cùng chịu đựng nghèo túng, đau khổ, nụ cười trên môi và coi mọi sự
không quan trọng. Thiếu gì gia đình còn nghèo khổ bằng vạn gia đình mình. Sống
dễ dãi hơn không chừng chúng ta đạt được hạnh phúc."
"Anh nói có phần đúng nhưng chỉ đứng với anh! Anh nhớ
người ta không phải là gỗ đá."
"Di đừng hiểu lầm anh. Đâu anh có đòi hỏi Di phải tha thứ
tất cả những lỗi lầm của ba! Trường hợp anh chẳng hạn. Di có dám cả quyết một
trăm phần trăm là anh không oán ghét ba một chút nào không? Dĩ nhiên anh cũng
oán ghét ba; nhưng đối với anh, ba dầu sao cũng chỉ là 'một người xấu xa' trong
số nhiều người xấu xa khác ở trên đời. Ba không phải tất cả mọi người! Oán ghét
ba không có nghĩa anh oán ghét lây cả sang bất cứ người nào anh gặp. Phản đối
ba cũng không có nghĩa chống đối với tất cả mọi người trong xã hội một cách
điên khùng... Như Di bướng với thằng đội Tây hôm nào chẳng hạn..."
Giọng Di đột nhiên trở nên khô khan và hằn học:
"Thôi! Có lẽ anh đừng nên quan tâm đến những hành động của
em làm gì cho mệt!"
"Tuỳ Di!"
Hai đứa con trai ông Hạ rời khỏi nhà đã được một lúc lâu, ông
vẫn nằm nghĩ ngợi miên man. Lần đầu tiên trong đời tâm hồn ông xúc động và rối
loạn một cách lạ lùng. Cuộc đời dành cho ông thật nhiều bất ngờ.
Sau buổi trưa nghe lỏm được cuộc thảo luận khá sôi nổi giữa
hai anh em Tô, Di, thái độ và sự cư xử của ông Hạ đối với vợ con có phần thay đổi.
Ông cố tránh đề cập đến chuyện nghèo túng nợ nần. Trong những bữa cơm, ông mang
những chuyện vui vui ra nói và gợi mọi người bàn đến tương lai. Đôi khi ông
cũng săn sóc hỏi han đến sức khoẻ của vợ, điều trước kia ông không hề quan tâm.
Ông khuyên nhủ vợ không nên lo nghĩ quá đáng. Các con trai đều đã lớn, trong
vài năm nữa chúng đi làm, vợ chồng ông sẽ sống thoải mái hơn. Ông hỏi han chuyện
học hành của Tô và Di và hứa hẹn sẽ may sắm thêm quần áo cho Lan, một khi làm
ăn phát đạt hơn.
Nhưng dần dần ông khám phá thấy một sự kiện rất đáng buồn: Mặc
dầu ông có thiện chí, khéo kéo mềm mỏng, lấy lại được sự thương yêu và tin cậy
của các con và vợ không dễ như ông tưởng. Ông đâm nghi ngờ công cuộc đó có lẽ
không thể thực hiện nổi.
Thoạt đầu, trước lề lối cư xử biến đổi của ông, vợ con ông đều
ngạc nhiên; nhưng về sau phản ứng của mỗi cá nhân khác nhau.
Bà Hạ thấy bầu không khí trong gia đình nhẹ nhõm và dễ thở
hơn, nên lại vui vẻ và tươi tắn. Tuy nhiên sự vui vẻ của bà vẫn thoáng chút gắng
gượng và lo âu. Hình như bà nghi ngờ sự thay đổi tâm tính của ông chỉ nhất thời.
Nếu ông bộc lộ một sự khoan dung hơi quá đáng và thiếu tự nhiên, bà đôi khi
nhìn ông, dò hỏi và e ngại.
Tô vẫn giữ thái độ thản nhiên cách biệt, nhưng không hẳn ra mặt
lãnh đạm đối với bố. Tô không bất mãn, nhưng cũng không hề khuyến khích hành động
gây tình cảm với mọi người của bố. Tuy Tô sống ngay cạnh ông Hạ, ngồi học, đọc
sách cùng một phòng và cũng không tránh trao đổi những câu chuyện thông thường
với ông; nhưng nhiều khi ông vẫn cảm thấy thắc mắc về đứa con cả. Ông không hiểu
nên xếp Tô vào hạng người nào? Tại sao trẻ tuổi, Tô đã kín đáo và chín chắn như
vậy? Trước những câu khôi hài nhạt nhẽo của ông Hạ, Tô chỉ nhìn bố, đôi mắt
long lanh sáng không có ác cảm, thoáng ánh chế riễu nhẹ nhàng, và như thầm nói
“Ba cứ tiếp tục đi! Chẳng được bao nhiêu lâu đâu. Rồi ba sẽ trở lại thành ba
trước kia”.
Ông Hạ hơi cảm thấy ngượng trước cái nhìn sâu sắc thấu vào ruột
gan của đứa con cả.
Di không những lộ hẳn vẻ bực trước những cố gắng gây cảm tình
của ông Hạ, mà lại còn không để lỡ một cơ hội dù nhỏ nhặt nhất, để chứng tỏ nó
khinh miệt và coi thường bố hơn trước. Ông Hạ nói một câu khôi hài, Di cười ầm
ĩ như trêu tức: Ông cố gắng nói những câu êm dịu với vợ và Lan, Di đứng dậy ra
khỏi phòng; ông hỏi Di việc học hành, hắn chỉ trả lời nhát gừng.
Sau hơn nửa tháng trời gắng gượng đóng vai “người chồng người
cha kiểu mẫu”, đến một hôm ông Hạ cảm thấy chán nản tuyệt vọng. Hiển nhiên là ý
định của ông thật điên rồ và kịch cỡm. Ông định đánh lừa mình và vợ con mà
không nổi.
Ông cũng không hối tiếc những cố gắng vun xới lại hạnh phúc của
gia đình. Dầu sao ông cũng đã làm hết sức và dĩ nhiên nếu sau này có xảy ra
chuyện gì ông có thể tự bào chữa: Đâu phải lỗi tự ông.
Một buổi sáng chủ nhật trời gây gấy lạnh. Tiết trời bắt đầu
ngả sang thu. Ông Hạ ngồi đọc báo ở bàn, Di nằm dài ở divan cạnh cửa sổ nhìn ra
ngoài trời mưa, vẻ mặt đăm chiêu. Dạo này Di mãi bận tâm về một vấn đề khúc mắc
riêng tư nào đó, nên cũng ít khi cãi lộn hoặc to tiếng với bố. Tô nằm bò ra giường
viết lách, cạnh mẹ và Lan đang lúi húi khâu vá và nói chuyện rời rạc.
Trong ít ngày gần đây, tự nhiên ông thấy lời nói trở nên vô
ích. Ông cố gắng trao đổi càng ít lời với vợ con càng hay. Nói nhiều mà làm gì,
một khi ông đã ý thức dù có nói hàng nghìn lời âu yếm gắng gượng, ông cũng
không lôi kéo mọi người gần ông thêm chút nào.
Một bầu không khí nặng nề, uể oải bao trùm lên khung cảnh gia
đình. Cơn mưa phùn đầu mùa đánh dấu mùa thu đến.
Bỗng nhiên ông Hạ lên tiếng gọi Tô:
"Tô! Nghe ba đọc bản thông báo này của Phú Thủ Hiến!"
Mọi người – trừ Di – đều ngửng đầu lên, vẻ mặt chăm chú.
Thông cáo cho biết chính phủ cần gấp một số thanh niên tình nguyện gia nhập những
đoàn Quân thứ lưu động mới thành lập, để đảm nhận những chức vụ cán bộ xã hội
và tuyên truyền. Lương bổng khá lại được thêm tiền “feuille de route" hàng
ngày.
Đọc xong bản thông báo, ông Hạ đặt tờ báo xuống, với lấy ống
thuốc lào chậm rãi nhồi thuốc, hút và thờ khói mù mịt. Ông dình mò, chờ đợi một
sự thay đổi trong vẻ mặt Tô, qua làn khói trắng xanh. Dạo này ông thận trọng,
khôn ngoan và mềm dẻo hơn trong sự cư xử với đứa con cả. Có lẽ ông nên tránh
dùng áp lực để ép buộc Tô.
Tô có vẻ suy nghĩ. Hắn nhờ ông đọc lại kĩ càng những đoạn nói
về lương bổng, điều kiện gia nhập, công tác phải thực hiện v.v... Bà Hạ và Lan
kín đáo trao đổi một cái nhìn băn khoăn e ngại, đoạn cùng quay nhìn khuôn mặt
Tô.
Tô gõ gõ chiếc bút xuống giường, mặt lơ đãng nhìn mưa đan
nhau ngoài trời. Tự nhiên hắn nói bâng quơ:
"Mưa phùn đâm nhớ trại bà ngoại quá nhỉ: Lâu không về
quê chẳng hiểu cảnh quê nó ra làm sao nữa."
Mắt long lanh sáng, Tô ôn lại những kỷ niệm xưa cũ với mẹ và
Lan. Bà Hạ và Lan, giọng nói tha thiết cùng Tô góp nhặt từng kỷ niệm hình ảnh
nên thơ và mờ ảo của dĩ vãng, cố vẽ lại một quãng đời sống êm đềm đã qua. Tuy
nhiên mọi người đều cảm thấy Tô đã có một định ý rõ rệt trong đầu về thông cáo
trong báo, song chưa chịu nói thẳng ra.
Quả nhiên khi câu chuyện quê xưa đã tàn, Tô đột ngột nói:
"Được! Ý kiến hay đấy! Sáng mai con đến Phủ Thủ hiến ghi
tên tình nguyện gia nhập Quân thứ lưu động. Ờ! Nhân tiện có dịp xem ở quê hiện
giờ người ta sống ra làm sao. Chắc lắm chuyện hay."
Bà Hạ lo ngại hỏi:
"Công việc có nguy hiểm lắm không? Sao thấy ba nói là sẽ
phải hoạt động ngay tại những vùng Pháp vừa hành quân qua. Nhỡ Việt Minh lẩn quẩn
đâu đấy thì sao?"
Ông Hạ nhìn Tô, nhưng không nói gì. Nguy hiểm có làm con ông
ngại ngùng không?
Tô nhún vai đáp:
"Thanh niên công tác xã hội dính dáng gì đến quân sự. Nó
giết làm quái gì!"
Di nằm trên đi văng, mắt nhắm, cười khảy một tiếng và buông một
câu hằn học:
"Tụi Pháp! Di ghét tất cả tụi Pháp!"
Bà Hạ, Lan và cả chính ông Hạ hơi ngạc nhiên trước câu nói chẳng
ăn nhập gì đến chuyện đang bàn của Di. Tô nhíu cặp lông mày dậm một chút, miệng
phảng phất một nụ cười khó hiểu. Hắn nhìn Di, dáng chờ đợi.
Giọng nói nhát gừng của Di lại cất tiếng:
"Và Di khinh bỉ luôn những kẻ nào liếm gót giầy tụi Tây,
hoặc khờ dại để chúng lợi dụng..."
"Di ghét nhiều người nhỉ?"
Di mở mắt, từ từ ngồi dậy, vòng hai tay ôm hai đầu gối, nhìn
thẳng bức tường trước mặt. Một phút im lặng nặng nề trôi qua. Di lại nói:
"Thanh niên công tác xã hội! Hừ! Tây nó hiếp gái, đốt trụi
làng đi rồi mình đến công tác, an ủi vỗ về... Rõ thật cao thượng!"
Nghe luận điệu của Di, ông Hạ nhịn không nổi, mắng:
"Cái thằng lẩn thẩn! Mày nói năng gì mà kỳ vậy?"
Tô không nhìn bố, khoác tay ngăn ông đừng can thiệp vào câu
chuyện, bắt đầu gay gắt giữa hắn và Di:
"Di cứ nói tiếp đi!"
"Dĩ nhiên là Di sẽ nói tiếp còn nói nhiều là khác. Nôm
na Di muốn nói thẳng để anh rõ, anh sẽ bị lợi dụng nếu gia nhập Quân thứ lưu động.
Cái thằng giám đốc đoàn Quân thứ lưu động được Tây cho ít tiền đã vội cuống lên
làm vừa lòng các quan thầy..."
Tô vặn:
"Ai cho Di biết những chuyện ấy?"
Di lừng khừng đáp mơ hồ:
"Nhiều bạn của Di."
"Bạn của Di có lẽ biết nhiều chuyện quá đấy!"
"Chắc chắn là họ biết nhiều chuyện hơn những người ngây
thơ và dễ tin, như anh chẳng hạn. Nhưng anh cứ gia nhập và đi đi. Di không can
đâu."
Tô không cãi lại em, có vẻ suy nghĩ, một bàn tay đặt lên vai
Lan, ngón tay nghịch nghịch với mấy món tóc mềm chảy sõa xuống lưng. Lan rúc
rích cười, rút cổ và so vai lại:
"Anh làm em buồn!"
Tô nhẹ nhàng hỏi em gái:
"Ý kiến Lan thế nào?"
"Em ấy hả? Em thấy cả hai anh đều gàn... Ấy! Anh đừng
kéo áo em! Áo mạng nhiều chỗ quá, anh đụng mạnh vào đâu đó cũng bục ra."
Tô hạ tầm mắt xuống, chăm chú ngắm chiếc áo mặc trong nhà đã
bạc mày giặt nhiều chất vải mỏng tanh và xơ xác của Lan. Bà Hạ rụt rè hỏi:
"Tô! Con nhất định rồi đấy à? Nếu nguy hiểm thế, con gia
nhập làm gì?"
Tô giọng đùa cợt:
"Mẹ đừng lo! Con chết thế quái nào được. Me thường bảo
theo số tử vi con sống đến 80 tuổi cơ mà. Vả ở lại nhà có hai đứa con trai lớn,
một đứa đi thì một đứa ở lại nhà. Đâu me đã sợ tuyệt tự."
Thấy môi mẹ hơi run run và mắt nhìn van lơn, Lan trách anh:
"Anh chỉ được cái bạo miệng. Anh làm me sợ rồi đấy!"
"Để rồi lĩnh lương tháng đầu, anh mua cho Lan và me mỗi
người một chiếc áo lụa mới là hết sợ ngay ấy mà. Me! Me hài lòng chứ?"
Bà Hạ cúi đầu xuống mắt chớp chớp. Trước sự cương quyết của đứa
con trai đầu lòng, bà không biết nói gì hơn.
Tô lấy ngón tay nâng cằm mẹ lên, bắt nhìn vào mắt mình. Bà Hạ
mỉm một nụ cười gượng gạo để con yên lòng. Ông Hạ thở ra nhẹ nhõm khi biết chắc
Tô sẽ gia nhập Quân thứ lưu động. Tuy không nói ra miệng, ông Hạ cho rằng băn
khoăn về vấn đề sẽ bị Pháp lợi dụng hay không thật thiếu thực tế. Mang sức mình
ra kiếm tiền có gì đáng xấu hổ. Có ai lại muốn những cảnh giết chóc. Sống trước
đã!
Nhưng Tô không quên cuộc thảo luận vừa rồi giữa hắn và Di.
Ông Hạ ngạc nhiên không hiểu sao các con trai ông đều để tâm đến những vấn đề,
hoặc ông không ngờ tới, hoặc ông biết nhưng không mấy bận tâm. Chúng bàn cãi
hăng hái một cách thực tình. Ông không hiểu chúng muốn tìm tòi cái gì nhưng
chúng thật khác xa ông xưa kia. Dĩ nhiên, thường thường ông bỏ ngoài tai những
sự thảo luận sôi nổi của các con trai. Nhưng, đôi khi chúng làm ông e ngại:
Chúng suy nghĩ nhiều quá nên trí óc và tâm hồn thiếu quân bằng.
Ông Hạ ngồi hút thuốc lào theo rõi cuộc đấu khẩu giữa hai anh
em. Ông biết có can chúng cũng bằng thừa. Chúng lăn mình vào cuộc thảo luận. Những
lời nói quất đi quất lại như những làn roi.
Tô quay hẳn về phía Di, nói tiếp câu chuyện dở dang:
"Như anh đã có dịp bàn bạc với Di trước đây, thực ra anh
ghét rất nhiều điều mà Di không hay biết. Anh ghét tụi Pháp! Hiển nhiên là vậy.
Di nên nhớ dạo anh đi buôn anh đã gây sự với mấy thằng Tây đóng đồn và bị chúng
lôi vào đồn đánh cho một trận nên thân. Dạo đi làm bên Gia Lâm, vì sơ ý và cả
tin, anh đã để bọn phu lấy cắp mất một ít dụng cụ lặt vặt. Thằng đốc công người
Pháp mắng anh là “cochon, salaud anamite”. Anh đã tức giận run rẩy cả người.
Nhưng anh không thể chửi mắng tay đôi với nó, một phần vì không quen và không
thể nói được những câu tục tằn thô bỉ, phần khác anh muốn mỉa mai cay độc nhưng
tiếng Pháp kém, cổ họng anh cũng nghẹn, anh chỉ đứng ngẩn ra..."
Tô mỉm một nụ cười nửa buồn bã, nửa như muốn chế riễu chính
mình. Thuật lại một câu chuyện nhục nhã, giọng Tô bình tĩnh một cách khác thường,
làm như người bị nhục không phải là hắn.
"Lần đầu tiên bị sỉ nhục, anh hình như mất hẳn lý trí. Tất
cả chung quanh anh quay cuồng. Anh choáng váng và trong một lúc anh tưởng chừng
anh không còn nữa, chỉ là một khối hỗn độn, không đầu không đuôi. Anh đã đứng một
mình tại một chỗ khuất vắng, nhìn ra khoảng rỗng của mấy sân bay cũ, và anh
khóc lúc nào không hay. Vào giây phút ấy, anh hiểu tại sao người ta có thể giết
người được. Ngay buổi sáng hôm đó anh xin nghỉ việc. Và mặc dầu anh đã tìm gặp
thằng đốc công Tây, nhìn thẳng vào mặt hắn, với cái vốn liếng Tây giả cày của
anh, anh cố dồn hết tất cả sự khinh bỉ của anh vào một câu chắp nối lủng củng
và bảo cho “Monsieur le contre maitre"biết anh không “kính trọng"những
hạng người như nó. Anh cũng không thể quên những điều anh khám phá ra được về...anh.
Hiện giờ nhớ lại anh thấy anh thật phi lý. Tại sao anh lại đã muốn giết hết bọn
Pháp, bất cứ đứa nào và bằng bất cứ cách nào..."
Di ngắt lời anh, giọng đanh lại:
"Anh muốn giết là phải. Di hiểu anh! Tại sao anh lại cho
là phi lý?"
Tô hơi do dự một chút đáp:
"Anh không chắc có thể giải thích được rõ ràng tại sao
phi lý. Nhưng có điều anh chắc nhất là anh cố gắng chế ngự để anh không nổi
điên lên như một con chó đại, và chỉ vì oán hận một thằng đốc công mà oán lây
sang tất cả những người Pháp khác."
Di nóng nảy giơ tay ngăn Tô lại:
"Thôi! Anh nói thế em đã hiểu rồi! Vẫn cái luận điệu cứng
nhắc cũ rích của anh. Một người ác đểu giả không có nghĩa tất cả mọi người ác
và đểu giả! Nghe anh chướng tai không chịu được... Nghĩ đi nghĩ lại em thấy anh
thế nào ấy. Thiếu tự nhiên. Đúng rồi! Anh không dám nhìn thẳng vào sự thật. Anh
chỉ tìm cách đánh lừa chính anh. Anh không dám tự công nhận là anh ghét độc
ghét địa một người nào! Anh chỉ tìm cách vịn vào cái thuyết giả tạo anh bịa ra,
để khỏi hổ thẹn vì đã không dám hành động. Em thì em đánh cho thằng đốc công mấy
cái tát rồi ra sao thì ra... Ít nhất em cũng không hèn!"
Khi bị em ám chỉ mình là “hèn"lông mày của Tô hơi nhíu lại.
Hắn tỏ vẻ khó chịu như phải nghe một câu nói vô ý thức của trẻ con.
"Di tưởng anh chỉ tìm cách tô xanh đỏ những hành động cũ
của anh phải không? Di đâu biết anh đã khổ sở biết bao nhiêu sau những hành động
của anh và hiện giờ nghĩ lại sự đau khổ của anh cũng không hề giảm bớt."
Di cười khảy mỉa mai:
"Khổ thì kêu lên, đấm đá, đâm chém cho hả dạ. Nghĩ ngợi
suy tưởng làm bớt khổ được à?"
Nghe câu nói dữ tợn của Di, bà Hạ vội nói giọng van lơn:
"Thôi hai anh em đừng cãi nhau nữa! Me sợ lắm! Các con
làm me nhức cả đầu, chẳng biết nghĩ sao cho phải!"
Di vùng đứng dậy nói gần như quát với anh:
"Nghĩ đi! Anh cứ tiếp tục nghĩ đi! Chẳng đi đến đâu hết!"
"Anh cứ nghĩ, và còn nghĩ ngợi nhiều nữa. Và anh hành động.
Di đừng quên điều đó! Anh sẽ nhập đoàn Quân thứ lưu động. Đấy là điều vào giây
phút này anh nhất định làm. Đó là quyết định của anh."
"Quyết định làm thày tớ cho mấy thằng liếm gót giày tụi
Pháp!"
Tô há miệng định cãi nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Hắn mím môi
hai cạnh miệng chĩu xuống. Trên khuôn mặt thường khi lạnh lùng của Tô, một vẻ
kiêu hãnh mới lạ vừa xuất hiện. Di mãi say sưa trong thảo luận nên không lưu ý
đến sự thay đổi trong thái độ của anh. Hắn nóng nảy đợi một sự giải thích, đối
đáp của anh. Sự rút lui quá sớm của Tô khiến Di ngạc nhiên, bực mình và thất vọng.
Mọi người tưởng câu chuyện giữa hai anh em đã kết liễu nhưng rồi Tô lại đột ngột
hỏi Di:
"Mày chẳng hãy còn nhớ cái chết của bác Hai không? Và
bác Bằng gái, anh Đại bị Vẹm bắt cầm tù đến nay cũng chẳng biết sống chết ra
sao? Và chính gia đình mình, Vẹm chẳng theo rõi đuổi bắt, làng ngày qua làng
khác? Đến nỗi phải hồi cư về thành mới yên thân? Mày có thấy những người vô tội
bị bắt giết cầm tù phi lý không? Bác Hai lành như bụt, suốt đời không dính đến
chính trị. Thủ tiêu bác ích gì?...Tại sao hả? Tại bác Hai là anh của bác Bằng
trai. Mà bác Bằng trai hoạt động chính trị, đối lập với tụi Vẹm, đánh nhau với
Vẹm, giết chúng. Thật buồn cười và vô lý phải không mày? Nhưng những chuyện đó
'đã' xảy ra, không ai có thể chối cãi gì được, kể cả mày...!"
"Mặc các bác! Di không cần biết! Các bác thù Vẹm, đó
chuyện riêng của các bác. Mỗi người một hoàn cảnh! Di chỉ cần biết có Di, Di chỉ
cần giải quyết những vấn đề của Di theo lối của Di mà thôi!"
Ông Hạ quan sát khuôn mặt có sắc giận của Tô, ngạc nhiên và
nghi ngờ. Tại sao Tô lại mang chuyện các bác ngoại nó hoạt động chính trị ra
đây nói làm chi? Vấn đề đó liên quan gì đến việc Tô tham dự Quận thứ lưu động?
Ông có cảm tưởng không biết có đúng hay không, Tô mang các bác nó ra để biện
minh cho hành động của hắn, và đánh đổ mọi lập luận của Di.
Tô nhìn thẳng vào mặt Di, giọng sắc, gay gắt và khinh bỉ:
"Thế thì Di cứ việc tiếp tục lo cho thân Di! Hành động
theo ý Di và để mặc anh. Can thiệp vào những hành động của anh làm quái
gì...?"
Di hằn học nhìn anh, mặt tái lại vì tức giận. Nó vùng đứng dậy
và đầu trần, không khoác áo mưa, hắn rời khỏi nhà đi đâu không biết.
Sự im lặng nặng nề khó thở bao trùm lên mọi người. Tiếng mưa
rơi bắt đầu nặng hạt, trên mái ngói văng xuống nghe rõ mồn một. Khuôn mặt Tô trở
lại bình thản – một sự bình thản khó hiểu và dày đặc tựa một chiếc mặt nạ. Hắn
loay hoay vẽ những hình thù nhằng nhịt lên mặt giấy. Bà Hạ lúi húi khâu, thỉnh
thoảng lại liếc nhìn Tô. Bỗng nhiên Lan buông kim khâu kêu “ái" một tiếng,
và suýt soa giơ một ngón tay lên trước mặt:
"Me! Kim của me cũ quá vừa khâu đã gãy làm mấy mảnh làm
con chảy máu đây này! Có lẽ phải chập hai chiếc kim làm một mới khâu xong chiếc
áo của con..."
Giọng nói trong trẻo của Lan khiến bầu không khí nhẹ hẳn đi.
Bà Hạ mỉm cười. Tô nhìn em gái cho ngón tay vào miệng mút chùn chụt và cũng mỉm
cười. Ông Hạ hỏi Tô:
"Tô à! Con nhớ sắm một chiếc áo mưa mới và bảo Lan đan
cho một chiếc áo len. Mùa này khí hậu vùng quê bắt đầu lạnh rồi đấy!"
Tô liếc nhìn bố tủm tỉm cười không nói. Trong một giây ngắn
ngủi ông Hạ có cảm tưởng giữa ông và đứa con đầu lòng, một sự cảm thông mặc dầu
mong manh, vừa ló hiện.
Khoảng một tuần lễ sau. Từ biệt gia đình lên đường theo đoàn
Quân thứ lưu động về hoạt động ở các vùng núi đá vôi, đồng chiêm miền Đông triều.
Di vắng mặt tại gia đình vào hôm Tô ra đi.
Tô vắng mặt đã gần được một tháng trời. Cuộc sống trong gia
đình ông Hạ trầm hẳn xuống. Tuy không ai bảo ai, mọi người – kể cả ông Hạ – đều
mong mỏi một lá thư của Tô, hăm hở tìm kiếm một tin tức dù nhỏ bé, hay bất cứ một
bản thông tin nào trên báo liên quan đến những hoạt động của các đoàn Quân thứ
lưu động, hay tình hình chiến sự tại khu vực Đông Triều. Mong thư Tô thật vô lý
vì Tô đã giao hẹn trước khi đi sẽ không viết thư về nhà. Tính nết Tô trong gia
đình ai cũng rõ: Ra đi hắn ghét người đưa tiển, trở về ghét người đón rước và hắn
ghét luôn cả những tình cảm dễ dãi, sướt mướt. Hôm hắn đi, bà Hạ muốn khóc lắm,
mà cũng không dám. Trước nụ cười thoáng chế diễu và nét mặt thản nhiên cả quyết
của Tô, mọi người đều cảm thấy những sự bộc lộ tình cảm hình như đều trở thành
khôi hài.
Di vắng nhà luôn luôn, lầm lì và không hề đả động đến anh. Thỉnh
thoảng vài thanh niên đến tìm hắn. Không ai rõ Di và những người bạn mới này
bàn bạc những gì. Họ đều cố ý hạ thấp giọng thì thầm vào tai nhau, hoặc kéo
nhau ra một hàng cà phê nhỏ đầu phố chuyện trò cho kín đáo.
Một hôm tình cờ thấy ảnh Tô trên một tờ báo, ông Hạ mua về
đưa mọi người xem. Ảnh chụp Tô đang xay gạo, cởi trần mồ hôi nhễ nhại, mặt xem
đen, miệng cười để lộ hàm răng khoẻ mạnh. Một người đàn bà nhà quê dắt mấy đứa
con nhỏ, đứng cạnh Tô dưới một tấm biểu ngữ “Quân thứ lưu động là bạn dân”.
Bà Hạ nửa cảm động, nửa vui kêu lên: “Chà! Thằng Tô trông khoẻ
hẳn ra! Có xương có thịt hẳn hoi!"Lan tò mò hỏi mẹ: “Me! Anh Tô biết xay gạo
thật đấy à? Hay anh giả vờ lấy điệu để chụp ảnh?"Bà Hạ cười đáp “Có chứ! Hồi
nhỏ về trại bà anh Tô mày đã xay nổi hơn trăm vòng liên tiếp!"Di ngắm chiếc
ảnh chăm chú, một nụ cười mai mỉa thoáng hiện. Hắn lẩm bẩm “Q.T.L.Đ. là bạn
dân! Hừ! Giả dối thất! Thật là trò múa rối!"Hắn quăng trả mẹ tờ báo, trở về
bàn làm việc. Không dự vào câu chuyện của mọi người. Bà Hạ cúi đầu im lặng
không bênh Tô. Sự bất hoà giữa hai con trai trong khoảng thời gian gần đây là một
mối lo âu đè nặng thêm lên vai bà. Lan thở dài một tiếng, thốt lên một lời ghen
tị “Đàn ông thật sướng! Muốn đi đâu thì đi, làm gì mặc ý...!"Lan gọi giật
mẹ, giọng kinh ngạc, làm như tình cảm nẩy nở trong tâm hồn nó rất mới lạ: “Mẹ!
Con nhớ anh Tô quá mẹ ạ! Anh ấy đi xa nhà vắng hẳn đi. Ai cũng ngơ ngơ ngẩn ngẩn”.
Ông Hạ cầm ảnh Tô lên, lặng lẽ ngắm nghía. Ông tưởng như nhìn thấy hình ảnh ông
hồi trẻ tuổi. Tô thật giống ông, cũng khuôn mặt, cặp mắt, nụ cười đó. Tuy nhiên
khuôn mặt thoáng một vẻ kiêu hãnh lặng lẽ của Tô, khiến ngay khi cười, hắn cũng
vẫn xa cách và không gây được cảm tình với mọi người.
Nhìn thân hình tuổi trẻ, đầy sinh lực, tương phản hẳn với
khung cảnh hoang tàn của chiến tranh, ông tự hỏi Tô sung sướng hay khổ sở trong
công việc hiện tại. Chắc chắn phải chịu đựng rất nhiều kham khổ và thiếu thốn
trong cuộc sống nay đây mai đó của đoàn Quân thứ lưu động. Một cảm giác nửa buồn
bã nửa kiêu hãnh khiến ông đăm chiêu. Ông chỉ biết mong Tô trở về và lo ngại biết
đâu Tô có thể chết được vì mình và Việt Minh tấn công, nhưng ông đâu ngờ ông vừa
nghĩ về đứa con trai cả như là một người có một đời sống biệt lập, không lệ thuộc
vào ông trên bất cứ phương diện nào.
Sau hơn hai tháng hoạt động liên tiếp, Tô được về gia đình
nghỉ phép mấy ngày. Ngay khi Tô bước chân vào nhà, mọi người đều thấy ngay Tô
đã thay đổi khá nhiều. Cử chỉ dáng điệu rắn rỏi hẳn lên, ra dáng một người quen
chỉ huy. Hắn cười dễ dàng hơn xưa. Bà Hạ và Lan mừng rỡ cuống quít, bám lấy Tô
không rời một bước. Lan khoái trá ra mặt. Lần đầu tiên trong đời nàng được đóng
vai trò cô em gái nhở có người anh đi xa về – mặc dầu xa nhà có hai tháng. Lan
tò mò lục hết các túi lớn nhỏ của chiếc túi dết của anh. Vật gì cũng khiến Lan
ngạc nhiên và hỏi Tô những câu oái oăm và bất ngờ. Có lẽ từ lâu lắm, gia đình
ông bà Hạ mới được hưởng những giây phút khoái hoạt đầy kích thích như buổi đó.
Di sau khi gật đầu chào anh, vẫn ngồi yên một chỗ, dáng điệu vẻ mặt nóng nảy.
Di cũng để lộ một vẻ lo âu e ngại trên nét mặt. Tô không để lọt
qua mắt thái độ của Di.
Sau bữa cơm chiều đầy tiếng cười nói của Tô và Lan, những câu
hỏi về những chi tiết ăn uống, ăn mặc của bà Hạ, những câu chuyện hàn huyên, cuộc
“thẩm vấn" kẻ đi xa về thực sự bắt đầu.
Trả lời một câu hỏi của ông Hạ, Tô cho biết theo đề nghị của
anh em, hắn đã nhận chức trưởng ban Xã hội kiêm Tuyên truyền, điều khiển hơn 20
thanh niên, phần lớn nhiều tuổi hơn hắn. Ông hỏi có tiền phụ cấp chức vụ hay
không, Tô trả lời giản dị:
"Con không rõ? Nhưng dĩ nhiên con vẫn nhận làm trưởng
ban. Họ sở dĩ bầu con, cũng chỉ vì con khá ngoại ngữ và ăn nói tạm được."
Câu chuyện kéo dài tưởng không bao giờ dứt. Tô có bao nhiêu
chuyện để kể. Khi hắn muốn, Tô có thể trở thành một người kể chuyện rất duyên
dáng, dí dỏm và đôi khi châm biếm. Qua những lời nói của Tô, những nhân vật sống
liên tiếp theo nhau xuất hiện trước mặt mọi người. Chỉ cần nêu một chi tiết nhỏ
nhặt, một tật xấu, một thói quen kỳ khôi, một đặc điểm thể chất, Tô cũng đã
miêu tả ngay được rõ rệt, linh động một người bạn hắn: Ông Trưởng đoàn, nhưng
sĩ quan Bảo chính chỉ huy đại đội binh sĩ bảo vệ cho đoàn Quân thứ lưu động
v.v...
Tất cả mọi người – kể cả Di – đều bị câu chuyện Tô kể hấp dẫn.
Di Ánh mắt long lanh, nhìn anh không rời, nhưng không hỏi anh lấy một câu.
Thoạt tiên, Tô nói đến đời sống du mục của Q.T.L.Đ. nay làng
này mai làng khác. Hắn nhắc đến tên những làng xa lạ, ngay đến ông Hạ cũng mới
nghe thấy lần đầu; hoặc đã nghe thấy từ trước, nhưng không hề có một ý niệm
làng đó thực sự nằm vào vùng nào. Nhìn khuôn mặt đen sạm, đôi mắt lúc mơ màng,
lúc nhiệt thành, đôi khi thoáng một ánh thần bí là lạ của Tô, ông tự nhiên cảm
thấy đời sống của bọn trẻ bây giờ sôi nổi, xúc tích hơn ông nhiều lắm, và có lẽ
chúng nhìn đời cũng với những con mắt khác ông.
Một cánh cửa vừa hé mở đâu đây và ông thấp thoáng thấy những
mầu sắc rực rỡ, những ý nghĩa mới mẻ của cuộc đời.
Giọng nói trầm trầm của Tô vẳng lên:
"Bọn này đi qua không biết bao nhiêu làng mà kể. Mới đầu
Tô còn chịu khó ghi tên các làng vào một cuốn sổ, nhưng về sau cũng đâm chán.
Ghi mãi cũng phải mỏi tay chứ! Vùng Đông triều thật nhiều cảnh lạ. Tô còn nhớ lần
đầu tiên bọn này đặt chân tới hoạt động: Thanh hà. Sau mấy giờ đồng hồ trên sà
lan nhỏ, đáy phẳng của nhà binh, vượt qua những khoảng đồng lau sậy ngập nước rộng
mênh mông, không bóng một người hay một chiếc thuyền, bọn này mới đổ bộ lên
làng. Tô không ngờ nước mình lại có những chỗ cảnh vật bao la đến thế! Và sự im
lặng bao trùm lên cảnh vật thật lạ lùng... Chỉ nghe thấy tiếng gió thổi qua lau
sậy và tiếng quạ kêu."
Lan giọng háo hức:
"Rộng đến thế kia hở anh? Thú nhỉ! Thế anh có sợ
không?"
"Không sợ nhưng cũng rờn rợn. Bọn này cười đùa pha trò ầm
ĩ, nhưng chỉ được một vài tiếng đồng hồ đầu. Về sau, một phần mệt, phần thấy
vui đùa nó lạc lõng thế nào ấy, nên đều bớt mồm miệng. Một số nói chuyện thì thầm,
một số đăm chiêu ngắm cảnh vật. Riêng Tô, không hiểu sao cảnh vật lại rất xa lạ
và mang một vẻ đe doạ khó tả. Hình như mình là một kẻ cướp xâm phạm vào đất kẻ
khác. Những lùm cây xanh đục lờ mờ của các làng cạnh sông, những cây sậy lau,
những đám rong ẩn hiện dưới đáy nước đều như những con mắt rình mò bọn
này."
Di tự nhiên buông một câu:
"Anh Tô chỉ khéo vẽ vời! Chớ có gì mà sợ. Chỉ có Việt
Minh thôi!"
"Việt Minh? Chẳng thấy bóng chúng đâu mà ngay cả đến
chúng cũng vậy. Bước chân lên làng, hầm hố giao thông hào ngang dọc, nhà cửa bị
Tây hành quân qua đốt cháy gần hết. Mấy tháng bạn của Tô bảo nhau “Mình đi giúp
dân mà đếch thấy dân đâu mà giúp. Không chừng chưa giúp được ai mà chết đói rã
họng”.
Bà Hạ hỏi:
"Thế bọn con có mang theo nhiều đồ ăn dự trữ
không?"
"Không! Chỉ đủ ăn bữa trưa hôm đó. Ăn xong bọn này, hăng
hái và liều nhất, chia nhau đi lùng khắp làng tìm dân."
Ông Hạ hỏi:
"Bọn thanh niên của con không được võ trang à?"
"Mang súng làm quái gì cho nặng mình. Bọn công an và
hành chính người nào cũng có súng lục. Ông Trưởng đoàn định lấy ít súng của Đại
đội Bảo Chính cho bọn này mượn, nhưng con từ chối. Hoạt động xã hội mang súng
chướng chết!
Ông hơi chột dạ nghĩ bụng, Tô liều thật, nhưng nó cũng có lý
riêng của nó. Tô kể tiếp:
"Vui lắm me ạ! Tóm dân làng không được, bọn này tìm thức
ăn vậy. Chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, thằng thì bắt được con gà, thằng hái được mấy
bó rau muống, thằng khám phá ra được một vựa thóc chôn ngầm dưới đất, tụi Tây
tìm thấy trước nhưng không mang đi nổi. Bọn này hè nhau thằng xay, thằng giã,
thằng sàng, thằng quạt. Chiều đến ăn cơm gạo mới, thịt gà luộc, kho, canh rau
muống. Ngon ra phết!"
Bà Hạ kêu lên:
"Lấy của dân mang tiếng chết!"
"Đâu có lấy không! Ít hôm sau dân về đông đầy làng, bọn
này mang tiền trả thóc, gà; lại còn lấy tiền quĩ mua thóc của họ, giúp họ xay,
giã lấy gạo ăn."
Lan cười bàn góp:
"Giống như trong bức ảnh."
Tô ngơ ngác:
"Bức ảnh nào?"
Lan tìm bức ảnh cắt trong báo, đưa cho anh xem.
Di cười khẩy một tiếng khô khan. Tô ngắm ảnh mình, nét mặt chợt
nghiêm trang và già hẳn đi. Một ánh khắc khoải thoáng hiện trong đôi mắt xâu của
hắn. Hắn chỉ ngón tay vào người đàn bà quê, ngồi bó gối mắt buồn rười rượi ở
góc bên. Giọng hắn ngập ngừng:
"Người đàn bà này bị Tây…"
Tô liếc nhìn mẹ và Lan, ngừng nói. Hai khoảng hồng xuất hiện
trên gò má bà Hạ. Ông Hạ đoán biết lý do khiến Tô do dự, nên bất giác đằng hắng
một tiếng, kín đáo nhìn Tô. Ông chưa tìm được câu hỏi nào để kéo câu chuyện về
một hướng khác, Lan đã ngây thơ và tò mò dục anh:
"Anh nói tiếp đi chứ! Người đàn bà ấy làm sao?"
Ông Hạ mắng gắt Lan:
"Cái con quỷ này! Biết gì mà hỏi."
Lan ngơ ngác đưa mắt nhìn mọi người, đoạn chắc cũng chợt hiểu
nên mặt đỏ lên như rần. Câu nói đột ngột và sỗ sàng của Di, đến như một mũi
tên:
"Việc gì anh Tô phải ngần ngại, che đậy! Cứ nói trắng ra
bị Tây hiếp có tiện không? Chuyện đó thường xảy ra, hơi đâu bi thảm hoá làm
chi!"
Mặc dầu cố ý làm giọng nói của nó thật cay độc, thật mỉa mai,
Di cũng không xúc phạm nổi Tô. Tô ngồi dậy, nhưng hình như tách biệt hẳn khỏi mọi
người. Hắn bắt đầu kể chuyện về “người đàn bà”. Giọng đều đều như máy, trần trụi
tình cảm. Không một ánh oán hận, thù ghét, thương xót ló hiện trong mắt hắn. Tô
đã nghĩ đi nghĩ lại về câu chuyện đó rất nhiều lần, và dần dần từng tình tiết ý
nghĩa của câu chuyện thấm vào tâm hồn hắn, ăn xâu vào tiềm thức hắn. Hiện giờ
chính miệng hắn mấp máy, các âm thanh phát ra, nhưng mọi người hình như đang
“nghe"một nhân vật Tô khác xa lạ, không phải Tô thường khi.
"Theo dân làng kể lại, người đàn bà ấy bị Pháp chia nhau
hiếp hơn mười lần, chết đi sống lại, trước mắt mấy đứa con. Chồng bà trước trước
đấy ít lâu bị Việt Minh bắt đi làm dân công. Chắc bà ta có thể phát điên dại, nếu
không có mấy đứa con còn cần nuôi nấng trông nom. Khi bọn này tới làng, bà ta
đã có mang khoảng 4, 5 tháng. Hỏi, bà ta kể lại tỉ mỉ 'tai hoạ' đã xảy đến cho
mình, giọng đều đều, không khóc lóc vật vã. Không hiểu sao, suốt trong thời kỳ
này đóng tại làng, bà ta cứ luẩn quẩn quanh chỗ bọn này ở. Hễ Tô bước chân khỏi
nhà, đã thấy bà ta ngồi bó gối ở đầu hiên, hoặc một góc vườn. Bọn này giúp tiền,
quần áo cũ, gạo, đôi khi nhờ vài việc vặt. Tô tự hỏi chắc có một lý do gì xô đẩy
bà ta gần bọn này. Về sau Tô tìm ra: Đó là thái độ dân làng đối với bà ta,
không ai xua đuổi hất hủi hay ghét bỏ bà ta, nhưng mọi người không ai bảo ai đều
cố tránh tiếp xúc với bà ta càng ít càng hay. Theo Tô biết, nhiều người giúp bà
ta gạo, thức ăn, nhưng giúp đấy để rồi tránh ra cho nhanh...như tránh một người
mắc bệnh hủi. Họ sợ! Nhưng sợ cái gì, trốn tránh cái gì?"
Bà Hạ thở dài, giọng xót thương:
"Tội nghiệp!"
Lan môi mím lại và tự nhiên thốt lên một câu giận dữ, khiến mọi
người ngạc nhiên:
"Tụi khốn! Dã man..."
Tô cũng phải ngạc nhiên, trước phản ứng mạnh mẽ của cô em nhỏ.
Hắn tiếp:
"Đứa con trai lớn của bà ta, khoảng 12 tuổi, nhất định
van xin bọn này cho đi theo 'hầu hạ', bỏ mặc mẹ tại làng. Nó không lấy gì làm
thông minh và cũng giống trăm nghìn đứa trẻ quê mùa khác. Nhưng thỉnh thoảng nó
ngồi bó gối im lặng, mắt đỏ ngầu. Tô có cảm tưởng nhớn lên nó có thể giết người
dễ dàng..."
Di ngắt lời anh:
"Đúng vậy! Giết hết bọn Pháp là xong!"
Tô hỏi lại em:
"Di có chắc đó là giải pháp hay độc nhất hay
không?"
"Em hỏi anh một câu. Một câu thôi! Anh nghĩ gì về trường
hợp người đàn bà ấy? Nãy giờ anh chỉ kể lại mà chẳng hề cho biết ý kiến
riêng."
Giọng Tô xa xôi và câu trả lời cũng khó hiểu:
"Anh nghĩ rất nhiều về chuyện đó. Còn ý kiến của anh…
Nhưng thật ra anh cũng chưa có một ý kiến rõ rệt nào. Anh thấy trường hợp của
anh bây giờ cũng không khác trường hợp của người đàn bà đó bao nhiêu. Anh chỉ
biết một điều. Anh..."
Di nóng nảy chờ đợi, nhưng Tô ngừng nói, lảng sang chuyện
khác:
"Chết chửa, nãy giờ toàn nói chuyện đâu đâu, quên cả những
chuyện thú vị trong đời sống “du tử"của bọn này. Me và Lan có biết không,
bọn này...."
Di chưng hửng. Nó thất vọng ra mặt. Đôi mắt nóng nảy, bốc lửa
của hắn nhìn soi mói khuôn mặt Tô. Hắn hậm hực, bực tức nhưng rồi cũng đành ngồi
yên.
Tô kể tiếp:
"Bọn này nếu hôm trước đến một làng hoang vắng dân bỏ đi
hết, hôm sau chia nhau đến các làng lân cận lôi dân về. Trời mưa, trời nắng mặc
kệ, bọn này say lên vì đi bộ. Lội bùn ngập đến đầu gối, gặp sông chắn ngang đường
cầu đã bị phá đổ, cởi phăng quần áo đóng bè chuối vượt sông. Tối trở về mệt rã
rời lăn ra ngủ. Ấy thế mà sáng hôm sau đã lại tranh nhau đi nữa, không ai muốn ở
nhà giữa một khung cảnh thê lương thiếu hơi người. Thường thường khoảng 4, 5
ngày sau dân trốn tránh tại các làng chung quanh mới ùn ùn kéo về làng bọn này
đóng, dựng lại nhà cửa. Lúc đó bọ này mới được nghỉ ngơi đôi chút và làm quen với
dân..."
Di ngắt lời, giọng nghi ngờ:
"Miễn là họ để cho mình làm quen!"
Từ lúc bắt đầu câu chuyện đến giờ, lần đầu tiên khuôn mặt Tô
căng thẳng và một vẻ khắc khoải lẫn lộn với một sự điên dại vẫn kìm giữ được,
xuất hiện trong đôi mắt hơi sếch của Tô.
Di nghi ngờ là phải! Nói nghe có vẻ giản dị, nhưng thực ra
công việc làm quen với họ rất khó và riêng với Tô nặng nhọc không kém một cực
hình..."
Lan bất mãn:
"Anh chỉ nói quá! Em không tin! Anh đến để giúp họ cơ
mà!"
Bà Hạ cũng đồng ý với Lan:
"Các con mệt nhọc vì họ, họ cũng phải biết ơn chứ?"
"Một người giúp nhưng lại có đến mười người phá..."
Tô im lặng một phút.
Ông Hạ hỏi một câu mà không biết trước là thừa vì đâu ngu đến
nỗi tin tưởng tổ chức Quân thứ lưu động gồm toàn những người nhiệt thành và lý
tưởng như Tô.
"Ai phá?"
"Ai phá? Tất cả mọi người trừ dăm ba người: Một thiểu số
thật mỉa mai và lạc lõng."
Di bàn góp:
"Chắc hẳn trong thiểu số lạc lõng đó có anh? 'Những kẽ lạc
lõng!' Hừ! Sao câu đó đúng thế không biết!"
Bà Hạ nhìn Di, trách móc:
"Tại sao con hay bàn ngang thế? Để anh nói chuyện cho
yên... Con ở nhà làm sao biết những nỗi khó khăn mệt nhọc của anh được."
Khuôn mặt Di tối sầm lại. Hắn liếc nhìn rất nhanh Tô ngồi giữa
me và Lan, đôi mắt trở nên dữ tợn. Hắn vừa bị gạt ra khỏi những nỗi buồn vui của
mọi người.
Càng kể chuyện giọng Tô càng mải mê và dần dần mất hẳn vẻ
lãnh đạm xa cách lúc ban đầu.
"Không bao giờ Tô quên nổi buổi đầu tiên Tô nói trước
dân chúng. Việc tuyên truyền là nhiệm vụ của bọn này, nên bọn này cũng phải
chia nhau đến các gia đình trong làng mời họ đến nghe. Khi họp nhau lại phân
công, Tô là trưởng ban dĩ nhiên sẽ là diễn giả chính. Buổi đầu ra mặt, anh nào
cũng hăng hái nhưng cũng đều lúng túng như nhau. Thuở bé đến giờ đã tuyên truyền
ai bao giờ đâu. Thằng bàn 'Phải có ca nhạc mới nhộn nhịp. Tao sẽ chơi đàn, thằng
Quân hát'. Thằng khác bảo 'Mít tinh thường phải hô khẩu hiệu cho hăng, Thằng Tô
nói xong, ra hiệu bọn này la mấy khẩu hiệu cho xôm trò'. Một thằng dụt dè góp ý
'Có nên diễn một vở kịch ngắn không. Dân chúng lâu không được xem kịch chắc thú
lắm!”'Nhưng không ai bảo ai, mọi người đều tránh không đề cập đến việc 'Tô sẽ
nói cái gì với dân'. Và Tô thấy không ai nhắc đến vai trò diễn giả, tự nhiên Tô
cũng im miệng không nêu ra. Rõ ràng tất cả đều cho Tô gánh nặng làm thế nào đạt
được kết quả cho cuộc mít tinh. Nếu Tô thất bại? Ai cũng e ngại điều đó, nhưng
cũng không dám nói ra nốt.... Phân công xong, Tô lẳng lặng tìm một góc đình ngồi
xem lại mấy tài liệu tuyên truyền của Bộ thông tin, một mình. Tô còn nhớ rõ như
in, trên đầu Tô nóc đình bị đạn súng cối thủng một lỗ lớn, nắng chiếu xuống phủ
lên người Tô và hai bàn tay Tô cầm tập tài liệu. Nhìn tập giấy rung nhẹ Tô mới
biết tay Tô hơi run. Bất giác Tô tỳ tay lên đùi, hai tay ôm lấy trán mắt nhắm lại,
để người lắng xuống..."
Tô ngừng lại, đôi mắt nhìn thẳng trước mặt, hồi tưởng lại những
hình ảnh, xúc động riêng của hắn. Lan, miệng hé mở nhìn anh không rời. Cô nàng
nóng nảy dục:
"Anh Tô! Kể tiếp đi chứ anh! Anh có cảm động nhiều
không?"
"Cảm động? Cảm động vừa phải thôi. Nói cho đúng Tô cảm
thấy sợ hãi. Không phải sợ đến nỗi mất bình tĩnh tê liệt cả chân tay, vì Tô tự
biết sau vài lời lẽ lúng túng lúc đầu, Tô sẽ có thể nói rất hăng, nhưng mà là
khắc khoải, nghẹn ngào. Ngồi đây, cách biệt, Tô nghe văng vẳng tiếng đàn, tiếng
hát tập của mấy thằng bạn, tiếng một thằng hỏi 'Thằng Tô đâu rồi ấy nhỉ'. 'Để
nó yên! Nó đang xem lại tập tài liệu'; tiếng rì rầm của đám đông dân chúng tập
họp ngoài sân đình tựa như một làn sóng ngầm tràn đến gần, gần hơn nữa. Tự
nhiên, hình như đất sập dưới chân Tô. Người Tô bị hỗng, lơ lửng chẳng đâu vào
đâu. Tô vừa tự hỏi: 'Nói cách nào để nắm được họ?'. Muốn lôi cuốn một đám đông,
người ta phải biết đám đông đó ra sao, muốn gì, ghét gì, yêu gì. Mà Tô từ nhỏ đến
giờ Tô đâu sống gần dân quê? Chẳng biết tí gì là có, về họ? Trong những năm gần
đây dân quê chắc đã thay đổi rất nhiều."
"Nhưng họ thay đổi như thế nào. Tô cũng không biết nốt..."
Ông Hạ ngắt lời Tô:
"Con thật rắc rối! Cứ nhảy ra trước mặt họ, nói đại đi
là xong. Dân quê ấy mà! Thời nào vẫn ngu như nhau."
Bà Hạ cười tin tưởng:
"Ông chẳng cần phải giục nó. Xưa nay Tô vẫn ăn nói gãy gọn
và có sợ ai hay sợ cái gì bao giờ đâu."
Tô giơ tay làm một cử chỉ nóng nẩy, bực tức.
"Mọi người không hiểu ý Tô. Hay có lẽ Tô diễn tả kém. Phải
trông thấy tận mắt, sống những phút giây đó mới hiểu được tâm trạng Tô. Khó nói
quá!"
Lan cái với anh:
"Nghe chuyện anh Tô kể tức bỏ xừ thế này! Chưa nói hết
chuyện, anh đã kêu la bai bải 'Khó nói quá! Khó nói quá!'. Anh không kể nhanh
em không nghe nữa đâu!"
Tô cười trước sự nóng ruột của em gái. Hắn kể tiếp:
"Ngay khi Tô bước chân ra hiên, đứng đối diện với đám
đông, Tô thấy ngay một đặc điểm khác thường: Đám đông theo mình thường biết, phải
ồn ào hỗn độn, nhất là dân quê lại càng thiếu trật tự hơn nữa. Nhưng đây trái hẳn
lại, cái đám mấy trăm người toàn quần áo nâu đứng đó, yên lặng một cách lạ
lùng. Tô đưa mắt quan sát một vòng. Hàng trăm khuôn mặt hốc hác đen đủi, mắt đều
nhìn xuống chân. Họ không buồn nhìn những gì xảy ra trước mắt họ. Họ cũng không
nói chuyện với nhau. Trời hôm ấy Tô còn nhớ không nắng chói chang, không khí oi
ả và khó thở. Không hiểu sao cái ánh sáng bàng bạc trùm lên cảnh vật và đám
đông khiến Tô có cảm tưởng mọi sự có vẻ thực quá đáng, rõ ràng quá nên càng giống
như một giấc mộng.
Thắng – một thằng bạn Tô – nói thầm vào tai Tô 'Mẹ nó chứ!
Mày trông kìa! Chúng nó đứng như phỗng đá thế kia chẳng khác một bọn câm điếc,
nói làm chó gì cho bẩn mồm. Thật buồn nôn được! Lại còn mấy thằng công an khốn
nạn kia nữa chứ! Chúng đang làm cái trò gì đấy...' Hắn hất cầm về phía đám
đông. Năm sáu tên công an, súng dao kè kè nên sườn, mặt mũi vênh váo, đang xô đẩy
một toán dân ở phía cuối sân. Chắc chúng vừa đi lùa về được. Tiếng chửi rủa Tô
nghe rõ mồn một 'Đ.M.! Xếp hàng ngay ngắn vào! Dỏng tai mà nghe 'các ông ấy'
tuyên truyền. Lại còn bướng hả? Ông lại tẩn cho một trận bây giờ? Thằng này mày
là Việt Minh hả? Đứng vào hàng! Nhanh lên!' Bọn công an chửi rủa văng tục khạc
nhổ, không nể nang giữ ý. Tô thấy tên trưởng ban nháy mấy thằng dưới quyền, thì
thầm vào tai nhau, đoạn chia nhau lẻn vào đám đông, hau háu nhìn vào mắt từng
người. Rõ ràng chúng lợi dụng buổi tập họp đông đúc này để nhận diện những kẻ
tình nghi và tìm gái. Lão phó trưởng đoàn miệng ngậm một chiếc tẩu lớn, tay tì
lên chiếc ba toong, đứng cạnh Tô. Lãi có hình dáng giống một con cóc lớn. Người
đẫy đà mặt phì phị, mắt ốc nhồi lờ đờ lướt qua đám dân. Hắn hình như không nhìn
và lưu ý đến bất cứ ai. Nhưng đừng lầm dưới bộ dáng lù khù, hẳn thực ra là một
người cứng rắn, nham hiểm và đáng sợ. Phục sức của hắn cũng kỳ khôi. Hắn luôn
luôn mặc một chiếc áo kaki nhầu nát, chiếc quần short tím than để lộ đôi chân
đen đủi gân guốc. Đầu hắn đội một chiếc mũ lính rúm rò và vai vắt một chiếc
khăn mặt lớn..."
Lan so vai:
"Gớm nghe anh Tô kể em thấy kinh kinh!"
"Anh cũng vậy. Anh không sợ hắn, nhưng hễ bắt buộc phải
gần cạnh hắn, anh cũng thất da thịt gây gây. Bọn công an đồn đại rất nhiều chuyện
về hắn. Khi Tô ra hiệu, mấy đứa bạn Tô bắt đầu đàn và đồng ca một bản hùng
tráng. Mọi người tưởng tượng một chút sẽ thấy ngay tiếng đàn hát của bọn này lạc
lõng, trơ trẽn biết là chừng nào. Cũng từa tựa như mình ca hát vui nhộn cho một
đám người trong gia đình vừa có người chết. Tô liếc nhìn những khuôn mặt trắng
trẻo, thị thành của mấy thằng bạn nổi bật trên nền nâu tối của đám đông, khuôn
mặt phì phị điểm một nụ cười thâm hiểm chết nhạo của lão phó trưởng đoàn, và
người đàn bà bị Tây hiếp ngồi xổm bó gối ở một gốc sân đình, tách biệt hẳn với
dân làng và bọn này: Người Tô toát mồ hôi và vào giây phút đó, tự nhiên Tô muốn
kêu lên 'Thôi hết cả đi! Ngừng lại, ngừng lại…! Sai lầm tất cả!'"
Kể đến đây, Tô đưa tay chùi mấy hạt mồ hôi lấp lánh trên
trán.
"Nhưng, Tô biết thừa là đã quá chậm. Tô không thể ngừng
lại cái trò hề đã mở màn và đang diễn ra. Thật là một trò hề phi lý, nhưng Tô vẫn
phải dự vào, bất cứ nói gì, nhưng Tô vẫn phải nói, với họ. Nhạc ngừng. Tô tiến
lên một bước. Và Tô nói liên tiếp gần một tiếng đồng hồ liền. Về sau các bạn kể
lại, Tô mới biết mình đã nói nhiều đến thế. Chứ thực ra, Tô không có ý niệm gì
về thời gian. Tô chỉ nhìn thấy những bộ mặt đen đủi câm nín, từng lớp từng lớp,
họp thành một bức tường thành sừng sững mà Tô phải chọc thủng, lay động bằng những
lời nói của Tô."
Di đột ngột hỏi:
"Anh có nhớ anh đã nói những gì hay không?"
"Anh đã nói những gì, anh cũng không nhớ rõ. Hình như vớ
được cái gì, anh nói cái đó. Anh nói đến độc lập, tinh thần quốc gia, nhân dân
đoàn kết, phát triển kinh tế, giáo dục... Đại khái tất cả những gì mọi người
thường đọc báo nghe qua những bài diễn văn, vừa kêu vừa rỗng. Mặc dầu, Tô cố sức
làm cho giọng nói của mình tha thiết, đầy nhiệt thành, tin tưởng. Nhưng hễ Tô
hăng lên được trong mươi, mười lăm phút, và rồi Tô ngửng đầu lên quan sát xem
phản ứng của đám đông ra sao, tìm tòi một dấu hiệu nào khả dĩ chứng tỏ họ có
nghe Tô; nhưng lại chỉ bắt gặp những bộ mặt câm lặng, không xúc cảm của đám
đông, mấy bộ mặt nhăn nhó của mấy tên công an, và cái “người đàn bà ấy" ngồi
bó gối như một bức tượng, nhắc nhở Tô đến những chuyện kinh tởm đã xảy ra; người
Tô lại lảo đảo và điên dại, vì thấy mình bất lực. Tô không chịu thua vả bỏ cuộc
ngay, tiếp tục hăng hái hơn nữa. Kết quả vẫn vậy! Tô không thể nắm được họ. Và
Tô ngừng nói, chấm dứt cái vai trò diễn giả đã kéo quá dài của Tô, lùi bước đứng
cạnh các bạn Tô, Tô không nhìn ai và cũng không muốn nói chuyện với bất cứ ai.
Người đẫm mồ hôi, miệng đắng và chát như người vừa lên một cơn sốt rét kinh
niên. Chỉ có thằng Thắng vẫn thản nhiên ghé vào tai Tô, sỉ vả 'Tội nghiệp cho
chú mày quá! Trông mày hăng hái diễn thuyết sùi cả bọt mép, tao thương mày quá!
Hơi đâu hoài công phí sức nói với tụi dân ngu cu đen...' Lạ thay Tô không giận
hắn, lại còn mỉm cười cám ơn hắn là khác. Không chắc lời hắn nói hoàn toàn
đúng, nhưng dầu sao hắn cũng là người hiểu được tâm trạng Tô lúc đó hơn ai hết.
Tô ngừng nói. Ngắm khuôn mặt đăm chiêu của Tô, ông Hạ thầm
thương hại Tô. Có lẽ Tô đã quan trọng hoá những việc đã xảy đến cho hắn, và đã
cố gán cho cái công việc tuyên truyền của hắn một ý nghĩa quá lý tưởng. Ông thầm
đồng ý với Thắng: Hơi đâu quan tâm đến phản ứng của mấy thằng dân ngu dốt, đầu
óc tối tăm. Tô cảm thấy bất lực là phải lắm. Làm sao bắc nổi một cây cầu thông
cảm giữa hắn – một người trí thức – với những người dân sống như run, dế sợ hãi
đủ mọi thứ: Tây, Chính quyền, Việt Minh. Kẻ yếu bị dầy xéo là chuyện tất nhiên,
theo ông. Ông an ủi Tô:
"Con nói lưu loát thế xứng đáng là trưởng ban lắm rồi,
thắc mắc làm gì về những chi tiết vặt vãnh. Ba cho rằng điều cần nhất phải chứng
tỏ mình có khả năng. Con đã chứng tỏ được, thế là đủ."
Tô im lặng, không cãi lại ông, nụ cười xa cách khó hiểu lại
thấp thoáng ẩn hiện trên môi hắn. Di, sau mấy phút ngẫm nghĩ, lên tiếng giọng
gay gắt:
"Lạ thật! Di không hiểu tại sao anh Tô khi nhìn các bộ mặt
dân quê lại không hiểu ngay thái độ rất rõ rệt của họ đối với bọn anh và cái
'trò hề' của bọn anh? Theo Di, đó là một thái độ căm hờn! Ba bảo họ ngu đần,
anh Tô cho rằng họ sợ, họ câm nín. Sai hết! Một đêm nào đó họ sẽ mò đến cắt cổ
bọn anh không chừng! Lúc đó anh Tô cũng không kịp có thời giờ quan sát và lẩn
thẩn tự hỏi thái độ bọ họ ra sao đối với anh, vì trong bóng tối không ai nhìn
ra ai đâu!"
Bà Hạ và Lan rùng mình, thất sắc. Ý kiến của Di thật táo bạo,
nhưng rất có thể biến thành sự thật. Tô nhìn Di, đoạn trả lời dằn từng tiếng một:
"'Trong bóng tối không ai nhìn ra ai đâu!' Ấy! cũng chỉ
vì anh muốn phân biệt ai là ai nên anh mới gia nhập Quân thứ Lưu động. Còn Di,
Di tài thật! Nhìn đâu cũng thấy căm hờn, oán ghét!"
Di cười mãi:
"Dù anh gắn cho Di cái tật nhìn đâu cũng thấy oán ghét,
anh cũng không ngăn nổi bọn 'dân quê' cắt cổ anh, nếu họ muốn thế."
Tô cau mặt, không đáp. Bà Hạ và Lan giục, hắn lại tiếp tục:
"Sau khi Tô ngừng nói lùi về phía sau và các bạn Tô chơi
xong một bản nhạc hùng khác, lão phó trưởng đoàn đủng đỉnh bảo Tô 'Anh cho phép
tôi nói với 'cử toạ' đôi ba lời!'. Hắn tiến lên một bước cầm ba toong gõ mạnh
xuống hiên đá và bắt đầu nói, không giáo đầu. Dáng bộ lù khì thường lệ mất hẳn,
trong nháy mắt biến thành một người khác: Tiếng oang oang, mắt ốc nhồi tròn
lên, chốc chốc hắn lại cầm nan chỉ thẳng vào mặt đám dân đe doạ, nạt nộ. Hắn
nói nhiều và lâu lắm, Tô không nhớ rõ những gì. Đại khái hắn xỉ vả, “Chúng mày
toàn là đồ ngu! Suốt đời chỉ làm đầy tớ…! Chúng mày ngu dại nghe Việt Minh dụ dỗ...
Bất cứ thằng Việt Minh khốn nạn nào bảo chúng mày cái gì là chúng may cung cúc
nghe ngay v.v..."
Di giận dữ rủa một câu:
"Cái thằng già đểu giả! Mà tại sao anh lại có thể sống cạnh
và công tác dưới quyền với hạng người nhầy nhụa và kinh tởm như vậy?"
"Dĩ nhiên hắn 'nhầy nhụa kinh tởm' Di xem, đâu có phải
chỉ có tụi Pháp là đáng giết hết. Nếu vậy lão phó trưởng đoàn cần bị đập bẹp bụng
như khi ta đập một con cóc. Tuy nhiên, hiện tại hắn vẫn sống nhăn ra đấy và giữ
một chức vụ hơi lớn. Thành thật mà nói, mình không thể chối cãi thái độ của lão
rất rõ rệt: Dân đen là một tụi ngu dốt, cần phải khi vuốt ve, khi đòn vọt. Đe
doạ không xong, bắt bớ tra tấn cho đến khi vì sợ họ phải vâng theo..."
Tô quay về phía bố hỏi:
"Những kẻ như lão này trong chính phủ đâu thiếu gì phải
không ba?"
Ông Hạ gật đầu đồng ý, lại còn cẩn thận khuyên:
"Con đừng nên gây thù chuốc oán với lão phó trưởng đoàn
làm chi! Hắn là hạng người rất nguy hiểm. Hắn sẽ tìm cách hại con nếu con dại dột
bướng bỉnh ra mặt chống đối hắn."
Tô mỉm cười khinh thị, không đáp. Di cũng có vẻ suy nghĩ về
câu chuyện Tô vừa kể.
Trầm ngâm một chút, Tô lại lên tiếng:
"Sau buổi nói chuyện với dân chúng đầu tiên, Tô nhất định
không tổ chức những trò hề ấy nữa."
Ông Hạ hơi ngạc nhiên:
"Con làm thế nào lão phó trưởng đoàn chịu à? Ban tuyên
truyền không hoạt động tuyên truyền đâu có được."
Giọng Tô thoáng chua chát:
"Ba khỏi lo hộ bọn này. Thực ra bọn này làm hay không
làm đâu quan trọng, và cũng chẳng ai hơi đâu quan tâm theo dõi làm chi. Bọn này
chỉ là một bức bình phong che đậy cho họ. Tô đâu có ngu đến nỗi không nhận thấy
sự kiện đó."
Di cười mỉa mai:
"Và kết luận là bọn anh thụ động, ì ra đấy, cuối tháng
lĩnh lương."
"A! Di nhầm rồi. Không thể dễ cho bọn anh thụ động, một
khi bọn anh chỉ làm những điều bọn anh ưa thích và cho là phải. Thiếu gì cách
giúp dân! Nhiều lắm, anh không tiện kể ra đây.Và kết quả khiến các anh nức lòng
nhất là dân chúng ưa bọn bày rõ rệt. Bọn anh đóng ở nhà nào, dân chúng không bảo
nhau đều sống quây chung quanh."
Di lại cười:
"Một con nhạn đâu mang nổi lại cả một mùa xuân! Hơn nữa
em không tin dân ưa bọn anh như anh tưởng. Họ chỉ ghét anh 'ít' hơn bọn công
an, lính tráng mà thôi. Ngoài ra, chỉ nói đến riêng anh, em biết quá rõ anh
thích cái gì rồi. Anh thích đứng khoanh tay, dửng dưng quan sát phân tách mọi sự
xảy ra chung quanh. Anh đã thế, chắc các bạn anh cũng chẳng hơn gì!"
"Suy nghĩ, tỉnh táo cố tìm rõ ý nghĩa mọi chuyện xảy ra
không dễ như Di tưởng đâu, và cũng không phải là một tội lỗi ghê gớm như Di hiểu.
Di biết gì đến người khác mà lên giọng chỉ trích? Trong tâm hồn, trong trí óc
Di chỉ toàn những Di, Di đầy ứ những 'oán hờn', 'giận ghét', của Di. 'Di ghét
người này, Di muốn giết người kia'. Di còn mê lên vì chính Di, còn thời giờ đâu
ngó ngàng đến ai. Có bao giờ Di đặt mình vào địa vị anh và tự hỏi 'Tại sao anh
lại gia nhập Quân thứ Lưu động? Tại sao anh làm thế này, nghĩ thế kia…?' chưa
đã?"
Tô dồn cho Di một thôi, một hồi, cơn giận dữ lộ hẳn lên nét mặt,
trong giọng nói. Mọi người – kể cả Di – đều ngạc nhiên, sững sờ. Trước đến nay,
không ai tin Tô có thể nổi giận.
Giọng Tô vẫn gay gắt:
"Di là một thằng điên, Di hiểu chưa? Di điên, Di mù
quáng thời mặc Di. Di cứ tiếp tục điên đi anh không ngăn cản. Nhưng Di để yên
cho những kẻ thích suy nghĩ, tìm tòi như anh. Trước đây đã có lần Di cả quyết
anh không thể hiểu nổi Di. Nhưng anh đã 'cố gắng' tìm hiểu Di! Còn Di! Di không
hề nghĩ đến chuyện tìm hiểu người khác, nói gì đến cố gắng hay không cố gắng..."
Giọng Tô đầy khinh bỉ, nhưng ánh mắt lại thoáng vẻ thương hại:
"Nếu Di muốn, anh khuyên Di cứ việc trở về cái thế giới
đầy oán ghét, ấm ức, tối mò mò của Di. Phần anh, có thể anh gia nhập Quân thứ
Lưu động là một điều lầm lẫn, nhưng dù sao anh cũng 'dám' lầm lẫn. Mà chỉ khi
người ta hành động, người ta sống, người ta mới lầm lẫn được. Còn ngồi ì ra đấy,
thụ động, nhưng ta sẽ có thể trở thành một ông thánh, cứ tưởng mình khôn ngoan
lắm! Biết nhiều chuyện lắm, nhưng thực ra mù tịt cả hai mắt."
Di ngồi khoanh tay, đầu gục xuống và im lặng nghe Tô. Hắn có
vẻ xúc động. Hắn vụng về đứng dậy khi anh ngừng nói, ra đứng cạnh cửa sổ nhìn
ra phố, quay lưng lại mọi người.
Trời lại bắt đầu tối. Gió thổi từng cơn. Dăm ba chiếc lá vàng
bay lướt qua cửa sổ rơi trên nền nhà, sát khuôn mặt mọi người khi ẩn khi hiện,
trong khung cảnh tranh sáng tranh tối của căn phòng. Câu chuyện về cuộc sống của
Tô vừa mang lại cho bầu không khí gia đình những xáo trộn khó tả.
Lan nhìn Tô, rồi quay sang nhìn Di đứng tách biệt cánh cửa sổ,
nheo mũi lại, thở dài đánh sượt một cái:
"Lạ thật! Hễ cứ ngồi đối mặt nhau một lúc, thế nào hai
anh Tô, Di cũng cãi nhau một trận mới hả. Tại sao thế hở anh Tô? Các anh thích
thế à? Mà sao đàn ông cứ nhăn nhó khổ sở vì những chuyện chẳng đâu vào đâu.
Nghe các anh, em rức cả đầu..."
Bà Hạ cười buồn bã, nói với Tô:
"Các con là con trai, đã lớn rồi, muốn làm gì thì làm,
đi đâu thì đi, mẹ là đàn bà mẹ đâu hiểu và cũng không can ngăn, níu kéo, miễn
là khi các con sống cạnh nhau, hoà thuận, đừng coi nhau như quân thù quân hằn
là mẹ hài lòng… Mẹ buồn Tô đi xa nguy hiểm, mẹ lo cho Tô từng khắc từng giây. Vừa
bước chân về nhà, hai anh em đã lại cãi nhau, tiếng nặng tiếng nhẹ. Mẹ thấy nó
làm sao ấy!"
Tô an ủi mẹ:
"Ồ! Mẹ để ý đến những chuyện cãi vã lăng nhăng của bọn
con làm gì. Khác tính nhau, anh em xung khắc là chuyện thường."
"Nhưng, mẹ vẫn ngài ngại khi..."
Tô nói chặn ngay:
"Mẹ đừng lo ngại gì hết! Chúng con cãi nhau, chứ không
thù ghét nhau đến nỗi đánh nhau đâm chém nhau đâu mà mẹ sợ."
Bà Hạ lưỡng lự, định nói thêm, nhưng trước vẻ mặt lơ đãng, mơ
màng đâu đâu của con, bà đành im lặng.
Mấy tháng nay, gia đình ông Hạ không trả nổi tiền điện, nên
điện trong nhà bị cắt. Ông mò mẫm rịt thuốc lào trong bóng tối. Bà Hạ lên tiếng
bảo Lan thắp mấy cây nến. Hai anh em Tô, Di vẫn giữ nguyên dáng bộ cũ, mỗi người
theo đuổi một nguồn tư tưởng riêng.
Lan cầm hai cây nến vừa thắp, từ nhà trong bước ra. Khuôn mặt
thanh tú, hai gò má hồng của Lan nổi bật trên những khoảng tối sáng của căn
phòng. Tô đưa mắt nghìn theo em gái, một ánh vui thú, nghịch ngợm khiến khuôn mặt
thường khi nghiêm trang và già trước tuổi của hắn trở lại trẻ trung – nếu không
thể nói là trẻ con. Tự nhiên hắn bảo mẹ:
"Lan dạo này xinh tệ, me có thấy thế không?"
Lan đang lúi húi gắn nến lên bàn đáp ngay:
"Me ạ! Dễ đến mấy năm nay mới thấy anh Tô khen con xinh.
Con tưởng các anh con mải mê những chuyện gàn dở, nên quên mất cả các cô con
gái. Chằng bao giờ con thấy hai anh nói đến các cô, mọi rợ thật!
Tô có vẻ ngẫm nghĩ, hắn lục túi lấy ra một bao thuốc lá. Hắn
gọi Di, giọng trở lại thân mật:
"Ê, Di! Hút thuốc không?"
Di lẳng lặng lại gần anh, đón điếu thuốc và hai anh em hút
thuốc thở khói mù mịt, trước những cặp mắt ngạc nhiên của ông bà. Ông tự hỏi
không biết chúng bắt đầu hút thuốc từ bao giờ. Dầu sao, sự làm lành kín đáo giữa
hai đứa con trai cũng khiến bà Hạ mừng thầm. Bà liếc nhìn Lan và vẻ mặt hai người
đàn bà trong gia đình rạng rỡ hẳn lên.
Một cơn gió lùa vào nhà. Lan rùng mình nhẹ, tay ôm lấy hai
vai và hỏi anh:
"Mùa này ở vùng quê có lạnh không anh Tô?"
"Đâu có! Anh vẫn tắm và bơi ở sông hoài! Khoái lắm!"
Tô nói nhiều hơn đến chính hắn. Giọng nói và vẻ mặt Tô cũng
thay đổi, không còn xa cách, khắc khoải hoặc chua chát như hồi nãy, trở nên mơ
màng, đôi khi háo hức, nóng ấm.
"Mới đây bọn này đóng tại một làng nằm kề một con sông
nhỏ. Bên kia sông chạy xa tít về phía chân trời là một cánh đồng sậy lau. Điều
khiến Tô lạ lùng ngạc nhiên là sự trái ngược giữa dòng sông và cánh đồng sậy.
Sông nhỏ nhưng nước chảy siết ghê gớm, suốt ngày đêm ầm ì và cuồn cuộn sóng.
Cánh đồng sậy thì im lặng không ngờ, dăm thì mười hoạ có gió nhẹ lướt qua. Đứng
cạnh sông, Tô cảm thấy chóng mặt, say mê một cách khó tả. Tô muốn nhảy xuống để
dòng nước lôi cuốn, ghì lấy Tô. Mấy thằng bạn Tô bơi kém không dám bơi xa bờ.
Tô bơi sang bờ bên kia và lội bì bõm một mình trong cánh đồng sậy, nước ngập
ngang thắt lưng. Vào những buổi trưa trời nắng, chỉ có mỗi mình Tô. Sau khi để
sóng nước nhồi lên nhồi xuống, và vẫy vùng cố bơi ngược dòng, Tô mệt phờ râu,
lóp ngóp bò lên nằm thở dốc trên một cái bè, sậy khô tự nhiên kết thành. Chân
tay rã rời, nhưng thú vị kinh khủng. Hình như con sông giống một người đàn bà nồng
nhiệt mà Tô thì vừa yêu con sông đó..."
Lan đỏ mặt, mắng khẽ anh:
"Anh Tô nói bậy rồi…! Anh mê đàn bà, à mê sông đến mất
trí kia à?"
Ông Hạ cau mặt, hơi bất mãn trước lối nói sống sượng của Tô.
Bà Hạ mỉm cười khoan dung, còn Di ánh mắt nóng nảy, vẻ chăm chú kích thích lộ
rõ trên khuôn mặt trắng và gầy. Tô quên bẵng mọi người, say sưa trong kỷ niệm.
"Vào những lúc khó quên ấy. Tô hình như không còn phải
là Tô nữa. Tô quên hết cảnh vật hoang tàn quanh mình, quên cả những nỗi buồn
phiền thắc mắc và dĩ nhiên quên luôn cả Việt Minh có thể lẩn quẩn đâu đây, rình
mò, đe doạ. Đầu óc Tô rỗng tuếch. Tô chỉ cảm thấy nắng ấm trùm lên thân hình trần
truồng của Tô. Ngực Tô phập phồng, cổ nghẹn ngào vì mệt, vì khoái cảm. Ngực Tô
còn mang mấy vết thương rớm máu, con sông hình như vừa cào lên đây. Đôi khi Tô
thiếp đi trong vài phút, hàng giờ. Sao biết được! Có hôm Tô nằm gối đầu lên
tay, ngắm một đàn chim trắng, cổ dài bay lướt theo gió thành một vòng tròn và
lên cao dần, cao dần, cho đến khi biến mất. Nhờ đàn chim Tô mới cảm thấy chiều
sâu thăm thẳm của bầu trời thấm vào từng thớ thịt. Tô thật chẳng còn muốn gì
hơn nữa: Con sông cuồn cuộn nồng nàn, trời xâu thăm thẳm và cánh đồng im lặng dầy
đặc những cây sậy mảnh mai, chen chúc nhau thay thế cho những tư tưởng ý nghĩ của
Tô, và nắng ấm. Tất cả những cái đó thừa sức thay thế cho tâm hồn, trí não
Tô... Nếu được như vậy mãi mãi, Tô không cần nghĩ ngợi suy tưởng làm
gì..."
Tô ngừng một chút, đôi mắt nhìn đăm đăm trước mắt như muốn đẩy
lui xa tít, bốn bức tường chật hẹp vây khép gia đình này. Lan khe khẽ nhắc anh:
"Anh Tô! Tỉnh mộng đi chứ anh!"
Tô mỉm cười, hơi ngượng nghịu – một sự lạ – hình như hắn hổ
thẹn vì đã thổ lộ quá nhiều chuyện về mình. Hắn thở ra một hơi dài, lẩm bẩm:
"Tỉnh mộng? Nhưng đây đâu có phải là một giấc mộng.
Nhưng mộng hay thực, đổi những giây phút đó lấy bất cứ cái gì anh cũng không đổi..."
Di nhận xét:
"Tóm lại, anh chỉ sung sướng khi anh có một mình!"
"Không hẳn như vậy. Cũng tại con sông ấy, vào buổi chiều
khi các bạn anh đã bơi tắm xong ra về. Còn lại mỗi những anh, chân tay ôm chặt
một chiếc cột trơ trọi giữa dòng – vết tích của một nhịp cầu còn lại ở phía bên
kia, nổi bật đen thẩm trên nền cánh đồng sậy hoang vu bên kia sông và tự nhiên
anh cảm thấy sợ hãi, e dè. Trái hẳn với buổi trưa cảnh vật hoà với anh là một,
vào lúc đó cảnh vật hình như lại đè nén anh, bóp anh nghẹt thở. Và anh chợt thấy
rõ...tình cảnh hiện tại của anh nó tuyệt vọng, không lối thoát đến nhường nào.
Ngày mai, anh sẽ phải làm gì để gán cho cuộc sống một ý nghĩa? Bất cứ một ý
nghĩa nào, dầu nhỏ bé tầm thường nhất... Anh vội vã mặc quần áo và như muốn trốn
chạy một cái gì, trốn cho nhanh. Về gần đến chỗ bọn anh ở, nghe tiếng các bạn
anh cười nói, tiếng đành hát ông ổng của thằng Thắng, anh vui mừng chẳng khác một
đứa trẻ vừa lạc đường. Giây phút ấy đừng nói đến chuyện tiếp xúc với mấy thằng
bạn mà anh có cảm tình một phần nào, dù phải gặp những người kinh tởm bần tiện
nhất như lão phó trưởng đoàn hay tụi công an, anh thấy vẫn còn hơn phải cô độc.
Anh thật yếu ớt và có thể nói là hèn nhát, không thể tha thứ được!"
Tô nhìn Di, thẳng thắn hỏi:
"Anh làm Di ngạc nhiên phải không? Thường khi anh đâu phải
hạng người sợ bất cứ cái gì. Đừng hiểu nhầm anh!"
Di cười gượng gạo.
"Em không ngạc nhiên và cũng không hiểu lầm anh chút
nào. Em chỉ thấy, anh cũng chẳng hơn gì em. Có vậy thôi!"
Tô ngạc nhiên.
"Hơn Di?"Tô nhún vai. "Lạ thật! Nhiều khi Di
có những ý nghĩ kỳ khôi, anh không ngờ tới. Anh không bao giờ lưu ý đến vấn đề
ai hơn ai, nhất là giữa anh và Di."
Lan hích mẹ một cái ra hiệu can thiệp, đoạn chen vào:
"Ê! Ê! Hai ông gàn... Cấm cãi nhau nữa đấy nhé! Me mắng
cho mà nghe."
Tiện dịp, ông Hạ cũng tiếp luôn, lôi các con trai trở về thực
tại:
"Thôi! Nói chuyện thế đã nhiều rồi. Để cho thằng Tô nghỉ
ngơi chứ! À! Thế nào, con đã lĩnh lương chưa?"
Tô lẳng lặng móc ví lấy tiền, nhưng hắn không trao cho bố, lại
đưa cho mẹ và nói giản dị:
"Của me! 6.000 đồng tiền hai tháng lương con mới lãnh.
À! Me nhớ trưa mai làm một bữa bún chả. Thật nhiều bún và thật nhiều chả. Con
có mời Thắng lại dùng cơm trưa với gia đình mình."
Bà Hạ liếc nhìn chồng rất nhanh, đỡ lấy sấp giấy bạc, tay hơi
run và giọng cảm động:
"Con làm lụng vất vả trong mấy tháng trời mà chỉ được từng
này tiền. Chính phỉ bất công quá!"
Tô mủm mỉm cười:
"Thằng Thắng nó cũng than phiền từa tựa Me. Nó bảo: 'Mẹ
nó! Lĩnh hai tháng lương chỉ đủ tao đi nhảy hai ba bữa là hết nhẵn.'"
Bà Hạ kêu lên:
"Thằng bạn con nó điên à! Tiêu gì mà dữ vậy?"
"Có gì lạ, Thắng con nhà giàu, lại là con một."
Lan tò mò:
"Con nhà giàu còn đi Quân thứ Lưu động làm gì?"
"Hắn thích thế!"
"Kỳ khôi, anh Thắng là người thế nào hở anh Tô? Gàn bằng
anh hay hơn?"
"Mai Lan gặp sẽ biết! À! Tô quên bẵng mất. Hai hàng áo lụa
Tô hứa mua cho me và Lan, ngày mai Thắng sẽ mang đến."
"Hàng vải anh mua cho me và em lại do bạn anh mang tới.
Sao trái cựa vậy?"
"Hắn nợ tiền anh. Hắn có bà chị họ mở cửa hàng vải..."
phần 3
Tô chưa nói dứt câu thời có tiếng gõ cửa rất mạnh. Mọi người
đều ngạc nhiên. Ai có thể đến chơi vào lúc này. Lan đứng dậy, vừa bước lại gần
cửa, tiếng gõ lại vang lên nóng nẩy dồn dập hơn. Lan có vẻ bực mình, mở khoá và
giật mạnh cánh cửa về phía trong. Một giọng nói oang oang cất lên:
"Chào cô Lan! Nhà ngủ hết rồi sao mà không có ánh đèn?
Tô có nhà chứ cô?"
Lan không đáp, môi hơi mím lại. Lan vừa bực mình trước giọng
nói quá thân mật của người khác, lại vừa ngạc nhiên không hiểu sao người khách
lại biết rõ tên mình.
Tô gọi với ra:
"Thắng đấy hả? Vào đây mày."
Ông Hạ mắng Lan:
"Lan đứng sang một bên để anh ấy vào. Ai lại đứng sừng sững
giữa cửa thế kia."
Tô vẫn ngồi trên giường cạnh mẹ, không ra cửa đón Thắng. Thắng
bước hẳn vào trong nhà. Không chút do dự hắn quay sang phía Lan, nhìn vào mặt
nàng, hai tay giơ ra một gói bọc giấy bóng:
"Hàng áo lụa của cô Lan và bà nhà đây. Cô thích mầu mỡ
gà phải không? Bà chị tôi lục mãi mới tìm được màu đó."
Không để Lan kịp phản ứng, Thắng quay về phía ông bà Hạ,
chào, đầu cúi xuống trong một cử chỉ gọn và ngắn:
"Chào ông! Chào bà! Tôi định đến xin phép ông bà cho anh
Tô đi chơi vài chỗ tối nay."
Bà Hạ cười, mời:
"Anh ngồi chơi đã! Đi đâu mà vội. Lan! Kéo ghế mời anh
ngồi."
"Bà cứ để tôi tự nhiên."
Thắng vẫn đứng giữa phòng, đôi mắt lim dim dưới đôi lông mày
chổi xể, không chịu nhìn hẳn vào một vật gì, lướt rất nhanh qua khuôn mặt mọi
người, đồ đạc trong phòng, mấy bức tranh trên tường... Tô và Thắng không bắt
tay nhau. Di vẫn ngồi yên ở ghế, quan sát người bạn của anh, ánh mắt đầy ác cảm,
nghi kỵ. Lan, sau khi quẳng hơi mạnh gói lụa lên chiếc bàn gần đấy, và tay vâng
lời mẹ kéo một chiếc ghế lại gần giường. Nhưng không lên tiếng mời Thắng ngồi."
Tô hỏi Thắng:
"Mày sắp đi ăn tiệc hay sao mà đánh bộ chững chạc thế?
Ngồi xuống đi chú."
Thắng giục:
"Mặc quần áo vào nhanh lên! Tao vừa xin phép tháo khoán
cho mày rồi."
"Thì cứ ngồi xuống đi đã!"
Thằng kéo chiếc ghế lại phía mình, ngồi xuống, hắn lẩm bẩm:
"Khu này điện hỏng hay sao mà tối mò mò."
Lan ngồi sau lưng bà Hạ, tì cầm lên vai mẹ, cũng quan sát Thắng
không mấy thiện cảm, và khi mẹ còn lúng túng chưa biết đáp ra sao, Lan trả lời
ngay, giọng hơi kiêu hãnh và thách thức:
"Nhà tôi mấy tháng nay không trả lời tiền điện, nên họ
cúp công tơ."
Thắng đưa tay lên vuốt tóc – một cử chỉ không cần thiết, vì
tóc hắn mượt và uốn lượn mấy làn sóng – càu nhàu nhắc lại:
"À! Cúp điện... Bon! Tant pis!"
Bà Hạ gợi chuyện:
"Chúng tôi thấy em Tô nhắc đến anh luôn. Kể anh là con một
mà ông bà cụ để cho đi Quân thứ Lưu động."
Thắng ngắt lời bà Hạ:
"Dạ! Bà cụ tôi chiều nay vừa mới chửi tôi một trận nên
thân vì cái tội bỏ nhà đi mấy tháng, không nói trước đấy ạ!"
Hắn khoác tay, hơi nhún vai tiếp:
"Bà cụ tôi già rồi nên cũng hơi lẩn thẩn. Chửi chán lại
khóc lóc um xùm... Theo ý bà cụ tôi, có lẽ, hễ tôi đi đâu vẫn cần phải có vú em
đi theo."
Bà Hạ mỉm cười, điềm đạm nói:
"Tôi hiểu bà cụ anh lắm! Mẹ nào chẳng lo cho con."
Thắng hừ một tiếng, không đáp. Đang ngồi, hắn đột ngột đứng dậy,
lại gần bàn cầm gói lụa lên, xé giấy bóng soàn soạt, trao cho bà Hạ hai hàng áo
lụa màu sẫm và Lan hai hàng màu mỡ gà và nói với một giọng cả quyết không để ai
cãi lại được mình:
"Tôi chắc hàng màu sẫm sẽ làm bà hài lòng, Còn cô Lan!
Cô thử ướm hàng lên người xem có hợp không?"
Lan đỡ lấy vải nhưng lại đặt xuống trước mặt. Thắng nhìn thẳng
vào mắt Lan rất nhanh, giọng sai khiến:
"Cô không thử hàng à? Cô không ưa hay sao?"
Tô hỏi:
"Sao mày lại mang mỗi thứ hai hàng áo? Tao dặn lấy một
thôi cơ mà."
Thắng khoác tay, đáp ngay, không nghĩ ngợi:
"Một hàng tao biếu…! Chắc bà và cô Lan không từ chối?"
Bà Hạ và Lan chưa kịp đáp ra sao, Thắng đã ngồi phịch xuống
ghế, quay sang hỏi Tô, làm như quà biếu của hắn dĩ nhiên đã được nhận.
"Mày có thuốc không? Tao xin một điếu."
Lan cầm một hàng áo lên, ông vào ngực, nói với Tô:
"Hiện giờ em chỉ cần may 'một cái' áo dài thôi. Hàng của
anh Tô đủ chán rồi."
Thắng nhìn Tô, giơ tay lên búng hai ngón vào nhau cái tách:
"Mày nói đúng! Cô Lan, em mày thuộc hạng bướng và cứng đầu..."
Hắn ngừng một chút, giọng rất nghiêm trang:
"Tính tôi lại ưa những người bướng."
Lan đứng phắt dậy, cầm theo hàng áo của Tô cho, khoan thai và
kiêu hãnh đi thẳng vào phòng trong, đầu cao trên cổ.
Bà Hạ sợ Thắng mếch lòng, nhẹ nhàng nói:
"Cám ơn anh Thắng! Anh đã cho quà chúng tôi không dám chối
từ. Còn em Lan để rồi tôi..."
Di từ khi Thắng bước vào nhà, vẫn im lặng, tự nhiên vụt lên
tiếng:
"Lan không muốn nhận quà biếu của 'người lạ', me ép nó
làm gì..."
Hắn phì một hơi thuốc lá, giọng châm biếm:
"Con nhà giàu có khác! Cốt cách cũng phong lưu khác đời."
Thắng hơi cúi người ra phía trước, lấy bàn chân dí mạnh lên mẩu
thuốc gần như còn nguyên, hắn vừa vứt xuống đất, làm ra vẻ không hề nghe thấy
câu nói thách thức của Di. Đoạn hắn ngửng phắt đầu, hất hàm bảo Tô:
"Thôi! Đi chứ chú mày! Muộn rồi."
Vừa dứt lời hắn đứng dậy, nghiêng đầu chào:
"Xin phép ông bà."
Không nhìn ai, hắn tiến lại gần Tô, lôi Tô đứng dậy. Hai người
kéo nhau ra hiên nói chuyện riêng với nhau. Tô đã quen với thái độ hơi thô lỗ
và kỳ khôi của Thắng, nên nét mặt vẫn thản nhiên và cử chỉ ung dung.
Tiếng Tô và Thắng cười khá lớn vang vào trong nhà. Ông Hạ cau
mặt bảo vợ:
"Cái thằng bạn thằng Tô thật cấc lấc. Tôi không ưa hắn!"
Ngay từ lúc Thắng bước chân vào nhà, ông Hạ đã có ác cảm ngay
với tất cả những gì hắn có: Bộ quần áo complet sang trọng cắt đúng mốt, làn tóc
quăn làm dáng, những dáng bộ lời nói của một anh “công tử nhà giàu"được
nuông chiều, khinh khỉnh bất cần đời, bất cần mọi người.
Bà Hạ cười hiền lành đáp:
"Nhưng tôi thấy hắn với Tô có vẻ hợp và thân nhau đấy chứ!
Tô nó cũng ít bạn bè."
"Mẹ nhận quà biếu của hắn làm gì? Nó biếu mà cứ như ném
vào mặt mình."
Bà Hạ bênh Tô:
"Tại sao con hay thích chỉ trích các bạn của anh Tô! Đâu
có phải bạn con mà con can thiệp vào."
Di bật ngả người, để nửa người trên chìm lẫn hẳn với bóng tối.
hắn hít mạnh một hơi, đốm đỏ đầu điếu thuốc trên môi hắn sáng rực lên. hắn nhắm
mắt, môi mím chặt những tưởng đến nát mẩu thuốc lá. Ông Hạ hơi ngạc nhiên khi
thấy hắn chậm rãi rụi mạnh đầu thuốc lá cháy dở vào cánh tay để trần, mặt không
hề nhăn vì vết bỏng và sau đó ngồi bất động. Không hiểu sao tình cớ chứng kiến
cử chỉ tự hành hạ xác thịt mình của Di, ông cảm thấy buồn nôn và kinh tởm. Ông
bất giác quay mặt nhìn ra phía khác.
Tô một mình vừa bước vào nhà và nói với mẹ:
"Ở nhà cứ đi ngủ trước đi! Tô chắc đến khuya mới về. Lan
đưa cho anh một chiếc chìa khoá để anh có thể mớ cửa lấy."
Tự nhiên, ông Hạ bật nói gay gắt:
"Nhà binh thiết quân luật, mày đi chơi khuya làm
chi!"
Tô cau mặt nhìn bố một giây. Hắn lẳng lặng vào nhà trong thay
quần áo. Ông Hạ cố nén giận. Ông vừa quên mất Tô đâu còn trẻ dại và sự nguy hiểm
của một cuộc đi chơi khuya trong thành phố thật vô nghĩa so với những ngày hoạt
động tại những vùng quê, đầy Việt Minh.
Tô mặc xong quần áo và vừa ở phòng trong bước ra, Lan đã tò
mò hỏi anh:
"Anh đi chơi đâu vậy?"
"Đi nhẩy!"
Ông bà Hạ, Lan sửng sốt. Tô đi nhẩy đầm? Ăn chơi? Cả gia đình
không thể tưởng tượng nổi là Tô có thể đi nhay đầm vui chơi như những người
khác được.
Lan cười phá lên, tưởng anh đùa:
"Nhưng, anh đâu có biết nhẩy."
Tô nhún vai, đáp gỏn lọn:
"Sao lại không!"
Tô rời khỏi nhà. Tiếng hắn nói chuyện với Thắng vang vào
trong nhà, rồi xa dần. Mọi người vẫn chưa hết ngạc nhiên. Thế mà mọi người đã
tưởng biết được ít nhiều điều về Tô. Năm phút sau, mặc dầu ông Hạ quát lên ngăn
cấm, Di cũng rời khỏi nhà, hai tay thọc mạnh vào túi, vai so lại, đầu lao ra đằng
trước. Bà Hạ thở dài, Lan đăm chiêu nhìn theo anh và ông lại càu nhàu chửi rửa
hai đứa con trai, như thường lệ.
Sáng hôm sau ông Hạ đi làm sớm, Di tối qua không về nhà ngủ,
Tô đi chơi về khuya, vẫn còn nằm ngủ ở đi văng phòng ngoài.
Lan nghỉ học vì buổi sáng nàng đã nằng nặc đòi mẹ viết đơn
xin nghỉ vì lý do gia đình để ở nhà với anh. Bà Hạ chiều con, cắm cúi viết, đoạn
trao cho cô bạn Lan – thường ngày sáng nào cũng rủ Lan đi học – nộp hộ ở trường.
Gần cuối thu trời chợt có hôm trở lại đẹp trong vắt, gió nhẹ và nắng hanh vàng
dậy rất sớm, tràn ngập lên cảnh vật ngoài cửa sổ hé mở.
Tô đã dậy nhưng còn nằm dốn lại trên giường, văng vẳng tiếng
Lan và bà mẹ nói chuyện ở dưới bếp.
Bà Hạ hỏi:
Anh Tô chưa dậy à?
"Chưa mẹ ạ. Gớm! Con vừa ghé gần vào mặt anh xem anh ấy
thức hay ngủ, đã ngửi thấy sực nức mùa nước hoa và rượu..."
Lan hắt xì hơi. Đoạn Lan mách:
"Me! Tối qua anh Di lại không về nhà ngủ."
Im lặng. Một phút sau, Lan tẩn mẩn hỏi:
"Me! Các cô vũ nữ, họ có đẻ được không me?"
Bà Hạ phì cười, đáp:
"Có chứ!"
Giọng Lan nghiêm trang:
"Không biết để hàng trăm người đàn ông ôm vào người, con
họ đẻ ra khác gì đi không?"
"Sao con lại nghĩ rằng con họ khác con người thường? Chẳng
khác gì cả!"
Lan im lặng, ngẫm nghĩ, đoạn lại hỏi:
"Tại sao họ lại làm nghề đó hở me? Họ thích thế à?"
Bà Hạ lơ đãng hỏi lại:
"Thích gì?"
"Thích nhiều đàn ông ôm họ vào người."
"Bậy nào! Vì...họ đói, không biết làm nghề gì để kiếm tiền."
"Tức là họ nghèo túng chứ gì?"
Lan tiếp luôn một câu, giọng vẫn trong vắt, tự nhiên như khi
nói đến một vấn đề rất thường như làm bếp, ăn uống: “Nếu thế! Con cũng muốn làm
vũ nữ.”
Giật mình trước lời tuyên bố táo bạo của cô con gái yêu, bà Hạ
đánh rớt chiếc soong đang cầm trong tay xuống đất.
"Vì con muốn biết họ nghĩ những gì và sống ra sao."
"Đừng nói nhảm nào!"
Lan bướng bỉnh cãi:
"Con nói thật đó me."
Tô lên tiếng nói một câu lúng búng ở trong chăn, nghe không
rõ. Lan gọi vọng lên:
"Anh Tô dậy rồi đấy à? Anh nói cái gì đấy?"
Tô nhỏm dậy, thò đầu ra khỏi chăn, bảo:
"Me để mặc Lan! Nếu Lan muốn làm vũ nữ, tối nay để con dẫn
Lan đến 'dancing'... Tha hồ mà xem bọn họ hành nghề ra làm sao mà học."
Lan ở dưới nhà lên, mặc một chiếc áo ngắn trong nhà xanh lá mạ,
tóc búi cao lên đỉnh đầu, bưng một bát cháo bốc khói. Tô ngồi dậy, vuôn vai
nhìn em gái và thốt lên:
"Ê! Cô vũ nữ học nghề, cô cho tôi chén cái gì thế? Nắng
thu hả? Ngon tuyệt! Nắng thu xanh..."
Lan ghé ngồi xuống đi văng, đưa bát cho anh:
"Cháo trứng hành răm đấy! Anh ăn ngay đi, và đừng nói lảm
nhảm nữa."
"Anh chưa đánh răng rửa mặt."
"Em bảo ăn là phải ăn!"
Lan nhìn anh ăn cháo, bất giác hỏi:
"Họ có ôm sát lắm không hở anh?"
"Hừm! 'Họ' nào?"
"Đàn ông đi nhảy chớ ai."
"À! Sát, hết sức sát!"
"Khó chịu nhỉ? Kinh kinh làm sao ấy! Nhưng rồi cũng quen
đi chứ anh?"
Tô nghiêm trang:
"Có thể lắm! Nhưng anh không nghĩ rằng người ta có thể
quen được một điều người ta không thích, nhất là thân hình của hàng trăm người
khác nhau."
"Sao anh biết được? Anh là đàn ông kia mà!"
Tô nhún vai không đáp. Lan lại vặn hỏi:
"Thế còn anh?"
"Anh sao?"
"Anh có ôm họ sát hết sức không?"
"Không! Đúng ra cũng tuỳ. Nhìn vẻ mặt người nào có vẻ
thích ôm sát anh ôm sát; người nào lạnh nhạt hay cười nhà nghề, anh nhảy cách
xa."
"Tiện nhỉ!"
"Lan bảo cái gì tiện?"
"Cái lối yêu ghét của anh chứ cái gì. Anh đối với em và
me cũng thế hả?"
Ngụm cháo vừa nuốt mắc nghẹn cổ họng Tô. Hắn liếc nhìn em
gái, một ánh lo ngại thoáng trong cặp mắt rình mò. Hắn lẩm nhẩm:
"Chà khó nuốt quá!"
"Cái gì khó nuốt? Câu em vừa nói phải không?"
Tô hạ bát cháo xuống, ngửa đầu ra phía sau, nhìn Lan như nhìn
một con vật kỳ lạ mới thấy lần đầu.
"Ái chà! Lan dạo này sắc mắc tệ!"
Lan bướng bỉnh gặng:
"Em yêu anh nhiều thì anh yêu em nhiều; em ghét anh, anh
cũng ghét lại. Có đúng thế không? Anh tồi lắm!"
Tô với lấy cái gối, một tay cầm búi tóc Lan kéo mạnh, một tay
lấy gối đẩy vào mặt Lan khiến cô nàng ngã lên đi văng Lan vùng vẫy, nhưng chiếc
gốc đè chặt lấy miệng không kêu được.
"Lan chừa chưa?"
Lan ngồi nhỏm dậy, tóc sổ ra xoà lên mặt lên vai. Mặt nàng hồng
lên vì tức giận. Nàng giơ hai bàn tay, móng dài và nhọn, doạ:
"Em cào thì phải biết!"
Tô tiếp tục ăn cháo. Lan loay hoay búi lại tóc. Đột nhiên Tô
thốt lên:
"'Cô nàng' đến tuổi yêu đời. Hay! Hay lắm!"
Lan hơi đỏ mắt, tay giật giật mạnh những lọn tóc dài và đen.
Không khí gia đình sáng nay đột nhiên nhẹ hẳn lên đi, thoải mái và êm ả. Tô đặt
bát cháo xuống, đưa tay lên gãi gãi sống mũi, hỏi:
"Di dạo này thế nào hở Lan? Nó có..."
Tô khoác tay một cái bỏ lửng câu hỏi. Lan hơi bĩu môi nhát gừng:
"Khó chịu! Lừng khừng và câm như hến. Hễ em mà hỏi đến
anh ấy..."
Lan bắt chước Di, trừng mắt, môi mím lại:
"Hả! Hỏi cái gì? Để tôi ngồi yên. Có lần em xếp lại mấy
chồng sách của anh bầy bừa bãi trên bàn, anh ấy gạt tay em ra. Trông mắt anh ấy
em sợ quá! Em thấy văng ra tung toé một tập..."
Chắc sợ bà Hạ ở nhà trong nghe thấy, Lan ngửng đầu thì thầm
vào tai Tô. Tô cau mặt, hỏi lại:
"Có đúng em nhìn thấy tận mắt những thứ ấy không?"
"Đúng!"
Tô đánh diêm châm thuốc hút. Tô không ngạc nhiên trước sự
phát giác bất ngờ của Lan về Di, ngồi dựa lưng vào tường, đầu thẳng trên cổ.
Lan lặng lẽ nhìn khuôn mặt thoáng vẻ mệt mỏi, chán chường của anh.
Lan lấy ngón tay trỏ nghịch phát vỡ mấy vòng khói tròn Tô vừa
thở ra. Lan ngửng đầu lên; vầng trán bướng bỉnh ánh lên một vệt nắng dài từ
ngoài cửa sổ chiếu vào, và nói thẳng một hơi:
"Cái anh bạn của anh tối qua đến đây chơi, em ghét anh
ta!"
"Hắn cũng biết em ghét hắn."
Lan không ngần ngừ:
"Nếu anh ấy biết vậy, Lan càng ghét hơn nữa."
Tô im lặng nhìn Lan, tay hắn gõ xuống đi văng thành những tiếng
động đều đều. Lan bật nói:
"Anh muốn hỏi em gì thì hỏi đi!"
Tô giả vờ ngạc nhiên:
"Đâu có! Mà hỏi cái gì mới được chứ?"
Lan bĩu môi:
"Anh chỉ được cái đóng kịch với mọi người là không ai bằng...
À! Anh xem em có lớn lên nhiều không?"
Lan hơi ưỡn ngực ra phía trước, quay người một nửa vòng trước
mắt anh. Tô chưa kịp có ý kiến, Lan đã liến láu:
"Hôm nọ đi qua một cửa hiệu có tấm gương lớn, em thấy
bóng em mà cứ tưởng ai. Em lớn chóng quá sức. Phải không anh? À! Bố anh Thắng
làm gì hở anh?"
"Chết trong tù."
"Pháp bắt?"
"Không. Việt Minh! Ông Na, bố Thắng, trước kia là đảng
viên Việt Nam Quốc dân Đảng."
Lan lộ vẻ bồn chồn, e ngại.
"Nếu thế, có lẽ không nên để anh Di và anh Thắng gần mặt
nhau. Em sợ! Anh cũng biết tính anh Di chớ gì? Nhiều lúc anh ấy dữ lắm!"
Tô nhún vai:
"Thời buổi này làm sao ngăn cản được những sự gặp gỡ
nhau cắc cớ đó."
Giọng Tô trở nên bực bội:
"Mà chúng nó đụng đầu nhau thì cứ đụng, ghét nhau cứ việc
cấu xé nhau. Anh không quay mặt đi đâu."
Lan bỡ ngỡ, không hiểu nổi thái độ của anh.
"Anh, thực ra anh không ưa ai cả hay sao?"
Câu trả lời của Tô chắc như đinh đóng vào cột:
"Có! Có chứ! Mặc dầu vậy, ăn nhập quái gì đến chúng
nó."
Tô dịu dàng đuổi Lan:
"Thôi! Em xuống nhà với mẹ đi! Anh hãy còn muốn ngủ thêm
chút nữa."
Tô nằm ngửa mặt nhìn lên trần nhà, hút liên miên hết điếu thuốc
này đến điếu khác. Lan đi đi lại lại trong nhà, dọn dẹp, gấp chăn, quét nhà và
lau bàn ghế. Lan hát nho nhỏ một bài, lời ca có chim hót, suối reo, hoa bướm và
tình yêu.
Có tiếng cửa mở. Di bước vào nhà. Đầu óc hắn bù rồi soà cả xuống
trán, mặt hơi tái. Một bên tay áo sơ mi rách tả tơi, một bên má và hai khuỷu
tay xây xát máu đọng khô, hai ống quần lấm đầy bùn đất. Hắn vịn vào cánh cửa,
hơi loạng choạng một chút. Lan đứng sững người, mắt mở to nhìn anh từ đầu đến
chân. Lan vội lại gần anh suýt soa:
"Chết ngửa! Anh Di làm sao thế kia?"
Tô hơi nhỏm người lên, nhưng vẫn ngồi yên chỗ, không hé miệng.
Lan vừa đụng vào cánh tay Di, hắn gạt ra, mặt tối xầm lại và
cau có gắt:
"Để mặc tôi!"
Đoạn hắn đi thẳng vào nhà trong, không nhìn một ai. Lan tuy bị
Di gạt ra, nhưng sau khi đứng ngẫm nghĩ một chút, cũng vội theo gót anh.
Di mở mạnh những ngăn kéo và cửa tủ, lục lọi tìm quần án và đồ
băng bó. Lan bảo anh:
"Anh đứng yên nào để em băng tay cho."
Di quát lên, giận dữ:
"Tôi đã bảo để mặc tôi mà... Đi ra đi!"
Lan gắt lại anh, giận dữ cũng không kém:
"Em không đi đâu hết! Mà anh đừng cựa quậy, em không bôi
thuốc sát trùng được."
Lan lẩm bẩm:
"Không biết chui vào cái xó nào mà chân tay sướt hết cả."
Một lát sau Lan từ phòng trong bước ra, thản nhiên tiếp tục dọn
dẹp nhà cửa. Thấy Tô nhìn mình, Lan nói:
"Anh ấy ngủ rồi! Đàn ông thật trẻ con, động tí là làm ầm
ĩ lên. Ai người ta sợ anh hùng rơm!"
"Ấy! Rơm đem đốt bùng lên mạnh ra phết!"
Lan bĩu môi không đáp.
Sau bữa cơm trưa, ông Hạ đang nằm ngủ ở nhà trong thời giật
mình tỉnh dậy. Di và Thắng đang cùng nhau to tiếng. Mơ mơ màng màng ông cũng chẳng
hiểu ý nghĩa những câu trao đổi giữa hai người. Có tiếng xô ghế. Tiếng Thắng
quát lên:
"Đồ hỗn! Nhãi con biết gì mà dám phỉ báng những người..."
Câu nói của Thắng bị ngắt quãng. Tiếng bàn ghế xô động, tách
đĩa trên bàn đổ xuống loảng xoảng. Hình như Thắng và Di đang xô xát. Tiếng Tô rắn
rỏi:
"Thắng! Bình tĩnh đi nào! Di! Điên đấy hả?"
Tiếng Lan van lơn, chắc nó đang cố giữ Di lại:
"Anh Di! Trời ơi! Anh dữ quá!"
Ông Hạ chạy vội ra, miệng hỏi dồn dập:
"Cái gì đấy hả? Người lớn chứ đâu phải con nít mà đánh
nhau."
Trước mắt ông, mấy chiếc ghế đổ lổng ngổng, tách đĩa vỡ tung
toé trên sàn, Lan đang níu lấy Di và Tô nắm chặt một cánh tay Thắng.
Trông thấy ông, Thắng lấy ngay được bình tĩnh. Hắn đưa tay
lên vuốt tóc, điềm đạm bảo Tô:
"Thôi! Mày bỏ tay tao ra chứ!"
Hướng về ông Hạ, hắn xin lỗi:
"Xin lỗi ông! Chuyện này xảy ra thật đáng tiếc! Tôi thật
quá nóng..."
Di mắt đỏ ngầu nhìn chăm chăm vào mắt Thắng, nét mặt đầy oán
hận, môi hắn run lên và bàn tay nắm vào, ruỗi ra. Hắn giật tay khỏi sự níu giữ
của Lan, lần lượt nhìn tất cả mọi người có mặt trong phòng. Miệng hắn há ra,
nhưng hàm cứng lại không nói nên lời và rồi một âm thanh không thành tiếng người
thoát ra khỏi cổ họng hắn và nước mắt ràn rụa hai bên khoé mắt – những dòng nước
mắt của một kẻ điên dại, giận dữ đến cùng cực.
Hắn nhỏ một bãi nước bọt xuống đất, quay người bước thẳng ra
cửa, rời khỏi nhà và quài tay đóng mạnh cánh cửa rung chuyển cả kính. Lan chạy
theo anh. Tiếng Lan gọi Di vẳng vào trong nhà, tha thiết van xin:
"Anh Di...! Anh Di! Đợi em với nào..."
Ông Hạ nghiêm khắc trách Thắng:
"Tại sao anh lại đụng chạm vào nó làm gì? Ngay đến chúng
tôi là người trong gia đình cũng còn phải nương nhẹ nó nữa là anh, dù sao cũng
chỉ là một người lạ."
Ông biết ông vừa nói một câu không người lớn chút nào, nhưng
không hiểu sao, tự nhiên ông lại co ý muốn phủ nhận hoàn toàn thái độ của Thắng,
không cần biết Thắng phải hay trái. Thắng lặng thinh, sửa lại quần áo cho thẳng.
Ông Hạ quay trở vào nhà trong, nhưng không thể tìm lại giấc ngủ bị dứt quãng.
Ông hơi thắc mắc trước sự xúc động hơi quá đáng của Lan. Tại sao nó lại chạy
theo Di?
Ở nhà ngoài, Tô trách Thắng:
"Mày gây sự với nó làm quái gì? Nó đã điên mày cũng điên
nốt hay sao?"
"Thực ra, tao chỉ nổi xung khi em mày đả động đến ba
tao. Hắn hay bất cứ ai, tao cũng không thể tha thứ được."
Tô tò mò nhìn Thắng nhưng hắn không hỏi gì thêm.
Trong khi ông Hạ ngủ, Tô và Thắng ngồi trò chuyện trước hai cốc
cà phê. Lan đan một chiếc áo len dở dang ở giường, khuôn mặt có vẻ bồn chồn
không yên dạ. Nàng cũng không quan tâm đến câu chuyện trao đổi giữa Tô và Thắng.
Đến một lúc câu chuyện chuyển sang bàn về gia đình Thắng. Khi
Tô nhắc đến ông Nam – ba Thắng – Thắng trả lời miễn cưỡng. Tô gặng, Thắng mới
chịu thổ lộ một số chi tiết về ba hắn, nhưng hắn cố gắng che đậy những xúc động
dưới những lời lẽ sống sượng.
Tô hỏi:
"Mày yêu ba mày lắm phải không?"
"Yêu? Thằng này dùng danh từ thật kỳ khôi. Tao chỉ 'yêu'
được đàn bà thôi.Còn về phần ba tao, tao phục ông ấy can đảm. Mày biết không? Hồi
Pháp thuộc, ông cách mạng cách miếc ra sao bị Tây mật thám bắt, đánh lên đánh
xuống, quay điện, đủ cả! Đau quá, ông chửi ầm lên. Càng chửi càng bị đánh, ông
cáu bảo 'Chúng mày hèn, dã man v.v... đánh người bị trói' và hấp! Ông đâm đầu
vào tường vỡ cả đầu. Bọn mật thám sợ ông ấy tự tử chết, thôi không dám đánh nữa."
"Mày là con một chắc được ba mày quí và chiều?"
"Mày nhầm rồi! Trong đời, ba tao chỉ mê có hai thứ 'làm
cách mạng' và 'vẽ tranh'. Vợ con, những chuyện vặt. Còn tao, tao ngó ông ấy
'cách mạng', ông ấy 'làm nghệ thuật'. Tao đếch hiểu cả hai thứ. Mà tao cũng cóc
cần! Tuy nhiên tao vẫn phục ba tao như thường."
"Trong khi ấy, mày làm cái gì?"
"Tao ấy à? Tao tiêu tiền của me tao buôn bán kiếm được.
Vô số! Ba tao sống như trên mây khói. Hễ lấy được của me tao đồng nào là để
giúp anh em, giúp đảng và mua sơn vẽ. Mày xem, ít nhất trong gia đình cũng phải
có thằng đàn ông biết phá phách tiền của me tao kiếm được chứ?"
Tô mỉa:
"Gớm! Công việc nặng nhọc nhỉ?"
"Mày đừng có cười. Mày biết tao có tiền, tao tiêu tiền
phung phí. Đồng tiền chạy đi chạy lại, và tao đứng trơ ra đấy, lắm khi tiêu tiền,
phung phí mãi cũng đâm chán..."
"Đã chán còn tiêu làm chi? Mâu thuẫn!"
Thắng nhún vai:
"À! Thói quen! Cái gì cũng có thể trở thành thói quen được
hết!"
Tô cười:
"Vì thế mày mới đi Quân thứ Lưu động với chúng tao, để
thay đổi không khí, lại còn cố ý, không mang theo một trinh nào trong túi và
tao biến thành chủ nợ của mày."
"Cái thằng này hai soi mói đời tư kẻ khác. Có hôm tao
đánh vỡ mặt!"
Hai người cùng cười. Tô lại hỏi:
"Ờ! Tao cũng quên chưa hỏi hồi Việt Minh lên, mày làm gì
ấy nhỉ? Mày có tản cư đi đâu không?"
Lan ngửng đầu lên nhìn Thắng. Nàng có vẻ chờ đợi, lưu tâm đến
câu trả lời của Thắng. Đôi mắt đẹp của Lan đã mất phần nào ánh nghi kỵ ác cảm
lúc gặp gỡ ban đầu.
"Tao gia nhập tự vệ thành, nhất định ở lại Hà Nội đánh
nhau với Pháp. Ông cụ tao biết, nổi nóng, chửi tao một trận tàn tệ, trước khi
ông cụ theo Việt Nam Quốc dân Đảng lên Vĩnh Yên... Ấy! Có lẽ vì muốn làm trái với
ý ông cụ tao, tao nhất định vẫn ở trong đoàn tự vệ. Vả lại tao chỉ là tự vệ
thành đâu phải Vệ quốc."
"Mày không sợ gặp ông cụ mày, nếu Việt Minh bắt mày đánh
nhau với Việt Nam Quốc dân đảng à?"
"Gặp thế đếch nào được! Tao chỉ biết ở lại đánh Pháp...
Bắt tao đi chỗ khác, tao rút lui ngay. Thôi mày! Đừng nói đến những chuyện cũ nữa.
Ngán lắm!"
Vẫn dùng cái giọng sai khiến, kẻ cả, Thắng hướng về phía Lan
mời:
"Tôi định mời cô Lan tối nay đi một vòng các Dancing. Cô
bằng lòng chứ? Cô đừng ngại, tôi sẽ mời một cô bạn gái đi cùng với tôi; còn cô,
cô đi với anh Tô."
Lan hơi ngạc nhiên, lời mời của Thắng thật bất ngờ. Tô nhìn
em tủm tỉm cười. Tô vừa nhớ đến câu chuyện về vũ nữ giữa anh em, sáng hôm nay.
Lan không trả lời Thắng, mà lại hỏi Tô:
"Anh Tô! Em đi được chứ hả anh?"
Tô không đáp thẳng ưng hay không, hỏi lại em gái:
"Hồi nãy Lan đuổi kịp Di không? Hắn đi đâu mà vội vậy?"
"Anh Di đi nhanh như chạy, em đuổi không kịp. Cũng may
đuổi không kịp, giá kịp Di không chừng cáu anh ấy đánh cả em. Thế nào? Em theo
anh được chứ? Đến tiệm nhảy ấy!"
Thắng lẳng lặng nghe hai anh em bàn cãi. Trước giọng nói háo
hức của em, Tô đùa:
"Dù em muốn đi cũng không được. Em làm gì có cái áo dài
nào ra hồn để mặc. Anh thấy áo nào của em cũng mạng đầy ra."
"Sai rồi nhé! Em có hàng áo anh mới cho."
"Tối nay đi rồi, em may sao kịp."
"Anh lại đoán nhầm rồi. Thừa sức! Chốc nữa me về giúp em
một tay, em may ba chiếc cũng nổi."
Ngay trước mặt Thắng, Tô và Lan vẫn đề cập tự nhiên những
chuyện nghèo túng thiếu thốn của gia đình, không hề ngượng ngùng.
Thắng lúc ấy mới lên tiếng:
"Hay lắm! Thế có nghĩa chúng ta sẽ cùng đi."
Lan đột ngột hỏi anh:
"Anh có đủ tiền cho anh và em chứ?"
Tô chưa kịp đáp, Thắng đã dịu dàng nói – câu nói dịu dàng đầu
tiên của hắn là từ lúc xuất hiện ở gia đình ông Hạ.
"Xin lỗi cô Lan. Cô đừng ngại. Cô đừng quên tôi còn nợ
anh Tô khá nhiều tiền."
Lan gặng hỏi anh:
"Thật chứ anh Tô?"
"À! Cũng không nhiều lắm."
Thắng từ biệt hai anh em ra về và hẹn tối đến đón. Lan quay
trở vào nhà trong, lục tủ và ngăn kéo tìm hàng vải và đồ khâu vá.
Ông Hạ, đang ngồi hút thuốc lào, cau có nhìn con gái. Ông định
bảo ngay cho Lan biết, một người con gái con nhà tử tế đâu được phép bước chân
đến những chốn chơi bời, nhưng không hiểu sao ông lại đổi ý không nêu ngay vấn
đề đó ra. Tối đến cơm nước xong, khi Lan đã thay quần áo trong nhà và mặc chiếc
áo lụa vàng nàng đã cùng mẹ hì hục may cắt suốt buổi sáng mới xong; ông Hạ mới
làm ra vẻ ngạc nhiên, hỏi:
"Lan sắp đi đâu vậy mà mặc áo dài?"
Miệng thì hỏi vậy, nhưng trong thâm tâm ông thầm cảm thấy
kiêu hãnh, sự kiêu hãnh của một người cha có một cô gái yêu kiều. Mặc áo mới
sát lấy thân hình, tóc bới cao lên đỉnh đầu theo kiểu các cô thiếu nữ Thái, Lan
nhớn hẳn lên và càng giống mẹ hồi còn trẻ. Tuy nhiên, trước sắc đẹp bắt đầu nảy
nở của Lan, ông cũng cảm thấy e ngại không đâu.
Nghe câu bố hỏi, Lan ngỡ ngàng một chút, đoạn liếc nhìn Tô và
mẹ, cầu cứu. Tô từ tốn trả lời hộ em:
"À! Con định cho Lan chơi cùng tối nay với mấy người bạn
của Thắng."
"Đi đâu?"
"Đến mấy dancing. Ba đừng lo! Con trả tiền cho Lan và
con mà."
"Không được! Mày đi một mình cũng là quá rồi!"
Bà Hạ ngước nhìn chồng. Ông đọc thấy một ánh trách móc thầm
kín trong đôi mắt vẫn còn đẹp của vợ. Bà Hạ lên tiếng, giọng cảm động:
"Mình cấm con gái làm gì? Chẳng mấy khi..."
Ông gắt:
"Tôi bảo không được là không được! Nghèo thì nghèo, tôi
nhất định không chịu để nó cặp đôi với một thằng con nhà giàu, nhâng nhâng nháo
nháo như thằng Thắng! Không bao giờ! Bà hiểu chưa?"
Tô mỉm cười, một nụ cười dữ tợn và mai mỉa.
"Ba bất công lắm! Ba ghét Thắng thì cứ ghét, việc gì ba
phải giận cá chém thớt, hành hạ một kẻ vô tội."
Ông Hạ càng giận dữ hơn.
"Mày im ngay! Mày cứ liệu giữ mồm miệng. Tao sẽ cấm cửa
thằng Thắng cho mà xem."
Lan mắt long lanh sáng hết nhìn Tô lại nhìn sang bố và mẹ.
Lan bấm môi, cố ngăn những làn nước mắt đã lấp lánh trên mi, chực trào ra, bất
chợt Lan vùng bỏ chạy vào nhà trong. Tô nhìn theo em gái, mặt đanh lại. Tô quay
người, nhìn thẳng vào mặt ông Hạ. Ông đã tưởng Tô sẽ thốt lên những lời quyết
liệt. Nhưng rồi tất cả mọi người đều ngạc nhiên, ngẩn người nhìn chiếc áo lụa
vàng mới may của Lan, do Lan ném từ nhà trong ra, rơi xuống trước mặt mọi người,
chiếc áo bị Lan xé rách làm mấy mảnh.
Cứng rắn đến như ông Hạ mà cũng cảm thấy tim nhói đau. Nếu
Lan khóc lóc giận dỗi, chưa chắc Lan có thể làm ông siêu lòng đổi ý. Mặc dầu
Lan chưa biết là con gái độc nhất trong gia đình, xưa nay nàng vẫn được bố chiều
và nương nhẹ, Lan cũng không dùng đến khí giới thông thường của đàn bà là những
giọt nước mắt đi đôi với những lời nũng nịu. Thế mà lạ thay, nhờ hành động phản
kháng tiêu cực, xé nát chiếc áo dài, Lan ngờ đâu Lan đã làm ông Hạ xúc động.
Để che đậy những xúc động nội tâm, ông nói dỗi:
"Thôi! Chúng mày đi đâu thì đi! Không có tao lại mang tiếng
ác nghiệt."
Ông Hạ bắc chiếc ghế ra ngoài hiên ngồi hút thuốc. Tô vào nhà
trong dỗ em gái. Ông Hạ ngồi một mình lặng lẽ ngắm những vết ánh sáng vàng đỏ
xa tít ở chân trời. Ông hồi tưởng lại những ngày vui hiếm hoi ông đã được hưởng
hồi trẻ, rượu, đàn bà và những tiếng đàn hát cười đùa.
Tối hôm ấy, Lan đành phải mặc một chiếc áo cũ, nhưng tương đối
tươm tất nhất trong số những áo dài ít ỏi của Lan. Khi Thắng lái xe đến đón – một
chiếc xe hơi không mới nhưng trông cũng còn khá tốt – ông Hạ nhận thấy hắn
không đến một mình. Một cô gái Pháp, dưới ánh đèn phố hắt xuống, ông thắng thấy
một mái tóc vàng óng và cặp mắt to, sâu, ngồi cạnh hắn ở trong ghế trước.
Hai người trao đổi mấy câu bằng tiếng Pháp. Tiếng người con
gái ngoại quốc trong vắt và quí phái, giọng của một thiếu nữ Ba Lê không phải
giọng nói đầm thuộc địa ông thường nghe thấy.
Người con gái không chịu cùng Thắng vào nhà, ngồi chờ hắn
ngoài xe.
Bước lên hiên nhà, Thắng nhận ra ông Hạ ngồi lẩn với bóng tối.
Hắn chào, ông không buồn đáp.
Lan, Tô và Thắng ra xe. Khi qua chỗ ông ngồi, ông đã tưởng
Lan sẽ đi thẳng.
Nhưng ông đã đoán sai. Lan dừng lại đứng cạnh ghế ông, ngập
ngừng nói:
"Ba...!"
Trong một thoáng giây, ông tưởng chừng như người đứng bên ông
không phải là Lan, mà là một cô bé xinh xắn, tuy hơi ngỗ ngược một chút, Lan
cách đây 8, 9 năm. Cổ họng ông hơi nghẹn lại, ông thâu ngắn khoảnh khắc thân mật
đó, nói, khô khan:
"Nhớ về sớm đấy! Thôi! Con đi đi!"
Chiếc xe hơi mở máy và vừa rời lề đường, một bóng người xuất
hiện trong chỗ tranh tối tranh sáng của khoảng sáng do ánh đèn đường hắt xuống:
Di. Hắn hai tay thọc vào túi, miệng ngậm thuốc lá, nhìn theo chiếc xe hơi. Hắn
không vào nhà ngay, còn đứng trầm ngâm một lúc khá lâu. Ông Hạ tự hỏi trước sự
vui chơi của mọi người, hắn có cảm thấy bị bở rơi, gạt sang một bên như ông vào
giây phút đó hay không?
Tiếng bà Hạ vang từ trong nhà ra:
"Sao mãi không thấy thằng Di về?"
Ông Hạ thấy Di ngửng đầu lên, nhưng hắn lại quay người đi về
phía đầu phố, không vào nhà. Ông Hạ gọi theo:
"Di! Mày lại còn đi đâu nữa? Khuya rồi!"
Tiếng gọi của ông chìm vào bóng tối, không một tiếng vang. Tiếng
chân Di xa dần. Một tiếng thở dài vang lên cạnh ông. Bà Hạ đã đứng cạnh ông lúc
nào không hay.
Hết hạn nghỉ phép, Tô cùng Thắng lên đường quay trở về với đời
sống nay đây mai đó của đoàn Quân thứ Lưu động. Trong mấy ngày ở Hà Nội, Thắng
cũng năng đến thăm gia đình ông Hạ. Nếu tình cờ Di và Thắng gặp nhau cả hai đều
không hề chào hỏi hoặc chuyện trò. Chúng giống hai kẻ thù địch, vì hoàn cảnh bó
buộc, đành phải chịu đựng nhau; nhưng rõ ràng là nếu gặp nhau ở một khoảng
không gian và thời gian khác, mỗi người đứng vào một phe rõ rệt, chắc chúng sẽ
đâm chém nhau không thương tiếc.
Trước khi đi, Thắng cũng có mời cả gia đình ông Hạ ăn một bữa
cơm tây tại một tiệm có tiếng. Kết cục chỉ có bà Hạ, Lan và Tô nhận lời. Di như
thường lệ luôn luôn vắng nhà. Ông Hạ cần gặp một người bạn cũ về chuyện công việc
làm ăn, đúng hôm Thắng mời, nên cũng thoái thác.
Có lẽ chỉ có Lan háo hức và thú vị nhất. Trong gia đình không
ai còn lạ gì tính nết Lan, thích một đời sống sung túc, ăn ngon mặc đẹp. Tuy
nhiên, Lan vẫn khăng khăng mặc một chiếc áo dài cũ, mặc dầu biết sẽ phải dùng
cơm tại một nơi sang trọng và vẫn giữ thái độ hơi xa cách, giữ gìn đối với Thắng.
Tuy nhiên đôi khi Thắng cũng khiến Lan bật cười hoặc đỏ mặt vì những câu nói
châm biếm dí dỏm.
Khoảng hơn nửa tháng sau, buổi chiều khi ông Hạ đi làm về, bà
Hạ cho biết:
"Thắng vừa đến chơi xong:"
Hơi ngạc nhiên, ông hỏi:
"Vừa đi xong nó lại được về nghỉ phép rồi à? Sao Tô
không về?"
"Không! Theo lời Thắng cho biết, Thắng vừa xin thôi
không theo Quân thứ Lưu động nữa."
"Nó có cho biết tại sao không? Sợ nguy hiểm à?"
"Tôi không nghĩ rằng Thắng sợ nguy hiểm, hình như
nó...chán lang thang thì phải?"
Ông Hạ nhún vai, cười khảy. Bà ngập ngừng tiếp:
"Có lẽ mình nên biên thư gọi thằng Tô về. Dạo này Việt
Minh hình như bắt đầu để ý đến các đoàn Quân thứ Lưu động. Thắng cho biết, mới
đây hai người công an trong đoàn dẫm phải mìn bị thương khá nặng. Tôi lo cho
Tô. Tính nó hay xông sáo, nhỡ một cái..."
"Thế Việt Minh đã tấn công Quân thứ Lưu động lần nào
chưa?"
Bà lắc đầu, ông dửng dưng nói:
"Thế cũng chưa ngại. Kệ thằng Tô, đi hay về tuỳ nó. Mình
chỉ lo lắng vớ vẩn."
Câu chuyện giữa hai vợ chồng ông Hạ về Tô chấm dứt ở đây.
Bốn năm hôm sau, cũng vào buổi chiều đi làm về, từ đằng xa
ông Hạ đã trông thấy Thắng đang ngồi nói chuyện với Lan ở trước hiên nhà. Không
biết Thắng nói câu gì, khuôn mặt đang tươi cười của Lan vụt trở nên nghiêm
trang, Lan nhìn thẳng vào mặt Thắng không trả lời. Liếc thấy ông Hạ, Thắng vội
từ biệt Lan. Lan trao cho Thắng một bọc giấy. Thắng rời Lan đi về phía ông Hạ,
dáng đi vẫn lật bật nóng nảy như thường lệ. Hắn chào ông, ông lãnh đạm gật đầu.
Hai người đi qua nhau, không bắt tay và cũng không chậm bớt nhịp bước.
Lan đứng đón bố ở cửa. Ông Hạ hỏi, giọng nghiêm khắc:
"Thằng Thắng đến có việc gì mà đến hoài?"
"À! Mai anh ấy trở lại với đoàn Quân thứ Lưu động, nên đến
gặp mẹ và con xem có nhắn gì cho anh Tô không."
Ông Hạ không buồn hỏi Lan lý do nào đã thúc đẩy Thắng rời bỏ
đời sống ăn chơi ở thành phố. Theo ý ông bọn thanh niên ngày nay điên cả lũ,
ông hơi đâu tìm hiểu chúng làm chi.
"Mày đưa cho nó cái gì đấy?"
Lan hóm hỉnh cười:
"Ba hỏi làm gì?"
Ông chưa kịp mắng, Lan đã đáp ngay:
"Con nhờ anh Thắng trao hộ anh Tô chiếc áo len con mới
đan."
Ông cau mặt, nhưng trước vẻ mặt vô tội và thẳng thắn của Lan,
cảm thấy sự “tra hỏi"của ông vô căn cứ, ông đi thẳng vào nhà.
Một tháng qua. Trong bữa cơm trưa, ông Hạ cho vợ biết theo
tin tức trên báo, đêm qua Việt Minh dải truyền đơn tại một vài nơi trong thành
phố. Nhà binh Pháp và Công an bố ráp bắt được một số thanh niên trên người còn
mang một số truyền đơn và tài liệu. Nghe đến đây, Lan tự nhiên tái mặt, vẻ lo lắng
bồn chồn hiện hẳn ra nét mặt. Lan vội kéo mẹ vào trong nhà. Hai mẹ con thì thầm
bàn chuyện.
Ngồi ngẫm nghĩ một lúc, tự nhiên ông Hạ bật gọi:
"Lan! Sáng nay Di có về nhà không?"
Tiếng thì thầm của Lan và bà Hạ im bặt. Chờ một chút không thấy
ai trả lời, ông Hạ đứng dậy vào nhà trong. Ông vừa vào, bà đã vội quay mặt đi.
Ông thoáng thấy khuôn mặt vợ tái ngắt, mắt đơm đớm nước.
Ông nghiêm khắc hỏi:
"Thế nào! Tối qua thằng Di không ngủ nhà; sáng nay cũng
lại không thấy về. Thế là nghĩa lý gì? Mà mẹ con bà giấu tôi chuyện gì hả?"
Lan vội đỡ lời mẹ:
"Đâu có! Mẹ và con đang lo cho anh Tô đấy chứ! Còn anh
Di đi đâu có bao giờ cho con và mẹ biết..."
Nhìn mặt Lan, ông Hạ biết chắc con nói dối. Lan biết nhiều
chuyện về những hành động bí ẩn của Di hơn cả vợ chồng ông. Nhưng ông biết tính
Lan bướng lắm. Lan đã chủ tâm bênh vực và che đập cho anh, ông có vặn hỏi cũng
chẳng ích gì. Ông tự hứa, khi nào vắng mặt Lan, ông sẽ tra hỏi vợ chắc rõ đầu
đuôi.
Ông Hạ ngồi hút thuốc lào và tự nhiên lo lắng không đâu.
Không lẽ Di điên rồ dại dột tham dự vào vụ ném truyền đơn tối qua. Nhưng nghĩ đến
lòng oán ghét người Pháp của Di, bản chất say mê và quá khích của Di, ông e ngại
rằng sự suy đoán của ông cũng không xa sự thật bao nhiêu.
Ba bốn hôm sau, Di vẫn biệt tăm biệt tích. Ông Hạ bàn với vợ
đến hỏi tại các sở cẩm xem Di bị giam ở đâu và về tội gì. Vợ ông liếc nhìn Lan,
đoạn ngập ngừng nói:
"Mình đừng đến tìm Di tại các sở cẩm làm chi. Lan có nói
chuyện với tôi, Di bị công an trung ương bắt thì phải..."
Ông hỏi dồn:
"Tại sao Lan biết được?"
"Tối hôm qua, một anh bạn anh Di lại đây báo tin cho con
và mẹ biết anh Dị bị công an bắt cùng với nhiều người khác. Họ nghi anh Di dự
vào vụ ném truyền đơn."
Tuy đã đoán biết trước phần nào, ông cũng sửng sốt và ngồi ngẩn
ra. Cơn giận của ông lại bốc lên bừng bừng. Ông đập mạnh tay xuống bàn, quát
lên:
"Cái thằng khùng! Đồ bất hiếu, bất mục..."
Ông mắc Lan:
"Tao chắc mày biết rõ chuyện thằng Di liên lạc với bọn
Việt Minh. Tại sao không cho tao biết trước, để đến nay nó bị tù? Hả? Nói đi chứ!
Công an nó mà bắt thời khó sống với nó."
Lan mắt đã dưng dưng, nhưng vẫn bướng bỉnh đáp gọn lỏn:
"Con không biết gì hết làm sao nói được!"
Bà Hạ quầng mắt trũng sâu, khuôn mặt hốc hác vì lo lắng nói
như van nài:
"Lan! Con biết gì cứ kể cho ba. Ba còn liệu chạy chọt để
anh Di nhẹ tội đi chứ."
Lan nắm lấy tay mẹ, bóp chặt nhưng vẫn không hé miệng. Ông Hạ
nghĩ không chừng Lan đã được Di dặn trước. Ông lồng lộn đi đi lại lại trong
nhà. Ông phải làm gì bây giờ? Mặc dầu hắn điên và mù quáng, Di vẫn là con trai
ông. Không lẽ ông để nó mục xương trong tù. Ông nghĩ đến chuyện mướn luật sư.
Không chừng Di chỉ bị tình nghi và tội trạng không lấy gì làm rõ rệt. Phải để
luật sư gặp hắn, khuyên hắn kể hết đầu đuôi tự sự, may ra mới gỡ tội được cho
Di. Nhưng đào đâu ra tiền bây giờ?
Bà Hạ đề nghị:
"Hay mình biên thư gọi Tô về?"
"Không được! Tình hình như thế này, nó càng cần phải đi
làm. Ít nhất mình cũng còn trông cậy vào tiền lương của Tô để mướn luật
sư."
Lan xen vào:
"Ba! Hôm nọ đi đến dancing, anh Thắng có giới thiệu con
một anh bạn hiện tập sự tại văn phòng Luật sư Q. Hay để cho nhờ anh Thắng biên
thư giới thiệu, tìm đến gặp, may ra anh ấy sẽ giúp mình."
Ông Hạ cau mặt:
"Bạn Thắng hả? Chắc gì Thắng chịu giới thiệu. Nó ghét thằng
Di, đời nào."
Lan quả quyết:
"Con tin anh Thắng sẽ giúp gia đình mình. Anh Thắng
không nhỏ nhen đến thế đâu. Trong những lần gặp con ở..."
Lan ngừng nói, chắc Lan tự biết vừa lỡ lời. Ông Hạ nghi ngờ
nhìn Lan. Nghe giọng Lan ông có cảm tưởng Lan biết khá kĩ về Thắng. Hay hai đứa
đã hẹn hò gặp nhau riêng tại một nơi khác, dấu cả ông lẫn bà? Trước ánh mắt soi
mói của bố, hai gò má Lan ửng hồng.
Suy đi tính lại, ông cũng đành đồng ý với Lan.
Ngay chiều hôm đó, sau khi gửi ngay một lá thư bảo đảm cho Tô
và Thắng, không chần chờ nhận được thư giới thiệu của Thắng, bà Hạ và Lan tìm đến
gặp ngay Vĩ, người bạn tập sự luật sư của Thắng.
Khi về nhà, bà Hạ và Lan mừng rỡ ra mặt. Vĩ đã nhận lời cãi hộ
vụ Di. Vấn đề tiền thày kiện sẽ thanh toán sau. Vĩ còn hứa sau khi xin phép biện
lý và tiếp xúc được với Di, sẽ thân hành đến gia đình ông bà Hạ cho biết thêm
chi tiết. Ông Hạ thắc mắc:
"Người ta đã chịu giúp mình không kể tiền nong lại còn để
anh ấy đến đây làm gì? Phiền chết!"
Lan ngây thơ đáp:
"Anh Vĩ có ô tô mà. Anh ấy tự ý muốn đến đấy chứ!"
Thực ra ông cũng không ngạc nhiên lắm. Không mấy người đàn
ông cưỡng nổi với sự quyến rũ rất tự nhiên của Lan. Một ý định thầm kín bắt đầu
nhen nhúm trong óc ông: Trong tương lai sắc đẹp của Lan – nếu ông khéo léo – sẽ
có thể biến thành một sức mạnh đáng kể, giúp ông dựng lại cơ nghiệp. Dĩ nhiên
ông cũng hơi hổ thẹn với chính mình khi có ý định lợi dụng sắc đẹp của con gái.
Nhưng không thể ngăn ông nghĩ ngợi hoài đến vấn đề này.
Mấy ngày sau, vừa xin được phép ông Biện lý vào tiếp xúc lần
đầu với Di, Vĩ đã tìm đến thăm ông bà Hạ ngay. Vĩ vào khoảng ngoài ba mươi.
Thân hình cao lênh khênh, làn da trắng xanh, cặp mắt mơ màng sau cặp kính cận
thị khiến Vĩ có vẻ một thi sĩ hơn một luật sư.
Mới gặp Vĩ lần đầu, Vĩ đã có nhiều điểm khiến ông Hạ không
ưa. Trước nhất lối phục sức của Vĩ rất hợp thời trang, nhưng đỏm dáng tựa một
người đàn bà: Cravare lụa mầu, cặp cravere bạch kim gắn một viên ngọc thạch, giầy
hai mầu mũi nhọn, pochette thêu hai chữ lồng lấy nhau, chắc chữ đầu tên Vĩ và vợ.
Vĩ còn có cái tật kỳ khôi là khi thì nói lắp có lúc lại không. Nghe chuyện hắn
thật bực mình. Tinh ý quan sát hắn người ta thấy hình như Vĩ có hai con người
khác nhau. Lúc hắn cố gắng làm ra vẻ đàn ông nói dằn giọng hùng hồn không lắp một
chút nào, nhìn thẳng vào mặt người đối thoại – thói quen nghề nghiệp của Vĩ –
Lúc hắn lắp bắp nói không thành câu, đỏ mặt lúng túng thật đáng thương.
Đã thế hắn lại còn lăng xăng, quấn lấy Lan. Đến gia đình ông
bà Hạ về công việc, mà hắn chỉ biết có Lan, tìm mọi cách để làm Lan vừa lòng, uống
từng câu nói của Lan và mặc dầu hắn đang nói thao thao về những khía cạnh pháp
lý của vụ cãi cho Di, Lan vừa hỏi một câu, hắn vội im bặt những lời hùng biện
và hấp tấp trả lời, nhiệt thành một cách lộ liễu, và quá đáng.
Vĩ kể lại chi tiết về cuộc gặp gỡ giữa hắn và Di trong nhà
giam.
Theo lời hắn, hắn vừa tự giới thiệu là trạng sư gia đình mướn
cãi cho Di, Di lãnh đạm đáp “Tôi không cần luật sư! Ông đừng hỏi tôi phí công.
Tôi không nói gì hết!”. Vĩ cố gắng giảng giải, nếu Di cho hắn biết tỉ mỉ tất cả
sự thật, hắn sẽ gỡ được cho Di nhẹ tội hoặc trắng án. Hắn cũng cho Di biết, đã
gặp ông Biện lý và trong mấy thanh niên bị bắt, Di chỉ bị tình nghi chứ không
có chứng cớ buộc tội rõ rệt. Di lẳng lặng nghe, cuối cùng nói cộc lốc: “Ông có
thuốc lá không?”
Di nhận điếu thuốc lá của Vĩ, châm hút, không một lời cám ơn.
Đoạn hắn đuổi “Ông đi về đi! Đừng làm phiền tôi”.
Nghe đến đây, Lan mỉm cười, hỏi:
"Thế ông đứng dậy đi về luôn?"
Vĩ lên giọng luật sư nhiều kinh nghiệm:
"Đâu có phải lần đầu tiên tôi phải tiếp xúc với một người
bướng bỉnh. Tôi đã từng gặp những tội nhân còn gây gổ với tôi là khác. Khi anh
Di đuổi, tôi đáp 'Ông không muốn tôi cãi cho ông, đó là ý của ông. Tôi chỉ biết
gia đình ông thuê tôi, là tôi cãi vụ này. Tôi sẽ ngồi cho đến hết giờ thăm'.
Tôi lấy hồ sơ ra nghiên cứu và..."
Lan ngắt lời Vĩ:
"Đáng lẽ ông nên mềm dẻo một chút, không nên găng với
anh Di tôi. Ông làm thế không chừng lại khiến anh Di tôi bực mình, không chịu
nói sự thật với ông hay cãi nhau với ông biện lý rồi bị xử nặng tội hơn."
Ông bà Hạ tưởng Vĩ sẽ mếch lòng trước lối nói thiếu phần tinh
tế của Lan, không ngờ Vĩ lại dịu ngay giọng, nói như xin lỗi:
"Vâng! Vâng! Không! Tôi thật ra chỉ có ý định cương quyết
một chút lần đầu gặp anh Di mà thôi. Lần sau, tôi hứa với cô sẽ mềm dẻo
hơn."
Bà Hạ hỏi:
"Anh thấy em nó có khoẻ không?"
Lan thẳng thắn:
"Me tôi định hỏi, anh tôi có bị tra tấn đánh đập nhiều
không?"
Vĩ lưỡng lự:
"Bà và cô Lan cũng nên biết là điều đó không thể tránh
được vào thời buổi này. Tôi quan sát thấy một vài vết tích chứng tỏ..."
Bà Hạ thở dài quay mặt đi, Lan mắt sáng lên, bứt rứt:
"Ông phải can thiệp cách nào chứ!"
Ông Hạ mắng át Lan:
"Thằng Di bướng, công an đánh cho là phải. Còn can thiệp,
ông Vĩ là trạng sư chắc thông thạo công việc nghề nghiệp của ông ấy, đâu cần lời
khuyên của ai. Con gái con lứa! Bép xép hoài."
Lan sa sầm mặt, trước câu nói tàn nhẫn của bố. Lan ra ngồi ở
chiếc bàn cạnh đấy, để mặc bố tiếp chuyện Vĩ.
Ngồi với ông bà Hạ, Vĩ chốc chốc lại quay mặt hướng về phía
Lan. Nghĩ thương anh, và tức giận vì cảm thấy bất lực trước những đau khổ của một
người thân, Lan khóc. Đầu Lan vẫn thẳng, môi mím lại và mắt mở to nhìn vào khoảng
không. Vĩ là người đầu tiên trông thấy Lan khóc. Hắn hốt hoảng, bối rối hơn cả
ông bà Hạ. Khi hắn đứng dậy cáo từ, cắp cặp ra về, hắn muốn chào Lan lắm, nhưng
tuy đằng hắng mấy tiếng vẫn không thấy Lan chú ý, hắn lưỡng lự không biết có
nên lại gần Lan hay về thẳng. Tuy đã để tay lên nắm cửa và mặc dầu có ông Hạ tiễn
ra tận cửa, Vĩ còn cố quay lại chào thêm bà Hạ một tiếng để có dịp nói với Lan:
"Cô Lan! Chào cô. Tôi sẽ cố can thiệp với ông Biện lý để
tránh cho anh Di... Vâng. Xin cô đừng lo! Vài hôm nữa tôi sẽ xin lại đây. Tôi sẽ
lại sớm hơn thế không chừng."
Lan lãnh đạm gật đầu chào Vĩ. Lan cũng không lau khô hoặc giấu
những giọt nước mắt còn đọng trên hai gò má. Sự quỵ lụy trước đàn bà của Vĩ khiến
ông Hạ càng bực bội và khinh bỉ hắn. Ông thắc mắc tự hỏi tại sao đã có vợ – tay
Vĩ có đeo nhẫn cưới – hắn còn có thể si ngây đến như vậy.
Suốt trong tuần lễ sau đó, chiều nào đi làm về ông Hạ cũng thấy
một bó hoa thật đẹp, đắt tiền cắm lọ để giữa nhà. Ông hỏi, Lan đáp:
"A! Anh Vĩ ngày nào cũng mua hoa tặng vợ, tiện tay anh
mua thêm một bó nữa, tạt qua đây 'tặng gia đình mình cắm cho vui nhà'."
Ông cau mặt, thầm nghĩ Vĩ thật trơ trẽn và bất nhã. Trong khi
gia đình ông có chuyện buồn, hắn chỉ nghĩ đến chuyện tán tỉnh Lan. Tưởng tượng
hắn ôm hai bó hoa, đứng ở ngưỡng cửa, lắp bắp không ra câu, ông đã cảm thấy gan
ruột lộn lên. Thế mà ông lại phải nhờ vả hắn và chịu ơn hắn! Đôi khi ông muốn bỏ
mặc Di, cho Di bị tù, và cấm cửa cả Thắng lẫn Vĩ. Con gái ông không phải là một
đồ chơi.
Theo Vĩ, ông Biện lý – một người bạn của hắn – không mấy thiện
cảm với Di. Ông tâm sự với hắn “Cái thằng blanc"bec ấy thật impossible.
Mình hỏi cung nó mà thái độ nó khinh khỉnh, làm như mình phiền nó. Kỳ khôi hơn
nữa, không những nó không nhận tội mà qua lời lẽ, hình như nó muốn chúng mình,
chính mình và tất cả mọi người, mới là những kẻ có tội. Lắm khi moa chỉ muốn
căng nọc nó ra đánh cho một trận. Ngứa tay lắm! Ấy thế mà chính những thằng
nhãi ranh miệng còn hôi sữa đó, dám ném truyền đơn, lựu đạn, không chùn tay.”
Ông Hạ rất thông cảm với phản ứng của ông Biện lý. Chắc ông
cũng có con trai lớn bằng tuổi Di. Ông nói đúng lắm: Chúng – bọn trẻ – thù ghét
bọn già vì tin tưởng chính họ mới là những kẻ có tội. Nếu ông Biện lý buộc tội
Di khá nặng, ông sẽ không ngạc nhiên chút nào.
Di còn nhờ Vĩ nhắn bà Hạ và Lan đừng vào thăm. Di sẽ không
“tiếp”. Bà Hạ và Lan rất buồn và thắc mắc trước thái độ muốn cắt đứt với những
ràng buộc gia đình của Di. Đối với một người mẹ, một người em gái, bị một người
thân hắt hủi còn đáng buồn và khổ hơn cả bị hành hạ, sỉ mắng. Tuy nhiên bà và
Lan vẫn sửa soạn quần áo, thức ăn khô, chờ ngày được vào thăm Di.
Buổi tối hôm bà Hạ và Lan được phép vào nhà giam thăm Di, lại
không gặp mặt Di, vì Di nhất định không chịu rời phòng giam và cũng không hề viết
thư ra, hay nhắn tin giải thích tại sao.
Thắng từ đoàn Quân thứ Lưu động trở về Hà Nội và xuất hiện bất
ngờ tại gia đình ông bà Hạ. Kể ra bất ngờ là đối với ông và bà Hạ mà thôi. Khi
Lan reo lên mừng rỡ “Anh Thắng! Sao bây giờ anh mới về?”, ông đoán biết ngay cô
nóng ruột chờ đợi Thắng từ mấy hôm nay.
Thắng gầy và mặt mũi chân tay đen xạm. Hắn vẫn mặc nguyên
trên người bộ đồng phục của các nhân viên Quân thứ Lưu động, bà Hạ hỏi?
"Chắc em Tô không về cùng với anh?"
Thắng đáp ngắn ngủi:
"Dạ không ạ!"
Lan đến ngồi cạnh mẹ, hai tay khoanh lại, mắt nhìn Thắng
không rời. Nàng cố gắng ghìm giữ phần nào ánh rạng rỡ trên nét mặt. Lan đợi khi
Thắng đã ngồi xuống ghế hẳn hơi, châm thuốc hút rồi mới lên tiếng:
"Anh nhận được thư Lan hôm nào? Anh Tô có nhắn gì
không?"
"Sáng nay nhận được thư Lan, tôi về ngay."
Thắng không trả lời câu hỏi về Tô, tiếp luôn:
"Bà và Lan chắc đã gặp Vĩ nhiều lần? Hắn cãi không giỏi
nhưng tạm được và chịu khó lắm!"
"Dĩ nhiên anh Vĩ chịu khó rồi! Thày kiện mà ngày nào
cũng mang hoa tặng gia đình thân chủ."
Thắng cau mày, nhắc lại:
"Tặng hoa!"
Hắn nhìn Lan từ đầu đến chân soi mói, đoạn gật gù cái đầu.
Lan hơi đỏ mặt. Lan Thắng không bảo nhau đều mỉm một nụ cười, đồng lõa một cách
thầm kín.
Thắng hơi nghiêng người, thọc tay trái định rút khăn tay. Chợt
hắn nhăn mặt, làn da hơi tái một chút. Lan lúc ấy mới chú ý đến tay áo Thắng,
hơi cộm lên và lấm tấm mấy vết máu khô đọng. Nàng vội hỏi:
"Chết chửa! Tay anh làm sao thế kia?"
Thắng nhún vai, đáp:
"Mìn Việt Minh."
Bà Hạ sửng sốt. Linh tính một người mẹ hình như thầm bảo một
chuyện không may có thể xảy đến cho Tô. Giọng lạc đi, bà kêu lên:
"Trời! Thế Tô?"
"Không! Bà đừng lo! Tô khoẻ và không sao cả."
Ông Hạ lên tiếng:
"Chắc các nhân viên Quân thứ đi công tác gặp mìn Việt
Minh chôn? Nhiều người bị thương không?"
Câu trả lời của Thắng vẫn ngắn ngủi, thản nhiên:
"Dạ! Vài ba người."
Lan nhìn cánh tay Thắng, nàng hơi ngần ngại trước khi đặt câu
hỏi:
"Thế anh?"
"A! Chắc mình không ưa tôi, nên tôi đi qua hai ba bước
nó mới nổ. Bùm! Người lính kế sau tôi, gãy một chân và một bên người bị nát bấy
vì mảnh mìn."
Hắn ngừng lại, đầu hơi cúi, nhìn theo làn khói thuốc lá uốn
éo. Tự nhiên mọi người đều im lặng. Bà Hạ thở dài nhẹ nhõm:
"Anh Thắng may thật!"
Lan tinh quái hỏi:
"Anh sợ chứ?"
"Sợ lắm! Nhưng kém xa lần đầu tiên đưa Lan ra
“piste"nhảy."
Lan trừng mắt nhìn thẳng vào mặt Thắng. Hai cặp mắt giao nhau
trong một giây, đoạn hai gò má Lan ửng hồng. Lan và Thắng giống hai con thú dữ,
móng sắc, trẻ và hăng máu không để lỡ bất cứ dịp nào để rỡn đùa, một trò chơi
không thiếu phần nguy hiểm.
Duy Lam
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét