Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2024
Sóng từ trường 3a00000
Tựa
Đằng sau lý tưởng "tương trợ giữa người và người" còn
có một chủ ý khác, đó là sự tìm về bản thể của chính mình. Cá nhân thanh niên
trí thức Nam Liên, 32 tuổi, giáo sư thạc sĩ, có danh tiếng và uy tín, đã gạt bỏ
tất cả hành trang trí thức và địa vị xã hội sang một bên để làm lại từ đầu, qua
một trường học khó khăn hơn: trường dạy làm người. Trở thành lính
trơn, chịu đói rét, nhận làm những coóc-vê khủng khiếp nhất, thi hành những mệnh
lệnh vô lý nhất, đến từ những cá nhân có trình độ thấp kém hơn mình rất nhiều.
Tất cả đều là tự nguyện. Trong môi trường tự nguyện tự học làm người ấy, Nam
Liên đã tìm thấy hạnh phúc ở tình người, tình đồng đội, ở sự tuân
thủ những mệnh lệnh vô lý, ở sự tìm hiểu những con người xoàng xĩnh, ít học, để
gắn bó với họ và chấp nhận họ, không phân biệt mầu da, tôn giáo, giai cấp và
trình độ. Bên cạnh 14 người Việt khác, sống ở Pháp, có vợ con ở Paris, phải đi
quân dịch; chỉ có một mình Nam Liên là người bản xứ, indigène, trong
trường hợp lạ kỳ này. Cho nên, anh viết:
Trong lớp thanh niên Tây học đầu thế kỷ XX, Nguyễn Tiến Lãng
nổi tiếng trẻ tuổi tài cao. Ở tuổi 13 (1922), đã cộng tác với tạp chí Hữu
Thanh của Ngô Ðức Kế, phụ trách phiên dịch các bản văn Pháp ra tiếng
Việt và viết những bài khảo cứu dựa theo tài liệu tiếng Pháp, dưới bút hiệu
Nguyễn Ðảo Sinh. 17 tuổi viết cho An Nam Tạp Chí của Tản Ðà rồi Nam
Phong Tạp Chí của Phạm Quỳnh... 21 tuổi đã làm cho Phan
Khôi "ngự sử văn đàn" nổi giận (trong An Nam
Tạp Chí, số 39, phát hành ngày 30/4/1932, Vân Bằng có viết bài nhan đề Tôi
thất vọng vì Phan Khôi, có ý chỉ trích Phan Khôi đã "thất lễ"
với Nguyễn Tiến Lãng).
Nguyễn Tiến Lãng đã sáng tạo ra người thiếu phụ chập
chùng nhiều chiều kích: hình ảnh người mẹ vô danh, đêm thu đơn độc ru con, dưới
mái tranh thốc từng cơn gió buốt. Bên ngoài, tiếng mo cau, tiếng lá chuối sột
soạt hoà nhịp cùng tiếng chim kêu trong cõi dạ đài. Để át đi nỗi sợ, người mẹ
ngâm bài ca chinh phụ trong âm ba kỳ diệu của thi ca và âm nhạc. Nàng còn gánh
thêm nỗi oan nghiệt của người thiếu phụ Nam Xương... Những hình ảnh, âm thanh,
thi tứ... đặc thù này của đất Việt đã hoá thân trong tâm hồn người thiếu phụ vô
danh ru con chờ chồng, biến nàng thành nỗi đau muôn thủa của muôn người. Và
Nguyễn Tiến Lãng đã mở trái tim mình, trái tim dân tộc mình ra với những dân tộc
khác, bằng nẻo ấy.
Truyện: Bộ "Gái nước Nam làm gì?" (tiểu thuyết tranh đấu
chống Pháp) gồm Thu Hương và Chị Tập (Sống Chung, 1949). Nỗi lòng thằng Hiệp
(Lê Lợi, 1949). Bộ "Một thuở ngàn năm" (truyện trào phúng chính trị)
gồm có: Phi Lạc sang Tàu (Sống Chung, 1949), Phi Lạc náo Hoa Kỳ (Vannay, Paris,
1955), Tiểu Phi Lạc náo Sài Gòn (Nam Cường, 1966), Diễm Hồng xuất giá (Nam Cường,
1966). Bộ "Hồn bướm mơ hoa" (tiểu thuyết lịch sử xã hội, miền Hậu
Giang) gồm 4 tập: Mai Thoại Dung, Tam nhơn đồng hành, Ông thầy Quảng, Bủa lưới
người (Nam Cường, 1966). Kế thế (tiểu thuyết dã sử) (Huệ Minh, 1964). Bộ
"Thuốc trường sanh" gồm 3 tập: Xây mộng, Phúc đức và Vẹn nguyền (Huệ
Minh, 1964). Hoa dinh cẩm trận (tiếp theo Thuốc trường sanh). Người Mỹ ưu tư
(tác giả xuất bản, Paris, 1968)...
Về tư tưởng, người phương Bắc (Trung Hoa) chú trọng đến cảm
giác chủ quan: Khi nhìn con ngựa, họ thấy mầu trắng trước, cho nên họ nói bạch
mã, cũng như ngã phụ (tôi cha) (cái tôi đi trước). Tư tưởng Việt Nam (thuộc người
phương Nam), gần gũi với Miến Điện, Xiêm, Mên, Chàm... mang tính phân tích và
đi từ khách quan đến chủ quan, cho nên nói ngựa trắng, cha tôi v.v...
Côn Lôn, một ngục tù lũy thừa bốn: ông, cha, con, cháu. Kẻ ở
trên đảo sống kiếp tù ông. Trên đảo có banh (bagne), kẻ ở trong banh sống kiếp
tù cha. Trong banh có khám, bị nhốt trong khám là tù con. Tù con mà còn bị còng
chân là tù cháu. Đó là những thân phận tù trong tù. Là người đã từng
trải bốn vòng vào tận trung tâm của khổ đau, cực hình, trong gần 20 năm tù tội,
Hồ Hữu Tường rất ít khi nhắc đến những đọa đầy thân xác trong tù, họa hoằn viết
một vài hàng như: "tôi lướt qua cơn dông tố mà ba phần tư anh em,
vì yếu đuối vượt qua không nổi, phải gởi xương ngoài đảo." Tù trong tù giúp
chúng ta hiểu tại sao Hồ Hữu Tường có đủ nghị lực để vượt lên những cơn
dông này: phải có một hoạt động tinh thần hàng ngày, phải tìm
cách "đằng phi trên vòm trời tư tưởng".
Về mặt tranh đấu xã hội, Hồ Hữu Tường dùng tiểu thuyết như một
phương tiện tuyên truyền, xác định lập trường yêu nước; ở loại trào phúng, tiểu
thuyết của ông phủ định tất cả: chế giễu chính trị, phê phán xã hội, đả phá những
"trịnh trọng" của lập thuyết, coi tất cả là chuyện tiếu lâm, hài hước,
tán dóc, tán nhảm. Hai khuynh hướng này đối lập nhau, tiêu biểu hai nét tương
phản trong con người Hồ Hữu Tường: Có một Hồ Hữu Tường nghiêm chỉnh, ưa lập
thuyết và một Hồ Phi Lạc trào lộng, đánh đổ tất cả những gì có tính cách lý
trí, biện luận.
Lạc quan và tin tưởng toàn vẹn? Có thật thế không? Hình như
Mai Thảo hơi quá tay. Như Mai Thảo quá chén mỗi lần uống rượu. Như Mai Thảo sa
đà mỗi lần được chữ đưa đi. Quê ngoại hẳn là không hằn một vết
nhăn, dù có cộng thêm ba mươi năm nữa. Nhưng niềm lạc quan và tin tưởng toàn vẹn
là của Mai Thảo, chỉ là tâm tư Mai Thảo về Hồ Dzếnh. Còn riêng Hồ Dzếnh, Hồ Dzếnh
mang một tâm tư bi đát, một mối "sầu vạn cổ". Hồ Dzếnh
đã gieo lên tiếng tình tan vỡ như một "thú đau thương" đặc
dị, phát sinh trong giọng reo vui, mời gọi sự lỗi hẹn như một chén rượu nồng,
như một trái cấm không cay:
Triết học hiện sinh xuất hiện ở miền Nam những năm 60, phong
trào khá rầm rộ, tạo ra một từng lớp trí thức trẻ tuổi dấn thân, có ý thức về tự
do và bản ngã. Ảnh hưởng triết học hiện sinh phần nào giải thích tính chất đa
diện của xã hội miền Nam thời bấy giờ: Ai đánh nhau cứ đánh nhau. Ai phản chiến
cứ phản chiến. Ai sa đọa cứ sa đọa. Ai đạo đức cứ đạo đức... Một xã hội có nhiều
màu sắc đối chọi nhau, những từ ngữ "xuống đường", "nổi loạn",
"buồn nôn"... trở thành một thứ nha phiến mới của tinh thần, được tiêu
thụ trên nhiều cấp độ, trong học đường cũng như ngoài xã hội. Và trong văn
chương, nhiều người đưa luồng tư tưởng mới này vào sáng tác. Họ đem vào văn học
những cách nhìn đời khác: mạnh bạo, trâng tráo, trắng trợn hơn và đôi khi cũng
sâu sắc, đau đớn hơn.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Sóng từ trường 3b00000
Sóng từ trường 3b Con nữ của Đỗ Quỳnh Dao Con nữ , giao điểm giữa nhà văn và thầy thuốc, giữa văn chương và y học. Với tác phẩm đầu tay, Đỗ ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét