Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2024

Trong gia đình 2

Trong gia đình 2

- 2 -
Perin vội vàng thay quần áo. Được ở một mình trong phòng chẳng có ai tò mò nhìn ngó, em sung sướng quá! Nhưng khi đặt lưng trên tấm nệm, em không thấy cái cảm giác dễ chịu mà em mong ước. Nệm nhám quá, dầu dệt bằng dăm bào vẫn êm hơn. Nhưng chuyện ấy nào có ý nghĩa gì! Lần đầu Perin nằm ngủ dưới đất cũng thấy đất cứng lắm, nhưng rồi sẽ nhanh chóng quen dần thôi!
Cánh cửa vừa mở, một thiếu nữ khoảng mười lăm tuổi và phòng thay uần áo. Thỉnh thoảng cô ta liếc về phía Perin và không nói gì. Cô ta diện bộ cánh ngày lễ nên phải mất khá nhiều thời gian để sắp xếp áo quần trong cái rương nhỏ. Cô treo quần áo lao động trên đinh. Để ngày mai mặc đi làm.
Một người khác đi vào, rồi người thứ ba, thứ tư. Thế rồi họ kháo chuyện điếc cả tai. Cả bốn người cùng nói. Ai cũng kể lại công việc ngày hôm nay. Trong khoảng cách giữa các giường, họ kéo, họ đẩy mấy cái hộp, cái thúng của họ, chồng chất lên nhau. Họ mất cả bình tĩnh, nổi cáu và trút cả lên đầu bà chủ nhà:
- Chà, cái lều!
- Bà ta lại nhét thêm giường nữa!
Những câu chuyện không ngừng nhưng có thay đổi. Người ta kể cho nhau nghe những gì thú vị đã xảy ra trong ngày. Người ta nói đến ngày mai, công việc ở xưởng, nỗi bất bình, những lời than thở, cãi cọ của mọi người, những chuyện ngồi lê đôi mách trong cả nhà máy. Người ta không quên đôi lời về những kẻ bề trên: Ông Vunphran, những “thanh niên”, để gọi hay người cháu. Người ta chỉ gọi ông quản đốc Taluen có một lần. Người ta dùng những tính từ để nói nhiều hơn là những câu dài, những nhận xét về ông ta: lão Gầy, lão Chồn, tên Phản Bội.
Tình trạng mâu thuẫn làm cho Perin ngạc nhiên. Những lời mách lẻo mà em nghe được rất là quan trọng, Perin những muốn chăm chú theo dõi. Mặt khác, em lại cảm thấy khó chịu, như là xấu hổ, vì đã nghe trộm những câu chuyện ấy. Dần dần, họ bớt nói. Có một giọng mệt mỏi:
- Phải đi ngủ chứ!
- Nào ai cấm đâu!
- La Noayden chưa về!
Vừa lúc ấy, người ta nghe những bước chân nặng nề và khập khiểng ở phía cầu thang.
- Bà ấy về đó.
Những bước chân dừng lại. Có người ngã rồi những tiếng rên xiết:
- Mụ ta ngã rồi!
Những tiếng rên rỉ vẫn tiếp diễn, xen lẫn tiếng gọi:
- Létđơ! Hãy đến đây con ơi! Giúp mẹ một tay nào!
Nhưng Létđơ không nhúc nhích. Sau một lát, tiếng kêu ngừng hẳn.
- Mụ ta ngủ rồi!
- May quá chừng!
Mụ ta không ngủ. Trái lại, mụ cố gắng leo lên cầu thang, rồi gọi:
- Létđơ, con của mẹ! Đến đây giúp mẹ nào Létđơ! Létđơ.
Mụ ta không tiến lên được. Thật thế tiếng kêu vẫn từ dưới cầu thang vang lên càng khẩn cấp. Thế rồi, tiếng kêu ấy kéo thêm tiếng khóc.
Cuối cùng, Létđơ mặc chiếc váy lót và đi xuống.
- Ôi! Con gái của mẹ, con gái của mẹ.
La Noayden cảm động hét lên.
Hình như họ chỉ có việc leo lên cầu thang, bây giờ có vẻ như chắc chắn hơn. Nhưng niềm vui được thấy Létđơ đã đuổi xa cái ý nghĩ ấy.
- Con đi với mẹ! Mẹ sẽ trả tiền cho con một ly nhé.
Létđơ không để cho lời đề nghị ấy cám dỗ.
- Chúng ta về đi ngủ. – Cô ta nói.
- Không, con hãy đến với mẹ! Létđơ bé nhỏ của mẹ!
Cuộc tranh cải kéo dài, La Noayden vẫn bướng bỉnh với cái ý nghĩ mới, nhắc mãi cái từ của mụ ta, vẫn cái từ ấy:
- Một ly nhỏ!
Trước đây, Perin nghĩ khi có một cái mái che trên đầu, em sẽ có được giấc ngủ ngon. Bây giờ, em thấy nằm ngủ ngoài đồng, trong bóng tối, phải lo sợ thời tiết thay đổi, còn tốt hơn là nằm chen chúc trong cái phòng hỗn tạp, ồn ào này. Cái mùi gây buồn nôn của nó bắt đầu làm cho Perin ngột ngạt, khó chịu. Em tự hỏi làm thế nào để chịu đựng nổi thêm vài tiếng nữa?
Bên ngoài, cuộc tranh cãi vẫn kéo dài. Người ta nghe La Noayden nhắc lại mãi: “Một ly nhỏ” tiếng Létđơ trả lời: “Ngày mai!”.
- Tôi đi giúp Létđơ đây. – Một phụ nữ lên tiếng, nếu không sẽ kéo đến ngày mai!
Người phụ nữ ấy ngồi dậy và đi xuống!
Thế là trong cầu thang có tiếng ồn xen lẫn những bước đi nặng nề và những tiếng kêu của những người ở tầng trệt vì sự ồn ào ấy. Hình như cả nhà đã được báo động. Cuối cùng, La Noayden được đưa và phòng. Mụ ta vẫn khóc và gào thét một cách thất vọng:
- Nào tôi đã làm gì các người kia chứ?
Không thèm quan tâm đến những lời than vãn, người ta vẫn thay quần áo, đỡ mụ ta nằm xuống. Nhưng mụ ta cũng chẳng chịu ngủ và vẫn khóc nức nở:
- Nào tôi có làm gì các người mà các người đối xử với tôi tàn nhẫn thế này! Ôi, tôi khổ quá! Tôi không phải là con ăn cắp thế mà người ta không thèm uống với tôi! Létđơ, mẹ khát quá!
Mụ ta càng phàn nàn, người trong phòng càng tức giận. Tuy căm tức nhiều hay ít, mỗi người hét lên tiếng nói của mình. Nhưng mụ ta vẫn tiếp tục. Tiếng nói của mụ ta có lúc chậm lại, yếu dần như là sắp ngủ. Liền ngay sau đó, mụ lại nói nhanh và gào lên. Những người vừa mới chợp mắt, giật mình, tỉnh dậy. Họ giận dữ hét lên, khiến mụ hoảng sợ, nhưng cũng chẳng làm cho mụ câm họng được.
- Tại sao các người lại đối xử tàn nhẫn với tôi chứ? Cứ việc nghe rồi tha thứ! Thế là đủ rồi!
- Chị có sáng kiến rất hay là rước bà ta lên!
- Làm sao mà ngủ được chứ?
Đó cũng là ý nghĩ của Perin. Em tự hỏi:
Những chiều chủ nhật đều như thế này chăng? Bạn bè của La Noayden làm thế nào để chịu đựng được mụ ta? Ở Marôcua không còn ngôi nhà nào khác để được nằm ngủ yên ổn sao?
Trong gian phòng này không phải chỉ có sự ồn ào làm người ta khó chịu. Em bắt đầu cảm thấy cái không khí mà mọi người hít thở ở đây không hợp với em. Em lộn ruột, ướt đẫm mồ hôi vì nóng bức, nghẹt thở và ngửi nhiều mùi hôi hám.

Cuối cùng, mụ La Noayden thao thao bất tuyệt rồi cũng phải chậm lại. Mụ chỉ còn ném ra những tiếng lè nhè, sau đó thì có tiếng ngáy. Tuy gian phòng trở lại im lặng, nhưng Perin vẫn không tài nào ngủ được. Em ngạt thở - Có những tiếng trầm trầm ở sau em – Mồ hôi ướt như tắm từ đầu đến chân em.
Không cần tìm nguyên nhân: Perin ngạt vì thiếu không khí! Trong phòng trọ, không ai kêu ca gì vì họ đã quen sống như thế này! Perin quen ngủ ngoài đồng nên mới cảm thấy ngột ngạt!
Các bà nông dân đã quen với cái không khí ấy trong phòng trọ - Perin cũng sẽ quen dần như họ thôi. Phải dũng cảm và kiên trì! Tuy Perin không phải là nông dân nhưng em cũng đã trải qua một cuộc sống khá vất vả như họ, và cả những người khổ cực nhất trong đám họ. Vì thế em thấy không có lý gì em lại không chịu đựng nổi, trong khi những người khác chịu được!
Chỉ cần đừng thở, rồi giấc ngủ sẽ đến! Perin biết rõ trong khi ngủ, khứu giác không làm việc. Khốn thay! Người ta không thể muốn thở lúc nào, theo cách nào cũng được! Perin đã hoài công ngậm miệng, nính thở, nhưng rồi em lại phải mở đôi môi, để hai lỗ mũi hít một hơi thật sâu vì trong phổi em không còn không khí. Cái đang sợ nhất là bất chấp tất cả, em đã phải lặp lại nhiều cái động tác ấy! Thế thì tại sao? Việc gì sẽ xảy ra nào? Nếu Perin không thờ, em sẽ bị ngạt! Nếu thế, Perin ốm mất!
Trong lúc trăn trở, bàn tay Perin chạm phải tờ giấy dán ở cửa sổ thay tấm kính. Gường em nằm đặt ở ngay cạnh đấy. Tờ giấy không phải là một tấm kính. Perin có thể làm thủng một lỗ mà không có tiếng động. Không khí bên ngoài lỗ thủng sẽ vào gian phòng, Perin có làm điều gì xấu hổ đâu, khi chọt thủng tờ giấy? Mấy người tuy quen với không khí ô nhiễm này, chắc họ cũng vẫn khổ vì nó. Thế thì miễn là đừng làm cho họ thức dậy. Perin có thể xé miếng giấy ấy. Nhưng Perin chẳng cần làm việc ấy, vì sẽ để lại dấu vết. Em vừa sờ đến tờ giấy thì thấy người ta dán chưa khít. Perin lấy móng tay gỡ thử và giấc ngủ đến với em trong tư thế ấy!
Khi em tỉnh dậy, một ánh sáng quá yếu ớt nhuộm trắng tấm giấy, nhưng chẳng soi sáng gian buồng. Bên ngoài, bầy gà trống đang gáy. Qua lỗ thủng của tờ giấy, không khí lạnh lọt vào. Trời đã rạng đông. Mặc dù co luồng gió từ bên ngoài vào, mùi hôi của buồng ngủ vẫn chưa bay đi hết. Tuy có một ít không khí trong sạch vào đây, nhưng không khí ô nhiễm chưa ra khỏi chút nào! Nó dồn lại, làm dày thêm, nóng hơn, thành một sự rịn ướt ngạt thở. Mọi người vẫn ngủ say. Thỉnh thoảng cớ vài tiếng ú ớ chen vào.
  Perin vụng về cho khuỷu tay khá mạnh vào mặt kính khi muốn mở rộng lỗ thủng ở mảnh giấy. Cánh cửa không thật khớp trong khung kêu lên và có những tiếng ngân vang kéo dài. Không có ai thức dậy như em lo ngại. Tiếng động khác thường ấy cũng không quấy rầy ai cả. Thế là Perin quyết định: rất nhẹ nhàng, không một tiếng động, em lấy áo, váy thong thả mặc vào. Em đi chân đất, tay cầm đôi giày và tiến ra cửa theo ánh sáng của vầng đông. Cửa chỉ gài chốt, Perin mở rất êm. Em đã đứng ở ngoài cầu thang gác. Không ai nhìn thấy Perin vừa đi ra. Em ngồi bên bậc thứ nhất của cầu thang, mang giày và đi xuống.
Ôi, không khí trong lành! Mát rượi! Chưa bao giờ Perin được hít thở với niềm hạnh phúc trọn vẹn như thế này! Đi qua sân, em há miệng, mũi phập phồng, đôi tay đung đưa, cái đầu vung vẩy. Tiếng động của những bước chân đánh thức một con chó ở gần đấy. Nó sủa và lát sau, nhiều con chó khác sủa theo ầm ĩ. Perin cần cử động mà cái sân nhỏ quá! Qua hàng rào đã mở, em ra ngoài đường. Em bước thẳng về phía trước, không biết sẽ đi đâu. Nhưng ở trên đầu. Perin nhìn thấy bình minh nhuộm trắng các ngọn cây và nóc nhà. Trong chốc lát nữa, trời sáng tỏ. Vừa lúc ấy, trong im lặng sâu thẳm có tiếng chuông. Đồng hồ nhà máy điểm ba tiếng báo cho em hay còn ba tiếng nữa mới đến giờ vào xưởng. Perin sẽ làm gì trong thời gian này? Em không muốn để mệt mỏi trước khi lao động. Em cũng không thể cuốc bộ đến lúc ấy. Tốt hơn hết, em ngồi nghỉ để chờ đợi.
Từng phút, từng phút, bầu trời sáng tỏ dần. Dưới ánh sáng trên mặt đất, cảnh vật chung quanh đã có nhữnghình dáng khá rõ rệt. Perin có thể phân biệt mình đang ở đâu.
  Em đang đứng trên mép một mô đất bắt đầu từ đây và hình như kéo dài lớp nước của nó để dồn vào các vũng nước khác! Mô đất nối tiếp mô đất. có cái lớn, cái bé do sự tình cờ của cuộc khai thác than bùn đến tận con sông lớn. Khi rời khỏi PichKynhi có phải em đã trông thấy như thế này? Hình như ở đây vắng vẻ, hẻo lánh hơn và có nhiều hàng cây lộn xộn che khuất. Perin dừng lại một lát. Em cho chỗ ấy chưa tốt để ngồi nghỉ nên lại tiếp tục đi, em rời khỏi mô đất, leo theo triền dốc một cái đồi nhỏ có cây cối. Trong đồi cây ấy, có lẽ em sẽ tìm được cái gì mà em đang tìm kiếm.
Khi Perin đến gần, đứng trên cao, em nhìn thấy bên bờ mô đất, có một túp lều bằng cành cây và cây sậy. Mùa đông, người ta thường dùng lều này để săn bắt bầy chim di trú qua đây. Thế là em có ý nghĩ: Nếu đến được túp lều, em sẽ được che chở. Không ai để ý đến em giữa cánh đồng, trong buổi sáng sớm. Perin có thể, trên đường đi, tránh những giọt sương nặng hạt từ các cành cây rơi xuống như là một cơn mưa thật sự, tắm ướt em.

Perin bước xuống, tìm kiếm và thấy được trong đám lau sậy một con đường nhỏ chưa rõ rệt, hình như dẫn đến lều cỏ. Em đi theo con đường ấy. Tuy nó dẫn em đến đúng chỗ, nhưng nó vẫn không đưa em vào túp lều được. Lều nằm trên một hòn đảo nhỏ. Người ta trồng ba cây liễu để làm sườn lều. Một ao hồ ngập nước ngăn cách túp lều với đám lau sậy. May thay có một thân cây bắc ngang hồ. Cái cầu ấy tuy chật hẹp, ướt đẫm sương mai, rất trơn, nhưng Perin vẫn không ngại vượt qua. Em mở cửa.
Túp lều có hình vuông, từ dưới lên tận mái được che bằng cây sậy và cây cỏ lớn. Bốn phía lều có những lỗ nhỏ, đứng phía ngoài không nhìn thấy gì. Ở bên trong, có thể thấy rõ chung quanh. Ánh sáng theo các lỗ ấy lọt vào trong lều. Trên mặt đất có một lớp dương xỉ dày. Trong một góc lều, có khúc gỗ bằng thân cây, dùng để thay thế ghế dài!
  Ôi, cái tổ ấm xinh đẹp quá! Cái tổ này chẳng giống cái buồng trọ Perin vừa ra khỏi. Ở đây, em sẽ ngủ ngon giấc trong không khí trong lành, yên tĩnh. Em đang nằm trên cây dương xỉ, không còn nghe gì ngoài tiếng lá cây xào xạc và nước chảy. Ở đây, Perin không phải nằm trên tấm nệm cứng của mẹ Prăngxoadơ, trong bầu không khí dễ sợ, giữa tiếng kêu la của La Noayden và các bạn cùng phòng. Cái mùi mồ hôi ấy vẫn cứ theo đuổi, làm em buồn nôn.
Perin nằm dài trên cây dương xỉ, trong một góc lều, sát tường bằng cây mệm mại. Em nhắm mắt lại, cảm thấy ngây ngất dễ chịu. Rồi em đứng lên vì không được phép ngủ, sợ dậy trễ, không kịp đến xưởng.
Bây giờ mặt trời đã rõ. Về phía đông qua cái lỗ đối diện, một tia nắng vàng len vào túp lều. Phía ngoài, chim hót quanh hòn đảo nhỏ, trên ao hồ, trong bụi cây, trên cành liễu. Tiếng động, tiếng thì thầm, tiếng huýt sáo, tiếng kêu lẫn lộn cho ta hay các con vật trong mỏ than bùn đã thức dậy. Qua một lỗ trống, Perin đã nhìn thấy con vật ấy đang vùng vẫy thoải mái quanh túp lều cỏ. Trong đám sậy, bầy chuồn chuồn đang bay lượn khắp nơi. Dọc theo hai bên bờ, nhiều con chim lấy mỏ mổ sâu bọ trên đất ướt. Một con vịt trời màu vàng đậm pha màu xám Ero xinh hơn vịt nhà đang bơi lội trên mặt hồ đầy hơi nước nhẹ. Đàn vịt con vây quanh vịt mẹ. Vịt mẹ muốn giữ chúng lại, nhưng chúng lẩn tránh, nhào vào đám hoa súng đơn hoa và chúng bị vướng giữa các cọng súng, trong lúc đuổi bắt sâu bọ. Thình lình, một tia sáng màu xanh nhạt như tia chớp, làm Perin lóa mắt. Sau khi nó biến mất, Perin mới biết đó là loại chim bói cá vừa vượt qua hồ. Perin không dám cử động. Cả thế giới trong đồng cỏ này sẽ bay đi hết nếu biết em ở đây. Đứng bên cửa sổ, Perin nhìn cái thế giới ấy. Tất cả đều xinh đẹp, trong ánh sáng tươi mát, sinh động, vui nhộn, rất mới lạ dưới mắt em, gần như huyền ảo, Perin tự hỏi: Hòn đảo với túp lều cỏ có phải là chiếc thuyền của Nôê trong cơn hồng thủy?
Nhiều lúc, Perin thấy một bóng đen phủ kín ao hồ và đi qua một cách bất thường, khi to lớn, lúc bé nhỏ, chẳng rõ nguyên nhân. Việc ấy, đối với em khó hiểu! Mặt trời đã mọc về phía chân trời và tiếp tục sáng chói trong bầu trời không gợn mây. Cái bóng đen ấy từ đâu đến? Những cửa sổ chật hẹp của lều cỏ không cho phép Perin kiểm tra. Khi mở cửa, Perin nhận thấy cái bóng ấy là do những luồn khói đi qua cùng với làn gió nhẹ từ những ống khói cao của nhà máy. Ở đó, người ta đốt lửa để có áp suất hơi khi thợ thuyền làm việc.
Ngày lao động sắp bắt đầu. Bây giờ, đã đến lúc rời khỏi lều cỏ để đến xưởng. Trước khi đi, Perin nhát tờ báo nằm trên khúc gỗ mà trước đó, em chưa nhìn thấy. Cửa mở, ánh sáng trọn vẹn đã chỉ cho em thấy rõ tờ báo: đó là tờ Nhật báo xưa Amiêng này 25 tháng 2 vừa qua. Perin liền nghĩ: cái chổ mà tờ báo choáng trên ghế độc nhất người ta có thể ngồi được cũng như cái ngày của nó là bằng chứng từ 25 tháng 2 lều cỏ bỏ trống, không ai vào đấy! 
Perin vội vã ra khỏi lùm cây, đến đường cái, thì nghe một tiếng còi the thé, khàn khàn do cái còi lớn của nhà máy phát ra. Ngay tức khắc, ở xa gần, nhiều tiếng còi cùng nhịp điệu đáp lại.
Perin ngầm hiểu đó là dấu hiệu tập hợp thợ thuyền bắt đầu từ Marôcua. Nó được lặp lại, từ làng này, sang làng khác, trong các nhà máy của Panhđavoan. Tiếng còi ấy báo cho ông chủ hay cùng thời gian, ở tất cả mọi nơi, có người đã sẵn sàng để vào việc! Perin sợ đến trễ nên nhanh chân bước. Vào đến làng, em thấy mọi nhà đều đã mở cửa. Trên ngưỡng cửa, thợ thuyền đứng dựa vào khung cửa ăn xúp. Nhiều tiếng uống rượu trong các quán. Trong sân, người ta đàng rửa mặt nơi bơm nước. Chưa ai đi về phía nhà máy. Điều ấy nói lên bây giờ chưa phải vào xưởng và như thế, em không phải vội.
Nhưng đồng hổ điểm ba tiếng nhỏ, tiếp theo là một tiếng còi mạnh hơn, vang dội hơn lúc nãy. Ngay tức khắc, tiếp theo sự yên tĩnh là sự chuyển động. Một đám đông từ các mái nhà, quán rượu tỏa ra dày đặc, che kín mặt đường như một tổ kiến. Cái đám đàn đông, đàn bà, trẻ em ấy đi vào nhà máy. Người hút thuốc, kẻ nhai vội mẩu bánh, thiếu điều ngẹt thở. Số đông chuyện trò ồn ào. Cứ mỗi lúc, có những đoàn người, từ các con đường nhỏ tỏa ra nhập vào làn sóng đen ấy. Họ làm cho làn sóng to lớn hơn, mà không hề chậm chạp.
Trong một đợt sóng những người mới đến, Perin nhận thấy Rôdali đi với La Noayde. Em vội chen đến gặp họ.
- Chị đi đâu về thế? – Rôdali ngạc nhiên hỏi.
- Tôi dậy sớm, đi dạo một lát!
- A, tốt thôi! Tôi vừa đi tìm chị.
- Cám ơn! Nhưng chị đừng tìm tôi! Tôi quen dậy sớm.
Đến cổng vào xưởng, cả làn sóng người mất hút trong nhà máy. Một người đàn ông cao, gầy đứng cách song cửa một quãng, đang chăm chú nhìn họ. Ông ta cho tay vào túi vét tông, mũ thì tuột ra phía sau, hơi nghiêng đầu về phía trước. Không một ai lọt khỏi tầm mắt ông ta!
- Lão Gầy! Rôdali nói trong hơi gió.
Chẳng đợi Rôdali phải giới thiệu. Perin cũng đã đoán được con người ấy là ông quản đốc Taluen.
- Tôi có phải cùng đi với chị không?
Perin hỏi.
- Có chứ!
Đối với Perin, đây là phút quyết định. Em cố che giấu nỗi xúc động. Chẳng lẽ người ta không nhận em khi người ta thu nhận tất cả mọi người.
Hai cô bé đến trước ông quản đốc. Rôdali bảo Perin đi theo mình, rồi tách khỏi đám đông, rất tự tin tiến lên:
- Thưa ông quản đốc, - Cô nói – đây là một cô bạn muốn xin việc làm!
Taluen nhìn nhanh về phía cô ấy, và nói:
- Lát nữa chúng ta sẽ bàn!
Rôdali hiểu cái gì cần làm. Em đứng tránh một bên cùng với Perin.
Vừa lúc ấy, có tiếng ồn ào ở chỗ song cửa. Thợ thuyền nhanh nhẹn tránh ra, để chừa một khoảng trống. Chiếc xe trần bốn bánh của ông Vunphran, cũng do anh thanh niên chiều hôm qua lái, đi vào. Tuy mọi người đều biết ông ta không nhìn thấy, đàn ông vẫn cất mũ, đàn bà thì cúi chào.
- Chị thấy đấy! ông ta không phải là người đến sau cùng. – Rôdali nói.
Ông quản đốc vội vã bước mấy bước; đến bên cỗ xe, tay cầm chiếc mũ:
- Thưa ông Vunphran, tôi xin kính chào ông!
- Chào Taluen.
Perin liếc mắt nhìn theo cỗ xe vẫn tiếp tục đi. Phía sau song cửa, nhưng nhân viên lần lượt đi qua: kỹ sư Phabry, ông Benđi, ông Môngblơ và nhiều người nữa mà Rôdali nói tên cho em hay.
Cái đám đông ồn ào ấy thưa dần. Bây giờ, những người mới đến đang chạy vội vì giờ làm việc sắp điểm.
- Mấy ông thanh niên lại đi trễ! Tôi tin chắc như thế. Rôdali nói nhỏ.
Chuông reo. Người ta xô đẩy nhau. Vài người đi trễ, thở hổn hển nối đuôi nhau. Con đường trống trải. Thế nhưng Taluen chưa rời khỏi chổ đứng. Hai tay trong túi áo, đầu ngẩng cao, ông ta vẫn tiếp tục nhìn về phía xa.
Vài phút trôi qua. Một thanh niên cao lớn, không phải thợ, có dáng điệu và cách ăn mặc chải chuốt vượt qua ông kỹ sư và mấy nhân viên. Ông ta bước vội vàng,vừa đi vừa thắt cà vạt, cái việc mà ông chưa có thời giờ để làm, hẳn thế! Khi ông ta đến trước mặt ông quản đốc, ông này cũng cất mũ chào như đối với ông Vunphran. Nhưng Perin thấy hai cách chào không giống nhau chút nào!
- Thưa ông Têôdo, tôi xin kính chào ông!
Taluen nói câu ấy với những từ ngữ ông đã dùng khi chào ông Vunphran, tuy nó không cùng một ý nghĩa. Điều ấy đã quá rõ!
- Chào Taluen, chú tôi đã đến chưa?
- Lạy chúa, vâng, thưa ông Têôdo, ông chủ đã đến được năm phút rồi!
- Ái chà!
- Ông không phải là người cuối cùng đâu! Người cuối cùng là ông Casimia. Hôm nay, ông ấy đi trễ, tuy cũng như ông, ông ấy không đi Paris. Nhưng tôi vừa nhìn thấy ông ấy ở đằng kia!
Trong lúc Têôdo lao vào phòng làm việc. Casimia đang còn rảo bước rất nhanh. Ông này chẳng giống ông anh tí nào, trong cách ăm mặc lẫn ngoại hình. Bé nhỏ, khô khan, cứng đờ. Khi ông đi ngang ông quản đốc cái cứng đờ ấy càng rõ trong cách cúi chao không nói ra tiếng. Hai tay vẫn ở trong túi áo véttông. Taluen chào Casimia. Khi Casimia đi khuất Taluen quay về phía Rôdali.
- Bạn cháu biết làm việc gì?
Perin tự trả lời câu hỏi đó:
- Cháu làm việc trong nhà máy. Perin cố gắng nói với một giọng vững vàng.
Taluen liếc nhìn em rồi nói với Rôdali:
- Cháu đến nói với ông Ônơ rằng tôi bảo sắp xếp cô bạn cháu vào tổ xe rùa! Nhanh lên!
- Xe rùa là cái gì? – Perin hỏi Rôdali.
Trong lúc đi theo bạn qua mấy cái sân rộng ngăn cách xưởng này với xưởng nọ, Perin tự hỏi. Không biết mình có làm nổi cái công việc của sở xe rùa không? Mình có đủ sức khỏe, đủ thông minh không chứ? Có phải qua thời gian học việc không? Tất cả những câu hỏi ấy làm Perin bối rối. Bây giờ em được nhận vào nhà máy rồi. Em cảm thấy được ở lại đây hay không là tùy ở mình.
- Chị đừng sợ! Rôdali như đã hiểu nỗi lo lắng của bạn, nói: không có cái gì dễ hơn đâu!
Perin đoán được ý nghĩa của những lời ấy, hơn là nghe nói. Khi em bước vào, thì những cỗ máy, những máy dệt đang hoạt động trong nhà máy như đã chết. Bấy giờ một tiếng rống ghê sợ; trong đó lẫn lộn hàng ngàn tiếng ồn ào khác, vang dội các sân. Ở các xưởng những cái máy đang đập, con thoi đang chạy, kim đan, trục chỉ đang quay. Trong lúc đó, ở phía ngoài, những trục chuyển lực, bánh xe, dây cua roa, vô lăng làm cho người ta ù tai, choáng váng.
  - Chị nói to lên một chút! – Perin nói.
- Tôi không nghe gì cả!
- Rồi chị sẽ quen dần! Rôdali hét. Tôi nó với chị là không khó lắm đâu! Chỉ việc xếp các ống suốt lên xe rùa. Chị có biết xe rùa là gì không?
- Là một loại xe nhỏ. Tôi nghĩ thế!
- Đúng thế! Khi xe rùa đầy rồi ta chỉ việc đẩy đến xưởng dệt. Ở đấy người ta bốc dỡ. Chỉ đẩy một cái lúc xuất phát, rồi nó sẽ lăn một mình.
- Còn cái suốt là cái gì?
- Chị không biết cái suốt à? Ừ hôm qua tôi đã nói với chị máy suốt là cái máy quấn chỉ vào cái suốt. Chị phải nhìn đề hiểu chứ?
- Cũng chưa hiểu lắm!
Rôdali nhìn bạn, tự hỏi Perin có quá ngu đần không và tiếp tục:
- Tóm lại đó là những cái ghim ngắn trong gôđê trên đó người ta cuốn chỉ. Khi đã đầy chỉ người ta rút gôđê ra, xếp lên xe rùa. Xe chạy trên một con đường sắt nhỏ và người ta đưa xe đến xưởng dệt. Chỉ là một cuộc dạo mát. Tôi cũng bắt đầu từ đấy. bây giờ tôi ở phân xưởng suốt.
Hai cô gái đi qua nhiều sân quanh co. Perin vẫn chăm chú nghe những lời giải thích rất bổ ích, không để ý đến xung quanh. Rôdali tự lấy ta chỉ một dãi nhà mới một tầng, không có cửa sổ. Phía Bắc, có những cái khuôn lắp kính, chiếm một nữa mái nhà, soi sáng các ngôi nhà.
- Ở đó! Rôdali nói.
Liền đó, cô bé mở cửa, đưa Perin vào trong một phòng dài. Ở đây, có hàng nghìn cây kim đang nhảy một vũ điệu chóng mặt, làm thành một tiếng ồn long óc. Thế nhưng, mặc dù ồn ào, hai cô bé vẫn nghe rõ có tiếng đàn ông đang hét.
- Mày đó à, con lang thang?
- Ai lang thang? Ai lang thang? Rôdali hét lên, không phải cháu đâu bố Chân Tháp, nghe chưa?
- Mày ở đâu đến?
- Ông Gầy bảo cháu dẫn cô bé này đến để bố cho cô ta vào tổ xe rùa.
Người mà Rôdali vừa thưa gửi là một bác thợ già có một cái chân gỗ. Mười năm trước đây, bác bị tai nạn trong nhà máy, nên người ta goi bác là bố Chân Tháp. Bị tàn phế, bác được xếp làm bảo vệ ở xưởng suốt. Bác điều khiển một tốp trẻ. Dưới quyền bác, công việc hoàn thành trọn vẹn nghiêm túc. Bác luôn mồm la hét, chửi rủa, vì công việc ở các cỗ máy ấy rất nặng nhọc, đỏi hỏi phải để mắt chú ý. Đôi tay phải nhanh nhẹn để lấy những cái suốt đã quấn đầy thay những cái suốt trống vào đó, nối những sợi chỉ bị đứt. Vì thế, bác tin rằng nếu không hét không chửi thề liên tục, không nhấn mạnh một lời chửi thề bằng một nhịp chân của cái chân gỗ trên nền nhà, bác sẽ thấy bộ suốt ngừng chạy! Chuyện ấy đối với bác, không thể tha thứ được! Tuy nhiên, bác là người tốt. Người ta không chấp nhất đối với bác tí nào, một phần cũng bởi các lời nói của bác lẫn lộn trong tiếng máy chạy.
- Với tất cả những cái đó, bộ suốt của mày đứng sựng! Bác hét và đưa nắm đấm dọa Rôdali.
- Đâu phải là lỗi của cháu!
- Bắt tay vào công việc, nhanh lên! – Rồi bác hỏi Perin:
- Mày tên là gì?
Perin không muốn nói tên thật. Nhưng em chưa chuẩn bị để trả lời câu hỏi đó, mặc dù tối qua Rôdali đã hỏi. Bị bất ngờ, em đứng sững. Bác Chân Tháp ngỡ là em không nghe, nên chồm tới bên em, hét trong lúc nện một chân trên nền nhà!
- Tao hỏi tên mày?
Perin đã có thời giờ để trấn tĩnh và nhớ lại cái tên mà em đã nói với Rôdali:
- Ôrêli. Em đáp.
- Ôrêli gì chứ?
- Ôrêli trơn thôi.
- Được, theo tao!
Bác dẫn em đến trước mặt cái xe rùa để trong góc nhà và nhắc lại những chỉ dẫn mà Rôdali đã nói. Bác dừng lại ở mỗi từ, để hét:
- Mày hiểu không?
Perin gật gù đầu để trả lời.

Thật ra, công việc quá đơn giản, có ngu đần mới không làm nổi! Em để hết tâm trí vào việc làm cho nên đến khi ra về bố Chân Tháp không hét qua mười hai lần. Bác đến bên Perin, nhưng chỉ để nhắc nhở, hơn là la mắng.
- Đừng có chơi đùa trên đường đi!
Chơi đùa, Perin không có ý nghĩ ấy. Trong lúc đẩy xe rùa, em bước đều đặn, liên tục. Em có thể nhìn các khu nhà em đi qua, quan sát những gì mà trước đây em chưa hiểu qua lời chỉ dẫn của Rôdali.
Chồm người tới, lấy hai tay đẩy cho xe chạy, khi gặp cản trở thì choải chân giữ xe lại và thế là đủ. Đôi mắt cũng như ý nghĩ của Perin hoàn toàn tự do, rời khỏi nơi đây.
Khi ra khỏi nhà máy nghĩ buổi trưa, trong lúc ai cũng nôn nóng trở về nhà. Perin vào hiệu mua hai trăm rưỡi gam bánh. Em vừa ăn, vừa dạo quanh các phố. Mùi xúp tỏa ra từ các cánh cửabỏ ngỏ. Em đi qua, bước chân chậm chạp, để ngửi mùi xúp mà em thích. Em bước nhanh, nếu mùi xúp quá xa lạ. Ổ bánh chẳng thấm vào đâu nên biến mất rất nhanh. Nhưng không sao, từ dạo em quen nhịn đói, em vẫn khỏe mạnh.
Những người hàng ngày ăn uống đầy đủ không thể tưởng tượng người ta có thể ăn lưng bụng được. Họ cũng không thể nghĩ rằng khi lấy bàn tay vốc nước một dòng sông trong vắt, người ta có thể uống cho đã khát!
Tuy chưa đến giờ, Perin đã có mặt trước cửa song. Em ngồi trên một hòn đá, dưới bóng cây trụ, đợi còi tập hợp. Tụi con trai, con gái cùng lứa tuổi cũng đi sớm như em đang chơi đùa, chạy nhảy. Nhìn chung, Perin rất muốn tham gia, nhưng không dám.
Khi Rôdali đến, Perin cùng vào xưởng với bạn và trở lại với công việc. Những tiếng la hét, những nhịp chày của cái chân gỗ bố Chân Tháp vẫn thúc giục em, nhưng đúng hơn buổi sáng. Công việc kéo dài, càng về chiều Perin càng thấm mệt. Lúc đầu, cúi xuống đứng lên để sắp xếp, bốc dỡ chiếc xe rùa, chồm tới đẩy xe đi, choải chân giữ xe lại, chỉ là một trò chơi. Công việc lặp đi, lặp lại liên tục không nghỉ, vào mấy giờ cuối, rất mệt. Những ngày đi bộ gian khổ nhất, Perin cũng chưa hề biết nỗi mệt mỏi như đang đè nặng trên người em lúc này.
- Đừng có làm như rùa bò! – Bố Chân Tháp hét.
Tiếng thét kèm theo nhịp chân gỗ đã thức tỉnh cô bé. Như con ngựa vừa nhận được một roi quất vào mông, Perin sải bước, nhưng rồi lại đi chậm ngay vì đã rời khỏi tầm mắt của bố Chân Tháp. Bây giờ, khi dồn hết tâm trí vào công việc. Perin như bị tê cóng. Em chỉ còn tò mò theo dõi chờ đón những tiếng chuông đồng hồ báo mười lăm phút, nửa giờ, một giờ và tự hỏi khi nào thì hết ngày? Liệu em có thể làm việc đến lúc ấy được không?
Khi câu hỏi trên làm Perin lo ngại thì em tự giận mình về sự yếu đuối của bản thân. Cái việc mà những đứa trẻ khác đang hoàn thành rất dễ dàng, thì em không làm nổi sao? Chúng cũng không khỏe mạnh, không nhiều tuổi hơn em kia mà! Perin biết công việc ấy đòi hỏi đôi tay nhanh nhẹn, khéo léo, cái đầu minh mẫn. Nếu người ta không bố trí em đẩy xe rùa, mà vào xưởng suốt thì như thế nào nhỉ. Perin tự an ủi là em chưa quen công việc đó. Với nghị lực, lòng can đảm, sự kiên trì, thói quen sẽ đến. “Muốn là được!” “Thì Perin đang muốn và sẽ muốn”. Miễn là ngày đầu, em không ngất! Ngày thứ hai sẽ ít nặng nhọc hơn nữa! Trong lúc bốc dỡ, đẩy xe rùa Perin đã lý luận như thế! Em nhìn các bạn làm việc nhanh thoăn thoắt mà phái ghen! Bất thình lình, em thấy Rôdali đang nối sợi, ngã xuống bên cạnh cô bạn. Có một tiếng thét. Cùng lúc ấy, tất cả ngừng hoạt động. Một sự im lặng chết chóc tiếp theo tiếng ồn ào của các cỗ máy, tiếng rung, tiếng rống và tiếng chuyển động của nền đất, những bức tường, các khung cửa kính. Có tiếng than thở của trẻ em làm đứt quãng sự yên lặng ấy.
- Ối trời ơi!
Tất cả mọi người đều chạy đến. Perin cũng làm như họ mặc dù bố Chân Tháp đang hét:
- Trời ơi! Bộ suốt của tôi ngừng chạy rồi!
Người ta đỡ Rôdali ngồi dậy. Họ vây quanh và hỏi dồn, thiếu nỗi làm cô bé ngạt thở.
- Làm sao thế?
- Bàn tay bị máy cán! Cô bé trả lời.
Mặt Rôdali tái mét. Đôi môi nhợt nhạt run rẩy. Những giọt máu từ bàn tay bị thương nhỏ xuống nền đất.
Sau khi kiểm tra, người ta cho hay Rôdali có hai ngón bị thương, có thể một ngón bị cán hay bầm nặng.
Bố Chân Tháp trước đó có vẻ thương xót, bây giờ nổi cáu, xô đẩy những người đang vây quanh Rôdali.
- Cút ngay khỏi nơi này! Gớm chưa, việc quan trọng đấy nhỉ?
- Chẳng phải là việc quan trọng nếu bác bị gãy chân sao? – Có tiếng thì thầm.
Bác muốn xem người nào ăn nói vô lễ như vậy! Nhưng giữa đám đông, bác đành chịu thua. Thế là bác hét toáng lên.
- Cút ngay đi!
Họ tản dần, Perin cũng như mọi người, sắp trở lại xe rùa thì nghe có tiếng gọi:
- Này con bé mới vào! Đến đây! Nhanh lên nào!
Perin sợ sệt, quay lại. Em tự hỏi em có lỗi gì nặng hơn các bạn, họ cũng đã bỏ dở công việc. Thế nhưng, đây không phải là gọi đến quở phạt.
- Mày đưa cái con vật này đến gặp ông quản đốc!
- Tại sao bác lại gọi cháu là con vật!
Rôdali hét, vì lúc ấy có tiếng ồn của cỗ máy đã bắt đầu hoạt động lại.
- Tại mày để cho máy cán bàn tay.
- Có phải là lỗi của cháu đâu!
- Chắc chắn là vì mày vụng về, lười biếng! Thế nhưng bác lại dịu giọng:
- Có đau lắm không?
- Không đau lắm!
- Thôi chuồn đi!
Cả hai cô bé rời khỏi nơi đó. Rôdali cầm bàn tay trái bị thương, trong bàn tay phải của mình.
- Chị dựa vào tôi nhé? – Perin hỏi.
- Cảm ơn! Chẳng cần đâu! Tôi đi được mà!
- Thế thì chẳng có chuyện gì cả phải không?
- Người ta cũng chẳng hiểu nữa. Ngày đầu, có thể chẳng đau đớn gì, nhưng sau này, biết đâu đấy!
- Tại sao chị bị thương?
- Tôi cũng chẳng hiểu nữa! Tôi trượt.
- Chắc là chị mệt! – Perin nói và nghĩ đến phận mình.
- Thông thường là người ta hay bị tai nạn khi người ta mệt. Buổi sáng, người ta còn nhanh nhẹn và còn chú ý nên ít xảy ra tai nạn. Không biết rồi dì Đênôbi nói gì đây!
- Nhưng nào phải lỗi ở chị.
- Mẹ Prăngxoadơ sẽ tin là tôi không có lỗi, nhưng dì Đênôbi thì cho là tôi cố ý để khỏi phải đi làm.
- Thì chị cứ để cho dì ấy nói!
- Chị tưởng được nghe nói như thế thì vui lắm hay sao?
Trên đường đi, những bác thợ đón họ lại, để hỏi thăm. Có người phàn nàn cho Rôdali. Phần đông họ thản nhiên. Họ đã quen với tất cả các chuyện ấy và tự nhủ: Người ta bị thương cũng như ốm thôi! Chẳng qua gặp may hay gặp rủi. Ai rồi cũng sẽ đến lượt. Hôm nay anh, ngay mai đến tôi! Có những người nổi giận.
- Đến khi nào thì họ làm cho chúng ta què hết.
- Anh ưng chết đói hơn à?
Hai cô bé đến buồng ông quản đốc. Buồng này nằm giữa nhà máy trong dãy nhà to lớn bằng gạch sơn xanh và sơn hồng. Những buồng làm việc ở sát nhau. Buồng ông Vunphran cũng không có gì đặc biệt. Người ta chú ý đến buồng ông quản đốc vì có một hành lang che kín. Muốn đến đó phải đi qua một cầu thang vòng quanh hai lần.
Hai cô bé đi vào cái hàng hiên này thi được ông Taluen tiếp. Như một hạm trưởng đang đi lại ngang dọc, trên cầu chỉ huy, ông ta bỏ hai tay vào túi áo, đầu vẫn đội mũ. Ông ta giận dữ, hét lên:
- Lại có chuyện gì nữa? Con bé kia?
Rôdali đưa bàn tay ướt đẫm máu.
- Lấy mùi xoa mà buộc nó lại! – Ông ta hét lên.
Trong lúc cô bé khó nhọc, lấy được chiếc mùi xoa, ông ta sải những bước dài trên hành lang. Rôdali đã lấy mùi xoa buộc bàn tay bị thương. Ông ta trở lại, đứng ngay trước mặt.
- Hãy dốc túi!
Cô bé nhìn ông, không hiểu.
Tôi nói: “Hãy lấy tất cả những gì trong túi ra hết”.
Cô bé vâng lời và lấy từ trong túi ra những thứ linh tinh: một cái còi làm bằng dẻ, những cục xương nhỏ, một cái đê, một miếng cam thảo, ba đồng xu, một cái gương nhỏ bằng kẽm.
Ông ta túm lấy cái gương và hét:
- Tôi biết mà! Trong khi cô bận soi gương, một sợi chỉ đứt. Suốt ngừng chạy. Cô muốn lấy lại thời gian đã mất và thế đó!
- Cháu có soi gương đâu! – Cô bé nói.
- Tụi bay giống nhau hết! Bây giờ mày thấy thế nào?
- Cháu không biết! Ngón tay cháu bị cán!
- Thế thì cô muốn tôi làm gì nào?
- Bác Chân Tháp bảo cháu đến gặp ông.
Quay về phía Perin, ông ta hỏi:
- Còn cô?
- Cháu không có gì hết! – Trước cách đối xử nghiêm khắc ấy, Perin kinh ngạc, trả lời.
- Thế thì?...
- Bác Chân Tháp bảo chị ấy đưa cháu đến gặp ông. Rôdali nói.
- A, người ta phải đưa cô đi! Thế thì người ta sẽ dẫn cô đến bác sĩ Ruysông. Mà cô biết đấy, tôi sẽ cho điều tra. Nếu cô có lỗi thì liệu chừng!
Giọng nói của ông dộ vào các tấm kính của hành lang. Trong các phòng làm việc, mọi người chắc đã nghe rõ! Hai cô gái chuẩn bị rút lui thì họ thấy ông Vunphran thận trọng đi đến, tay không rời bức tường của phòng ngoài.
- Có chuyện gì thế Taluen?
- Chẳng có gì thưa ông, một con bé ở xưởng suốt bị kẹt bàn tay.
- Nó ở đâu?
- Cháu ở đây, thưa ông Vunphran, Rôdali nói và quay trở lại.
- Có phải tiếng con cháu bà Prăngxoadơ đấy không?
- Vâng, thưa ông Vunphran, cháu Rôdali đây mà! Và cô bé khóc. Những lời nói nghiêm khắc của ông quản đốc đã bóp nghẹt quả tim cô bé. Giọng thông cảm của mấy từ ít ỏi này đã làm cô bé dễ chịu.
- Sao thế? Cháu khốn khổ của ông!
- Cháu muốn nối một sợi chỉ, cháu trượt chân, cháu cũng chẳng hiểu vì sao! Bàn tay cháu bị kẹt. Hai ngón bị dập, hình như thế!
- Có đau lắm không cháu?
- Không đau lắm.
- Tại sao cháu khóc?
- Bởi vì ông không la mắng cháu?
Taluen nhún vai.
- Cháu đi được chứ? – ông Vunphran hỏi.
- Ồ, thưa ông Vunphran, cháu đi được mà!
- Cháu về nhà ngay! Người ta sẽ mời bác sĩ Ruysông đến thăm cháu.
Và ông nói với Taluen:
- Viết một cái phiếu cho ông Ruysông nói ông đến ngay nhà bà Prăngxoadơ, gạch chân chữ “đến ngay” và thêm “thương tích khẩn cấp”.
Ông trở lại bên Rôdali:
- Cháu có cần người đưa cháu về không?
- Cám ơn ông Vunphran, cháu có một cô bạn.
- Đi đi! Cháu nói với bà cháu là cháu sẽ được trả tiền.
Bây giờ, đến lượt Perin muốn khóc. Dưới cái nhìn của Taluen em nuốt nước mắt. Khi hai cô bé vượt qua mấy cái sân để ra ngoài, Perin mới để lộ sự cảm động của mình:
- Ông Vunphran tốt thật!
- Chỉ một mình ông ấy thôi thì ông ấy sẽ tốt! Nhưng với lão Gầy, ông ấy không thế được! Với lại ông ấy không có thời giờ! Trong đầu ông, có nhiều công chuyện nữa!
- Hình như ông ấy rất tốt với chị!
Rôdali tự hào khoe:
- Tôi ấy à, chị phải biết thấy tôi là ông ấy nghĩ đến con trai ông! Chị hiểu chứ, mẹ tôi và ông Étmông cũng uống chung một bầu sữa.
- Ông ấy nghĩ đến người con trai à?
- Chứ sao?
Người ta ra ngoài cửa đứng nhìn hai cô bé đi qua. Cái mùi xoa nhuộm máu bọc bàn tay của Rôdali gợi sự tò mò. Có tiếng hỏi:
- Bị thương à?
- Ngón tay bị dập!
- Ôi, tai họa.
Trong tiêng kêu ấy có lòng thương cảm lẫn sự căm hờn, nhưng người thốt ra những tiếng ấy nghĩ rằng cái gì đến với cô gái này, ngày mai có thể giáng xuống một người trong gia đình họ: cha, chồng, con họ. Tất cả mọi người này ở Marôcua không phải đều sống ở nhà máy sao?
Mặc dù hai cô bé phải dừng chân nhiều nơi, nhưng cuối cùng họ đã về đến gần ngôi nhà của mẹ Prăngxoadơ! Ở đầu đường, họ đã thấy rõ cái hàng rào xám.
- Chị vào nhà với nhé! Rôdali nói.
- Tôi cũng muốn thế!
- Có mặt chị, có lẽ dì Đênôbi không làm toáng lên.
Nhưng sự có mặt của Perin không làm cho bà dì dễ sợ ấy bớt cáu gắt tí nào. Thấy Rôdali trở về trong một giờ bất thường va nhìn thấy bàn tay buộc mùi xoa, bà hét to.
- Bị thương rồi hả? Đồ quỷ! Tao đánh cuộc là tại mày!
- Cháu sẽ được trả tiền, Rôdali giận dữ, trả lời.
- Mày tin thế à?
- Ông Vunphran nói với cháu thế!
Nhưng chuyện ấy không làm cho dì Đênôbi dịu đi. Dì lại tiếp tục la hét, đến nỗi mẹ Prăngxoadơ phải rời quầy hàng, đến trước ngưỡng cửa. Bà ta không la mắng cô cháu. Bà chạy đến bên Rôdali, ôm cô bé và hỏi.
- Cháu bị thương hả?
- Một chút thôi, bà ơi, nơi ngón tay, có lẽ không can gì.
- Phải tìm ông Ruysông báo.
- Ông Vunphran đã cho người báo tin cho ông ấy hay rồi!
Perin sẵn sàng đi theo hai bà cháu vào trong nhà nhưng dì Đênôbi quay lại, ngăn em:
- Mày nghĩ là chúng tao cần đến mày để săn sóc nó sao?
- Cám ơn, Rôdali nói to.
  Perin chỉ còn việc trở lại xưởng. Vừa tới song cửa em đã nghe một tiếng còi báo hiệu hết giờ làm việc.
Phần IV
Rôbinxơn tí hon
Đã mười hai lần trong ngày, Perin tự hỏi: Làm thế nào để khỏi phải nằm trong cái buồng của Prăngxoadơ? Em suýt chết ngạt ở đấy và ngủ được rất ít. Chắc chắn là đêm sau Perin cũng sẽ ngạt thở và cũng chẳng ngủ được hơn đêm trước! Tương lai rồi sẽ như thế nào đây? Sau một ngày lao động mệt nhọc, em không được nghỉ ngơi tốt, sức khỏe khó mà hồi phục!
Thật là một vấn đề dễ sợ mà Perin phải cân nhắc tất cả mọi hậu quả. Em không có sức để làm việc thì người ta sẽ đuổi em và thế là tiêu tan hết mọi hy vọng! Em đau ốm thì người ta lại càng dễ tống cổ khỏi nhà máy! Nào có ai để giúp đỡ, săn sóc em! Một gốc cây trong khu rừng, đó là cái gì đang chờ đợi Perin. Chỉ thế, không có gì khác.
Thật ra, Perin có quyền trả tiền giường mà không cần nằm ngủ. Nhưng rồi đây, em tìm đâu cho ra một cái giường khác? Em sẽ trả lời với Rôdali thế nào đây? Em giải thích thế nào để có thể chấp nhận được cái mà mọi người cho là tốt thì đối với em lại chẳng tốt tí nào? Rồi những người khác khi biết em chê bai cái buồng ấy, sẽ đối xử với em ra sao? Đó phải chăng là một lý do để người ta hằn học, khiến em phải rời nhà máy? Không phải Perin chỉ cần làm một cô thợ lành nghề mà còn phải là cô thợ như những chị em khác! Cả ngày trôi qua. Em không tự giải đáp và quyết định nổi.
Tuy nhiên, vết thương của Rôdali đã làm thày đổi tình hình. Bấy giờ, cô gái khốn khổ ấy phải nằm ở nhà, có lẽ còn nhiều ngày nữa! Rôdali sẽ không biết trong phòng trọ xảy ra những gì? Ai ngủ ở đấy? Perin không còn sợ những câu hỏi của Rôdali. Với lại trong phòng ấy, chẳng ai biết em, người khách trọ một đêm. Họ lại càng không để ý đến cô gái xa lạ. Em có thể tìm một chỗ ở nơi khác. Perin nhanh chóng tìm ra lời giải đáp ấy. Bây giờ, chỉ còn việc tìm chỗ ngủ, nếu không muốn ngủ ở phòng trọ.
Nhưng Perin không cần phải tìm? Em vẫn nghĩ đến túp lều cỏ với lòng thèm muốn mãnh liệt. Chao ôi, được nằm ngủ ở đấy thì tốt quá! Em không còn phải sợ ai hết vì người ta chỉ đến đó trong mùa săn bắn như tờ Nhật báo xứ Amiêng đã chứng tỏ. Em có một cái mái che trên đầu, những bức vách ấm, một cánh cửa, một lớp dương xỉ làm giường nằm. Perin còn có niềm vui được ở trong ngôi nhà của mình. Đúng là một sự thật trong giấc mơ!
Không một chút do dự, Perin vào hiệu mua suất bánh để ăn tối. Đáng lẽ em trở về nhà mẹ Prăngxoadơ thì em quay lại con đường em đã đi hồi sáng, để đến xưởng. Vừa lúc ấy, đám thợ thuyền ở vùng lân cận Marôcua đi theo con đường đó trở về nhà. Perin không muốn người ta thấy em đi vào con đường nhỏ của đám lau sậy. Em đến ngồi trước chồi cây án ngữ cánh đồng. Khi còn lại một mình, em sẽ đến túp lều cỏ. Ở đó rất yên tĩnh, có cửa mở ra phía hồ ao, đối diện với phía mặt trời lặn. Perin tin chắc chẳng ai đến quấy rầy. Em sẽ ăn thong thả bữa chiều, như thế dễ chịu hơn là vừa đi, vừa nhai những mẫu bánh như buổi sáng.
Perin rất thích cách sắp đặt ấy, nên muốn nhanh chóng thực hiện. Nhưng em phải đợi khá lâu vì một người đi qua, lại một người khác. Sau người ấy lại một người khác nữa. Thế rồi Perin lại có ý nghĩ: Nếu em dọn dẹp lại cái lều cỏ đã sạch sẽ và khang trang thì sẽ tốt hơn nữa! Perin đang ngồi nghỉ trong lùm cây có nhiều cây phong khẳng khiu. Dương xỉ mọc ở dưới gốc. Em có thể lấy nhánh dương xỉ để buộc chổi quét nhà. Em cắt một bó dương xỉ khô và sẽ có một cái giường êm ái, ấm áp. Perin quên cả nỗi mệt nhọc đã đè nặng trĩu trên người, trong những giờ cuối buổi lao động. Em bắt tay ngay vào công việc. nhanh chóng, em bó một cái chổi, lấy sợ mây buộc, rồi lấy gậy cắm vào. Em cắt một bó dương xỉ, lấy dây liễu buộc lại để mang vào lều cỏ được dễ dàng.
Trong lúc ấy, những người đi trễ cuối cùng cũng đã đi qua đây. Bây giờ, con đường vắng vẻ, im lặng. Perin có thể nhìn thấy từ xa. Thời cơ đã đến để em đi vào con đường nhỏ của đám lau sậy. Perin mang bó dương xỉ trên vai, tay cầm chổi, từ chổ lùm cây đi xuống. Em vượt qua đường, vừa đi, vừa chạy. Trong con đường nhỏ, em phải đi chậm lại vì bó dương xỉ vướng các cành cây. Perin phải cuối xuống như đi bốn chân, mới vượt qua được. Đến hòn đảo nhỏ. Perin bắt đầu đưa các khúc gỗ và dương xỉ ở trong lều ra phía ngoài. Em quét trần nhà, nền nhà, các tấm vách. Lúc đó, đàn chim vỗ cánh ào ào trên mặt hồ, trên đám lau sậy. Có tiếng chiêm chiếp và tiếng kêu của các con vật. Khi quét dọn lều cỏ, Perin đã làm xáo động sự yên tĩnh của mặt nước, bờ ao, từ lâu nay chỉ có chúng làm chủ. Perin quét dọn khá tỉ mỉ. Diện tích túp lều nhỏ hẹp, nên công việc kết thúc nhanh chóng. Em chỉ có việc trải mới dương xỉ của em lên trên. Bó dương xỉ còn ấm hơi nóng mặt trời, đượm hương thơm của hoa cỏ đồng nội.
Bây giờ, đã đến bữa ăn tối. Em đói meo, bụng cồn cào gần y như lúc đi đường từ Êcuăng đến Xăngtydy. May thay, những ngày khốn cực ấy vĩnh viễn qua rồi! Bây giờ, Perin đang ở trong hòn đảo xinh đẹp này! Giấc ngủ của em sẽ được bảo đảm. Em không còn phải sợ ai hết! Em chẳng sợ mưa, giông tố và chẳng sợ gì nữa! Em có miếng bánh ngon trong túi áo. Vào buổi chiều đẹp trời, êm ái này, Perin nhớ lại những gian khổ đã qua để so sánh với hiện tại. Em được tăng thêm sức mạnh trong niềm hi vọng ở ngày mai. Perin cắt bánh ra từng miếng nhỏ để khỏi vụn nát rồi ăn chậm chạp. Em không dám làm ồn để cái đám dân cư ở hồ ao yên tâm trở về tổ, nằm ngủ qua đêm. Trong lúc đó có những đường bay rạch ngang ráng vàng của hoàng hôn, hay sự xuất hiện của những loại chim sông nước đang thận trọng ra khỏi đám lau sậy. Chúng bơi nhẹ nhàng, vươn cái cổ, cái đầu chúng chăm chú như đang nghe ngóng để nhận ra hướng đi. Trời sáng chúng thức dậy, đã làm cho Perin vui. Bây giờ, đi ngủ, chúng càng làm cho em say đắm. Những mẫu bánh, khi gần hết, càng bé nhỏ. Perin không phải mất nhiều thời gian để ăn tối. Nước hồ, mấy phút trước đây, long lanh như một cái gương, bây giờ tối om. Bầu trời đã dập tắt những đống lửa đỏ rực của nó. Trong vài phút, đêm tối khép cửa, nằm dài trên chiếc giường dương xỉ, Perin muốn cẩn thận rút cái cầu đã bắc qua hồ. Thật ra, em rất an toàn trong lều cỏ. Sẽ không ai đến quấy rầy, em tin chắc thế! Không ai đến đây mà cái đám dân cư của hồ ao, có lỗ tai rất thính, lại không thông tin cho em hay, bằng những tiếng kêu của chúng. Những chuyện ấy không ngăn em lấy cái cầu. Cũng có thể đó là một việc tốt thôi.
Việc cất cái cầu không những bảo đảm an toàn và còn là một thú vui. Cất cái cầu đi lại, Perin chiếm đóng một hòn đảo không đường liên lạc với đất liền! Như thế không phải là thú vị hay sao? Tiếc rằng em không kéo được một lá cờ trên nóc lều cỏ, như em thường thấy trong các truyện du lịch. Em cũng không bắn được phát đại bác.

Nhanh nhẹn, Perin bắt tay vào công việc. Em lấy cán chổi đang nằm trên mặt đất hất hết đất ở hai đầu khúc liễu, kéo nó về phía bờ mình đang đứng. Bây giờ, Perin đã đàng hoàng ở trong ngôi nhà của mình. Em là chủ của Vương quốc, là Nữ hoàng của hòn đảo. Em sắp đặt tên cho nó. Như những nhà thám hiểm lớn thường làm. Perin không do dự và ngần ngại về cái tên. Trong hoàn cảnh hiện nay, còn tên nào hay hơn cái tên: Hy vọng? cũng có mũi hy vọng, nhưng người ta không thể lầm lẫn với đảo được!
Thật là thú vị khi làm Nữ hoàng mà chẳng có thần dân, chẳng có láng giềng! Là Nữ hoàng mà chẳng có việc gì để làm! Chỉ có du ngoạn từ lễ hội này đến lễ hội khác trong vương quốc.
Chính ra Perin chưa được ở giai đoạn sung sướng của lễ hội và du ngoạn. Bởi thế, sáng hôm sau, khi mặt trời vừa mọc, cái đám dân cư có cánh của ao hồ thức em dậy với khúc tấu nhạc bình minh của chúng. Một tia nắng len vào một cái lỗ của lều cỏ, nhảy nhót trên khuôn mặt Perin. Em nghĩ ngay đến việc không phải là em có thể ngủ say. Trái lại, phải rất tỉnh để khi nghe tiếng còi đầu tiên, em có thể thức dậy.
Nhưng giấc ngủ sâu không phải lúc nào cũng tốt. Giấc ngủ tốt nhất là giấc ngủ đứt quãng, rồi lại tỉnh dậy với những mộng mơ kéo dài xâu chuỗi. Giấc mơ của Perin chỉ có thích thú vui tươi. Khi ngủ, nỗi mệt nhọc của ngày qua tiêu tan và em cũng không còn nhớ nữa! Cái giường em nằm êm ấm, thơm tho. Có mùi hương của cỏ khô trong không khí em thở. Bầy chim ru em ngủ với khúc nhạc vui tươi. Những giọt sương đọng trên ngọn liễu rơi xuống nước, làm thành một khúc nhạc trong trẻo.
Khi còi nhà máy phá tan sự im lặng của đồng quê, Perin đã đứng dậy. Em ra bờ ao rửa mặt cẩn thận, chuẩn bị đi làm. Nhưng ra khỏi hòn đảo mà vẫn để cái cầu tại chỗ thì em sợ người ta sẽ đi qua cầu vào túp lều nếu họ có ý nghĩ lạ lùng đến đây trước mùa đông… Đứng trước cái hào, Perin tự hỏi mình có thể nhảy qua được không? Em nhìn thấy một cành cây dài chống đỡ túp lều ở phía không có những cây liễu. Em nắm lấy cành cây ấy làm sào chống để nhảy qua hồ! Em đã quen với động tác này nên chỉ là một trò chơi. Có lẽ đây là cách ít đài các nhất để ra khỏi Vương quốc. Không có ai trông thấy nên chuyện ấy không có gì là quan trọng. Những Nữ hoàng trẻ tuổi có quyền làm những việc mà người lớn tuổi không được phép làm!
Sau khi đã cất dấu cây sào trong đám lau sậy để chiều về có thể tìm. Perin đến nhà máy. Em là một trong những người đến sớm nhất. Trong lúc chờ đợi, em thấy có những nhóm đang tranh cãi kịch liệt. Hôm trước, em chưa gặp cảnh này. Có chuyện gì vậy? Tình cờ, Perin nghe được vài từ mà em hiểu.
- Tội nghiệp con bé!
- Người ta cắt một ngón tay?
- Ngón tay út.
- Nó có la hét không?
- Ai mà nghe nó la hét cũng không cầm được nước mắt!
Perin không cần hỏi người ta cắt ngón tay của ai. Sau phút kinh hoàng ban đầu, tim em quặn lại. Thật ra em chỉ mới quen Rôdali có hai hôm, nhưng Rôdali đã đón em khi em mới đến, dìu dắt xem em như bạn. Chính cô gái khốn khổ ấy hiện đang đau đớn ghê gớm và có thể què quặt!
Trong khi em rầu rầu suy nghĩ thì ngước mắt lên, em trông thấy ông Benđi đi tới. Em cũng chẳng biết em đang làm gì? Ở địa vị thấp hèn của em, mà đi nói chuyện với một nhân vật cỡ như thế, hơn nữa lại là một người Anh, thì có tiện không?
- Thưa ông, Perin nói tiếng Anh, xin ông cho phép cháu hỏi: Ông có biết tình trạng sức khỏe của Rôdali như thế nào không ạ?
Thật là chuyện kỳ lạ! – Ông Benđi hạ cố để mắt nhìn em trả lời.
- Sáng nay, tôi có gặp bà ngoại cô bé. Bà cụ cho hay cô bé ngủ được.
- Thế à! Cháu xin cám ơn ông!
Nhưng ông Benđi, con người cả đờn chưa bao giờ cám ơn ai, không thể hiểu hết nỗi xúc động và lòng biết ơn chân thành trong giọng nói của Perin, qua mấy từ ấy.
- Tôi rất hài lòng! Ông ta nói và rảo bước!
Cả buổi sáng, Perin chỉ nghĩ đến Rôdali. Em có thể tự do nghĩ đến bạn. Bây giờ, em đã quen với công việc không đỏi hỏi sự chú ý của mình.
Tan ca, Perin chạy đến nhà mẹ Prăngxoadơ – rủi thay, em gặp dì Đênôbi, nên không sao vượt qua bước ngưỡng cửa.
- Gặp Rôdali làm gì kia chứ? Thầy thuốc bảo phải để nó tĩnh dưỡng. Khi nào nó khỏe, nó sẽ kể cho mày nghe: Tại sao nó lại bị máy cán cụt ngón tay. Cái con ngu đần ấy!
Cách đón tiếp này làm cho Perin buổi chiều không dám quay trở lại. Em có đến chắc cũng không được đón tiếp lịch sự hơn. Chỉ có việc trở về hòn đảo mà em nôn nóng được nhìn lại. Hòn đảo vẫn y như lúc em ra đi. Hôm ấy, không phải nấu nướng gì, em có thể ăn bữa tối ngay! Perin định kéo dài bữa ăn, nhưng dầu em có cắt  những miếng bánh nhỏ xíu, em cũng chẳng tăng nó lên với cấp số nhân mãi được! Khi không còn miếng bánh nào, mặt trời vẫn còn cao về phía chân trời. Thế rồi, em ngồi trên khúc gỗ, trong lều cỏ. Cửa mở, trước mặt em là hồ ao. Xa xa, là những cánh đồng cỏ, có những màn cây cối chia cách thành khoảnh, Perin mơ mộng nghĩ đến kế hoạch về lối sống mà em tự vạch. Trong đời sống có ba điểm chủ yếu có tầm quan trọng đặt biệt được đặt ra: chổ ở, cái ăn, cái mặc. Về chổ ở, Perin đã may mắn phát hiện được hòn đảo này. Ít nhất em cũng được đảm bảo ở đến tháng mười mà chẳng cần chi phí gì cả! Những câu hỏi về cái ăn, cái mặc thì không thể giải đáp một cách dễ dàng như thế được.
Có thể nào đảm bảo đủ sức khỏe đã tiêu hao trong lao động với nữa ký bánh là thức ăn hàng ngày, hết tháng này qua tháng khác? Perin chẳng hiểu gì hết. Nỗi khó nhọc, mệt mỏi thiếu thốn, em đã từng trải qua nhưng chỉ là ngẫu nhiên. Chỉ vài ngày khổ cực, tiếp đến là những ngày vui tươi, sẽ xóa nhòa tất cả. Nhưng cái công việc cứ lặp đi, lặp lại liên tục, em không có ý niệm gì về công việc ấy. Em cũng chẳng hiểu sau này phải tiêu pha ra sao? Quả thật, em đã thấy hai hôm nay, những bữa ăn của em ngắn quá! Nhưng chẳng phải chỉ là chổ đó! Tuy nhiên, với những người đã biết rõ cái cực hình của đói khát như em, thì ăn còn thòm thèm cũng chẳng đáng kể nếu giữ được sức lực. Với miếng bánh, thêm miếng phômát. Thì đợi thêm vài ngày, nhiều tuần lễ nữa, cũng chẳng ngại! Trái lại, áo quần em nhiều chổ đã rách nát. Trong thời gian ở với La Cucơri, em đã tạm vá víu, nhưng bây giờ em phải sửa chữa ngay, vì không còn dùng được nữa! Đặc biệt gót giày đã mỏng dính. Perin lấy ngón tay sờ thì đế giày oằn ngay! Không biết khi nào gót giày sẽ rời khỏi mũi giày. Thời gian ấy chắc là không còn xa. Em đẩy xe rùa phải đi qua những con đường rải đá nên giày càng chóng hỏng. Nếu giày hỏng thì em làm sao đây? Chắc chắn là Perin phải mua đôi giày mới. Nhưng phải có thể là hai vấn đề khác nhau! Em lấy đâu ra tiền để mua giày?
Chắc chắn phải làm trước tiên, chuyện cấp bách là phải tự túc giày dép. Khi nghĩ đến khâu thực hành, Perin thấy trước những khó khăn làm em chán nản. Chưa bao giờ em ý thức tự hỏi chiếc giày là cái gì? Khi Perin rút chiếc giày để quan sát và thấy rõ mũi giày đã được khâu với gót giày thế nào, em hiểu đó là một việc làm quá sức! Em chỉ còn biết kính phục tài năng của bác thợ giày. Em nghĩ làm chiếc guốc chỉ cần một miếng gỗ có lẽ dễ hơn! Nhưng làm sao đục được gỗ, khi Perin chỉ có con dao là dụng cụ? Perin buồn rầu nghĩ đến những cái không thể làm được! Đôi mắt em lướt trên ao hồ và hai bên bờ ao, gặp một bụi sậy và dừng lại. Thân sậy cao, dày và chắc. Có những cây mọc từ mùa xuân, có những cây mọc từ năm trước. Đã ngã xuống nước, nhưng chưa mục. một ý nghĩ lóe trong đầu Perin: người ta không phải chỉ mang giày da hay guốc gỗ. Cũng có những đôi dép vải, đế bằng sậy đan. Tại sao lại không đan thử đế giày bằng sậy? Nếu Perin thông minh hẳn thấy hình như sậy mọc ở đây là để cho em dùng.
Perin vội rời hòn đảo, men theo bờ đến bụi sậy… Em lựa những cây sậy tốt nhất, đã khô nhưng còn rễ cuốn và chắc. Em cắt một bó, mang về liều cỏ, rồi bắt tay ngay vào công việc. Perin đan được gần một mét, thì nhận thấy cái đế giày ấy nhẹ vì trống rỗng và sẽ không chắc. Trong khi đan, phải đập sậy cho tơi ra thành sợi. Perin không bối rối, cũng chẳng ngừng tay. Em có một khúc gỗ để đập sậy, không cho nó lẫn lộn. Bóng đêm bắt gặp em đang làm việc. Em nằm ngủ, mơ đến đôi dép xinh đẹp có rubăng xanh, Perin tin chắc em sẽ làm được, nếu lần đầu chưa tốt thì lần thứ hai, thứ ba… thứ mười cũng phải thành công! Nhưng Perin không phải chờ đợi! Chiều hôm sau, em đã có sậy để đan dép. Sáng hôm ấy, em mua cái dùi cong để khâu dép hết một xu, cuộn chỉ, khúc rubăng xanh cũng với giá ấy và hai tấc vải thô hết bốn xu. Tất cả là bảy xu. Đó là số tiền em có thể chi được nếu không muốn nhịn bánh ngày thứ bảy. Em làm thử một cái đế giày theo kiểu chiếc giày em đang mang. Cái thứ nhất hơi tròn, không đúng kích cỡ của bàn chân. Cái thứ hai, tuy đã rút kinh nghiệm, nhưng cũng chưa được. Cái thứ ba cũng thế! Nhưng cái thứ tư, hẹp ở giữa, phình ra phía đầu ngón chân, phía gót chật hơn, có thể chấp nhận là một đế giày.
Vui biết mấy! Đây là bằng chứng rõ rệt! Lại một lần nữa, người ta sẽ thành công khi có nghị lực, lòng quyết tâm. Không cần tiền bạc, dụng cụ, chẳng có gì hết! Chỉ cần một ít sáng tạo, người ta vẫn làm được cái việc ngỡ là quá sức!
Perin không có kéo để cắt vải. Mua kéo thì tốn kém nên em đành chịu! May thay em có con dao. Em đi tìm một hòn đá mài trên dòng sông để mài dao cho sắc. Em trải vải trên khúc gỗ, lấy dao mà cắt. Em mò mẫm, khâu những miếng vải và làm đi làm lại. Cuối cùng, em đã đi đến đích. Sáng thứ bảy, Perin đi làm, sung sướng mang đôi dép đẹp màu xám, có buộc rubăng xanh cột chéo trên đôi tất, giữ chặt đôi chân. Perin khâu dôi dép hết bốn buổi chiều và buổi sáng bắt đầu từ khì mặt trời mọc. Em tự hỏi em sẽ làm gì với đôi giày cũ của em khi rời khỏi lều cỏ. Thật ra, em không lo ngại người ta lấy mất giày vì chẳng ai vào đây. Nhưng đôi giày có thể bị chuột gặm! Để tránh cái tai họa ấy, em phải cất giày vào một nơi an toàn. Perin chẳng có tủ, có hộp sẵn nắp đậy. Em lấy sợi dây mây buộc đôi giày và treo trên trần của túp lều.
Perin rất tự hào về đôi dép. Tuy thế, em không khỏi lo ngại về cách dùng dép trong lao động: đế dép có giãn ra không? Vải có giữ được dáng không? Em thường nhìn xuống đôi chân trong lúc bốc dỡ, hay đẩy xe rùa. Lúc đầu, dép có thể chịu đựng được nhưng rồi sau này? Cái cử chỉ ấy đã làm cho cô bạn chú ý. Nhìn đôi dép, thấy đẹp, cô tỏ lời khen ngợi Perin.
- Chị mua đôi giày này ở đâu thế? Cô ta hỏi.
- Không phải giày, đôi dép đây mà!
- Xinh đấy chứ! Có đắt không chị?
- Tôi chỉ tốn bốn xu mua vải. Tôi đan sậy và tự làm lấy!
- Xinh quá!
  Cái thắng lợi ấy thúc giục Perin làm một việc tinh tế hơn. Đã bao lần, em nghĩ đến, nhưng phải làm lơ! Vì khoản chi phí quá lớn và còn nhiều khó khăn nữa! Đó là việc cắt và khâu chiếc áo sơ mi thay chiếc áo độc nhất, em đang mặc và không thể cởi ra để giặt! Perin cần hai mét vải. Phải trả bao nhiều tiền? Em cũng chẳng hay. Có vải rồi làm thế nào mà cắt được áo? Em cũng chẳng biết gì hơn! Cả một lô câu hỏi mà em phải suy nghĩ. Perin tự hỏi có nên may chiếc áo chẽn và chiếc váy vả hoa thay áo vét và chiếc váy lót? Em phải mặc bộ cánh ấy cả khi đi ngủ nên nó rất chóng hỏng! Cái thời gian em không còn dùng các thứ ấy được nữa cũng dễ tính ra thôi! Còn đời sống, bữa ăn hàng ngày của em? Việc thực hiện các dự tính nữa? Bởi vậy, bằng bất cứ giá nào, em cũng phải tiếp tục làm việc ở nhà máy!
Tuy nhiên, vừa lĩnh tiền công ba phờrăng của tuần lễ vào chiều thứ bảy, Perin không thể cưỡng được sự cám dỗ của chiếc sơ mi. Thật ra chiếc áo chẽn và váy vải hoa cũng rất có giá trị, nhưng chiếc sơ mi cần thiết hơn. Chung quanh chiếc sơ mi có nhiều lý do: nề nếp vệ sinh, lòng tự trọng mà em nuôi dưỡng nên chiếc sơ mi đã thắng. Perin sẽ vá áo vét và váy lót; vì vải còn chắc. Em có thể mạng thêm mấy miếng nữa.
Ngày nào cũng vậy, đến bữa ăn trưa. Perin đi từ xưởng đến nhà mẹ Prăngxoadơ hỏi thăm tin tức Rôdali. Khi thì em được người ta trả lời, khi thì người ta không cho, tùy theo em gặp bà ngoại hay bà dì. Từ khi em mơ ước chiếc sơ mi, em thường dừng lại trước một cửa hiệu nhỏ. Hàng hòa trưng bày chia hai ngăn. Một ngăn để tranh ảnh, báo, bài hát. Một ngăn xếp các thứ vải: vải quyến, vải hoa và hàng tạp hóa. Perin đứng ở giữa, có vẻ như đang chăm chú nhìn những tờ báo hay đang học hát nhưng thật ra em đang ngắm mấy tấm vải. Những ai bước vào cửa hiệu cám dỗ này, bảo người ta xé bao mét vải thùy thích, hạnh phúc thật.
Những lúc Perin đang dừng lại khá lầu ở cửa hiệu, em đã trông thấy những cô thợ của nhà máy vào đây. Họ trở ra, ôm chặt trong tay những gói bọc giấy cẩn thận. Em tự nhủ niềm vui ấy không phải dành cho em, ít nhất là hiện nay!
Nhưng bây giờ, Perin có thể bước qua ngưỡng cửa ấy nếu em muốn. Em cầm trong tay ba phờrăng. Rất hồi hộp, em bước vào.
- Cô muốn mua gì? Thưa cô.
Một bà già bé nhỏ, lễ phép hỏi Perin với nụ cười dễ mến. Đã từ lâu không có ai nói với Perin dịu dàng như thế, em mạnh dạn hỏi.
- Xin bà làm ơn cho cháu biết giá một mét vải, thứ… rẻ tiền nhất.
- Tôi có thứ bốn mươi xăngtim một mét.
Perin thở phào, nhẹ nhõm.
- Bà làm ơn xé cho cháu hai mét!
- Thứ vải này không tốt lắm đâu, còn thứ sáu mươi xăngtim…
- Thứ bốn mười xăngtim là cháu dùng được rồi.
- Tùy ý cô, tôi nói để cô nắm vững. Tôi không thích những lời chê trách!
- Thưa bà, cháu sẽ chẳng trách bà đâu!
Bà bán hàng lấy tấm vải giá bốn mươi xăngtim. Perin để ý thấy vải chẳng trắng, chẳng bóng như thư em ngắm nghía trong gian hàng.
- Có lấy gì thêm không? Bà ta hỏi, sau khi đã xé vải một cái rẹt.
- Cháu muốn có chỉ!
- Ống chỉ, cuộn chỉ hay búp chỉ?
- Thứ rẻ tiền nhất!
- Đây là búp chỉ mười xăngtim. Tất cả là mười tám xu.
Đến lượt Perin cảm thấy sung sướng. Bước ra khỏi cửa hiệu. Em ôm hai mét vải bọc trong tờ báo cũ. Perin có ba phờrăng mà mới tiêu hết mười tám xu. Em có bốn mươi hai xu để tiêu đến thứ bảy tuần sau. Sau khi dành hai mươi tám xu để mua bánh trong tuần, em còn vốn bảy xu để chi tiêu bất thường hay để tiết kiệm vì em không phải trả tiền phòng.
Em trở lại con đường về đảo, vừa đi vừa chạy. Em thở hổn hển khi đến nơi. Tuy mệt, Perin cũng bắt tay ngay vào công việc. Từ lâu, hình dáng chiếc áo sơ mi đã được vạch sẵn trong đầu óc em, em không cần phải suy nghĩ nữa. Em may sơ mi buộc dây, đơn giản và dễ thực hành. Em không có kéo và chưa bao giờ cắt sơ mi. Em có thể dùng sợi dây áo cũ để bỏ vào áo mới. Nếu chỉ khâu áo thì mọi việc tiến hành như ý muốn. Perin tuy không khéo tay những cũng khỏi phải làm lại. Những khó khăn, lo ngại phơi bày lúc khoét cổ áo và tay áo. Chỉ có con dao và khúc gỗ trong tay, Perin cảm thấy công việc quan trọng nên không khỏi rung tay, thiếu nỗi làm hỏng áo. Cuối cùng, em đã đi đến đích. Sáng thứ ba, Perin đến xưởng mặc chiếc áo sơ mi mới. Em mua vải với tiền công lao động và tự cắt, may lấy.
Hôm ấy, Perin đến nhà mẹ Prăngxoadơ, Rôdali tay mang băng chéo, đón bạn.
- Lành rồi hả?
- Chưa, nhưng người ta cho phép tôi đứng lên, và được ra ngoài sân.
Nói sao hết nỗi vui mừng khi gặp bạn! Perin tiếp tục hỏi, nhưng Rôdali miễn cưỡng trả lời. Bạn ấy làm sao thế nhỉ? Cuối cùng Rôdali đưa ra một câu hỏi khiến Perin sáng tỏ:
- Bây giờ chị trọ ở đâu?
Không dám trả lời, Perin nói quanh:
- Đối với tôi, tiền trọ quá đắt! Nếu trả tiền buồng, tôi không còn gì để ăn và mặc!
- Chị đã tìm ra chỗ khác rẻ hơn sao?
- Tôi không phải trả tiền!
- Thế à?
Dừng một lát, Rôdali tò mò hỏi:
- Ở nhà ai thế?
Lần này Perin không thể từ chối giải đáp câu hỏi trực diện ấy:
- Sau này, tôi sẽ nói cho chị hay!
- Khi nào cũng được! Chị biết đấy! À, lúc nào chị dì Đênôbi trong sân, hay ở ngưỡng cửa, thì chị đừng vào. Dì ấy không ưa chị đâu! Chị đến buổi chiều, giờ ấy dì tôi bận.
Perin trở về xưởng, lòng buồn rười rượi vì sự tiếp đãi ấy! Em có lỗi gì khi không tiếp tục ở trong buồng trọ của mẹ Prăngxoadơ? Suốt ngày, cái cảm tưởng ấy cứ đeo đuổi Perin. Buổi tối, khi còn lại một mình trong lều cỏ, cái cảm tưởng ấy lại mạnh mẽ hơn! Đây là lần đầu tiên, trong tám ngày nay, em chẳng có việc gì để làm! Thế rồi, để xua đuổi cái cảm tưởng ấy, em có sáng kiến là đi dạo trong mấy cánh đồng cỏ quanh hòn đảo. Lâu nay, em chưa có dịp để làm việc đó. Buổi tối đẹp lộng lẫy. Không phải rực rỡ như những năm thơ ấu ở xứ sở quê hương! Cũng không nóng bức dưới bầu trời màu chàm, mà ấm áp với một sánh sáng dịu qua các ngọn cây tắm trong hơi nước màu vàng nhạt. Những cây cỏ còn tươi, nở hết hoa, gieo trong không khí hàng nghìn mùi hương, làm thành một mùi thơm khó tả. Ra khỏi hòn đảo, Perin theo bờ hốc đất, đi ngang đám cỏ cao. Từ mùa xuân đến nay, không có bước chân người. Thỉnh thoảng em quay lại nhìn. Qua đám sậy, trên đảo, lều cỏ rất dễ lẫn lộn với thân cây và những cành liễu. Những con vật hoang dã không thể ngờ lều cỏ là công trình của con người. Sau lều cỏ, con người có thể đứng nấp với một khẩu súng trong tay.
Perin nghỉ một lát rồi từ đám lau sậy và bụi cói trở lại bờ ao. Một tiếng động làm em giật mình. Một con vịt trời nhảy xuống nước, bơi đi trốn. Chỗ chim vừa rời khỏi, có một cái ổ làm bằng cọng cỏ và lông chim. Perin thấy có mười quả trứng màu trắng nhờ nhờ với những chấm màu hạt dẻ nằm trong ổ. Cái ổ chim nổi lên trên mặt nước chứ không đặt trong cỏ, trên mặt đất. Trong vài phút, không lấy tay sờ mó, Perin quan sát và nhận thấy ổ chim được cấu trúc để nổi lên, hạ xuống theo con nước. Lau sậy che kín ổ, không cho dòng nước, cơn gió cuốn đi. Perin im lặng, đứng xa, để khỏi làm cho chim mẹ lo ngại. Những cây cỏ cao che khuất Perin khi em ngồi xuống, chờ đợi con vịt trời trở về tổ. Nó không trở về, em kết luận: nó chưa ấp và những quả trứng còn tươi! Rồi Perin lại đi dạo. Lần này, chiếc váy chạm phải cỏ khô, em thấy nhiều con chim sợ hãi bay đi! Bầy gà nước nhẹ nhàng lướt trên đám lá nổi của cây súng mà không nhận chìm lá xuống nước. những con le le mỏ đỏ, những con chìa vôi nhảy nhót. Bầy chim sẻ lại rầy lúc đi ngủ, đuổi theo em với cái tiếng mà địa phương đã lấy để đặt tên cho chúng: “côra! côra!”.
- 2 -
Perin vừa phát hiện khi đã đến đầu hốc đất. Em nhận thấy cái hốc này dính với một hốc khác rộng và dài hơn, nhưng vì thế ít cây cối hơn. Sau khi đi trong đồng cỏ, dọc theo bờ ao, lát sau, em hiểu là chim chóc ở đây ít  hơn. Chính cái ao hồ của em là nơi mà bầy vật có cánh đã chọn. Chim chóc tìm được thức ăn và sự yên tĩnh trong những lùm cây xum xuê. Những cây sậy to lớn, những giống thủy thảo che kín mặt nước thành một tấm thảm xanh di động. Một giờ sau, Perin quay trở về, em nhìn thấy ao hồ gần chìm trong bóng tối của chiều tà rất yên tĩnh, rất xanh và rất xinh. Perin tự nhủ em cũng rất thông minh. Em cũng đã chiếm nơi đây làm tổ ấm như những con vật ấy! 
Khi Perin đi ngủ, những sự việc xảy ra trong ngày lại hiện lên trong giấc mộng. Những tháng cuối, cuộc đời của em đầy buồn phiền, thì giấc mộng cũng thế! Từ khi tai họa vùi dập, đã bao lần, em thức dậy ngột ngạt, người ướt như tắm. Trong giấc mơ, ác mộng kéo dài những nỗi gian khổ của thực tế. Thật ra, sau khi đến Marôcua, niềm tin đã trở lại với em. Nhờ ảnh hưởng của lao động, những cơn ác mộng cũng bớt đau khổ và thưa dần! Perin cảm thấy cơn ác mộng không quá nặng nề và không siết chặt cổ họng em như trước nữa.
Bây giờ, khi đi ngủ, Perin nghĩ đến một ngày mai được bảo đảm. Em nghĩ đến xưởng máy hay hòn đảo của em; Perin còn nghĩ đến những gì em đã làm, sắp làm để cải thiện đời sống: đôi dép, chiếc áo sơ mi, chiếc áo chẽn, chiếc váy… trong giấc mơ, em thấy diễn lại cái đề tài em đã vắt óc suy nghĩ. Có khi là một xưởng máy trong đó có bà Tiên dùng chiếc đũa thần cho các cỗ máy hoạt động thay thế bố Chân Tháp khỏi phải nện chày! Tụi nhóc tì điều khiển các cỗ máy ấy chẳng phải mệt nhọc tí nào! Có khi Perin nghĩ đến một ngày mai tươi sáng niềm vui cho mọi người. Có khi trong giấc mơ, Perin thấy nổi lên một hòn đảo tuyệt đẹp. Phong cảnh và thú vật ở đấy hình dáng kỳ dị chỉ có ở trong mộng. Có khi, Perin thấy những ý thích tầm thường của em biến thành mộng. Em đang khâu đôi giày bốttin để thay đôi dép. Em còn khâu những chiếc áo kỳ lạ bằng kim cương và hồng ngọc do các vị thần trong các hang động dệt. Những chiếc áo ấy sẽ thay thế chiếc áo chẽn và chiếc váy mà em tự hứa sẽ sắm cho mình.
Thật ra, khó mà tránh được lầm lẫn trong cách suy tư bằng tưởng tượng. Trong giấc mộng, trí tưởng tượng nhiều khi không chiều theo ý nghĩ của Perin. Em cũng không tin khi em ngủ, những tư tưởng của ban đêm sẽ tiếp tục những ý nghĩ của ban ngày, hay chỉ nối tiếp những nghĩ ngợi khi đã buồn ngủ. Những ý nghĩ ấy lắm khi xâu chuỗi và những giấc ngủ ngon đem lại cho Perin niềm an ủi, nâng đỡ em đứng lên.

Tối hôm ấy, Perin nằm ngủ trong túp lều đóng cửa. Trước đôi mắt ngái ngủ, cái hình ảnh cuối cùng lướt qua, cũng như cái ý nghĩ đang trôi nổi trong trí óc mơ màng của em, vẫn tiếp tục cuộc thăm dò quanh hòn đảo. Thật ra, chưa chắc Perin đã mơ màng về cuộc du ngoạn mà có lẽ cả về những bữa tiệc. Trong một cái bếp cao, to như ngôi nhà thờ, có một đội phụ bếp bé nhỏ, mặc áo trắng, dáng điệu như bầy quỷ ranh. Chúng đang lăng xăng trên những cái bàn rộng mênh mông và một bếp than rực lửa của địa ngục. Người đập trứng, kẻ đánh trứng. Trứng dậy lên, nổi bọt trắng như tuyết. Các quả trứng ấy, có quả to bằng quả dưa, có quả nhỏ như hạt đậu. Mấy chú phụ bếp chế biến những món ăn kỳ lạ. Hình như bọn họ muốn nấu dọn trứng theo đủ mọi cách: trứng la cốc, trứng rán mỡ, trứng rán khoai tây, trứng phomát, trứng cà chua, trứng ráng dăm bông, trứng với các loại mứt, với rượu rum đang cháy như ánh chớp. Bên cạnh các chú, có những người quan trọng, chắc là các bác đầu bếp. Họ đang nhào bột với trứng để làm các món bánh ngọt, bánh rán… Mỗi lần Perin tỉnh giấc, cố cựa quậy, để xua tan giấc mộng ngu ngốc, thì nó lại bám lấy em. Những chú phụ bếp cũng chẳng thả em ra, vẫn tiếp tục cái công việc kỳ dị ấy. Khi còi nhà máy đánh thức Perin, em đang theo dõi cách làm kem sôcôla. Em cảm thấy trên môi còn đượm mùi thơm và vị ngọt của món kem.
Khi đầu óc Perin đã sáng suốt, em hiểu cái hấp dẫn của chuyến du ngoạn đối với em không phải là cái đẹp duyên dáng cũng chẳng phải là sự yên tĩnh của hòn đảo! Thật đơn giản! Đã gần nữa tháng nay, Perin chỉ được ăn bánh nhạt và uống nước lã! Những quả trứng vịt trời đã nói chuyện với cái dạ dày của em, dẫn giấc mộng, chỉ cho em thấy mấy chú phụ bếp và cách nấu nướng kì lạ! Cái dạ dày ấy thèm khát của ngon, đã nói với cách của nó, gợi những ảo ảnh mà trong thực tế, chỉ là những đòi hỏi của nó mà thôi! Tại sao Perin lại không lấy những quả trứng ấy hoặc chỉ lấy bớt vài quả! Em có lấy của ai đâu chứ?
Con vịt trời là loại chim hoang. Perin chẳng có một dụng cụ nhà bếp, cũng chẳng có xoong chảo. Em không thể chế biến một món ăn nào vừa diễn ra trước mắt, tất cả đều quyến rũ! Món này lại còn ngon lành, tinh xảo hơn món nọ. Đó là giá trị của những quả trứng. Thật ra, chúng không đỏi hỏi những cách chế biến cầu kỳ. Một que diêm để nhóm lửa, một đống củi khô nhặt trong chồi cây, rồi đem quả trứng vùi trong tro nóng. Em dễ dàng làm chín quả trứng tùy theo ý muốn: trứng la cốc, hay trứng luộc trong lúc chờ đợi để mua sắm cái xoong, cái đĩa. Tuy khác xa bữa tiệc của giấc mơ, nó cũng là một bữa ăn tươi có giá trị. Trong lúc lao động, đã nhiều làn câu hỏi: “Tại sao không lấy trứng chim?” cứ lởn vởn trong đầu óc Perin. Tuy không ám ảnh như giấc mơ, nó cũng khá khẩn trương. Perin quyết định, khi ra về, mua một bao diêm, một xu muối. Em mang các thứ, vừa đi vừa chạy về đảo.
Perin nhớ rất rõ nơi có tổ chim, nên không mất công tìm kiếm. Tối hôm ấy, chim mẹ không nằm trong ổ. Nó chỉ về một lúc nào đó trong ngày, bởi đáng lẽ có mười quả trứng thì lại có mười một quả. Điều ấy chứng tỏ vịt còn đẻ, chưa ấp. Perin thấy mình gặp may. Trước hết, như vậy là trứng còn tươi. Hơn nữa, nếu em chỉ lấy năm, sáu quả, con vịt trời không biết đếm, sẽ chẳng hay biết gì hết.
Ngày trước, Perin không băn khoăn thế đâu! Em có thể trút cả ổ trứng mà không hề ngại. Nhưng em đã trải qua nhiều nỗi buồn phiền nên rất thông cảm với nỗi buồn phiền của kẻ khác! Lại nữa, vì Perin thương con Palica nên yêu mến tất cả những con vật với một tình cảm mà em chưa hề có trong tuổi ấu thơ. Con vịt trời không phải là bạn của em đó sao? Nó là một thần dân trong cái trò chơi Nữ hoàng! Nếu Vui, Chúa có quyền lợi dụng dân chúng để tồn tại thì ngược lại các Ngài cũng phải ít nhiều quan tâm đến họ chứ? Khi Perin quyết định đi lấy trứng, em cũng đã nghĩ đến việc nấu nướng. Tất nhiên, em không thể làm bếp ở lều cỏ. Một làn khói nhẹ từ đó lan ra cũng đủ cho mọi người chú ý! Em sẽ nấu ở lối đi, trong chồi cây nơi cắm trại của những người du mục, khi đi qua làng. Nếu có ngọn lửa, làn khói ở đấy thì cũng chẳng ai thèm để ý. Nhanh nhẹn, Perin đã nhặt được một bó củi khô và thế là em có một đám lửa. Em lấy hai miếng đã sạch sẽ, láng bóng, tán một nhúm muối thành bột cho dễ hòa tan. Thật ra, em thiếu cái đĩa đựng trứng la cốc. Nhưng đó là một dụng cụ chỉ cần thiết đối với những người dư dật. Một lỗ nhỏ trong miếng bánh cũng có thể thay thế. Chỉ một lát sau, em sung sướng được nhúng miếng bánh trong quả trứng la cốc vừa chín tới. Perin ăn một miếng và có cảm giác chưa bao giờ em được ăn ngon như thế! Em tự nhủ nếu ở trên đời này, các chú phụ bếp trong giấc mơ có thật, chắc các chú ấy cũng chẳng làm được món gì ngon bằng món trứng la cốc của con vịt trời vùi trong tro nóng!
Tối hôm trước, Perin đã ăn bánh nhạt. Em cũng chẳng tưởng tượng nổi em có thể thêm được gì để ăn với miếng bánh trước nhiều tuần, nhiều tháng nữa? Bữa cơm tối hôm ấy, đáng lẽ phải thỏa mãn những đòi hỏi của dạ dày, tuy nhiên không phải thế! Khi ăn hết quả trứng, em tự hỏi có cách chế biến nào khác cho những quả trứng còn lại và những quả trứng em sẽ tìm được. Trứng la cốc ngon, rất ngon. Món xúp đổ vào một lòng đỏ trứng cũng ngon lắm chứ? Cái ý nghĩ về món xúp cứ nhảy nhót trong đầu em. Có lẽ việc khâu dép, áo sơ mi đã cho em tin tưởng và đã chỉ cho em thấy nhờ kiên trì, nhẫn nại người ta có thể thành công. Tuy thế, em không dám nghĩ có thể tự túc được một cái xoong bằng đất hay bằng thiếc để nấu xúp và cái muỗng để ăn xúp. Có những khó khăn mà em nát óc! Trong khi chờ đợi lãnh được số tiền cần thiết để mua sắm cái xoong và cái muỗng. Perin đành thay xúp bằng mùi xúp. Em ngửi mùi ấy, mỗi khi đi ngang các ngôi nhà và nghe tiếng muỗng quấy xúp vọng lại.
Mỗi buổi sáng, khi đi làm, Perin vẫn tự nhủ mình như thế. Một hôm, trước khi vào làng, em đi qua một ngôi nhà vừa mới dọn đi nơi khác. Em nhìn thấy một đống rơm cũ vất ở bên đường. Những mảnh vụn đủ loại, những chiếc hộp thiếc có hình dáng khác nhau: lớn, bé, cao, dẹp đựng các thức ăn thịt, cá, rau đã chế biến! Ánh sáng của những bề mặt trơn tru phản chiếu làm Perin dừng lại như cái máy. Em không do dự nữa! Những xoong, chảo, đĩa muỗng, nĩa mà em còn thiếu đập vào đôi mắt của em! Em chỉ việc dùng những lon, hộp này để có đầy đủ các dụng cụ nhà bếp như em hằng mong ước. Perin vượt qua đường, chọn lấy bốn cái hộp rồi em vừa đi, vừa chạy, mang cất dấu trong hàng rào. Buổi chiều, khi đi về, em sẽ tìm thấy chúng ở đó. Với một ít công phu, những thực đơn mà em nghĩ ra, sẽ được thực hiện.
Suốt cả ngày, Perin bận rộn với câu hỏi:
Liệu em có tìm được bốn cái hộp ấy không? Nếu người ta lấy mất của em thì hóa ra những điều em dự định chỉ để thấy rồi biến mất, chính vừa lúc em ngỡ là có thể thực hiện được! May thay, không ai di ngang qua đấy lại có ý muốn lấy mấy cái hộp của Perin. Sau ngày lao động, em chờ thợ thuyền vượt qua con đường rồi trở lại bờ rào. Em đã tìm thấy bốn cái hộp ở ngay chỗ mà em đã cất giấu.
Trong hòn đảo, Perin không thể để có tiếng động cũng như không thể để cho có khói. Em định ngồi ngoài đường đi, hy vọng tìm được những đồ dùng cần thiết ở đó. Perin sẽ có những hòn đá thay búa để đập thiếc. Có những hòn đá bẹp thay đe, hòn đá tròn thay dùi. Có những hòn đá để cắt sắt. Đây là một việc làm rất vất vả! Phải mất gần ba ngày, Perin mới làm xong cái muỗng. Nếu em đưa cho người ta xem thì họ chỉ đoán là cái muỗng. Nhưng vì em dự định sản xuất cái muỗng thì đó là một cái muỗng chứ còn gì nữa! Với lại, em ăn một mình, nên không phải lo ngại người ta nhận xét về bộ đồ ăn của em.
Bây giờ, để nấu xúp Perin chỉ còn thiếu bơ và rau me. Cũng như bánh và muối, về khoản bơ em không thể làm ra được với đôi bàn tay trắng. Em đành phải đi mua vậy! Perin có thể tiết kiệm mua rau me. Em đi tìm kiếm trong cánh đồng cỏ chắc sẽ thấy rau me dại, mà có lẽ cả củ cà rốt nữa. Những thứ rau này tuy chẳng bằng rau vườn, cũng rất quý đối với em.
Perin có thể sắp xếp thực đơn bữa trưa không phải chỉ có món trứng và món rau. Bây giờ, em có những dụng cụ để nấu, cái muỗng thiếc, cái nĩa gỗ để ăn. Còn có những con cá của hồ ao nếu Perin đủ nhanh nhẹn để bắt chúng? Phải làm gì đây? Phải có cần câu và mồi. Phải kiếm, bắt những còn trùng trong bùn. Em còn chỉ khâu giày đủ dùng. Em chỉ cần một xu để mua lưỡi câu rồi lượm lông ngựa trong lò rèn. Với những cần câu ấy, em có thể bắt được nhều loại cá. Những con cá lớn nhất của hồ ao, bơi lội dưới nước trong xanh, khinh khỉnh bên cánh những thứ mồi quá đơn giản! Em không bắt được chúng thì ít nhất em cũng tìm được một vài con cá bé nhỏ dễ tính hơn. Đối với Perin, những con cá ấy cũng khá to và vừa đủ dùng rồi!
Perin bận rộn với những công việc lặt vặt hết các buổi chiều tối. Đã hơn tuần nay, em không đến thăm Rôdali được. Một chị bạn cùng phân xưởng trọ trong nhà mẹ Prăngxoadơ, cho em biết tin tức của Rôdali. Perin còn sợ gặp dì Đênôbi dữ tợn nên lùi việc đi thăm bạn hết ngày này, qua ngày khác. Nhưng rồi một buổi chiều Perin quyết định không về nhà ngay. Hôm trước, em bắt được một con cá nấu chín để dành nên hôm nay không phải nấu nướng.
Trong sân, lúc ấy không có người. Rôdali đang ngồi dưới gốc táo. Thấy Perin, cô bé đi ra cổng đón bạn, nửa giận, nửa mừng:
- Mình cứ nghĩ cậu không đến nữa!
- Mình rất bận!
Perin buộc phải trả lời. Em chỉ đôi dép đang mang dưới chân, rồi kể lại chuyện em khâu áo sơ mi.
- Cậu không mượn được kéo của những người ở cùng nhà sao? Rôdali ngạc nhiên hỏi.
- Trong nhà, không ai cho mình mượn kéo cả.
- Ai cũng có kéo mà!
Perin tự hỏi có cần giữ bí mật về chỗ ở của em không; Nhưng nếu không nói rõ Rôdali sẽ giận.
- Không có ai ở trong nhà mình, Perin vừa nói vừa cười.
- Không thể thế được!
- Ấy thế mà thật đấy! Mình muốn có cái xoong để nấu xúp, cái muỗng để ăn xúp thì mình phải tự làm. Cậu biết không, làm cái muỗng khó hơn là khâu đôi dép!
Không giấu diếm, Perin kể lại việc em dọn ra túp lều. Em thuật lại những công việc đã làm để chế tạo các dụng cụ, những cuộc săn lùng trứng chim, những buổi câu cá, những lần làm bếp. Chốc chốc Rôdali reo lên vui sướng như được nghe một câu chuyện kỳ lạ. khi Perin nói cách nấu xúp rau me, cô bé lại reo lên:
- Chắc cậu khoái lắm nhỉ?
- Khi thành công, thì khoái thật!
- Nhưng cũng có khi không được. Mình mất hết ba ngày để làm cái muỗng, mình không biết làm cách nào cho nó sâu xuống! Mình làm hỏng mất hai miếng thiếc chỉ còn một miếng độc nhất. Bạn hãy tưởng nhiều lần mình đập đá nhầm vào ngón tay!
- Mình đang nghĩ đến món xúp của cậu!
- Xúp ngon thật!
- Mình tin lời cậu!
- Với mình, ngon là vì chưa được ăn xúp bao giờ và chưa được ăn món gì nóng cả!
- Mình thì ngày nào cũng được ăn nhưng không phải giống nhau đâu! Này! Ở ngoài đồng mà cũng có rau me, cà rốt thì lạ thật!
- Còn có cả xà lách xoong, củ cải, cây phòng phong… và nhiều loại cây khác rất ngon.
- Nhưng trước hết, phải biết cách nhận ra chúng!
- Bố mình đã dạy mình nhận ra chúng!
Rôdali im lặng, suy nghĩ một lát, rồi quyết định:
- Cậu có muốn mình đến thăm cậu không?
- Ồ, rất vui lòng! Nhưng bạn phải hứa đứng nói với ai về chỗ ở của mình!
- Mình xin hứa!
- Thế thì khi nào bạn đến?
- Chủ nhật, mình sẽ đến nhà một bà dì ở Xanh Pipô. Đến chiều, khi trở về, mình có thể ghé lại chỗ cậu!
Đến lượt Perin ngần ngừ một lát, rồi rất dễ thương, nói:
- Mình còn muốn bạn làm hơn thế! Bạn sẽ ở lại ăn cơm với mình!
Rôdali là nông dân chính cống nên loay hoay với những câu trả lời lễ phép. Cô bé không nhận lời và cũng không từ chối ngay. Người ta dễ dàng nhận thấy Rôdali rất muốn nhận lời, Perin khẩn khoản.
- Bạn hãy tin là bạn sẽ làm cho mình sung sướng. Mình rất cô đơn mà!
- Quả thế thật!
- Thế thì đồng ý nghe! Nhưng bạn nhớ mang muỗng. Mình không có thời gian và cũng không còn thiếc để làm một chiếc nữa!
- Mình sẽ mang suất bánh của mình được chứ?
- Tốt thôi! Mình sẽ đợi bạn ở lối đi rồi bạn sẽ thấy mình làm bếp!
Perin rất thành thực khi nói em sẽ vui sướng được tiếp Rôdali. Ngay từ bây giờ, em đã thấy sướng rơn. Thết đãi bạn, kê thực đơn, tìm thức ăn, việc quan trọng đấy chứ? Sự quan trọng ấy đã trở thành một cái gì mà chính Perin tự cảm thấy. Ai có thể nói trước đây mấy hôm, em có thể mới một người bạn ăn cơm!
Chuyện đi lùng trứng chim và câu cá rất quan trọng. Nếu Perin không tìm được trứng và bắt được cá thì bữa ăn quá thanh đạm, chỉ còn món xúp rau me! Ngày thứ sáu, Perin để cả buổi chiều đi lùng khắp các hang động quanh vùng. May thay, em thấy một ổ trứng đỗ quyên. Thật ra, trứng đỗ quyên bé hơn trứng vịt trời nhưng em không có quyền kén chọn. Em đã khôn khéo dùng một con sâu đỏ làm mồi nên buổi câu cá hôm ấy khá lắm. Em bắt được một con cá vền khá to, đủ cho khách và chủ ăn thoải mái. Em còn muốn dọn món tráng miệng. Cây nhót mọc ở giữa đám liễu, có những quả gần chín, giúp em thết khách. Thứ quả này không cần chín, các cô gái ăn vẫn ngon miệng.
Chiều chủ nhật; Rôdali đến, gặp Perin đang ngồi trước bếp lửa bên nồi xúp đang sôi.
- Mình đợi bạn để cho lòng đỏ trứng vào xúp. Perin nói. Bạn cầm muỗng khuấy đều trong lúc mình từ từ rót xúp. Mình đã cắt bánh rồi.
Tuy Rôdali ăn mặc lịch sự, để đến dự bữa cơm, em cũng không ngại làm cái việc ấy! Chỉ là một trò chơi, lại còn là một trò chơi rất thú vị đối với em nữa chứ! Xúp đã chín. Bây giờ, chỉ còn bưng nồi xúp vào hòn đảo. Perin làm việc ấy! Em đã bắt tấm ván làm cầu đón bạn. Thấy Rôdali tay còn mang băng chéo, Perin nói:
- Mình thường dùng cây sào để ra vào. Tay bạn còn đau, nên không tiện.
Cửa túp lều vừa mở, Rôdali đã nhìn thấy những bó hoa đủ màu sắc ở bốn phía. Có màu hồng của hoa lan, màu vàng của hoa cẩm chướng, màu xanh da trời của mấy cái chuông nhỏ hoa lục lạc. Trên nền đất, bữa ăn đã dọn.
- Chao ôi. Đẹp quá!
Nghe Rôdali sung sướng reo lên, Perin quên hết mệt nhọc. Trên chiếc nệm bằng dương xỉ còn tươi, hai ngọn lá dong riềng thay đĩa đã bày sẵn. Con cá vền nằm giữa, trên ngọn một ngọn lá to hơn, có xà lách xoong bày chung quanh được dọn lên. Một ngọn lá nhỏ đựng muối. Một ngọn lá khác thay đĩa trái cây đựng mấy quả nhót. Ở khoảng cách giữa các đĩa có găm những hoa súng, gieo ánh sáng người giữa màu xanh tươi mát. Perin đưa tay đón khách:
- Xin mời bạn ngồi xuống.
Hai cô gái ngồi đối diện nhau và bữa ăn bắt đầu.
- Mình sẽ tiếc biết bao, nếu không đến.
- Đẹp quá và ngon quá! – Rôdali miệng đầy thức ăn nói.
- Có gì trở ngại mà bạn nói có thể không đến?
- Người ta muốn mình phải đi Píchkynhi thăm ông Benđi ốm nặng!
- Ông ấy mắc bệnh gì?
- Thương hàn. Từ hôm qua, ông đã nói lảm nhảm không nhận ra người đến thăm; Cũng vì thế hôm qua mình định đến tìm cậu.
- Tìm mình, để làm gì?
- Ồ, đấy là một ý kiến của mình!
- Nếu mình có thể làm gì giúp ông Benđi thì mình sẵn sàng! Ông ấy tốt với mình! Nhưng một cô gái nghèo khổ thì làm được gì kia chứ! Mình chẳng hiểu gì cả!
- Cho mình một ít cá với xà lách xoong rồi mình nói cho mà nghe. Cậu biết đấy, ông Benđi là người chịu trách nhiệm giao thiệp với nước ngoài. Chính ông ấy dịch những thư tín tiếng Anh, tiếng Đức. Bây giờ, đâu óc ông không còn tỉnh táo! Ông không thể dịch được! Người ta muốn gọi người khác thay ông, nhưng người kia có thể cứ giữ chổ ấy khi ông Benđi lành bệnh. Ông Pharbry và ông Môngblơ đã đề nghị nhận thêm phần việc của ông Benđi, để khi ông ấy khỏe mạnh, sẽ trở về xí nghiệp. Nhưng ông Phabry được phái đi Ecôtx nên ông Mônngblơ lúng túng. Ông ta đọc tiếng Đức thạo, và có thể dịch tiếng Anh với ông Phabry, nhưng vì có một mình, chuyện ấy không ổn nữa, nhất là khi có những lá thư tiếng Anh viết khó đọc. Lúc mình dọn cơm, ông ấy cho mình hay ông ấy đang lo không thay thế nổi ông Benđi! Mình có ý kiến giới thiệu cậu với ông ấy. Cậu nói được tiếng Anh cũng như tiếng Pháp.
- Mình nói tiếng Pháp với bố, tiếng Anh với mẹ. Khi cả ba người nói chuyện, khi dùng tiếng Anh khi thì tiếng Pháp.
- Thế nhưng mình chưa dám nói. Bây giờ mình có thể nói với ông ấy điều đó chứ?
- Được thôi! Nếu bạn thấy người ta cần đến một cô gái nghèo khổ như mình.
- Vấn đề ở đây không phải là cô gái nghèo khổ hay cô tiểu thư! Điều cần thiết là phải biết rõ câu có nói được tiếng Anh không?
- Mình nói được! Nhưng dịch những lá thư giao dịch thì lại là chuyện khác!
- Đó là với người khác, chứ còn ông Môngblơ thì không hẳn thế! Ông rất thạo cái công việc ấy mà!
- Có thể thế. Vậy thì bạn hãy nói với ông ấy là mình sẽ rất sung sướng được làm một việc gì đó giúp ông Benđi.
- Mình sẽ nói với ông ấy!
Con cá tuy to, nhưng hai cô đã ăn hết nhẵn. Mớ xá lách xoong cũng không còn ngọn nào. Đến ăn tráng miệng, Perin đứng lên. Em thay ngọn là đựng cá bằng ngọn lá sung có hình dáng chiếc ly sâmbanh có vân và được tráng nước men rất đẹp. Perin đem quả nhót ra mời bạn:
- Hãy nếm thử quả cây trong vườn! Perin vừa nói, vừa cười như em đang chơi với búp bê.
- Vườn của bạn? Ở đâu kia?
- Trên đầu chúng ta ấy mà! Cây nhót mọc trên cành một cây liễu làm cột cho túp lều!
- Cậu biết không? Cậu không còn được ở lâu trong nhà của cậu nữa đâu?
- Cho đến mùa đông, mình nghĩ thế!
- Đến mùa đông ư? Mùa săn bắn trên đầm lấy sắp bắt đầu rồi mà! Chắc là người ta sẽ cần túp lều!
- Thế ư! Trời ơi!
Bữa cơm đang vui, bỗng kết thúc bằng mối đe dọa ghê sợ! Đêm hôm ấy, hẳn là cái đêm buồn nhất của Perin từ dạo em ở trên hòn đảo của em!
- Rồi mình sẽ đi đâu đây?
Và tất cả những dụng cụ Perin đã bỏ bao nhiêu công sức để góp nhặt, sẽ xử trí như thế nào?
Phần V
Được tin cậy
Perin trở về xưởng, tiếp tục cái công việc của em. Sau hai giờ mấy phút, đi qua chỗ Chân Tháp, bố tóm lấy em, bảo:
- Đến bàn giấy nhanh lên!
- Để làm gì?
- Đâu phải chuyện của tôi! Người ta bảo tôi cho cô đến đó! Cô đi đi!
Perin không hỏi gì thêm. Trước hết hỏi bố Chân Tháp là một việc vô ích! Với lại, em cũng đoán biết người ta đang cần em để làm gì rồi. Thế nhưng, em cũng chưa hiểu rõ, nếu để làm việc với ông Môngblơ về một bản dịch khó thì người ta phải gọi em đến bàn giấy để mọi người có thể nhìn thấy em, và vì thế, hiểu rằng người ta đang cần em hay sao? Đứng trên tam cấp thấy Perin đến, ông Taluen gọi:
- Hãy đến đây, cô bé!
Em vội vàng leo lên tam cấp.
- Có đúng là cô nói được tiếng Anh? Ông ta hỏi. Hãy trả lời tôi! Đừng có nói dối.
- Mẹ cháu là người Anh.
- Còn tiếng Pháp. Cô nói tiếng Pháp cũng chẳng lúng túng gì!
- Bố cháu là người Pháp.
- Thế cô nói được cả hai thứ tiếng?
- Vâng, thưa ông.
- Tốt! Cô sẽ đi Xanh Pipô. Ở đó, ông Vunphran đang cần cô!
Nghe cái tên ấy, Perin lộ vẻ ngạc nhiên khiến ông quản đốc phật ý. Perin đã có thời gian để trấn tĩnh và tìm được câu trả lời để giải thích sự ngạc nhiên của mình:
- Cháu không biết Xanh Pipô ở đâu cả!
- Người ta sẽ cho xe đưa cô đi! Cô không sợ lạc đâu!
Đứng trên tam cấp, ông gọi:
- Guydôm!
Chiếc xe của ông Vunphran đến gần, Perin đã trông thấy nó nằm trong bóng mát, dọc các buồng làm việc.

- Đây là cô gái ấy đấy, - Taluen  nói – Anh đưa cô ta đến gặp ông Vunphran, nhanh lên!
Perin đã xuông khỏi tam cấp, định leo lên ngồi bên cạnh Guydôm, nhưng anh ta lấy tay ngăn lại:
- Không phải chỗ ấy – Anh ta nói – Phía sau đây!
Thật vậy, có một chiếc ghế nhỏ cho một người ngồi ở phía sau. Perin lên ngồi và chiếc xe ngựa đi rất nhanh. Ra khỏi làng, vẫn cho xe ngựa đi nhanh, Guydôm quay về phía Perin:
- Có thật là cô biết tiếng Anh không? – Anh ta hỏi.
- Vâng.
- Cô sẽ gặp may nếu làm vừa lòng ông chủ!
Perin bạo gan đưa ra một câu hỏi:
- Tại sao thế, hở chú?
- Vì ông chủ đang tiếp bọn công nhân Anh. Họ vừa đến để lắp một cái máy mà ông chủ không thể làm cho họ hiểu ông được! Ông cho mời ông Môngblơ đến. Ông này nói tiếng Anh, nhưng tiếng Anh của ông Môngblơ không phải tiếng Anh của những thợ máy. Bọn họ cãi nhau mà không hiểu được nhau. Ông chủ phát điên lên, thật là cười chết đi được! Cuối cùng, ông Môngblơ không làm gì được và hy vọng làm dịu ông chủ, ông ta nói ở phân xưởng suốt có cô Ôrêli nói được tiếng Anh. Ông chủ cho tôi đi đón cô.
Im lặng một lát, anh tay quay về phía Perin:
- Cô nên biết nếu cô nói tiếng Anh cũng như ông Môngblơ thôi thì tốt hơn hết là cô xuống xe ngay!
Anh ta có vẻ chế nhạo:
- Tôi có phải dừng xe không ạ?
- Chú có thể đi tiếp!
- Những điều tôi vừa nói là để giúp cô…
- Cám ơn chú.
Mặc dù Perin tỏ ra cứng cỏi, trong lúc trả lời, nhưng em không khỏi hồi hộp. Tim em như bị bóp nghẹt thở vì mặc dù em rất tin ở tiếng Anh của em, em cũng không biết thứ tiếng của mấy anh thợ máy! Thứ tiếng ấy không phải là thứ tiếng của ông Môngblơ như Guydôm nói đùa. Em cũng hiểu mỗi nghề có ngôn ngữ riêng của nó, hay ít nhất cũng có những danh từ về kĩ thuật. Còn em thì chưa bao giờ nói cái ngôn ngữ của máy móc. Khi em không hiểu, em do dự, rồi ông Vunphran có giận em như đã giận ông Môngblơ không?
Họ đã đến gần những xưởng máy ở Xanh Pipô, đã nhìn thấy những ống khói cao, tỏa khói mù mịt trên mấy ngọn cây dương. Perin biết ở Xanh Pipô người ta kéo sợi và dệt như ở Marôcua. Ở đây, người ta còn sản xuất dây thừng và dây phi xen gai. Nhưng biết hay không biết việc ấy, em cũng phải được nghe nói, và được nói mới khỏi lúng túng.
Khi đi qua đường vòng. Perin lấymắt nhìn bao quát những ngôi nhà nằm rải rác trong đồng cỏ. Em thấy hình như dù không có bề thế như những ngôi nhà ở Marôcua, thì nhà cửa ở đây cũng đáng kể. Chiếc xe đã vượt qua cổng ra vào, dừng lại ở mấy buồng giấy.
- Cô đi với tôi! – Guydôm nói.
Anh đưa cô bé vào một buồng có ông Vunphran đang trao đổi với ông quản đốc ở Xanh Pipô. Cầm chiếc mũ trên tay, anh nói:
- Thưa ông chủ, cô gái đã đến!
- Tốt lắm! Hãy để mặc chúng tôi!
Không nói gì với Perin, ông Vunphran ra hiệu cho ông quản đốc đến bên ông. Ông nói khẽ với ông ấy. Ông này cũng trả lời bằng cách ấy! Perin có đôi tay rất thính. Em nghe ít vẫn hiểu là ông Vunphran đang hỏi về em và ông quản đốc trả lời: “Một cô bé độ mười hai, mười ba tuổi, có vẻ không đần độn chút nào!”
- Hãy đến gần đây cháu!
Perin nghe ông Vunphran nói với cái giọng to như ông đã dùng khi nói chuyện với Rôdali. Cái giọng này khác hẳn giọng ông nói với những nhân viên của ông. Khi được khuyến khích, Perin thấy vững lòng trong khi còn đang bối rối vì xúc động.
- Cháu tên gì? – Ông Vunphran hỏi.
- Thưa ông cháu tên là Ôrêli.
- Bố mẹ cháu là ai?
- Bố mẹ cháu không còn nữa!
- Cháu làm việc ở đây được bao lâu rồi!
- Thưa, ba tuần.
- Cháu từ đâu đến?
- Thưa, từ Paris đến.
- Cháu nói được tiếng Anh chứ?
- Vâng, mẹ cháu là người Anh.
- Vậy là cháu biết tiếng Anh?
- Thưa ông, cháu dùng tiếng Anh trong khi nói chuyện và hiểu được tiếng Anh khi người ta nói, nhưng…
- Thôi, đừng có nhưng mà, nhưng miếc gì! Hãy nói cháu biết tiếng Anh hay không biết?
- Cháu không biết thứ tiếng của các nghề nghiệp trong đó có những từ mà cháu không hiểu.
- Ông thấy không ông Bônoa – Ông chủ nói với ông quản đốc. Điều con bé nói đó chứng tỏ nó không phải là ngu dại.
- Tôi xin đảm bảo với ông là cô bé chẳng có vẻ đần độn tí nào!
- Thế thì có lẽ chúng ta sẽ dùng nó được phần nào!
Ông Vunphran chống gậy đứng lên và nắm cánh tay ông quản đốc:
- Cháu hãy đi theo các bác đây!
Bình thường đôi mắt của Perin biết nhìn và ghi nhớ những gì đã thấy; nhưng trên đoạn đường em đi sau ông Vunphran, em chỉ nhìn vào nội tâm của em. Không biết sẽ thế nào đây, cuộc đàm thoại với mấy người thợ máy Anh? Khi đến trước một ngôi nhà to lớn mới được xây dựng bằng gạch men trắng và xanh, Perin nhìn thấy ông Môngblơ đang đi dạo ngang, dọc một cách bực bội. Em cảm thấy ông đưa mắt về phía em, với một cái nhìn chẳng thiện cảm tí nào!
Họ đi vào nhà và leo lên tầng một. Ở đó, giữa một gian phòng rộng, có những thùng lớn bằng gỗ trắng nằm trên sàn. Những hàng chữ có nhiều màu sắc với mấy cái tên Matter Platte, Manchester lặp lại khắp nơi trên các thùng gỗ. Mấy người thợ máy người Anh ngồi trên một thùng ấy. Qua y phục, Perin nhận thấy họ có vẻ đàng hoàng. Họ mặc comlê bằng da, gài móc bạc nơi càvạt. Điều đó làm em hy vọng em có thể hiểu họ dễ dàng hơn là nói chuyện với những người thợ thô bạo. Họ đứng dậy, khi ông Vunphran bước vào. Thế là ông ta quay về phía Perin, bảo:
- Cháu nói với họ là cháu nói được tiếng Anh. Họ có thể trao đổi với cháu.
Perin làm như ông Vunphran đã bảo. Qua mấy từ đầu, em sung sướng được thấy nét nhăn nhó của mấy chú thợ tươi lên. Thật ra, đó chỉ là một câu trong đối thoại thông thường nhưng nụ cười của họ cũng báo một điềm tốt.
- Bọn thợ đã hiểu hoàn toàn.
- Thế thì bây giờ, ông Vunphran nói – cháu hỏi họ tại sao họ đến trước thời hạn quy định tám ngày. Vì thế, ông kỹ sư điểu khiển họ và nói được tiếng Anh vắng mặt.
Perin dịch trung thành câu hỏi ấy rồi dịch liên tiếp các câu trả lời của một người trong bọn họ:
- Họ nói là họ vừa lắp những cái máy ấy ở Cambre nhanh hơn là họ tưởng và họ đi thẳng đến đây chứ không trở về nước Anh.
- Họ lắp máy cho ai ở Cambre? Ông Vunphran hỏi.
- Cho anh em ông Avơlin.
- Những máy ấy là máy gì?
Câu hỏi đặt ra và câu trả lời bằng tiếng Anh khiến Perin ngập ngừng. Ông Vunphran nôn nóng, hỏi ngay:
- Tại sao cháu do dự?
- Vì đó là một từ chuyên môn mà cháu không biết.
- Cháu hãy nói cái từ đó bằng tiếng Anh.
- Hai-drô-líc men-gô (1).
- Ừ, đúng đấy!
Ông Vunphran nhắc lại cái từ tiếng Anh ấy với cách phát âm khác các chú thợ. Điều ấy giải thích vì sao ông ta không hiểu các chú khi họ phát âm những từ ấy. Ông nói với ông quản đốc.
- Ông thấy đấy, anh em Avơlin đã đi trước chúng ta! Chúng ta không thể để mất thời gian. Tôi sẽ gọi điện cho Phabry về gấp. Trong khi chờ đợi, chúng ta phải khiến cho mấy anh thanh niên này bắt tay ngay vào công việc! Này cháu, cháu hỏi họ tại sao họ lại khoanh tay ngồi chơi?
Perin dịch câu hỏi. Một người, có lẽ là đoàn trưởng trả lời bằng một tràng dài.
- Họ bảo thế nào? Ông Vunphran hỏi.
- Họ trả lời những điều quá rắc rối đối với cháu!
- Dù sao, cháu cũng phải cố gắng giải thích cho bác nghe.
- Họ nói là cái dầm nhà không chắc chắn để đặt những cỗ máy nặng 120.000 livrơ (2) của họ.
(1) Máy cán chạy bằng hơi nước.
(2) Li-vơ ( livre ): nửa kilôgam.
Perin dừng lại để hỏi tốp thợ bằng tiếng Anh.
- Oan hân-drét em thoen-ti (1)
- Dét (2).
- Đúng là 120.000 livrơ và cái trọng lượng ấy sẽ làm sạp dầm nhà, khi máy chạy.
- Xà đổ dầm dày 60 xăngtimét. Ông Vunphran nói.
Perin chuyển lời và dịch lại:
- Họ nói đã kiểm tra mặt bằng của dầm nhà và thấy nó dễ bị oằn. Họ yêu cầu tính toán lại sức chịu đựng của sàn nhà hoặc là đặt lại những trụ chống dưới dầm.
- Việc tính toán ấy, khi Phabry về, sẽ làm. Những cái trụ chống, chúng tôi sẽ cho đặt ngay. Cháu hãy nói với họ như thế. Họ hãy bắt tay ngay vào công việc đừng để lãng phí phút nào. Chúng ta sẽ cho họ tất cả những người thợ mà họ cần đến: thợ nề, thợ mộc… Họ muốn gì chỉ cần nói với cháu. Bây giờ, cháu ở dưới quyền sử dụng của họ. Cháu sẽ chuyển những đề nghị của họ cho ông Bônoa.
Perin dịch lại những lời chỉ dẫn cho những người thợ. Họ tỏ vẻ hài lòng khi nghe nói em sẽ là người phiên dịch cho họ.
(1) tiếng Anh “một trăm hai chục”
(2) tiếng Anh “Đúng”
- Cháu ở lại đây, ông Vunphran tiếp tục. Người ta sẽ cho cháu một cái phiếu để cháu có bữa ăn và chỗ ngủ trong quán, không phải trả tiền. Nếu người ta bằng lòng về cháu, cháu sẽ nhận được tiền thưởng. Khi ông Phabry về.
Làm phiên dịch, cái nghề này có giá trị hơn nghề đẩy xe rùa. Với địa vị ấy, sau ngày làm việc, Perin đưa tốp thợ máy đến quán trọ ở trong làng. Em chọn cho họ và cho em một phòng ở trong quán. Ai cũng có một gian buồng mà họ cảm thấy như ở nhà riêng. Bọn thợ vì không hiểu và không tiếng Pháp, nên muốn Perin cùng ăn với họ, do đó, họ có thể đặt một bữa trưa đủ cho một chục người Pica dùng. Bữa trưa có nhiều thịt, khác xa bữa tiệc chiều hôm qua, khá thịnh soạn, mà Perin đã dọn mời Rôdali.
Đêm hôm ấy, em nằm dài trên cái giường, thật đúng là một cái giường và chăn nệm cũng đúng là chăn nệm! Thế nhưng rất lâu, phải rất lâu, giấc ngủ mới đến! Khi mi mắt em đã khép lại, giấc ngủ trằn trọc còn làm cho em bừng tỉnh, hàng trăm lần Perin cố gắng làm cho tinh thần dịu bớt trong lúc tự nhủ cứ theo dõi diễn biến của sự việc chứ không cần đoán xem có thuận lợi hay không. Chỉ có cách ấy là hợp lý. Khi mọi việc, có vẻ như đi theo một chiều hướng khá thuận lợi mà sao em lại tự hành hạ mình như vậy! Chung quy, còn phải chờ đã chứ! Nhưng những lời thuyết lý hay ho nhất, khi mình tự nói cho mình nghe, có bao giờ làm cho mình ngủ được đâu! Khi những lý thuyết ấy càng đẹp đẽ, chúng lại càng có khả năng làm cho chúng ta mất ngủ!
Sáng hôm sau, khi nghe còi nhà máy. Perin đã gõ cửa buồng hai người thợ lắp máy để báo cho họ biết đã đến giờ. Nhưng những công nhân nước Anh không nghe lệnh tiếng còi cũng như tiếng chuông, ít nhất là ở trên đất liền. Sau khi họ làm vệ sinh và uống khá nhiều tách trà với những miếng rôti ngon lành phết nhiều bơ, họ mới đi làm việc. Perin theo họ, rất tế nhị, đợi họ ở cửa. Em tự hỏi khi nào thì họ mới xong việc ăn uống và ông Vunphran có đến xưởng trước họ không?
Ông Vunphran đến vào buổi chiều hôm ấy! Ông Casimia, người cháu trẻ tuổi đi theo ông vì ông mù, không trông thấy, nên phải có người trông thấy thay ông. Casimia đưa mắt khinh bỉ nhìn công việc của bọn thợ lắp máy, bây giờ còn đang ở khâu chuẩn bị.
- Có lẽ tụi thanh niên này chẳng làm được việc gì khi Phabry chưa trở về. Anh ta nói. Vả lại, chuyện ấy chẳng có gì đáng ngạc nhiên với người giám thị mà cậu đã phái đến với bọn chúng!
Anh ta nói những lời cuối bằng một giọng khô khốc và chế nhạo, nhưng ông Vunphran đã không đồng tình với sự chế nhạo ấy nên nói:
- Nếu anh đảm nhận việc giám thị ấy thì cậu đã chẳng phải điều cô bé này từ xưởng suốt đến đây!
Perin thấy anh ta khựng lại, có vẻ tức tối, khi nghe lời nhận xét này với một giọng nghiêm khắc. Casimia đã tự kiềm chế, để trả lời gần như nhẹ nhàng:
- Nếu cháu biết trước có ngày cháu phải bỏ việc hành chính để chuyển qua kỹ nghệ thì cháu đã học tiếng Anh và không học tiếng Đức.
- Để học thì không bao giờ muộn cả!

Ông Vunphran đáp lại để chấm dứt cuộc tranh luận mà ở mỗi bên, những lời lẽ thốt ra quá nhanh! Perin cố thu mình lại cho thật nhỏ bé, trong khi cậu cháu họ đối đáp nhau. Em không dám cựa quậy nhưng Casimia không thèm đưa mắt về phía em và ngay sau đó, anh ta đi ra, đưa tay dìu ông cậu. Bây giờ, Perin mới được tự do để theo dòng suy nghĩ của mình. Ông Vunphran thật là nghiêm khắc với cháu ông. Nhưng mà người cháu ấy cũng lạnh lùng, khô khốc và dễ ghét quá! Họ có thương yêu nhau không? Tại sao anh thanh niên lại không dịu dàng, thân ái với ông già đang buồn phiền về bệnh tật hành hạ? Tại sao ông già lại nghiêm khắc đến thế, đối với một trong những người đang thay thế con trai ông, bên cạnh ông? Trong lúc đầu óc Perin loay hoay với những câu hỏi ấy thì ông Vunphran trở vào xưởng. Lần này, ông quản đốc dắt ông. Ông ta để ông chủ ngồi trên một cái thùng đựng hàng hóa rồi báo ông hay công việc của tốp thợ lắp máy đến đâu. Lát sau, Perin nghe ông quản đốc gọi hai lần:
- Ôrêli! Ôrêli!
Nhưng em không nhúc nhích. Em đã quên cái tên Ôrêli mà em tự đặt. Lần thứ ba ông hét:
- Ôrêli!
Thế là em giật mình, sực tỉnh, chạy đến bên họ:
- Em có điếc không? – Bơnoa hỏi
- Không, thưa ông, cháu đang nghe mấy chú thợ lắp máy nói.
- Ông có thể để tôi ở lại. – Ông Vunphran nói với ông quản đốc.
Khi ông này đi khỏi, ông Vunphran hỏi Perin, đang đứng trước mặt ông ta:
- Cháu biết đọc chứ?
- Thưa ông, biết ạ.
- Đọc tiếng Anh?
- Cũng như tiếng Pháp. Tiếng Anh hay tiếng Pháp đối với cháu đều giống nhau.
- Nhưng cháu có biết đọc tiếng Anh và dịch ra tiếng Pháp không?
- Khi không có những câu văn hoa. Vâng! Thưa ông!
- Dịch những tin tức trong một tờ báo chẳng hạn?
- Cháu chưa hề làm thử như thế! Khi cháu đọc một tờ báo tiếng Anh, cháu không cần dịch ra tiếng Pháp vì cháu đã hiểu nội dung rồi.
- Nếu cháu hiểu thì hẳn cháu dịch được chứ!
- Cháu nghĩ rằng có thể được! Thưa ông, nhưng cháu không dám tin chắc lắm.
- Thế thì chúng ta hãy thử xem, trong lúc những người thợ lắp máy làm việc.
Ông Vunphran đưa cho Perin tờ báo của ông, tờ tin tức.
- Thưa ông, cháu cần đọc gì đây? – Perin vừa hỏi vừa mở tờ báo.
- Cháu hãy tìm phần Thương mại.
Mắt Perin như lạc lối trong những cột báo dài, đen ngòm, nối đuôi nhau. Hồi hộp, em tự hỏi làm thế nào mà xoay xở trong cái công việc khá mới mẻ này! Nếu ông Vunphran bực mình, vì thấy em chậm chạp, hay nổi giận vì thấy em vụng về, thì sao? Nhưng đáng lẽ la rầy Perin, ông lại trấn an cô bé. Với lỗ tai rất thính của người mù nghe tờ giấy run lên, ông đã đoán được nỗi hồi hộp của Perin.
- Đừng vội vàng, cháu ạ! Chúng ta có đủ thời gian mà! Với lại chắc cháu chưa bao giờ đọc một tờ báo thương mại?
- Thưa ông, đúng thế!
Perin tiếp tục tìm kiếm. Bỗng em kêu lên khe khẽ.
- Cháu tìm thấy rồi ư?
- Cháu cũng nghĩ thế, thưa ông.
- Bây giờ cháu tìm cột: Linen(1), hemp(2), jute(3), sacks(4), tuine(5).
- Nhưng thưa ông, ông biết tiếng Anh đấy mà! – Perin vô tình reo lên.
- Năm, sáu tiếng của nghề nghiệp! Chỉ có thế thôi! Khốn thay!
Khi Perin đã tìm thấy, em bắt đầu dịch. Em thất vọng khi thấy mình dịch quá chậm, em ngập ngừng, ấp úng. Mồ hôi ướt cả hai bàn tay. Ông Vunphran thỉnh thoảng lại khuyến khích em:
- Thế là đủ rồi! Bác hiểu mà! Cháu cứ tiếp tục!
(1) Linen: vải lanh
(2) Hemp: cây gai
(3) Jute: cây đay
(4) Sacks: bao tải
(5) Tuine: sợi xe, dây bện.
Rồi Perin tiếp tục, cất cao giọng cả khi tiếng búa của những người thợ máy đe dọa át cả tiếng của em. Cuối cùng em đã đọc xong tờ báo.
- Bây giờ cháu tìm xem có tin tức gì ở Cancútta.
- Vâng, có đây. “Do thông tín viên đặc biệt của báo chúng tôi”.
- Đúng đấy, cháu đọc đi.
- Những tin tức chúng tôi nhận được ở Đava…
Perin run lên khi đọc cái tên ấy, khiến ôn Vunphran chú ý.
- Tại sao cháu run thế? – Ông hỏi.
- Cháu cũng chẳng hiểu cháu có run không. Có lẽ vì cảm động.
- Bác đã bảo cháu đừng bối rối mà! Cháu đã giúp bác quá mức bác chờ đợi rồi!
Perin dịch bài viết của thông tín viên ở Đava, về vụ thu hoạch đay trên bờ sông Bramaputra. Khi dịch xong, ông Vunphran bảo em tìm mục Tin tức đường biển xem có thấy một bức điện từ Xanh Hêlêna hay không.
- Xanh Hêlêna đó là tên tiếng Anh. – Ông nói.
Perin trở lại với cột báo đen ngòm, cái cột này thì bắt đầu từ trên xuống, cột tiếp theo thì dò từ dưới lên. Cuối cùng, cái tên Xanh Hêlêna đập vào mắt em.
- Qua ngày 23, tàu Anh Anma từ Cancútta đến Đunđơ. Ngày 24, tàu Nauy Grumđlôven từ Naranhgô đến Bulônhơ.
Ông Vunphran tỏ vẻ hài lòng:
- Tốt lắm! – Ông nói – Bác rất hài lòng về cháu!
Perin muốn trả lời, nhưng em sợ giọng nói của em để lộ sự xúc động vì niềm vui. Em im lặng.
Ông Vunphran nói tiếp:
- Bác thấy là trong khi chờ đợi ông Benđi khốn khổ ấy lành bệnh, cháu có thể giúp bác!
Sau khi ông Vunphran nghe báo cáo công việc của mấy anh thợ máy và đã dặn dò họ phải làm việc thật khẩn trương, ông bảo Perin đưa ông trở về bàn giấy ông quản đốc.
- Cháu có phải nắm tay ông không? – Perin rụt rè hỏi.
- Có chứ! Không nắm tay bác thì cháu làm sao mà dắt bác được! Khi thấy có vật gì trên đường đi, cháu hãy tin cho bác hay, đừng lơ đễnh nghe cháu!
- Ôi, cháu xin đảm bảo, thưa ông. Xin ông tin cháu!
- Cháu thấy rõ là bác đã có niềm tin ấy!
Perin lễ phép nắm bàn tay trai của ông Vunphran. Ông dùng tay phải đưa chiếc gậy sờ soạng khoảng đường trước mắt. Vừa ra khỏi xưởng, họ gặp còn đường sắt với những đường ray nhô lên ở trước mắt họ. Perin nghĩ rằng em phải báo cho ông Vunphran hay.
- Về cái ấy, chẳng cần đâu cháu ạ! – Ông nói – Bác có đám đất của tất cả các xưởng của bác trong cái đầu và đôi chân này! Nhưng cái mà bác không biết, đó là những chướng ngại vật bất ngờ mà chúng ta có thể gặp!
Ấy những thứ đó thì cháu phải tin cho bác hay và giúp bác tránh!
Trong đầu óc ông Vunphran không phải chỉ có mảnh đất các nhà máy của ông. Ông còn nhớ những nhân viên của ông nữa! Khi đi qua mấy cái sân, thợ thuyền chào ông. Không phải họ chỉ cất mũ như là ông có thể nhìn thấy họ, mà còn nhắc tên ông:
- Kính chào ông Vunphran
Với số đông, ít nhất là những người cũ, ông cũng phải trả lời cái kiểu ấy: “Chào Dắc” hay “chào Patxcan!” tai của ông không quên giọng nói của họ. Khi ông nhớ chưa ra, điều ấy rất ít xảy đến vì ông biết gần hết bọn họ, ông dừng lại:
- Có phải anh đấy không? – Ông nói khi gọi tên anh ta. Nếu ông nhầm, ông giải thích lý do.
Ông Vunphran đi thong thả như thế cho nên phải khá lâu mới đến bàn giấy. Khi Perin muốn đón ông nhưng không thể được! Em đang bận dịch những lời chỉ dẫn của chú đoàn trưởng lắp máy cho những người thợ đã tập hợp được: thợ mộc, thợ nề, thợ rèn, thợ máy. Em dịch cho từng người những lời mà em nhận được, rõ ràng, không lặp lại, dứt khoát. Trong lúc đó, em nhắc lại những câu hỏi, những thắc mắc của nhóm thợ Pháp với chú ấy.
- Ông Vunphran đã đến gần. – Người ta ngừng nói. Ông lấy gậy ra hiệu họ cứ tiếp tục như là không có mặt ông ở đó. Trong lúc Perin vâng lời, làm theo mệnh lệnh ấy, ông Vunphran nghiêng về phía ông quản đốc.
- Ông có biết không, cô bé này sẽ là một kỹ sư xuất sắc trong tương lai, ông nói nhỏ, nhưng Perin cũng đã nghe được.
- Quả vậy! Tính quyết đoán của nó thật lạ!
- Và còn nhiều điểm lạ nữa chứ! Tôi nghĩ thế. Hôm qua dịch tin tức cho tôi nghe, em còn thông minh hơn Benđi nữa kia. Vậy mà đó là lần đầu tiên em đọc tin Thương mại của một tờ báo đấy nhé!
- Có ai biết bố mẹ em làm gì không?
- Có thể Taluen biết đấy. Tôi thì mù tịt.
- Dù sao hình như em cũng đang ở trong hoàn cảnh đói nghèo quá đáng!
- Tôi muốn nói đến y phục của em. Áo vét của em là một thứ đăng ten. Tôi chưa bao giờ thấy một cái váy như của em, đúng là váy của bọn múa, hát rong mặc. Chắc chắn là đôi dép em tự làm lấy!
- Còn diện mạo của em thì như thế nào hở Bơnoa?
- Thông minh! Rất thông minh!
- Có gian dối không?
- Không, chẳng có vẻ gì như thế. Trái lại, lương thiện và cương quyết. Đôi mắt đó có thể soi thủng một bức tường, tuy vậy vẫn dịu dàng và có đôi chút hoài nghi.
- Nó ở chỗ quái nào mà đến với chúng ta vậy?
- Chẳng phải là ở vùng chúng ta, chắc chắn là thế!
- Em ấy nói với tôi mẹ em là người Anh.
- Tôi không tìm thấy ở em bé này một chút gì của những người Anh mà tôi được biết. Khác lắm, khác vô cùng! Mà lại rất xinh. Bộ quần áo càng tồi tàn càng làm nổi bật vẻ đẹp của em. Em phải có một khiếu đồng cảm hay một quyền lực trời cho nên bọn thợ của chúng ta mới chịu nghe lời em trong bộ quần áo như thế!
Bơnoa không bao giờ bỏ qua một cơ hội nịnh ông chủ, người nắm danh sách ban thưởng cho nên nói tiếp:
- Không nhìn thấy em bé, ông vẫn đoán được tất cả những điều ấy hay sao?
- Giọng nói của em làm tôi chú ý!
Tuy không nghe hết câu chuyện ấy, Perin cũng đã để lọt tai một đôi tiếng, những tiếng đó khiến em xúc động mạnh. Em phải cố gắng giữ bình tĩnh. Không phải em cần nghe những điều người ta nói ở sau lưng em, tuy rất có ích cho em. Em cần phải nghe tốp thợ máy và các thợ khác nói. Ông Vunphran sẽ nghĩ thế nào đây khi em giải thích bằng tiếng Pháp mà có những vụng dại tỏ ra em đã lơ đễnh. May mắn thay, em đã dịch xong những lời chỉ dẫn – Vừa lúc ấy, ông Vunphran gọi em.
- Ôrêli!
Lần này, em đã trả lời theo cái tên ấy, trong tương lai nó sẽ là cái tên của em. Cũng như hôm qua, ông Vunphran cho em ngồi gần, đưa cho em một tờ giấy để em dịch. Đây không phải là tờ Tin tức mà là tờ Thông đạt về việc “Buôn bán trao đổi và sự kết hợp” như là tờ thôn cáo chính thức về việc buôn bán đay. Nhưng không phải tìm ở chỗ này, chỗ nọ mà em phải dịch từ đầu đến cuối. Cũng như hôm trước, khi em dịch xong, ông lại bảo em đưa ông đi qua mấy cái sân của nhà máy, nhưng lần này là để hỏi chuyện em.
- Cháu nói mẹ cháu vừa mất, cách đây bao lâu vậy?
- Năm tuần.
- Ở Paris?
- Ở Paris.
- Còn bố cháu?
- Bố cháu mất cách đây sáu tháng?

Perin cầm tay ông Vunphran trong tay mình. Ông cảm thấy em xúc động, run run. Những kỷ niệm được gợi lên thật là xót xa! Bởi thế, không bỏ dở câu chuyện, ông chuyển qua những câu hỏi cần thiết, từ những câu em vừa trả lời.
- Bố mẹ cháu làm gì?
- Mẹ con cháu có một cỗ xe và mẹ còn cháu bán hàng.
- Ở ngoại Paris?
- Khi ở xứ này, khi ở xứ khác, mẹ con cháu đi xa.
- Khi mẹ cháu mất rồi, cháu đã rời khỏi Paris?
- Vâng, thưa ông.
- Tại sao?
- Bởi vì mẹ cháu bắt cháu hứa không ở lại Paris khi bà không còn nữa! Cháu phải đi về phía Bắc, tìm đến gia đình cha cháu.
- Thế thì tại sao cháu đến đây?
- Trước khi bà mẹ khốn khổ của cháu qua đời, chúng cháu đã phải bán cỗ xe, con lừa, những gì ít ỏi mà mẹ con cháu có. Số tiền ấy mòn dần vì bệnh tình của mẹ cháu. Ra khỏi nghĩa địa, cháu chỉ còn năm phờrăng ba lăm xăngtim. Cháu không có đủ tiền đi xe lửa. Thế là cháu quyết định đi bộ.
Ông Vunphran có một động tác trong các ngón tay, mà Perin không hiểu lý do.
- Xin ông miễn lỗi, nếu cháu làm phiền ông. Có lẽ cháu nói những điều vô ích.
- Cháu không làm phiền bác đâu! Trái lại, bác rất hài lòng được thấy một cô bé dũng cảm. Bác thích những người can đảm, có nghị lực, quyết tâm, những người khôn ngừng phấn đấu. Bác vui thích được gặp những đức tính ấy ở người đàn ông, nhưng lại còn vui thích hơn khi gặp ở một cô bé ở lứa tuổi cháu, mà cũng có những đức tính ấy! Vậy thì cháu lên đường với một trăm linh bảy xu trong túi…
- Và một con dao, một miếng xà phòng, một cái đê, hai cây kim, chút ít chỉ khâu, một bản đồ chỉ đường. Tất cả chỉ có thế!
- Cháu biết sử dụng bản đồ?
- Thưa ông, phải biết chứ? Khi xe lăn bánh đó đây trên những con đường lớn! Đó là tất cả những gì cháu đã cứu được trong mớ đồ đạc của cỗ xe của mẹ con cháu.
Ông Vunphran ngắt lời:
- Về phía tay trái chúng ta có một cây to phải không cháu?
- Với một cái ghế dài! Vâng! Thưa ông.
- Hãy đến đó! Bác cháu chúng ta ngồi trên ghế ấy, nói chuyện sẽ thoải mái hơn.
Khi hai người ngồi xuống, Perin lại tiếp tục câu chuyện của em. Em không cần phải tóm tắt vì em thấy ông Vunphran chú ý lắng nghe. Khi em kể đến đoạn ra khỏi khu rừng và gặp cơn giông, ông hỏi:
- Cháu không nghĩ đến việc ngửa tay xin người ta sao?
- Không, thưa ông! Không bao giờ!
- Thế thì cháu chờ mong cái gì khi cháu đã thấy cháu không tìm được việc làm?
- Không chờ mong gì hết, thưa ông! Cháu hy vọng và cứ đi trong khi cháu còn đủ sức và chắc là rồi sẽ có thể tự cứu mình. Đến khi kiệt sức, cháu mới buông xuôi, bởi vì cháu không còn chút sức lực nào nữa. Nếu trước đó một tiếng, cháu ngã xuống thì chắc cháu nguy rồi!
Thế rồi, em kể em đã khỏi cơn choáng như thế nào, nhờ con lừa liếm mặt. Bà bán giẻ rách đã cứu giúp em ra sao. Rồi em lướt nhanh qua cái thời gian em ở với La Rucơri. Em đã kể đến cuộc gặp gỡ với Rôdali.
- Trong khi trò chuyện, - Perin nói, cháu được biết trong các nhà máy của ông, người ta nhận tất cả những ai đến xin việc! Cháu quyết định đến xin ra mắt. Người ta cho cháu vào xưởng suốt.
- Khi nào cháu lại lên đường?
- Không đợi chờ câu hỏi ấy, nên Perin lúng túng.
- Nhưng cháu cũng chưa nghĩ đến chuyện lại ra đi. Em trả lời, sau một phút suy nghĩ.
- Thế còn những người bà con của cháu?
- Cháu chưa biết được họ! Cháu không hiểu họ có đón tiếp cháu tử tế không bởi vì họ giận bố cháu. Cháu đến với họ bởi vì cháu chẳng còn ai để nương tựa nhưng chẳng biết họ có muốn đón cháu không? Ở đây, cháu có công ăn, việc làm, cháu nghĩ cháu ở đây tốt hơn! Cháu sẽ như thế nào đây nếu người ta, những bà con ấy, xua đuổi cháu? Ở đây, cháy được bảo đảm khỏi chết đói; cháu rất sợ vượt qua những cuộc phiêu lưu mới. Cháu chỉ mạo hiểm khi nào cháu thấy có những thuận lợi về phía cháu.
- Những người bà con ấy có bao giờ quan tâm đến cháu không?
- Chưa bao giờ!
- Thế thì cháu thận trọng là đúng! Thế nhưng nếu cháu không muốn mạo hiểm đến gõ một cánh cửa khép kín và để cháu đứng ở ngoài, tại sao cháu không viết thư cho những người bà con của cháu, hoặc cho ông xã trưởng hay ông cha xứ ở làng cháu? Có thể những người bà con ấy không có khả năng cưu mang cháu thì cháu ở đây vậy, nơi mà cuộc sống của cháu được bảo đảm. Nhưng cũng có thể họ sẽ sung sướng mở rộng cánh tay đón cháu, và thế là cháu tìm được ở đó tình thương, sự chăm sóc, một chỗ tựa mà nếu cháu ở đây, cháu không có được! Cháu phải biết, đối với một cô gái, ở lứa tuổi cháu, trơ trọi trên đời, thì cuộc sống không những rất khó khăn mà còn buồn tẻ nữa.
- Vâng, thưa ông, rất buồn! Cháu cũng biết vậy. Ngày nào cháu cũng cảm thấy thế. Cháu cam đoan với ông, nếu cháu tìm được những cánh tay mở rộng, cháu sẽ rất sung sướng nhào vào ngay! Nhưng chỉ sợ những cánh tay ấy cũng khép lại với cháu, như trước kia, đối với cha cháu.
- Những người bà con của cháu có những bất bình nghiêm trọng đối với cha cháu không? Bác muốn nói những bất bình chính đáng, sau những sai lầm nghiêm trọng của cha cháu?
- Cháu không nghĩ là do cha cháu, cha cháu rất tốt với mọi người, rất dũng cảm, âu yếm, dị dàng với mẹ con cháu. Cha cháu không lúc nào làm điều xấu! Tuy nhiên, những người bà con ấy giận cha cháu và bất hòa với cha cháu, hình như cũng không phải là không vì những lý do quan trọng!
- Đúng thế! Nhưng những bất bình với cha cháu người ta không thể dành cho cháu! Lỗi lầm của cha không rơi xuống đâu con đâu!
- Ôi! Giá mà được như thế!
Perin thốt ra những từ ấy bằng một giọng quá xúc động, khiến ông Vunphran phải chú ý.
- Cháu thấy đấy, từ đáy lòng, cháu ước mong được họ đón tiếp niềm nở.
- Nhưng cái cháu lo sợ nhất là lại bị xua đuổi!
- Tại sao cháu lại bị xua đuổi chứ? Ông bà cháu có những người con khác, ngoài cha cháu chăng?
- Thưa ông, không có!
- Tại sao họ lại không sung sướng khi cháu đứng vào chỗ con trai đã mất là con của họ? Cháu đâu có biết sống cô đơn là thế nào?
- Ấy thưa ông, điều ấy cháu đã quá hiểu!
- Tuổi trẻ cô đơn còn tương lai ở phía trước, đâu phải cùng một cảnh ngộ và với tuổi già, chỉ còn biết có cái chết!
Ông Vunphran không nhìn thấy Perin nhưng về phần em, em không rời mắt khỏi ông ta. Em cố gắng đọc cho được những tình cảm mà những lời nói của ông đã tiết lộ. Sau khi nghe ông nhắc đến tuổi già cô đơn, Perin quên giữ ý tứ, cứ tìm trên khuôn mặt ông Vunphran cái ý nghĩ trong thâm tâm ông ta.
- Thế thì, ông ta nói sau một phút chờ đợi, cháu quyết định thế nào?
- Xin ông đừng nghĩ là cháu cân nhắc, cháu không trả lời được vì cháu đang xúc động đó thôi! Ôi, nếu cháu có thể tin rằng người ta sẽ đón một con cháu gái của người ta chứ không phải là một con bé xa lạ cần xua đuổi đi nhi?
- Cháu chưa hiểu gì về việc đời, cháu bé khốn khổ ạ! Nên biết tuổi già cũng không thể sống cô đơn và tuổi trẻ cũng thế!
- Có phải tất cả mọi cụ già đều nghĩ như thế không, thưa ông?
- Dẫu họ không nghĩ như thế thì họ cũng cảm thấy thế.
- Ông tin như vậy à? – Perin run rẩy dán đôi mắt vào ông Vunphran.
Ông Vunphran không trả lời thẳng cho Perin nhưng ông nói khe khẽ, như đang thầm nói riêng với mình.
- Phải, phải! Họ cảm thấy thế!
Rồi ông đứng lên đột ngột, như để xua đuổi những ý nghĩ sẽ làm cho ông đau đớn.
- Vào buồng giấy thôi!
- 2 -
Khi nào thì kỹ sư Phabry  trở về. Đó là câu hỏi mà Perin lo ngại tự đặt ra. Đến ngày đó, chấm dứt việc em làm phiên dịch cho tốp thợ máy!
Công việc phiên dịch những tờ tin tức cho ông, Perin có được tiếp tục cho đến khi ông Benđi khỏi bệnh hay không? Đó là một câu hỏi khác còn khiến em lo ngại hơn nữa!
Một buổi sáng thứ năm, Perin đến với tốp thợ máy thì gặp ông Phabry ở xưởng; đang bận rộn kiểm tra những việc đã làm. Rất kín đáo, Perin đứng ở một khoảng cách vừa phải và giữ miệng không chen vào những lời giải thích của họ, nhưng chú trưởng đoàn đã gọi em đến tham dự.
- Không có cô bé này, - chú nói – chúng tôi chỉ còn biết khoanh tay!
Thế là Phabry nhìn em, nhưng không nói gì với em. Trong lúc đó, về phần em, em không dám hỏi em phải làm gì, nghĩa là em phải ở lại Xanh Pipô hay trở về Marôcua.
Trong nỗi băn khoăn ấy, em đã ở lại. Em nghĩ rằng ông Vunphran trước đã cho gọi em đến đây thì chỉ có ông cho ở lại hay trở về.
Ông Vunphran đến xưởng vào giờ quy định. Ông quản đốc đưa ông đến và báo cáo cho ông hay những lời chỉ dẫn của ông kỹ sư và những nhận xét của ông ta. Ông quản đốc nhận thấy ông Vunphran không được hài lòng.
- Thật là bực mình. Cô bé không có ở đây. Ông ta bất bình nói.
- Cô ấy đã có mặt ở đây mà. – Ông quản đốc trả lời và ra hiệu cho Perin lại gần.
- Tại sao cháu không trở về Marôcua?
- Cháu tưởng cháu chỉ rời khỏi đây khi được lệnh của ông. – Em trả lời.
- Cháu nói đúng. – Ông ta nói – Cháu phải ở lại đây để nhận công việc do bác sắp đặt khi bác đến…
Ông ta dừng lại, để rồi nói tiếp ngay:
- Ở Marôcua, bác cũng sẽ cần đến cháu! Chiều nay, cháu về nhé. Sáng mai, cháu đến bàn giấy, bác sẽ nói cho cháu hay công việc của cháu.
Khi Perin đã dịch xong những truyền đạt của ông Vunphran cho tốp thợ máy, ông ra đi. Hôm ấy, không ai nói gì đến chuyện đọc báo. Nhưng mặc kệ, ngày mai đã coi như được bảo đảm thì việc gì phải lo nghĩ về một điều bất như ý trong ngày hôm nay. “Ở Marôcua, bác cũng sẽ cần đến cháu”. Đó là câu mà Perin tự nhắc lại trên đường rời Xanh Pipô, trong lúc ngồi bên anh Guydôm. Người ta sẽ dùng em vào việc gì nhỉ? Trí não của em bay bổng nhưng chẳng bám vào một cái gì vững chắc.
Perin trở về hòn đảo của em và thấy nó gần y như lúc em ra đi. Các đồ dùng vẫn ở vị trí của chúng. Đến mấy con chim cũng tôn trọng những quả chín trên cây liễu, trong lúc em đi vắng. Bữa tối của em lại có thêm một đĩa trái cây mà em không hề nghĩ đến.
Em trở về đây sớm hơn mọi hôm từ xưởng về. Em không muốn đi ngủ sớm, sau bữa cơm tối. Trong lúc chờ đợi đêm đến, em ra ngồi ở phía ngoài lều cỏ, cả buổi chiều hôm trong đám lau sậy. Ở đó, em có thể nhìn rõ hốc đất và hai bờ của nó. Em hiểu dầu em vắng mặt không lâu, thời gian vẫn trôi qua và đem lại những thay đổi đáng lo ngại với em. Trong những cánh đồng, sự im lặng long trọng của những buổi chiều hôm không còn nữa, sự im lặng đã đập mạnh vào em, những ngày đầu khi em dọn về hòn đảo. Lúc ấy ở thung lũng, người ta chỉ nghe trên nước, ở những cây cỏ cao, cũng như dưới chòm lá cây, những cánh chim lướt nhẹ qua, thầm lặng trở về nơi trú trong đêm. Bây giờ thì thung lũng bị xáo động ở xa bởi đủ các tiếng động, tiếng đập của cái phảng, tiếng rít của các trục bánh xe, tiếng roi quất, tiếng nói thì thầm. Đó là những gì em đã nhận xét khi trở về từ Xanh Pipô. Trong cánh đồng, người ta đã bắt đầu cắt cỏ những chỗ dọi nắng, ở đó cỏ đúng độ cắt. Chẳng mấy chốc những người thợ cắt cỏ sẽ đến các cánh đồng ở hốc đất của em. Ở đấy bị rợp bóng, nên cỏ mọc chậm hơn.
Thế thì không còn nghi ngờ gì nữa, em sẽ phải rời khỏi tổ ấm của em. Em không còn được ở đây nữa! Mùa cắt cỏ hay mùa săn bắn cũng đưa lại kết quả giống nhau thôi! Chỉ còn vài ngày nữa ư? Tuy em đã quen với những tấm nệm ấm, những cánh cửa sổ, cánh cửa khép kín, em vẫn nằm ngủ trên giường dương xỉ của em như chưa bao giờ em xa nó. Mãi đến khi mặt trời mọc, em mới tỉnh giấc.
Đến song cổng, em đã đứng trước con đường vào xưởng. Đáng lẽ, em đi theo các bạn để vào xưởng suốt, Perin lại đi về phía các phòng làm việc và tự hỏi em cần làm gì hay đợi? Em quyết định chờ đợi. Người ta sẽ tìm thấy em, bởi vì em đứng trước cửa. Em phải chờ gần một tiếng. Cuối cùng, em thấy Taluen đến. Nghiêm khắc, ông ta hỏi em làm gì ở đây.
- Ông Vunphran bảo cháu: sáng nay đến gặp ông ở buồng giấy!
- Sân không phải là buồng giấy!
- Cháu đợi người ta gọi cháu.
- Đi lên đi!

Em theo ông ta. Đến hàng hiên ông ta ngồi trên một chiếc ghế hai chân xoạc ra hai bên như cưỡi ngựa. Ông lấy tay ra hiệu cho Perin đến trước mặt ông ta.
- Ở Xanh Pipô, cô làm những việc gì?
Perin nói những công việc mà ông Vunphran đã giao cho em.
- Ông Phabry đã nói những điều ngu xuẩn phải không?
- Cháu không biết.
- Thế nào? Cô không biết ư? Thế thì cô không thông minh tí nào?
- Đúng thế, cháu ngu dại lắm!
- Cô rất thông minh đấy! Cô không trả lời cho tôi là vì cô không muốn trả lời đó thôi! Đừng quên cô đang nói chuyện với ai nhé! Ở đây, tôi là gì?
- Ông quản đốc.
- Nghĩa là ông chủ, bởi là ông chủ cho nên cái gì cũng cần phải qua tay tôi! Tôi phải biết tất cả. Những đứa nào không vâng lời tôi, tôi đuổi! Đừng quên điều ấy!
Thật đúng là con người mà thợ thuyền nói đến trong phòng trọ, ông chủ nghiêm khắc, tên bạo chúa muốn tỏ uy quyền của mình trong các xưởng máy, không phải chỉ riêng ở Marôcua, mà còn ở Xanh Pipô, ở Bacua, ở Phơxen. Với ông ta ở khắp nơi, tất cả mọi phương tiện đều tốt để khuếch trương và giữ vững uy quyền của mình ngay bên cạnh ông Vunphran, không những thế mà còn muốn lấn cả ông Vunphran.
Tôi hỏi cô: Ông Phabry đã làm điều gì ngu xuẩn? Taluen hạ thấp giọng nhắc lại.
- Cháu không thể nói với ông điều ấy bởi vì cháu không biết, nhưng cháu có thể nhắc lại những nhận xét là ông Vunphran bảo cháu dịch cho mấy chú thợ máy.
Không sót một chữ, Perin nhắc lại những lời nhận xét ấy.
- Có phải đó là tất cả không?
- Đó là tất cả.
- Ông Vunphran có bảo dịch mấy là thư không?
- Thưa ông, không ạ. Cháu chỉ dịch những đoạn trong tờ Tin tức và dịch cả tờ “Thông đạt về việc buôn bán, trao đổi và sự kết hợp”.
- Cô nên biết, nếu cô không nói sự thật, tất cả sự thật, tôi cũng sẽ biết hết rất nhanh thôi mà! Khi ấy thì… xéo!
Ông nhấn mạnh tiếng cuối cùng bằng một cử chỉ, tuy tiếng ấy đã rất rõ trong sự thô bạo của câu nói.
- Tại sao cháu lại không nói sự thật chứ?
- Đó là tôi đã cho cô một lời cảnh báo trước đấy!
- Cháu xin ghi nhớ, thưa ông, cháu xin hứa với ông điều đó.
- Tốt! Bây giờ hãy đến ngồi trên chiếc ghế kia. Nếu ông Vunphran cần đến cô, ông sẽ nhớ là đã dặn dò cô đến đây.
Perin ngồi trên ghế gần hai tiếng đồng hồ không dám cựa quậy, trong lúc Taluen còn ở đó. Em không dám suy nghĩ nữa! Khi ông ta đi khỏi, Perin mới tự nhủ được, nhưng em vẫn lo lắng. Đáng lẽ em phải tự trấn an, em chẳng có gì phải sợ cái con người dữ tợn ấy, em cần phải có một sự tự tin vững chắc, điều đó không phù hợp với tính cánh của em. Điều mà Taluen đỏi hỏi ở em, em đoán ra được quá rõ! Em sẽ là người dọ thám của ông ta bên cạnh ông Vunphran. Chỉ đơn giản thôi, bằng cách thuật lại cho ông ta nội dung các bức thư mà em sẽ phải dịch.
Nếu đó là một viễn cảnh rõ rệt làm cho Perin khiếp sợ, nó cũng có cái hay của nó. Perin có thể tin rằng Taluen biết, hay ít nhất ông ta cũng nghĩ rằng em sẽ có những bức thư để dịch. Nghĩa là ông Vunphran sẽ giữ em bên cạnh, trong thời gian ông Benđi còn bệnh.
Perin lại ngồi cho đến lúc Guydôm đến tìm, để đưa em vào buồng giấy. Em gặp ông Vunphran đang ngồi trước một cái bàn lớn đầy các tập hồ sơ. Có những cái chặn giấy được ghi bằng một thứ chữ nổi để bàn tay dễ nhận vì con mắt không thấy. Ở đầu những vật chặn giấy có những máy móc bằng điện và điện thoại. Không báo cho ông Vunphran hay, Guydôm đã khép cửa lại, sau khi Perin vào. Sau một giây lát chờ đợi, Perin nghĩ nên báo cho ông Vunphran biết em đã có mặt.
- Cháu là Ôrêli đây. Em nói.
- Bác nhận ra bước chân của cháu. Lại gần đây cháu và nghe bác nói. Nghe cháu kể về những tai họa của cháu và nghị lực cháu đã tỏ rõ để chống chọi, bác rất quan tâm đến số phận của cháu. Mặt khác, trong khi phiên dịch với tốp thợ máy và dịch những tài liệu bác giao cho cháu, trong các câu chuyện giữa chúng ta, bác gặp ở cháu một sự thông minh rất vừa ý bác. Từ dạo bệnh tật luôn làm bác mù lòa, bác cần một người nhìn thay cho bác. Người ấy biết nhìn những gì bác chỉ cho, cũng như biết giải thích cho bác cái gì đập vào mắt mình. Nhưng khốn thay, rượu làm cho hắn ngu đần. Bây giờ hắn chỉ có thể làm người đánh xe! Ấy thế, mà còn phải đừng quá khe khắt. Cháu có muốn nhận nhiệm vụ ở bên cạnh bác, ở cái vị trí mà Guydôm đã không biết giữ? Để bắt đầu cháu sẽ nhận chín chục phờrăng một tháng và những món tiền thưởng ngoài nếu bác hài lòng về cháu, bác hy vọng thế.
Nỗi vui mừng khiến Perin nghẹn ngào, không trả lời được.
- Cháu không nói gì ư?
- Cháu đang tìm những lời lẽ để cảm ơn ông, nhưng cháu cảm động quá, bối rối quá, không tìm được! Xin ông đừng nghĩ là…
Ông Vunphran ngắt lời:
- Bác tin là cháu cảm động! Thật thế, giọng nói của cháu cho bác hay điều đó. Bác rất hài lòng vì đó là lời hứa là cháu sẽ làm cái gì có thể làm được để bác hài lòng. Bây giờ qua chuyện khác; Cháu đã viết thư cho người thân của cháu chưa?
- Thưa ông, chưa. Cháu không thể viết được vì cháu chẳng có giấy.
- Được rồi! Được rồi! Rồi cháu sẽ viết được! Cháu sẽ tìm thấy giấy trên bàn làm việc của ông Benđi. Trong khi chờ đợi ông ta lành bệnh, cháu sẽ lãnh phần việc của ông ấy. Ở bàn giấy ông Benđi, cháu sẽ tìm thấy tất cả các thứ mà cháu cần khi viết thư, cháu nhớ tin cho họ hay cái địa vị của cháu ở trong nhà máy của bác. Nếu họ có thể cho cháu một chỗ tốt hơn, họ sẽ đón cháu về. Nếu không, họ cứ để cháu ở lại đây.
- Chắc chắn là cháu ở lại đây.
- Bác cũng nghĩ thế và bác tin rằng hiện nay đó là điều tốt hơn cả đối với cháu. Cháu sẽ làm việc với các buồng giấy, giao thiệp với các nhân viên, truyền đạt những chỉ thị của bác đến họ. Mặt khác, cháu phải đi với bác. Cháu không thể giữ những áo quần của người thợ, như ông Bơnoa nói với bác, đã bạc màu rồi!
- Những quần áo tơi tả, thưa ông, nhưng xin ông tin rằng không phải vì cháu lười biếng, cũng chẳng phải cháu thờ ơ!
- Cháu đừng chống chế! Dù sao, cuối cùng tất cả cái ấy cũng sẽ phải thay đổi. Cháu đến phòng Tài vụ, người ta sẽ đưa cho cháu một cái phiếu để cháu có thể nhận được ở cửa hiệu bà Lasesdơ những gì cháu cần: áo quần mặc ngoài, quần áo lót, mũ, giày…
Perin lắng nghe như thể không phải là ông già mù lòa có gương mặt nghiêm khắc mà là một bà tiên xinh đẹp đang nói, chiếu đũa thần khoa múa trên đầu em. Ông Vunphran gọi em trở lại với thực tế:
- Cháu được tự do lựa chọn cái gì cháu thích. Đừng quên là cách lựa chọn sẽ xác định tính cách của cháu đấy nhé! Cháu hãy lo chuyện đó. Hôm nay, bác không cần cháu. Hẹn ngày mai nhé. 
Khi Perin vào phòng Tài vụ, người ta trao cho em sau khi đã ngắm kỹ em từ đầu đến chân, cái phiếu mà ông Vunphran đã hứa. Em ra khỏi nhà máy, tự hỏi không biết cái bà Lasesdơ này ở chỗ nào?

Em mong ước đó là bà chủ hiệu em đã mua vải. Em đã quen biết bà ta, sẽ đỡ bối rối khi hỏi bà những thứ mà em cần sắm. Câu nói cuối cùng của ông Vunphran: “Cách lựa chọn sẽ xác định tính cách của cháu” làm cho câu nói dễ sợ này càng quan trọng. Có lẽ chẳng cần lời cảnh cáo ấy em cũng không dám buông mình trong cách ăn mặc lố lăng. Nhưng em không biết cái gì mà em cho là vừa phải thì đối với con mắt ông Vunphran sẽ như thế nào? Trong thời thơ ấu, em đã được biết những chiếc áo đẹp. Em đã từng mặc những chiếc áo ấy và hãnh diện được đi vênh vang. Thật ra, những chiếc áo kiểu ấy vẫn không phù hợp với hiện nay. Nhưng những chiếc áo giản dị nhất mà em có thể tìm được, có hợp hơn không nhỉ? Nếu ai đó, tối hôm qua nói với em, trong lúc em đang khổ sở vì nghèo đói là người ta sẽ cho em quần áo, vải vóc, em cũng chẳng thể tưởng tượng nổi! Thật thế, món quà bất ngờ này làm cho em vui mừng khôn xiết. Thế nhưng nỗi bối rối và lo sợ lại xâm chiếm em.
Bà Lasesdơ ở gần nhà Thờ. Cửa hiệu của bà hiển nhiên là đẹp nhất, duyên dáng nhất ở Marôcua. Một gian trưng bày vải, rubăng, quần áo, mũ, đồ trang sức, các loại nước hoa… đánh thức những ham muốn, nhen nhóm những khát vọng của các cô gái hay làm đỏm ở địa phương. Bọn họ tiêu hết tiền lương ở đây cũng như các ông bố, ông chồng của họ xài tiền công trong các quán rượu. Cái gian trưng bày ấy càng làm cho Perin thêm rụt rè. Một cô gái ăn mặc rách rưới bước vào cửa hiệu không được săn đón của bà chủ cũng như mấy cô thợ ngồi làm việc sau quầy hàng. Perin đứng một lúc giữa cửa hiệu,  không biết cần nói gì với ai. Cuối cùng, em quyết định giơ cao chiếc phong bì emđang cầm trong tay.
- Cái gì thế, em bé? – Bà Lasesdơ hỏi.
Perin đưa chiếc phong bì ở một góc có in dòng chữ: “Nhà máy Marôcua, Vunphran Panhđavoan”. Chưa đọc hết tờ phiếu, nét mặt bà chủ đã tươi lên với nụ cười dễ gây cảm tình nhất.
- Cô cần gì, thưa cô? – Bà ta hỏi Perin trong lúc rời quầy hàng để nhấc một chiếc ghế.
Perin nói em cần quần áo, giày vớ, và một cái mũ.
- Chúng tôi có tất cả những thứ ấy, loại tốt nhất. Cô muốn chúng tôi bắt đầu bằng chiếc áo dài? Vâng, có phải thế không ạ? Tôi sẽ giới thiệu với cô các loại vải, rồi cô sẽ chọn.
Nhưng không phải Perin muốn xem các loại vải mà em muốn một chiếc áo may sẵn. Em có thể mặc ngay chiếc áo, hay ít nhất buổi chiều em có áo, để ngày mai cùng đi với ông Vunphran.
- A, cô phải đi cùng với ông Vunphran – Bà chủ vội nói.
Câu chuyện lạ lùng kích thích tính tò mò của bà. Bà tự hỏi không biết ông chủ đầy quyền uy ở Marôcua có thể dùng cô gái lang bạt này để làm gì? Nhưng, đáng lẽ phải trả lời câu hỏi ấy, Perin tiếp tục giải thích chiếc áo mà em cần phải có màu đen, bởi vì em đang có tang.
- Thế là cái áo ấy để đi đám ma?
- Không.
- Thưa cô, xin cô hiểu cho công dụng mà cô dành cho chiếc áo nói lên cho chúng tôi biết nó cần phải như thế nào: hình dáng, thứ vải, giá tiền.
- Hình dáng: giản dị nhất, thứ vải: chắc và nhẹ; giá tiền: rẻ nhất.
- Tốt, tốt thôi. Bà chủ hiệu trả lời. Người ta sẽ chỉ cho cô xem! Viếcgini, hãy theo cô đây!
Giọng nói đã thay đổi, những cử chỉ cũng thay đổi. Rất oai vệ, bà Lasesdơ trở lại ngồi vào chổ của bà, bên tủ két. Bà không tự mình phục vụ một cô khách hàng mà bà khinh bỉ vì đã cho bà biết những đòi hỏi như thế! Đây chắc là con gái của một người đầy tớ mà ông Vunphran muốn biếu tặng chiếc áo tang, nhưng người đầy tớ ấy là ai? Trong lúc Viếcgini mang đến quầy một chiếc áo bằng hàng catsơmia có trang trí ren và hạt huyền, bà chủ can thiệp:
- Cái này không hợp – Bà nói.
Rồi bà chỉ một chiếc váy và một chiếc bờlu vải hoa đen có chấm nhỏ và nói: “Chiếc váy hơi dài, chiếc bờlu hơi rộng nhưng chúng tôi có thể lên gấu, gấp thêm đôi cái nếp và cô sẽ mặc vừa. Với lại, bây giờ chúng tôi không có thứ gì khác!”. Đấy là một lý do để loại trừ mọi lý do. Tuy áo và váy có dài, rộng một chút, Perin cũng cho là rất đẹp. Với lại người ta đã bảo đảm là em sẽ mặc vừa, sau khi họ chữa lại thì em phải tin chứ! Việc lựa chọn sơmi, bít tất có dễ dàng hơn vì Perin muốn thứ rẻ nhất. Khi Perin tuyên bố chỉ lấy hai đôi bít tất và hai chiếc sơmi, Viếcgini cũng tỏ ra khinh bỉ em như bà chủ. Cô hạ cố giới thiệu với Perin đôi giày và chiếc mũ cũng chỉ là làm phước, để hoàn thành bộ cánh cho cô bé ngu ngốc này! Ai có thể nghĩ đến một sự dại dột tương tự: chỉ có hai đôi tất, hai chiếc sơmi thôi! Đã từ lâu, Perin mơ ước óc chiếc mùi xoa, nhưng em cũng chỉ dám mua ba chiếc để bỏ túi. Việc mua bán mới này cũng chẳng thay đổi được tình cảm của bà chủ cũng như cô bán hàng.
- Cầm như chẳng được tích sự gì. Cái con bé này!
- Bây giờ, chúng tôi có phải đem những thứ này đến cho cô không? – Bà Lasesdơ hỏi.
- Cháu xin cảm ơn bà, chiều nay cháu sẽ đến lấy.
- Không đến trước tám giờ và sau chín giờ đấy nhé!
Perin có lý do khi em không muốn người ta mang quần áo đến cho em. Em nào biết đêm nay em ngủ ở đâu? Ngủ trong hòn đảo của em? Không thể nghĩ đến điều ấy! Những người không có gì hết, không cần cửa ngõ và ống khóa. Nhưng mặc dù bà chủ hiệu tỏ vẻ khinh bỉ, những gì em vừa mua được, vẫn là một gia tài đối với em. Nó cần phải được bảo vệ. Như thế thì tối hôm sau, em phải có một chỗ ở. Rất tự nhiên, em nghĩ đến bà ngoại của Rôdali. Ra khỏi cửa hiệu bà Lasesdơ, em đi về phái nhà mẹ Prăngxoadơ. Em mong tìm thấy ở đó một gian buồng nhỏ, giá thuê không đắt lắm. Em sắp đến hàng rào thì Rôdali đi ra, dáng điệu vui tươi.
- Chị đi ư?
- Còn chị, chị rảnh chứ?
Bằng vài từ họ vội vàng nói cho nhau hiểu. Rôdali đi Píchkynhi về một việc khẩn cấp. Em không thể trở về nhà ngoại ngay như em muốn để điều đình việc thuê buồng cho bạn. Hôm ấy Perin rảnh, tại sao lại không cùng đi Píchkynhi với Rôdali kia chứ? Họ sẽ cùng trở về, và cuộc đi chơi sẽ rất thú vị. Hai người khẩn trương khi đi. Giải quyết xong công việc, khi trở về, cuộc đi chơi thú vị ấy được điểm xuyết nhiều câu chuyện, những phút thơ thẩn, dạo chơi trong một cánh đồng cỏ, nghỉ ngơi dưới bóng mát. Mãi đến chiều, họ mới trở về Marôcua. Khi đến hàng rào của bà ngoại, Rôdali mới nhớ đến giờ giấc:
- Không biết rồi dì Đênôbi sẽ nói gì.
- Mặc kệ!
- Ừ mặc kệ, tôi đã giải trí thoải mái! Còn chị?
- Cả ngày có người trao đổi, mà đi thế này chị vẫn thấy được giải trí thoải mái! Chị hãy nghĩ cuộc dạo chơi này đối với người chẳng có ai là bạn bè như tôi, thì sẽ như thế nào?
- Đúng thật như vậy.
May thay, dì Đênôbi đang bận phục vụ khách trọ; nên cuộc điều đình được dàn xếp với bà Prăngxoadơ. Điều ấy, cho phép được kết thúc khá nhanh chóng và không vất vả lắm: mỗi tháng năm mươi phờrăng cho một căn buồng có một giường nhỏ với một cửa sổ và bàn trang điểm.
Đến tám giờ, Perin ăn một mình ở bàn ăn của em trong phòng ăn công cộng, chiếc khăn ăn để trên đầu gối. Tám giờ rưỡi, em đi lấy quần áo. Chín giờ, ở trong buồng riêng, em khóa cửa, đi ngủ. Em hơi xúc động, say sưa, cái đầu choáng váng nhưng trong lòng chứa chan hy vọng. Bây giờ, hãy chờ xem.
Sáng hôm sau, Perin thấy ông Vunphran bấm chuông theo những tiếng kêu được đánh số trong bảng điện ở phòng ngoài để gọi các trưởng phòng của ông đến dặn dò. Nét mặt ông nghiêm khắc làm Perin kinh ngạc. Khi em bước vào, đôi mắt không nhìn thấy của ông quay về phía em. Em không thể lầm cách biểu lộ tình cảm trên cái gương mặt này, vì em đã quan sát kỹ nên đã hiểu rõ. Hiện tại, gương mặt không tỏ vẻ nhân từ. Nó tỏ vẻ bất bình và phẫn nộ.
Mình có làm điều gì xấu để người ta có thể chê trách không? – Em tự nhủ.
Khi đặt câu hỏi ấy, em chỉ thấy có một câu trả lời: Em mua sắm ở cửa hiệu bà Lassesdơ có quá mức! Ông Vunphran đánh giá tính cách của em qua việc mua sắm ấy không? Em đã chọn những thứ giản dị, kín đáo. Em phải mua gì nữa hay đừng mua gì hết? Perin không có thời gian để tìm hiểu. Ông Vunphran đã nói với em bằng một giọng nghiêm khắc:
- Tại sao cô không nói với tôi sự thật?
- Thưa ông, về khoản gì mà cháu không nói sự thật với ông? Xin ông cho cháu biết. Em sợ hãi hỏi lại.
- Về chuyện hạnh kiểm của cô từ ngày đến đây?
- Nhưng thưa ông, cháu xin thề cháu đã nói với ông sự thật!
- Cô nói với tôi cô ở nhà bà Prăng xoadơ. Nhưng cô đã rời hẳn chỗ đó thì cô ở chỗ nào vậy? Tôi cho cô hay mụ Đênôbi, con bà Prăngxoadơ, hôm qua được người ta hỏi có thêm tin tức về cô đã nói cô chỉ ở một đêm trong phòng trọ. Cô đã biến mất sau đó, chẳng ai biết trong thời gian sau, cô đã làm gì?
Perin đã hồi hộp nghe đoạn mở đầu của cuộc thẩm vấn nhưng dần dần, em thấy vững lòng hơn.
- Có một người biết rõ công việc cháu làm, sau khi rời phòng trọ của bà Prăng xoadơ.
- Ai?
- Rôdali, cháu bà ta có thể xác nhận những gì cháu sắp kể nếu ông thấy những gì cháu làm từ ngày hôm ấy xứng đáng để được ông biết đến.
- Cái vị trí mà tôi dành cho cô bên cạnh tôi, đỏi hỏi tôi phải biết rõ cô.
- Vậy thì, thưa ông, cháu xin kể cho ông nghe. Khi ông biết rồi ông cho gọi Rôdali đến hỏi riêng chị ấy thôi, trước khi chị ấy gặp lại cháu rồi ông sẽ có bằng chứng là cháu không hề lừa dối ông.
- Ừ, chuyện ấy có thể làm như thế! Ông Vunphran nói, giọng dịu lại – Bây giờ cháu hãy kể đi!
Perin tường thuật lại câu chuyện, nhấn mạnh đến sự hãi hùng của em vào cái đêm em nằm ngủ trong phòng trọ, sự chán ngán, những nỗi khó chịu buồn nôn, ngột ngạt của em.
- Cháu không chịu nổi cái mà mọi người chịu đựng được sao?
- Có lẽ những người khác không sống ở giữa trời như cháu. Cháu xin cam đoan với ông là cháu không khó tính. Sự nghèo khổ đã dạy cho cháu biết chịu đựng. Nhưng mà bị nhốt ở trong cái buồng ấy thì cháu sẽ chết mất và cháu không nghĩ rằng cố gắng để tránh khỏi chết lại là một sự hèn nhát.
- Phòng trọ của Prăngxoadơ bẩn thỉu đến thế ư?

- Ôi! Thưa ông! Giá mà ông thấy thì ông sẽ không cho những cô thợ của ông sống ở đó!
- Hãy kể tiếp đi!
Perin kể đến đoạn tìm thấy hòn đảo và ý định ở lại trong lều cỏ.
- Cháu không sợ ư?
- Cháu đã quen với những cảnh hãi hùng.
- Cháu nói cái hốc đất cuối cùng ở trên con đường đi Xanh Pipô, phía bên trái, phải không?
- Vâng, thưa ông, chính nó.
- Cái lều cỏ ấy là của bác. Mấy đứa cháu bác sử dụng nó. Cháu ngủ ở đó ư?
- Không phải chỉ ngủ mà còn làm lụng, ăn uống, đãi cơm Rôdali ở đấy nữa!
- Chị ấy sẽ kể cho ông nghe. Cháu chỉ rời lều cỏ để đi Xanh Pipô khi ông bảo cháu ở lại để giúp mấy chú thợ máy và tối hôm qua để ngủ ở nhà mẹ Prăngxoadơ. Bây giờ cháu có thể mướn một phòng riêng cho cháu.
- Cháu giàu hay sao mà có thể dọn bữa trưa mời bạn?
- Nếu cháu dám kể cho ông nghe!
- Cháu phải nói hết với bác.
- Ông có cho phép cháu làm mất thời gian của ông vì những câu chuyện của trẻ con không ạ?
- Thời gian của bác không ngắn lắm, từ dạo bác không thể dùng nó như bác muốn, thật là dài lắm… và trống rỗng!
Perin nhìn thấy một đám mây lướt qua gương mặt ông Vunphran. Điều ấy cho thấy nỗi buồn phiền của một cuộc đời mà người ta ngỡ là hạnh phúc và khối người ghen tị. Với cách ông phát âm cái từ “trống rỗng”, em thấy tim em quặn lại. Em cũng thế, từ dạo bố mẹ mất em sống một mình nên đã hiểu ngày giờ dài và trống rỗng như thếnào! Không có gì trong những ngày ấy, ngoài những nỗi phiền muộn, mệt nhọc và đói khổ của hiện tại. Không có một ai để chia sẻ, nâng đỡ hay làm cho em vui. Ông Vunphran chưa hế biết nỗi mệt nhọc, thiếu thốn, đói nghèo! Nhưng có phải ở trên đời này chỉ có những cái đó thôi hay còn có những nỗi đau khác. Chắc những cái đó đã được bộc lộ ra với cái từ như thế, với cái ngữ điệu của chúng. Cái đầu nghiêng nghiêng, đôi môi, đôi má sệ xuống, cái gương mặt dài ra cũng có lẽ bởi những kỷ niệm đau buồn!
Nếu em cố gắng làm cho ông Vunphran khuây khỏa được. Đối với em, có lẽ chuyện ấy quá táo bạo vì em được biết ông ta rất ít. Nhưng tại sao em không mạo hiểm một tí bởi vì chính ông ta bảo em nói kia mà! Em muốn cái khuôn mặt ảm đạm này vui lên. Em muốn làm cho ông mĩm cười. Em có thể theo dõi ông. Em sẽ thấy rõ em đã làm cho ông vui hay đã làm phiền ông. Ngay tức khắc, bằng một giọng vui vẻ, linhhoạt, em bắt đầu:
- Có gì lạ hơn bữa ăn trưa của chúng cháu là cái cách mà cháu đã tự túc những dụng cụ nhà bếp để nấu nướng. Cháu không phải chi tiêu gì hết! Cháu không có khả năng. Cháu tập hợp những món ăn của cái thực đơn cháu kê bằng cách nào? Đó là điều cháu sẽ kể cho ông nghe. Cháu bắt đầu bằng đoạn mở đầu để giải thích cháu đã sống như thể nào trong lều cỏ, từ hôm cháu dọn đến. Trong lúc Perin tường thuật chuyện của mình, mắt em không rời ông Vunphran. Em sẵn sàng dừng lại nếu thấy có dấu hiệu buồn bực. Chắc chắn cái đó không lọt qua đôi mắt em được! Nhưng em thấy không phải là nỗi buồn bực mà trái lại, đó là sự tò mò, sự quan tâm.
- Cháu đã làm thế à? Ông Vunphran ngắt lời em nhiều lần.
Thế rồi ông hỏi em để em nói rõ thêm những đoạn mà em rút ngắn vì sợ làm ông mệt. Ông đặt cho em nhiều câu hỏi chứng tỏ ông muốn biết chính xác không phải chỉ việc làm của em, mà còn những phương tiện em đã dùng thay thế những cái mà em không có.
- Cháu đã làm thế à?
Khi Perin kết thúc câu chuyện, ông Vunphran đặt bàn tay lên mái tóc em.
  - Cháu là một cô bé nghèo! Ông nói. Bác rất vui mừng khi thấy người ta có thể giúp cháu nên người mà không uổng công. Bây giờ, cháu hãy vào phòng giấy của cháu! Cháu dùng thời gian làm việc gì tùy cháu. Đến ba giờ, chúng ta sẽ cùng đi.
Phần VI
theo dõi và bao vây
Phòng làm việc của Perin hay đúng hơn là của ông Benđi về kích thước, đồ đạc bày biện không có gì cả. Phòng của ông Vunphran có ba cửa sổ, mấy cái bàn, những cặp bìa đựng giấy tờ, những chiếc ghế phôtơi to lớn bằng da màu xanh lục. Ở trên tường, có treo mấy cái khung gỗ thếp vàng với những bản đồ các nhà máy khác nhau. Phòng ấy rất oai nghiêm, rất thích hợp để cho ta có một ý niệm về tầm quan trọng của các công việc được quyết định ở đó.
Trái lại, trong buồng của ông Benđi chỉ có một cái bàn với hai chiếc ghế, mấy cái hộc bằng gỗ đen thui. Một tập biểu đồ của thế giới, trên đó những cờ hiệu màu sắc khác nhau chỉ những đường chính của tàu thủy. Cái nền bằng gỗ thông Mỹ được đánh sáp cẩn thận. Cửa sổ của phòng nằm ở giữa có che một bức sáo bằng đay với những hình vẽ màu đỏ. Perin thấy gian buồng riêng thật tươi vui. Khi để cửa ra vào bỏ ngỏ, em có thể nhìn thấy và có khi nghe được những gì ở các phòng bên cạnh. Bên phải và bên trái phòng ông Vunphran là phòng ông Têôdo và phòng ông Casimia. Sau đó là phòng kế toán và phòng tài vụ. Phòng ông Phabry ở ngay phía đối diện. Trong phòng, mấy ông tham dự đứng trước những chiếc bàn nghiêng cao, đang vẽ, Perin không có việc gì để làm và cũng không dám chiếm chỗ của ông Benđi. Em ngồi cạnh cửa ra vào. Để giết thời giờ, em đọc mấy cuốn từ điển, những cuốn sách duy nhất của tủ sách trong phòng làm việc. Thật ra, em thích đọc những sách khá hơn. Vì em phải đọc những cuốn từ điển nên thời gian lại thêm dài. Rồi chuông báo giờ ăn bữa trưa cũng reo lên. Perin là một trong những người đầu tiên ra về. Trên đường, Phabry và Môngblơ đã đuổi kịp em. Cũng như em, họ về nhà mẹ Prăngxoadơ.
- Này, thưa cô, bây giờ cô là đồng nghiệp của chúng tôi. Môngblơ nói. Ông này chưa quên cái nhục ở Xanh Pipô và muốn trả thù.
Perin bối rối khi nghe những lời mà em cảm thấy có sự mỉa mai trong đó, nhưng em đã trầm tĩnh rất nhanh:
- Đồng nghiệp với ông! Cháu đâu dám! Perin dịu dàng nói. Cháu chỉ là đồng nghiệp của chú Guydôm.
Cái giọng của Perin có lẽ đã làm cho ông kỹ sư hài lòng. Quay về phía Perin, ông mĩm cười. Đó là một sự động viên và cũng là một lời thừa nhận.
- Bởi vì cô thay ông Benđi, Môngblơ vẫn tiếp tục – Ông ta vẫn mang cá tính ương ngạnh của người Pica.
- Anh hãy nói là cô đây giữ chỗ của ông Benđi, Phabry nói chữa.
- Cũng thế thôi!
- Không phải như thế! Trong mươi, mười lăm hôm nữa, khi ông Benđi bình phục, ông ta sẽ trở về chỗ cũ. Chuyện ấy sẽ không xảy ra, nếu cô đây không giữ chỗ cho ông ta.
- Hình như về phần anh, về phần tôi, chúng ta cũng góp phần để giữ chỗ cho ông ấy.
  - Cũng như là cô đây. Ông Benđi mắc nợ một cây nến với cả ba chúng ta. Người Anh không bao giờ dùng nến ngoài việc sử dụng cá nhân!
Nếu Perin có thể chưa hiểu hết ý nghĩa thật của những lời mà ông Môngblơ nói thì cách người ta đối xử với em ở nhà mẹ Prăngxoadơ đã nói rõ. Người ta cho em ngồi một cái bàn riêng ở trong góc và bưng thức ăn đến cho em sau khi dọn cho khách. Em không tự ái. Em chỉ quan tâm là được sắp xếp ở gần họ để có thể nghe những câu chuyện của họ, em sẽ cố gắng dựa theo đó mà tự vạch cho mình cách xử thế. Các ông ấy biết nhà máy, hiểu ông Vunphran, mấy người cháu, ông Taluen, người mà em rất sợ. Một chữ, một câu của các ông ấy có thể soi sáng sự ngu dốt của em, chỉ cho em thấy để tránh những nguy hiểm bất ngờ. Em không rình mò, theo dõi các ông, cũng khong đứng ngoài cửa nghe trộm. Khi họ nói chuyện, họ cũng biết là không phải chỉ có họ nghe mà thôi. Thế thì em có thể dùng những lời nhận xét của họ mà không phải áy náy. Không may, sáng hôm đó, câu chuyện của họ không có gì là hấp dẫn đối với em. Trong bữa ăn, họ nói chuyện chính trị, chuyện săn bắn, một tai nạn xe hỏa. Với lại, sáng hôm ấy em đang vội vì em muốn hỏi Rôdali để biết tại sao ông Vunphran biết được em chỉ ngủ một đêm trong nhà mẹ Prăngxoadơ. Rôdali đã làm cho em rõ mọi chuyện.
- Lão Gầy đã đến đây trong lúc chúng mình đi Píchkynhi. Lão đã hỏi chuyện dì Đênôbi về cậu. Cậu biết đấy, dì Đênôbi nhanh mồm. Nhất là khi dì ấy nghĩ không phải là để khen thưởng. Chính dì đã nói chuyện ấy và còn nói đủ thứ chuyện khác nữa.
- Những chuyện gì thế?
- Mình không biết vì mình không có mặt ở đó nhưng cậu có thể tưởng tượng những điều xấu nhất. May thật, cái đó cũng không làm thiệt hại cho cậu.
- Trái lại, chuyện ấy lại có lợi cho mình bởi vì câu chuyện của mình đã làm cho ông Vunphran vui.
- Mình sẽ kể lại cho dì Đênôbi nghe! Chắc là dì ấy sẽ phát điên lên.
- Bạn đừng làm dì ấy ghét mình.
- Ghét câu? Bây giờ, cậu không còn gì là nguy hiểm nữa. Khi dì ấy thấy cái chỗ mà ông Vunphran dành cho cậu, cậu nên tin là dì ấy sẽ là người bạn tốt nhất… thì đây, cậu sẽ thấy trong ngày mai. Tuy nhiên, nếu cậu không muốn lão Gầy biết công chuyện của cậu tốt hơn cả là cậu đừng nói với dì ấy!
- Bạn hãy yên tâm!
- Vì dì ấy tai ác lắm!
- Thế thì mình đã được báo trước rồi!

Đến ba giờ, như đã dặn, ông Vunphran bấm chuông gọi Perin. Họ đi xe như thường lệ đến thăm các nhà máy. Ông Vunphran không để sót một ngày nào, không đến nhà máy này, nhà máy kia, không phải để nhìn thấy tất cả, ít nhất cũng để người ta nhìn thấy ông. Ông giao mệnh lệnh cho các quản đốc, sau khi nghe những nhận xét của họ. Còn biết bao nhiêu chuyện mà ông muốn tự mình kiểm tra như thể mình vẫn còn nhìn thấy, bằng tất cả mọi phương tiện để bổ khuyết cho đôi mắt mù lòa.
Hôm ấy, họ bắt đầu di thăm Pholêxen, một làng lớn, có những xưởng chải sợi lanh và sợi gai. Khi đến nhà máy, đáng lẽ vào phòng người quản đốc, ông lại tựa vai vào Perin, để vào một nhà kho rộng mênh mông. Người ta đang bốc dỡ và chất vào kho những kiện gai do xe goòng chở đến. Theo nội quy, ở mọi nơi, khi ông Vunphran đến, người ta không phải mất thời giờ đón tiếp, cũng chẳng cần nói gì với ông, nếu ông không hỏi. Công việc cứ tiếp tục như thể không có mặt ông ở đó, chỉ hơi khẩn trương hơn, trong sự hài hòa tổng hợp.
- Cháu nghe kỹ những lời bác giải thích, ông Vunphran nói với Perin. Lần đầu tiên, bác muốn thử nhờ đôi mắt cháu để kiểm tra vài kiện hàng mà họ vừa dỡ xuống. Cháu biết màu bạc là màu gì chưa?
Perin do dự: hay có lẽ là màu xám ngọc trai?
- Xám ngọc trai! Vâng đúng thế! Thưa ông.
- Cháu cũng biết phân biệt các sắc thái khác nhau của màu chứ: xanh nhạt, màu xám nâu, màu đỏ?
- Vâng, thưa ông. Có lẽ cũng tàm tạm được.
- Tàm tạm được là đủ rồi! Cháu lấy một nắm gai trong kiện hàng người ta mới đưa vào và nhìn kỹ để nói cho bác biết màu sắc của nó.
Perin làm theo lời ông. Sau khi kiểm tra kỹ, em rụt rè thưa:
- Đỏ, có phải đúng màu đỏ không ạ?
- Cháu đưa nắm gai cho bác!
Ông Vunphran đưa nắm gai lên mũi và ngửi.
- Cháu không nhầm đâu – Ông nói – gai này màu đỏ, thật thế?
Perin kinh ngạc nhìn ông. Hình như đoán được sự ngạc nhiên ấy, ông tiếp tục.
- Cháu hãy ngửi nắm gai này. Có phải cháu thấy có mùi caramen(1) không?
- Đúng thế, thưa ông.
- Sao? Cái mùi ấy khi sấy trong lò, gai bị cháy. Cài màu đỏ chứng tỏ điều ấy. Thế là mùi và sắc tự kiểm tra lẫn nhau và xác định lẫn nhau. Cháu biết nhìn đấy! Bác hy vọng có thể tin ở cháu. Nào, chúng ta đến một toa goòng khác. Cháu lấy một nắm gai khác đi!
Lần này em thấy màu xanh.
- Có hai chục màu xanh. Màu xanh mà cháu nói đó giống cây gì nào?
- Cây cải bắp, hình như thế! Hơn nữa có chỗ có những vết nâu và đen.
- Đưa nắm gai cho bác!
Đáng lẽ đưa nắm gai lên mũi, ông Vunphran lấy hai tay kéo gai ra làm đứt sợi gai
- Người ta thu hoạch thứ gai này khi hãy còn xanh, chưa đến lứa. Ông nói. Nó còn lại bị ướt nữa! Lần này, cháu kiểm tra đúng. Bác rất bằng lòng. Đó là một bước khởi đầu tốt đẹp.
(1) Caramen: đường thắn thành kẹo đắng.
Họ tiếp tục đi thăm những làng khác: Bacu Hécchơ để rồi về Xanh Pipô. Ở đây họ đứng lại lâu hơn vì phải kiểm tra công việc với nhóm công nhân người Anh.
Khi ông Vunphran xuống xe, cũng như mọi lần chiếc xe được để dưới bóng mát một cây hoàng điệp to lớn. Đáng lẽ, ở đấy trông chừng cho con ngựa, Guydôm đem cột nó vào chiếc ghế dài để y vào làng đi dạo. Y tính toán, sẽ về kịp trước khi ông chủ quay lại và ông sẽ không hay biết gì hết! Y đi dạo mát một lát rồi lại vào quán rượu với anh bạn đã quên giờ giấc! Khi ông Vunphran trở ra để lên xe ông không thấy Guydôm.
- Cho đi tìm Guydôm! – Ông Vunphran nói với người quản đốc đang tiễn ông.
  Tìm cho được Guydôm cũng không phải là nhanh chóng! Ông Vunphran giận lắm vì ông không muốn người ta làm mất thời giờ của ông, dầu chỉ một phút. Cuối cùng, Perin đã nhìn thấy Guydôm đi đến. Dáng đi của anh ta lạ lùng quá: cái đầu ngẩng cao, cái cổ và cái thân cứng đờ, đôi chân cong lại. Anh ta đưa chân ném chúng về phía trước, y như anh ta muốn vượt và một chướng ngại vật trong mỗi bước đi.
- Đây là một kiểu đi lạ lùng. Ông Vunphran đã nghe những bước đi không đều ấy. Con vật này lại say rượu. Có phải thế không Bơnoa?
- Người ta không thể giấu ông được!
- Tôi không điếc, lạy Chúa!
Rồi ông hỏi Guydôm:
- Anh đi đâu về?
- Thưa ông… tôi sẽ… nói…
Hơi thở của anh nói thay anh. Anh vừa ở quán rượu và anh đang say; Những bước đi khập khiễng của anh vang lên cho tôi hay vậy.
- Thưa ông.. tôi sẽ… nói…
Guydôm đã tháo ngừa trong khi nói. Khi để dây cương vào xe, anh làm rơi chiếc roi da. Anh muốn cúi xuống nhặt. Ba lần đạp lên chiếc roi mà không nắm được.
- Tôi nghĩ tốt hơn hết là tôi đưa ông về Marôcua. Người quản đốc nói.
- Tại sao thế? – Guydôm đã nghe và trả lời một cách hỗn xược.
- Hãy im đi! – Ông Vunphran ra lệnh. Từ giờ phút náy anh không còn làm việc với tôi nữa!
- Thưa ông… tôi sẽ… nói…
Nhưng không nghe anh ta, ông Vunphran đã nói với người quản đốc:
- Tôi cám ơn Bơnoa, cô bé này sẽ thay thế bợm nghiện rượu kia!
- Cô ấy có biết đánh xe không?
- Bố mẹ cô ta là những người bán hàng rong. Cô đã đánh xe nhà nhiều lần, có phải thế không cháu!
- Đúng thế! Thưa ông.
- Với lại, Côcô là một con cừu. Nó không xuống vệ đường trừ khi người ta rúi nó xuống.
Ông Vunphran lên xe và Perin ngồi bên cạnh. Em nghiêm trang và chăm chú với ý thức rõ rệt về trách nhiệm của em được giao.
- Đừng đi nhanh quá! Ông Vunphran nói, khi em lấy roi phẩy nhẹ vào Côcô.
- Cháu không cho đi nhanh đâu, cháu chỉ cần đi cẩn thận vững vàng thôi. Xin bảo đảm thế, thưa ông.
- Đấy cũng là một việc đáng khen rồi!
Trên các nẻo đường Marôcua, người ta rất ngạc nhiên khi thây chiếc xe mui trần của ông Vunphran mà con Côcô già nua kéo, lại do một em bé đội mũ rơm đen mặc áo tang điều khiển. Con vật không còn đi loạng choạng theo cái nhịp điều khiển của Guydôm. Có chuyện gì xảy ra nhỉ? Cô bé này là ai? Người ta đứng ra ngoài cửa để trao đổi với nhau những câu hỏi ấy. Rất ít người trong làng biết Perin. Rất hiếm người hiểu được cái địa vị mà ông Vunphran vừa cất nhắc cô bé bên cạnh ông ta. Dì Đênôbi đang tựa vào hàng rào, trước nhà mẹ Prăngxoadơ và đang nói chuyện với hai bà khác. Khi nhìn thấy Perin, dì sửng sốt, đưa hai tay lên trời. Ngay tức khắc, dì gửi đến cô bé lời chào dễ thương nhất kèm theo nụ cười tươi của một người bạn thật sự.
- Kính chào ông Vunphran! Chào cô Ôrêli.
Khi chiếc xe đi khỏi, dì kể cho mọi người hay dì đã cho lão Gầy những tin tức của cô bé này! Dì đã giúp cô bé, người khách trọ của gia đình mình.
- Đó là một cô gái rất dễ thương, cô ta sẽ không bao giờ quên tôi đâu, bởi vì chúng tôi đã giúp cô ấy.
Những tin tức mà dì Đênôbi có thể cho người ta hay là như thế nào? Bắt đầu từ những mẫu chuyện của Rôdali, dì Đênôbi đã tô vẽ nên một câu chuyện được truyền miệng khắp Marôcua. Tùy theo tình cảm, thị hiếu, mỗi người lại tô điểm thêm làm cho Perin trở thành một huyền thoại. Hàng trăm huyền thoại nhanh chóng trở thành nội dung các câu chuyện. Nó càng dễ làm cho người ta say mê vì chẳng ai giải thích nổi cái may mắn đột ngột này. Điều ấy cho phép người ta đặt những giả thiết, đưa ra những lời giải thích với những câu hỏi mới bên cạnh.
Nếu cả làng rất ngạc nhiên khi thấy Perin đánh xe cho ông Vunphran thì Taluen lại càng sửng sốt khi thấy ông chủ đến.
- Guydôm đâu rồi? Taluen hét và lao xuống thang gác của hàng hiên mình, để đón ông Vunphran.
- Vì nghiện rượu kinh niên, hắn đã bị bỏ rơi. Ông Vunphran vừa cười, vừa nói.
- Tôi cho rằng, từ lâu rồi, ông đã có ý quyết định như vậy, Taluen nói.
- Đúng thế!
Cái từ “tôi cho rằng” đã cho Taluen gặp may trong ngôi nhà này và củng cố uy quyền của ông ta. Quả vậy, sự khôn khéo của ông ta đã làm cho ông Vunphran tin ông ta rất dễ bảo, cũng như rất tận tâm, chỉ làm theo mệnh lệnh của ông chủ.
Tôi có một ưu điểm, ông ta nói, là đoán được ông chủ muốn gì. Trong lúc tôi hiểu biết thấu đáo những quyền lợi của ông Vunphran, tôi đọc được y nghĩ của ông… Taluen thường bắt đầu bằng những từ quen thuộc: “Tôi cho rằng ông muốn…”. Sự khôn khéo tinh vi của ông ta, khi nào cũng dựa trên sự rình mò, dựa trên sự do thám. Ông ta không chịu lùi bước lại trước một phương tiện nào hết để nắm tin tức. Thật là hiếm hoi những lúc ông Vunphran nói được một câu trả lời, lúc nào cũng ở đầu môi của Taluen.
- Hoàn toàn…
- Tôi cho rằng – Ông ta nói trong lúc giúp ông Vunphran xuống xe – Cô gái mà ông chọn để thay tên nghiện rượu ấy, đã tỏ ra xứng đáng với lòng tin cậy của ông.
- Hoàn toàn.
- Điều này không làm tôi ngạc nhiên. Hôm cô đến đây, cùng đi với Rôdali, tôi đã nghĩ thế, chúng ta có thể dùng cô ta vào việc gì đó, và ông đã phát hiện năng khiếu cô ta.
Trong lúc nói, Taluen nhìn Perin. Với cái nhìn ấy, ông muốn nói với cô bé và nhấn mạnh: Cô thấy tôi đã làm gì cho cô chứ? Đừng quên điều ấy! Hãy sẵn sàng trả lại cho tôi.
Sự yêu cầu thanh toán cái hợp đồng ấy Perin không phải đợi lâu. Trước giờ ra về, Taluen dừng lại ở cửa phòng làm việc của Perin. Ông ta không vào. Ông nói nhỏ để một mình Perin nghe thôi.
- Ở Xanh Pipô, Guydôm đã làm chuyện gì thế?
Vì câu hỏi này không kéo theo những điều quan trọng, Perin nghĩ em có thể trả lời được. Em kể lại sự việc mà Taluen hỏi.
- Tốt! Taluen nói, cô có thể yên tâm. Khi nào Guydôm đến xin trở lại làm việc ở đây, nó sẽ gặp tôi mà.
Hector Malot
Huỳnh Lý - Mai Hương dịch
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Trong gia đình 3

Trong gia đình 3 - 2 - Sau bữa ăn chiều, Perin lại được nghe Phabry và Môngblơ hỏi: “Ở Xanh Pipô, Guydôm đã làm chuyện gì thế?”. Thật ra t...