Thứ Hai, 28 tháng 10, 2024

Ngã tư hoàng hôn 100000

Ngã tư hoàng hôn 1

Tiểu sử nhà văn Văn Quang
Văn Quang tên thật là Nguyễn Quang Tuyến, sinh ngày 22.9 – năm 1933, tại Thái Bình.
Và mất ngày 15 Tháng Ba,năm 2022 tại Sài Gòn, hưởng thọ 90 tuổi.
Năm 1953, động viên gia nhập Quân Đội Quốc Gia, phục vụ trong nhiều đơn vị tác chiến tại miền Bắc trước hiệp định Genève năm 1954.
Từ năm 1957, chuyển sang ngành Tâm Lý Chiến với nhiệm vụ Trưởng Phòng Báo Chí Quân Đội thuộc Cục Tâm Lý Chiến, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH và là Trưởng Ban Biên Tập của các tờ báo Quân Đội VNCH thời đó.
Từ năm 1969 cho đến 30/4/1975, là Quản Đốc đài Phát Thanh Quân Đội, cấp bậc Trung Tá. Tác phẩm đầu tay của Văn Quang là Tiếng Tơ Lòng được đăng trên nhật báo Than Dân, Hà Nội cuối năm 1953 và tác phẩm thứ nhì là tập truyện ngắn Thùy Dương Trang do Lạc Việt xuất bản tại Sài Gòn năm 1957.
Từ đó cho đến 30/4/1975, Văn Quang cộng tác thường xuyên với nhiều nhật báo, tuần báo, tạp chí tại Sài Gòn như Ngôn Luận, Chính Luận, Tiếng Chuông, Tin Sớm, Tiếng Vang, Kịch Ảnh, Truyện Phim, Điện Ảnh, Văn Nghệ, Tiền Phong, Bách Khoa, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu Thuyết Tuần San..
Trong khoảng thời gian này, Văn Quang hoàn thành hơn 50 tác phẩm in trên các báo và đã có 28 tác phẩm được xuất bản. Các tác phẩm của ông hầu hết là truyện dài, trong số có những tác phẩm từng gây sôi nổi một thời trong giới độc giả trẻ như Nét Môi Cuồng Vọng, Nguyệt Áo Đỏ, Người yêu Của Lính… và đặc biệt đã có 4 tác phẩm được chuyển thành phim từ 1962 đến 1972 là Ngàn Năm Mây Bay, Chân Trời Tím, Đời Chưa Trang Điểm, Tiếng Hát Học Trò.
Các tác phẩm của Văn Quang có thể phân thành 4 nhóm đề tài: mô tả cuộc sống tuổi trẻ, phản ảnh đời sống quân ngũ, phản ảnh thực đời sống thời chiến và những châm biếm những lề lói thời thượng lố lăng thuộc nhiều lãnh vực sinh hoạt, đặc biệt là các giới làm nghệ thuật.
Sau 30/4/1975, cũng như mọi sĩ quan quân lực VNCH khác, Văn Quang bị đưa qua nhiều trại tù từ miền Nam tới miền Bắc trong thời gian dài hơn 12 năm, ở K 5 Vĩnh Phú và K 2 thuộc Z 30 tại Hàm Tân.
Tháng 9 năm 1987, được thả ra khỏi trại tù, Văn Quang trở về Sài Gòn và từ chối ra đi theo diện HO, quyết định tiếp tục ở lại Việt Nam.
Năm 1990, Văn Quang bắt đầu trở lại với việc sáng tác văn nghệ và Ngã Tư Hoàng Hôn là tác phẩm đầu tiên được hoàn thành sau nhiều năm bị ''treo bút“.
Từ năm 1992 đến nay Văn Quang là cộng tác viên thường xuyên của nhiều tờ báo Việt ngữ tại hải ngoại như báo Chiêu Dương tại Autralia, báo Người Việt, Thời Luận tại Nam California và Tiếng Vang tại Sacramento…
Năm 2002, ông rời bỏ Sài Gòn và dọn lên Lộc Ninh sinh sống.
Ở đấy hàng tuần, Văn Quang tiếp tục sáng tác với loạt phóng sự ''Lẩm cẩm Sài Gòn Thiên hạ Sự“
và „Lên đời“ được phát hành trên báo chí và Radio tiếng Việt ở Hải ngoại. Loạt bài này rất được độc giả ưu ái đón nhận.
Năm 2009 ông được tạp chí Khởi Hành ở California trao tặng
''Giải Văn chương Toàn Sự nghiệp Khởi Hành 2009″.
Cho đến nay, dù tuổi đã cao ( 82 tuổi) nhưng cách tuần ông đều có đều đặn bài viết phóng sự về nhiều vấn đề trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
TÁC PHẨM:
Tiếng Tơ Lòng (1953)
Hoàng Hoa Thám: Bài Học Xương Máu Của 25 Năm Đấu Tranh (1957)
Thùy Dương Trang (Tiểu thuyết 1957)
Những Lá Thư Màu Xanh (Tiểu thuyết 1963)
Tiếng Hát Học Trò (Tiểu thuyết 1963)
Nghìn Năm Mây Bay (Tiểu thuyết 1963)
Tâm Sự Người Yêu (Tiểu thuyết 1963)
Ngàn năm mây bay (1963); thâu thành phim 1963
Đời Chưa Trang Điểm (Tiểu thuyết 1964)
Từ Biệt Bóng Đêm (Tiểu thuyết 1964)
Nét Môi Cuồng Vọng (Tiểu thuyết 1964)
Chân trời tím (1964); thâu thành phim 1970;
đoạt giải vàng Văn học Nghệ thuật
Những Tâm Hồn Nổi Loạn (Tiểu thuyết 1964)
Những Người Con Gái Đáng Yêu (Tiểu thuyết 1964)
Tâm Sự Người Yêu (Tiểu thuyết 1964)
Vì Sao Cô Độc (Tiểu thuyết 1965)
Những Kẻ Ngoại Tình (Tiểu thuyết 1965)
Người Yêu Của Lính (Tiểu thuyết 1965)
Đường Vào Bến Mê (Tiểu thuyết 1966)
Những Bước Đi Hoang (Tiểu thuyết 1966)
Tiếng Cười Thiếu Phụ (Tiểu thuyết 1966)
Tiếng Gọi Của Đêm Tối (Tiểu thuyết 1966)
Người Lính Hào Hoa (Tiểu thuyết 1966)
Quê Hương Rã Rời (Tập Truyện 1969)
Những Ngày Hoa Mộng (Phóng sự tiểu thuyết 1970)
Sài Gòn Tốc (Phóng sự tiểu thuyết 1970)
Trong Cơn Mê Này (Tiểu thuyết 1970)
Soi Bóng Cuộc Tình (Tiểu thuyết 1992)
Một Người Đàn Bà Những Người Đàn Ông (Tiểu thuyết 1998)
Sài Gòn Cali 25 Năm Gặp Lại (Ký sự 2000)
Ngã Tư Hoàng Hôn (Phóng sự tiểu thuyết 2001)
Lên Đời Tập 1 (Phóng sự tiểu thuyết 2001)
Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự (Ký sự 2002)
Lên Đời Tập 2 (Phóng sự tiểu thuyết 2005)
Trong số những tiểu thuyết của Văn Quang, có bốn tác phẩm được thâu thành phim.
Chân trời tím được Quốc Phong chủ hãng Liên Ảnh chọn quay. Hùng Cường và Kim Vui thủ diễn hai vai chính trong phim Chân trời tím với bài ''Nửa hồn thương đau“ của Phạm Đình Chương do Thái Thanh hát. Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã lấy nguồn cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết này để sáng tác nhạc phẩm ''Chân trời tím“ cùng tên.
Chương 1
Quán cà phê vừa mở cửa, còn vắng hoe.
Mới năm giờ sáng.
Trời Sài Gòn lành lạnh, những chiếc lá khô chạy xào xạc trên mặt đường nhựa buồn tênh, lỗ chỗ như bộ mặt rỗ hoa của cô gái giang hồ về già. Ngọn đèn đường từ góc phố chỉ còn hắt một khoảng sáng mơ hồ phản chiếu trên vũng nước mưa đọng lại trong cái ổ gà méo mó như cái thúng sứt cạp. Thỉnh thoảng một chiếc xe đạp hoặc một chiếc xích lô lướt đi âm thầm, hầu như ngoài cái vẻ cần cù còn mang thêm hình bóng của sự cam chịu.
Sài Gòn buổi sáng bây giờ là như thế đấy.
Ý nghĩ của Vân lướt nhanh, nàng so sánh nó với thời kỳ trước năm 1975. Buồn hơn nhiều, mặc dù hòa bình đã mười lăm năm rồi! Bây giờ là năm 1990. Bao giờ mới khá được! Ýnghĩ của Vân thật tầm thường, đơn giản như ý nghĩ của bao nhiêu con người bình thường khác đang sống ở đây và trên cả cái đất nước này. Nghĩ như một sự oán trách, một sự "chống đối" nào đó, song làm gì cho khá hơn thì người ta đã nói quá nhiều, đã viết quá nhiều, đã làm quá nhiều để rồi phải xóa đi làm lại không biết bao nhiêu lần, không biết bao nhiêu việc. Rồi người ta "quên" hay "chán", không buồn nghĩ tới cái "thiện chí" ấy nữa, hay cho dù chẳng phải thiện chí mà chỉ là một câu chuyện phiếm, một ý kiến vu vơ trong giây phút "bốc đồng". Nghĩ tới sự lặng thinh của thành phố mình đang sống, Vân cũng lặng thinh. Có lẽ đó là cách sống đã ăn vào thói quen. Có "nổ" chăng chỉ là một mớ "xã luận" trên vài tờ báo mà ngay cả người viết cũng hiểu rằng khó tìm nổi một độc giả chịu đọc nó.
Người bồi bàn đặt trước mặt Vân ly cà phê sữa bốc khói. Mùi thơm ngậy phảng phất trong buổi sáng tinh khiết. Thôi, quên những "truyện dài vĩ đại vớ vẩn" ấy đi để mà sống. Cũng như bao nhiêu người khác. Đó là sự khôn ngoan nhất trong thời buổi này. Thời buổi mà người ta lẫn lộn, không thể phân biệt thế nào là đúng, là sai, là nên hay không nên, là đạo đức và thực tế, là chân lý hay gian tà, là người hay kẻ dở, là- trăm thứ linh tinh khác!
Đã có biết bao nhiêu chuyện vĩ đại hay thật ra người ta dựng nên sự vĩ đại rồi sau đó trở thành chuyện khôi hài. Sự vĩ đại về tình yêu lúc đầu để trở thành lầm lẫn và lố bịch phút chót. Sự vĩ đại về lý tưởng yêu nước cho đến khi màn hạ, người ta mới biết rằng mình bị lừa. Sự vĩ đại của những bức tượng đồng được long trọng dựng lên để rồi sau đó bị kéo sập xuống chổng ngược cẳng lên trời như một sự ngạo mạn cực kỳ thô bỉ đối với thượng đế. Và biết bao nhiêu sự vĩ đại đã bị phản bội cũng như bao nhiêu lãnh tụ vĩ đại, quốc gia vĩ đại đã bị lịch sử kết luận là kẻ hèn nhát và kẻ tử thù!
- Dẹp! Dẹp hết! Cuộc đời là ly cà phê sữa bốc khói thơm lừng này đây. Số một!
Quả đúng như thế! Vân nhấm nháp từng ngụm. Ngon không chê được! Chẳng trách anh Tàu chủ quán này, sau khi bị "đánh tư sản" xính vính, lụn bại, sống ẩn nhẫn hàng chục năm, lại lên hương. Cửa hàng bây giờ còn đi thuê, nhưng anh sẽ mua lại căn nhà này một ngày không xa. Vân không ghét gia đình chú Tàu già này, nàng còn phục là khác. Đúng là đáng phục thật. Mấy anh Tàu "di cư từ đời ông đời cha" là số một, ở đâu cũng biết sống hòa bình thịnh vượng, ngoại trừ ngay trên đất nước mấy anh.
Một người bước vào tiệm. Vân không lạ gì anh chàng dong dỏng cao, tóc xoăn xoăn, luôn có dáng điệu lừng khừng như tài tử màn ảnh Steve McQueen này. Anh ta ở căn nhà hai tầng đối diện với nhà Vân, góc ngã tư bên kia phố. Bắt gặp cái nhìn của anh ta bất ngờ, Vân lúng túng mỉm cười. Chàng thanh niên gật đầu chào. Cả hai thái độ đều vu vơ, theo một phép lịch sự thông thường. Nhưng quán vắng quá, chỉ có hai người khách. Điều đó làm cho chàng thanh niên mạnh dạn hơn, tiến lại bên Vân:
- Xin lỗi- cô ngồi một mình sao?
- Anh thấy rồi đó, còn ai nữa đâu!
Chàng thanh niên mỉm cười:
- Rất may.
Cái nhìn của Vân như một dấu hỏi "may cái gì?".
Anh chàng mỉm cười làm thân:
- Chúng ta là hàng xóm từ lâu, biết nhau mà chưa từng chào hỏi.
- Anh vừa chào rồi đấy.
- Nhưng chỉ có thế thôi sao?
- Còn gì nữa?
Anh ta kéo chiếc ghế, ngồi xuống trước mặt Vân:
- Tôi cho rằng nếu chúng ta nói chuyện, làm quen nhau cũng chẳng có hại gì
Tiếng cười của Vân rung lên:
- Biết đâu là lợi hay hại?
- Kinh nghiệm của loài người là thêm bạn bớt thù vẫn tốt hơn. Nga Mỹ như chó với mèo còn xích lại gần nhau, còn ôm hôn thắm thiết nữa kia mà. Đông Đức còn sát nhập với Tây Đức-
- Xích lại gần nhau thì được chứ còn cái mục "thắm thiết" thì- coi bộ mệt quá.
- Lúc đầu người ta thường nói vậy, về sau lại khác.
Chàng thanh niên giơ ngón tay cho người hầu bàn:
- Một cà phê đen.
Anh ta quay sang Vân:
- Cô dùng bánh bao nhé. Bánh bao ở đây rất tuyệt.
- Tôi không ăn sáng sớm thế, nhưng- cũng được.
- Vậy hai bánh bao.
Anh ta ung dung móc bao thuốc lá từ tay áo "Pull" được cuộn lên vài vòng làm túi. Chiếc bật lửa cũng ở đó chui ra. Chìa bao thuốc ba số năm, anh ta mời Vân:
- Cô dùng chứ?
- Đôi khi. Cho vui vậy thôi.
Bàn tay trắng trẻo của Vân với những ngón mũm mĩm không thanh tú lắm song có vẻ hấp dẫn riêng của một người con gái "tròn trĩnh", đưa ra nhón điếu thuốc. Anh ta chờ Vân gắn điếu thuốc lên môi, nhanh nhẹn bật lửa:
- Tôi là Khánh.
- Tôi biết, chắc anh cũng biết tên tôi rồi.
- Biết từ lâu và-
Đôi mắt Vân lại tròn lên nghịch ngợm:
- Và-?
- Và vẫn mong có dịp được hội kiến.
- Anh nói văn vẻ như văn chương Tàu trong- Cổ Học Tinh Hoa.
Giọng cười của Khánh hực lên:
- Lần thứ nhất trong đời tôi được một người khen về văn chương đấy. Tôi xài đủ mọi thứ ngôn ngữ mà chưa được ai khen như thế bao giờ.
- Anh, Pháp hay Liên Xô?
- Không phải là ngoại ngữ. Thứ đó tôi mù tịt. Tôi muốn nói là khoa ngôn ngữ hiện đại của Sài Gòn "bi giờ".
Vân thong thả thở khói thuốc rồi gật đầu:
- À, tôi hiểu. Loại- tiếng "Đức", tiếng lóng, tiếng của dân giang hồ, dân ăn chơi, dân chạy dọc.
- Gần đúng, loại ngôn ngữ xã hội chủ nghĩa và các loại khác nữa. Thí dụ "báo cáo anh", "tranh thủ", "khẩn trương", "nhất trí", "triển khai" và "sự cố"-
Vân bỗng cười sặc:
- Loại đó thì anh rành nhất, phải không?
- Sao cô nói vậy?
Đập đập điếu thuốc trên không cho tàn văng tung tóe xuống sàn nhà, Vân vẫn mỉm cười. "Bởi vì cậu là dân "Bắc Kỳ 75", cậu là dân "bộ đội về vườn", bố mẹ cậu là cán bộ từ Bắc vô Nam, chiếm được căn nhà 2 tầng của thiên hạ". Nghĩ vậy, song Vân không nói ra điều đó. Không nói, song Khánh hiểu ý nghĩ của Vân. Có lẽ Khánh hơi phật lòng một chút nhưng anh ta chấp nhận sự khó chịu nhỏ nhoi ấy. Bởi nó là sự thật không chối cãi được. Khánh hoàn toàn khác với bố mẹ mình. Anh "cóc cần những thứ đó". Cái gì là thật trước sau vẫn là thật. Tránh né là thái độ của kẻ hèn và hơn thế là kẻ không thức thời. Lúc này mọi sự như thế phải coi là chuyện tự nhiên, "tự nhiên như người Hà Nội"! Khánh làm bộ không chú ý đến chi tiết vặt vãnh trong ý nghĩ của Vân, anh nói tiếp:
- Tôi rành cả cái thứ ngôn ngữ "Mỹ dởm" nữa. Tôi cũng bập bẹ dăm ba câu. "Pha-rơ-ueo pạc-ty", "sếp-ớt", "nô com-men", "a-lê di", "tú prê", "lo-vơ mi", "kít mi"-
- Tú-prê là tiếng Tây ông ơi!
- Ừ thì "Tây dởm". Ngoài ra tiếng giang hồ chạy dọc ngày nay khác với xưa nhiều. Tôi nói cô không hiểu đâu.
- Hiểu đôi chút với dân "mánh mung", đủ rồi.
Hai cái bánh bao trong hai cái đĩa nhỏ được mang ra, còn nóng hổi nhưng không ai làm ra vẻ chú ý tới món ăn điểm tâm đó cả. Khánh xoay xoay ly cà phê trên tay:
- Cô dậy sớm nhỉ?
- Có ngủ đâu mà dậy sớm! Anh phải nói tôi thức trễ mới đúng.
- Ngay boong. Tối qua coi video! Phim gì?
- Anh tài thật. Sao không làm công an?
- Làm rồi. Chán thấy mồ!
- Oai như hạch chứ chán cái gì?
- Tôi chê!
- Vì- sợ phải đi dò la người ta, thất đức à?
- Dò la là bổn phận của mọi công dân xã hội chủ nghĩa đối với địch luôn luôn luẩn quẩn bên cạnh chúng ta, phải cảnh giác! Giọng "trưởng ban công tác" của tôi đấy. Tuy nhiên trong công an cũng có lắm việc khác nhau chứ. Tôi có thể ngồi cạo giấy, ra sở ngoại vụ làm. Cô mà xin xuất ngoại là phải qua tôi. Có gì là thất đức đâu.
- Hách nhỉ. Tôi mong anh làm ngoại vụ cho tôi nhờ.
- Không dễ đâu. Cũng "chân cẳng", phe cánh lắm chứ đùa sao. Vả lại tôi chẳng bao giờ có đủ tín nhiệm để người ta giao cho những việc quan trọng cả. Cùng lắm là đứng đường thổi phạt mất cái Honda vi phạm giao thông. Mặc dù tôi là con cán bộ kỳ cựu có cả đống huy chương.
Vân hỏi vì tò mò:
- Coi bộ anh không hợp với ông già anh?
Khánh lắc đầu:
- Chẳng có gì hợp với không hợp. Giản dị, ông ấy là ông ấy và tôi là tôi. Cha mẹ sinh con trời sinh tính. Mẹ tôi nói từ bé tôi đã khác bố tôi rồi. Bố tôi cẩn thận, mực thước bao nhiêu thì tôi văng mạng, bố láo bấy nhiêu. Trong buổi lễ long trọng, ông ấy nghiêm chỉnh thì tôi ngược lại, chọc cho các chú, các bác cười mới thú. Tôi ghét cái sự "long trọng viên". Khi đi học, hồi còn sơ tán chạy máy bay Mỹ, tụi nó hát quốc ca thì tôi hát kiểu "phản phé", tỷ dụ "này thanh niên ơi quốc gia đến ngày giải phóng" thì tôi hát là đến ngày "phỏng dế". Xin lỗi tôi nói bậy. Nhưng tôi ví dụ cụ thể để cô dễ hiểu thôi, đó là bài quốc ca của cô ở trong này. Còn quốc gia của "chúng tôi" là "Tiến quân ca". Tôi hát rằng "Đoàn quân Việt Nam đi, sao mà rách mướp, lê chân buồn đi trên đường gập ghềnh xa. Ngày ăn cháo tôi đến tha hồ đói-"
Vân cười văng cả cà phê ra bàn:
- Anh làm tôi sặc.
- Chưa bằng mấy thằng bạn tôi, hồi đó đứng gần tôi còn cười to hơn cô nhiều liền bị cô giáo "lên lớp" một trận nên thân, báo cáo lên thầy chủ nhiệm, hội đồng kỷ luật nhà trường họp, suýt bị đuổi. Còn tôi vẫn tỉnh bơ nghiêm chỉnh hát tiến quân ca và cuối tháng vẫn là học sinh tiên tiến.
- Và cuối năm là học sinh xuất sắc chứ?
Khánh vân vê chiếc bánh bao:
- Không, cuộc đời không tròn và dễ dàng như cái bánh. Cuối năm người ta vẫn khám phá ra tôi là thằng học sinh tồi, nếu không muốn nói là thằng "xỏ lá", hay quy kết một cách có hệ thống hơn thì phải là một tên có tư tưởng chống đối. Nhưng dù sao bố tôi cũng là cán bộ có cỡ.
Vân bỗng nhận thấy ở anh thanh niên này có cái gì hay hay, thẳng thắn và có tinh thần ngấm ngầm muốn bóc trần những cái vỏ ngụy trang của xã hội. Là dân "Bắc Kỳ 75", song dường như anh ta đã bị cuộc sống Sài Gòn sơn phết, kì cọ cho anh ta mất hết dấu vết Bắc Kỳ 75. Là anh bộ đội xuất ngũ, song đời sống Sài Gòn đang vươn lên, đang thay đổi, nó thay đổi luôn cả anh ta, không khí Sài Gòn đã dạy dỗ anh ta thành một con người khác hẳn, nói gọn lại là bị "Sài Gòn hóa" hay là cố tình "đồng hóa với Sài Gòn". Tuy cô không tin hoàn toàn vào những điều đó, song ít ra cô cũng thấy anh ta khác, khác nhiều lắm so với ý nghĩ của cô, khác nhiều lắm so với nhiều ông bà Bắc Kỳ 75 khác mà cô đã từng gặp. Cô bỗng bênh vực anh ta:
- Tôi không nghĩ như thế, tôi cho rằng anh chỉ là người vui tính, thích "quậy", thế thôi.
- Có lẽ cô nói đúng. Tôi chẳng chống anh nào cả, cũng chẳng có ý định chống bệnh hình thức để làm cho những sự long trọng trở thành trò cười. Còn bé quá mà. Có tư tưởng gì đâu. Vậy mà bố hiệu trưởng cuối năm kêu tôi lên đội ngay cho cái mũ thằng phản động từ trong ý thức.
Đôi mắt to của Vân chớp nhẹ:
- Tại sao không phải là như thế? Nhiều việc ta cứ tưởng làm vậy là vì nhất thời muốn vậy. Nhưng thực ra nó là do phần ý thức nhất nằm trong tận cùng tâm hồn ta ngay từ lúc còn bé xíu mà ta không hề nhận biết. Đó là những ý thức rất tự nhiên làm nên tính chất con người chúng ta và mãi mãi như một cái rễ chính của một thân cây.
Khánh nhún vai:
- Thôi đừng "nghiên cứu và suy luận" nữa. Ngấy lắm. Ăn bánh bao đi. Đó là một "thực tế hiển nhiên", một thứ "hạnh phúc", chẳng có khẩu hiệu nào hơn đâu. Bánh thật bao giờ cũng hơn bánh vẽ.
- Rất đồng ý với bạn. Ăn thì ăn!
- Chúng ta đã từng ăn quá nhiều bánh vẽ rồi nên bây giờ chỉ khoái bánh thật, bánh nhân thịt càng tốt.
Vân cắn bánh ăn rất tự nhiên, hỏi như đùa:
- Bạn theo cộng sản lâu rồi chán, phải không?
- Không bao giờ! Tôi chỉ chán cái gì đáng chán. Còn phần nào của cộng sản xài được, cứ xài.
- Như cái gì?
Bật người ra phía sau, Khánh nói đứng đắn:
- Bạn nên nhớ rằng bố mẹ tôi, anh cả tôi đều đang là những người cộng sản chân chính. Họ chẳng có cái gì có thể chê được! Nhất là họ vẫn thương tôi cực kỳ, dù tôi luôn là thằng "phá phách" nhất nhà. Tôi không có ấn tượng về một chủ nghĩa hoặc một con người. Tôi chống lại cái gì sai.
- Vậy là họ thường sai rất nhiều phải không?
- Trật lất. Họ đúng rất nhiều. Đôi khi tôi muốn trêu họ, cố tìm ra cái sai của họ để công kích mà không tìm được. Bố mẹ tôi rất "đạo đức cách mạng", lập trường vững chắc, ông bà ấy cũng luôn tấn công vào mọi cái sai hỏng. Còn ông anh tôi thì khỏi nói.
- Sao lại khỏi nói? Thứ người bỏ đi à?
- Sức mấy! Ông ấy là một "Thượng Tọa" hay một "Đức Hồng Y" của chủ nghĩa cộng sản ưu việt đấy. Lý luận không chê vào đâu được. Con mọt sách đấy. Thuộc kinh điển và giáo điều như sư tụng kinh. Biết cả lý luận của phe tư bản chống cộng kiểu gì. Một tay được gọi là uyên bác trong "giai cấp trí thức" bây giờ. Ông ấy làm ở Viện Kiểm sát Nhân dân Thành phố. Một mẫu người lý tưởng của bất cứ chế độ nào. Công bằng, chính trực. Tôi chống ông ấy vào cái chỗ nào? Bất cứ anh nào loạng quạng hối lộ, ăn cắp của công, làm hại dân, ông ấy cho đi tù lập tức. Con người như thế, tôi có chống cũng không nổi. Thỉnh thoảng có dịp, tôi chỉ chọc cho ông ấy giận đỏ mặt lên rồi chuồn lẹ.
Vân khích tướng:
- Anh có vẻ ớn ông ta hả?
- Ớn chứ! Ớn lẽ phải. Nhưng nếu cần "bịch" nhau, ông ấy chỉ chịu nổi tôi một cánh tay. Cũng may chuyện đó không bao giờ xảy ra. Anh em tôi vẫn thương nhau kinh khủng. Nhưng có vẻ ông anh tôi thương tôi nhiều hơn là tôi thương ông ấy. Anh tôi đã lo cho tôi từng củ khoai khi đi "sơ tán" còn đói rách. Rồi lớn lên ông ấy lo cho tôi đủ chuyện. Nào đi học, nào vào làm công an, nào bỏ ngành, nào đi học sĩ quan, nào đi bộ đội, nào chuyển ngành, nào giải ngũ, linh tinh hết. Cái vụ đi Campuchia là do tôi. Tôi muốn đi giang hồ với mấy thằng bạn trời đánh, chứ đâu đến lượt tôi phải đi.
- Anh cũng có vẻ là tay "bất trị" đấy. Nhưng ít nhất cũng là loại bất trị có "đầu óc".
- Tất nhiên. Người ta cần có cái đầu, ngay cả khi làm chuyện ăn cướp, giết người. Tôi vẫn nghĩ thế.
- Rất đúng. Tôi và anh có điểm nào đó hợp nhau.
Nụ cười của Khánh trở nên ngờ nghệch như bị một "coup de foudre". Câu trả lời của Vân là một bất ngờ. Gần một năm nay, anh để ý cô gái này. Nhà cô đối diện với nhà anh. Con một sĩ quan "Ngụy". Bố đi "học tập cải tạo" mười ba năm, trở về bị vợ bỏ, còn lại mấy bố con sống trong căn nhà ba tầng xéo trước nhà anh bên kia đường, thụt sâu vào một chút sau hai cây me lớn. Cô con gái thích ăn diện, có nhiều bạn trai bạn gái. Xe Cup, xe Dream đến chở cô đi hoài, lâu lâu có cả xe hơi của mấy anh Việt kiều hay Ngoại kiều gì đó. Hàng xóm nói rằng cô ta ăn chơi. Chẳng cần hàng xóm nói cũng biết, cái kiểu đi về như thế, không ăn chơi thì là cái thá gì. Rõ quá. Tuy nhiên, từ trong góc tâm hồn khao khát của Khánh, anh lại ngấm ngầm thích cô gái này. Thích lối ăn diện vừa sang vừa hở, song vẫn có cái vẻ gì như "quý phái". Thích cái dáng tự nhiên, bình thản trong mọi chuyện. Thích cả nụ cười hồn nhiên khi Vân bước lên xe. Thích cái dáng đi tuy không uyển chuyển song vô cùng hấp dẫn với một thân hình tròn trĩnh, cao cao, núng nính với đôi mông to tròn và bộ ngực luôn luôn như đong đưa. Anh đã nghe tiếng Vân chuyện trò, ríu rít, giòn tan và mang cái âm hưởng tiếng nói của người Hà Nội "ngàn xưa" nghĩa là những người Hà Nội trước năm 1975 mà anh từng biết. Từ trong tiềm thức, anh vẫn có cảm tình với giọng nói ấy, với dáng dấp ấy. Khánh không chú ý đến những căn nguyên mà anh chỉ cần biết đến cái trước mắt. Đó là một thân hình tuyệt vời, mát như "phi-di-đe"!
Tuy nhiên, gia đình anh không thích gia đình Vân vì nhiều lý do ngẫu nhiên. Hai gia đình ở hai bên ranh giới. Quốc gia và Cộng Sản. Miền Bắc và Miền Nam. Nếp sống và thời gian. Môi trường và hoàn cảnh. Song Khánh "cóc cần" những thứ lỗi thời và cố chấp ấy. Đôi khi vì thế mà anh còn muốn gần gụi, tìm hiểu gia đình Vân hơn, đúng ra là muốn đến gần Vân hơn. Bảo là mê thì chưa đúng, song định nghĩa là "khoái" thì khá chính xác. Lâu rồi anh không có dịp nào thuận tiện và chính anh cũng còn thiếu quyết tâm tạo một cơ hội. Hôm nay thì cơ hội ấy đã đến. Khánh bỗng hất đầu nhìn Vân đang nhai miếng bánh ngon lành:
- Cô cho rằng cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay là tình cờ à?
Suy nghĩ một chút, Vân lắc đầu.
- Không có gì quan trọng cả. Dù sao tôi cũng cho là không tình cờ, đây là một cuộc "ám sát có dự mưu".
- Cô khôn như- Khổng Minh!
- Để tôi đoán mò nhé. Anh rình tôi mỗi buổi sáng, Sáng nay khi thấy tôi bước xuống đây, anh mò sang.
- Cô nói dung tục quá. Rình mò là thứ tôi tởm nhất, tởm từ hồi còn bé ở ngoài Bắc khi thấy mấy thằng nhà quê đói rách rình quanh nhà mấy ông gọi là địa chủ, tư sản, phản động. Đê tiện! Ngay cả bố tôi cũng khinh song vẫn phải xoa đầu chúng nó. "Vì nhân dân, các anh đã hoàn thành nhiệm vụ-". Thật ra, lúc đó, ông muốn nhổ vào mặt bọn đê tiện ấy. Tôi biết rất rõ khi bố tôi thở dài quay vào phòng riêng.
- Xin lỗi anh, vì câu đùa cợt vô ý ấy, hoàn toàn vô ý. Huề! tôi khoái sự thẳng thắn.
- Ô Kê. Tha lỗi. Đúng ra, sáng nay tôi dậy sớm để đi tiễn một thằng bạn trước cùng đơn vị, nay ra khỏi lính, trở về miền khỉ ho cò gáy Lai Châu. Ra đến ban công, tôi chợt thấy cô vào đây. Vậy là tôi quyết định tới để cầu may.
- Và là may hay rủi?
- Đấy là chuyện khác, nhưng tôi đã đạt được ý định.
Vân rút chiếc mùi soa nhỏ lau tay:
- Anh làm tôi "phổng mũi" như mũi đầm.
- Không! cái mũi trước mặt tôi đây đẹp hơn.
- Tuy hơi tẹt?
Cả hai cùng cười, tiếng cười để đưa đà xã giao hơn là câu khôi hài đủ thi vị để được tán thưởng. Vân nói lảng:
- Đêm qua tôi coi video một lèo từ chín giờ tối đến gần năm giờ sáng. Phim võ hiệp tuyệt vời, bộ mới "Lục Mạch Thần Kiếm". Anh có thích loại phim ấy không?
- Tuyệt đối không. Thỉnh thoảng tôi xem phim Mỹ, găng-tơ, cao bồi, hoặc loại tình cảm nước mắt của Tây. Còn phim Liên Xô thì- xin lỗi cho xem không cũng chán!
- Anh có vẻ "hữu khuynh" và "đả Liên Xô" tức là "đả tả"?
- Danh từ mới đấy. Nhưng người Liên Xô hay một cái gì đó của Liên Xô thì còn thân thiện được chứ phim thì cả Sài Gòn chê chứ đâu phải riêng tôi. Rạp chiếu phim loại này mốc meo hết nên mới phải du nhập phim Tây chứ dại gì đi truyền bá nếp sống tư bản. Nên nhớ chỉ cần thấy nhà cửa đường sá, xe cộ, cách sống của mấy thằng tư bản cũng đủ mệt cho cái lý tưởng đã lung lay tuốt từ Liên Xô rồi. Nói ngay mấy ông "Cán to Cán nhỡ" cũng chỉ khoái loại phim được gọi là "tư liệu" thường chiếu ở một rạp riêng trên đường Phan Kế Bính, toàn phim Tây, phim Ý, phim Mỹ, phim Nhật. Bố mẹ tôi lâu lâu cho tôi vài vé mời hoặc đưa tôi đi cùng. Quả là thú vị thật. Còn loại phim "chưởng", tôi cho là hoang đường, vô lý, lạc hậu rồi. Xin lỗi nếu-
- Khỏi xin lỗi, cứ nói hết ý của anh, tôi thích thế. Thật ra phim chưởng chỉ hay với người từng đọc truyện nó. Phải biết từng chi tiết để so sánh với cách diễn tả của tài tử mới thú. Nhưng nói là hoang đường, lạc hậu cũng có phần đúng. Song nhiều người lại bảo kiếm hiệp thời nay có đủ cả nhân sinh, triết lý, tâm lý, tư tưởng. Cái đó có thể cũng có song chủ yếu là phịa. Phịa tân kỳ hơn, tâm lý hơn. Có thế thôi, còn về mặt giải trí thì xem thứ đó có cái dễ chịu là tình tiết lâm ly, uýnh nhau loạn xạ. Khỏe re!
- Vậy, sao cô "ghiền" được suốt đêm?
- Không xem thì làm gì?
- Đi chơi, đi nhảy, rồi ngủ.
- Tôi đâu phải loại gái nhảy hay "pun đờ luých", chơi, nhảy, bài bạc, bói toán, video, lang thang.
Đôi bàn tay Khánh xua trước mặt:
- Tôi có nói thế đâu.
Bây giờ Vân mới thấy Khánh đeo cái đồng hồ khá lớn, có thể là Rolex, chẳng biết thật hay giả, tay kia đeo chiếc nhẫn vàng mặt vuông nhô lên một cục bằng hạt đậu màu đỏ. Cái áo Pull màu rêu có gạch xanh trắng từ vai bên phải xuống eo bên trái. Trên miệng túi có hàng chữ Ăng-Lê dưới chân tháp Eiffel: "I love Paris"- Anh mặc chiếc quần jean xanh bạc, loại quần jean ngoại khá đắt tiền, nhưng lê đôi dép cao su dầy cộm. Tất cả ở Khánh toát ra một vẻ "thời trang" không đỏm dáng mà hơi lộ liễu. Mái tóc dợn sóng dài đủ phủ gáy, không bờm xờm, được chải chuốt kỹ để vài sợi lòa xòa trên trán cho có vẻ tự nhiên. Vân kết luận: "Một loại con trai coi được!" Tất cả chỉ có vậy. Vân dừng sự nhận xét của mình về Khánh ở đó.
Cô đứng lên:
- Cám ơn về sự gặp gỡ có dự mưu này.
- Cô định về thật sao?
- Về ngủ kẻo mệt rồi, nói chuyện lâu mất vui. Tôi sẽ ngáp như bò rống, hẹn lần sau nhé.
- Bao giờ nào?
Vân cầm chiếc bóp nhỏ và chiếc mùi soa bước ra:
- Anh biết nhà tôi rồi, khi nào rảnh cứ sang. Tôi ở trên lầu.
Khánh theo Vân ra đến cửa:
- Không có gì phiền chứ? Nghe nói ông già cô khó lắm kia mà.
- Tôi có nhiều bạn, ông già tôi khó từng lúc thôi. Hơi "chạm điện", loại điện 220 vôn đấy.
Khánh lè lưỡi:
- Chết như chơi!
- Tuy nhiên có cách vô hiệu hóa. Đừng lo, cứ qua đi. Nếu chẳng may gặp ông già tôi cứ chắp chân chắp tay "cháu chào bác". Đó là màn thứ nhất. Màn thứ hai là chìa bao thuốc ba số ra "mời bác". Thế là êm ru bà rù.
- Vậy thì ông già có thể chơi ngang với mấy "ông quan thời mới" này đấy. Y hệt, không sai một ly: "Tiên học lễ, hậu học ba số".
Vân nhún vai:
- Anh chửi bố tôi đấy, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Tôi muốn tránh cho anh khỏi bị điện giật, chẳng ngờ lại-
- Thôi bỏ qua chuyện đó đi. Người ta vẫn nói ai cũng có khuyết điểm, mình có là thánh đâu. Tôi ngờ rằng đến thánh cũng có cái sai. Thử hỏi tại sao ông Thánh lại phù hộ cho mấy thằng- chẳng ra cái khỉ gì, tham lam, ích kỷ, lừa lọc mà vẫn giàu, vẫn sướng, vẫn được đời ca tụng? Sai bét!
- Chào nhé. Hẹn gặp.
Vân bước xuống hè, băng qua đường như cơn gió. Khánh đứng trên hè phố tần ngần chắp nối lại cuộc gặp gỡ. Đơn giản, thú vị, thành thật. Quả là dễ chịu. Giao thiệp với loại con gái như thế "thoải mái" vô cùng. Anh đã quá nản với mấy cô tiểu thư ấm a ấm oẳng, treo cao giá ngọc, cứ làm như đụng vào bàn tay là mất trinh ngay. Ngược lại, loại "cà phê ôm", karaokê ôm, loại tứ chiếng trơ trẽn thì quá rẻ tiền, nói chuyện đã mất thú, đừng nói gì tiến tới vấn đề khác. Một loại nữa là mấy chị viên chức nhà nước sồn sồn, nghiêm như Phật Bà Quan Âm trong những buổi hội, xoen xoét trong công việc, coi đàn ông như không có, nhưng coi chừng có lúc các bà ấy lôi lên giường là chạy không kịp. Kinh nghiệm ấy là của chính anh. Đã có lần chạy không kịp đành chịu trận ít lâu mới thoát. Dưới mắt Khánh lúc này, tất cả con gái dường như chỉ có Vân là đúng điệu hơn cả. Không phải là giá trị mà là "đúng tần số".
Khánh thích thú cười một mình.
Chương 2
Từ lầu ba nhìn qua khung cửa sổ xuống con đường trước mặt, tất cả nhịp hoạt động bình thường của nó như không hồn. Những chiếc xe từ bốn ngả đường xuyên qua ngã tư chuyển động hệt như những đồ chơi máy móc nhỏ của Nhật tràn vào đây từ vài chục năm trước. Những con người nhỏ bé di chuyển chẳng khác những con vịt ngốc nghếch trên bờ ruộng ngơ ngác đi theo đàn. Những mái ngói mốc đen, những bức tường nham nhở xám xịt, những hàng dây điện chằng chịt rối rắm, những hàng cây xếp thành cụm chỉ còn thấy những mảng lá xanh. Tất cả cúi đầu trong màn mưa bụi. Cơn mưa dữ dội buổi chiều với sức gió giật cấp năm cấp sáu, bây giờ chỉ còn để lại một bầu trời xám xịt với màn mưa trắng đục thoáng chút gió heo may.
Nỗi buồn cũng như từ đó toát lên, nó bao vây lấy ông Huy, nó gậm nhấm và như rứt ra từng mảnh đau đớn, từng mảnh xót xa, từng nắm hận thù, từng xâu tiếc nuối, từng đoạn đời gãy vụn. Trước đây, chẳng bao giờ ông đứng trong cửa sổ này để nhìn xuống những con đường đổ vào một ngã tư dưới kia, mặc dù đây là nhà ông và căn phòng này cũng là căn phòng ngủ của chính vợ chồng ông ngày nào- Bởi một lẽ giản dị là hồi đó ông không có thì giờ cho những thứ công việc vớ vẩn ấy. Nhìn trời và đo đường là công việc dành cho những anh thất nghiệp, vô dụng trong cuộc đời. Hồi đó ông có ba thứ việc phải làm cho cái tuổi trên bốn mươi. Đó là ngự trị trong cái chức vụ mà ông đã tóm được trong suốt những năm tuổi trẻ mà ông vẫn gọi là "đi làm việc" hay nói một cách văn vẻ và thời đại hơn là "phụng sự đất nước". Việc thứ hai là nhờ đó ông có uy quyền, dù không nhiều lắm song cũng đủ dùng vào những cái áp-phe cung cấp cho gia đình ông cuộc sống đàng hoàng, sung túc và rất có thể trở nên giàu sang. Sau khi có hai thứ đó rồi thì một người đàn ông biết sống phải nghĩ đến việc thứ ba là chơi bời "một tí". Chơi bời có nhiều loại, nhưng Huy chỉ giới hạn trong hai thứ, cờ bạc theo đúng thời khóa biểu - mỗi tuần ba lần vào thứ Năm, thứ Bảy, Chủ nhật - rồi đi ăn đi nhảy và đôi khi có đàn bà tục gọi là "ăn vụng tí đỉnh" chứ không say mê ai. Cái thời mê gái của ông qua rồi.
Ba thứ công việc ấy chiếm trọn ngày tháng của ông. Mỗi thứ công việc đều có mặt riêng của nó như ba vở kịch và ba vai trò khác nhau. Đôi khi nó đối nghịch nhau nhưng vẫn có một điểm căn bản chung, đó chính là ông. Con người thật của ông tạo thành cái "style" của toàn bộ vai diễn ba vở kịch. Người diễn viên dở nhất hoặc tuyệt vời nhất hay người diễn viên bất đắc dĩ đến nỗi không hề biết rằng mình đang đóng kịch cũng có chung một điểm căn bản duy nhất ấy. Con người thật làm nên tất cả. Làm việc, kiếm tiền, chơi bời. Người đàn ông được sinh ra để sống và chết cho ba thứ đó thôi. Ngoài ra còn gì nữa nhỉ?
Thế cũng là quá nhiều rồi. Tuy nhiên có người đồng hóa sự làm việc và sự kiếm tiền. Có lẽ đó là người lương thiện nhất hoặc biển lận nhất. Bởi, nếu chỉ lấy sức mình ra làm việc không thôi thì khó thể có tiền để phè phỡn để nghĩ đến chuyện ăn chơi. Trong khi kẻ biển lận là kẻ sống để làm mọi việc cho có thật nhiều tiền và chỉ làm việc nào có nhiều tiền cho nên làm việc và làm tiền là một. Còn ăn chơi vung vít tí đỉnh đó là bệnh muôn đời của đàn ông ngoại trừ khi anh ta vào viện dưỡng lão!

Suốt cuộc đời tuổi trẻ của ông Huy trôi qua bằng ba thứ công việc đó. Có thể nói là một sự may mắn và bây giờ nhìn lại có thể coi như cái "một thời lừng lẫy" và đó chính là mảng nuối tiếc một dĩ vãng vàng son đã qua đi, qua mãi. Song ông thường khéo léo chôn sâu giấu chặt nỗi nuối tiếc ấy, bởi ông đã từng nhìn thấy những người cũng như ông quá nuối tiếc đến trở thành lố bịch, từ lố bịch trở thành kẻ giả dối hợm hĩnh vì tưởng tượng quá nhiều để bôi son vẽ phấn cho cái "thời oanh liệt" đã qua đi của mình. Ông Huy chỉ âm thầm nhớ đến những ngày tháng ấy và bây giờ ông nhìn lại như một nhịp cầu vắt qua dòng sông đẹp thơ mộng và xanh biếc. Màu xanh dịu dàng của một tà áo nào đó trong kỷ niệm. Thật thế, cuộc đời trôi qua rất nhanh, chỉ ở tuổi trên năm mươi người ta mới thấy rõ được đời vụt qua nhanh biết chừng nào!
Mắt ông Huy bỗng mờ đi. Ông đứng đó nhìn xuống đường mà không nhìn gì hết. Trước mắt ông lại là những ngày tháng cũ- Vào những ngày tháng đó, giờ này ông không đứng ở đây, ông có khối chuyện để làm, khối điều bất ngờ để mà thú vị và tất nhiên cũng không thiếu những chuyện lặt vặt bực mình. Bởi ông chỉ là một sĩ quan trung cấp, trên ông còn hàng đống cấp bậc, hàng trăm chức vụ đè lên đầu. Tuy vậy những bực bội gai góc trong công việc lại đều mang một chút hy vọng cho ông leo lên một chức vụ cao hơn, một cấp bậc lớn hơn trong một kỳ thăng thưởng nào gần tới. Cái mồi câu ấy luôn luôn óng ánh trước mũi khiến hầu hết con người lao theo dòng nước ở bất kỳ nơi chốn nào. Cái mồi câu ấy hiện diện ở mọi địa hạt trên toàn thế giới, lơ lửng trong tâm tưởng mọi người và mỗi người đuổi theo nó bằng cái cách riêng của mình. Điều đó không loại trừ một ai, từ anh bạch đinh dân ngu cu đen đến một ông vua bà chúa. Ông Huy đã nhìn thấy điều đó khi còn ngồi trong nhà tù được ngụy trang - hay gọi một cách đầy lòng nhân ái là "Trại cải tạo". Sự ngụy trang trắng trợn đến nỗi tự nó là một sự khỏa thân thô tục không cần đến một lời bình luận nào.
- Một con điếm có vẽ hình thiên thần trên bụng thì vẫn là hình hài con điếm.
Câu nguyền rủa này thường hiện lên trong đầu ông mỗi khi phải ngồi nghe các anh cai tù giảng về đạo đức, về dân chủ, độc lập, tự do, và làm thành một hàng rào vững chắc giúp ông khỏi phát khùng lên vì bị dộng mãi vào tai mớ lý luận ngọng nghịu lặp đi lặp lại suốt mười ba năm. Thứ máy hát cũ rích với cái đĩa hát đã nứt toác mà vẫn cứ phải lên giây cót chạy ậm ạch để phát ra một loại âm thanh như chửi vào cuộc đời. Sự khó chịu lâu dần bỗng biến thành một vẻ gì khôi hài ngầm, khôi hài đen pha lẫn đôi chút thương hại của ngay cả khán giả là những anh tù.
Người ta phì cười và tội nghiệp cho những anh quê mùa dốt nát, hì hục và long trọng ra sức lên gân vặn cái máy hát cũ, hớn hở nhìn nó quay, hào hứng khi làm cho nó tuôn ra những âm thanh cà lăm mà vẫn cứ cho rằng đó là sự văn minh tân kỳ nhất trong thế giới này.
Ông Huy và các bạn tù của mình trở nên khoái chí khi nhìn thấy cái hình ảnh hài hước ấy trên khắp các sân khấu trong trại tù và ngay cả trên màn ảnh, trên ti-vi mỗi khi buộc phải xem phim, xem kịch để gọi là học tập.
Đó là những thù hận ngấm ngầm lặt vặt trong chuỗi ngày tù bi thảm kinh khủng. Về được hơn hai năm, thù hận kia hầu như nguôi ngoai đi. Ít nhất thì ông cũng đã được trở về thay vì có thể chết bằng một cách nào đó. Đói rét, bệnh tật, lao động đến đờ đẫn vật vờ, khủng bố trên mọi mặt tinh thần và tình cảm, "súc vật hóa" tước đoạt mọi giá trị con người, kìm kẹp khống chế từng giờ phút và vân vân- Nhưng ông đã không chết, ông chỉ vật vờ như một hồn ma, đôi khi ông đã phải sống một cách sống mà ông nghĩ rằng có vẻ yếu hèn. Có lẽ không anh nào còn sống sót ra khỏi trại cải tạo mà không có cảm nghĩ ấy nếu anh ta chân thật với chính mình, ngoại trừ anh ta là một con người vĩ đại - nếu thật sự trên đời còn có những con người vĩ đại. Ông Huy thường thầm nghĩ thế và ray rứt tự hỏi những lúc sống trong bị kịch kinh hoàng ấy mình có còn là mình không? Câu hỏi có hàng ngàn câu trả lời. Nhưng câu trả lời nào cũng không thể đúng hoàn toàn trong một sự việc ở một khoảng chớp của thời gian đã qua đi. Phải! Phản ứng của con người thường chỉ được quyết định trong một khoảng chớp như ánh đèn flash, khoảng thời gian định mệnh hay là khoảng của thượng đế - nếu thật sự Thượng Đế nhúng tay vào tất cả mọi việc từ xấu xa đến tốt đẹp nhất trong vũ trụ bao la - huống chi đằng này ông đã phải sống trong cùng khổ một thời gian dài.
Điều quan trọng cuối cùng là may mắn ông đã có tên trong danh sách tù chính trị được xét thả vào một ngày cuối năm. Quẳng tất cả lại phía sau để "thơ thới hân hoan" bước ra khỏi hai cánh cổng nhà tù, hai cánh cổng địa ngục gây rất nhiều ấn tượng suốt khoảng thời gian dài đằng đẵng. Những người ra về bỏ lại cả lòng hận thù, muốn quên ngay tất cả, quên luôn cả những người bạn tù từng đồng cam cộng khổ chưa được xét tha mà chẳng bao giờ biết được lý do đích thực tại sao được tha và tại sao chưa đến lượt mình được tha. Đó là sự khác biệt tàn nhẫn nhất, kinh khủng nhất và cũng đê tiện nhất giữa nhà tù của "bọn tư bản" và trại cải tạo suốt nửa thế kỷ vừa qua. Những kẻ còn lại ngơ ngẩn sau hàng chấn song sắt nhìn kẻ bước ra khỏi cổng trại tù với những đôi mắt của con thú bị thương nhìn ra ngọn đồi xanh tươi dưới một khung trời xanh cao lồng lộng.
Ông Huy đã trở về đúng vào một ngày cuối năm.
Thành phố cũ nhìn ông như nhìn một kẻ xa lạ và chính ông cũng không dám cố gắng nhìn thành phố bằng tâm trạng của kẻ thân quen. Sự dè dặt đè nặng tâm tư ông. Thành phố đã khác. Những ông chủ mới đa nghi và khó tính. Những chiếc xe đạp đầy đường. Những công viên mới và khẩu hiệu vàng chóe, đỏ rực. Những con người tất tả, áo bỏ ngoài quần, chân đi dép. Phố xá vẫn đông nhưng không thể gọi là vui hay là không vui dưới mắt ông - kẻ chiến bại đáng thương và đáng nguyền rủa. Kẻ bại tất yếu và vô lý. Đó là cái mặc cảm trĩu nặng trong ông, nó trỗi dậy như lò xo tự động khi bước chân trở về đầu tiên của ông đặt lên mặt đường nhựa.
Đến tận bây giờ ông vẫn không quên cái cảm giác ngượng ngập, buồn tủi trong khoảnh khắc trở lại với Sài Gòn sau mười ba năm xa cách đau đớn. Có những khoảnh khắc của tình yêu, của sự thăng hoa nào đó, hay là khoảnh khắc của chia xa, của hội ngộ. Chắp nối những khoảnh khắc ấy thôi cũng đủ là một cuộc đời. Với Huy, cái địa ngục trại cải tạo mười ba năm đã làm nên địa ngục mới. Bởi không có mười ba năm "học tập" thì đâu có sự tan nát của gia đình ông hôm nay.
Nhưng tất cả cái nội tâm buồn tủi ấy vẫn chưa phải là bi kịch chính trong lòng Huy. Cái chính là vết thương trí mạng ông âm thầm đeo tận góc sâu kín nhất phía dưới cùng tâm sự. Đó là chuyện vợ con ông. Sự phản bội trắng trợn của người vợ, sự hư hỏng của những đứa con và sự bơ vơ của chính ông. Đó là cái địa ngục trước mắt mà ông sẽ phải lao vào. Trên đường từ trại tù trở về, ông đã băn khoăn, lo sợ, dằn vặt đến chảy máu não bởi hình ảnh cái địa ngục tàn tệ ấy. Có lẽ nó còn hành hạ ông khủng khiếp hơn cả khoảng đường ông bị điệu đến các nhà tù từ miền Nam tới miền Bắc. Khi ra đi, ông ít đau đớn dằn vặt hơn khi trở về.
Tuy nhiên, điều mà ông tưởng là cái địa ngục của riêng ông thì thật ra lại là của hầu hết những người trở về. Năm mươi phần trăm hay hơn nữa, có thể lắm, đều vác nặng cái thánh giá gai góc của riêng mình trên vai. Hầu hết gia đình không còn hoàn hảo. Hầu hết con người ở trại cải tạo ra không còn nguyên vẹn về mọi mặt và về chính con người mình. Tự ông đã thấy ông khác đi nhiều lắm.
Phải một thời gian sau ông Huy mới nhận ra đó là sự bình thường, sự tự nhiên như chuyện phải có và nếu phải kể lại thì chẳng khác gì một chuyện cổ tích cũ mèm đã có quá nhiều người kể, chẳng còn chút thi vị hay ngạc nhiên nào. Cái đau xé ruột của mỗi người, mỗi gia đình chỉ còn là cái đau của một cô Tấm khi con cá thân yêu nuôi ở dưới ao bị bà dì ghẻ độc ác lén lôi lên làm thịt trong thứ truyện cổ tích dân gian. Người ta không thể khóc mãi, người ta phải sống, mỗi người trong cái địa ngục của mình. Và trong cái địa ngục mới ấy, mỗi người phải tự tìm lấy một chút gì của thiên đường. Dù có là giả tạo, dù có là tạm thời, song nhờ có vậy người ta mới đủ can đảm để sống.
Trở về đến nay gần tròn ba năm, ông Huy đã phải "xí xóa" hết, phải chấp nhận, hay nói cho đúng là buộc phải đầu hàng một số nghịch cảnh để sống, để hy vọng vào một sư đổi thay trong tương lai.
Tương lai huy hoàng của ông là đi Mỹ, theo diện H.O. nghĩa là diện "tị nạn chính trị". Tương lai của ông lại vẫn tùy thuộc vào tay người khác! Phải chăng một bi kịch khác lại bắt đầu?
Chương 3
Tiếng hát trầm buồn của Dalida vẳng lên dịu dàng trong căn phòng ấm cúng. Hai dãy bàn thẳng hàng kê sát hai bên tường, mỗi bàn bốn chiếc ghế gỗ bọc da nâu. Mặt bàn phủ drap trắng tinh, trên đặt một bình hoa nhỏ bằng sơn mài. Mỗi bình hoa chỉ cắm một bông duy nhất hoặc là hoa hồng màu đỏ, màu vàng hoặc là hoa lan, hoa cúc với vài chiếc lá xanh. Phía trong cùng là một cái comptoir dài, mặt gỗ đen bóng.
Bà chủ quán ngồi trên chiếc ghế cao, cái đầu xinh đẹp như mọc lên sau quầy hàng với chiếc cổ áo kẻ hoa văn rực rỡ đủ màu nổi bật giữa khung cảnh mờ ảo. Bà đang đọc một cuốn tiểu thuyết dịch từ tiếng Mỹ. Đó là loại tiểu thuyết đang được ưa chuộng ở đây và có thể đang làm giàu cho các nhà xuất bản xã hội chủ nghĩa ở hầu hết các tỉnh. Cuốn tiểu thuyết của Robbins khá hấp dẫn. Bà đọc tới cái đoạn gay cấn giữa anh trai tơ triệu phú, giàu sang cực kỳ vào hạng nhất nhì bang Florida và cũng ngây thơ cực kỳ đang mê mệt một cô gái giang hồ tóc vàng trẻ đẹp cực kỳ. Rồi ngay sau đó họ làm tình cũng cực kỳ, chỉ còn những tiếng rên như con mèo cái. Bốn cái thứ cực kỳ ấy đủ làm cho bà độc giả năm mươi tuổi nhưng còn xuân ấy thỏa mãn hoặc ít ra cũng đáp ứng được nhu cầu muốn quên đi mọi thứ phức tạp trong cuộc sống và thụ hưởng được đôi chút dù chỉ trong tưởng tượng.
- Má ơi má! Con Thủy Tú là minh tinh màn bạc.
- Sư mày! Làm tao giật mình.
Bà Linh từ trong cái thế giới của tiếng mèo gào đang được kích động mãnh liệt bỗng bị lôi trở về với thực tại, bà nổi cáu, song thật sự bà chỉ chửi yêu cô con gái đang ngồi đọc báo trên một chiếc ghế mây kê sát comptoir.
Vân đưa cao tờ báo lên trước mặt mẹ:
- Má coi nè, nó có hình in trên báo. Báo đăng là Á hậu cuộc thi sắc đẹp "Thời trang Việt Nam" Thủy Tú sắp đóng phim. Một cuốn phim tình cảm xã hội tâm lý mới toanh.
Bà Linh thờ ơ cầm lấy tờ báo. Tấm hình màu được in ở một góc trang bìa sau phơi ra trước mắt một cô gái trẻ trung, sắc sảo đang cố nở một nụ cười dịu dàng. Đôi môi bà trề ra:
- Con này đóng phim tình cảm xã hội bây giờ là nhất, suốt ngày tao thấy nó lôi mọi thứ tội lỗi vụng về của mẹ nó ra kể lể như hát hay. Nó nhiếc bố nó vô công rỗi nghề, ăn hoang phá hoại. Nó mà đóng cái màn này thì nhất xứ đấy.
Tiếng Vân cười trong trẻo:
- Hồi này nó hách lắm, má ơi. Đi xe Dream. Quần áo toàn là thứ Hông Kông chính hiệu. Giường tủ mới toanh, tay đeo năm bảy cái vòng, ba bốn cái "khoen" vàng chóe. Thợ làm tóc đến tận nhà sửa soạn sắc đẹp hàng ngày.
- Chả bù lúc phơi mặt ở đầu đường bán thuốc lá lẻ.
Giọng bà Linh đố kị rõ rệt, trong khi Vân thoáng vẻ mơ ước trước bước đi lên của cô gái cùng xóm. Vân biết rõ từng bước biến đổi cuộc đời cô gái bán thuốc lá lẻ ấy. Thủy Tú là con út của một gia đình công chức ba cọc ba đồng của "chế độ cũ". Sau khi "giải phóng miền Nam", cả gia đình lao đao như hầu hết những gia đình chế độ cũ. Ba người anh và một cô chị vượt biên. Người anh cả mất tích, cô chị đi thoát. Người em thứ ba bị bắt bốn lần, đi tiếp lần thứ năm, đến bây giờ còn nằm ở trại tị nạn Thái Lan. Người thứ tư được xác định bị hải tặc chặt đầu và làm mồi cho cá. Vậy là gia đình Tú chỉ còn lại mình cô. Hai mẹ con cô đã làm đủ việc để sinh nhai, từ bán vé số đến bán bánh cuốn, bán cà phê, may gia công. Nghề nào cũng không đủ sống. Cuối cùng là bày một quầy bán thuốc lá lẻ ở góc ngã tư sống lay lắt chờ cô chị vượt biên đến Canada gửi đô-la về giúp thêm.
Dần dà cuộc sống khá hơn, có đồng ra vào nhưng ông bố lại mang tâm trạng một "ẩn sĩ" lỡ thời, đâm ra rượu chè, đau gan, thấp khớp và linh tinh các thứ bệnh khác của kẻ chán đời về già. Hai mẹ con Tú nai lưng ra làm việc. Đây là tình cảnh của hầu hết gia đình "chế độ cũ" ở cái thành phố từng là thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975.
Cũng may Tú là cô gái xinh đẹp và đã gặp một cơ hội ngẫu nhiên để tránh khỏi cái số phận chung là sắc đẹp ấy sẽ rơi vào quên lãng sau một thời gian ngắn được vài chàng trai nuông chiều. Năm trước, phải, mới chỉ một năm thôi, Tú quen một anh chàng vẫn ghé mua thuốc lá vào giờ Tú đứng bán thay mẹ. Một anh chàng không đẹp trai, cũng không hào hoa. Anh ta là dân Hà Nội vào Nam sau 1975 mà bây giờ người ta xếp loại là dân "Bắc Kỳ 75". Anh ta là công nhân viên nhà nước, nhưng là thứ công nhân viên chạy áp phe cho công ty Raquamex hay Litamex, Cholonmex, Suphamex- xuất hiện như bầy ong vỡ tổ khắp các thành phố. Bất kỳ ở đâu khi các ông "người nhà nước" ra làm ăn theo kiểu "tư duy mới" với một thị trường tự do theo cái nghĩa "thằng nào làm gì cứ làm, miễn là có tiền nộp cho nhà nước đúng chỉ tiêu đã được cấp trên qui định". Do đó các tay công nhân viên chuyên chạy áp phe trở nên những con thoi linh động và thế lực nhất đối với các công ty, y hệt tiến sĩ Kissinger một thời ngang dọc với Nhà Trắng Mỹ và toàn thế giới. Tay áp phe này có toàn quyền tổ chức, giao dịch, buôn bán theo kiểu "hạch toán kinh tế" là cái gì có lợi thì làm, bất biết cái đó trong quyền hạn của ai. Xuất bản sách vớ vẩn, mở hội chợ, đại nhạc hội, du lịch, buôn lậu, xuất cảng cà phê, gỡ sắt vụn, nhập cảng bia, xà bông, củ kiệu, sữa, và cả thi hoa hậu áo dài áo ngắn- Chính từ cái mục tổ chức thi hoa hậu này cuộc đời Tú được bốc lên thành Á hậu Thủy Tú do bàn tay áp phe của anh Bắc Kỳ 75 kia. Cây đũa thần ấy còn sẵn sàng biến Thủy Tú thành một minh tinh màn bạc hiện đại của nền điện ảnh Việt Nam đang xập xệ vì bị Video của bọn tư bản Hồng Kông cạnh tranh ráo riết. Đấy là sơ lược cuộc đời sự nghiệp của Thủy Tú với tấm hình màu đăng trên bìa sau một tờ tạp chí. Chắc chắn tờ báo đã là đầu đề bàn tán trong mọi quán hàng và mọi ngôi nhà quây quanh cái ngã tư hỗn tạp này. Và chắc chắn nó sẽ khơi động tận đáy lòng các cô gái ở lứa tuổi mười tám đôi mươi như Vân nỗi khát khao, niềm mơ ước của hàng trăm. Nhưng dù khát khao mơ ước, họ vẫn có đủ những lý do, những dữ kiện để bôi bẩn đôi cánh trắng đang bay bổng thay vì nói tốt cho người đang đi trên con đường đầy hoa. Lòng đố kỵ thường bao giờ cũng lớn hơn sự hiểu biết.
Riêng Vân không biểu lộ sự ghen ghét, có lẽ do trong cô còn tồn đọng hình dáng của lòng nhân hậu, dù không hoàn toàn trọn vẹn. Ít ra Vân cũng không muốn bôi xấu một cô gái từng là cô bạn nhỏ của Vân khi còn nghèo túng, còn chung cái thảm cảnh của người Sài Gòn đứng xếp hàng từ tờ mờ sáng đợi mua một miếng mỡ hoặc nhào đi kiếm vài ký bo bo thay gạo. Cái thời kỳ kinh khủng của ngọn gió mới thổi vào thành phố như làn khói đặc sệt hun chuột làm nghẹn thở mọi buồng phổi, nhức nhối mọi trái tim, đau đớn mọi đôi mắt. Vân từng cùng Tú ngồi lê lết trước "ủy ban phường", đói méo mặt, khát khô cổ, chờ đến lượt được mua vài ký gạo. Hai người đã có lúc chia từng miếng bánh, từ bát nước lạnh. Sau đó dù ít gặp nhau nhưng họ vẫn đối với nhau như những người bạn cùng có chung kỷ niệm và ít nhiều cảm thông. Vân hơn Tú vài tuổi, già giặn hơn nhưng chất phác hơn, không láu lỉnh bằng Tú nên ít khi họ tâm sự với nhau. Gần đây Tú bỗng nổi bật trên ti-vi, trên báo chí. Song gặp Vân, Tú lại niềm nở chào hỏi có vẻ còn thân thiện hơn xưa, gây cho Vân cảm tưởng Tú là cô gái nhún nhường dễ thương, khôn khéo và vì vậy cô ta thành công. Trong khi đó nhiều cô gái xung quanh không tiếc một lời bình phẩm xấu xa nào về Thủy Tú. Vân không tin những điều thị phi, tuy cô cũng cho rằng không nhiều thì ít, muốn đạt thành công ấy, Thủy Tú sẽ phải "mất mát" để trả giá cho từng bậc thang, từng cái vòng, từng cái nhẫn, từng cái tủ, cái giường đỏm dáng và cả cái xe bóng lộn đáng giá năm cây vàng, chưa kể những tờ đô-la, những xấp giấy bạc và những gì khác nằm sâu trong hộc tủ.
Đó cũng là ước mơ cháy bỏng của tuổi trẻ, của những cô gái thành phố hôm nay sau các đổi thay của "dòng thác cách mạng", những chán chường của cuộc chiến tranh. Người ta nghi ngờ mọi thứ lý tưởng, ớn lạnh mọi thứ chủ nghĩa cùng những tiêu chuẩn đạo đức thường được diễn tả trên đầu môi chót lưỡi để rồi bàn tay làm hoàn toàn ngược lại. Hơn bao giờ hết đồng "đô-la bẩn thỉu" của tư bản Mỹ được trọng vọng, được mời đón, tôn sùng. Từ ông làm ra kế hoạch vĩ đại của nhà nước đến người dân hang cùng ngõ hẹp trước kia chưa hề biết đô-la là cái gì, nay đều biết nó ra sao và làm được những gì. Đó là kết quả của "thay đổi tư duy". Cái kết quả hiển nhiên, cụ thể nhất và gần gũi, chân thật với đời sống này. Một đời sống mà cái bụng rỗng tuếch mất niềm tin. Tất cả là một cái vỏ bề ngoài khác hoàn toàn với cái bề trong. Hầu hết người ta nói cái gì hợp tình hợp cảnh cho một lớp lang sân khấu và làm cái gì cần cho cái dạ dày. Việc đó thành sự kiện bình thường như nó phải như thế, nhất là với các vị có vai vế trong xã hội, những "hạt giống" của chế độ, thì đó là bộ quần áo phải mặc hàng ngày.
Từ đó lại phát sinh một loại người bất chấp tất cả, ngoài cách sống theo bản năng. Sống để săn vàng, săn đô-la. Chủ nghĩa thực dụng cá nhân được tôn thờ triệt để. Không cần học tập và cũng chẳng cần ai hướng dẫn giáo dục, họ vẫn hăng hái, kiên trì, thi đua và phát huy mọi sáng kiến, tận tâm tận lực vì chính tương lai của họ.
Bà Linh là một trong số người đó. Những ngày tháng khốn khổ vì cơn bão táp của cuộc đổi đời, bà đã phải vất vả chiến đấu với cuộc sống luôn bị đe dọa. Ông chồng đi "học tập" vô thời hạn, đúng ra là đi tù chung thân, bà lăn lóc nuôi năm đứa con bữa đói bữa no, giữ được một trong số ba căn nhà của vợ chồng bà đã tạo ra - dù tạo ra bằng thủ đoạn của một viên chức nhà nước cũ, nói trắng ra là tham nhũng, hối lộ, áp phe trên quyền hành. Có người đã mất trắng, có người đã bỏ đi. Bà chẳng may kẹt lại, nhưng bà kiên trì, dũng cảm ở lì trong căn nhà này, mặc cho cán bộ xua đi vùng kinh tế mới, mặc cho người ta gán ghép vài anh cán bộ vào ở chung, mặc cho người ta mưu toan chụp lên đầu bà hàng chục thứ tội nào là ngoan cố, nào là dấu vũ khí trong hầm nhà, nào là có mưu đồ làm mật thám cho Mỹ, nào là nhà của C.I.A. Mặc hết, bà vẫn cố thủ, bám víu lấy mảnh đất cuối cùng này. Có thể coi là cuộc "tử thủ" đúng nghĩa đối với một người đàn bà. Bà Linh vẫn tự phụ về chiến công oanh liệt đó của mình, và mỗi lần cãi nhau với ông Huy, người chồng cũ của bà, bà vẫn kể cái chiến tích lẫy lừng ấy. Đôi khi bà thần thánh hóa nó với những chi tiết ly kỳ, gay cấn, thảm khốc, oanh liệt không kém công lao cứu nước của các nhân vật anh hùng trong sử sách. Đến nỗi có lần ông Huy phải kêu lên:
- Đúng vậy thì chỉ cần một mình bà có thể đánh bại cả một tỷ quân Trung Quốc.
Bà lập tức gào lên:
- Không có tao, bố con mày ra đứng đường hết rồi. Bây giờ lấy chỗ đâu mà chui ra chui vào! Lấy gì mà vênh váo. Biết bao nhiêu người mất nhà mất cửa, chui rúc như con chó trên hè phố kia kìa. Mở mắt ra mà coi.
Cuộc đấu khẩu bùng lên ác liệt. Rồi mày tao loạn xạ. Đủ thứ lời lẽ cay đắng thô tục phun ra như máy bay rải chất độc màu da cam. Họ quất lên tâm hồn nhau những ngọn roi đầy gai và rồi dùng roi thật quất nhau sưng đầu sứt mặt. Vở bi hài kịch lập lại nhiều đến mức hàng xóm phải lắc đầu, không còn muốn "coi cọp" cái màn diễn tang thương ấy nữa. Mấy đứa con trong đó có Vân can thiệp mãi rồi cũng mỗi đứa kiếm một nơi khuất để che giấu nỗi tức tủi nghẹn ngào.
Bà Linh không ngần ngại kể với bất cứ ai về những xấu xa, tồi bại nhất của chồng. Nào là ông ấy bần tiện, keo kiệt, thô tục, ích kỷ, chơi bời, cờ bạc. Nào là ông ấy đẩy tôi vào tay bọn đàn ông quyền thế, sang giàu kể cả bọn ngoại quốc- Bà bôi xấu, vẽ bẩn lên mặt ông hàng ngàn thứ chuyện không ai kiểm chứng nổi để chứng minh bà bỏ chồng là đúng. Bà hành động đúng chứ không vì "ngựa", chịu không nổi cô đơn - mặc dù lý do này dễ chấp nhận hơn. Hầu như có một số đàn bà bỏ chồng đều cần bôi xấu chồng như thế, mặc dù mọi người vẫn nể phục những người bỏ chồng bỏ vợ mà không hé răng nói xấu người từng chung chăn gối với mình.
Vân ít can thiệp vào những "trận động đất" ấy. Trận to trận nhỏ. Trận có lý do chính đáng và cũng có trận chẳng đâu vào đâu. Trận này ông có lý, trận khác bà có lý, nhưng cãi nhau một hồi, bới xấu nhau đủ kiểu thì chẳng ai có lý nữa. Nguyên nhân chính chỉ là bố mẹ Vân đã bỏ nhau song vẫn phải sống chung trong một căn nhà. Sau khi bố Vân đi "học tập cải tạo", mẹ Vân dan díu với một người đàn ông. Rồi, một người đàn ông khác. Sau cùng thêm một người đàn ông nữa. Lần này bà có tình yêu thật sự, có nỗi đam mê và người đàn ông này đáp ứng cho bà hai điều chính: Sự khỏe mạnh về thể xác và cung phụng cho bà tiền bạc khá đầy đủ. Ông ta lại khéo chiều mấy đứa con của bà Linh, trong đó có Vân. Lũ con mau chóng chấp nhận cuộc tình này của mẹ. Vân hiểu rằng trong khi bố đi tù, mẹ ở nhà ngoại tình là một tội lỗi, nhưng là thứ tội lỗi có thể hiểu được. Nhất là bố Vân đi không có ngày về và đã đi quá lâu. Nếu như không có những người tình của mẹ thì anh chị em Vân không biết lấy gì mà sống. Vậy có thể hiểu một cách máy móc sống sượng rằng đó là một kế sinh nhai bất đắc dĩ như người đi buôn lậu chút đỉnh nuôi cả nhà trong cơn túng quẫn.
oOo
Cuộc tình nồng mặn đó xảy ra trước khi ông Huy được tha khoảng ba năm. Ông Huy nghe loáng thoáng mấy bà đi thăm nuôi chồng nói về việc này. Nhưng cái làm ông biết chắc là trong những năm sau cùng, bà Linh không hề đi thăm nuôi ông. Thỉnh thoảng bà gửi "quà tản" qua mấy người khác đi thăm chồng con. Đó là điều sỉ nhục lớn nhất của một người tù và cũng là dấu hiệu của sự chấm dứt: "Xin kính chào, quý vị cứ việc ở tù, tôi đi!" Câu đùa cợt ấy như mũi tên xuyên thẳng vào lòng tự ái, vào sự hiện diện của mình trước các bạn tù hơn là vào trái tim tình yêu.
Ông Huy đã phải nuốt nỗi đắng cay và nuôi nó trở thành thù hận. Ông đã bơi trong cái địa ngục của tưởng tượng suốt nhiều đêm dài. Ông tưởng rằng khi trở về có thể giết ngay người đàn bà phụ bạc tàn nhẫn ấy, chém nó làm trăm mảnh, không phải vì ghen tuông mà vì uất hờn.
Nhưng chuyện chém giết không xảy ra.
Ông Huy lò dò về nhà vào một buổi tối. Đúng ra ông đã đợi trời tối mới xách túi về nhà. Bởi vì sự trở về của một anh tù từng có địa vị trong xã hội cũ, có vai vế trong khu phố quả là ngượng ngùng đối với chòm xóm. Ông muốn càng ít người chứng kiến giây phút ngỡ ngàng này càng tốt. Hơn thế từ tâm trạng hoang mang, hồi hộp của mình, ông Huy còn mong chứng kiến tận mắt kẻ tình địch cùng vợ ông đang chung sống trong một căn phòng. Cảnh ấy sẽ là một bức tranh khỏa thân, chém một vết sâu vào ký ức của ông nhưng sẽ giúp ông dễ dàng dứt khoát. Còn hơn là phải sống khắc khoải trong nghi ngờ. Ông sẵn sàng đối phó với một tình thế xấu xa, hơn là sự săn đón giả vờ che giấu một sự phản bội. Ông bước chân vào nhà với trái tim của kẻ bị thương, kẻ bại trận, kẻ thất thế nhưng vẫn muốn tỏ ra bình thản tự tin.
Căn nhà vắng lặng. Tầng dưới cùng theo như ông biết đã được cho thuê khi thì hàng điểm tâm, khi thì hàng uốn tóc và thời kỳ này là một ông dược sĩ chuẩn bị mở cửa hàng bán thuốc tây. Căn phòng đang được sửa chữa. Vài tấm gỗ, vài thứ lặt vặt được xếp gọn trong góc nhà. Ánh đèn điện yếu ớt tỏa ra thứ ánh sáng vàng vọt như buồn ngủ. Bước lên lầu một, ông nhận ra tiếng cười đùa rộn ràng từ căn phòng phía tay trái lối cầu thang đi lên. Ông ngần ngừ một chút rồi bước lên lầu hai. Cả hai bên phòng đều đóng cửa im ỉm. Ông thử đẩy một cánh cửa, song cửa khóa. Ông gõ nhẹ lên cả hai cánh cửa hai bên, không có tiếng trả lời. Ông lững thững quay xuống. Nửa chừng cầu thang, ông gặp con gái ông đi lên. Hai bố con nhìn nhau ngỡ ngàng.
- Ô- trời ơi! Bố! Bố phải không? Bố đã về!
Tiếng Vân vang lên. Cô ôm chầm lấy bố khi hai cánh tay ông Huy vừa dang rộng. Họ đứng im mếu máo. Chưa thể nói gì trong giây phút này. Mừng vui, hờn tủi, nghẹn ngào- Cái cảm giác pha trộn kỳ thú của cay đắng xen lẫn ngọt ngào, của mất mát và hội ngộ như một ly cocktail tình cảm suốt đời người mới có một đôi lần. Không một thứ rượu nào trên đời có thể so sánh được.
Qua thời khắc xúc động đáng ghi nhớ ấy, Vân đưa bố lên lầu. Cô mở cửa phòng mình đưa bố vào. Đồ đạc cũ còn y nguyên nhưng tất nhiên đã trải qua một thời phong trần. Tuy vậy, tất cả vẫn lành lặn hơn so với ông, vẫn có cái vẻ đáng yêu riêng mang một chút đài các cổ lỗ của một bà quận công nghèo về già. Ông Huy chưa dám hỏi con gái về mẹ nó. "Mẹ con đâu?" - chỉ dễ dàng vậy mà lúc này quá khó khăn! Ông lẩn thẩn hỏi về những đứa con khác. Hầu hết chẳng ra gì ngoài hai đứa đã vượt biên hiện sống tại Mỹ. Đó không phải mục đích chính của ông.
Vân cũng hiểu như vậy. Và sau vài phút do dự, lúng túng được che đậy bằng một vẻ chăm sóc bố, Vân đi thẳng vào sự việc:
- Bố đừng hỏi đến mẹ con nữa.
- Sao vậy?
- Bố biết rồi mà! Mẹ đã có người khác!
- Không ở đây?
–Thỉnh thoảng mẹ mới về. Phòng mẹ ở xế phòng con.
- Sao không đi luôn?
Vân sà xuống ngồi bên bố:
- Đó là chuyện của mẹ, con không biết. Con vẫn nghĩ chuyện của bố mẹ, con cái không được quyền phê phán. Bố mẹ phải giải quyết với nhau.
- Nhưng chúng mày vẫn phải có ý kiến chứ.
Vân cố gượng cười:
- Ý kiến nào cũng là thừa, bố ạ. Ý kiến chỉ đổ vỡ thêm tình mẹ con. Thời buổi này-
Bỏ lửng câu nói ở đấy, song Vân hiểu rất rõ rằng mình đang né tránh một cách hèn hạ sự đồng lõa với mẹ, sự mặc nhiên công nhận người tình của mẹ. Và cô cũng hiểu rất rõ cái thảm kịch thầm lặng đang diễn ra trong lòng người đàn ông là bố cô. Chính cô cũng đang bị giằng xé bởi nỗi xót thương và sự hối hận của chính mình. Cô muốn khỏa lấp, muốn dừng mọi chuyện phức tạp ở đây. Bằng một giọng tình cảm thắm thiết, cô ôm vai bố:
- Con hiểu, con hiểu những gì diễn ra trong lòng bố.
Cô cố tránh hai tiếng "đau đớn" bởi cô cho rằng sự đau đớn sẽ được nhân lên gấp nhiều lần khi có người thứ hai nhìn rõ nó. Đó không phải là sự chia xẻ mà là sự kích thích. Không đợi bố cô phản ứng, Vân tiếp luôn:
- Bố sẽ sống với chúng con. Bây giờ chúng con có bố. Chúng con không còn là những đứa trẻ mồ côi trong khi vẫn còn bố mẹ nữa.
Cái đòn phụ tử ấy đã đánh trúng trái tim hận thù. Ông Huy muốn lả người đi, ông nằm dài xuống chiếc giường nệm êm ái gần như ông đã quên đi suốt mười ba năm. Không mơ ước và chẳng buồn thèm khát. Đôi mắt ông mở lớn nhìn lên trần nhà đã nham nhở nước vôi trong ánh sáng mờ đục. Dĩ vãng chưa qua, dĩ vãng đang trở lại, cáu bẩn như bức tranh vân cẩu trên trần nhà. Ông đang giẫy dụa với nó.
oOo
Đó là tất cả những gì Vân còn nhớ. Nhưng rồi lại mau quên vì quá nhiều chuyện phải suy nghĩ, phải đối phó. Cũng như những chuyện tiếp theo, những hòa dịu và những trận "động đất" trong gia đình Vân. Không thể biết xảy ra vào lúc nào vì lý do gì. Vừa mới tối hôm qua đây, trận đấu khẩu dữ dội giữa ông Huy và bà Linh lại xảy ra. Tàn nhẫn và trơ tráo. Bao nhiêu từ ngữ hàng tôm hàng cá, đầu đường xó chợ được tung ra như những mũi tên tẩm thuốc độc bắn tung tóe vào mặt hai địch thủ. Nhưng kết quả vẫn huề. Chẳng có ai bị thương! Những bộ mặt đã trở thành chai đá.
Nghĩ đến điều này, Vân ngước lên nhìn mẹ. Bà Linh đã buông tờ báo, quay về với cuốn tiểu thuyết diễm tình của mình. Lúc này hai nhân vật trong truyện đã rời nhau ra, đang thở dốc. Thế là hết một pha cụp lạc đáng tiền. Bà đang cho đầu óc quay trở lại với người tình cũ năm trước của bà. Sau "trận chiến" tưng bừng, ông ta không thở dốc mà chỉ nằm "xuội lơ cán cuốc", đôi khi còn đủ sức đốt một điếu thuốc, nói ít câu vớ vẩn trước khi thiếp đi. Bao giờ ông ta cũng có một vẻ dễ thương, nhất là trong khi ngủ. Niềm say mê đích thực của bà chính là ở tính cách đàn ông mạnh mẽ và rất biết điều của ông ta. Phải! Người đàn bà đam mê chỉ có thể dâng hiến trọn vẹn sự đam mê cho một người đàn ông đích thực mà bà định nghĩa bằng ba tính chất: Dễ thương, biết điều; cứng rắn lúc cần thiết; có trách nhiệm và biết bảo vệ người đàn bà. Thà là bà chịu ăn vài cái tát tai hơn là sự lèm bèm bần tiện của một anh ba phải. Đối với bà, đó là anh đàn ông lý tưởng, một "đối tượng" rất đáng kính nể, rất đáng được dâng hiến.
- Má ơi má!
- Gì nữa, con mắc dịch này. Mày gọi giật giọng hoài.
Vân nhoẻn cười. Má cô vẫn thế, làm việc gì bà cũng rất chăm chú và hay giật mình. Vân đứng lên giả lả:
- Sáng nay má mới có lộc phải không?
- Tài với lộc gì.Tiền từ bàn thờ nhà mày rớt xuống hả.
Vòng tay Vân ôm lấy mặt comptoir:
- Không phải từ bàn thờ mà từ "ông Bush" gửi qua. Đúng không?
- "Bớt" với biếc gì. Kệ cha cái ông "Bớt".
- Không có "Bớt" má lấy gì sắm xe Honda. Không có "Bớt", Tây cũng đói nữa là ta. Goóc-ba-chốp cũng ngất ngư.
Bà Linh cười thành tiếng:
- Sư mày, cái gì cũng biết. Đứa nào hót với mày?
Sự thú nhận của bà Linh cho Vân biết cô đã thành công nửa đoạn đường. Cô đi tiếp đoạn đường sau:
- Bà Thảo Chi nói với con. Sáng nay người ta mới giao cho má hai trăm đô của chị Phấn gửi về.
- Mồm con mẹ Chi như cái ống cống. Nó cũng được một trăm đô của thằng con trai nó từ Cali gửi về, đi khoe cả xóm.
- Con biết.
- Tụi nó giao cho tao có năm trăm ngàn, trong khi đô là bây giờ ngoài chợ là sáu trăm hai. Mả cha chúng nó, ăn trên lưng của những cái khố rách. Việt kiều bẩn.
Vân lắc đầu thở ra:
- Cũng là thứ nghề nghiệp của người ta mà má. Mình có tiền xài là được rồi.
- Tao phải trả bao nhiêu thứ nợ.
Đó là một đòn chặn họng của bà Linh, song Vân vẫn bám mục tiêu:
- Má cho con mượn tạm năm chục đô
- Tiền đâu-
- Cam đoan cuối tháng con trả má. Sòng phẳng.
- Mày làm gì tiêu lắm thế?
- Con có việc. Má thấy đấy, bao giờ con cũng sòng phẳng với má.
Bà Linh biết tính Vân, quả thật cô con gái của bà luôn luôn sòng phẳng và khi có tiền luôn luôn rộng rãi. Bà cũng từng đôi pha phen mượn tiền của Vân và không cần biết Vân kiếm đâu ra hay có biết bà cũng giả vờ như không biết. Bà do dự một chút rồi cúi xuống dưới quầy cầm chiếc bóp da lớn đặt lên đùi, lúi húi đếm tiền đưa cho Vân:
- Cuối tháng nhớ trả tao để còn lấy tiền đóng hụi cho bà Phở. Hai bát hụi chết còn nằm đó.
Vân nhét tiền vào bóp:
- Má yên tâm.

Cô tươi cười nhặt lại tờ báo, thản nhiên ngồi đọc. Có vô số tiết mục để giải trí. Nào là chuyện I-Rắc tấn công Cô-Ét, chuyện thống nhất nước Đức, vãn hồi Hòa bình Campuchia, Liên Xô đang chia năm xẻ bảy. Đấy là chuyện giải trí thế giới. Chuyện Việt Nam thì vẫn là hàng lậu, hàng mạo hóa, hàng giả, điện nước chập chờn khi có khi không, trộm cắp, hiếp dâm, sách báo băng video đồi trụy- trong khi tỉnh này vẫn "lập thành tích", tỉnh kia vẫn "vượt kế hoạch", đại hội các cấp tiếp tục đưa ra các nghị quyết chống buôn lậu, chống tham nhũng, chống văn hóa cà chớn độc hại; rồi các nhà lý luận vẫn "phát huy quan điểm xã hội theo chiều hướng mới", "đả phá bọn chủ trương đa nguyên", "xây dựng nền kinh tế vững mạnh"," tổ chức lại hệ thống ngân hàng", "cải tổ cơ cấu hành chánh liên quan đến tham nhũng trì trệ", "đi tìm thực chất và giải pháp kinh doanh"-, các trang khiếu nại khiếu tố thì đầy rẫy chuyện bị bắt oan, bị chèn ép, bị chiếm nhà chiếm đất. Các mục khôi hài vẫn là chuyện đồng lương chết đói của thầy cô giáo, chuyện các trường học làm tiền phụ huynh học sinh, chuyện mấy ông cán bộ ăn hối lộ từ điếu thuốc lá đến vỡ nợ hàng tỉ đồng. Một tờ báo mới ra mắt đang quảng cáo báo mình gồm mười tiết mục yêu đương đại loại như chuyện tình của Sophia Loren, trước ngày hôn phối, yêu nhau cần biết, hạnh phúc tình yêu là gì- Câu lạc bộ làm quen đăng vài chục nam nữ thanh niên tìm bạn bốn phương với các sở thích yêu âm nhạc, thích thể thao, mê văn chương, khoái du lịch. Chỉ còn một thứ khoái không ai chịu nói thật.
Những khi rảnh rỗi, Vân đọc không sót một chữ ngoại trừ các mục lý luận dài dòng vô ích và các mục quan điểm lập trường khô như ngói nặng mùi "nhà nước". Họ viết thế vì phải viết như thế! Đấy là lý do chính. Tội nghiệp cho người cầm bút khi phải viết những cái mình không hề muốn viết!
Chiếc đồng hồ chạy pin trên tường phát ra một điệu nhạc dịu dàng rồi thong thả gõ mười một tiếng. Vân quăng tờ báo lên mặt bàn ăn gần đấy. Tiếng gót giày cô khua lạch cạch trên nền gạch bông.
- Nhớ mua cho má chai thuốc gội đầu Thái Lan đấy.
- Con nhớ rồi.
Vân trả lời, không ngoảnh lại. Bà Linh đặt cuốn sách trên lòng, nhìn theo cô con gái. Căn nhà trở nên vắng lặng, chỉ còn tiếng hát của một danh ca ngoại quốc mơ hồ vẳng lên. Bà Linh đã thất bại trong việc mở cái quán ăn này. Bà muốn quán của bà là thứ quán đặc biệt bán các loại đặc sản miền biển: cá, tôm, cua, sò, hào. Cách đây một năm, khi người tình của bà được xuất cảnh đi theo vợ con, ông ta đã để lại cho bà một số tiền. Căn nhà này chính là nhà của ông. Người em ruột của ông có hộ khẩu được dùng tầng trên, bà dùng tầng dưới với điều kiện được miễn trả tiền nhà trong một năm. Bà Linh bỏ vốn hùn với một bà bạn cũng ở cái tuổi xồn xồn quá lứa, chồng ở Mỹ và đã có vợ khác. Hai bà là một cặp ăn ý và hai người tình cũng là đôi bạn khá thân. Họ trù tính làm một quán ăn lịch sự, nhạc ra nhạc chứ không phải loại ê a rẻ tiền. Bàn ghế ra bàn ghế. Khang trang lịch sự để câu loại khách có tiền, những chủ xe đò chứ không phải lơ xe, những cán bộ đi xe du lịch chứ không phải thứ đi xe đạp hay gắn máy cà tàng, những chủ hàng vải, hàng điện máy chứ không phải những cô thợ may. Rất có thể sẽ có cả những cô cậu "Việt kiều yêu nước" hoặc ngoại kiều chứ không phải dân Sài Gòn ăn chơi ấm ớ. Đó là những con mồi, hai bà tính bắt về cho cái quán ăn Linh Xuân này. Linh Xuân cũng là hai cái tên của hai bà chủ.
Những tháng đầu, hai bà đã cố trổ tài ngoại giao, lôi kéo đúng các "đối tượng" mà các bà quen biết tới để "chiêu đãi" làm quen với quán. Song mọi sự đã thất bại. Trong khi mấy cái quán cơm bình dân bên kia đường, mấy cái quán cà phê vỉa hè đông vui nườm nượp thì quán bà vắng tanh. Buổi trưa một hai bàn khách, buổi chiều năm bảy bàn. Không đủ tiền đóng thuế. Chịu đựng nổi từ đó đến nay cũng đã là cố gắng lắm rồi. Bà Xuân thường bỏ đi dung dăng dung dẻ với kép và quay sang nghề bán mỹ phẩm, rất ít khi lui tới đây. Còn lại mình bà Linh chịu đựng. Người tình của bà đã đi Úc được một năm. Mặc cho những lời hứa hẹn anh ra đi rồi sẽ trở về, anh nhớ em, nếu làm ăn khá giả anh sẽ gửi quà đều đều cho em. Bà Linh hiểu rằng như thế là hết. Một vài lá thư rồi tất cả chui vào đống kỷ niệm xanh rêu. Bà trở về nhà, sửa sang lại căn phòng của mình, chuẩn bị cho một cuộc sống tự lập với tràn đầy hy vọng vào cái quán Linh Xuân này. Với cái tuổi năm mươi, năm đứa con, bà vẫn chưa tự cho cuộc đời mình là hết. Bà vẫn còn sức sống và phải sống. Thiếu gì người hơn tuổi bà vẫn sống phây phây. Bà sẽ chỉ dừng lại ít lâu để chờ thời cơ. Bà phải giẵm lên mọi cái miệng độc ác, phải xoay lưng lại với mọi thứ danh giá rởm, ngồi xổm lên cái thứ tiết hạnh cổ lỗ để sống hết cuộc đời mình. Mình sống cho mình, có đứa nào lo cho mình đâu! Đợi chúng nó chép miệng thương mình là lúc mình khốn nạn rồi. Chỉ khi chúng nó ghen tức lồng lộn, chúng nó chửi mình, ấy là lúc mình khá đấy. Bà vẫn thường nói với bạn bè như thế.
Chương 4
Mang chiếc ghế mây nhỏ đặt sát một bên cửa ra vào, Vân ngồi dưới bóng rợp của hai cây me cao trên hè phố. Trên khoảng hè phố này, người ta bày bán đủ các thứ linh tinh. Từng đống quần áo cũ, mới do các công ty vỡ nợ dùng làm tiền trả cho công nhân hoặc quần áo viện trợ nhân đạo của phương Tây do dân buôn Campuchia mang về. Có thể kiếm mua ở đây đủ loại: áo gió, quần "din", sơ-mi các kiểu, áo pull, áo len, áo ấm- Cạnh đó là hàng bán các loại chén dĩa, ly tách, bình thủy, quạt, bếp dầu hôi, dao thìa- của Trung Quốc. Một loại hàng khác gồm mọi thứ đồ "lạc soong" kìm, búa, kéo, đèn, đinh ốc, các loại phụ tùng xe đạp xe gắn máy như ghi đông, niềng, dĩa, líp, sên, kính chiếu hậu- Đó là đồ "chôm" của mấy chú nhóc chạy dọc. Hoa quả cũng chẳng thiếu thứ gì, từ mãng cầu, bưởi, chuối của thôn quê Việt Nam đến lê, táo, nhãn của Thái Lan, Trung Quốc. Một loại khác gồm sữa ngoại đủ nhãn hiệu mọi quốc gia và xà bông Zet, Cadum, Palmolive, dầu thơm, dầu gió, giấy vệ sinh- Một loại tạp hóa bình dân quốc tế.
Những cửa hàng vỉa hè ấy kéo một đoạn dài hàng trăm mét, chiếm trọn lề đường, buộc khách bộ hành phải đi xuống mặt đường nhựa xen lẫn với xe cộ. Bây giờ người ta gọi là loại "chợ tự phát". Đôi khi cảnh sát giao thông cũng đuổi, cũng phạt, cũng quát nạt dọa dẫm, nhưng rồi đâu lại vào đó, bình an vô sự, gây cho người ta cái nghi ngờ rằng các thầy cảnh sát buồn buồn đuổi chơi chứ không hề có quyết tâm dọn sạch bộ mặt thành phố, hay là cảnh sát bị tràn ngập quá nhiều thứ việc quan trọng hơn nên coi mấy cái chợ chồm hổm mọc lên khắp nơi chỉ là trò trẻ, cũng có thể là họ bất lực trước người dân lúc này đã coi vấn đề vi phạm trật tự để kiếm sống là lẽ sinh tồn duy nhất của họ.
Trước cửa nhà Vân bây giờ là một đống cát, vữa, gỗ gạch để ông dược sĩ thuê nhà làm lại cái mặt tiền, chuẩn bị lên một tấm bảng hiệu lớn với dàn đèn néon bảnh chọe. Toán thợ ra sức làm từ sáng vừa ngừng tay đợi trộn thêm xi măng. Vân ngồi bên cạnh cô bé bán nước ngọt có một cái tủ kính nhỏ xíu đủ đựng vài cái ly, vài chai nước cam, vài chai xá xị, bên phải là một cái hòm gỗ xộc xệch đựng nước đá.
Cô bé vẫn chuyện trò với Vân như pháo tết, song đó là những buổi sáng rảnh rang. Bây giờ là ba giờ chiều, mấy bà bán hàng gọi nước tíu tít, khách mua hàng cũng sà vào uống, cô bé không còn hơi sức đâu nói chuyện với Vân nữa.
Sau cái gật đầu chào hỏi, Vân ngồi im quan sát hoạt động thuần thục, gọn gàng của cô bé mười lăm tuổi. Dáng gày gò, khuôn mặt trái xoan, nước da ngăm ngăm, tóc cắt ngắn, cô bé dường như không buồn chú ý đến sắc đẹp của mình. Cô ta như một cây trục trong vòng quay. Suốt ngày cứ như thế và tối về hầu mẹ, hầu em rồi mai mốt hầu một anh bố dượng nào đó. Cho đến khi biết yêu, cô ta sẽ ra sao nhỉ? Vân tự hỏi và cười vu vơ. Con người rất có thể sẽ thay đổi hẳn. Lúc đó cô ta sẽ không còn ngoan, không còn hiền hậu nết na chịu đựng như thế này nữa. Chịu đựng chẳng qua chỉ là một thùng thuốc nổ được tích tụ ngày một đầy, ngày một nguy hiểm hơn. Đến khi bắt được cơ hội nổ, nó sẽ nổ to, nổ tan tành xí quách. Nhất là gặp ngọn lửa tình, có mà trời cứu! Nó sẽ là quả bom, là cuộc cách mạng thật sự của một con người, làm đảo lộn mọi thứ. Hiếu thảo cũng chỉ là xác pháo. Công dung ngôn hạnh, phong tục tập quán cũng chỉ còn là cái bảng treo ở Viện thẩm mỹ như một kiểu tóc uốn quăn thời xa xưa thôi. Biết cái gì ở phía sau?
Mải đuổi theo những ý nghĩ về cô bé bán nước ngọt, Vân suýt quên khuấy mục đích của mình. Cô ra ngồi đây chiều nay không phải để nhìn ngắm, để suy nghĩ những thứ vớ vẩn. Cô có việc cần làm. Cô ngồi đây để chờ Khánh, người mới quen đã một lần gặp nhau ở tiệm cà-phê ba tàu và hai lần "giơ tay chào nhau" khi gặp ngoài đường vào lúc một người lên xe ra đi, một người xuống xe trở về. Khánh đi về bất thường, anh chàng đi một cái MZ khá kềnh càng. Chiếc xe không đẹp song thuộc lại đặc biệt ở thành phố này. Coi bộ mấy tháng nay anh ta vẫn chỉ là dân ăn chơi sau khi xuất ngũ. Bố mẹ đều là cán bộ gộc, Khánh chẳng cần làm ăn. Chơi không cũng đủ mệt nhoài người rồi!
Vân ngước nhìn sang bên kia đường. Cánh cửa sắt sơn xanh thấp thoáng sau dàn hoa giấy của nhà Khánh vẫn đóng im ỉm. Căn nhà ấy bỗng dưng mang một vẻ bề thế thầm kín đối với dãy phố này. Mỗi buổi sáng hai chiếc xe hơi đến đậu trước cửa đón bố Khánh và mẹ Khánh đi làm.
Bố Khánh là Phó Giám đốc của một Công ty Liên doanh, nhưng ông lại là bí thư chi bộ nên là người quyết định tối hậu mọi kế hoạch, mọi tổ chức nhân sự cũng như hành chánh. Ông giám đốc là người do chính ông phó giám đốc đề nghị cho về đây được gọi là "bố trí công tác cho người có khả năng đảm nhiệm". Mẹ Khánh cũng là một cán bộ có uy tín từng là trưởng phòng trong cục hậu cần nên được bố trí làm trưởng phòng tổ chức cho một công ty xuất nhập cảng ngũ cốc lớn nhất của nhà nước. Do đó, bà cũng nắm phần quyền lực rất cao, rất mạnh trong công ty đó. Một chiếc Mercedes 280SL cho bố Khánh. Một chiếc Toyota Camry đời mới màu trắng cho mẹ Khánh. Ngoài ra là khách khứa hầu hết đều đi xe hơi đến thăm gia đình Khánh mỗi buổi tối càng làm tăng vẻ bề thế của ngôi nhà hai tầng thoạt trông có vẻ khiêm nhường, nhã nhặn này.
Vân còn biết Khánh có một ông anh cả làm ở Viện Kiểm sát Nhân dân. Cách đây vài năm ông này đã lấy vợ và được cấp một căn nhà khác vùng Gia Định. Một nhà có tới ba người làm lớn, dù ở bất cứ chính thể nào cũng danh giá lắm rồi và ở thời buổi này còn là vinh quang. Hơn thế họ lại là những con người liêm chính - theo như lời Khánh nói - cũng là điều đáng phục. Có lẽ vì vậy nên qua bao nhiêu thời kỳ thanh lọc sàng sẩy đội ngũ cán bộ, họ vẫn đứng vững, đúng là vững như kiềng ba chân! Cái chân nọ nương tựa, móc ngoéo, dính với cái chân kia. Dù có quăng lên quật xuống cũng khó lòng đổ được. Hơn thế, những cuộc thanh lọc thường chỉ nhắm vào bọn cán bộ tép riu, lâu lâu một anh nhì nhằng cỡ hàng tỉnh bị lôi ra làm thịt là quá lắm rồi chứ có bao giờ chạm đến mấy ông cán bộ cỡ thành phố, cỡ chóp bu đâu. Nếu có chạm đến thì cùng lắm cũng chỉ là mấy ông già cúp bình thiếc sắp đến ngày xuống lỗ. "Chúng em xin tặng mỗi anh vài cái huy chương cao quý và xin mời các anh ngồi chơi xơi nước cho khỏe", đúng kiểu "tri ân" để các anh "hạ cánh an toàn" chứ không phải là như bọn tư bản vạch ra những lỗi lầm để làm "mất uy tín" của giới cầm quyền, nói chung. Chẳng dại gì tung ra những chiến dịch bôi tro trát trấu như kể tội thoái hóa, vơ vét của dân, xâm phạm tài sản nhà nước như đối với đám thiêu thân cỡ nhỏ. Người ta vẫn xì xào là thành phần nồng cốt dù đã già nua, lỗi thời vẫn quấn lấy nhau, bảo vệ nhau, bám lấy quá khứ, ôm lấy huyền thoại để củng cố địa vị, chỉ có chết mới buông. Có lẽ nhiều người cũng hiểu điều đó song cứ làm ra vẻ không hiểu cho yên thân.
Chẳng buồn nghĩ tiếp, Vân giơ tay xem đồng hồ. Ba giờ hai mươi phút! Vân đứng lên tính quay vào nhà bỗng nhác thấy Thủy Tú đang phóng xe trở về. Thủy Tú thắng xe từ từ, quẹo vào lề đường sát bên Vân:
- Chào chị. Lâu lắm mới thấy chị đấy nhé.
- Chào Tú! Hồi này mỗi ngày một đẹp ra. Tài tử đi đóng phim về hả?
- Em xin chị, em khổ vì cái trò tài tử này quá rồi. Đi đâu cũng bị người ta dòm ngó, mà mình đã đóng gì đâu.
Vân nhìn rất nhanh bộ quần áo rất đúng điệu, rất thời trang, rất "ngoại" của Tú. Chiếc áo màu hồng nhạt điểm hoa tím may rất khéo bằng thứ lụa mềm mại, cổ tròn, cánh tay ngắn, vai bồng, rộng thùng thình. Chiếc quần màu xám sẫm có những đốm trắng như vẩy bạc, dăm bẩy cái nếp xếp ép sát trước bụng, hai ống quần rộng bó dần xuống, cụt hẫng giữa bắp chân để lộ một đôi tất màu vàng nhạt tương ứng với đôi giày trắng tinh xinh xắn. Tú vẫn ngồi trên yên xe, mái tóc bay lất phất trong gió. Đôi mắt sáng trong, gò má điểm một chút phấn hồng, chiếc cổ ba ngấn đài các. Tú có vẻ đẹp khỏe mạnh, đầy sức sống cho người ta cái cảm giác đầu tiên là sự khát khao. Chỉ có nụ cười của Tú, dường như không có duyên lắm, vì thiếu vẻ tự nhiên. Vân hỏi:
- Bao giờ đóng phim ở đâu dắt mình theo coi với nhé.
Tú nhún vai:
- Còn lâu! Em không đóng loại phim ấy đâu chị ơi! Bây giờ mấy ông viết truyện phim và mấy ông đạo diễn thay đổi cách nhìn theo kiểu "Vera bé bỏng" của Liên Xô, bắt chước người ta tự do lột truồng tài tử ra trước ống kính, thêm thắt ba cái chuyện tình yêu con người, tình yêu xã hội, tình yêu lao động, vài gram trinh thám hình sự, vài ký bơi lội nhảy múa kiểu Ấn Độ, Ai Cập hay là kiểu vũ ba-lê, nhạc kích động. Đem cái món hổ lốn ấy thuyết phục nhà nước hay một anh cả ngố nào bỏ tiền ra làm phim. Em đọc truyện phim rồi đến nơi diễn thử, anh phó đạo diễn hô "bỏ quần áo ra kiểm tra coi". Em xin hàng ngay.
- Vậy là không đóng phim nữa?
- Không. Em đợi một phim nào ưng ý đã.
Vân nửa đùa nửa thật:
- Cứ đóng đại đi, biết đâu được giải thưởng. Có ai ngờ phim "Vera bé bỏng" được giải thưởng, nổi như sóng cồn đấy thôi. Các ông đạo diễn có nghề chuyên môn mới thấy mọi khía cạnh nghệ thuật trong tác phẩm của họ chứ.
- Chị nói đúng. song trước khi ông đạo diễn thấy khía cạnh đặc biệt của nghệ thuật thì ông ta muốn thấy rõ em đã. Và em thì nhìn rõ cái "tính nghệ thuật" của ông ta rồi. Nó "siêu hình" như cặp mắt hấp háy của ông ta.
Cả hai cùng cất tiếng cười, hồn nhiên như hai nữ sinh gõ guốc trên hè phố buổi tan trường. Thủy Tú lảng chuyện:
- Chị làm gì mà thơ thẩn ở đây? Đợi "chàng" chăng?
- Đúng mà không đúng.
Đôi mắt Thủy Tú tròn lên:
- Chị nói gì vậy?
- Đúng là có đợi một chàng nhưng không phải để hẹn hò hay đã hẹn hò mà là để- lợi dụng tí đỉnh. Nhờ anh ta một việc. Lấy cái xe Honda ra khỏi tay cảnh sát.
- Xe bị bắt à? Chị tính nhờ ai lấy ra?
Vân hất hàm về phía căn nhà bên kia ngã tư:
- Mình tính nhờ Khánh.
- A! có vậy mà em không nghĩ ra. Anh chàng ấy được đấy. Coi bộ cũng là dân chịu chơi và biết điều. Em mới thấy anh ta ở quán cà-phê "Hồ Cá". Chị biết chỗ đó không?
- Biết. Nhưng anh ta ngồi với ai. Lỡ người ta có đào thì phiền.
- Em thấy một đám bốn năm người, cũng không để ý xem có cô nào là đào của anh ta không. Nhưng chị cứ đến, mình có tình ý gì đâu mà sợ, mình đến vì công việc mà. Chị lên đây, em đèo chị đến, may ra anh chàng còn ở đó.
Hai người lên chiếc xe Dream phóng vèo đi, len lách giữa dòng người đầy ắp xe cộ.
Vài phút sau, Thủy Tú vòng xe vào một con đường trải đá mấp mô, màu đất đỏ quạch. Con hẻm nhếch nhác nghèo nàn như thuộc một xóm mới lập ở một tỉnh lẻ xa xôi. Chiếc xe chui vào một cái cổng sắt, men theo dãy tường dài đến một khu được gọi là "Quán cà phê Hồ Cá". Đặc điểm của nó là một chiếc hồ nhỏ nằm giữa một khu đất hình vuông, giữa hồ có một hòn giả sơn, quanh hồ có vài cành cây rủ bóng xuống mặt nước được treo đèn xanh đỏ và lủng lẳng những miếng bìa các-tông giới thiệu các món giải khát, cà-phê Moka, Chocolat sữa, Soda chanh, trà hoa cúc- Hai bên là hai dẫy lán lợp lá, kê chừng hai chục cái bàn nhỏ, một bên khác là quầy hàng thuốc lá, mé tay trái có vài bụi tre cao có lẽ đó là di sản từ vài chục năm trước. Khung cảnh khá tĩnh mịch, biệt lập hẳn với những ồn ào của thành phố. Vân đã đến đây một vài lần, cô bước xuống:
- Thôi cảm ơn, Tú về trước đi để mặc mình xoay xở.
- Vâng, em về kẻo bà già em chờ. Khi nào rảnh chị qua em chơi nhé.
Vân mỉm cười, cô thoáng nghĩ rằng Thủy Tú "méo mó nghề nghiệp", bởi các cô gái khi muốn làm ra vẻ nền nếp con nhà lành thường khép nép tuyên bố một câu ngọt ngào như mẹ em mong, bố em đợi, trong khi các cô có thể đi luôn một vài đêm, nếu thích. Chính Vân đôi khi cũng sử dụng đến "bài học thuộc lòng" đó.
Quán cà-phê đang đông khách. Vân đi thẳng vào khu lán phía trong, chững chạc như đến uống cà-phê chứ không cần tìm kiếm ai. Cô chọn chiếc bàn lửng lơ gần phía giữa hai dãy bàn dài, kéo ghế ngồi xuống, tỉnh bơ coi thiên hạ như không có. Mặc cho mấy cô, mấy cậu đang chú ý theo dõi cô một cách thầm lặng. Cô tin ở mình bởi hôm nay cô ăn mặc rất bảnh, không kém Thủy Tú chút nào. Chiếc áo Pull cổ rộng màu mận chín, nổi bật hàng chữ trắng "Lonely" và bó hoa trắng điểm tím nằm đầy trước bộ ngực căng phồng luôn chuyển động dưới chiếc áo bó sát một thân hình no tròn. Cánh tay áo cũng căng cứng và được vén cao khoe đôi cánh tay dài mũm mĩm, trắng phau. Vài chiếc vòng chạm trổ tinh vi lấp lánh trên cổ tay điểm xuyết như chùm hoa nhỏ trên một chậu hoa tinh khiết. Chiếc quần bằng thứ vải Ăng-Lê màu hoa cà cũng xếp đầy "pli", trên rộng, dưới bó, ngắn cũn cỡn rất thời trang. Cô đi giày đế thấp, có những sợi quai da xanh nhạt xoắn vào nhau. Tất cả ở cô toát ra một vẻ đẹp không lộng lẫy nhưng kiêu kì, mời gọi, khiến những đôi mắt đàn ông chẳng bao giờ bỏ qua nổi, dù chỉ có thể được nhìn như nhìn một cái bánh trứng gà bóng nhẫy trong tủ kính.
Đảo mắt rất nhanh qua hai dãy lán, Vân đã thấy cái mà cô cần tìm: Khánh đang ngồi giữa một đám năm sáu người phía bàn đối diện ở dãy nhà lá như chiếc lán đơn sơ bên kia, cách nhau bởi hồ cá chính giữa. Căn lán ấy nền cao hẳn lên gần nửa thước nên rất dễ nhận ra. Bàn Khánh đông người nên phải kê hai cái bàn nhỏ lại làm thành một cụm, chiếm một diện tích khá rộng ngay chính giữa nhà. Xung quanh đó là vài cặp tình nhân lẻ tẻ thì thầm tâm sự.
Tất cả, dường như chỉ có Vân ngồi một mình. Cô ngả người, tựa vào lưng ghế, thờ ơ nhìn lên những ngọn tre khẽ rì rào trong gió chiều. Những mảnh lá tre dài xanh thẫm in hình lên nền trời có vài dải mây trắng hững hờ trôi. Tâm hồn cô bỗng dịu lại, yên tĩnh lạ thường như muốn hòa nhập vào với khoảng không. Đó là điều cô không mong đợi.
Chú bé hầu bàn mang đến đặt trước mặt cô một ly Ovomaltine màu nâu sậm. Vân xoay chiếc ly thủy tinh nóng hổi trong lòng bàn tay. Cô hoàn toàn tin rằng Khánh sẽ đến với cô, mặc dù phía bên bàn Khánh đang có hai bóng hồng. Cô nghĩ là họ chưa thể sánh với cô. Và nếu Khánh quá sợ hai cái bóng hồng ấy không dám bước sang thì anh ta cũng chỉ là một thằng con trai hạng bét, cô chẳng bao giờ thèm chào hỏi anh ta nữa. Cô sẽ tính cách khác về chiếc xe Honda đang bị giam giữ. Sẽ còn khối cách lôi chiếc xe ấy ra, chỉ có điều tốn tiền và hơi phiền, thế thôi.
Mùi thơm Ovomaltine thoang thoảng,Vân chậm rãi uống từng ngụm nhỏ. Cô làm như chẳng buồn chú ý đến ai. "Tôi thế đấy, ai muốn nhìn cứ nhìn, muốn hiểu sao cũng mặc. "Lonely", tiếng Anh trước ngực, cô đơn đúng nghĩa, song tôi chẳng cần ai!". Vân thấy nên hút một điếu thuốc cho hợp tình hợp cảnh, nhưng chú bé hầu bàn đã đi rồi, quầy hàng lại khá xa, cô không muốn gọi. Vả lại cái cử chỉ ấy có vẻ ngang tàng quá và chẳng khác gì bọn "gái quốc doanh" kiểu mới. Đàn bà chỉ nên hút chơi một điếu thuốc lá khi ngồi trong Salon như các bà đầm, như vậy sang trọng hơn. Nghĩ thế nên cô bỏ ý định muốn chọc thiên hạ bằng điếu thuốc lá trên môi hoặc kẹp hờ giữa hai ngón tay. Cô tiếp tục uống, ung dung như cuộc đời chẳng còn gì đáng làm.
Nhưng, cô ngồi mãi, mười lăm phút trôi qua, vẫn không thấy Khánh bước sang. Cô tự nhủ đợi thêm vài phút nữa. Khánh vẫn ngồi lì bên bàn phía bên kia. Anh chàng có vẻ ít nói. Hẳn là nội tâm anh ta đang nổi lên một cuộc đấu tranh gay go "sang hay không sang". Cuối cùng có lẽ anh ta sợ! "Thằng hèn" - Vân kết luận và đứng dậy trả tiền, lững thững bước ra. Cô nghe rõ tiếng gót giày lạo xạo trên đám sỏi dưới chân. Bước chân cô vững vàng trên lối đi phủ đầy bóng rợp điểm vài xác lá khô. Vân chẳng buồn nhìn ai.
Khi cô vừa bước tới chỗ để dăm bảy chiếc xe gắn máy và xe đạp như làm thành ranh giới giữa lối đi vào cổng với quán cà-phê, một tiếng gọi phía sau khiến cô buộc phải dừng lại. Vân thừa biết tiếng gọi ấy là của ai và cô hiểu rằng cô đã là người chiến thắng. Tuy vậy cô vẫn làm ra vẻ ngạc nhiên với đôi mắt nai tơ. Khánh bước tới vài bước:
- Cô đi một mình?
Câu trả lời của Vân như mở một cánh cửa tủ lạnh:
- Vâng, một mình.
- Vậy mà tôi cứ tưởng cô ngồi chờ một người bạn nào đó nên không dám sang.
Vân vẫn có cái giọng lạnh nhạt:
- Anh nhiều tưởng tượng quá nhỉ?
- Đôi khi tưởng tượng cũng là sự cần thiết. Tôi không thích là kẻ "lỡ tàu".
Vân trở nên dịu dàng hơn:
- Tàu với đò gì! Giả dụ tôi có đợi một người khác, anh cứ sang cũng có sao đâu. Dù sao mình cũng- là bạn.
Tiếng cười của Khánh sặc mùi thân thiện:
- Đúng thế, bây giờ chúng ta cần phải sống như vậy.
Chống một tay lên chiếc yên xe, Khánh tiếp luôn:
- Nhưng cô đi đâu đây, sao hôm nay lại đi một mình đến cái quán này?
- Anh chưa thấy người con gái nào đi uống cà-phê một mình à?
- Thấy rất ít và những người đó không như cô.
- Vậy là loại nào?
- Tôi không xếp loại, chỉ biết đó là trường hợp rất hiếm. Có lẽ loại nào cũng được, miễn là họ đang ở trong tâm trạng cô đơn.
Tiếng cười nhỏ của Vân vọng lên:
- Anh tài thật, đoán được tâm trạng "người ta" qua cái bảng hiệu treo trên ngực áo!
- Tôi cho rằng "người ta" muốn nói lên một điều gì đó qua hàng chữ trên tấm "bảng biểu tình" đó.
- Đôi khi người ta chẳng muốn nói gì cả, chẳng qua chỉ vì hàng chữ đẹp. Con người lúc này giản dị hơn nhiều.
Khánh gật đầu:
- Cô có lý. Ngay cả những tấm bảng sơn son thiếp vàng cũng có thể chỉ là một trò đùa.
- Khôi hài đứt đuôi con nòng nọc đi rồi chứ còn có thể gì nữa. Nhưng tôi phải về thôi. Ông già tôi vừa bị mấy thầy cảnh sát giữ cái xe Honda vì đi nhầm đường. Xe đi mượn mới phiền chứ. Ông bác tôi lại cất giấy tờ trong ngăn tủ riêng trước khi đi Hà Nội, để xe ở nhà-
Khánh xua tay:
- Chuyện vặt. Bao giờ cô muốn lấy xe ra?
- Anh hỏi lạ thật. Chẳng lẽ đợi "giờ thứ hai mươi lăm"?
- Ngay bây giờ? Xong! Cô vào đây, tôi tính cho.
Vân còn đang ngơ ngác, Khánh đã cầm nhẹ cánh tay Vân, xoay người đưa cô trở lại bàn của mình. Năm người đang ngồi quây quần quanh những ly nước uống dở và mấy bao thuốc lá ngoại trên mặt bàn. Hai cô gái, một cô khoảng mười chín, hai mươi, một cô khoảng ba mươi. Cả hai đều mặc quần Jean xanh, áo sơ mi rộng. Còn ba chàng trai ăn mặc có vẻ giản dị hơn. Khánh giới thiệu chung cho cả bọn:
- Cô bạn hàng xóm của tôi. Còn đây là bạn bè cả.
Họ chào nhau như một thủ tục bắt đắc dĩ. Khánh kéo ghế cho Vân rồi quay sang bàn bên cạnh, lấy một chiếc ghế thấp khác kê sát bên Vân. Vừa ngồi xuống, Khánh cầm bao thuốc, rút một điếu đưa sang cho người ngồi phía trái:
- Hút một điếu đi trước khi có chuyện phải làm.
Người con trai có vẻ nho nhã, nhón điếu thuốc, đập nhẹ trên hộp quẹt gas:
- Nào, anh cần gì đến mấy ông cảnh sát? Đâm xe hay đánh lộn?
- Thông minh lắm. Lấy một cái Honda ra khỏi "phú-de" liền lập tức.
- Số? Quận?
Vân hiểu ngay câu hỏi, Khánh vừa quay sang nhìn, Vân đã nói ngay:
- Ông già tôi đi nhầm đường ở đoạn nhà thờ cha Tam, trước Quận 5. Thay vì đi đường trong, ổng đi đường giữa dành cho xe hơi.
Một tiếng cười hực lên:
- Khối anh mắc vào cái "bẫy việt vị" kiểu ấy rồi.
- Thế là "tu hít" đòi nộp phạt. Ổng không mang theo tiền và cũng thiếu giấy tờ nên bị tạm giữ- Nếu có khoảng mười ngàn chắc cũng êm-
- Thôi bỏ qua cái "chuyện dài nhân dân tự vận" ấy đi. Cô cho tôi biết số xe nữa là đủ rồi.
Người thanh niên đã cầm sẵn cuốn sổ nhỏ và cây bút bi. Vân đọc số xe cho anh ta ghi, sau đó anh ta đứng lên:
- Mang xe về đâu đây?
Khánh quay sang Vân:
- Chuyện của cô đấy.
- Anh đưa về nhà giùm, hỏi ông Huy, ở ngay ngã tư, trước cửa nhà anh Khánh nhìn sang, số 68.
- Được rồi. Mai Cơn đi với anh chứ. Còn một cái xe phải mang về kia mà.
Người con gái khoảng ba chục tuổi đứng lên:
- Đi thì đi. Có "cặp" đi vẫn trơn tru hơn phải không?
Người thanh niên nhét chiếc bật lửa vào túi, xâu chìa khóa lủng lẳng trên tay. Trước khi cùng cô gái bước đi, anh ta nói với Vân:
- Cô cứ việc hồn nhiên ăn chơi. Trước bảy giờ tối ông Huy sẽ nhận được xe.
- Tao muốn trước sáu giờ đấy.
Người thanh niên giơ tay xem đồng hồ song anh ta không nói gì bởi anh ta hiểu rằng Khánh muốn "lên gân" một tí trước mặt người đẹp cũng là lẽ thường. Anh ta bước ra khỏi quán, cô gái có cái tên Mai Cơn lững thững đi theo.
Vân nghiêng người sang sát với Khánh, thì thào:
- Anh ấy làm ở công an thành phố à?
- Không. Hắn ta làm ở văn phòng Viện Kiểm sát Nhân dân Thành phố. Bí thư của ông anh tôi đó. "Sơn Nháy". Quận cảnh sát nào cũng biết.
- Còn cô Mai Cơn là-
- Không phải bồ nó đâu. Chúng tôi lôi Mai Cơn tù trại tù ra đấy. Bảy năm tù về tội tham nhũng của công. Bán có 2 triệu lít xăng ở Tuy Hòa. Một thứ tội được gọi là lịch sự. Mới được trên bốn năm, chúng tôi lôi ra.
- Sao lại là Mai Cơn? Nghe như tên- Ăng-lê.
Khánh hất hàm nhìn người thanh niên đen đủi ngồi ở đầu bàn:
- Hùng Vạc, mày giải thích cho cô ấy nghe.

- Dễ quá. Mai Cơn, nghe có vẻ tên Ăng-lê, chỉ là cô gái có tên Lê Thị Mai, sinh năm 1958 tại phố Hàng Kênh thị xã Hải Phòng. Con ông Lê Văn Tất, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng bắn máy bay Mỹ rồi anh hùng vì bị máy bay Mỹ bắn chết. Chồng của Mai là Hoàng Việt Chiến, phó tiến sĩ, ủy ban khoa học nhà nước, vợ đã từng là chủ nhiệm cửa hàng hợp tác kinh doanh, bởi vậy mới có hai triệu lít xăng để thụt két. Đặc điểm nhận dạng cao một mét năm tám, có vết sẹo mờ nghiêng trên mắt trái, có nốt ruồi đỏ mi mắt phải. Bản tính vui buồn bất thường nên gọi là Mai có cơn, gọi tắt là Mai Cơn. Khi ở tù ra, bỏ chồng- đúng ra là bị chồng bỏ. Hiện vẫn sống độc thân. Đối tượng cần được theo dõi. Đấy là lý lịch trích ngang, nguyên xi.
Nói xong, Hùng Vạc thản nhiên, vắt chân chữ ngũ, rít một hơi thuốc lá. Ngay sau đó hắn ta đứng lên:
- Bây giờ đến lượt tôi và Phú Điên đi "bê cụ" về.
Tiếng Khánh tỏ ra uy quyền:
- Chúng mày làm sao phải có đủ số trước bảy giờ sáng mai để còn "bê cụ" xuống Hậu Giang lấy hàng.
Vân thoáng hiểu lờ mờ rằng họ đang nói về việc đi lấy tiền, "bê cụ" có nghĩa là mang tiền về để xuống tỉnh mua hàng lậu, xe lậu. Đại khái như thế.
Thêm Hùng Vạc và Phú Điên ra đi. Chỉ còn lại bốn người. Nói chuyện vẩn vơ một lát, họ rủ nhau đi ăn. Mãi đến lúc này Vân mới biết người đàn ông là Phúc Bệu, một tay con buôn loại mới phất lên từ vài ba năm nay, nhưng đã có bạc tỷ. Còn cô gái là một thứ con nhà lành, tình nhân của Phúc Bệu. Cô ta có dáng dấp của một nữ sinh mới ra ăn chơi bên anh tình nhân giàu có nên đôi khi còn ngập ngừng song lại cố làm ra vẻ lão luyện và sành sỏi để khỏi bị coi thường, bị chê là dân nhà quê. Biết vậy nên Vân luôn luôn tỏ vẻ đàn chị, chỉ cho Tuyết Nhung - tên cô gái - những nơi bán mỹ phẩm thứ thiệt, những tên nước hoa son phấn đắt tiền, những nơi chốn và những chú ba Tàu ở những tiệm gội đầu, chuyên được cái hân hạnh trang điểm cho các cô người mẫu, ca sĩ hoặc những người thường phải xuất hiện trên sân khấu. Chỉ vài giờ sau, Tuyết Nhung đã có vẻ thân thiện thực sự với Vân. Cô tâm sự rằng Phúc Bệu đang muốn ly dị bà vợ Bắc Kỳ chanh chua để lấy cô. Vân cười:
- Thứ chuyện cũ mèm của mấy anh đàn ông có vợ.
Rồi cô gạt đi:
- Dù cho anh ta có vợ cũng chẳng sao. Biết trước như vậy là tốt, cứ sống với anh ta, miễn là anh ta- đáp ứng được những nhu cầu của mình.
- Để rồi ăn đòn à?
- Cái đó tùy mình. Phải biết cách đối phó tùy trường hợp, không thể nói trước được hết mọi hoàn cảnh. Trước hết mình ở thế thủ, sau nữa luôn luôn cũng ở thế tấn công khi cần thiết. Đàn bà sợ gì đàn bà, chỉ có đàn ông mới sợ đàn bà thôi. Còn nếu cô đợi anh ta ly dị thì còn lâu. Cô lừng khừng sẽ có hàng chục đứa khác leo lên xe anh ta ngay.
- Nhưng anh ấy yêu em, yêu thành thật.
- Tạm cho là thế, song anh ta cũng có thể yêu những đứa con gái khác không thành thật. Cô có hiểu như thế có nghĩa là thế nào không? Cô sẽ mất anh ấy bất kỳ lúc nào.
- Nếu- em dễ dãi với anh ấy quá, cũng có thể mất.
- Tất nhiên. Song cũng cần xích chân anh ta lại. Thời buổi này, cô nên nhớ đàn ông không thích sự khó khăn. Làm ăn chụp giựt, làm việc chụp giựt, sống chụp giựt nên tình yêu cũng phải theo cái "quy luật tất yếu" đó. Cô khó khăn quá, thời cơ có thể đi qua không bao giờ trở lại nữa.
- Vậy là chị khuyên em nên xông tới như "thanh niên xung phong" vậy?
- Trong chuyện này không ai biết chắc là khôn hơn ai nên tôi không khuyên cô điều gì cả. Tôi chỉ nói cái gì tôi nghĩ hay nói khác đi là nếu ở địa vị tôi, tôi sẽ làm như vậy.
Suy nghĩ một chút, Tuyết Nhung khẽ hỏi Vân:
- Chị thấy anh Phúc của em thế nào?
Đôi vai Vân co lên, nhìn Phúc Bệu đang say sưa rì rầm với Khánh về một việc làm ăn nào đó. Cô cười lửng lơ:
- Theo tôi, anh chàng cũng có vẻ được đấy.
Cô hỏi tiếp:
- Giả dụ như cô cần mua một cái nhà khoảng và chục cây, anh ấy nghĩ sao?
- Đó chính là đề nghị của anh Phúc.
- Vậy cô còn chờ "lính bắt" hay chờ "Tây thổi kèn" nữa à?
Hai chị em dụi đầu vào nhau cười rúc rích.
oOo
Trong khi đó Phúc Bệu và Khánh đang bàn thảo về cái lệnh cấm bán hàng ngoại. Dù cái lệnh ấy kể ra đã khá muộn màng nhưng cũng đang làm rung động thị trường hàng lậu. Tất cả đều đang lên giá và khan hiếm. Chẳng biết nó sẽ kéo dài được bao lâu. Song những con buôn như Phúc không bao giờ bỏ qua mọi cơ hội kiếm tiền nên bàn với Khánh và cũng có thể là hắn đánh hơi, dò dẫm:
- Tôi tính bỏ ra vài trăm triệu mua lại một số hàng như đầu máy video, thuốc lá Zet, ba số năm, Fine, Dunhill cùng một số xà bông thơm các loại, bia hộp. Chỉ giới hạn trong mấy loại khó hư, có thể để lâu khoảng một năm. Cất giấu kỹ rồi đem ra bán dần. Nếu thị trường khó bán, tôi sẽ tiêu thụ ở ngay những nơi được nhà nước cho phép bán như sân bay, bến tàu, khách sạn dành cho khách du lịch. Tôi có người ở tất cả những chỗ đó, có quan hệ mật thiết với tất cả công ty du lịch thành phố và các tỉnh. Tính sơ sơ, ngoài đại công ty du lịch còn có 27 tổ chức kinh doanh du lịch thuộc đủ loại cơ quan ban ngành linh tinh khác nhau. Trung ương và các tỉnh có 11 tổ chức kinh doanh du lịch và các loại dịch vụ đủ kiểu kể cả chơi bời. Anh nên nhớ tính từ đầu năm đến cuối năm 90 thôi các loại dịch vụ này thu trên mười triệu đô-la Mỹ, chiếm năm mươi phần trăm tổng số các dịch vụ ngoại tệ của thành phố. Đấy là một nửa năm du lịch èo uột. Tôi hy vọng rằng một thời gian nữa tình hình sáng sủa hơn. Năm nay thằng Mỹ còn cấm vận đối với Việt Nam nhưng- có thể sang năm sau, nó bằng lòng xóa bỏ hai chữ "cấm vận", cánh cửa quan hệ bang giao Việt Mỹ hé mở, du lịch sẽ phát triển hơn với điều kiện các anh phục vụ du lịch làm ăn văn minh hơn, dân ngoại quốc sẽ đến đông hơn nữa-
- Vậy anh cũng tính nhảy sang hốt đô-la ở lãnh vực du lịch nữa sao?
Phúc Bệu lắc đầu:
- Không, lúc này mấy anh nhà nước độc quyền, không cho tư nhân nhảy vào mấy cái dịch vụ du lịch béo bở ấy. Nhưng nhiều công ty đang lúng túng, thất bại vì có biết cái mốc gì đâu. Rồi có lúc họ sẽ phải nhường quyền cho tư nhân khai thác, đôi bên sẽ cạnh tranh và các anh ấy sẽ sập tiệm nhưng không phải bây giờ. Hãy kiên nhẫn đợi tới ngày đẹp trời đó. Lúc này chỉ nên tính chuyện làm ăn xung quanh nó thôi. Cũng như mấy thằng cho thuê xe hơi, mấy thằng cò du lịch tranh khách ở phi cảng chuyên nghề mối lái, sang tay rồi "đem con bỏ chợ" khiến khách du lịch ngao ngán não nề. Chúng ta chỉ cung cấp cho các công ty du lịch mọi thứ hàng cần thiết mà đáng lẽ họ sẽ phải bỏ ngoại tệ mua ở nước ngoài. Như thế phần tiền của chúng ta cũng không ít đâu. Ngay bây giờ đã có vài ba cơ quan đưa mối mời tôi mua lại số hàng của họ vì tất cả các đường dây buôn lậu công khai của nhà nước đang bị hạch hỏi, bị kiểm tra gắt gao về số hàng tồn kho. Anh còn bao nhiêu thuốc lá, bao nhiêu bia, bao nhiêu đầu máy đều phải khai báo giấy trắng mực đen. Các anh ấy đang quýnh quáng hết. Con buôn ở chợ ngưng lại không dám mua hàng vì sợ bị bắt, bị tịch thu, và cái lệnh hủy tại chỗ các loại thuốc lá, băng video, mới là tai hại. Các cơ quan cũng có thể giấu hàng song lại sợ kẹt vốn vì anh nào cũng là loại đi vay tiền ngân hàng, trả lãi hàng tháng, có khi lãi lên đến cả chục triệu đồng. Cho nên các anh ấy phải tống khứ hàng đi cho nhanh để thu tiền về quay vòng hoặc trả nợ tránh lãi đã. Có thể mua hàng giá vốn hoặc thấp hơn. Như vậy khi bán ra, anh hãy tin số lời sẽ là gấp đôi, gấp ba- Hãy làm thử một con tính nhé. Một bao thuốc lá ba số năm, giá vốn tận gốc hai ngàn. Lúc này bán ra trên bốn ngàn rồi. Để đến thời kỳ khan hiếm có thể lên đến bảy tám ngàn. Anh nhân số lời cho tôi với sáu số không. Vậy là vài trăm triệu ngon ơ.
Khánh vẫn ngồi im, điếu thuốc cháy đỏ trên môi. Anh chưa có vẻ muốn nhập cuộc mặc dầu bài "thuyết trình" của Phúc Bệu khá hùng hồn và đầy hấp dẫn. Khánh đã thoáng hiểu Phúc muốn gì ở mình, song yên lặng làm giá để tự Phúc nói ra. Bữa ăn đã gần tàn. Phúc đề nghị cùng đi nhảy. Khánh quay sang hỏi Vân:
- Không bận gì chứ?
Vân làm ra vẻ lưỡng lự rồi gật đầu. Họ kéo nhau ra xe. Chiếc xe hơi mới tinh của Phúc được gắn máy lạnh, máy cassette vẳng lên một bài hát trữ tình xa xưa. Thành phố lên đèn sáng rực. Chiếc xe như một con sư tử lộng lẫy giữa bầy gà xe đạp và xe xích lô tấp nập đầy đường. Nó lao đi trên con đường nhựa mang tên một người được mệnh danh là "anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ" như một sự thách đố với trang lịch sử dành độc lập tự do cho người dân lao động hôm nay. Họ bước xuống trước một khách sạn khá sang trọng. Mấy chú em con nhà công nhân được mệnh danh là "giai cấp tiên phong" - nhào ra cúi chào rất lễ phép xin được làm cái công việc lau xe và giữ xe. Cả bốn người coi như không có nhiệm vụ phải trả lời, họ thản nhiên bước lên bực thềm của căn phòng tiếp khách, bỏ ra vài chục ngàn mua vé vào cửa, leo lên tầng lầu của Hotel Majestic cũ, bây giờ đã đổi tên thành khách sạn Cửu Long. Họ bước vào một căn phòng rộng gần như vuông vắn, máy điều hòa không khí mát rượi. Tiếng nhạc xập xình trong ánh đèn mờ. Một nữ ca sĩ trẻ trung duyên dáng đang nhún nhảy nhịp nhàng với bài hát nước ngoài nhịp "cha cha" rộn ràng. Bước vào đây như vào một thế giới khác, tất cả "khẩu hiệu" bỏ lại ngay từ lề đường như đã lùi xa vào dĩ vãng!
Bốn người được mời tới chiếc bàn vuông kê sát tường đặt sẵn bốn chiếc ghế da đen êm ái. Phúc chơi trội, gọi một chai Champague. Trong khi chờ đợi, họ nhìn ra sàn nhảy đang tưng bừng quay múa. Người ta mặc theo đủ kiểu thời trang du nhập từ Mỹ, Pháp, Hồng Kông, Singapore, Thái Lan- Hở tay, hở bụng, hở lưng, hở đùi. Quần soọc, quần ống túm, ống cao. Váy dài, váy ngắn cũn cỡn, quần bông sen, lá tọa đủ màu đủ sắc. Nhà mỹ thuật nào vào đây cũng không thể xác định nền văn hóa của nó bắt nguồn từ đâu. Khách khứa ở đây hầu hết là Việt kiều và ngoại kiều. Thành phần còn lại là một số con buôn cùng các quan cách mạng cỡ nhỏ. Các quan to thường giữ ý, ăn chơi ở chỗ kín đáo hơn hoặc ăn chơi tại gia cho đỡ mang tai tiếng. Sau cùng là bọn choai choai con ông cháu cha của thời buổi "cách mạng vua chúa". Nếu bố mẹ chúng vung tiền trong cửa sổ thì chúng vung tiền qua cửa sổ, một báo hiệu trắng trợn cho sự bốc mùi thơm của đồng đô-la và mùi tanh của lương tâm. Toàn cảnh ăn chơi kiểu tư bản này đang xóa lấp mọi thứ kinh điển, làm bong lớp sơn đạo đức quét trên một thân gỗ mục. Ngay ngoài đường phố và ngay trong tâm hồn con người cũng đang diễn ra những mâu thuẫn góp phần vào sự phá sản ấy. Buông mặc những lo toan, những thay đổi, những thăng trầm của thế sự. Vào đến đây người ta quên hết.
Chai Champagne ngâm trong chiếc xô bằng bạc đầy đá lạnh được trang trọng đặt lên mặt bàn cùng bốn chiếc ly thủy tinh chân cao trắng muốt. Một phút sau, tiếng nổ từ nút chai vang lên kênh kiệu làm những bàn khách xung quanh phải tò mò nhìn sang. Bốn chiếc ly cụng nhẹ vào nhau chúc mừng tình yêu, chúc mừng cuộc sống, chúc mừng chủ nghĩa ăn chơi. Tuyệt nhiên họ không hề xác định được chủ nghĩa nào đã cho họ hưởng những giây phút này.
Rồi Phúc Bệu đứng lên âu yếm đưa cô "bồ nhí" ra sàn nhảy. Khánh cũng đứng lên giơ tay mời Vân bước vào với nhịp Tango đèn tím. Vân nhận thấy Khánh biết nhảy song chưa giỏi. Anh ta chỉ có vài bước "phăng" học được ở bạn bè hay ở một "lò dạy nhảy" nào gần đây chứ chưa uyển chuyển thuần thục. Dù sao anh ta cũng chỉ mới ăn chơi vài năm gần đây thôi. Nghề chơi cũng lắm công phu, người ta không thể trở thành lão làng ngay được. Phải chấp nhận vậy! Vân mỉm cười với ý nghĩ ấy.
Vốn là kẻ thông minh và láu cá nên khi đưa Vân về bàn, Khánh ghé tai Vân nửa đùa nửa thật:
- Cô nhảy rất nhẹ, rất tuyệt. Tôi chưa phải là "đối thủ" của cô đâu.
- Anh nhảy cũng "ra gì" lắm…
- Đừng khách sáo thế, phải thành thật nếu mình là bạn. Nhưng tôi xin hứa chỉ một thời gian rất ngắn sẽ xứng đáng là "pạc-tơ-ne" của cô. Với điều kiện cô sẽ hướng dẫn cho tôi thường xuyên. Cô chịu ký cái hợp đồng ấy không?
Vân cười:
- Hợp đồng quả là dễ chịu song dù sao cũng cần phải có thời gian đã.
Khánh đập nhẹ tay lên vai Vân:
- Này cô bạn thân yêu, đừng õng ẹo như tiểu thư tỉnh lẻ thế. Thời gian chẳng có nghĩa gì trong trường hợp này.
- Anh nên hiểu là nó có nghĩa với từng người, không phải ai cũng vậy, không phải anh cứ vẫy tay là người ta leo lên xe, anh muốn đi đâu cũng được. Rất có thể tôi sẽ cùng với anh đi tới cùng trời cuối đất, song chưa phải là bây giờ.
- Tôi chỉ muốn được cái vinh dự đưa cô đi tới tiệm nhảy. Stop.
- Có chắc anh muốn dừng lại ở đó không?
- Chắc như đinh đóng cột.
- Rồi khi nào anh muốn đi chỗ khác, anh sẽ nói sau?
- Cô lo xa không khác gì kế hoạch năm năm của nhà nước. Ủy ban kế hoạch của Hội đồng Bộ trưởng rất tiếc không có cô đóng góp tài năng. Óc tưởng tượng của cô còn phong phú hơn nhiều ông làm kế hoạch kinh tế quốc gia.
- Tôi cũng nghĩ thế, vì dù sao óc tưởng tượng của tôi cũng còn có giá trị bởi nó thiết thực hơn, nó có khả năng tiêu liệu những chuyện có thể xảy ra chứ chẳng phải là chuyện bá vơ chẳng bao giờ có thể xảy ra cả.
Khánh bật người ra, dựa vào lưng ghế:
- Cô vừa dễ lại vừa khó. Tức là làm khó dễ nhau đấy có phải không?
Vân nghiêng người sát Khánh khiến anh nghe rõ hơi thở nóng hổi. Tiếng Vân như bàn tay vuốt nhẹ lên gáy:
- Này, "mai đia phờ-ren", anh nôn nóng như chú ngựa non háu đá. Tôi bắt đầu thích đặc tính ấy của anh đấy. Tôi kị mấy cậu công tử bột, lúc nào cũng tròn trịa bóng bẩy ngây ngô như búp-bê. Người ta nói ngựa hay thường có chứng.

Hai bờ vai chạm nhau, hai mái tóc sát lại, họ trở nên ôn hòa thân mật, rủ rỉ tâm sự như đôi chim trong bóng rợp của chòm lá cây dày đặc. Trong khi đó Phúc Bệu và cô tình nhân trẻ đang lắc lư theo một điệu disco sôi động. Một nam ca sĩ trẻ ăn mặc theo kiểu nửa mọi da đỏ, áo da thú ngắn tay, đeo chuỗi hạt dài tận rốn; nửa cao bồi Texas, quần Jean màu đất vá hai miếng đen sì giữa hai đầu gối, chân đi giầy "bốt" cao cổ có cựa phía sau gót, vặn vẹo theo tiếng gào rú của một bài ca man dại với cái giọng cố làm ra khàn khàn như ca sĩ da đen. Phải nói rằng anh ta giống hệt hình ảnh một ca sĩ nào đó trong những cuốn băng video mới được nhập vào Việt Nam. Cái tài bắt chước dập khuôn ấy làm thành một nét văn minh điển hình của thành phố vừa trải qua hàng chục năm buồn tẻ, bây giờ mới được nhỏ giọt đôi chút đời sống xì hơi. Dù sao nó cũng còn hơn là cái thời kỳ một nữ ca sĩ biểu diễn trên truyền hình chỉ cần nhún nhảy vài cái, ngoáy mông tí ti, tức khắc bị phê bình kiểm điểm và treo giò một thời gian dài, người ta gọi là "một thời để chết, một thời để rách". Cũng may cái thời gian ấy đang lột xác, đang qua dần. Song người ta đều hiểu rằng con rắn muốn tồn tại cần phải lột xác, cho nên ở đây người ta đang ăn chơi, đang vung vẩy xì hơi, nhưng ai nấy vẫn giữ tư thế phòng thủ tối đa bởi con rắn chỉ không nguy hiểm khi không còn phải là con rắn. Phúc Bệu và Khánh đều hiểu rõ điều ấy, một nguyên tắc của cuộc sống hai mặt cực kỳ tương phản, cực kỳ tế nhị. Không cho phép bất cứ ai phạm sai lầm. Bộ mặt đạo đức càng đẹp bao nhiêu càng giúp bộ mặt phi đạo đức thành công bấy nhiêu. Xét cho cùng cái nguyên tắc ấy cũng không xa lạ gì. Tuy nhiên ở đây người ta không cần che giấu nó, người ta đều nhìn ra nhau như một với một là hai và người ta hồn nhiên chấp nhận hai mặt ấy như một lẽ sống còn trong con đường một chiều, không có gì phải bàn cãi lôi thôi.
Phúc Bệu là thứ người rất sành sỏi và nhạy cảm trong cuộc sống này. Hắn bệ vệ, chững chạc, từ tốn ở những cửa quyền bởi chính hắn cũng chui ra từ một cửa quyền. Hắn đánh hơi được mọi hiểm nguy, nhìn thấu mọi dấu vết cạm bẫy thâm hiểm, song hắn cũng biết liều khi nắm được cơ hội trong tay. Bởi vậy đang làm ở quan thuế, hắn xin nghỉ việc, ra làm ngoài. Từ năm bẩy cây vàng, hắn phất lên nhanh chóng. Chỉ hơn ba năm, hắn có bạc tỷ trong tay, không để lại dấu vết đen bẩn nào, trái lại uy tín lại càng tăng. Hắn hơn hẳn những anh chủ tịch, giám đốc, tổng giám đốc tham lam mù tịt về pháp luật, lúc nào cũng có thể đi tù như chơi. Phúc Bệu nghiên cứu rất kỹ các loại pháp luật, các loại quy định loạn xà ngầu của các cơ quan được gọi là "chức năng" để rồi lợi dụng mọi kẽ hở của nó mà phất lên. Năm 1980 hắn còn là một nhân viên quèn của quan thuế cảng Hải Phòng với cô vợ công nhân viên ở nhà máy xi-măng. Hắn cạy cục chạy được vào Sài Gòn với một ông xếp lớn. Hắn lại làm việc ở quan thuế, đắc lực và cần mẫn. Năm 1986 hắn xin nghỉ việc vì bệnh yếu tim, đó là lúc hắn đã có một cái nhà, một xe Cub và năm bảy cây vàng. Hắn cố gắng làm thêm vài chục cây vàng nữa với anh "sếp" cóc cần biết luật lệ, cứ tưởng mình là nhất rồi nên liều mạng vì tiền. Phúc Bệu nhìn rõ cái nguy cơ của anh sếp sẽ có một ngày nào đó đi đời nhà ma nên hắn chạy trước. Hắn vừa làm vừa bắt mối với hầu hết các tàu viễn dương có những chàng thủy thủ xài sang như ông hoàng. Hắn nắm được các đường dây buôn lậu, biết từng cung cách làm ăn của từng cơ quan, từng công ty. Hắn ngửi được cái nào ăn nhiều mà không chết, biết cái gì như nấm độc chỉ đụng vào một tí là sưng mõm lên ngay.
Vợ Phúc Bệu đã cho ra đời ba đứa con trong cái cảnh ăn trắng mặc trơn, song bản chất của cô công nhân nhà máy xi-măng vẫn không thay đổi. Vợ hắn vẫn xập xệ, quê mùa, chỉ thích đeo vàng đầy tay là đủ. Phúc Bệu bắt đầu để ý tới cô thư ký của hãng xe đạp. Sau vài lần tằng tịu, thằng chồng cô thư ký ghen tuông, Phúc rút dù ngay. Qua tay một vài cô lọc lõi sành đời chỉ biết bòn rút, Phúc lại thối lui. Cách đây sáu tháng, Phúc gặp Tuyết Nhung trong dịp tình cờ trên bãi biển Vũng Tàu. Buổi chiều đó Tuyết Nhung đi cùng một nhóm trong công ty du lịch. Họ ngồi trong quán ăn trước Bãi Dứa. Phúc quen vài người trong công ty đó, dừng xe bước vào và được trọng vọng chào đón. Tuyết Nhung đang rất buồn, cô ngồi thẫn thờ trong một góc. Lát sau Phúc mới được biết là Tuyết Nhung vừa xin nghỉ việc ở công ty vì bị ép phải cùng với khách đi chơi đêm được gọi là "hướng dẫn dạ khách đi sinh hoạt văn hóa"! Bữa ăn chiều nay là của mấy người bạn từ biệt cô. Hôm sau Phúc Bệu chở Tuyết Nhung trên chiếc xe hơi sang trọng về Sài Gòn. Rồi sau đó mọi chuyện đã tuần tự xảy ra theo đúng cái quy trình thông thường của tất cả những mối tình như thế. Tuyết Nhung là con một giáo sư đại học đã quá già, gia đình trở nên nghèo túng, nhờ có chút vốn liếng ngoại ngữ gia truyền, cô xin được chân hướng dẫn du khách. Cô tưởng rằng mọi chuyện sẽ êm xuôi, công việc sẽ đem lại cho cô niềm vui và kiếm được ít tiền giúp đỡ bố già. Thế nhưng công việc ở đây lại không thiếu chuyện bực mình, không thiếu những cái tréo cẳng ngỗng. Tiếp viên phải "tiếp khách" đủ các kiểu, bất cứ kiểu gì mà du khách muốn. Cô bị đối xử như kẻ ăn người ở, bị sai khiến như tôi đòi, chạy vắt giò lên cổ lo cho khách từ cái va-li đến đôi dép trong phòng ngủ, thậm chí đến cả việc ngồi ôm quần áo cho khách đi tắm biển. Tuyết Nhung vẫn cố chịu đựng, nhưng đến sự cưỡng ép cuối cùng với một anh Tây già thì Tuyết Nhung hết chịu nổi. Cô quyết định xin thôi việc và chẳng ngờ lại gặp Phúc Bệu. Trong cái rủi có cái may, cô được Phúc tận tình giúp đỡ và đã ngã vào vòng tay Phúc để trả cái ơn "tri ngộ" đó. Cô chưa một lần đòi hỏi ở Phúc bất cứ điều gì. Có lẽ cô đã quen sống trong một gia đình nề nếp, được giáo dục nghiêm khắc ngay từ nhỏ nên chút ảnh hưởng còn sót lại trong tư cách của cô, làm ra tính cách riêng của cô, thoáng một vẻ ngây thơ trong sáng. Phúc say mê Tuyết Nhung hơn vì nét đẹp riêng biệt ấy mà anh hiểu rằng rất khó kiếm trong cái thành phố này.
Hai người đã từ sàn nhảy dắt tay trở về bàn. Đối với Tuyết Nhung, bao giờ Phúc cũng có vẻ chiều chuộng, hãnh diện như anh nhà quê bỗng dưng vớ được một nàng công chúa. Phúc cho người ngoại cuộc cái cảm tưởng rằng anh có thể chết vì nàng, dâng hiến tất cả cho nàng, cuộc sống của anh ta là chỉ để dành cho nàng mà thôi. Vân và Khánh đều lờ mờ nhận thấy điều ấy. Họ nhìn nhau tủm tỉm cười.
Phúc rót thêm Champagne cho mọi người cùng uống rồi trở lại câu chuyện đang bàn dở với Khánh ở tiệm ăn:
- Anh thấy vụ tích trữ hàng ngoại có được không?
Khánh hiểu đó chính là lý do Phúc mời anh đi nhảy tối nay. Có những loại người mời ai đi ăn đi chơi cần hiểu ngay đang nuôi ý định gì đây. Khánh lừng khừng trả lời:
- Anh cứ nói hết ý kiến của anh đi.
- Tôi tính là sau sáu tháng, cùng lắm là một năm, mình sẽ kiếm được một hai trăm triệu đồng, tùy theo số lượng hàng mình dám tích trữ.
- Vậy anh cần gì ở tôi?
Phúc biết rõ tính Khánh thẳng thắn và sòng phẳng nên anh ta cũng nói ngay ý định của mình:
- Tôi cần một hai chỗ để hàng tuyệt đối an toàn.
- Không thể có tuyệt đối an toàn trong những việc như thế này. Anh biết điều đó quá mà. Chỉ tương đối thôi.
- Đồng ý. Nhưng cái "tương đối" của anh là cái "tuyệt đối" của người khác rồi.
- Mặc người khác, tôi chỉ biết sức tôi đến đâu thôi.
Phúc thích thú trước lối nói chuyện chắc chắn của Khánh, anh ta gợi ý tiếp:
- Tôi nghĩ đến mấy cái Hợp tác Tín dụng vừa bị vỡ nợ, vừa bị kiểm kê, khám xét rất kỹ, bây giờ đã được niêm phong. Hỏi rằng ai có quyền cho khám xét nếu không phải là tòa án tối cao hay là Viện Kiểm sát Nhân dân?
Khánh nghĩ ngay đến Sơn Nháy ở Viện Kiểm sát và Vạc ở văn phòng công an thành phố, nhưng anh vẫn hỏi:
- Được rồi, cứ coi như có thể xé niêm phong ra rồi dán lại dễ như lấy đồ trong túi, song chuyển hàng vào bằng cách nào? Cửa sau à?
- Không cần bóc dán gì hết. Từ nhà bên cạnh, đục tường ngang hông, đến đêm chuyển hàng vào rồi xây lại. Vấn đề là phải giữ được nguyên tình trạng niêm phong của nhà nước trong vòng một năm. Cái đó thì đủ sức làm chứ?
- Anh có sẵn mối lái các căn nhà kế bên rồi?
- Dĩ nhiên. Nếu cần tôi mua lại một hai căn nhà đó. Chẳng bao giờ mua nhà bị lỗ đâu mà sợ. Tôi sẽ cho mấy tay em đến ở để làm nhiệm vụ coi kho luôn. Bày đặt buôn bán vài thứ vớ vẩn, không ai để gì hết. Tha hồ khuân vác đồ vào.
- Anh tính gọn lắm.
- Còn giải pháp thứ hai. Kho hàng được để trong khu quân sự lẫn với vũ khí. Hàng sẽ đựng trong các thùng đạn súng cối súng trường và các loại "container" quân sự. Đố ai khám phá ra. Chỉ cần một đơn vị quân đội nặng ký là đủ.
- Thôi đừng dây dưa với mấy bố con nhà lính. Tôi đã ở trong bộ đội, tôi biết rõ các bố ấy lắm. Bố nào cũng rách và bố nào cũng muốn có tí tiền còm. Bàn đến chuyện này sẽ có khối anh gật như máy. Nhưng vừa làm vừa run, nhát tổ mẹ. Rồi lại còn cái nạn các bố rình nhau, tố nhau, đố kỵ nhau về đủ chuyện, lon lá, cấp chức, anh có tiền vung vít, anh đói rình rập- Sơ xảy một chút là đi đời nhà ma hết.
- Đồng ý. Tôi nghe anh. Tuy nhiên anh cũng không nên quên rằng tôi từng nhận nhiều loại hàng bằng xe quân sự và đã gửi cả trăm tấn hàng trong kho quân sự. Nhưng chỉ trong thời gian ngắn và cả đơn vị cùng đồng ý lấy tiền để xung vào quỹ "phúc lợi đơn vị", tăng tiền ăn cho lính.
- Quỹ Phúc Lợi ăn một phần, còn hai phần chui vào túi thủ trưởng, phải không? Tôi rành sáu câu kiểu đó mà.
- Bây giờ cả nước như thế mà. Người ta "tỉnh" rồi, không anh nào "say" như ông Đức nhà anh nữa đâu.
Khánh hơi nhếch mép rồi ngồi im. Hình ảnh người anh cả của anh thoáng hiện rồi vụt tắt. Người ta bảo Đức hơi gàn, kể cũng có lý mà cũng vô lý vì anh ấy là con người rất thông minh, lý luận đâu ra đấy, làm việc gì cũng chững chạc, trung thực. Nhưng lúc này không phải lúc phán xét về việc ấy. Khánh đang suy nghĩ về những điều Phúc Bệu đề nghị. Anh chần chừ vì công việc cần một thời gian dài nên khá mạo hiểm. Nếu có gì đổi thay thì mất trắng tất cả. Thời buổi này không thể chi tiền ra nhiều mà không lấy về ngay. Chuyện gì cũng có thể xảy ra. Đồng tiền lại trôi nổi bấp bênh, mất giá từng ngày. Thu hàng qua nhiều trung gian cũng rất dễ bị lộ. Chơi trò nhức tim đôi ba ngày thì Khánh có đủ bản lãnh chứ chơi trò nhức tim dài hạn như luôn luôn có lưỡi gươm đu đưa trên đầu, Khánh chưa quen và anh cũng không thích cái kiểu làm ăn rắc rối ấy. Mặt khác, Khánh cũng ngờ rằng số tiền một hai trăm triệu phải bỏ ra, Phúc chẳng dại gì bỏ hết. Chẳng qua số hàng lậu từ mấy đầu dây ở các tỉnh và cơ quan trong thành phố này đang lên cơn sốt vàng da vì bị nhà nước bắt khai báo toàn bộ số hàng ngoại tồn đọng nên các anh thủ trưởng tìm cách giấu đi để bán dần sau này. Nhưng để chứng minh được số tiền hụt vốn, Phúc là người nhận hàng với một cái giấy nợ cung cấp một mặt hàng nội địa nào đó hoặc một cái hợp đồng hợp tác sản xuất ma nào đó rồi Phúc sẽ thanh toán lại số vốn và chia lời khi đã bán được hết hàng. Như thế cùng lắm Phúc chỉ phải bỏ ra một số vốn rất ít mà hàng nắm trong tay, Phúc vẫn cầm đằng chuôi. Có mất, Phúc cũng chẳng mất bao nhiêu, có tù cũng là mấy tay đàn em đói rách, ở tù thay vài năm rồi lại được ân xá. Phúc không dại gì bán vàng hay bán đô-la đi mua hàng quốc cấm để trong kho cả năm. Mai mốt hàng bán lời gấp đôi gấp ba thật đấy, song vàng và đô-la có thể lên giá gấp bốn gấp năm, lỗ trắng máu. Phúc không dại, không làm ăn bấp bênh. Có thể Phúc sẽ thuyết phục một anh quan nào đó quá nhiều tiền, không biết làm gì, bỏ tiền ra hùn với Phúc. Như vậy là Phúc sẽ có hơn cả số tiền mà hắn phải bỏ ra. Khánh tung một câu dò hỏi:
- Vậy anh tính tôi cần bỏ bao nhiêu để hùn với anh?
Phúc cười hì hì rung cả rốn:
- Cậu Út ơi, cậu chẳng cần bỏ xu nào cả. Tôi bỏ hết.
Khánh gật gù:
- Tôi tưởng anh gạ tôi bỏ ra một nửa tiền vốn thì- xin lỗi- tôi sẽ đập vỡ cái mặt mẹt của anh ngay lập tức.
- Cậu có thấy tôi lèo lá với cậu bao giờ chưa? Ma bắt tùy mặt, quan bắt tùy người. Anh em mình lúc nào cũng thẳng thắn. Tôi hứa với cậu không bao giờ "chơi gác" cậu dù chỉ một ly. Tôi rất sẵn sàng bất cứ lúc nào cậu cần tới tôi.
Bàn tay Phúc xoè ra và nắm tay Khánh:
- Được rồi, anh em mình cứ thế nhé.
Hai người lại nâng ly, cụng ly thật mạnh tỏ dấu hiệu hữu nghị thắm thiết dĩ nhiên là hơn Trung Quốc và Việt Nam nhiều. Tiếng Khánh rõ ràng từng chữ:
- Anh lấy hàng ở đâu và dùng tiền của ai, mặc anh, tôi không cần biết. Tôi cũng không hợp tác làm ăn với anh trong vụ này bởi lẽ giản dị là tôi không thích, thời gian dài quá, có thế thôi. Tuy nhiên tôi sẽ hết sức giúp anh về vụ kho an toàn. Thằng Sơn Nháy và thằng Hùng Vạc sẽ cộng tác với anh. Tôi sẽ bảo chúng nó gặp anh vào ngày mai ở quán cà-phê Hồ Cá hay là ở đây, nếu anh muốn chiêu đãi chúng nó trước khi nhập cuộc. Riêng tôi, anh không phải lo tới điều kiện nào cả. Sẽ có lúc anh giúp tôi. Được chưa?
- Tôi rất tiếc cậu không hợp tác-
- Dẹp cái tiếc lẩm cẩm của anh lại. Tôi không thích thì không làm. Tôi có nhiều chuyện khác, anh hiểu cho.
- Ô kê! Nào uống tiếp đi. Mời các cô nữa chứ. "Hàng ngoại muôn năm", bây giờ thì nó "muốn nằm" nhưng nhất định sau đó nó sẽ còn tồn tại "muôn năm". Không có nó, chúng ta đói hết, chúng ta sợ ăn sắn đắng H34 lắm rồi. Chúng ta muốn ăn cơm và nhảy đầm.
Cả bọn cùng cất tiếng cười hòa trong tiếng kèn trumpet vừa cất lên một âm điệu não nùng như tiếng nấc nghẹo ngào của những hồn ma oan khuất nào từ xa vọng lại.
Chương 5
Cơn mưa bụi vẫn làm cho khung trời ảm đạm và làm cho cuộc sống của người đàn ông trên năm mươi tuổi sống trong căn phòng cô đơn càng nặng nề thêm. Bốn bức tường như bốn mảnh ván thiên, khung cửa sổ là lối thoát cuối cùng bằng tầm mắt.
Ông Huy vẫn đứng đó, sau khung cửa sổ, nhìn ra bầu trời nhưng là ông đang nhìn vào cuộc đời mình.
Một cuộc đời- định nghĩa thế nào nhỉ?
May mắn đi kèm với bất hạnh, người hùng và kẻ hèn hạ cũng là một, chung thủy ở đó và phản bội ở đó, sang trọng và nghèo túng, tù đày và chờ đợi, dĩ vãng và tương lai thả nổi, cái vòng quay của bi kịch một con người tương đối được gọi là trí thức, là hiểu biết của con dân một nước nhược tiểu phải chăng đang quay lại? Nó cũng sẽ bắt đầu từ may mắn đi kèm với bất hạnh rồi tất cả được diễn ra dưới một hình thái khác, nhiều sắc màu hơn và biết đâu sẽ chẳng đau đớn và tàn nhẫn hơn?

Ông rùng mình nghĩ tới một ngày gần đây, ông từ giã quê hương này ra đi, đoạn tuyệt với quá khứ, xa rời quê hương để nhận lấy cuộc sống của kẻ lưu vong no đủ, nhưng sẽ cực kỳ cô đơn, cực kỳ buồn thảm trong cái tuổi già bất lực trước lớp sóng vĩ đại của tuổi trẻ. Ông sẽ bị nhận chìm trong cơn bão tố văn minh cơ khí, sẽ bơ vơ ôm hộp sữa lớn và chiếc bánh mì đi trong hoang mạc. Ông nghĩ vậy nhưng ông vẫn phải đi, vẫn phải đợi chờ cái ngày tươi đẹp mà đau đớn kia đang tới. Ông không còn con đường nào khác nữa. Sinh lộ hay là mê lộ? Ông không muốn trả lời câu hỏi này. Ông chỉ biết rằng ông phải ra đi như kẻ khát giữa sa mạc phải đành uống ly nước đắng đục ngầu cát sạn. Ông cũng muốn bắt chước những người khác, giả vờ quên, tự đánh lừa mình rằng ly nước ngọt ngào thơm phức như mùi Coca-Cola của Mỹ. Ông không còn là cậu trai trẻ mang tâm trạng của kẻ "ra đi tìm đường cứu nước", cũng không thể mang nỗi háo hức ra đi như cánh chim tung gió tìm đến một phương trời bao la để trở thành Phượng Hoàng. Ông ra đi vì tương lai của những đứa con, ông ra đi vì chính ông cần thoát khỏi tình trạng khốn khổ trong cái gia đình bất hạnh này. Ông ra đi để thay đổi môi trường xã hội, tìm hy vọng vào một tình trạng mưu sinh dễ chịu hơn. Chính vì vậy, ông chấp nhận tất cả với dự tính mơ hồ rằng ông ra đi rồi sẽ trở về nếu cuộc sống ở đó thật sự là địa ngục. Ông đã từng ở dưới chín từng địa ngục rồi thì có thêm một địa ngục thứ mười cũng không thể khổ hơn. Tuy nhiên từng địa ngục thứ mười biết đâu lại chẳng ở thiên đường và sẽ là nhà tù dành cho kẻ cô đơn già cả và dễ dàng trở thành tàn phế? Ông sẽ ngoi ngóp bơi một mình trong nước lạnh của biển đêm đen sì mênh mông nhìn lên bầu trời đầy sao.
Nỗi trăn trở ray rứt ông từng ngày từng giờ.
Thế nhưng ông vẫn chạy đủ tiền để ra tận Hà Nội, xoay xở ký hợp đồng với Trung tâm dịch vụ xuất cảnh ở Phố Hàng Bài. Chẳng phải ông "chạy" để được đi sớm hơn những người khác. Ông phải chạy dịch vụ vì nếu không qua cửa ải ấy thì không biết bao giờ mới được lên danh sách để đưa sang cho phái đoàn Mỹ. Trung tâm dịch vụ là do Chính phủ lập ra, nói khác đi là nhà nước buộc những anh xuất cảnh theo diện tỵ nạn phải nộp một số tiền lớn cho nhà nước cùng với toàn bộ tài sản phải để lại. Một hình thức "mua bán người" kiểu hiện đại! Và anh nào muốn đi sớm hơn, nộp đơn sau mà thích đi trước, lại phải chi ra một khoản tiền gấp đôi. Ông Huy đã không làm việc này. Ông nghĩ rằng ông chẳng cần gì phải đi gấp. Ông sẵn sàng nhường bước cho những "anh em" có nhu cầu đi sớm hơn. Nói là nói thế thôi chứ thật tình, ông Huy cũng chưa đến nỗi tốt quá với "anh em" đến như thế. Chỉ giản dị là vì những trăn trở của ông, vì cái viễn ảnh không lấy gì làm sáng sủa lắm ở tương lai bên xứ người xa lạ, nên ông buông mặc, bao giờ đến lượt mình thì ra đi. Cho nên đến giờ này ông vẫn chưa cầm được tờ hộ chiếu trong tay. Ông vẫn còn chờ đợi.
Đôi mắt buồn thảm của ông Huy bỗng sáng lên khi chợt nhìn thấy hình bóng một người đàn bà hiện ra trên ban-công của căn nhà hai tầng phía bên kia đường phố. Tiếng gọi của ông Huy vang lên tự trong lòng:
- Cúc! Bà Cúc!
Bà ta mặc một bộ đồ ngủ màu hồng mỏng manh, đang chăm sóc, cắt tỉa mấy chậu hoa hồng đang trổ bông. Điều đó không phải là thói quen của bà. Có lẽ hôm nay là ngày Chủ nhật bà mới có thì giờ làm công việc ấy. Mọi buổi sáng, bà dậy đi làm rất đúng giờ. Cứ thấy bà bước lên xe là đồng hồ chỉ bảy giờ kém mười lăm. Bà ăn mặc giản dị nhưng vẫn không mất đi vẻ duyên dáng mặc dù ở vào lứa tuổi đã cao. Bà vẫn còn đôi nét của một thuở nào xa xưa, thời còn là cô nữ sinh Hà Nội.
Chương 6
Hồi đó Huy là cậu học sinh lớp cuối trường huyện gọi là "Cours Superieur". Là một học sinh không xuất sắc lắm song Huy được bạn bè chú ý vì anh đi học bằng xe đạp, đôi khi bằng xe tay khi trời mưa gió, hoặc đôi khi lấy cớ xe hư, Huy cưỡi con ngựa trắng đến trường, buộc vào gốc bàng. Một anh người làm chạy theo chăm nom con ngựa cho đến lúc Huy ra về. Gia đình Huy là một gia đình giàu có trong vùng. Bố Huy chỉ có cái hàm "Cửu Phẩm Văn Giai", song chú ruột Huy lại được bổ Tri huyện rồi thăng Tri phủ. Bác Huy làm Thông phán tận Phủ Toàn Quyền Tây. Gia đình Huy được toàn huyện nể trọng, ngay cả Quan Tri huyện sở tại cũng đến làm thân.
Năm ấy học sinh "Cours Superieur" đi thi bằng tiểu học – được gọi nôm na là đi thi "Séc" – tận trên tỉnh để được nhảy lên bậc trung học bắt đầu từ "Première Année". Huy lên tỉnh thi và đã đổ vào loại "Bình", nghĩa là trên được loại "Bình thứ" và "Thứ". Thế cũng là hãnh diện lắm rồi. Các thầy giáo trường huyện bèn tổ chức một ngày lễ long trọng tại Văn Miếu để giới thiệu các học sinh xuất sắc của huyện nhà. Đây là dịp cuối cùng Huy gặp các bạn cũ trong trường huyện gồm ba lớp "Moyen Un", "Moyen Deux" và "Sup". Bởi sau kỳ thi, Huy sẽ lên học ở trường tỉnh và có một số bạn bè chỉ cố học được mảnh bằng tiểu học rồi ở hẳn nhà để lo việc đồng áng, làm ăn, cưới vợ, đẻ con.
Huy chú ý đến Cúc ngay từ năm cô học lớp "Moyen Un". Một cô bé từ thành phố về đây. Cô bé có đôi mắt to, mái tóc cắt ngắn như búp bê, trắng như trứng gà bóc, hồn nhiên và dịu dàng làm sao.
Cúc là con gái một người làm thợ rèn trước cổng chợ huyện. Một người thợ rèn khá đặc biệt. Ông ta to cao với khuôn mặt vuông vắn cương nghị để hàm râu quai nón xồm xoàm. Hai cánh tay lực lưỡng luôn luôn kéo lên ấn xuống hai cánh bễ tròn và dài làm bắn lên những tia lửa xanh lè, hoặc giáng những nhát búa chính xác xuống thanh sắt được đặt trên cái đe thép cắm xuống giữa căn nhà trên nền đất. Mỗi lần đi học, Huy đều đi ngang căn nhà thợ rèn ấy. Nghe nói ông thợ rèn từng làm tại một hãng lớn của Tây tận Nam Định. Ông là một trong những thợ cả về nghề "nguội" tức là uốn cong, đánh dẹp các thanh sắt để bắt chúng phục vụ cho nhu cầu của con người. Nhưng rồi ông bị thương trong một tai nạn, chân trái dập xương, được chủ Tây bồi thường một số tiền lớn. Ông nghỉ việc, đưa vợ con về quê sinh sống bằng cái cửa hàng nhỏ bé này với căn nhà gạch ba gian khang trang phía sau cửa hàng xập xệ. Ông có người bạn làm đội lính khố xanh ở một đồn lính cách huyện hai cây số. Họ quen nhau từ hồi còn ở thành phố Nam Định. Chiều chiều, ông đội lính khố xanh phóng chiếc mô-tô "Bécane" đến chở ông đi ăn, đi uống vài chén rượu. Một chân ông khập khiễng làm cho cả cái thân hình to lớn bè bè luôn luôn lắc lư. Nhưng rồi một đêm cả hai người bị giết chết, người đội khố xanh và ông thợ rèn phơi xác giữa mặt đường trải đá xanh. Người ta đã đâm ông bằng chính những thứ do ông làm ra, thuổng, cuốc, mai, liềm, mã tấu. Thi thể ông nát nhừ. Đây là một đòn trừng trị của phong trào cách mạng toàn dân đang lên cao. Mặt trận Việt Minh còn hoạt động bí mật song đã bắt đầu có những hành động bạo lực giáng lên chính quyền phong kiến thực dân đang bị phát-xít Nhật đánh cho những đòn trí mạng. Phong trào yêu nước của toàn dân, của tất cả các đảng phái, của những tâm hồn yêu nước Việt Nam như bão táp đang sôi sục chuẩn bị cho một ngày giành lại quyền tự do, quyền độc lập. Người đội khố đỏ và ông thợ rèn từng làm việc cho Tây đã là miếng mồi ngon làm con vật thí thân.
Từ ngày bố chết, hai mẹ con Cúc sống trơ trọi trong căn nhà gạch vắng lạnh. Cúc vẫn đi học, mặc đồ tang, trông cô vừa đáng thương vừa xinh đẹp hơn. Huy học trên Cúc một lớp. Anh đã kiếm nhiều dịp để nói chuyện với Cúc, song chỉ có những cơ hội ngắn ngủi giữa giờ ra chơi của buổi học. Tất nhiên câu chuyện chỉ là vớ vẩn rất trẻ con. Nhưng dù là trẻ con cũng đã hiểu những cảm tình riêng tư dành cho nhau.
Cuối buổi lễ "giới thiệu học sinh xuất sắc của huyện nhà", Huy mời vài người bạn về nhà mình chơi một ngày và quyết định mời Cúc. Anh đường hoàng tiến lại, chững chạc như một cậu con trai trưởng thành:
- Cúc này, tôi tính mời mấy người bạn về thăm nhà tôi.
Cô bé búp bê ngước lên bối rối:
- Anh nói gì kia?
Huy bỗng trở nên ấp a ấp úng:
- À- à- tôi mời mấy người bạn về thăm nhà tôi.
Cúc đứng im, đôi mắt to như tinh nghịch khiến Huy càng cà lăm thêm:
- Tôi- tôi- muốn nói là hôm nay- vui quá- hôm nay là ngày cuối cùng-
- Cuối cùng cái gì cơ?
- Ngày cuối cùng- tôi học ở trường này.
- À phải. Hết hè này anh đã là học sinh "ban thành chung" trường tỉnh rồi.
Đôi má Huy đỏ bừng:
- Tôi- tôi- vẫn thích trường chúng ta hơn.
- Nhưng lên tỉnh vui hơn và oai hơn.
Câu chuyện ấm a ấm ớ, suýt nữa Huy đã không nói được ý chính, anh phải vòng vèo mãi mới diễn tả được lời mời long trọng đầu tiên trong cuộc đời mình:
- Tôi- tôi muốn mời Cúc đến chơi nhà tôi cùng mấy người bạn nữa-
Cúc ngần ngừ rồi cúi đầu:
- Cúc về xin phép mẹ đã, không biết mẹ có cho Cúc đi không.
Bần thần vài giây, Huy bỗng nảy ra một sáng kiến:
- Tôi sẽ đến nhà Cúc xin phép mẹ cho Cúc, được không? Cả mấy cậu kia nữa cũng tới nhà Cúc ngay bây giờ.
Lại ngần ngừ một lát, Cúc gật đầu:
- Được rồi, để Cúc về trước rồi các anh hãy tới nhé.
Huy không ngờ khi đến xin phép được mẹ Cúc chấp thuận ngay. Mẹ Cúc còn trẻ và đẹp, một sắc đẹp mặn mà của người thành phố. Nghe nói mẹ Cúc vốn là một cô gái nhan sắc, con một ông chủ hàng tạp hóa khá giàu. Bà rất tự nhiên, phóng khoáng, lịch thiệp. Bà cho phép Cúc dùng xe đạp của bà và chỉ được đi đến bốn giờ chiều. Huy cùng ba cậu bạn cam đoan sẽ đưa Cúc về tận nhà.

Thế là hôm sau bốn người bạn kéo đến nhà Huy. Họ được gia đình Huy đón tiếp niềm nở. Căn nhà Huy là một dinh cơ đồ sộ ngay đầu làng rộng khoảng một mẫu tây. Trước hết là chiếc cổng gạch bề thế, hai cánh cổng gỗ lim nặng nề lên màu đen bóng như thép. Xung quanh là hàng rào tre dày đặc. Bao vây phía trong dinh cơ là ao cá thay cho những hào sâu. Phía trong nữa là một hàng rào gạch cao vút. Lối đi vào được lát gạch trên hai cái ống cống lớn. Bên trong lại một lần cổng gạch cánh gỗ y như cổng trước. Bốn góc dinh cơ là bốn cái chòi gác nhô cao khỏi những mặt tường cắm đầy mảnh chai sắc nhọn. Trong cổng là một chiếc sân gạch bát tràng mỗi chiều khoảng ba mươi thước. Phía tay phải là tường hoa chạy dọc để phân cách sân và một khu vườn xanh tốt đủ các loại cây bưởi, vải, na, chanh, lựu- Phía trái là một căn nhà kiểu Tây được gọi là nhà khách. Sát đầu nhà khách là một căn nhà gỗ rộng thênh thang, lợp ngói, nền cao được gọi là nhà thờ từ đời ông cố ông kỵ. Nhìn từ cổng thẳng vào là một căn nhà đối diện cũng giống như nhà khách dùng làm nhà ở gồm nhiều phòng. Phía sau đó lại là một sân gạch bát tràng vừa bằng sân trước. Xung quanh là "hậu dinh" gồm các loại nhà ngang, nhà trống, nhà bếp dài. Tiếp đó là một nhà kho dùng để thóc với những cót thóc kềnh càng sát mái nhà và đầu kho là gian để các loại nông cụ. Rồi đến các loại chuồng gà, chuồng chim bồ câu-
Cái dinh cơ đồ sộ ấy luôn luôn hoạt động trong một không khí tĩnh lặng, khuôn phép. Mọi người đều lặng lẽ làm công việc quen thuộc của mình. Ngay cả mấy con chó cũng ngoan ngoãn ve vẩy đuôi khi thấy Huy đi tới. Chỉ có vài chú ngỗng gây ồn ào mỗi khi thấy khách lạ bước tới khu cổng sau. Mọi người đều chào hỏi các bạn Huy một cách vui vẻ, lễ phép. Huy dẫn các bạn tung tăng khắp nhà rồi anh ra lệnh mở cổng sau, đưa các bạn ra khỏi nhà bằng một lối đi hẹp giữa hai bờ ao. Anh mở cửa khu vườn trồng chè tươi. Xuyên qua những luống chè cao ngất ngưỡng, họ bước tới một bờ ao khác, mặt nước đầy lá sen, đây đó vươn lên vài bông sen còn trong nụ non xanh biếc. Giữa ao là một chiếc cồn tròn xoay, đường kính khoảng hơn mười thước, trên cồn là những cây ổi trĩu đầy trái chín. Bầy chim ríu rít nhảy nhót trong khung cảnh no đủ thanh bình.
Cả bọn ngồi bên bờ ao có những bực thềm bằng gạch xây nghiêng. Gió mát rượi dù mặt trời mùa hè đã lên cao đang muốn hâm nóng thế gian. Huy kéo đến một con thuyền nhỏ chỉ chở được nhiều nhất ba người, chia làm hai chuyến, chở các bạn ra cồn hái ổi. Buổi trưa họ trở về ăn một bữa cơm thịnh soạn giữa chiếc sập đá nằm chễm chệ giữa căn nhà khách rộng. Một chú bé khoảng mười tuổi ngồi kéo chiếc quạt treo lửng lơ giữa nhà. Chiếc quạt dài bằng vải dầy, nẹp gỗ, mắc một sợi thừng dài xuyên qua con rọc đến một góc nhà. Chú bé ngồi trên chiếc ghế gỗ kéo sợi dây theo một nhịp đều đều cho chiếc quạt vải đong đưa êm ả. Có lẽ đó là loại quạt cuối cùng của thời cổ sơ trong những gia đình thuộc thế hệ phong kiến sau rốt trên đất nước này.
Buổi chiều, Huy đưa bạn bè qua một cánh đồng rộng với những thửa ruộng lúa tươi tốt đang vươn cao, thời điểm của lúa đòng đòng đã lớn chỉ còn chờ ngày chín vàng vào mùa gặt. Huy kể cho các bạn nghe niềm vui rạo rực của ngày mùa với những đêm trăng sáng, những anh tá điền và những cô thôn nữ cùng nhau kéo lúa bằng những chiếc cối đá tròn, càng bằng gỗ, mải miết xoay vòng trên những giạ lúa trải đều khắp bề mặt hai chiếc sàn gạch bát tràng. Những ngày đi "coi lúa" ở cánh đồng rộng thênh thang này, một mình Huy ngồi trên gò cao, dưới bóng rợp của một gốc đa giữa đồng, trông coi đám thợ gặt thoăn thoắt tay liềm quơ những cây lúa xếp thành từng đống, từng hàng. Huy giảng cho các bạn nghe loại ruộng "thượng đẳng điền" thuộc cánh đồng trên của nhà Huy và loại ruộng "hạ đẳng điền" thuộc vùng đồng thấp. Mười lăm tuổi, Huy đã tỏ ra là một ông điền chủ sành sỏi, biết cả những mánh khóe của bọn thợ gặt, bọn "đổi đồng", và giá cả từng thùng thóc. Các bạn Huy rất thú vị và khâm phục cậu cả con nhà giàu thôn quê này.
Buổi chiều, họ kéo nhau lên bờ đê cao, nhìn xuống một bãi ngô trải dài năm bảy cây số ven con sông Luộc nước chảy cuồn cuộn đầy phù sa vẽ thành một vệt dài đỏ lừ, uốn khúc quanh ở cuối tầm mắt. Hai bên bờ đê trồng hai hàng nhãn, cành lá um tùm che chở cho những chùm trái trĩu trịt đu đưa trong gió. Người ta đã phải làm những chiếc giỏ đan bằng tre mỏng để bảo vệ những chùm nhãn khỏi bị va đập vì gió và ngăn chặn sự xâm phạm của các loài chim tham lam.
Sau cùng bốn người con trai nhào xuống nô đùa thỏa thích với dòng sông mát rượi. Một mình Cúc thơ thẩn dưới rặng nhãn đầy bóng rợp, và cô len vào giữa các luống bắp vươn cánh lá xanh tươi như dang rộng cánh tay chào mời.
Một buổi chiều thật đẹp. Một ngày rất tuyệt đã làm thành kỷ niệm, in sâu vào ký ức. Một khoảng thời gian sáng rực cả một quãng đời thơ ấu. Họ không hề biết rằng vừa uống chung một thứ rượu ngây ngất men say vừa đủ chắp cánh cho một tình cảm nhẹ nhàng bay cao; tình yêu thơ trẻ lãng đãng, như gần rất gần, như xa rất xa, như được như mất, như còn như không. Họ chia tay trong nỗi bồi hồi, trong cơn xúc động mong manh không ai diễn tả thành lời.
Một tháng sau, Huy lên tỉnh lỵ trọ học để chuẩn bị thi vào năm thứ nhất ban thành chung trường công lập tỉnh. Mải học, mải thi, nửa năm sau Huy mới có dịp trở về huyện cũ. Huy đến thăm Cúc, nhưng hai mẹ con cô đã bán nhà trở về quê ngoại. Thế là Huy bặt tin Cúc từ đấy. Những năm tháng qua đi, cuộc đời đã có nhiều đổi thay trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Lịch sử lật từng trang, đảo lộn mọi ước vọng, thay đổi mọi cuộc đời.
Tháng 3 năm 1945, phát-xít Nhật ở Việt Nam đảo chính Pháp để tránh mối hiểm họa bị bắn sau lưng trong khi quân đội đồng minh ào ạt tấn công vào mọi địa điểm của tập đoàn phát-xít trên toàn thế giới. Chẳng bao lâu sau, ngày 12-8-1945, Nhật đầu hàng đồng minh, cuộc Cách mạng của toàn dân vào ngày 19-8-1945 hoàn toàn thắng lợi. Sau tuyên ngôn độc lập 2-9-1945, người ta hy vọng đất nước Việt Nam bước tới những ngày tháng hòa bình để kiến tạo một đời sống tươi đẹp sau cả thế kỷ đắm chìm trong nô lệ. Nhưng tất cả đã đảo ngược. Tháng 7-1945 hội nghị Potsdam gồm Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp đã quyết định đưa 20 vạn quân Trung Quốc của Tưởng Giới Thạch qua tước khí giới quân Nhật ở Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra miền Bắc Việt, và từ vĩ tuyến 16 vào Nam giao cho quân Anh đảm nhiệm.
Ngày 17-9-1945, quân Anh cho 100 lính chở vũ khí tước được của Nhật trang bị cho 1.400 tù binh Pháp và Việt bị giam giữ ở khám lớn Sài Gòn. Quân Pháp đánh chiếm nhiều nơi trong thành phố này và tạo thành cái mồi bùng nổ cuộc chiến tranh Việt Nam.
Pháp đưa quân trở lại hầu hết các thành phố lớn với mưu toan tái lập ách thống trị trên đất nước nhỏ bé mà họ đã có tám mươi năm bóc lột mọi nguồn tài nguyên, quen ăn trên ngồi trước. Chính phủ Việt Nam lúc đó sau một thời gian điều đình dằng dai, cuối cùng đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Thanh niên Việt Nam buông bút, bỏ cày lên đường chống Pháp. Họ ra đi vì đất nước, vì toàn dân, vì hạnh phúc của chính bản thân và gia đình. Không cần một lý tưởng nào ngoài cái động cơ trong sáng hồn nhiên ấy. Cuộc chiến tranh chống Pháp bắt đầu.

Suốt thời gian đó, Huy vẫn cố bám lấy trường học di tản từ nơi này qua nơi khác trong bốn năm đầu của cuộc chiến. Cuối năm 1948 anh mới phải bỏ học bỏ làng, theo gia đình tản cư lên vùng Việt Bắc. Tại đây, gia đình Huy lại nhìn rõ thành phần "địa chủ cường hào" của mình đã đến ngày bị điệu ra pháp trường, nên tìm cách lẩn tránh lang bạt từ Hòa Bình đến Việt Trì, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Hơn một năm sau, Huy cùng gia đình trở lại thành phố. Anh tiếp tục cắp sách đến trường. Nhưng vừa đậu xong mảnh bằng tú tài, tức khắc anh nhận được lệnh động viên vào trường sĩ quan do người Pháp chỉ huy. Lúc này người ta bắt đầu phát động phong trào "Chống Cộng Bảo Vệ Tự Do". Anh chấp nhận lý tưởng ấy, nhưng từ đáy sâu tâm tư, anh thừa biết nó cũng chỉ là thứ chiêu bài dành cho những mục tiêu khác của các cường quốc mà với tuổi trẻ non nớt, anh chưa thể nắm được là cái gì. Song điều chắc chắn nó phải gắn với quyền lợi của những anh khổng lồ dù diễn ra dưới hình thái nào chăng nữa.
Sáu tháng sau, Huy ra trường với cấp bậc Thiếu Úy, mang một vạch vàng chóe trên vai, bước vào cuộc sống mới, cuộc sống hoàn toàn khác với những điều anh mơ ước. Trở về Hà Nội nghỉ phép mười lăm ngày, Huy gặp lại Giá, người bạn cùng học với anh suốt ba năm ở trường huyện ngày nào. Lúc đó Giá là một công chức ngành Bưu Điện. Giá cho biết về một số bạn bè, Hưng đi theo kháng chiến trong phong trào "học sinh tòng quân", được đưa vào trường sĩ quan Lục Quân Trần Quốc Tuấn. Nghe đâu bây giờ Hưng ở một đơn vị pháo. Huy mỉm cười:
- Có ngày nó sẽ bắn vỡ đầu tớ.
- Hay là chính cậu sẽ bắn vào ngực nó. Cuộc chém giết không thù hận.
Còn Thịnh chết trong cuộc càn quét của Tây về vùng Hòa Bình. Cái chết lãng nhách khi anh ta chuẩn bị trở về vùng "tề" tiếp tục đi học. Một số bạn khác đi theo kháng chiến chẳng biết ra sao, một số ở lại làng xưa quần quật làm không đủ ăn, vợ con nheo nhóc. Bất ngờ Giá nhắc đến Cúc.
- Cậu còn nhớ Cúc "búp bê" con ông thợ rèn không? Tôi thường gặp cô ta ở bưu điện.
- Quên thế nào được! Bây giờ ra sao?
- Lớn và đẹp lên nhiều. Nhà cô ấy ở Phố Hàng Gai, cô ấy cứ nhắc tới chơi mấy lần mà- thấy không tiện nên tôi không lại. Tôi hỏi thăm sức khỏe bà mẹ, cô ta trả lời cũng vẫn bình thường. Nhưng cô ta lại nói bây giờ cô ta ở với ông bà ngoại. Tôi chắc mẹ Cúc đã bước đi bước nữa.
- Cũng là chuyện tự nhiên thôi. Khi chồng chết, bà ấy còn trẻ quá mà.
Từ giã Giá rồi Huy mới băn khoăn, không hiểu trong khi họ nói chuyện với nhau, Cúc có nhắc tới anh không? Cúc còn nhớ anh không? Nhớ thì có lẽ còn nhớ, nhưng tình cảm Cúc lúc này ra sao? Bởi vậy nên đã ghi nhớ số nhà Cúc rồi, Huy vẫn do dự chưa dám lại thăm ngay. Phải đợi hai ngày sau khi chỉ còn bảy ngày phép, Huy mới quyết định lại thăm Cúc. Anh mặc bộ đồ nhà binh bằng vải Kaki Mỹ mới may, đeo cặp lon Thiếu Úy hơi cũ cho ra vẻ Thiếu Úy lâu năm, đầu đội "cát-két" vàng. Anh vừa bước chân đến cửa đã gặp ngay Cúc và được đón tiếp niềm nở không ngờ. Cúc chỉ nhìn anh vài giây rồi hỏi ngay:
- Anh Huy phải không?
- Cúc còn nhớ tôi?
- Anh đổi khác nhiều và đã là sĩ quan, song anh Huy vẫn là anh Huy, làm sao không nhận ra được.
Cúc mời Huy vào nhà. Cô mặc chiếc sơ-mi bằng vải phin trắng ngắn tay, cổ thêu hoa tím. Mái tóc ngắn uốn cong úp lấy chiếc cổ trắng ngần. Đôi mắt mở to tròn linh động. Nụ cười tươi tắn khoe hàm răng đều đặn. Bộ ngực thiếu nữ dậy thì thấp thoáng sau làn áo rộng. Cúc mang một vẻ đẹp nảy nở, rực rỡ như cuộc đời chưa một lần biết đến lo âu.
Huy vừa ngồi xuống ghế, Cúc đã tiếp ngay:
- Tôi đợi anh suốt từ chiều hôm qua đến giờ, không dám đi đâu.
Huy kinh ngạc:
- Sao Cúc biết mà đợi?
- Chiều hôm qua tôi đi đánh điện tín cho ông ngoại, gặp anh Giá-
- À, tôi hiểu rồi. Hèn nào vừa gặp tôi Cúc đã nhận ra.
- Không phải vậy. Anh có những đặc điểm rất dễ nhận. Anh Giá nói với Cúc là chắc chắn anh sẽ tới, bảo đảm trăm phần trăm.
- Thằng Giá bảo đảm à?
Cúc gật đầu. Huy cười:
- Nó bảo đảm bằng gì? Biết vậy tôi cho nó thua cuộc.
- Anh mà không đến thì- chính anh thua cuộc. Sẽ chẳng bao giờ còn tình nghĩa bạn bè gì nữa.
Biết mình nói hớ, Huy chữa:
- Nhưng tôi đã đến và rất bằng lòng cho nó thắng. Kẻ thắng chưa chắc đã có hạnh phúc. Phải vậy không?
Cúc hóm hỉnh:
- Điều đó còn tùy thuộc vào mỗi người quan niệm hạnh phúc là cái gì và hình dáng của nó ra sao.
- Khó mà hình dung được. Người ta chỉ có thể cảm nhận được hạnh phúc từ trong trái tim mình toát lên.
- Anh nói không có vẻ "con nhà lính" chút nào.
- Bề ngoài của chúng tôi thời buổi này chỉ là cái vỏ bất đắc dĩ. Nếu còn ở "hậu phương", tôi sẽ là sĩ quan Việt Minh, tôi sẽ phải nói những điều tôi không nghĩ. Còn ở đây tôi nói những điều tôi nghĩ dễ dàng hơn, song tất cả chỉ là phù phiếm. Cả hai thứ đều đáng buồn như nhau.
- Vậy ở trường sĩ quan người ta không dạy anh được điều gì sao?
Huy giơ một cánh tay lên:
- Có chứ. Trước hết là học cách tự vệ, sau đó là học cách bắn giết kẻ thù, mà kẻ thù lại là bạn bè tôi, đồng bào ruột thịt của tôi. Kẻ thù của tôi là thằng Hưng, thằng Quý, cô Hằng, cô bán nước chè tươi và anh bán kẹo kéo ở cổng trường, các thầy cô giáo dạy chúng ta học từ tấm bé.
- Nếu cứ nghĩ như thế anh chẳng bao giờ trở thành một người lính tốt chứ đừng nói là một sĩ quan giỏi.
- Đó không phải là điều tôi mong đợi.
- Cúc cũng mong như thế và mong rằng tất cả sĩ quan của các anh cũng nghĩ được như thế.
Tiếng cười của Huy vẳng lên:
- Nếu vậy thì chúng tôi sẽ thua.
- Không! Sĩ quan cả hai bên "Quốc gia" và "Cộng sản" đều phải nghĩ như thế.
- Vậy là huề, vì cuộc chiến tranh không phải của ai hết trong chúng tôi. Cuộc chiến tranh của những người khác. Nhưng cho dù cả hai bên chúng tôi nghĩ được như điều chúng ta vừa nói cũng khó thay đổi được gì. Bởi vì cả hai bộ máy lãnh đạo chiến tranh sẽ không để chúng tôi nhìn nhau cười đùa hay thông cảm tình đồng bào, tình bằng hữu. Họ sẽ thúc đẩy, sẽ kích thích lòng căm thù, buộc chúng tôi phải bắn vào người đối diện, bản năng sinh tồn mà, anh không giết nó, nó giết anh. Vả lại, không thiếu gì những thằng ngu nắm phần quyết định số phận chúng tôi. Chúng nó không bao giờ chịu cho chúng tôi ngừng tay bóp cò súng.
- Anh cũng chấp nhận cả điều đó nữa?
Huy nhún vai:
- Không chấp nhận thì giãy bằng cách nào? Hai bên bờ sông đều là đất chết, không lẽ mình bơi mãi ở giữa dòng? Thôi thì đành mặc cho sóng cuốn mình trôi về phía nào, đành về phía đó vậy. Tuy nhiên cũng tùy theo cách người ta chấp nhận cái hoàn cảnh "chẳng đặng đừng" ấy như thế nào.
Cúc lắc đầu:
- Chấp nhận với tư tưởng nào thì kẻ bị anh bắn chết vẫn chết. Những đứa con vẫn mất cha, những người vợ vẫn mất chồng, đất nước này vẫn tan nát. Phải chăng đó là "số phận" của tất cả những nước nhỏ bé nghèo nàn mà người ta thường vẫn hết lời thương xót?
- Cúc nói đúng. Cho nên vấn đề cuối cùng còn lại là lương tri của con người trong tất cả các quốc gia đang tồn tại trên hành tinh này. Vấn đề có vẻ bao quát và mơ hồ song lại rất gần gũi và thực tế với mỗi người. Từ một ông trùm tư bản hay trùm cộng sản đến những người cầm súng đáng thương. Họ chỉ cần nghĩ rằng họ làm gì cho người khác? Họ muốn gì thì người khác cũng muốn cái đó, họ khổ sở vì điều gì thì người khác cũng lo sợ vì điều đó. Lý do chính làm nên tất cả những hành động tàn ác là sự tham lam ích kỷ của mỗi con người. Vậy cách tốt nhất và dễ dàng nhất để chấm dứt khổ đau là từ mỗi con người hãy dừng lại lòng tham lam, hãy cho lương tri mình một chút lòng thương yêu mọi người. Tham vọng, bạo ngược như Hít-le, như Tần Thủy Hoàng, quỷ quái như Nê-rông rồi cũng bị tiêu diệt.
- Anh có tin rằng con người rồi sẽ tiêu diệt được hết lòng tham và sự ích kỷ không?
- Tôi hoàn toàn tin điều đó, mặc dù sẽ còn phải trải qua nhiều giai đoạn thống khổ khác nhau. Nếu không có điều đó thì loài người sẽ được định nghĩa một cách rõ rệt là loài thú thông minh nhất đang tìm mọi cách hành hạ và hủy diệt lẫn nhau mà thôi. Đấy là cuộc sống dã thú hay lịch sử sau này sẽ gọi thời đại của chúng ta là "thời kỳ dã thú của con người", nó còn tệ hại hơn là "thời kỳ đồ đất và đồ đá".
Tiếng cười trong trẻo của Cúc vang lên:
- Nói chuyện với anh thật thú vị. Một ông lính triết học.
- Tôi không ưa triết học. Các ông ấy cãi nhau tùm lum mặc dầu triết học chẳng qua chỉ là tổng kết thực tế của đời sống con người nếu nó không viển vông. Tôi vừa nói một điều rất tầm thường mà ai cũng có thể nghĩ được và bất kỳ ai ở cương vị nào cũng có thể làm được. Bởi vậy tôi mới nói là mọi đau khổ sẽ dễ dàng chấm dứt bởi lương tri giản dị trong sáng của mỗi con người từ một hành động nhỏ cho đến một suy nghĩ lớn. Người nào cũng có thể thực hiện được mà không cần đến bất kỳ sự giúp đỡ nào của kẻ khác. Do đó tôi tin chắc rằng rồi đây mọi người sẽ sống như thế.
- Mặc dù ngày ấy còn rất xa phải không anh?
Huy cúi đầu, xoay xoay chiếc cát-két trên mặt bàn:
- Có lẽ thế. Ngay lúc này tôi tin vẫn có rất nhiều người đang hướng về điều này dù ở phe bên này hay bên kia hay chẳng ở phe nào cả. Tình thương yêu không có chủ nghĩa, dù chủ nghĩa nào cũng bám lấy nó làm phương tiện biện minh cho tham vọng. Có chủ nghĩa là có tham vọng.
- Vậy còn chủ nghĩa nhân đạo?
- Nhân đạo không là chủ nghĩa mà chỉ là lương tâm.
Huy uống cạn ly trà đá. Trong cơn say sưa vì một suy nghĩ về chính thân phận của tuổi trẻ cầm súng, nhất là cái mặc cảm cầm súng trong phe được gọi là "thực dân" từng là kẻ thù của dân tộc mình, Huy đã hăng hái lý luận, như vừa tự bào chữa cho mình, vừa hướng về một lối thoát mà anh mong có cho tương lai. Thấy "đính chính" gián tiếp với Cúc như vậy đã là đủ, anh tìm cách lảng chuyện:
- Không lẽ chúng ta cứ ngồi đây để nói chuyện xa lắc xa lơ mãi sao?
- Ít ra điều đó cũng làm cho Cúc hiểu được anh lúc này thế nào.
- Một cuộc điều tra tư tưởng đấy à? Tôi ngốc quá, lọt vào tay một cô Ma-ta Ha-ri mà không biết.
- Còn hơn thế. CIA, KGB, Intelligence Service- Anh không nghĩ thế à?
- Không bao giờ.
Hai người nhìn nhau cùng cất tiếng cười. Chiếc quạt máy trên trần nhà quay nhè nhẹ làm rung động mái tóc Cúc và chiếc cổ áo tròn khẽ phất lên để lộ làn da ngực trắng hồng. Đôi mắt Huy chớp mau:
- Cúc còn đi học không?
- Cúc bỏ học rồi, từ hồi đầu năm nay. Phải ở nhà trông coi nhà cửa cho ông bà ngoại.
- Còn- mẹ Cúc?
Cúc cúi đầu, một ngón tay dí nhẹ trên mặt bàn:
- Mẹ Cúc đi rồi-
- Tôi hiểu.
- Ông bà ngoại Cúc có cửa hàng bán vải ở chợ Đồng Xuân, cả hai ông bà đi từ sáng đến tối mới về. Trên lầu chỉ còn cậu của Cúc đang ốm nặng. Nhà chẳng còn ai.
- Vậy mà tôi đang tính mời Cúc với cậu Giá tối nay đi ăn, gọi là mừng buổi hội ngộ của mấy đứa học trò trường huyện gặp lại nhau.
Hàm răng Cúc trắng đều lấp lánh:
- Ý kiến thật hay. Nhưng tối nay đi ăn thì không được vì Cúc chưa nói với ông bà ngoại. Nếu biết trước, bà ngoại Cúc sẽ về sớm lo cơm nước. Tuy nhiên anh và anh Giá cứ đi ăn rồi sau đó khoảng 7 giờ chiều quay lại đây đón Cúc đi ăn kem ở quán Mụ Béo ở Bờ Hồ hay là đi xem phim. Đang có một phim tuyệt vời "Autant En Emporte Le Vent". Khó lấy vé lắm đấy.
- Yên tâm, lính đi đâu cũng lọt. Không có vé thì "xem cọp", cảnh sát thấy lính cũng làm như không thấy gì xảy ra.
Huy đứng lên từ giã Cúc ra về. Anh đến thẳng bưu điện gặp Giá. Nhưng Giá chỉ nhận lời đi ăn, lấy cớ bận không đi coi phim được, nên tối đó chỉ có Cúc và Huy ngồi bên nhau trong rạp chiếu bóng. Phim hay song họ coi được rất ít. Mục đi ăn được gác lại đến chiều hôm sau.
Rồi liên tiếp những buổi chiều sau nữa trong kỳ phép ra trường của Huy, họ cùng ở bên nhau, đi đến tất cả những nơi có thể trở thành kỷ niệm của Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Hồ Gươm, Hồ Trúc Bạch, Chùa Một Cột, Yên Phụ, Láng, Vòng. Nhưng chưa ai nói đến tình yêu mặc dù họ đã hiểu đó là bước mở đầu của tình yêu. Chỉ có những lời lẽ xa xôi, bóng bẩy. Họ lần dở lại những trang kỷ niệm của thuở ấu thơ, những ngày còn học chung, đặc biệt là ngày về thăm nhà Huy, quê hương Huy và một thuở thanh bình. Cúc nói rằng nhiều đêm cô đã ước được sống lại một giờ trong cái ngày tuyệt vời ấy. Cô thú nhận đã có những buổi chiều cô nhớ Huy, hình ảnh Huy đã ăn sâu vào ký ức, xanh thẳm như vì sao độc nhất trong khung trời đêm huyền diệu. Họ đã sống những buổi chiều như trong tiểu thuyết tình lãng mạn của Khái Hưng và Nhất Linh. Với người lính thì đó là buổi chiều của "một thời để yêu và một thời để chết".

Sau những ngày phép, Huy chuyển tới một đơn vị bộ binh theo lệnh của Đệ Tam Quân Khu ở Hà Nội. Đại đội của anh được chỉ định tăng cường bảo vệ an ninh trực tiếp cho Phi Trường Cát Bi Hải Phòng. Cả đại đội dựng tăng ở sát hàng rào kẽm gai, suốt ngày bận rộn đào công sự chiến đấu, giao thông và bố trí thêm các cộng sự phòng thủ vì tình hình quân sự mỗi lúc một khẩn trương. Quân đội Pháp không còn được coi là một đội quân tinh nhuệ của một trong những cường quốc trên thế giới. Tình hình chính trị khủng hoảng của nước Pháp kéo dài. Sự suy sụp về kinh tế và thắng lợi chính trị của phe xã hội Pháp đã đánh những đòn mạnh mẽ vào chủ nghĩa thực dân của các ông trùm tài phiệt, quân chủ. Tất nhiên, quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương cũng suy yếu theo. Ngược lại, lực lượng Cộng sản Việt Nam được các nước theo chủ nghĩa Cộng sản tích cực yểm trợ, đã lớn mạnh thêm, đủ sức quật lại những chiến dịch càn quét lớn của Pháp.
Các tiểu đoàn Việt Nam được thành lập với tên gọi B.V.N. (Bataillon Vietnamienne) bên cạnh quân đội Pháp, nhưng trang bị và vũ khí cùng tổ chức còn rất thô sơ, mới mẻ, non nớt chưa sẵn sàng đối phó với các chiến trường. Để bảo vệ các thành phố, việc tổ chức đồn bót khiến lực lượng Pháp-Việt co lại thành từng cụm, nhường hẳn hầu hết địa bàn nông thôn cho quân đội Việt Minh. Thỉnh thoảng quân đội Pháp-Việt mở một cuộc hành quân tảo thanh rồi rút về. Kết quả là họ bị đánh tiêu hao, tinh thần binh sĩ xuống thấp, lại không được chú ý, nên gần như trở thành một đội quân ô hợp không lý tưởng, sẵn sàng giết chóc, hãm hiếp, đốt phá làng mạc, bắt gà, bắt vịt, cướp phá bừa bãi trong những cuộc càn quét. Các đồn bót dần dần bị "nhổ" rễ, bị tiêu diệt gọn, vùng kiểm soát thu hẹp mãi.
Trong khi đó, người dân Việt Nam ở thôn quê chịu cái cảnh một cổ hai tròng. Ban đêm, Việt Minh kéo về đấu tố, diệt tề, đào đường, phá sập cầu cống, thu thuế, kiểm soát tư tưởng từng người từng nhà, tổ chức chiến đấu du kích. Khi bình minh trở lại, quân Pháp càn quét tảo thanh, bắt dân làm lại những gì mới phá đêm trước, tra khảo để tìm kiếm du kích và tha hồ vơ vét. Làng nào có du kích bắn trả, tức khắc sẽ bị tấn công trả đũa bằng pháo binh, bằng máy bay ném bom, bằng bộ binh bắn giết bừa bãi. Bộ mặt chiến tranh hiện nguyên hình chỉ là những cuộc dày xéo, bắn giết của hai phe đối đầu nhắm thẳng vào người dân thôn quê Việt Nam.
Huy bước vào đời quân ngũ, nhận nhiệm vụ chỉ huy đại đội tăng cường phòng thủ sân bay Cát Bi trong tình cảnh ấy. Đại đội của Huy đặt dưới quyền của viên Đại Tá người Pháp, chỉ huy trưởng căn cứ quân sự tại đây, gồm hầu hết là người Việt, điểm thêm dăm ba chú lính người Thượng Radhé và khoảng chục chú lính Miên đen đủi lầm lì. Huy không dám tin là họ can đảm mặc dầu họ luôn tỏ ra trung hậu và lì lợm. Riêng những người lính Việt Nam hồi đó đã cho Huy cái cảm tưởng là họ đi lính vì bị buộc phải theo cái lệnh "tổng động viên" cũng như Huy, hoặc đi lính để kiếm tiền nuôi vợ con. Ngoài ra, còn một loại khác là loại thanh niên có máu giang hồ coi đời lính như chỗ dừng chân tạm một thời gian. Cấp chỉ huy về phía Việt Nam thì chỉ có một số rất ít xuất thân từ hai trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và Võ Bị Đà Lạt, còn lại hầu hết là những ông Đại Úy, Thiếu Tá xuất thân từ lính khố xanh, khố đỏ của Tây, nói tiếng Tây như máy nhưng khó chứng tỏ nổi một tài năng quân sự hay đức tính chỉ huy nào. Họ là hình ảnh lai căng từ đầu đến chân - như Đức Hoàng Đế Bảo Đại suốt đời ăn chơi ở bên Tây, buông mặc tổ quốc cũng như tổ cò cho gió bão tả tơi.
Hình ảnh "Quốc gia" và lớp sơn chủ nghĩa "Chống Cộng Bảo Vệ Tự Do" hồi đó là màu đen nhẻm, rách mướp, thảm sầu như thế. Huy không thể nhìn thấy gì ở tương lai. Khi chưa bước chân vào quân đội Huy còn có đôi chút tin tưởng, nhưng bước chân vào rồi anh mới thấy rõ mọi hy vọng là quá mong manh. Trong một lá thư viết cho Cúc sau hai tháng nhận nhiệm vụ, Huy đã không giấu nỗi băn khoăn của mình. Anh viết: "-Tôi như kẻ bị lưu đày, giữa một ngã tư đầy cạm bẫy, tôi đang cô đơn giữa một cù lao hoang với bầy cá sấu bao quanh, phải chăng tôi đang đợi một viên đạn pháo của thằng Hưng gửi tới nổ tung trên đỉnh đầu? Tuy vậy hàng ngày tôi vẫn hò hét, phải đẩy những người khác lao mình vào cuộc chiến để hàng đêm tôi có thì giờ nghĩ đến Cúc và gửi cho Cúc những đóa hoa rướm máu tâm sự này? Tôi đang muốn quên đi mọi hậu quả giữa chiến trường không lối thoát này. Tôi nghĩ rằng người sẽ bắn vào tôi cũng chỉ là kẻ phải bắn bất đắc dĩ. Tôi cũng sẽ phải bắn họ trong cái tâm trạng hung hăng mà rã rời ấy, một tâm trạng nếu kể lại sẽ là chuyện khôi hài hoang đường, bởi vậy tôi sẽ không bao giờ dám hé môi. Người ta có những lúc phải biết ngượng miệng dù đó là lời lẽ chân thành nhất. Tôi chỉ có thể nói với Cúc và tôi tin Cúc hiểu tôi, cũng như Cúc hiểu rằng tôi thèm được gặp Cúc, thèm được nói chuyện với Cúc biết là dường nào-".
Chương 7
Căn phòng nhỏ chỉ có tiếng hát nỉ non từ chiếc Cassette vẳng lên, rên rỉ một bài hát trữ tình của Sài Gòn thời xa xưa gọi là "nhạc vàng" và sau này được xếp loại là "hải ngoại thương ca" do những ca sĩ di tản sang các nước phương Tây hát lại. Những bài hát ấy dù rẻ tiền hay đắt tiền đều được người Sài Gòn âu yếm đón nhận như dấu hiệu chối từ một loạt những bài ca mới đinh tai nhức óc được gọi là "nhạc chiến đấu" hay êm dịu hơn được gọi là "nhạc xanh". Mặc dầu mấy năm "đổi mới tư duy" sau này, có vô số nhạc trữ tình ra đời với lời lẽ yêu thương tình tứ, ướt át không thua kém "nhạc vàng", song loại nhạc trữ tình mới này vẫn không thể xâm nhập mọi tâm hồn Sài Gòn. Cũng thế, những cuốn phim, cuốn sách trữ tình kiểu mới chẳng bao giờ ăn khách bằng loại tiểu thuyết cũ, dù đã cũ mèm của những tác giả xa xưa như cụ Hồ Biểu Chánh, bà Tùng Long, bà Lan Phương- và các loại phim tư bản ào ạt tấn công vào thành phố. Câu trả lời hết sức giản dị là cái gì hợp với tâm hồn con người thì tồn tại, còn ngược lại, nó bay đi.
Ngay cả những người từ Bắc vào Nam sau năm 1975 cũng mang chung tâm trạng yêu thích "đồ ngoại" ấy. Các gia đình khá giả, các quán cà phê, tiệm ăn đều đồng loạt chỉ "biểu diễn" nhạc trữ tình thời xưa. Mặc cho những lệnh cấm, mặc cho những sự đề phòng "văn hóa tư sản", mặc cho những đố kỵ giữa hai nền văn hóa mác-xít và không mác-xít, người Sài Gòn vẫn thích nghe loại nhạc cũ, kể cả người Sài Gòn trước hay sau 1975, dù cho thực chất của hai nền âm nhạc qua các bài ca ấy chưa chắc đã có gì hơn nhau. Sự bế tắc của văn hóa nghệ thuật ở đây nói chung và sự bế tắc đề tài sáng tạo của nền văn học được gọi là hải ngoại đều ngụp lặn trong đêm đen mênh mông. Tất cả cứ mò mẫm trong cái sẵn có, nhai lại cái đã qua và có lẽ chẳng bao lâu nữa người ta sẽ từ chối tất cả để tìm đến bất cứ thứ gì mới mẻ hơn dù nó là của Trung Quốc hay Congo. Cả hai đều sẽ đi vào sự lãng quên như nhau.
"Em ơi nếu biết thế thà rằng đừng yêu nhau, đừng yêu lúc ban đầu cho lòng thêm thương đau-".
Câu hát ấy, Vân đã nghe hàng ngàn lần và có thể còn hơn ngàn lần nữa, song cô vẫn nghe. Tối hôm qua, hôm kia và chiều hôm nay cô vẫn còn nghe. Mặc dầu lời ca chẳng có gì bay bướm, chẳng có ý tình gì mới mẻ, chẳng mang được cái gì cao đẹp cho tâm hồn con người, câu hát đến đứa trẻ con sống trên hè phố cũng thuộc, cũng hiểu, cũng nghêu ngao. Vậy mà nó vẫn sống trên mọi câu hát khác bây giờ. Đối với Vân, nó chỉ còn là một âm điệu quen thuộc làm cho tâm hồn cô dịu lại sau những sóng gió, làm cho căn phòng của cô trở thành thế giới riêng để cô có thể suy nghĩ, mơ tưởng. Vân nghe đấy và cô chẳng cần hiểu gì hết. Cô đang nhớ về những diễn biến từ đêm hôm trước. Một đêm dễ chịu, cô mỉm cười kết luận-
Chiều hôm qua, lần thứ nhất cô đi chơi với á hậu Thủy Tú. Một buổi đi chơi gần như vô tình song không phải là không có mục đích. Vân đang nằm khàn ở phòng thì Thủy Tú đến. Tú diện rất đẹp, nói với Vân:
- Có một toán làm phim ở Hồng Kông mới sang, tối nay họ mời em đi chơi để bàn tính làm một cuốn phim mới. Chị vận quần áo vào, đi với em cho vui.
Vân ngạc nhiên:
- Phim ảnh có phải là việc của tôi đâu.
Thủy Tú cười khanh khách:
- Có ai mời chị đóng phim đâu. Chỉ là đi chơi cho có bạn vậy thôi mà.
- Nghĩa là cô cần một người bạn gái cho bạn của cô?
- Vâng- em tính rủ con bé Hồng Loan, con bé lâu lâu xuất hiện trong vài vở kịch vớ vẩn đó mà. Nhưng con nhỏ làm em bực mình. Lần trước đi với nó, em ngượng muốn chết. Đi với hai anh chàng ở Pháp sang, nó vồ lấy ông Tây bảnh nhất, xin tiền tỉnh bơ, tiếng Anh lại ăn đong, nó xin tiền mà thằng Tây tưởng nó cho tiền nên cứ ngẩn người ra. Vậy mà rồi nó cũng cặp được với anh ta suốt nửa tháng và khi anh chàng về Tây, nó cũng được vài trăm đô.
Vân quay vào buồng tắm, cô hiểu Thủy Tú đã bị Hồng Loan chơi gác, có thể cô này đã "phỗng tay trên" bồ của cô kia, nên lần này Thủy Tú muốn hạ đo ván cô bạn xấu chơi, mới sang đây rủ Vân đi cùng. Nghĩ vậy song cô không nói gì cứ để cho Thủy Tú mang cái vinh dự người tử tế đã "ra ơn" cho Vân vì tình bạn cao cả. Trong khi Vân trang điểm, Thủy Tú vẫn hậm hực kể về những thói xấu quê mùa và trơ trẽn của cô bạn Hồng Loan. Nào là nó làm mất giá con gái Sài Gòn, nào là nó làm nhục quốc thể, nào là nó làm bọn ngoại kiều coi thường minh tinh, tài tử, diễn viên của Sài Gòn ngày nay. Thủy Tú trút nỗi đau đớn ấy làm cho người ta có cảm tưởng đây là một cô gái thuần túy Á Đông, yêu thành phố tổ quốc hơn cả một nhà cách mạng chân chính chậm chân vẫn tuyên bố rằng sống chết với quê hương, không chịu di tản mặc dầu lính Mỹ đã mang tàu bay đến đón tận nhà. Vân chỉ ừ hữ cho qua chuyện và hiểu rằng trong cái giọng đạo đức của Thủy Tú cũng còn có nghĩa là Thủy Tú đã đề cập đến vấn đề "chơi với nhau phải cấm chơi gác, cấm nói xấu nhau, cấm cướp bồ của nhau, mọi sự sẽ được phân định rõ rệt, anh Tàu nào của ai, Anh Tây kia thuộc về ai". Vân chấp nhận sự sòng phẳng ấy.
Thủy Tú có vẻ hài lòng:
- Em sẽ giới thiệu chị là diễn viên kịch nói, tốt nghiệp viện quốc gia kịch nghệ đàng hoàng.
- Mình có biết chút gì về kịch cọt đâu.
- Chúng nó cũng chẳng biết gì mà mò. Có ai bắt chị trả bài hay đóng kịch ở chỗ ăn chơi đâu mà chị sợ. Nếu cần đóng kịch, em tin tụi mình còn đóng hay hơn mấy cái màn kịch cà lăm của các cô khác. Nếu cần, chị cứ nói văng mạng rằng ở trường tôi người ta dậy thế đấy, được không.
- Được lắm. Tôi cũng không đến nỗi thiếu thông minh.
- Chị nói được tiếng Anh chứ?
- Dăm ba câu xã giao thông thường.
- Đủ rồi. Chị sẽ quen. Mấy cô gái bán bar hồi xưa còn dốt đặc rồi cũng "Hế -lô, đác-linh" như máy. Vấn đề là chị chỉ cần can đảm nói bừa văng tê đi là xong tuốt.
Vân mỉm cười, cô nghĩ rằng bài lý thuyết sơ đẳng của Thủy Tú là thừa. Bởi Thủy Tú chưa biết Vân cũng đã có đôi chút kinh nghiệm, đã từng giao thiệp nhiều với ngoại kiều, tuy không phải là dân chuyên môn "săn ngoại kiều". Cô chẳng cần giải thích với Thủy Tú điều ấy. Cô lại còn sẵn sàng nghe lời Thủy Tú "cố vấn" về cách ăn mặc:
- Chị hơi mập, không nên mặc chiếc áo màu hồng này, nó làm chị tròn như hòn bi. Chị mặc cái áo màu tím hoa cà kia đi, điểm hoa trắng, tuyệt lắm. Chị sẽ nổi như một con chim họa mi buổi sớm. Chị đừng vận chiếc quần vải dầy bó sát mông này, Chị nên mặc một chiếc jupe vàng, rộng và dài, thắt lưng da to bản màu đen. Như thế coi chị sang trọng hơn, không thể lầm với bọn gái "cà chớn" ở những chỗ đông người. Phải làm cho mình riêng biệt, ngay cả đến dáng điệu, đến cách ăn nói cũng không sàm sỡ được. Phải giữ cái "giá ngàn vàng" của một cô tiểu thư. Chị nên nhớ bọn ngoại kiều hay Việt kiều về đây đều muốn tìm một cô gái Đông phương hơn là bọn ăn chơi ở đâu cũng có. Thái Lan, Singapore, Hồng Kông, Philippine- thiếu giống gì. Bọn nó đùa nghịch và giải trí với những cô gái đó và say mê đến xuẩn ngốc những cô gái con nhà lành kiểu Việt Nam.
Vân làm theo hướng dẫn của Thủy Tú. Cô nhận rằng cái "gu" của Tú không tồi và cô hiểu được cách ăn chơi của Thủy Tú theo chiều hướng nào. Một kiểu ăn chơi làm ra vẻ đứng đắn, đàng hoàng, cách biệt để làm say mê những anh thích đi tìm của lạ và luôn gây cho họ cảm tưởng mình là vật quý hiếm nắm được trong tay là hơn tất cả những tay ăn chơi khác. Cái ưu điểm về danh nghĩa Á hậu và diễn viên còn cho Thủy Tú nhiều lợi thế đối với khách du lịch, hoặc Việt kiều về thăm quê hương, trong số không thiếu gì những vị trước năm 75 tối mặt lo làm ăn, chưa có thì giờ ăn chơi. Qua Mỹ năm mười năm, các vị động lòng nhớ quê hương, mang một khoản đô-la về phân phát chút đỉnh cho bà con gọi là "áo gấm về làng", còn bao nhiêu đem ra ăn chơi ở Sài Gòn cho "biết mùi dân tộc". Ngày xưa các vị ấy thường không gặp các cô tiểu thư Sài Gòn, hoặc nếu có gặp các vị ấy cũng không để ý tới vì họ- xa vời quá! Ngày nay gặp một tiểu thư như Thủy Tú, tất nhiên là các vị ấy sướng mê rồi. Cái vật quý hiếm của thành phố Xã hội Chủ nghĩa này không dễ gì mà lúc nào cũng có được. Chưa biết chừng còn có vị nuôi ý tưởng về đây chơi cho sướng để trả thù Cộng sản theo một cách nào đó. Cho nên những đồng đô-la đổ mồ hôi sôi nước mắt mới kiếm ra, có dịp được tuồn vào những chiếc sắc tay da cá sấu "Made in Viet Nam". Cũng là một cách đem tiền về giúp đỡ dân ta.
Chiếc Dream của Thủy Tú chở Vân lướt vèo vèo trong ánh đèn thành phố. Họ dừng lại trước một căn biệt thự được sửa lại cho ngoại kiều thuê. Năm bẩy chiếc máy lạnh từ trên lầu hai thò đuôi ra một cách hiên ngang như con mắt kênh kiệu của những người lính viễn chinh nhìn đám dân bản xứ nghèo mạt rệp đang chịu cảnh cúp điện triền miên, nước chảy ri rỉ, sống chết mặc bay, tiền điện thầy bỏ túi. Nhưng thiếu điện, nước ở những khu lao động, những chỗ thấp cổ bé miệng, chứ còn ở các Hotel, khu của các ông lớn trong các loại "Ủy Ban", khu của các quan chức Liên Xô, bao giờ cũng có cái gọi là "đường dây ưu tiên", nước luôn tràn trề, điện trên bàn thờ tổ quốc, điện an ninh quanh nhà, điện máy lạnh tiếp tân, điện ga-ra, điện trang trí- Cái nghịch cảnh ấy người dân đã quen chịu từ thời Tây đô hộ nên ngày nay trở thành tự nhiên như hàng trăm sự tự nhiên khác. Điều nghịch lý nào người ta cũng giải thích một cách- xuôi rót và hợp lý bởi nó có vẻ vì dân vì nước, vì tổ quốc: "Đồng bào cần hy sinh, tiết kiệm, phải thắt lưng buộc bụng cho đất nước trở nên giàu mạnh, nhân dân trở nên hạnh phúc, tổ quốc trở nên hùng cường mười lần hơn xưa"! Cái "miệng nhà quan có gang có thép". Các cụ nhà ta đã nói thế và đúng trăm phần trăm. Con dân Việt Nam chỉ biết trố mắt nhìn vào cái nếp sống của bọn tư bản xe hơi, máy lạnh, nhà cao cửa rộng và chờ sẽ có một ngày chúng nó chết nhăn răng. Có lẽ cái chết của những thằng tư bản sẽ xấu xí vô cùng vì nó chết nhăn răng, còn những anh không tư bản, chết đẹp hơn vì chết ngậm miệng!
Vân đứng nhìn những chùm hoa giấy nở đầy trước cửa chính của căn biệt thự lộng lẫy. Thủy Tú đã dựng xe rồi đi thẳng vào phòng khách. Buổi tối ở đây yên tĩnh, lặng lẽ như căn nhà của một vị quan ta hơn là một nơi được gọi là "Mini Hotel". Có lẽ nó cũng ế ẩm như tất cả những khách sạn nhỏ khác mọc ra đầy rẫy trong năm du lịch này và có lẽ nó cũng đang chết dần như bao nhiêu chương trình kế hoạch du lịch khác đang chết. Thằng Mỹ đểu thật, vẫn cấm vận, vẫn còn hận thù với Việt Nam, nhưng báo chí Việt Nam hồi này đã bớt chửi Mỹ hơn vì chủ trương của nhà nước ta là đang cần có tí bang giao với nó để cho nó mở cái cánh cửa làm ăn buôn bán mới khấm khá được, mới thoát ra khỏi cảnh lạc hậu đói dài.
Vài phút sau, Thủy Tú bước ra cùng hai người ngoại kiều. Một anh là Tàu chính hiệu Hồng Kông, nhỏ con, bảnh trai, đeo kính trắng, gọng vàng. Bên cạnh là một ông Ăng Lê, cao như cây sào, tóc vàng hoe, bụng hơi bự, được Thủy Tú giới thiệu gọn gàng là Richard, ông Tàu được gọi là Tom. Đến bây giờ Vân cũng chẳng biết hay đúng hơn là chẳng cần biết tên thật, tên nguyên con của Tom là gì nữa. Tom hay Chát, Bốp hay David chẳng nghĩa lý gì.
Thủy Tú bỏ chiếc xe gắn máy của cô lại, giao cho người giữ xe rồi leo lên chiếc Toyota mới tinh. Lại một cuộc du ngoạn tốn kém qua các hàng ăn, tiệm nhẩy. Vân hiểu ngay từ lúc ngồi vào bàn ăn là Thủy Tú đã chọn anh chàng Tàu bảnh trai, nhường cho cô anh chàng Ăng Lê cao nghều. Dĩ nhiên, Vân bằng lòng nhận chịu sự thua thiệt này. Tuy vậy cô cũng có vẻ thờ ơ với Richard vì cảm thấy không ưng với cái dáng dấp lòng khòng, đôi tay dài lông lá của anh chàng ngoại kiều không mấy hấp dẫn này, nhất là ở anh ta toát ra mùi mồ hôi nồng nồng khó chịu. Dù là nhảy trong bản slow mùi, Vân cũng phải cố gắng nhẩy xa anh ta. Cô nói tiếng Anh trôi chảy chứng tỏ là người có học hành. Thủy Tú cũng nói tiếng Anh khá tốt song vẫn là thứ tiếng Anh của người còn đang ra sức học với một ông thầy dạy chưa đến nơi đến chốn. Ngồi ở tiệm nhẩy một lát, Tú khẽ nói với Vân:
- Sao chị có vẻ lạnh lùng với thằng Richard quá vậy?
Vân hấp háy mắt:
- Để cho nó càng chết thêm. Một kiểu giữ giá ngàn vàng đấy!
- Chị láu thật, em cứ tưởng chị không vui.
- Vui quá chứ sao lại không. Cô giới thiệu tôi là diễn viên kịch nói thì tôi đang đóng đúng cái vai trò ấy đấy.
Hai người cười nho nhỏ. Anh Tàu quay sang hỏi một câu ngô nghê:
- Các cô cười chúng tôi chăng?
Thủy Tú liếc anh ta tình tứ:
- Phải, chúng tôi vừa nói về anh. Cô bạn tôi khen anh đẹp trai, lịch sự, cô ấy bảo anh nên đóng phim tốt hơn đi quay phim.
Anh Tàu khoái chí, nghiêng đầu trước mặt Vân:
- Xin cảm ơn. Tôi chưa được ai khen như thế.
Vân đáp thản nhiên:
- Tôi chỉ nói một nhận xét rất thật theo con mắt của một đạo diễn.
Richard xen vào:
- Cô có con mắt rất tinh tường của nhà làm nghệ thuật.
Tom cười đến đỏ mặt, nhưng cũng thú vị đến choáng váng. Anh ta sửa lại cặp kính trắng rót rượu uống tiếp. Rồi anh ta hăng hái mời mọi người tối mai đi ăn một món Việt Nam ở nhà hàng nổi phía ngoại ô và trở về chơi ở khách sạn nổi trên sông Sài Gòn. Cuộc vui kéo dài đến gần mười hai giờ khuya. Trước khi về họ dắt tay nhau đi ăn một chầu cháo gà. Bốn người trở lại khách sạn, hai ngoại kiều bắt tay thân mật các cô bạn gái, hẹn gặp lại vào ngày hôm sau.
Trên đường về Thủy Tú hỏi Vân:
- Chị thấy Richard thế nào?
- Bình thường, không có gì đặc sắc.
- Còn Tom?
- Tạm được. Cô khoái anh ta à?
Thủy Tú rùng vai:
- Đi chơi là đi chơi, khoái cái nỗi gì. Nhưng mà này, em nói thật nhé, thằng Tom có vẻ thich chị hơn em đấy. Còn anh chàng Richard có vẻ dễ dàng hơn, em nghĩ là với anh chàng ấy, cô nào cũng được.
- Tôi nghĩ khác, dân Ăng Lê chính hiệu họ khôn ngoan, trầm tĩnh hơn. Có thể anh chàng thích một cái gì đó, một trong hai đứa chúng mình nhưng chưa lộ ra mà thôi.
- Vậy thì em nhường Tom cho chị. Với ngoại kiều hãy để họ làm cái gì mà họ thích. Có ép họ cũng chẳng được. Ta nên biết điều đó trước là hay hơn, không nên để họ khó chịu, chúng ta sẽ mất hết chẳng được cái gì đâu.
- Vậy Tom chưa phải là bồ của Tú thật chứ?
- Mới quen vài hôm nay thôi, chưa "qua lại" gì hết.
- Nếu vậy thì tôi cũng cho cô biết là trong khi nhẩy Tom đã hỏi địa chỉ của tôi, hỏi tôi sống với ai. Tôi nói là sống với bố mẹ tôi trong gia đình đàng hoàng. Tôi chưa nhận lời cho Tom đến thăm. Cô hiểu vì sao rồi chứ? Tôi nghĩ là tôi phải nói cho cô biết trước về điều này đã.
Thủy Tú gật đầu:
- Mình thẳng thắn với nhau như thế tốt hơn. Có những đứa ngu, tranh giành nhau, đấu đá nhau túi bụi, kể vạch nhau đủ điều chỉ tổ hạ giá thêm. Chị cứ cho Tom đến thăm và ngày mai chị có toàn quyền chấp thuận những yêu cầu của nó nếu chị muốn. Em sẽ rủ Richard đi chơi riêng.
Vân thật tình xúc động về cách đối xử của Thủy Tú. Một cô gái còn rất trẻ nhưng rất già giặn về cách sống theo kiểu này. Cô tỏ rõ là một tay săn thú đầy kinh nghiệm, biết từ thói quen đến cả cái tật bẩm sinh của từng con nai hay con lợn lòi. Trong cuộc "săn Việt kiều và ngoại kiều" cũng có sự phân chia làm rất nhiều loại, nhiều thứ bậc khác nhau. Những cô gái choai choai, con nhà lành thích đô-la. Những cô gái sồn sồn nửa thích ăn chơi, nửa lo buôn bán cần người bảo trợ chung vốn kinh doanh với nước ngoài. Những cô gái nghèo làm ăn chân chính ở các công ty xuất nhập cảng, công ty phục vụ du lịch. Những minh tinh, tài tử, hoa hậu, á hậu, diễn viên và dân có chút học vấn, có chút tư cách bề ngoài, muốn đưa các con mồi vào bẫy. Mỗi loại đều có một cung cách riêng. Ngoài ra, còn loại con gái mỗi buổi tối phải ăn diện đến chực sẵn ở cửa các khách sạn, bắt mối khách nước ngoài mua vé vào cửa tiệm nhẩy hoặc tìm mọi cách len vào phòng nhẩy rồi từ đó "hành nghề" theo cái kiểu được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Đấy là không kể bọn tú bà chuyên săn lùng mua các cô gái từ lục tỉnh, hoặc từ Hà Nội, Hải Phòng về Sài Gòn bán trinh cho ngoại kiều, giá từ 500 đến 1.000 đô-la. Sau một vài lần, có đủ vốn rồi là cho "quy cố hương". Các cô gái mang vài chục triệu đồng về thôn quê cũng lấy làm thỏa mãn rồi.
Trong cái làng săn bắt ngoại kiều ấy của thành phố, Thủy Tú là nằm trong thứ bậc bảnh nhất và Vân nhận rõ là khôn ngoan nhất. Ưu điểm của Tú là biết tiến lui đúng lúc. Cô ôm ngang lưng Thủy Tú thú nhận thêm:
–Thằng Tom đã dúi vào bóp tôi cái business card có số điện thoại của nó ở khách sạn. Nó bảo bất cứ khi nào cần gì cứ gọi nó. Thằng Tom cũng nói là Richard hợp với cô hơn. Tôi hiểu nó muốn nói gì, song tôi làm lơ.
- Bây giờ thì chị có thể không làm lơ được rồi đấy. Trái lại, muốn làm gì thì làm. Nhưng chị nên nhớ Richard là sếp của Tom đấy nhé. Chúng nó chẳng có ý định hợp tác quay phim với mấy bố làm điện ảnh đang chết dở ở Việt Nam đâu. Phim Việt Nam nào cũng lỗ, phim quay rồi nằm ỳ trong xó, không rạp nào chiếu, thằng Tom lạ gì chuyện đó. Chẳng cần sang Sài Gòn, chúng nó cũng thừa biết. Nếu có hợp tác quay phim thì chỉ là hợp tác bố vờ để toan tính việc khác. Cho nên cái mục làm tài tử cho tụi nó là bánh vẽ hay nếu có cũng chỉ là trái độn. Nếu nó chịu bỏ ra vài chục triệu quay một cuốn phim giao hữu với Việt Nam thì có nghĩa là chúng nó sẽ thu lại cái gì đó vài trăm triệu. Thằng Richard nói với em là chúng nó sang đây để tìm thị trường tiêu thụ phim màu, băng vidéo và các loại dụng cụ máy móc chụp hình, in hình nổi. Chúng nó là đại diện cho hãng sản xuất các loại phim nhựa, chụp hình, video, băng trắng cho các loại máy của Nhật. Chúng nó đang muốn sản xuất những thứ đó ở Việt Nam để bán cho thị trường Đông Nam Á. Đây mới là mục đích chính. Hợp tác quay phim chỉ là cái vỏ ngoài hay là cái cần câu các anh ở đây bằng chiêu bài hợp tác và sẵn sàng bỏ ra số tiền tài trợ cho một cuốn phim nào đó của xưởng phim thành phố để dễ bề kiếm một hai cái giấy phép nhập phim ưu tiên, nhập hàng loạt dụng cụ ưu tiên. Chưa biết chừng chúng nó còn hàng chục dự tính khác nữa, các anh ở đây khôn lỏi và tham ăn không thể tính xa hơn được với nó đâu. Nó chi ra vài ngàn đô là để các ông ấy tối mắt lại, rồi chúng nó sẽ thu về hàng trăm ngàn. Thiệt là thiệt nhà nước, có ai mất gì đâu.
- Đúng vậy, mọi người đều có lời. Cả đến tụi mình cũng có lời.
- Tuy nhiên chị đừng bao giờ tọc mạch vào công việc của chúng nó, cứ vờ ngây thơ như không biết gì, cứ làm như mặc xác các anh muốn đào cả mỏ kim cương của đất nước tôi bê về Tàu cũng chẳng ăn nhằm gì tới tôi hết. Mà đúng như thế thật. Ăn chung gì tới tụi mình. Hơi đâu mà biết tới làm gì. Tụi nó rất ghét những cô tọc mạch, đôi khi chúng còn nghĩ mình là công an chìm gài vào dò xét tụi nó nữa. Điều này chưa chắc là không có đâu. Chuyện gì chẳng có thể xảy ra trong cái thời buổi này. C.I.A cũng có thể vào đây và ở đâu cũng cần có người khám phá ra ý đồ của C.I.A. Thế là mọi sự đều xảy ra được cả.
Vân cười hì hì khi Tú dừng xe trước cửa nhà mình:
- Cô nói tôi mới để ý tới chuyện đó. Cô rành lắm.
- Đường phố dạy em tất cả đấy chị ạ. Bố mẹ em chẳng dạy em được chuyện gì bây giờ nữa.
Chương 8
Khánh đụng đầu với ông Huy trong phòng Vân, khi anh đang ngồi duỗi dài trên chiếc ghế bành bằng mây đan, nệm vải, kê sát tường, đối diện với chiếc giường ngủ. Vân ngồi dựa lưng vào thành giường với bộ pyjama màu xanh lục. Vân giới thiệu với bố:
- Anh Khánh ở trước cửa nhà mình đó bố.
Ông Huy đã biết Khánh, song làm ra vẻ thờ ơ, trong khi Khánh đứng dậy cố tạo vẻ hiền lành, lễ phép cúi chào:
- Thưa bác.
- Chào cậu.
Vân nói tiếp để tạo một không khí gần gũi hơn:
- Anh Khánh đã giúp bố lấy lại cái xe Honda bị cảnh sát giữ bữa nọ đấy bố ạ.
Ông buộc phải chìa tay ra:
- À, ra là cậu đấy. Cảm ơn nhé.
- Mời bác.
Khánh chìa bao thuốc ba số năm ra. Ông Huy nhón một điếu. Khánh trịnh trọng bật lửa cho ông mồi thuốc. Ông ngồi xuống chiếc ghế bành bên cạnh, hỏi cho có chuyện:
- Cậu là con ông bà Tuân bên kia phải không?
- Thưa bác vâng.
- Bữa nọ đi ăn cưới tôi có gặp cả hai ông bà. Cũng là dân Hà Nội cả đấy.
Khánh cười thẳng thắn:
- Vâng thưa bác, nhưng chúng cháu được gọi là "Bắc kỳ 75". Người trong này thường không thích dân "bẩy lăm" phải không ạ?
Ông Huy nhìn Khánh, đánh giá câu nói của anh ta có hàm ý mỉa mai hay khiêu khích nào không. Ông cuời:
- Tất nhiên người ta cũng có lý do. Nhưng ăn thua gì, thích hay không thì người ta từ Bắc vào Nam sau năm 75 vẫn sống, vẫn làm giàu và- vẫn có một số người được nhiều ưu tiên hơn, nói trắng ra được nhiều quyền lợi hơn. Nhà cửa, đất đai, làm ăn- Song đó là chủ trương của nhà nước, họ không có tội vạ gì. Chỗ nào làm ăn được thì họ sống. Tôi là cũng dân Bắc kỳ, nhưng Bắc kỳ 54, tôi không để ý tới chuyện đó.

- Bác thì vậy song chúng cháu hiểu rằng nhiều người ở đây vẫn còn đôi chút "đố kị" với chúng cháu. Cháu hiểu là do hoàn cảnh tạo nên. Giả dụ như nhà mình thì bị một ông cán bộ ngang nhiên ở trong khi chính mình phải đi ở thuê, ở đậu. Ai mà không giận. Hay là đa số viên chức có quyền hành đều là người Bắc trăm phần trăm, sự va chạm trong tiếp xúc làm người Nam bực bội. Ngay cả đến các công ty, xí nghiệp, những chỗ làm ăn ra tiền, mấy ông bà con ông cháu cha cán bộ miền Bắc cũng chiếm đa số nên gây ra nhiều chuyện kỳ thị sâu sắc. Cháu hiểu rõ điều đó lắm và cháu chỉ thấy buồn. Đáng lẽ dân tộc mình phải là một.
- Tiếc rằng hai ba thứ chủ nghĩa đã phân hóa nó trầm trọng, mỗi miền đều tạo ra một thế hệ khác, một lối suy nghĩ khác, một cung cách sống khác, và một điều dễ thấy là những ngôn từ khác. "Báo cáo với họ hàng", "chúng tôi nhất trí", công việc "khẩn trương", "thuốc thẳng có cán"- đại loại như thế, đã làm tách biệt hẳn con người.
- Nhưng lâu dần rồi miền Nam cũng sẽ đồng hóa hết. Lối sống, cách sống, lối suy nghĩ hoàn toàn miền Nam hay nói rõ ra là lối sống tư sản thành thị đã thực hành trong toàn thể dân Bắc kỳ 75 chúng cháu, trong cả hàng ngũ cán bộ. Tuy nhiên vẫn còn những khoảng cách từ đáy sâu mà cháu nghĩ cần phải một thời gian dài lắm mới hàn gắn được. Điều cháu mong mỏi là mọi người trên đất nước này sẽ là một.
Ông Huy lại cười:
- Sự mong mỏi tốt đẹp và khôn ngoan. Nghĩa là cậu không muốn có ngày người ta sẽ phân loại để "trả lại cái gì của César cho César"?
- Cháu không có ý nói thế. Ngay bây giờ nếu chủ nhà đòi nhà và căn nhà cháu đang ở là của cháu, cháu trả ngay.
- Nhưng chính phủ không cho trả đâu và tôi sẽ không mong có cái ngày đen tối ấy. Biến chuyển sẽ dàn xếp một cách khác êm đẹp hơn. Loài người cứ "trả thù", cứ "trả nợ máu" mãi thì máu đòi máu, oán trả oán, đời ông đến đời cha, đến con đến đời cháu. Chẳng lẽ dân tộc mình khổ mãi vì một bọn đui mù cả con mắt và lương tâm sao? Tôi không tin thế.
Khánh có vẻ thích thú:
- Cháu cũng không tin như thế. Cháu xin hoàn toàn đồng ý với bác.
Ông Huy đứng lên, kẹp điếu thuốc giữa hai ngón tay. Ông bảo Vân:
- Mày đi mua hộ bố hai loại vải để may complet. Chuẩn bị trước là vừa, sang bên Mỹ quần áo may đắt lắm.
- Bố may sớm thế. Chị Phúc hứa gửi tiền về cho cả nhà may quần áo mà.
- Thì cứ may trước, bây giờ vải còn rẻ, mai mốt cấm hàng ngoại tao sợ đắt gấp đôi gấp ba.
Vân muốn nhắc bố đưa tiền, song lại biết bố chẳng đào đâu ra.Vả lại, có mặt Khánh, Vân không tiện đôi co với bố. Cô nghĩ thầm là ông biết cô vừa có tiền, một khoản tiền lớn. Có thể ông biết tiền đó từ đâu ra và cũng có thể ông không biết gì cả. Ông cứ nhắm tịt mắt lại nghe mấy đứa con trai nói Vân có tiền sắm vàng, sắm xe Honda, thế thôi. Vân đã tặng ông vài ba thứ lặt vặt, nhưng có lẽ ông chưa cho là đủ, muốn "moi" tiếp. Cô vờ làm bộ vui vẻ, lập lờ trả lời nước đôi để tống ông ra khỏi cửa:
- Được rồi bố để con đi kiếm.
Ông Huy lừng khừng bước ra ngoài. Vân háy mắt với Khánh rồi hạ thấp giọng:
- Bố tôi vẫn vậy, từ ngày đi tù về, ổng thay đổi tính tình khá nhiều. Cuộc đời đối với ông ấy tối sầm và chỉ còn một thứ có giá trị là tiền. Thắp vài ngọn đèn điện ông ấy cũng kêu ca, lắm lúc rầu muốn chết. Bất cứ chuyện gì không vừa ý ông ấy cũng la lối om sòm, toàn là chuyện chẳng đâu vào đâu hết. Ổng "hấp" không chịu được.
Khánh ngồi xuống ghế:
- Tôi thấy ông già lý luận đâu ra đấy, khôn ra phết chứ có thấy ông ấy “chạm điện” chỗ nào đâu.
- Ấy, lý luận thì ít ai bằng, "người" còn thích lý luận nữa là khác. Nhưng cũng ngang như cua. Lý luận lấy được. Chính phủ bị chửi, Mỹ bị chửi, bạn bè cũng bị lôi ra làm thịt. Chẳng có cái gì ông ấy chừa. Vợ con bị chửi luôn, làm như mọi người đều có trách nhiệm về sự suy sụp của ông ấy vậy.
Khánh trầm ngâm một chút rồi cười xòa:
- Chưa biết chừng điều đó có phần đúng đấy. Này nhé, Mỹ bỏ rơi ông ấy ở lại cho cộng sản bỏ tù. Bạn bè thì mạnh ai nấy chạy, chưa biết chừng còn lừa nhau mà chạy, cấp chỉ huy lại chạy nhanh hơn hết. Ở tù thì chẳng ai giúp ai, chẳng ai bảo được ai. Về đến nhà thì vợ bỏ, con cái không được học hành đến nơi đến chốn- và trăm thứ phiền toái khác vây quanh, điều này thì Vân biết nhiều hơn tôi. Trong một hoàn cảnh như thế, vào cái tuổi già, tôi nghĩ là cay đắng lắm chứ. Nếu có chạm điện cũng chẳng có gì lạ và chửi bới lung tung trong nhà chỉ là cách giải tỏa cho vơi bớt ấm ức trong lòng.
Vân thở dài:
- Tôi cho là nhà tù đã mài mòn con người đi. Nó còn gây nhiều hậu quả lâu dài và nghiêm trọng khác. Đặc biệt là tạo ra các tính xấu. Chẳng hạn sự thiếu thốn lâu ngày làm con người vốn không phóng khoáng cho lắm càng trở nên keo kiệt, keo kiệt đến bần tiện. Thứ hai là tính đạo đức giả, quân tử giả, chỉ nói cái mồm, lý luận như thánh sống mà chẳng làm được gì. Tôi không nói riêng trường hợp bố tôi mà đây là "tín hiệu" tôi nhận được từ hầu hết những ông bạn của bố tôi. Ngày xưa chúng tôi coi các ông ấy là thần tượng nhưng bây giờ chỉ còn là mảnh vụn của những pho tượng đất. Họa hoằn lắm mới có được một pho tượng chỉ sứt đầu mẻ tai chút đỉnh song cũng chẳng còn đáng để lên bàn thờ nữa.
Khánh nói một câu vu vơ:
- Con người mà! Không ai hoàn hảo cả. Ngay xã hội chúng ta đang sống bây giờ, cũng không ít người như thế. Bọn trẻ chúng ta không còn là lớp người sống theo kiểu lãng mạn của các công tử tiểu thư thời xưa. Lớp người "cổ kính" đó vẫn có cái hay của riêng họ chớ. Nhất là thế hệ chúng ta cũng không còn những anh hùng đi theo lý tưởng nữa. Tinh thần yêu nước, cộng sản, quốc gia, hay một tinh thần nhân đạo nào đó, hầu như đều bị lợi dụng quá nhiều, khiến đã trở thành giảm giá, thậm chí còn trở thành khôi hài. Lớp trẻ bây giờ sống thực tế, tàn nhẫn và cũng lại vì tiền, chẳng hơn gì ông già của cô đâu. Người ta nhắm mắt lại cũng vì tiền và mở mắt ra cũng thấy đồng tiền là to hơn cả. Thời kỳ chiến tranh có cái dở của nó nhưng cũng có cái hay, ít ra nó cũng còn cho chúng ta thấy được những con người có lý tưởng ở bên này hay bên kia. Bây giờ thì khó tìm thấy những ông đó.
Vân cười làm bộ mặt và mái tóc cô rung lên:
- Có chứ, anh từng thấy trong sách, kiểu "Pa-Ven"!
- Một thứ kinh điển đi vào hư không rồi. Sách vở, phim ảnh, nghệ thuật theo cái kiểu ấy đã chết lăn quay còn ai muốn đào nó lên nữa đâu, cô đừng sợ. Bây giờ là tình yêu, là tiểu thuyết "móc họng", là hội họa quê hương dân tộc, là những món ăn mới với những anh đầu bếp cũ, những anh đã có thành tích nấu "sỏi đá thành cơm", thêm tí mắm tí muối. Cho nên người ta lén đi ăn cơm tàu như cái món "Lục mạch thần kiếm" của cô, hay uống coca đầy chất "sex". Chẳng trách ai được cả. Người lớn hư, trẻ con hư, gia đình đồi bại, trò đánh thầy, người ta kêu toáng lên và đổ vạ lung tung. Người ta đi tìm gốc rễ của căn bệnh xã hội ở khắp nơi, soi kính hiển vi vào khắp chỗ nhất là vào va-li của khách du lịch, vậy mà có một nơi chẳng ai chịu tìm đó là trong óc của chính mình. Vi trùng nằm ngay trong túi những nhà tìm kiếm nên khó tìm. Cái óc không sạch thì chẳng có cái gì sạch, cái tâm không minh mẫn thì chẳng có cái gì sáng.
- Anh ăn nói kiểu "Khổng Tử" cho già người đi.
Khánh cười hà hà:
- Tôi nói vậy song tôi sống khác. Bây giờ bọn trẻ chúng tôi biết nhiều thứ, phân biệt rất nhanh nhậy hàng nào là hàng giả, hàng nào là hàng thật. Biết cả đôi chút lý luận kiểu này hay kiểu kia, biết thế nào là tốt đẹp biết thế nào là không tốt. Song chúng tôi lại ít chú ý đến điều đó. Nghĩa là biết cả đấy mà vẫn cứ sống cho mình, cứ làm cái gì trong tầm tay, mọi sự hiểu biết là thừa. Cuộc sống phải như thế mà. Thằng đói biết ăn trộm là ở tù, song cứ làm. Thằng đầy tớ biết bị sỉ mắng là nhục song vẫn cam chịu. Tuổi trẻ biết rằng được học hành là quý song trước mắt có những thằng chẳng học hành gì vẫn giàu, vẫn sang, vẫn sướng? Vậy học để làm gì? Tư bản hay cộng sản cũng vậy thôi, phải hỏi họ lo cho dân được cái gì? Được thật chứ không phải là lời hứa. Giàu, sang, sướng! Cái đích tận cùng của mọi chủ nghĩa. Phải không? Tuổi trẻ của tôi nghĩ thế và làm như thế.
Vân mỉm cười song không trả lời. Cô đang nghĩ tới điều Khánh vừa nói. Có một phần nào đó giống hệt với hoàn cảnh và tâm trạng cô. Phải rồi, có những điều xấu xa, người ta biết mà người ta vẫn làm. Có những thứ cao đẹp mà người ta đã bôi đen, vẽ bẩn lên nó để nó trở thành khôi hài lố bịch. Có những bước chân người ta phải tự đạp lên chính mình để đi vào cuộc sống. Một xã hội không ổn định sẽ kéo theo toàn bộ những con người không ổn định, xáo trộn về lý tưởng, rối loạn về tâm hồn, mâu thuẫn trong hành động, lệch lạc trong tri thức, trồi sụt như giá cả thị trường, băng hoại trong nếp sống, đảo lộn trong gia đình, bấp bênh trong mọi giá trị kể cả giá trị con người. Chẳng còn niềm tin nào có thể đứng vững được hết, ngay cả niềm tin về đạo đức.
Vân nhìn lại mình, nhìn vào gia đình mình, cô càng thấy điều đó là đúng. Cô cúi đầu che giấu một tiếng thở dài. Rồi ngay đó cô quyết định quên hết mọi thứ. Suy nghĩ mãi có thể trở thành "lẩm cẩm" hệt như ông già cô. Rồi có mang lại được gì đâu, chẳng thay đổi được chút xíu nào hết. Hãy sống với những gì mình có, hãy làm những gì mình có thể làm được trong lúc này. Mọi thứ chỉ là tạm bợ. Mai đây cô đi Mỹ với bố và các em, cuộc sống lúc đó có thể là vững chắc. Dù sao cũng chỉ là "có thể", nhưng ít ra cũng tìm được một đổi thay, một tương lai nào đó mà cô thường nghĩ rằng nếu không sáng hơn thì cũng không thể tối hơn thế này được. Cô chẳng có nghề ngỗng gì nên chẳng nhìn thấy gì ở tương lai xa lắc xa lơ kia. Nước Mỹ thường hiện lên trong cô với những tòa nhà chọc trời, những con đường thênh thang thẳng tắp, từng đoàn xe hơi đẹp tuyệt nối đuôi nhau, những cửa hàng sang trọng, những áo quần đủ màu, những tiện nghi tối tân phục vụ con người. Đó là tương lai của cô. Cô sẽ là một thành phần trong cái "quê hương" thứ hai thanh bình an lạc ấy. Không hiểu sao cô vẫn tin rằng cô sẽ làm ra tiền, hàng chục ngàn đô-la, và cô sẽ gửi về Việt Nam cho bạn bè, cho chị vú, cho bà ngoại, cho ông cậu nghèo lác mắt- Cô muốn quên đi tất cả những cái gì đã xảy ở đây.
Tiếng Khánh kéo cô trở về với thực tại:
- Nếu Vân cần loại vải nào, tôi sẽ cung cấp. Hàng Ăng Lê hay hàng Pháp, thứ nào cũng sẵn sàng.
Vân ngước lên, cô định thần vài giây mới bắt lại được ý câu chuyện:
- Anh muốn nói đến loại vải cho ông bố tôi?
Rồi cô xua tay:
- Khỏi cần anh ạ. Vân nghe nói quần áo may ở bên Mỹ đắt thật, có thể hàng trăm đô một bộ cho nên Việt kiều về đây may quá trời. Tiệm may nhờ đó mà làm giàu, quảng cáo trên ti vi nhiều hơn hàng rau. Nhưng qua bên đó, bà con anh em cho cả đống, sợ mặc không hết. Mình là dân mới sang, cần gì phải diện đẹp. Quần áo cũ người ta cho cũng bảnh chán. Để tiền làm việc khác tốt hơn.
- Dù sao mình may vẫn đẹp hơn. Tôi sợ ở cái xứ sở ấy người ta nhìn mình qua bộ quần áo và chiếc xe trước đã.
- Tất nhiên.
- Vậy để tôi tặng bác một xấp vải Ăng Lê.
- Món quà ra mắt à? Anh muốn gì vậy?
Khánh xòe hai tay:
- Tôi không mua chuộc, hối lộ gì trong chuyện này. Bác cần thì tôi biếu. Sao Vân luôn nghĩ rằng người ta sống với nhau hoàn toàn trên sự đổi chác? Đã đành xã hội là thế đấy, một bao thuốc lá, một cái phong bì, đi cửa nào cũng lọt. Nhưng cũng có ngoại lệ chứ.
- Tôi không tin vào những ngoại lệ.
- Tin hay không là việc của Vân.Tôi thích thì tôi tặng.
- Thích tôi hay bố tôi?
Câu hỏi sống sượng của Vân khiến Khánh có vẻ giận. Nhưng tiếng cười đùa cợt và tình tứ của Vân đã làm bớt sự căng thẳng. Tuy vậy Khánh vẫn chưa nguôi, anh đáp lại:
- Tôi thích cô, đồng ý! Nhưng cô có đánh giá cô cao quá không?
- Đùa vậy mà cũng đỏ mặt à? Anh này "quê" quá.
- Cô chọc quê tôi được là cô thành công rồi đấy. Tôi vốn được bạn bè kêu là Khánh lỳ. Nhưng lỳ tùy chuyện thôi.
- Nếu đã được tặng cái mỹ hiệu là "lỳ" thì phải lỳ ở mọi nơi mọi chuyện chứ không phải tùy từng chuyện.
- Cô thích loại con trai vậy à?
- Có lẽ, nhưng- chưa biết.
- Vậy đi chơi với tôi vài lần cô sẽ biết. Nào, chúng ta đi ăn sáng, hơn chín giờ rồi, tôi chưa có gì vào dạ dày.
Vân cũng cảm thấy đói bụng nên nhận lời một cách dễ dàng. Cô nhanh nhẹn đứng lên:
- Cho tôi năm phút trang điểm qua loa thôi.
- Tôi rất kính trọng sự làm đẹp của các cô nhưng càng kính trọng hơn nếu trang điểm thật nhanh.
Vân mang quần áo vào phòng tắm. Quả nhiên chỉ hơn năm phút sau Vân đã trở ra. Cô ăn mặc giản dị, một cái áo sơ mi ca-rô nhỏ màu nâu non bỏ ngoài chiếc quần dài màu đất, đi đôi dép cao su Nhật đế dày cộm, tay xách chiếc bóp vàng. Ngay đến cả sự trang điểm cũng sơ sài, lông mày kẻ một đường cong mờ, điểm qua chút xíu phấn trắng, không tô quầng mắt. Sự giản dị và nhanh gọn ấy khiến Khánh thích thú hơn. Nó cho người ta cảm nghĩ hai người đã quá thân, đã có thể là "của nhau rồi" nên không cần giữ ý tứ, không cần làm đẹp nữa. Một buổi sáng cùng đi với nhau như thế có nghĩa là họ đã cùng trải qua một thời gian dài thân mật, gần gũi đến nỗi chẳng cần chú ý đến những kiểu cách khác.
Khánh chở Vân đến một quán điểm tâm nằm trong con đường nhỏ vắng lặng giữa phố Tú Xương, hầu hết là những biệt thự nằm dọc hai bên phố im lìm, sạch sẽ, khang trang. Khu phố hầu như rất ít người, ít xe qua lại, ngoại trừ những người có nhà cửa ở đây. Quán điểm tâm cũng là một biệt thự, nhưng bàn ghế đều xếp ở sân lát gạch và trong căn nhà phụ có mái che chạy dọc theo bờ tường gạch dài. Căn nhà chính của biệt thự đóng cửa im lìm. Một loại nhà trong những căn nhà chủ cũ đã bỏ đi hoặc là của một anh tư sản nào đó bị nhà nước "đánh" và "quản lý" rồi phân phát cho một cán bộ và ông này có vài ba căn nhà đại loại kiểu ấy, bây giờ làm ăn thêm hoặc cho thuê lấy vài ba chỉ vàng xài chơi. Các quán ăn, tiệm nước, cửa hàng ở thành phố này đầy rẫy trường hợp như thế. Nếu chịu khó làm một cuộc điều tra tỉ mỉ, con số thống kê có lẽ không dưới năm mươi phần trăm. Điều đó không lạ gì với Vân, ngay trong cái ngã tư cô sống cũng có thể chứng minh hùng hồn cho con số thống kê này.
Vân đưa mắt nhìn những dãy bàn xung quanh. Vắng ngơ vắng ngác. Chỉ có hai bàn có dăm bảy người khách. Thấy Khánh và Vân bước vào, họ ngước nhìn đăm đăm như dò hỏi. Vân nghĩ họ chỉ tò mò trước một cặp trai gái có vẻ "thời thượng" thôi, vì không rõ họ đang nói chuyện ồn ào bỗng ngưng bặt rồi cúi sát vào nhau thì thầm điều gì đó một cách vui vẻ với những tiếng cười nho nhỏ.
Khánh chọn chiếc bàn phía giữa dãy nhà ngang dài có mái che lợp tôn, quăng bao thuốc lá và chùm chìa khóa xe trên mặt bàn. Một cô hầu bàn nhanh nhẹn chạy ra. Cô ta chào Khánh như một khách quen thân và kính trọng:
- Anh ạ. Anh dùng gì nào. Omelette jambon như mọi khi nhé?
Khánh quay sang hỏi ý. Vân gật đầu, Khánh hất hàm:
- Hai cái và hai cà phê sữa.
Cô hầu bàn vừa dạ vừa quay người đi, Khánh thêm:
- Tắt cái loại nhạc í ới của nhà các chị đi cho người ta nói chuyện.
- Vâng, thưa anh.
Vân nhủ thầm "chắc cậu là dân công tử có tiền nên bà chủ quán chiều chuộng, đúng là thứ quyền hành hão!" Song cô vẫn thản nhiên như đã quen thuộc với cái lối hách xì xằng của người bạn mình. Tiếng nhạc đang rên rỉ bỗng tắt ngấm. Khánh với bao thuốc châm một điếu, chầm chậm nhả khói.
Hai thanh niên, một anh có bộ ria dài viền trên vành môi, một anh khác trắng trẻo béo tốt đeo kính trắng, bước tới bàn Khánh. Vân giật mình. Cô sợ sẽ có một cuộc gây gổ xảy như trong các quán khác. Những vị "anh hùng" ấy sẽ chứng tỏ mình là anh hùng trong cái "giang sơn" này, nhất là trước mặt vài cô gái đẹp. Vân liếc nhìn Khánh, anh vẫn thản nhiên như không thèm biết tới sự có mặt của hai chàng trai kia. Vân hồi hộp chờ đợi. Nhưng chuyện xẩy ra khác hẳn với suy nghĩ của cô. Anh chàng đeo kính trắng kéo một cái ghế con ở bàn bên cạnh ngồi sát bên Khánh, còn anh chàng có ria đứng chống tay vào thành ghế Khánh ngồi rồi cúi xuống thì thào bằng một giọng lễ phép:
- Nói chuyện với anh một chút về vụ Tây Ninh được không?
- Nói đi, người nhà.
- Chuyến vừa rồi mình đi tất cả mười lăm xe, hộ tống cho bốn xe chở hàng của "Cục R". Bị bắt tám xe. Một Suzuki, một Yamaha, bốn Honda, hai cúp. Ngay tối hôm qua, mấy xe bị cánh thằng An Gà bắt đã được thả. Còn kẹt bốn cái. Thằng Hùng Vạc chịu thua không lấy ra được vì cớm thành phố phối hợp lung tung với mấy thằng mắc dịch của cơ quan khác, cả quân sự, bộ đội địa phương, quan thuế thành phố và nghe nói cả bọn an ninh tình báo dính vào nữa nên khó lòng lôi người của mình ra.
Khánh trầm ngâm:
- Chúng nó biểu diễn một pha ngoạn mục cho đẹp chiến dịch quyết tâm của nhà nước đấy thôi. Tao đã báo động cho tụi mày rồi mà.
- Tụi em có chặn, nhưng mười lăm xe lặn trong rừng nên không kịp thông báo. Còn mười lăm xe, tụi em không cho "xuất cảnh".
- Thôi được, bốn xe không ăn nhằm gì. Cho chúng nó nằm chơi ít bữa cũng chẳng sao. Cho người nuôi nấng tụi nó tử tế và báo tin cho chúng nó biết rằng nếu khai một câu về bất cứ người nào của "Cục R" chúng nó sẽ nằm tù không có ngày ra và tao sẽ trừng trị chúng nó ngay trong tù đấy.
- Bốn thằng này chỉ có hai thằng dân chợ ông Tạ là tin được, còn hai thằng dân Gò Dầu, Trảng Bàng, em cũng chưa biết ra sao.
- Việc đó không phải của tao. Đứa nào giới thiệu, đứa nào sử dụng, đứa đó chịu trách nhiệm. Quy định rõ ràng, cứ thế mà làm.
- Anh có cho tiếp tục công việc nữa không?
- Sao lại không. Còn cả đống hàng của người ta. Sau một chiến dịch chúng nó sẽ bận tới tấp, nào biên bản, nào giữ người, giữ hàng, nào họp hành, kể công kể tội, nào lo chuồn đi một mớ, nào mặc cả mua bán người, mua bán tội với các cơ quan can thiệp ngầm và còn cả trăm thứ hấp dẫn khác. Các cửa ngõ sẽ lại rộng thêm, mày chở hàng gì chẳng được. Lúc này mày cần đi ngay xuống các nơi chuyển hàng, tìm đường mới hay là tạm dùng đường cũ mấy năm trước. Đánh mau, đánh mạnh, trong vòng mười lăm ngày. Nhớ, chỉ trong mười lăm ngày thôi kể từ hôm nay. Sau đó ngưng, coi tình hình ra sao.
Gã có ria con kiến gãi đầu:
- En sẽ làm ngay nhưng em nghĩ anh nên tăng giá.
Khánh ngước lên.
- Đừng dạy tao. Chúng mày ngu lắm. Mình làm ăn với họ đã lâu, "Cục R" là tổ chức có tín nhiệm, có thần thế gần mười năm nay, mình mới làm được vài năm chỉ là thứ gà con vừa ra chuồng. Không có tao, đời nào họ dám giao cơ nghiệp vào tay chúng mày. Bây giờ người ta gặp lúc hoạn nạn, có phải không? Tăng giá thì lương tâm chúng mày để đâu, cũng phải có nghĩa khí, có tình cảm với nhau mới lâu bền, mới sống chết với nhau được. Tao sẽ không lên giá một xu nào, tao sẽ cố gắng bằng mọi cách chơi cái trò "Lê Lai cứu chúa". Như vậy lương tâm tao yên ổn. Có lẽ tao sẽ đi Campuchia một chuyến để lo cho họ vụ này, tính xem liệu tạm thời có thể gửi hàng bên đó được không. Tao sẽ dàn xếp giúp họ. Mày đi với tao không, Khiêm Câm?
Gã đeo kính trắng suy nghĩ rồi thận trọng lắc đầu:
- Không êm, Campuchia lúc này lộn xộn dữ lắm. Si-ha-núc sắp về, Pôn Pốt khá mạnh, Son-Sen cũng đang có thế, ông bạn Hun-Xen bồ với Việt Nam đang bấn xúc xích chưa biết sẽ ra sao. Để hàng bên đó có ngày mất toi.
- Vậy thì bằng mọi giá phải đưa hàng về cho người ta. Mày bảo thằng Viên Thổ Mừ xuống Tịnh Biên, Châu Đốc xem ra sao. Thuyền bè có xài được không? Bảo Viên Thổ Mừ gặp tao, tao sẽ viết giấy giới thiệu với thằng bạn làm biên phòng ở dưới đó. Thôi, chúng mày đi lo công việc đi.
Khiêm Cận đợi gã có ria mép đi rồi mới lên tiếng:
- Anh Chín ở "Cục R" muốn gặp anh.
- Vụ tổ chức làm thuốc lá giả phải không?
- Cả hai thứ, giả và thật. Anh Chín tính bỏ hết thuốc lá ra, xé giấy từ bên đó, chỉ chuyển sợi thuốc về thôi, đóng bánh, như thuốc lào. Không ai có quyền bắt thuốc lào. Còn vỏ bao sẽ chuyển về sau. Chỉ có bao không sẽ không bị bắt. Về đây chỉ việc in giấy cuốn, cuốn bằng máy ở đây rồi lại đóng bao bán như thuốc ngoại. Mua tụi trẻ con các loại bao thuốc thêm vào. Kẹt lắm thì in bao luôn, đấy là hoàn toàn thuốc thật. Các loại thuốc Việt Nam thì làm giả bao nhiêu cũng dễ như trở bàn tay. Các ông ấy sẽ đến tận các hợp tác xã trồng thuốc và cả bà con trồng thuốc tư nhân mua ngay từ bây giờ, mang về làm các loại. Tung ra bán khi hàng ngoại khan hiếm. Còn các loại mỹ phẩm, làm giả cũng chẳng khó gì, "Cục R" đang chuyển về kiểu làm ăn này. Họ cần anh hỗ trợ về địa điểm và các con mối cũng như địa bàn tiêu thụ.
- Cậu nghĩ sao?
- Nếu chỉ có thế thì giúp họ. Nắm mấy cái mối ở các khu chợ, ra lệnh cho họ sẽ chỉ được bán thuốc của "Cục R".
- Mình sẽ lấy bao nhiêu phần trăm?
- Cái đó tùy anh. Mười hay mười hai phần trăm trên số bán ra.
Khánh lắc lư cái đầu:
- Được rồi, tôi sẽ bảo dì cháu con Ma-đô-na Gò Vấp lo chuyện này sau. Hồi này hai đứa có vẻ đói.
Khiêm câm sửa lại cặp kính trắng:
- Mình trừng phạt kinh tế dì cháu nó như thế đủ rồi.
- Chính cậu là quân sư vụ trừng phạt. Tôi đã cấm tụi nó không được bén mảng tới khu làm ăn của bọn ở các khách sạn, vậy mà tụi nó vẫn cứ mua bán đô-la, dắt gái. Không phải lãnh vực của mình. Tôi bị mấy cái "băng" Catinat Nguyễn Huệ kêu la rùm trời.
- Hồi này tụi nó ngoan ngoãn, chịu nằm yên ở khu vực sân bay rồi, chỗ đó bọn Hy-ghi-ta trong quân khu bẩy cai quản chặt lắm, không ho he gì được. Dì cháu nó mới gặp tôi, kêu trời như bọng. Anh để tôi giao việc cho nó.
- Giao thì giao nhưng đừng ngủ lại với con dì nó, có phen ăn lựu đạn của thằng Minh cả ngố. Tôi mất một tay quân sư quạt mo như cậu cũng uổng.
- Còn lâu, đừng lo cho tôi, hãy để tôi lo cho anh.
Khiêm câm đứng lên, lịch sự nghiêng đầu chào Vân rồi đi thẳng, hắn béo tốt, đường bệ ra dáng lắm.
Khánh đẩy đĩa trứng thịt lại trước Vân kể lể:
- Thằng này có cái đặc biệt là trong mọi cuộc họp hay ở chỗ đông người, không bao giờ nói một câu. Chỉ ngậm miệng ăn tiền. Nhưng sau đó nó lại nói với tôi về các mánh lới, các cách cai trị, kế hoạch làm ăn. Nó tham nhưng được cái thông minh và trung thành như con "bẹc-dê". Chơi với nó không sợ phản và nó lo cho mình như kép si tình lo cho bà hoàng hậu vậy. Bởi sinh mạng nó gắn liền với gia đình tôi. Nó là dân có học, đã đi Hungari. Đông Đức, Liên Xô- Trót bán nhầm của Ủy Ban khoa học vài chai Heroine nên bị điều tra, suýt nữa vào tù. Bố tôi và ông anh tôi chạy cho chỉ bị xử lý hành chánh. Đại khái mấy cái loại phạt vớ vẩn cho vui vậy. Rồi anh chàng lại tằng tịu với vợ của một anh cán bộ ngành ngoại giao, chồng đi nước ngoài, ở nhà anh chị tha hồ trăng mật. Bị đứa con gái riêng của ông "ngoại giao" thưa Công an, bị bắt tại trận, vụ đó được ỉm đi vì sợ tai tiếng. Đến bây giờ hồ sơ còn nằm đó, trong khi anh chồng ở nước ngoài chẳng hay biết tí gì. Chị kia ở Hà Nội, ông già tôi bắt thằng này phải vào Sài Gòn để tách ra. Vào đây lêu bêu, dạy học không đủ tiền ăn sáng nên nó nhập băng với tôi, sống một mình một căn nhà, xài sang như ông hoàng, nhưng suốt đời ngậm miệng. Nhờ vậy mà người ta không hiểu nó ra sao, vẫn sợ nó, nhất là trong công việc ngoại giao, cử nó đi đâu họp hành, nó chỉ cần ngồi, lâu lâu phát ra một vài câu có tiếng ngoại quốc, có sách vở hẳn hoi khiến người ta có cảm tưởng ngồi trước ông ngoại trưởng của Nhà Trắng hay ở điện Krem-lanh, mới sách cặp ra. Nó khôn kinh khủng.
Hai người tiếp tục ăn điểm tâm. Khánh cho biết thêm Khiêm-câm là cách đặt tên mỉa mai và láu cá của cái băng này. Nó là một cách tượng trưng gần giống con người thật để che mắt và cũng làm vừa lòng công an. Khiêm câm cũng giống ông thủ tướng Khiêm của Sài Gòn cũ. Còn nhiều cái tên sẽ đi vào "lịch sử đen" được đặt cho người của cái băng nửa du đãng, nửa anh chị giang hồ kiểu mới của Sài Gòn thập niên 90 này như Minh-cả-ngố chẳng hạn. Cả đến "Cục R" cũng được mang ra ngụy trang cho một tổ chức buôn lậu, biết đâu chẳng có những ông trùm buôn lậu từng có thời vẫy vùng ngang dọc trong "Cục R" là bí số của bộ phận đầu não trong cuộc chiến tranh ở miền Nam ngày nào?
Băng Khánh Lỳ cho là cách đặt tên ấy còn làm khoái cái lỗ tai của một số dân Sài Gòn và có thể vừa lòng cả công an nữa. Chính Vân cũng mơ hồ cảm thấy khoái sự nghịch ngợm ấy tuy nó chẳng có vẻ tử tế chút nào.
Chương 9
Anh muốn có một đứa con. Đó là ý muốn thiết tha nhất. Có con thật là tuyệt. Em chưa hiểu đâu. Một đứa con làm cho tình yêu vợ chồng trẻ lại, làm cho căn nhà sáng lên, tươi vui rực rỡ như ngày hội. Đi đâu cũng không thể quên nó, làm gì cũng nghĩ đến nó và biết rằng có nó, anh sẽ lái xe nhanh hơn khi về nhà, tâm hồn phơi phới với một món quà nó thích. Nó cười như tiếng chuông ngân và tiếng chuông ngân ấy dài trong lòng anh. Những ngày ấy anh sống thật đầy đủ tuy không giàu như bây giờ. Nhưng con anh chết rồi. Nó chết trong bể bơi, lúc vợ anh lúi húi làm bếp. Nó cạy được cửa vào hồ bơi, chỉ mười lăm phút thôi, nó nằm dưới lòng hồ. Vớt nó lên, làm mọi cách, nó không tỉnh lại. Vợ anh hối hận, anh dằn vặt, hai đứa bỏ nhau-
"Rồi anh lấy vợ khác, khi ba mươi tuổi. Mười năm rồi, bà ấy không có con. Nhưng bà ấy là một phụ nữ Trung Hoa thuần túy, hết lòng vì chồng, anh chẳng có cớ gì để ly dị. Bà xin một đứa con nuôi, đứa con trai, năm nay bẩy tuổi, sống trong nhà anh đã hơn hai năm. Nó chẳng xấu xí gì. Nhưng thú thật, tình cảm của anh dành cho nó vẫn có cái gì đó không thật, một ngăn cách vô hình song rất rõ rệt. Đôi khi nhìn vợ âu yếm, chăm sóc nó, anh tự hỏi: Bà ấy có phải cố gắng nhiều để có cử chỉ đó không? Bà ấy hiền quá, anh không hiểu tình cảm bà ấy dành cho đứa bé đến mức nào. Có điều chắc chắn trăm phần trăm là không thể yêu thương nó như con đẻ. Chính vợ anh cũng có lần công nhận thế. Chẳng qua là thường tình. Rồi sau nhiều lần do dự, anh và vợ anh đến bệnh viện khám. Người ta xác nhận vợ anh không có con được. Nỗi buồn khiến bà ấy héo hắt đi, thà không đi khám còn hơn. Bà buồn bã cả năm trời, cố dồn hết tình yêu thương cho đứa bé, nhưng anh vẫn thấy một bức tường vô hình chia cách.
"Vào cái tuổi bốn mươi, nhìn lại tài sản mình kiếm được, anh bỗng tự hỏi nếu phải làm di chúc, anh sẽ để tài sản mồ hôi nước mắt đó cho ai? Đứa con nuôi kia sẽ lãnh trọn như của trời rớt xuống sao? Anh bàn với vợ. Bà ấy cũng phân vân. Nhất là bà ấy và anh đều biết bố mẹ thằng bé ấy ở đâu. Đó là người anh họ xa bên ngoại anh, nghèo và say suốt ngày. Chị vợ lắm điều với bảy tám đứa con, chẳng đứa nào ra hồn. Cả hai vợ chồng cùng tham lam. Anh đã cấm cửa không cho tới nhà, nhưng họ vẫn tìm cách xin tiền anh và chắc chắn sau này họ mới chính là bố mẹ nó. Chính vợ anh cũng không hề muốn gia tài của anh lọt vào tay đứa con nuôi. Bà ấy bằng lòng cho anh lấy thêm một người vợ với điều kiện có con trước đã. Bà bằng lòng cho người vợ sau này về ở chung và con sẽ là con chung. Anh hiểu sự hy sinh ấy và hiểu sự thông cảm thật tình trong cái ý muốn ấy. Bởi vì chính ông già vợ anh cũng có hai vợ, ở chung một nhà và các con cái được nuôi nấng dậy dỗ như nhau, định rõ thứ bậc bà cả bà hai trong nhà. Phong tục và luân lý Trung Hoa cũng như Việt Nam xưa kia coi chuyện đó là thường, phải không em?"
Đó là tâm sự của Tom kể với Vân, trong nhiều đêm ở trên giường. Lần đầu tiên Vân cùng Tom đi Vũng Tàu ba ngày rồi Nha Trang, Đà Lạt và sau đó Tom thuê riêng một biệt thự sống như một căn nhà biệt lập để thỉnh thoảng Vân đến đấy một hai ngày. Một tháng trôi qua như thế, Vân sống rất ung dung. Tom cũng đến nhà Vân chơi và được mẹ Vân đón tiếp niềm nở. Tom hào phóng tặng bà Linh những món quà giá trị. Sinh nhật bà, Tom tặng cái đồng hồ đeo tay giá thị trường là năm chỉ. Sinh nhật Vân, bà mẹ cũng được tặng lọ nước hoa giá năm mươi đô-la. Hôm nào bà đãi Tom ăn ở tiệm của bà một món Việt Nam như cá nướng, cua hấp, miến lươn, Tom cũng lịch sự gửi bà một phong bì cả trăm đô-la. Tom yên trí đã lọt được vào một gia đình đàng hoàng, có gốc rễ quyền quý hẳn hoi, và Vân không như loại gái lăng nhăng đầy các hộp đêm Sài Gòn bây giờ, chẳng tình nghĩa gì, chỉ có tiền vài quà rồi lại quà và tiền!
Tom cũng nhận được ở Vân vẻ dịu dàng và những cơn đam mê cuồng nhiệt trong chuyện gối chăn. Tiếng rên rỉ của cô, vòng tay níu chặt, những cú giật tóc muốn bật tung từng cụm da đầu, những hơi thở đứt quãng, những quằn quại như con thú bị thương. Vân đã buông mình với Tom bằng tất cả sức lực, tất cả khát khao của tuổi trẻ. Chính cô cũng nhận thấy ở Tom một anh chàng lịch sự, khỏe mạnh, dẻo dai và đầy kinh nghiệm với những nội ngoại khoa kỳ lạ, gây cho cô cảm giác rụng rời say đắm khiến cô không thể không la hét giẫy giụa. Cô đã buông thả tất cả để đưa mình lên tuyệt đỉnh sung sướng và nhấn chìm mình xuống tận đáy sâu nhầy nhụa mát lạnh. Sau những lần như thế, cô thỏa mãn rã rời, ngủ như chết để mấy giờ sau lại sống lại bừng bừng như không biết mệt mỏi, không biết mình ở đâu và ra sao. Cô rú lên cười khi Tom làm cô đau đớn và vuốt ve chiều chuộng Tom như người vợ thuần hậu đoan trang nhất. Cô đưa Tom vào thế giới tình yêu trong xanh đầy hoan lạc.
Tom ngỏ ý:
- Anh muốn em cho anh một đứa con. Anh sẽ lấy em, đưa em về Hồng Kông rồi sẽ đưa cả gia đình qua Úc, ở đó anh đã có cổ phần trong một công ty xây dựng. Chúng ta sẽ tránh nạn Trung Quốc lấy lại Hồng Kông năm 1997. Chúng ta sẽ sống bên nhau mãi. Một người như em mà ở đây, phí quá, rồi lại rơi vào tay mấy anh- chẳng ra gì. Nhưng với điều kiện em phải có con với anh.
Vân nũng nịu:
- Nhưng em sợ bà vợ cả của anh.
- Em yên tâm, bà ấy rất hiền, rất phúc hậu. Gặp bà ấy, em sẽ thấy bà ấy rất dễ thương và nếu em có con, bà ấy sẽ thương con của em hơn nữa. Đó là điều bà ấy mong đợi.
Rồi Tom nhỏm dậy:
- Em không dùng thuốc đấy chứ?
Vân cười để thú nhận cô vẫn dùng thuốc ngừa thai. Tom nhẩy xuống giường, trần như nhộng, lục xắc tay của Vân lôi ra hai vỉ thuốc gần ba mươi viên trong những ngăn nylon cứng. Một vỉ thuốc đang dùng dở dang, một vỉ còn nguyên vẹn. Tom nhanh nhẹn bóc ra từng viên. Vân hất tung tấm drap mỏng đắp hờ trên thân hình tròn trịa, giật lại như một cử chỉ tự vệ. Hai người giằng co trong vẻ nửa như quyết liệt nửa như tình tứ gợi cảm. Vân bỗng la lên:
- Nhưng em sợ lắm.
- Em sợ gì?
- Lỡ có chuyện gì xẩy ra, em mang thai, anh về Hồng Kông, em sẽ ra sao? Em không liều như thế được.
- Em không tin anh sao? Trước khi về Hồng Kông anh sẽ lo đủ cho em và kỳ sau sang, anh sẽ lo cho em đầy đủ hơn nữa. Em cần gì cho anh biết, khỏi phải lo gì cả.
Rồi Tom giằng hai vỉ thuốc bóc hết ra, vào phòng tắm bỏ vào la-va-bô dội nước. Sau đó Tom đi ra, mỉm cười khoái chí đắc thắng như một anh dũng sĩ vừa chứng tỏ một cử chỉ hào hiệp với cô tình nhân đáng thương. Vân vờ ra vẻ giận dỗi lo âu. Nhưng Tom đã ôm lấy cô dỗ dành.
- Nào, bây giờ tụi mình quyết chí có con với nhau.
Vân nghĩ tới một tương lai tốt đẹp, nhanh chóng hơn là đợi bố đưa đi Mỹ rồi phải kiếm công ăn việc làm ở đó, còn lâu mới giàu được. Chi bằng chọn con đường ngắn nhất này, con đường tắt đi tới cuộc đời huy hoàng. Cô ném hết niềm hoan lạc của mình vào quyết tâm có con với Tom.
Vài ngày sau Tom hỏi:
- Sao, em đã thấy gì chưa?
Vân vỗ nhẹ lên đầu Tom:
- Từ từ chớ bố. Đợi đi, em sẽ cho bố một đứa con. Con trai hay con gái, anh?
- Con gái. Một đứa con gái Việt Nam lai Trung Hoa. Đẹp lắm! Anh sẽ kiếm một bà vú Trung Hoa thật hiền hậu, cổ điển. Anh muốn con mình là một tiểu thư dịu dàng, khuê các như các nàng công chúa xa xưa mà anh thấy trong sách vở. Anh quý trọng những người con gái như thế.
Đôi mắt Vân chớp nhẹ như mơ màng:
- Em cũng vậy. Em sẽ cho nó vận áo "xường xám" và áo dài Việt Nam nhé.
- Ý kiến tuyệt vời. Có lẽ cần dạy kỹ nó ngay từ nhỏ. Anh chỉ sợ xã hội sẽ làm hỏng nó bởi những thời trang, kiểu mốt. Chúng ta không có quyền cấm nó khi xã hội này như thế. Vả lại, thời trang chỉ tô điểm thêm cho nét đẹp con người chứ có tội gì đâu! Anh muốn nói là anh vẫn thích những nét đẹp, chỉ có con người xấu chứ thời mốt không xấu. Chúng ta không thể khắt khe với con cái đến thế.
–Vậy thì ta khuyên nó nên mặc cả ba thứ, Tây, Tàu và Việt. Dung hòa hết cả. Mỗi ngày nó mặc một kiểu.
Tom cười:
- Em tham quá. Nhưng sẽ chẳng ai biết được con mình rồi sẽ ra sao đâu. Ước mong của bố mẹ chỉ là thứ tình yêu được gửi gấm và sẽ chỉ còn là hình bóng một thời thôi.
- Dù sao em vẫn có quyền hy vọng. Ngay bây giờ em đang sống với những hy vọng đó.
- Vậy thì chúng ta phải gấp rút lên.
Đôi mắt Vân mở tròn như nai tơ nhưng là con nai tơ biết khiêu khích:
- Gấp lên, có con bằng cách nào bây giờ?
- Em biết đấy
Họ cười và nắm tay nhau.
Chương 10
Nửa tháng sau Tom và Richard về Hồng Kông. Họ ở đây đã bốn mươi lăm ngày, có lẽ đã làm được khối việc nhưng Vân chẳng cần biết kết quả mang lại cho họ những gì. Vân chỉ biết Tom và Richard cùng hẹn sẽ trở lại trong hai tháng nữa. Tom để lại cho Vân một chiếc Dream mới tinh và hứa sẽ gửi tiếp khi Vân cần, chỉ một cú điện thoại hay cái fax về hãng là xong. Nhưng nếu Vân chưa cần thì khi Tom sang sẽ mua đủ thứ mà Vân đã dặn. Điều Tom thiết tha dặn đi dặn lại Vân là nếu có tin mừng phải điện thoại cho anh ngay. Trong buổi tiễn đưa khá bịn rịn ở phi cảng, Vân khẽ xoa bụng mình mỉm cười e lệ:
- Cũng rất có thể.
Tom ôm vai cô:
- Anh mong rằng "phải có".
- Em cũng mong.
Rồi hai người chia tay. Vân thoáng cảm thấy một nỗi buồn mênh mông như mất mát. Trước hết là mất những thói quen đã nhập vào cô hơn một tháng nay. Những lúc Tom đi lo công việc, cô về nhà, lăn ra ngủ rồi sang ăn ở quán bà Linh. Chiều đến, cô ra đi và sống một đêm đầy đủ trọn vẹn. Sáng hôm sau lại như thế, no đủ, ung dung, nhàn nhã. Cô coi cuộc đời như ở dưới chân. Cô ăn xài rộng rãi, vui vẻ với cả nhà. Từ ông bố thích moi tiền đến bà mẹ chẳng hơn gì nhưng "biết điều" và đóng vai bà mẹ yêu con hoàn chỉnh. Bà biết moi của "khách" hơn là của con và biết cả cách đưa con mồi vào tròng, thắt lại chặt chẽ. Sự khôn khéo của bà góp phần không nhỏ vào sự thành công của Vân lần này. Bà đóng kịch rất tỉnh táo, tuy đôi khi hơi lố như muốn đẩy con gái vào tay Tom hoặc chiều đãi, bợ đỡ Tom hơi trắng trợn. Dù sao bà cũng thể hiện được tài năng và phớt lờ xóm giềng. Bà thản nhiên tuyên bố Tom mê con gái bà, đang mời Vân đóng phim, một bộ phim mới nhất của Hồng Kông cộng tác với Việt Nam. Bà cũng không ngần ngại tuyên bố thằng Tom mời cả bà đóng vai một phu nhân thời Chiến Quốc, nhưng bà từ chối vì bận trông coi nhà cửa và cái tiệm ăn của bà. Cả lối xóm chẳng ai tin, nhưng họ vẫn nghe bà nói dóc và còn nghi chính bà cũng "đi" với thằng Tom cùng với con gái bà. Điều đó rất có thể xẩy ra, nhưng lúc này thì thật oan cho bà. Miệng thiên hạ đúng là độc ác.
Bữa tiễn Tom và Richard, Thủy Tú lấy cớ bận đến đài truyền hình. Thủy Tú không mặn nồng với Richard lắm. Cô chỉ đi Nha Trang với Richard một lần cùng Vân và Tom. Vân thừa biết Thủy Tú đã quen một anh Việt kiều từ Mỹ về. Một anh Việt kiều ra dáng lắm, có học, có công ăn việc làm, có nhà cửa bên Mỹ, ly dị vợ. Nghe nói bà bác anh Việt kiều đã nhòm ngó một cô gái ở đường Phan Đăng Lưu, cam đoan là đủ công dung ngôn hạnh, nhưng sau vài lần gặp, anh Việt kiều chê cô ta vô duyên, dân Bắc Kỳ origine, chỉ thích đi Mỹ vì chắc Mỹ đẹp lắm, ở Mỹ chắc sướng lắm. Tư tưởng của cô chỉ có thế, ngoài ra mù tịt hết. Đó là Thủy Tú kể lại, có thể thêm bớt tí đỉnh cho cô gái kia xấu thêm.
Ngay sau khi đưa tiễn Tom, Vân sang nhà Thủy Tú mời đi chơi và mua tặng Thủy Tú một cái vòng vàng, một bộ áo đầm giá bốn trăm ngàn đồng. Cô cho là phải trả Thủy Tú cái món nợ về sự may mắn được gặp Tom. Họ trở nên đôi bạn thân không còn gì giấu giếm nhau nữa. Họ kể với nhau cả chuyện gối chăn thầm kín, cái đẹp, cái xấu, cái lạ, cái quen, cảm giác và suy nghĩ của họ. Rồi họ cùng cười hể hả, gác chân lên nhau tâm sự. Vân kể cho Thủy Tú nghe ước mong của Tom muốn có con với cô, kể lại tất cả những gì Tom đã nói. Thủy Tú nhận xét:
- Có lẽ nó thành thật. Em cũng thấy Tom không phải loại điếm đàng. Nó cần gì phải làm bộ mong chị có con với nó. Bọn đàn ông rất sợ khi mình báo tin có bầu, như sét đánh bên tai. Còn bọn ngoại kiều thì qua đường rồi thôi, mỗi đứa một thế giới, mạnh ai nấy sống. Ở với nhau cả tháng, về nước chỉ ba ngày là quên, không nhớ tên mình nữa. Đó là chuyện thường, chỉ có chuyện của chị là đặc biệt. Chị tính sao?
- Xây dựng với Tom à? Phải có con với nó trước đã.
- Vậy phải làm mọi cách để có con.
- Làm sao muốn gấp chuyện đó được. Trời cho mới có chứ, cố gắng đến đứt hơi cũng vô ích. Mình hết mình với Tom, bỏ dùng thuốc cả tháng mà cứ trơ trơ, chưa thấy gì cả.
Thủy Tú xoa ngực Vân, cười rũ rượi:
- Người chị phây phây thế này mà, em cứ tưởng đụng là dính liền. Nhưng trước sau gì rồi cũng phải có chứ.
- Vấn đề là cần gấp. Cứ ỳ ra, sợ nó mong mãi rồi chán, nó sợ mình cũng là loại không có con như bà vợ Tàu của nó thì sao. Nó bốn mươi rồi, phải đi kiếm đứa khác chứ. Sài Gòn này thiếu gì con gái có thể đẻ ngay được.
- Hay là đi hỏi bác sĩ?
Vân thở ra:
- Cũng vậy thôi. Lại mấy lời khuyên, thời kỳ rụng trứng, thời kỳ thụ thai. Mấy câu đơn giản trong chuyện chăn gối. Họ làm gì hơn được. Vài cái toa thuốc điều kinh, bổ huyết, kích thích mọi bộ phận sinh lý thông thường, vài mũi thuốc- sốt rét nữa là xong. Mình đã đi hỏi rồi.
- Phiền nhỉ? Bao giờ Tom trở lại?
- Hai tháng nữa. Mình muốn trước khi Tom qua đây, mình được báo tin cho nó. Như thế anh chàng sẽ mừng quýnh, sẽ vác cả cái cửa hiệu ở Hồng Kông sang.
- Dù cho nó có vác cả cái nhà băng sang đây với điều kiện như thế, em cũng chịu thua.
Vân lụng bụng:
- Bố khỉ, vậy mà có lúc không muốn có con thì đùng một cái lại có bầu. Lúc cần gấp thì lại không được
Thủy Tú chợt nẩy ra một "sáng kiến cũ mèm":
- Hay chị đi "cầu tự" coi. Đi lễ chùa xem có ông Phật nào rủ lòng thương cho mình một đứa con không.
Vân vỗ đét vào đùi Thủy Tú:
- Con khỉ, nói bậy, có ngày trời đánh mày. Lễ bái cần phải có lòng thành.
–Trăm lạy thánh thần, xin cho con có nhiều đô-la. Người ta thành thật cả đấy, có ai giả dối đâu. Chỉ có chuyện đó là người ta thành thật nhất.
- Vẫn có những người cầu được ước thấy.
- Em chẳng biết có nên tin hay không. Bây giờ người ta đồng cô, bóng cậu, nhảy múa lung tung, tốn cả cây, ít ra cũng vài chỉ quăng vào hương khói. Có những bà từ nước ngoài về đây chỉ để "lên đồng". Người ta phí của thật chị ạ.
Vân thở dài:
- Thà thế còn hơn chẳng biết tin vào cái gì. Thời đại suy thoái niềm tin mà. Cô tính- tin ai bây giờ nào? Tin cái gì? Con người không có niềm tin như thuyền không lái, trở thành ngơ ngẩn, người ta làm được mọi thứ, bất kể thứ gì.
Vân nói và nghĩ đến mình, đến bố mình. Ông bố thì mất niềm tin, còn Vân vừa lớn lên đã thấy người xung quanh giả dối, giả dối trâng tráo, nói một đằng làm một nẻo, từ chuyện lớn tới chuyện nhỏ. Trái đấm đầu tiên vào niềm tin của cô là chuyện đổi tiền. Người ta đồn sắp đổi tiền, tiền cũ vứt đi, tiêu tiền mới. Nhà nước long trọng cải chính không hề có đổi tiền, đồng bào yên tâm. Loa phóng thanh hét ầm xóm, lên án kẻ tung tin đồn nhảm xuyên tạc, gây hoang mang trong quần chúng. Vân nghe rõ như hai với hai là bốn. Lúc đó bà Linh mới bán cái nhà nhỏ, có một ít vàng và một số tiền. Bà cuống lên, nhưng Vân cam đoan đã nghe nhà nước hứa không đổi. Thế rồi ngay hôm sau, lệnh đổi tiền ban ra, thi hành cái rụp. Bà Linh đổi được vài trăm, còn bao nhiêu mất trắng. Bà lôi Vân ra chửi rồi hai mẹ con ôm nhau khóc mấy ngày liền vì tiếc của, của mồ hôi nước mắt. Bà nói thế nhưng cũng biết là thứ của do ông Huy làm ra bằng quyền hành và chức vụ "phục vụ tổ quốc" của ông. Cú đấm thứ hai là bà Linh đi với bồ, trong khi bà vẫn nhiếc móc Vân về người tình đầu tiên của cô - một anh sinh viên nghèo, bị đuổi khỏi trường đại học vì lý lịch không sạch, có bố là đốc phủ sứ, tay sai Tây, làm việc ở tòa án "ngụy" thời Mỹ. Anh chàng vượt biên và mất tích. Bà Linh giáo dục Vân về đạo đức, về chữ trinh, trong khi bà đánh rơi những thứ đó ngay trước cửa phòng ngủ. Rồi đến ông Huy, nếu trước đây ông là một người hùng thì bây giờ ông chứng minh ngược hẳn. Ông luôn khoe giữ "sĩ khí" coi trời bằng vung, nhưng gặp anh công an khu vực thôi, ông rụt vòi lại, nhũn như con chi chi, "dạ thưa" ngọt như mía lùi. Bàn đến quốc gia dân tộc, ông tự cho mình là người khảng khái yêu nước thương dân, nhưng trước mặt Vân, ông lại chứng tỏ ông chẳng thương ai hơn thương ông, chẳng yêu bè bạn đồng đội nào bằng yêu ông và yêu tiền. Ông lý luận rất hay nhưng chẳng làm gì hết. Ông cũng ngóc cổ lên chờ một cái gì đó như đuổi bắt một ảo ảnh, hy vọng trong cái vô vọng. Ông chửi người khác về cái lỗi lầm chính ông đang mắc.
Những người xung quanh Vân thì chẳng ai tin vào điều gì nhà nước nói và cũng chẳng ai tin nhau. Hợp tác xã tín dụng cũng là bọn đi lừa, giá xăng giá dầu nay nói không tăng, mai ra thông cáo tăng gấp đôi- Tất cả những thứ đó dạy cho tư đứa trẻ đến người lớn luôn phải ôm chặt lấy cái gì mình có, vồ lấy cái gì có thể vồ được. Niềm tin chẳng còn chỗ len vào, niềm tin trở thành sự lố bịch và dại dột. Giả dối được nghiễm nhiên công nhận là lẽ tự nhiên. Có lẽ đấy là điều bi đát nhất cho từng thân phận.
Vân cay đắng nghĩ đến mình. Không ai nuôi sống cô và đáp ứng chỉ một chút nhu cầu của người con gái. Cô phải tự kiếm sống bằng con đường của mình. Nếu xấu xí, cô đi bán vé số, đi bốc vác, đi quét đường, bán hàng rong, gọi là cuộc đời lương thiện như con bé bán nước ngọt trước nhà. Muốn hay không, cô cũng phải nắm lấy cơ hội để sống trong cuộc đua chen này, và trên hết vẫn là cơm ăn ngày hai bữa, quần áo mặc cả ngày. Một cái xe, một căn phòng đầy đủ tiện nghi, những lạc thú truy hoan, được đến đâu hay đến đó, càng nhiều càng tốt. Cô vùng vẫy trong cơn sóng gió của dòng nước xiết. Và lúc này, cô đang trên đà thành công, bám vào một chiếc du thuyền lộng lẫy đầy quyến rũ. Cô muốn leo hẳn lên đó, nằm dài trên khoang thuyền lát gỗ đánh bóng, gió mát thênh thênh rồi muốn ra sao cũng được. Cô không tin cô sẽ ngự trị mãi trên cái du thuyền đài các kia, có ngày cô sẽ té lộn cổ xuống, bị con người hay cuộc đời đá đít, thiếu gì chuyện bất ngờ. Nhưng ngày ấy chưa tới, cô cứ sống, cứ nhởn nhơ như hôm nay. Trong túi rủng rỉnh vài trăm đô, trong ngăn tủ bí mật cất vài khoen vàng, cô ung dung tự tại và thấy cuộc đời đẹp, đáng sống, chẳng cần lo nghĩ gì. Và khi có tiền, con người như khôn ra, thông minh thêm, cách đối xử cũng phải phép. "Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc". Chẳng sai tí nào. Nhưng thời nay cần thêm rằng không chỉ bần cùng mới sinh đạo tặc mà cả đến phú quý cũng sinh đạo tặc, một kiểu đạo tặc cao siêu do sức mạnh phú quý đẻ ra.
Nằm với Thủy Tú gần suốt buổi, Vân trở về, cài chặt cửa phòng, ngủ li bì, bù lại những mệt mỏi do vung phí sức lực không thương tiếc trước ngày Tom về Hồng Kông.
oOo
Chiều tối Vân trở dậy, thỏa mãn lâng lâng. Nước lạnh khiến cô tỉnh táo, nhìn thân hình mình trong gương. Cô hơi mập ra, tròn thêm. Nước da vẫn còn nhuốm màu nắng biển, khỏe mạnh, tràn đầy sinh lực. Cô quyết định sẽ ăn "regime" giữ eo, giữ thân hình cân đối. Cô thoáng hối hận đã để Tom "tàn phá" cơ thể mình khá dữ dội, đôi lúc hắn như tên man rợ. Cô nhìn xuống bộ ngực hơi chảy xuống của mình. Nhưng rồi cô mỉm cười và lẩm bẩm "Tuy nhiên- " rồi cô bỏ lửng sự hồi tưởng ở đấy.
Cô thấy đói và thói quen khiến cô thèm được đi chơi. Đi ăn đi nhẩy đã là thú vui thường lệ từ hơn bốn mươi ngày qua. Thú vui dễ trở thành thân thuộc, vắng nó người ta thấy thiếu thốn, trống rỗng lạ lùng. Thú vui như cơn ghiền, nó mò đến từ lúc nào rồi bám chặt như con đỉa lì lợm hút máu không chịu nhả.
Vân xách bóp xuống đường. Bất chợt cô nhìn sang nhà Khánh. Căn nhà mở hé cửa, vẫn giữ cái vẻ bề thế của nó. Hai chiếc xe hơi lạ đậu sát dàn hoa giấy. Thời này chỉ "quan to mới có xe con". Vân leo lên xe gắn máy của mình phóng đi và nghĩ về Khánh. Sau bữa đi ăn sáng, Vân gặp Khánh thêm một hai lần nữa. Khánh giữ lời hứa, mang sang tặng ông Huy một xấp vải may complet, hàng Pháp, may được cả áo "di-lê". Vân đòi trả tiền, vì cô mới có tiền của Tom "thân tặng", nhưng Khánh lắc đầu:
- Đây chuyện này là thường, có đáng bao nhiêu đâu.
Vân trả lời:
- Đáng hay không đáng chẳng phải là điều quan trọng. Cái chính là tôi không muốn lợi dụng anh điều gì.
- Tôi tự nguyện mang tới mà.
- Vẫn gây cho tôi cái cảm giác lợi dụng anh và anh-. mua chuộc tôi. Hãy tránh cho tôi cái cảm giác khó chịu ấy. Chúng ta nên thẳng thắn với nhau.
- Thẳng thắn khác mà "thẳng thừng" khác đấy nhé.
Vân ném trả lại xấp vải:
- Anh muốn "thẳng thắn", thì đấy, cầm lấy đi.
Khánh lừng khừng nhìn xấp vải xổ tung trên mặt bàn:
- Tôi chẳng hiểu cô ra thế nào nữa.
- Hãy cố mà hiểu tôi, nếu anh muốn là- bạn tôi.
- Ô kê. Được rồi! Đưa đây ba chục ngàn là "huề".
- Của đâu rẻ thế. Anh tính tiền như vậy cũng như cho không. Đừng xử cái kiểu ấy.
- Vậy cô muốn bao nhiêu? Rẻ cũng không chịu nữa!
- Tính đúng giá đi ông bạn.
- Người ta cho ông già tôi, ông ấy không mặc, tôi cho lại, có biết giá cả ra sao đâu.
- Vậy thì anh cầm về cho ai cũng được. Tôi sẽ nhờ anh chuyện nào tôi không đủ sức làm thôi. Như lôi cái xe từ "phú de" ra chẳng hạn. Hôm nay tới lượt tôi mời anh đi ăn trưa đấy. Nào, hai đứa mình đi ăn một chầu chả giò.
Bữa đó, họ chui vào giữa chợ ăn chả giò, nem nướng. Khánh nói hôm sau anh phải đi Campuchia có việc rất cần. Rồi bẵng đi cả hai tuần lễ, Vân lu bù với Tom, không biết Khánh đi về ra sao. Khi gặp lại lần sau, họ chỉ kịp uống với nhau ly nước ngọt. Khánh bận đi với mấy ông bạn ở quân khu bảy, Vân bận đi gặp tình nhân. Rồi những ngày sau, họ không gặp nhau. Một lần bà Linh nói Khánh đến quán của bà tìm Vân, bà nói Vân đi Nha Trang với mấy cô bạn. Mấy cậu em Vân cũng nói là buổi sáng Khánh sang kiếm song chúng nói là Vân mới đi công việc cho ông già. Cả nhà Vân đều biết cách tạo ra những gì cần nói láo, như một việc làm hết sức tự nhiên để bảo vệ người nhà. Gần cả tháng rồi Vân không gặp Khánh, cô ước giờ này gặp Khánh rủ anh chàng đi ăn chơi thì hợp tình hợp cảnh biết bao!
Vân lang thang vòng ra bờ sông, nhìn lên những khách sạn, đèn đuốc sáng trưng mà cô từng được Tom đưa vào. Sự thèm khát còn mạnh hơn là khi cô chưa từng bước chân lên đó. Có lẽ đó là cái tâm lý thông thường mà các ông tư bản đã lợi dụng để xâm nhập thị trường các nước kém mở mang hay trên đà đang phát triển. Cho người ta dùng đồ tốt của rẻ để thành thói quen rồi nâng giá từ từ, móc hầu bao êm như ru. Vân hiểu điều ấy song cô vẫn mắc phải một cách thật tự nhiên không có gì báo động. Hàng trăm triệu người cũng cứ lao vào tiện nghi và lạc thú "hoàn toàn tự nhiên" như thế.
Vân đi một mình, cô không muốn bước vào cái khách sạn nổi lềnh bềnh và kiêu hãnh bên bờ sông Sài Gòn mà đôi lần Tom đưa cô tới chơi cùng mấy người bạn. Nó tự coi là sang trọng với giá cắt cổ tối thiểu một trăm đô-la một tối. Trong đó người ta đặt ra vô số luật lệ riêng như một vương quốc cực kỳ bảo thủ, quyền quý và lãnh đạm với bọn thị dân. Nó chỉ quỳ mọp dưới chân những ông chủ giàu sang ném tiền qua cửa sổ. Gái ở khách sạn bị cấm mồi chài khách, cấm rủ khách của khách sạn cặp tay ra phố. Cho nên cô nào đi một mình đều bị những con mắt cú vọ theo dõi sát nút và các thầy cảnh sát sẽ làm việc tận tâm bảo vệ "thanh danh" nhà hàng còn hơn là bảo vệ thanh danh của chính họ. Bởi vậy Vân đành cho xe lướt qua. Cô nhớ Tom lạ lùng. Quả là thứ tình cảm cô không ngờ tới. Cô vẫn tưởng không bao giờ có thể nhớ nhung một anh ngoại kiều dù gần gũi mức nào đi nữa. Đúng là vớ vẩn! Vân tự cười mình. Song nhớ vẫn là nhớ, dù chỉ là- chút ít. Tom đã để lại trong lòng cô một hình bóng, một tình cảm, một số kỷ niệm êm ái ngoài những đồng đô-la. Định nghĩa thế nào, chính Vân cũng không hiểu nổi.
Lang thang một lát, Vân bỗng nghĩ đến Thủy Tú, hy vọng Thủy Tú còn ở nhà. Quả nhiên, Vân vừa bước vào nhà Tú đã thấy ngay một chàng Việt kiều với cách ăn vận riêng. Thủy Tú giới thiệu ngay:
- Đây là anh Nhân, mới ở Mỹ về thăm nhà. Còn đây là chị Vân, bạn thân và cũng là hàng xóm của em.
Nhân đứng dậy, lịch sự chào Vân. Anh chàng có vẻ dễ thương, hiền lành, không ba hoa như những anh hợm hĩnh khác. Vân gợi chuyện rất khéo, cô hỏi về cuộc sống Mỹ và bà con bên đó. Nhân trả lời điềm đạm và hiểu biết.
- Nói về cộng đồng người Việt chúng ta ở riêng bên Mỹ thôi, hầu hết đều có cuộc sống tương đối dễ chịu về vật chất. Bản chất đồng bào ta là cần cù, chăm chỉ, biết tiết kiệm nên nhà nào dần dần cũng khá cả. Trẻ con thì chăm học, nhiều đứa học rất giỏi so với học sinh nước ngoài. Hy vọng chúng sẽ có tương lai sáng sủa hơn cho bản thân và sự hòa nhập với xã hội Mỹ cũng chẳng có gì khó khăn. Tuy vậy, tôi thấy rằng ở bên đó chúng ta vẫn thiếu đoàn kết, thiếu gắn bó thật sự làm cho cái tinh thần cộng đồng rời rạc chẳng ai bảo được ai. Mỗi người đều lo cho mình.
Vân cười:
- Ở đâu cũng vậy anh ạ, lo cho mình trước hết.
- Đã đành, nhưng ở xứ người mà thiếu tinh thần cộng đồng thì sẽ vô cùng cô đơn, sẽ có ngày mất gốc, chẳng ai giúp ai nữa. Cuộc sống vật chất đã đẩy người ta vào con đường đua tranh khác. Tuổi trẻ đôi khi cũng thấy đơn độc- đừng nói đến người già.
Vân đùa cợt:
- Vì vậy anh muốn trở về Việt Nam tìm một chút- hơi ấm phải không? Một dự tính khôn ngoan đấy.
Nhân đỏ mặt, cúi đầu:
- Thật ra tôi muốn về tìm hiểu tình hình để xem đến một lúc nào đó có thể mang chút tài mọn về giúp đất nước không. Tôi bỏ ra ngoài những phân biệt về chủ nghĩa, về giai cấp. Những thứ đó bây giờ lỗi thời rồi. Tuy nhiên mọi chính sách của một chế độ sẽ quyết định vận mạng của họ và từ đó chúng tôi đặt vấn đề giúp đồng bào, giúp đất nước bằng cách nào, như thế nào. Thời buổi của khoa học, của kinh tế, muốn hùng cường không thể bỏ ngoài hai yếu tố ấy cùng với con người và phương tiện để đi lên. Không phải ai ở xứ người cũng chỉ sống và lo cho mình. Tôi về đây không phải chỉ muốn tìm hơi ấm quê hương như cô nói đâu. Tôi muốn chứng minh là một trong những con người Việt Nam có thiện chí. Chẳng bao giờ tôi có thể quên quê hương tôi.
- Vậy anh định về hẳn đây chăng?
- Chưa biết. Có thể trong tình hình này tôi sẽ khi về khi đi. Tôi chỉ muốn nói với cô rằng nếu tình hình cho phép, tôi sẽ làm tất cả những gì tôi có thể làm được.
Vân nhìn anh chàng Việt kiều đăm đăm, cô cố tìm xem anh chàng có máu gàn trong người không? Đang ở bên đó sướng thế, học thành tài ra kiếm tiền dễ như chơi mà lại bò về đây sống với tinh thần quê hương thì lạ thật. Thời buổi này quả là hiếm đấy. Nhưng cô chưa kịp xác định điều gì thì Thủy Tú đã từ trong nhà đi ra, trang điểm đẹp như cô dâu mới. Thủy Tú nói với Vân:
- Chị đi chơi luôn với tụi em không?
Vân hiểu chỉ là câu mời xã giao nên dù rất muốn đi cũng phải từ chối. Cô trở về và không khỏi suy nghĩ về anh chàng Việt kiều khá đặc biệt này. Liệu còn có những con người thật sự như vậy chăng? Hay anh ta cũng là loại "chạm điện"? Mấy anh học nhiều, thường dở hơi. Có lẽ vậy. Vân không dám tin những điều Nhân nói là sự thật. Hay là có "mưu toan" gì trong đó? Nhưng xét cho cùng, Vân không thấy anh ta chứng tỏ sự dở hơi ở chỗ nào, anh ta điềm đạm, thận trọng và đứng đắn. Vậy mà anh ta mê Thủy Tú, đó là điều khó hiểu. Thủy Tú chẳng có gì thích hợp với anh ta. Nếu họ lấy nhau, Thủy Tú sẽ mang lại cho anh ta những gì? Vài năm rồi tan vỡ. Cuộc đời có những kết hợp thật oái oăm. Bi kịch ngay trước mắt mà không biết!
Đêm đó Vân nằm nhà. Cô chi tiền cho thằng em đi mướn vài cuốn băng video. Một cuốn phim "sex" rẻ tiền, bẩn thỉu đến lợm giọng vừa xem đã chán. Cô chúi vào xem phim Mỹ, đâm chém bắn giết rùng rợn. Cô vừa xem vừa sợ, ôm chặt chiếc gối ôm tròn. Ba giờ sáng, cô ngủ thiếp đi với vài cơn ác mộng chập chờn. Mấy đứa em cô và lũ trẻ hàng xóm tiếp tục ngồi coi đến sáng. Cô trở dậy sai một đứa đi mua bánh cuốn về đãi cả bọn gần mười đứa. Ăn xong, cô đuổi tất cả ra khỏi phòng, trang điểm qua loa rồi đeo bóp xuống cầu thang.
Cô quyết định đến quán cà phê trước đường Tú Xương mà Khánh và cô đã có lần tới ăn điểm tâm, hy vọng gặp Khánh ở đó. Nhưng khi đến nơi cô chỉ thấy có một bàn khách gồm bốn người, ba trai và một cô gái. Cả bọn trố mắt nhìn cô, cái nhìn dò hỏi và thách thức. Vân dựng xe sát cổng, rút chùm chìa khóa quay nhẹ trên một ngón tay. Nhận thấy bọn khách có ý muốn khiêu khích, cô tiến thẳng vào bàn họ, làm ra vẻ ngang tàng:
- Xin lỗi, tôi muốn hỏi thăm-
Cô gái buộc chiếc băng đỏ trên đầu lên tiếng nghe đặc giọng đàn chị:
- Gì đó cô em?
Vân nhìn cô gái, cô ta nhỏ tuổi hơn Vân, như thế có nghĩa là cô ta muốn kiếm chuyện qua cách xưng hô ấy. Vân tủm tỉm cười:
- Tôi hỏi anh Khánh có đây không?
- Khánh nào?
- Khánh Lỳ.
Một anh chàng nhỏ thó, mặt chuột kẹp vội lên tiếng:
- Này con Ma-đô-na Gò Vấp, mày tới số rồi đấy.
Bây giờ thì Vân yên tâm, Cô đã biết Ma-đô-na Gò Vấp là thứ đàn em hạng bét của Khánh. Nhưng Ma-đô-na dường như chưa hiểu ra chuyện gì, vẫn cứng cựa:
- Số cái con khỉ gì? Số tao đang lên mà.
Gã con trai cười khẩy:
- Mày không mau mau xin lỗi bà chị này đi thì số mày lên tới tận cõi âm ti địa ngục đấy con ạ. Bạn thân của anh Khánh nhà mình đấy.
Rồi gã con trai đứng dậy đon đả tới bên Vân:
- Thưa chị, sáng nay anh Khánh em có chút việc bận, chị có cần nhắn gì không? Em sẽ nói lại ngay.
- Không! Tôi có việc cần bàn với anh ấy. Nhờ anh nói anh ấy đến gặp tôi.
- Chị đừng gọi em như thế cho già người đi, em là đàn em anh Bẩy Út thì cũng như em chị. Hay là chị để em đưa chị tới chỗ anh Bảy Út, được không?
Bây giờ Vân lại biết Khánh Lỳ còn có biệt danh là Bảy Út. À, có lẽ là con Út trong nhà. Khánh Lỳ là tên bạn bè đặt cho, còn Bảy Út là tên của những đàn em tâng bốc thường hay sử dụng. Vân gật đầu, lên giọng kẻ cả.
- Được. Vậy nhờ chú đưa chị đi.
Rồi cô giơ tay vẫy cả bọn:
- Thôi, chào nhé. Hẹn gặp lại.
- Dạ, thưa chị.
Riêng Ma-đô-na Gò Vấp tái mặt, sợ đến đớ lưỡi, không nói được câu gì. Vân bỗng thấy thương hại cô ta nên mỉm cười, thân mật vỗ vai Ma-đô-na an ủi:
- Yên tâm đi cô em, chưa biết nhau thì thôi, biết nhau rồi mọi chuyện xí xóa hết.
- Em cảm ơn chị tha lỗi cho em.
Vân xoay người đi ra xe, cô nghe rõ tiếng gót giầy của mình chững chạc khua trên nền xi-măng. Chàng thanh niên nhỏ thó đi theo sau:
- Xe chị chiến quá. Ái cha, chín nút, hên khỏi chê.
- Tên chú là gì?
- Em là Cung Lắc Lê, em nuôi của anh Cung Củ Đậu xưa kia.
- Sao lại là Lắc Lê?
- Bởi vì em chuyên mở khóa xe, tất cả các loại khóa. Em học ở trường tình báo ra mà chị.
Tiếng máy xe rồ lên, Vân không hiểu Cung Lắc Lê nói thật hay nói láo. Cô từ từ lái xe ra khỏi cổng.
Chương 11
Vân ngồi trên chiếc ghế xích đu, có lẽ là chiếc ghế sang nhất trong cái ga-ra này, dù nó lung lay như răng bà lão và tấm vải sọc đầy những vết loang lổ vàng khè. Cái ga-ra nằm thụt giữa một dãy nhà lá ô hợp nên như chìm khuất, không ai buồn để ý. Nó ở ngay bên con đường gần ngã tư, phía sau nhà Vân, vậy mà Vân không hề biết dù đi qua con đường này nhiều lần. Một tấm bảng tôn sơn xanh, chữ đỏ, đã quá cũ, mắc hai sợi xích sắt treo toòng teng phía đầu hồi luôn lắc lư, đưa đi đưa lại, trên có hàng chữ "sửa xe hơi các loại". Căn nhà lợp tôn, vách tôn, chỉ có một khoang cửa rất rộng và cao dành cho loại xe tải chui vào lọt. Lòng nhà khá rộng, dài khoảng ba mươi mét, rộng hơn mười mét. Sát hai bên vách vứt đầy lốp xe cũ, lỉnh kỉnh các loại phụ tùng cũ, máy xe hơi cũ, có cái được tháo tanh banh chỉ còn trơ lại cái vỏ không biết để làm gì. Vài hòm đồ nghề sửa xe vứt bừa bộn cùng các loại kềm búa to nhỏ. Phía bên là một bộ hàn xì vừa được xếp gọn lại. Rải rác vài thanh sắt, vài cái ống bơm tay, một cái bơm điện tròn có chiếc vòi dài quấn quanh. Chừng ba người thợ đang lúi húi sửa máy.
Ngồi đây, Vân có thể quan sát mọi hoạt động của cái ga-ra này bởi chiếc xích đu đặt trên một góc sàn cao, bên cạnh có cái bàn nhỏ đen nhẻm dùng làm bàn giấy cho ông chủ. Vân được Cung Lắc Lê đưa đến lúc hơn mười giờ. Khánh đang ngồi ở quán nước bên cạnh đó vội chạy về. Anh ta làm vẻ tự nhiên, đứng sát lại bên cô, hỏi:
- Có chuyện gì không, Vân?
- Chẳng có chuyện gì hết.
- Vậy cô kiếm tôi-
- Ơ kìa, tôi tưởng anh kiếm tôi mấy lần đấy chứ. Đáng lẽ tôi phải hỏi anh có chuyện gì không?
- Có, cần lắm.
- Gì vậy?
- Cần gặp cô. Thế thôi. Một nhu cầu không thể thiếu.
- Nhớ à?
- Nhớ gần chết. Đi đâu mà biệt tăm biệt tích vậy?
- Anh mới đi biệt tăm. Khi tôi ở nhà, có thấy anh tới đâu, cứ nhè lúc người ta đi vắng mà tới. Rõ vô duyên.
Khánh cười hì hì:
- Vô duyên thật.
Rồi Khánh giơ tay xem đồng hồ, Vân hỏi ngay.
- Anh bận à? Nếu bận thì để-
- Không. Cứ ngồi đây đi. Sắp đến giờ tôi phải làm việc ở đây rồi. Tôi tính đưa cô sang bên kia uống nước. Nhưng thôi, tôi sẽ bảo nó mang nước sang đây. Cô ngồi đây cũng chẳng sao. Mình tán gẫu trong khi chờ công việc vậy.
Thế là Khánh xách chiếc ghế xích đu từ phía nhà sau lên, kê cho Vân ngồi ở đây. Ly nước cam tươi còn để nguyên trên mặt bàn, đá lạnh làm cho những hạt nước bám lâm tâm quanh chiếc ly thủy tinh Thái Lan. Khánh vừa ngồi với Vân được vài phút thì Cung Lắc Lê đã đến bên anh thì thào:
- Hàng đến rồi đó anh.
Khánh đứng lên:
– Mày coi tụi nó dàn quân sẵn sàng chưa?
- Anh Hùng Vạc cũng vừa tới. Hoàn toàn yên tĩnh. Anh ấy lại trở về "thành" rồi.
Khánh quay sang Vân:
- Vân ngồi chơi một chút, đợi tôi rồi mình cùng đi ăn.
- Anh cứ làm việc đi, bữa nay Vân rảnh rỗi lắm.
- Vậy thì tuyệt. Xong việc này tôi cũng rảnh dài dài.
Khánh trở ra ngoài. Vài phút sau, một chiếc xe vận tải đậu lại, "de" vào trong ga-ra. Tức khắc một người thợ máy chạy đến mở ca-bô xem xét máy móc, lúi húi vặn tới vặn lui mấy cái bu-gi, tháo cọc bình điện. Một người ra ngoài cửa nện vào một thứ gì đó kêu choang choang. Cung Lắc Lê nhanh như con sóc nhẩy đến giữa xe, chui xuống gầm, thoăn thoắt mở mấy con ốc, tháo rời chiếc bánh sơ-cua đặt nằm ngang dưới sàn xe, cẩn thận bê xuống. Chiếc bánh xe cũ mòn, nhẵn lì, nặng nề được Cung Lắc Lê đỡ xuống sàn xi măng. Hắn lăn tròn về góc nhà. Sau đó hắn tiếp tục gỡ chiếc bánh sơ-cua thứ hai ở sàn xe phía hông bên kia. Mười phút sau, hai chiếc bánh xe cũ đã nằm giữa đống bánh xe và lốp xe cũ ở góc nhà, sát chiếc ghế xích đu Vân đang ngồi.
Người lái xe, vận áo bộ đội, mặc chiếc quần xanh đầy dầu mỡ, dơ bẩn không kém những người thợ máy, gọi Cung Lắc Lê bắc một cái thang gỗ sát vào phía sau xe, lăn từng kiện hàng xuống một cách thành thạo gọn nhẹ. Tất cả công việc không đầy mười lăm phút, không ai nói một lời nào, chỉ có tiếng búa đập vào một cái niềng xe kêu choang choang từ ngoài cửa vọng vào. Cung Lắc Lê nhìn qua mọi thứ vừa làm xong, ném mấy thứ dụng cụ lên nắp thùng gỗ đựng đồ sửa xe rồi quay ra cửa. Người lái xe ngồi xổm trước mũi chiếc xe vận tải bụi bậm xem người thợ máy làm việc.
Khánh từ ngoài bước vào cùng hai người thợ sửa xe khác. Họ đi thẳng đến phía để mấy cái bánh xe sơ-cua vừa được tháo ra. Khánh hất hàm:
- Lấy hàng ra.
Hai người thợ máy mở vỏ xe, lấy ra từng bánh đen đen như cao hổ cốt, đặt từng chồng năm bánh trước mặt Khánh và Vân. Khánh cầm một bánh lên tay, đưa lên đưa xuống ước lượng trọng lượng, sau đó đưa ra chỗ sáng xem xét qua mấy lần giấy bóng. Anh vẫn không hỏi gì. Anh đếm lại từng bánh, khoảng sáu mươi bánh như thế. Tiếng anh vọng lên:
- Xong rồi. Cậu vào nhận tiền đi.
Người lái xe quay vào. Tức khắc hai người thợ máy vần ra hai cái bánh sơ-cua khác. Khánh nói với người lái xe:
- Tất cả ở trong đó. Cậu về nói với anh Tám Thái là kỳ này chúng tôi gửi trả tiền gồm năm "cây", còn bao nhiêu là tiền mặt.
- Việc của tôi là giao hàng và nhận hàng. Còn mọi chuyện là việc của thằng họ Đèo, nó sẽ gặp anh ở nhà. Có lẽ giờ này nó tới nhà anh rồi, tôi thả nó xuống từ tám giờ sáng ở Biên Hòa. Thuốc kỳ này tốt nhất đấy. Có cả đen trắng, ông Tám Thái chỉ nói vậy thôi.
Khánh móc chiếc phong bì trong túi quần sau:
- Cái này tặng cậu để du hí ở Sài Gòn vài ngày.
- Cảm ơn anh.
Gã lái xe móc lấy xấp tiền, vò chiếc phong bì ném ra ngoài cửa sổ. Trong khi đó Cung Lắc Lê nhanh nhẹn lắp lại hai cái bánh xe sơ-cua đựng tiền vào hai bên hông dưới sàn xe. Nó lầm bầm chửi thề một câu gì đó rồi đi tìm hai con ốc khác trong đống phụ tùng lộn xộn. Khánh bỗng nhìn mấy kiện hàng trong góc nhà bên kia rồi nhăn mặt:
- Còn cái gì kia nữa?
Gã lái xe nhún vai:
- Của gia đình ông Bầu gửi nhờ bác Tám Thái chuyển vào. Bác Tám nói nhờ anh chuyển cho.
Khánh có vẻ bực dọc, nhưng anh miễn cưỡng:
- Lại hàng Trung Quốc, phải không? Cậu về nói với bà Bầu là yên trí lớn, ông Bầu ở trong này hoàn toàn yên ổn và no đủ. Bà ấy gửi món hàng kia vào chỉ để cho ông ấy phát mại dần thôi, chẳng đáng gì. Ông ấy còn khối tiền.
Gã tài xế kể:
- Hồi này ông ấy ra sao? Ngoài đó công an truy lùng dữ lắm. Ngay cả lũ đàn em cũ cũng sục mũi vào điều tra rình rập làm bà Bầu cũng điêu đứng. Đời bây giờ chó thật.
Khánh cười nhạt:
- Hai chục tỷ của nhà nước chớ giỡn sao. Tóm được ông ấy, biết đâu chúng nó chẳng được thưởng cả trăm triệu trong khi lương tháng của chúng nó hơn trăm ngàn là tối đa. Ở đây chúng tôi cất giấu ông ấy cẩn thận, lo xong cái chứng minh nhân dân khác rồi, chỉ còn kiếm cái hộ khẩu ở ngoại thành nữa là êm. Chẳng thằng nào đụng đến ông ấy được.
- Trong này các anh sống "nghĩa khí" lắm. Ông Tám vẫn khen anh và rất tin anh. Ông ấy bảo tôi cứ giao hàng rồi anh đưa bao nhiêu thì mang về bấy nhiêu, khỏi kiểm lại.
- Làm ăn với nhau phải vậy chứ.
Ít phút sau, từng chiếc xe Honda xà tới, họ chuyển hàng đi rất nhanh. Cuối cùng là chiếc xe Lambretta ba bánh đến lấy nốt số hàng còn lại, nhét dưới nệm xe của người lái.
Không đầy nửa giờ, mọi công việc mua bán, trả tiền, đưa hàng đi đều xong xuôi, êm như ru. Cái ga-ra xe hơi khuất nẻo lại tiếp tục công việc thường lệ của nó.
Khánh quay sang ra lệnh cho Cung Lắc Lê:
- Mày mang cái Dream của cô Vân vào nhà trong khóa lại cẩn thận. Cấm thằng nào rờ tới.
Cung Lắc Lê cất xe, rồi giao chìa khóa lại cho Vân:
- Bất cứ khi nào cần lấy xe, chị cứ tới đây, em dặn mấy đứa rồi. Chị đến là chúng nó biết. Nãy giờ chúng nó cứ thập thò nhìn chị. Chúng nó khen chị đẹp và hiền.
Khánh búng tay:
- Thôi, đừng dở cái tài "bốc phét" của mày ra. Vào lấy tiền đưa tụi nó đi ăn trưa. Tối nay cho chúng mày mở hội ở nhà thằng Minh Cả Ngố đấy. Thoải mái nghe không.
Rồi Khánh vòng ra phía sau ga-ra lấy chiếc xe MZ kềnh càng của mình lái vào trong ga-ra đón Vân, anh nói:
- Mình kiếm cái phòng lạnh nào ăn trưa cho khỏe.
Vân leo lên phía sau yên xe:
- Đâu cũng được.
Hai người đi vào Chợ Lớn, leo lên một khách sạn, phòng ăn máy lạnh trên lầu bốn, kê một chiếc bàn vừa đủ cho hai người ăn. Cửa sổ kéo màn đỏ, có thể nhìn qua khung cửa kính để thấy Bến Hàm Tử tấp nập người qua lại dưới đường, dày đặc thuyền bè dưới sông sau những căn nhà sàn nửa trên bờ, nửa chống chân dưới nước đen ngòm.
Bữa ăn thịnh soạn toàn món lạ. Tôm hùm sốt may-on-ne. Đó là thứ quý hiếm. Từ ngày giải phóng, dân Sài Gòn ít có hạnh phúc được thấy loại tôm ngày xưa đầy rẫy các chợ, các quán ăn này. Trên mười năm nay, tôm lớn xuất khẩu sang Liên-Xô, sang vài nước tư bản để kiếm ngoại tệ cho đất nước, chỉ còn lại đầu tôm. Người ta đã đố nhau là con gì dài nhất thế giới, mình ở Liên Xô, đầu ở Việt Nam. Có lẽ chỉ người Sài Gòn và người Việt Nam bây giờ mới đủ thông minh và kinh nghiệm để trả lời câu đố. Ngoài tôm hùm ra, còn trứng cá Hắc Hải, Pa-tê Olida chính hiệu, Phó-mát Hà Lan béo ngậy đút lò với cá Lý Ngư. Những món ăn mà dân Sài Gòn ngày nay không thể kiếm được và chẳng bao giờ dám mơ tới nếu là dân làm ăn lương thiện. Chỉ bọn bất lương, bọn quan lại ăn trên đầu trên cổ người khác mới được quyền vào đây hưởng của ngon vật lạ. Ở đây bây giờ người ta không thể nói đất nước này do người lao động làm chủ, mà có lẽ không nơi nào trên thế giới này có thể nói câu ấy được nữa. Người lao động vẫn chỉ là kẻ làm công, làm quần quật cho kẻ khác hưởng thụ. Vấn đề khác nhau chỉ là người lao động có được hưởng công đúng với sức của mình bỏ ra hay không mà thôi. O bế người lao động, đưa họ lên tận mây xanh, dù ở đâu cũng chỉ là trò phỉnh phờ. Người lao động chẳng bao giờ làm chủ cái gì hết. Cuộc sống thực tế ở đây đã dạy người ta điều ấy. Người lao động cũng chẳng còn khờ dại gì tin những lời ngon ngọt thổi vào tai họ nữa. Thà các ông chủ, các ông quan cứ thẳng băng rằng chúng ta hãy ký với nhau một hợp đồng làm việc, sòng phẳng với nhau, rồi sau đó chẳng còn ai có tình nghĩa gì với ai nữa hết. Tôi cóc cần các ông bảo vệ và các ông cũng đừng bắt tôi có nghĩa vụ bảo vệ địa vị hay tài sản của các ông. Thế thôi.
Nhưng trong khi hưởng thụ, chẳng ai cần nghĩ tới điều ấy. Sự khác nhau trong hưởng thụ chỉ là một bên hưởng thụ công khai, bày ra trước mặt nhân dân và nhân dân chấp nhận như một sự bất bình đẳng rất tự nhiên, như trên đời này loài trâu khác với loài phượng hoàng. Còn một bên hưởng một cách kín đáo và chỉ có một số người được quyền hưởng thụ. Nhưng từ khi cơn bão Đông Âu thổi tới, tư duy mới lan tràn, thì ngay cả những nơi xưa ăn một con gà phải giấu kín trong buồng, nay cũng hưởng thụ công khai, hưởng thụ đủ kiểu. Sài Gòn đang chứng minh điều ấy rõ hơn cả. Người ta cứ kết tội, cứ lèm bèm mấy câu đạo đức xưa như trái đất và cứ hưởng thụ, cứ tham nhũng, cứ quan liêu, cứ làm tiền bằng mọi cách như chẳng có chuyện gì.
Vân và Khánh đều biết rõ điều ấy như mọi người nên lương tâm họ hoàn toàn thanh thản.
Qua lời Khánh kể trong bữa ăn, Vân biết món hàng để trong bánh sơ-cua của chiếc xe vận tải từ Miền Bắc vào là thuốc phiện đen và có cả thuốc phiện trắng. Loại hàng này của bác Tám Thái, sản xuất ra từ những vùng của người Thái, Tầy, Mèo trên thượng du. Hàng sẽ được bán ra toàn Miền Nam, địa điểm chính là Sài Gòn và đồng bằng Cửu Long. Một nửa được chuyển xuống bán cho khách của các tàu buôn từ Ma Cao, Hồng Kông, Singapore đã hẹn vị trí trước. Còn một số do thủy thủ các loại tàu Viễn Dương mang đi ngay tại Cảng Sài Gòn sang các nước khác mà họ bắt mối được. Đám thủy thủ Viễn Dương bảo thuốc phiện Việt Nam tuy số lượng ít song là thứ tốt, không sợ bị pha chế hoặc xấu như của bọn ở Tam Giác Vàng và nhiều nơi khác. Con buôn Việt Nam lại bán rẻ hơn giá thị trường nên loại thuốc phiện này đang trở nên đắt khách. Vả lại, tiền bán thuốc phiện đều đem đi mua hàng ngay trên nước nó tiêu thụ, toàn là những thứ hàng tiêu dùng đã thừa mứa đang cần đẩy đi bằng bất cứ cách nào. Vậy đây cũng lại là cách tốt nhất mà chính phủ vài nước thường làm ngơ cho con buôn thuốc phiện lộng hành, cứu những công ty sản xuất gặp khó khăn. Cái đống hàng thừa, hàng rác đổi thành đô la, ít có ai từ chối.
Khánh được bác Tám Thái tín nhiệm kể từ khi đường dây trước đổ bể vì sự ngu ngốc của một ông được mang danh là trí thức của Hà Nội. Báo chí làm om sòm, đường dây phải ngưng một thời gian, bác Tám Thái cử một cố vấn đặc biệt có uy tín vào Sài Gòn thiết lập đường dây mới. Vị cố vấn đặc biệt của bác Tám Thái từng có thời gian là Trưởng Phòng Tổ chức trong Bộ Nông Lâm Ngư Nghiệp trong khi ông Tuân - Bố của Khánh - mới chỉ là anh trưởng ban phân phối vật tư quèn. Do đó bao giờ ông Tuân cũng coi ông cố vấn đặc biệt của bác Tám Thái như vị đàn anh khả kính. Ông ta đã vào nằm ở nhà Khánh cả tháng và bí mật chọn Khánh làm người đứng đầu đường dây miền Nam. Ông ta đã không lầm, Khánh làm việc đâu ra đấy, biết vận dụng lợi thế của một gia đình viên chức cỡ lớn, biết tránh né tai tiếng, biết dùng người, biết liều khi cần liều và biết lặn khi cần lặn. Khánh còn là người có tình nghĩa, thủy chung, bao bọc anh em khi gặp hoạn nạn. Dưới tay Khánh có đủ loại lính từ lính phạm pháp tới những anh "quan chức" can tội thụt két bị kết án tù. Những "anh hai, anh ba" trong băng Khánh là những tên gọi tượng trưng cho dễ nhớ về những ông thụt két hai tỷ, ba tỷ. Họ được bảo vệ, "cất giấu" cẩn thận và thay tên đổi họ, chờ thời thế đổi thay sẽ lại thò đầu ra làm ăn mà không sợ gì. Có anh đã được Khánh gửi theo tàu Viễn Dương vượt biên nằm ở Campuchia, Thái Lan, Singapore dưới cái tên khác với bản lý lịch mới toanh.
Điều trớ trêu mà Vân nhận ra là cái biệt danh cậu Bảy Út của Khánh trùng với cái tên "Cậu Mười Út" em vợ thủ tướng Trần Thiện Khiêm của chế độ Sài Gòn cũ mà Vân từng nghe người ta "truyền tụng" lại. Hồi đó cậu Mười Út lợi dụng oai phong em bà thủ tướng, tổ chức các sòng bạc lậu từ Phú Nhuận đến Chợ Lớn. Cậu nghiễm nhiên lãnh mỗi ngày vài ba trăm ngàn tiền xâu. Có điều hơi khác là hồi đó Cậu Mười Út ngông nghênh hơn, cậu làm lính kiểng đi xe số X tạm nhập lậu thuế, bắt một một Thượng sĩ ngành Cảnh sát quan thuế lái xe cho cậu. Còn cậu Bẩy Út bây giờ thì khôn ngoan, láu lỉnh hơn, và cũng đẹp trai, dễ thương hơn.
Vân liếc nhìn Khánh rất nhanh, cô mỉm cười với ý so sánh kín đáo của mình. Khánh không hiểu song anh cũng mỉm cười vu vơ. Bữa cơm trưa kéo dài tới hơn hai giờ. Vân kêu mệt muốn về nhà nằm nghỉ, Khánh chỉ tay vào một cánh cửa được chiếc rideau đỏ che kín.
- Trong này có phòng, cô có quyền vào đó nằm nghỉ. Tôi đi công việc một lát sẽ trở lại.
Vân nghĩ Khánh cần giải quyết vấn đề hàng họ nên cô gật đầu. Khánh vừa kéo rideau mở cửa cho Vân vừa nói.
- Phòng đặc biệt đấy. Cô cần bất cứ thứ gì cứ việc bấm chuông gọi. Muốn gì cũng có. Video và băng sẵn sàng, không thích phim này thì chọn phim khác cứ việc kêu bồi phục vụ. Ở đây cô có tất cả.
- Tôi chỉ cần ngả lưng một chút thôi.
- Cứ tự nhiên. Tôi đi nhé. Không quá hai tiếng đồng hồ đâu.
Vân bước hẳn vào phòng rồi Khánh khép cửa dặn với:
- Nếu cần cô cứ khóa bên trong lại.
Trong phòng, hệ thống điều hòa không khí rất tốt. Phòng vắng lặng, nhỏ hơn phòng của Vân ở nhà nhưng đẹp hơn nhiều. Sàn nhà dán loại cao-su màu xanh nhạt, tường dán loại giấy ngoại màu hồng có những chấm tím nhỏ. Tủ áo và giường màu trắng viền nâu thẫm. Sát một góc nhà là chiếc tủ lạnh, trên đặt một bình hoa giả Thái Lan. Trên mặt bàn ngủ là chiếc điện thoại màu đỏ, trên đầu giường là interphone vừa bằng bàn tay, nút chuông điện lủng lẳng bên chiếc đèn ngủ có chụp bằng vải tím. Cạnh đó là một máy cassette hiệu Sony. Ánh đèn dìu dịu từ hai quả cầu sát trần nhà hắt xuống. Vân mở tủ áo, cất chiếc bóp vào ngăn trên, cô thấy thấy hai bộ kimono đặc biệt Nhật Bản treo sẵn trong mắc áo. Một bộ màu trắng viền hoa xanh, trên nền trắng nổi lờ mờ cảnh núi Phú Sĩ, một cánh cổng mái cong phủ đầy hoa Anh Đào. Một bộ khác màu hồng hoa văn sặc sỡ.
Cô suy nghĩ rồi lấy bộ kimono màu hồng vứt ra giường. Chiếc quần jean và chiếc sơ mi cổ xòe khiến cô thấy vướng víu không thoải mái. Cô cởi hết quần áo ngoài, chui vào phòng tắm đứng dưới vòi sen. Lát sau cô trở ra, cởi cả đồ lót, ướm thử chiếc kimono. Cô ngắm mình trong chiếc gương lớn trên cánh tủ. Cô thấy mình khác đi, tươi mát hơn.
Rồi Vân nằm dài ra giường, tấm nệm mousse khẽ rung lên. Cô không bật cassette, ngửa mặt nhìn cái ô vuông trên trần nhà, cảm thấy cuộc sống hoàn toàn dễ chịu. Cô ngủ quên lúc nào không hay.
Khi tỉnh dậy cô chỉ thấy ánh đèn ngủ màu tím mờ mờ và chợt giật mình vì có người đang nằm dài bên cạnh. Vân vụt ngồi dậy trong một phản ứng tự nhiên, nhìn người nằm đó đăm đăm. Tất nhiên là Khánh chứ còn ai nữa. Anh chàng ngủ ngon lành, vận nguyên quần áo. Mái tóc xõa trên mặt gối, hai chân "co con tôm luộc", trông thật dễ thương. Dường như bất cứ người nào khi ngủ say cũng mang một vẻ gì hiền lành như chân thật. Vân bỗng mỉm cười một mình, cô toan rón rén bước xuống giường vào phòng tắm thay quần áo, nhưng lại ngập ngừng rồi ngồi im, nhìn cái dáng co quắp của Khánh với vẻ thích thú. Cô kê cao chiếc gối dựa lưng vào thành giường và ngồi như thế khá lâu.
Rồi chính cô cũng không hiểu tại sao, cô đưa ngón tay nhẹ nhàng đùa nghịch với mái tóc của Khánh, những sợi tóc mềm mại xanh mướt, khác hẳn mái tóc của Tom hơi cứng và đã có những sợi điểm bạc. Cánh tay Khánh sau lần áo Pull nổi cuộn lên bắp thịt tròn chắc nịch. Cô lùa sâu ngón tay trong làn tóc êm dịu ấy.
Cho đến khi Khánh mở mắt ra. Anh định thần vài giây, tức khắc hiểu chuyện gì đang xẩy ra và ở đâu. Khánh nắm lấy bàn tay Vân, vòng tay kéo sát cô xuống. Chàng nghe rõ hơi thở dồn dập của nàng và xoay người để tìm thấy ngay đôi môi mềm của nàng ở dưới. Chiếc áo kimono đã xổ tung ra giường. Họ chẳng cần nói với nhau bất cứ lời nào. Cả căn phòng cũng như muốn bay bổng, lửng lơ-
Rất lâu sau đó, khi nỗi mệt mỏi qua đi, khi họ trở lại tỉnh táo, Vân bỗng ôm chầm lấy Khánh, thủ thỉ:
- Em muốn có con với anh.
Khánh xoa nhẹ trên đôi vai mát rượi tròn lẳn của Vân:
- Em muốn mấy đứa?
- Em nói thật đấy. Em thề là nói thật. Muốn có con với anh kinh khủng. Anh không tin sao?
- Tin thế nào được. Các cô sợ có con như sợ bệnh dịch. Anh thấy các cô chỉ chịu có con khi được làm hôn thú xong xuôi. Cô nào thường cũng có sẵn một vỉ thuốc.
- Anh khám bóp em xem có viên thuốc nào không?
Khánh cười hinh hích:
- Bởi vì hôm nay em không ngờ- xảy ra vụ này.
- Bất cứ lúc nào cũng phải đề phòng. Cẩn tắc vô áy náy. Nhưng đi gặp anh, em không cần đề phòng gì hết, ngay cả thời kỳ này dễ thụ thai. Rồi anh sẽ thấy, những lần sau, nếu còn với anh như thế này nữa, em cam đoan không dùng thuốc. Em sẽ để cho mọi sự tự nhiên, mình có con với nhau.
- Em có điên không?
Vân đẩy tay Khánh xa ngực mình:
- Anh không muốn phải không? Sợ trách nhiệm à?
- Có gì đáng sợ đâu. Nói thẳng ra nếu anh quyết tâm làm một gã sở khanh thì cũng "huề" chứ chẳng ai làm gì anh được. Có đúng vậy không nào?
- Đúng. Anh mà "chạy làng" thì đến máy bay đuổi cũng không kịp.
- Vậy thì tại sao anh phải sợ? Con gái phải giữ lấy mình chứ. Anh nói thế là vì em thôi. Chuyện con cái đâu phải là chuyện đùa. Có một đứa con phức tạp lắm. Khi nào chúng ta quyết định lấy nhau hẳn hoi lại là chuyện khác. Đừng nghĩ rằng anh là thằng vô trách nhiệm. Anh sẽ là người rất có trách nhiệm khi cần thiết.
- Em biết và em tin điều anh vừa nói. Khỏi phải cải chính lòng vòng làm gì cho nó tốn sức khoẻ. Em không hề đòi hỏi anh điều gì, anh sẽ chẳng có chút xíu trách nhiệm nào khi em có con. Nói thẳng ra là em không nghĩ sẽ thành vợ anh bởi vì trước sau rồi em cũng đi Mỹ với gia đình em. Làm sao em có thể lấy anh được. Cho nên có con với anh không phải là cái "chiến thuật" muốn cột chân anh bên em mãi mãi như các cô gái si tình áo lá khác thường dùng đâu.
- Vậy- tại sao-?
Vân bịt miệng Khánh lại:
- Đừng hỏi tại sao, ông ngố. Người ta không thể có con vì tình yêu và chỉ vì tình yêu thôi à? Ngoài ra chẳng cái gì có ý nghĩa nữa hết.
- Này, em có biết ca vọng cổ không đấy? Nghe mùi đứt ruột.
- Anh tàn nhẫn thế à?
- Anh hỏi thật đấy vì chưa bao giờ anh nghĩ là em yêu anh. Thậm chí anh tưởng là giây phút này cũng khó mà có được dù chỉ là hai đứa- thích nhau mà thôi.
- Cả đời anh chưa biết yêu và được yêu bao giờ sao?
- Yêu quá đi chứ, nhưng- chẳng ra gì.
Vân cười khúc khích:
- Cho nên anh vẫn còn ngây ngô về vấn đề này đấy.
Khánh xoay người, nằm ngửa ra giường khoanh hai tay lại gối lên đầu, có vẻ trầm tư. Thật ra Khánh đã xúc động vì lời tâm sự của Vân, cô muốn nói rằng cô yêu anh, muốn có con với anh vì tình yêu mà thôi, cô không cần gì khác và rõ ràng là hoàn cảnh cô cũng chẳng lấy anh được. Cô sẽ ra đi một ngày nào gần đây. Cô cố giữ lại với anh một kỷ niệm trong đời? Cô không hề đòi hỏi gì ở anh hết. Một thứ tình yêu mãnh liệt mà Khánh chưa hề gặp bao giờ. Mặc dầu từng có một hai cô gái yêu anh, có thể là chân thật, song ít nhất họ cũng đòi hỏi ở anh một đền đáp tương xứng trên phương diện tình yêu, kèm theo điều kiện chung thủy và hôn nhân. Đó là những đòi hỏi chính đáng mà một người con gái có quyền đòi. Song Vân không cần đến cái sự tương xứng trong tình yêu, cô không cần anh trả lại và cũng chẳng có một điều kiện nào. Cô cho hết, dâng hiến cho anh hết. Phải chăng đó mới là mối tình chân thật nhất đúng nghĩa của nó? Khánh thấy lòng mình rộn lên, cảm động thật sự song anh cố che giấu bằng những câu hỏi tàn nhẫn như đùa cợt kia.
Bây giờ anh muốn thú nhận với Vân rằng cô đã làm anh xúc động, anh muốn suy nghĩ thêm về việc này. Nhưng Vân đã tung chăn ra, ngồi dậy, vơ vội chiếc kimono:
- Thôi, bỏ qua chuyện ấy đi. Anh cứ nghĩ em làm thế vì thích thế, vậy thôi. Đừng nghĩ đến những chuyện vớ vẩn như vì tình yêu, vì anh đẹp trai, vì anh hào hùng- Dậy đi, mình phải ăn cái gì chứ, em đói lắm rồi. Mấy giờ rồi, anh?
Khánh giơ tay xem đồng hồ:
- Chín rưỡi tối rồi đấy. Nhưng mà, này em, lần sau em vẫn sẽ không dùng thuốc chứ?
- Em nói không là không. Song chuyện đó là việc của em, ăn nhậu gì tới anh đâu! Em thích gì làm nấy. Anh đừng bận tâm nữa. Con gái thường có những ý thích kỳ cục mà không anh con trai nào hiểu được.
Vân khuất sau cửa phòng tắm, Khánh bỗng ngẩn ngơ!.

Văn Quang
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXNgã tư hoàng hôn 2

Ngã tư hoàng hôn 2 Chương 12 Mỗi lần ông Tuân đổi chức vụ - đúng hơn là đổi địa vị - nhà ông lại tăng nhịp khách khứa viếng thăm. Tất nh...