Sóng từ trường 2a
Tính văn chương trong tác phẩm văn học
Một câu hỏi mà người đọc thường hay đặt ra cho người phê
bình: Viết phê bình như thế nào? Theo quan niệm nào? Trường phái nào? Phê bình
cũ hay phê bình mới? Chủ nghĩa nào? Trào lưu nào? Trước hiện đại, hiện đại hay
sau hiện đại? Tôi nghĩ không nên đặt vấn đề như thế. Tại sao? Bởi vì mọi quan
niệm, mọi trường phái,... đều có cái hay cái dở của nó. Ðều có những điểm dùng
được và những chỗ không thể nhắm mắt theo liều. Ví dụ quan niệm độc tôn văn bản
của phê bình mới: Chỉ dựa trên văn bản mà không cần biết đến tác giả, coi như
tác giả "đã chết", một thời được tôn sùng nay cũng đã "lỗi
thời". Với những tác gia như Kafka, như Proust hoặc những nhà văn trong
nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Ðạt, Ðặng Ðình Hưng... hoặc
trong nhóm "Xét lại chống đảng" như Bùi Ngọc Tấn, Vũ Thư Hiên... người
phê bình không thể "lờ đi" hoặc không biết gì đến cuộc đời tác giả
khi nhận định tác phẩm của họ. Bởi bệnh tật hoặc bi kịch cuộc đời họ gắn liền với
tác phẩm. Sự độc nhất hóa một quan niệm phê bình, dù cũ, dù mới, đều đưa đến những
kết quả cực đoan, một chiều, đôi khi tai hại. Nếu tất cả mọi nguồn thông tin đều
tốt cho con người, thì tất cả mọi trường phái, khuynh hướng đều có chỗ đứng
trong lòng một tác phẩm phê bình. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp
khác.
Ðối với tôi, phê bình là một sản phẩm cá nhân phi trường
phái. Như những sản phẩm cá nhân khác, nó có thể chịu ảnh hưởng của môi trường,
của thời đại, của các trường phái này hay trường phái khác... nhưng sự lệ thuộc
đó dứt khoát không thể là chủ yếu mà chủ yếu là người phê bình -cũng như người
sáng tác- phải vượt trên, vượt qua mức chủ quan của thời đại, của trường phái,
chủ nghĩa để tìm đến một cái gì vững bền hơn có thể trụ lại khi mọi thời đại, mọi
trường phái đã qua đi. Sự vững bền đó nằm ở sức cảm thông và mức thẩm thấu giữa
tác phẩm văn học và người đọc. Ðó là ma lực của mỗi chữ, mỗi ý, mỗi âm trong
tác phẩm, đó là tính văn chương, tính văn chương của một tác phẩm văn học nói
riêng và tính nghệ thuật của một tác phẩm nghệ thuật nói chung.
Như con người, văn chương có hai diện mạo: thể xác và tinh thần.
Thể xác văn bản là bộ mặt "nhìn thấy" của chữ
nghĩa. Ðể giải thích bộ mặt này, người phê bình có thể dùng đến những luận thuyết,
thuộc địa hạt lý trí như hình thức luận, cấu trúc luận, phá cấu trúc, ký hiệu học,
ngôn ngỡ học v.v... đó là những kiến thức "kỹ thuật" của một thời, của
nhiều thời.
Còn về bộ mặt tinh thần của văn bản, của tác phẩm nghệ thuật,
thì khó có thể dùng "kỹ thuật" để giải thích. Nó như trái tim con người,
là phần tình cảm và lương tri của tác phẩm, thoát thai từ "thể xác chữ
nghĩa", có khả năng giao thoa với người đọc, người thưởng lãm; chính nó là
cái "hay", cái "cảm", cái "xúc" mà người đọc nhận
được nhưng đôi khi không biết tại sao. Ðể viết về một địa hạt tâm huyết tâm
linh như thế, người phê bình cũng phải vận dụng tâm huyết tâm linh của mình, phần
riêng tư nhất, phần cốt yếu nhất, lòng dạ nhất. Ðó là sự gặp gỡ giữa hai trái
tim: trái tim tác phẩm và trái tim người phê bình. Từ sự gặp gỡ này thụ thai một
tác phẩm mới: Văn bản phê bình.
Như tất cả các văn bản khác, văn bản phê bình có thể què quặt,
đui mù, mà cũng có thể toàn bích; nó có thể khô khan, thuần lý trí, như các luận
thuyết, lập thuyết, cũng có thể sướt mướt hoặc cằn cỗi như các trào lưu đã sống
dậy chết đi của một thời...
Nhưng giá trị đích thực -nếu có- của văn bản phê bình nằm
trong tư cách cá nhân, ở cái bản lai -dị biệt- của nó đối với những tác phẩm
khác. Ở điểm này, phê bình hoàn toàn giống một tác phẩm văn chương: giá trị văn
bản cũng nằm trong tính văn chương với hai yếu tố cảm thông và thẩm thấu người
đọc.
Người phê bình có nhiệm vụ kép: Tìm hiểu và trình bày
tính cảm thông và thẩm thấu của một tác phẩm bằng một văn bản có tính văn
chương.
Vậy tính văn chương hay sức cảm thông và
thẩm thấu của một tác phẩm văn học là gì? Chắc chắn không phải là bình dân
hay bán chạy (best seller). Một kiệt tác có thể bình dân như Truyện Kiều. Nhưng
không phải cuốn sách bình dân nào cũng là kiệt tác. Một cuốn tiểu thuyết có thể
rất bình dân (được nhiều người ưa thích) nhưng không có chất cảm thông và thẩm
thấu. Ví dụ tiểu thuyết trinh thám. Ở loại truyện này, người đọc không tìm thấy
"người" mà chỉ tìm thấy những sản phẩm "trên người" (siêu
nhân như OSS117) hoặc những sản phẩm "dưới người" (trộm cướp, côn đồ
dã man, tàn ác). Ở một chừng mức khác tiểu thuyết tuyên truyền cho một chủ
nghĩa hay chính nghĩa, người đọc cũng chỉ gặp hai loại: ta (cao cả, phụng sự tổ
quốc,...) và địch (phản động, dã man, bán nước...) vẫn là những cực ngoại khổ,
trên người hoặc dưới người, không phải người. Loại thứ nhì còn kém loại thứ nhất
vì quần chúng không tìm đọc, mà họ phải đọc, bị đọc. Cả hai loại trên dù bình
dân hay không, dù sống nhất thời hay dai dẳng, nhưng vì không nói đến nhân sinh
nên chúng chỉ ở địa vị giải trí hoặc làm gương, không có khả năng trụ trong
trái tim người nên chúng không thể "vượt thời gian".
Ngược lại, có những tác phẩm hay tác giả rất ít người đọc
nhưng vẫn có tính chất cảm thông và thẩm thấu. Ví dụ trường hợp Thanh Tâm Tuyền.
Khi thơ ông ra đời những năm 54-60, người ta đã nhạo báng, phủ nhận. Mặc dù vậy
ảnh hưởng thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền vẫn lan rộng trong thơ văn miền Nam và
kéo dài đến ngày nay. Những người viết trẻ như Nguyễn Quốc Chánh, Vi Thùy
Linh..., thế hệ lớn lên trong xã hội chủ nghĩa, có thể chưa từng đọc Thanh Tâm
Tuyền, nhưng họ đang thử làm thơ "kiểu" Thanh Tâm Tuyền. Như vậy
nghĩa là gì? Nghĩa là thơ Thanh Tâm Tuyền, với lối xé rào hình thức và lối khai
phá nội tâm đưa ra cái đau nội tại của hiện sinh con người, đã có sức thẩm thấu
xuyên thời đại để "sống" với người, người hôm qua và người hôm nay. Tất
nhiên Thanh Tâm Tuyền cũng đã chịu ảnh hưởng những người đi trước, nhưng điểm
quan trọng là ông đã làm được một cá tính thơ. Thơ Thanh Tâm Tuyền.
Do đó đối với một người viết phê bình, tính chất cảm thông và
thẩm thấu của một tác phẩm văn học là điều quan trọng, là điểm khởi đi và cũng
là điểm tìm đến.
Trong tập tiểu luận này, tôi muốn khởi đi và tìm đến một số
tác phẩm văn thơ của nhiều thế hệ và đất sống khác nhau, muốn giới thiệu với độc
giả những chân trời văn chương và con người hoàn toàn khác. Từ những Nguyên Sa,
Tô Thùy Yên Sài Gòn, Phạm Thị Hoài Hà Nội Berlin, đến Cao Hành Kiện Hoa Trung,
từ Albert Camus Algérie Pháp đến Kinh Bắc Hoàng Cầm, Hải Phòng Bùi Ngọc Tấn...
Mỗi tác giả mọc lên từ một mảnh đất văn hóa khác, phương trời khác, nhưng cùng
đồng quy ở một điểm: Viết về con người và viết cho con người.
Paris ngày 1/7/2001
Thụy Khuê
Tô Thùy Yên, thời gian, tồn tại, cô đơn và đá
Hành giả của cô đơn, Tô Thùy Yên đáp chuyến tốc hành "cánh
đồng con ngựa chuyến tầu", năm 56, vào vòng khắc biệt của thời gian, nghiền
nát hình hài, đập tan bão tố, giã vụn tâm tư, biến tất cả thành hư vô, trừ
đá: Ðá ở lại. Ðá ở lại, trong ánh tàn dư, khiến cho thời
gian, đá và con người trở thành tương quan tồn tại.
Trên cánh đồng hoang thuần một mầu
Trên cánh đồng hoang dài đến nỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt
Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
Cánh đồng, a! Cánh đồng sắp hết.
Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết nâu.
(Cánh Ðồng Con Ngựa Chuyến Tàu, tháng 4-1956)
Ý niệm "chạy đua" lạ lắm. Mà đây không phải là cuộc
chạy đua tầm thường giữa phường tục tử. Ðây là cuộc chạy đua giữa ba "kẻ"
không phải người, không cùng "giống": Cánh đồng (đất và cỏ) vừa
là một tĩnh thể bất biến (đất), vừa là một sinh thể lụi tàn (cỏ). Ngựa thuộc
loài tử kiếp (mortel), cố rượt theo con tầu, guồng máy vô tri, vô kiếp. Tô
Thùy Yên đã đoạn tuyệt với quá khứ thơ tiền chiến bằng cuộc đua này,
một cuộc đua rất cô hồn, siêu thực và có thật. "Chúng" chạy đi đâu?
Chạy vào không gian và thời gian, mịt mùng vô tận. Ngựa chạy
mau, tầu càng mau hơn. Vận tốc (thời gian) càng gia tăng, cánh đồng (không
gian) càng "dãn" ra như thể hai cái biển gian ấy cùng nhập
bọn một lúc, điều mà Phạm Duy rất ngại: đừng cho không gian đụng thời gian (Thương
Tình Ca).
Như thế, ý thức thời gian gia nhập lãnh phận Tô
Thùy Yên ngay từ đầu, "thời gian" vào thơ như một nhận thức về sự tồn
tại xuyên qua thời gian.
Ở ông, thời gian phát động những câu thơ rất sâu và
rất mạnh:
Thời gian rũ trắng xương làm nhớ...
Thời gian gia tốc thảm thê thay...
Thời gian đứt quãng dài vô định...
Thời gian mất trí trắng vô âm....
Lục lại thời gian kiếm chính mình...
Thăm thẳm trưa thời gian chết xanh...
Hồn thời gian phất phơ lưới nhện
Thời gian đứt quãng là một nhận thức vô cùng sâu, dẫn đến
những đớn đau khác: thời gian rũ trắng xương làm nhớ, thời gian mất trí,
thời gian gia tốc, thời gian chết xanh, hồn thời gian phất phơ lưới nhện... và
trong cái biển thời gian dữ dẵn, tàn khốc ấy, có kẻ đi lục lại thời gian
kiếm chính mình, thì quả là cao đạo.
Cùng với Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên đem ý thức về
bản ngã, về nỗi hoang tưởng của con người vào thi ca những năm 60, với một
phong cách khác.
Ở Thanh Tâm Tuyền, con đường ý thức được vẽ trên cấu
trúc gián đoạn, tượng trưng mạch đứt của thời gian.
đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
(Tôi Không Còn Cô Ðộc)
Ở mỗi tích tắc, Thanh Tâm Tuyền chụp một bức ảnh và dàn trải
chúng bên nhau.
Ba hình ảnh "đêm ngã xuống", "em bé quàng khăn
đỏ" và "con chó sói" rời rạc, không có gì liên lạc với nhau, cả
ba xuất hiện cùng một lúc thành một bức tranh "siêu thực lập thể".
Ở Tô Thùy Yên, ý thức hoang tưởng xuất hiện dưới dạng cổ điển
và liên tục. Tô Thùy Yên không phá cách trong hình thức mà phá cách trong tư tưởng:
Thời gian đứt quãng dài vô định
Như sợi dây diều băng mất tăm.
Lòng anh thảng thốt, sông chao sóng
Kỷ niệm buông tay, rú ngất chìm.
(Vườn Hạ)
Cách tạo hình siêu thực gắn với ý thức về bản ngã, về sự đứt
quãng của thời gian, được Tô Thùy Yên nhào nặn nhuần nhuyễn trong một cấu trúc
liên tục: Thời gian đứt quãng dài vô định như sợi dây diều băng mất tăm,
lòng anh thảng thốt, sông chao sóng đến đây vẫn là một "chuỗi
thơ" hiền lành theo lối cũ, bỗng "kỷ niệm buông tay, rú ngất
chìm", từ đâu rớt xuống khiến người đọc thảng thốt, giật mình kịp thấy nỗi
hoang mang, hoang tưởng. Trễ rồi. Hắn đã nhập cuộc. Vào cõi thơ Tô Thùy Yên,
vào cõi hoang tưởng của chính mình, với những hình ảnh cực kỳ phức loạn: "nằm
nghe tóc rụng", "chiều hôm nhìn lửa nhớ tiền thân", "con rạch
đen nồng như máu chết", "mắt người sâu vời vợi ẩm hơi chiều",
"đất bạc mầu đi, đất bạc mầu".
Ði từ những nghiệm sinh về sự tồn tại và thời
gian, rất Heidegger ấy, thơ Tô Thùy Yên đớn đau và sâu sắc, ông tạo ra một mẫu cơ
đơn hành giả, có khả năng đi ngược thời gian, suốt đời tìm lại chính mình, đằng
vân trong một vũ trụ đau thương, ô nhiễm những lừa lọc, tội tù và chết chóc:
Nao nao mường tượng bóng mình
Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền
Xuống đò, đời đã bỏ quên
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.
(Qua Sông)
Những chuyến đi tuyệt vọng chỉ kéo dài thêm, lâu thêm, nỗi khắc
khoải của cô đơn:
Năm tháng nhúng hoàng hôn
Ðến rã rời thể xác
Tôi đã thấy mất mát
Tất cả trừ cô đơn.
Cuộc sống nhiễm lầm than
Nằm liệt trên buồn bã
Thượng đế điềm nhiên lạ
Tôi đánh liều cười khan
(Thân Phận Của Thi Sĩ)
Nhưng nói gì, làm gì rồi cũng thế thôi, cũng thừa thôi. Bởi từ
lâu, người đãng tử ấy đã biết rằng:
Chim đã bay quanh từ vạn cổ
Gió thật xưa, mây thật già nua.
(Ðãng Tử)
Với đá, Ngô Thừa Ân bắt đầu Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không là con
khỉ đá. Tào Tuyết Cần mở Hồng Lâu Mộng bằng đá, Giả Bảo Ngọc là hậu thân của
hòn đá dưới núi Thanh Ngạnh. Luận Ngữ, Tam Tự Kinh... trong Văn Miếu tại Trường
An cũng khắc trên bia đá. Rút cục chỉ có đá còn lại. Ðá ở lại. Ðá ở lại
sau khi tất cả những ánh tàn dư khác đều đã trôi đi, biến đi:
Trên dốc thời gian, hòn đá tuột
Lăn dài khinh động cả hư vô
(Hề, Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn
(Góa Phụ)
Ðá là thể xác của vĩnh cửu. Nhưng đá cũng lại muôn kiếp cô
đơn. Ðá không có bạn. Ðá không nói. Không có thông ngôn. Ðá đợi ngàn năm. Ðá là
nỗi đợi vô tận.
Nữ Oa góp nhặt những hòn đá lớn, ngoan cường nhất để vá lại bầu
trời thương khuyết, nứt nẻ, tật nguyền. Với sự tính toán tỉ mỉ, Nữ Oa cho rằng:
Phải cần đến hàng vạn năm mới kiếm được 36.500 hòn đá lớn để lấp kín vết thương
của bầu trời. Bà chuẩn bị được 36.501 hòn đá, nhưng lại chỉ cần có 36.500. Hòn
đá duy nhất, bé nhất còn sót lại bị bà bỏ quên trên núi Thanh Ngạnh.
Về tâm sự đứa con út của Nữ Oa, Tào Tuyết Cần viết: "Ðá
khát vọng lên trời, nhưng bầu trời bao la rộng lớn lại rứt bỏ nó. Ðá muốn xuống
với đất nhưng năm tháng dằng dặc qua đi, mòn mỏi đợi chờ vẫn không có cơ may để
nó được đặt chân lên bàn cờ huyền bí trên mặt đất." Nhà văn muốn giải
thích cái nhân duyên của đá. Không được lên trời, không chôn xuống đất. Ðá hóa
thân thành: Giả Bảo Ngọc. Ðứa con út của Nữ Oa, chẳng qua là con người bị kết
án chung thân di chuyển, lủng lẳng giữa thời gian và không gian một
chiều đi duy nhất: Tiến về cõi không. Dẫm lên lầm than, tang tóc, cô đơn, phi
lý, nguyền rủa, căm thù, lắng nghe những chuyện trần thế thất thiệt. Thân phận
đợi chờ, di biến, trơ đá ấy, Tô Thùy Yên đã viết được, như một định mệnh, một vinh
dự lầm than của kiếp người, như một định nghĩa của cô đơn, của con người, lửng
lơ trong cõi vô chung, vô thủy:
Con chim bói cá trong tàn tối
Soi vĩnh hằng xanh rợn mặt hồ
Hư ảnh lờn rờn tụ tán tụ
Hoài công không định nổi chân như
Trái đất thì buồn như xác rỗng
Ta thì như gió, tuyệt bơ vơ,
Trăm năm, cửa khép hờ mưa nắng...
Mãi chẳng ai về qua gọi cho.
Ta đợi nghe chừng thiên cổ mỏi
Hàng hàng thân trụ đứng hư hao
Hoàng hôn, thần thánh bưng mặt khóc
Ta chẳng buồn thăm hỏi tại sao
Ôi đá địa đầu vần vụ mộng
Ai xưa qua yểm lại tình sầu
Thời gian rũ trắng xương làm nhớ
Gió cát không nguôi khóc dãi dầu.
(Nỗi Ðợi)
Ý thức về đá làm lạnh thơ, giá băng những câu thơ tha thiết
nhất:
Từng chút vỗ về, từng chút một
Em tạt vào anh rồi rút đi...
Thương tích chẳng lành chan muối xót
Bào sâu thân đá, nước tay ghì
(Hải Phận)
Và với lạnh băng ấy, nhà thơ đi vào hành trình ý thức, tìm lại
chính mình:
Một sáng ta về qua bãi sụp
Thấy tàn tro váng biết là ta.
(Nỗi Ðợi)
Ở Tô Thùy Yên, còn một con người nữa trong đó chất hành giả,
ý niệm quân tử và hào hùng nhào nặn thành một tâm hồn "tráng sĩ" hiện
đại. Hình ảnh này rất được quần chúng (di tản) ngưỡng mộ. Giọng thơ quan hoài,
biên tái, mang hào khí của người (anh hùng) bại trận, bất khuất. Coi nhẹ tù đầy.
Xem thường gian khổ. Kể chuyện mười năm lao cải nhẹ như lông.
Bài Ta Về được phổ biến ngay khi Tô Thùy Yên còn ở
trong nước như một bài ca ngất ngưởng của người tù cải tạo, cao ngạo trở về, với
cái ta khinh mạn và ngạo nghễ:
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai...
Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.
Vĩnh biệt ta -mười- năm chết dấp
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu
Mười năm, mặt xạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ,
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay...
(Ta Về)
Nhiều người cho Ta Về, Chiều Trên Phá Tam Giang, Trường
Sa Hành... là những bài thơ tiêu biểu Tô Thùy Yên, có lẽ tiêu biểu thơ
chính khí, chính luận thì đúng hơn. Bài Ta Về, như có ý tái tạo một chính
nghĩa, một chí khí cho người bại trận, xướng lên cái căn cước của miền Nam, tấm
lòng "rộng lượng" của người tù lao cải, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ
đã hành hạ, đầy đọa mình.
Nhưng dường như thơ hay không cần chính nghĩa, không cần bầy
tỏ. Lão Tử có nói đến tính "vô ích" của các sự xướng danh. Vô
danh mới là Ðạo. Ðạo thường ẩn. Ðạo vốn mộc mạc, không có tên. Không có
tên nên mới có khả năng biến hóa. Thơ hay không lộ. Mà lại ngại những hình ảnh
cliché, sáo mòn như thơ đề vạt áo, niềm đau phế phủ, chốn rừng thiêng, tiếng
nghìn thu, truông cùng phá, hóa thân thành vượn... Những nỗi đau thật
không hợp với tạng chữ lấp lánh láng diện, như thể đám tang không mặc áo màu.
Cho nên những câu thơ như
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ.
trong Trường Sa Hành, dù được ca tụng, e rằng chúng cũng
rất xa với nỗi quạnh hiu dù rất lớn của nhà thơ và của con người.
Ở Tô Thùy Yên, cô đơn, hiu quạnh và thất phận âm ỷ dưới những
câu thơ khác không viết hoa, khiêm tốn hơn, tinh tế hơn và ít được chú ý hơn.
Dường như nỗi đau đã đến với Tô Thùy Yên từ rất sớm, từ những
ngày đầu chiến tranh, nỗi đau đời, bắt gặp một đêm qua bắc Vàm Cống:
Ðêm qua bắc Vàm Cống,
Mối sầu như nước sông,
Chảy hoài mà chẳng cạn,
Cuốn phăng kiếp bềnh bồng....
Tôi châm điếu thuốc nữa
Ðốt tàn thêm tháng năm
Chiếc bắc xa dần bến
Ðời xa dần tuổi xanh
Nước tách nguồn về biển
Sầu lại chảy về hồn
Khi tôi vuốt lấy mặt
Nghe bàn tay trống trơn
Ðây là một trong những bài thơ lọt vào người như kẻ trộm như
lời Tô Thùy Yên. Chính cái khẽ khàng, cái nhỏ nhẹ ấy mới thấm và đau, nó là những
sợi thần kinh của cảm giác. Không hề có những chữ "lớn" mà mối sầu vẫn
lớn. Một thời gian gian dối: Ðốt tàn thêm tháng năm. Một trống vắng âm thầm
xâm lấn, cô đơn nạo sát hồn người: Khi tôi vuốt lấy mặt, nghe bàn tay trống
trơn. Thơ đã tìm được tần sóng của những ngõ vắng, những lối lạc của tâm hồn;
thơ mở những cửa kín, phát lộ những nỗi đau dấu sâu trong tim người.
Bài Vườn Hạ, lạnh lùng chăng lên phận số con người, những
kiếp mỏng manh như những sợi diều, bị bắt làm con tin cho một mẹ mìn thời gian
luôn luôn bất trắc phản bội chỉ chờ dịp là quất ngựa truy phong:
Thời gian đứt quãng dài vô định
Như sợi dây diều băng mất tăm
Lòng anh thảng thốt, sông chao sóng
Kỷ niệm buông tay rú ngất chìm.
Ai ngắt dùm anh cây cỏ sướt
Làm đôi gà đá, đá ăn cười
Mùa hè đi khuất kêu không lại
Bãi mía điêu tàn gốc cháy thui.
Trời cao mỏi mắt, chòm mây bạc
Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh.
Ngoài cõi chói chang hư ảo múa
Dường như ai gọi ấu danh anh.
Hàng cây đứng bóng ôm tròn gốc
Ðất ẩm vương hương, cỏ trở màu
Ai cúi soi mương rong khỏa mặt
Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao.
(Vườn Hạ)
Một mối "sầu" mới dấy lên, không phải sầu tiền chiến,
sầu lãng mạn Lưu Trọng Lư, Huy Cận. Sầu Tô Thùy Yên mang tính chất nội tại, sầu
hiện sinh, sầu sống, sầu hôm nay, sầu tự bản thân lan ra vũ trụ "lòng
anh thảng thốt sông chao sóng" khác với sầu hôm qua, "sóng
cuộn tràng giang buồn điệp điệp" (Huy Cận) hay "phất phơ hồn
của bông hường" (Xuân Diệu). Sầu mới xuất phát từ người, làm chao đảo
thiên nhiên, khác với sầu cũ: thiên nhiên gây thương cảm trong lòng người.
Ở cõi sầu mới, con người làm chủ tình cảm và tình thế, vũ trụ
bị nhân hóa(1) như: Trời cao mỏi mắt chòm mây bạc: trời, mây ở
đây là người, chứ không bị ví là người như bông hường của Xuân Diệu.
Thăm thẳm trưa thời gian chết xanh, ngoài cõi chói chang hư ảo
múa, hàng cây đứng bóng ôm tròn gốc, đất ẩm vương hương cỏ trổ màu...: thời
gian, hư ảo, hàng cây, đất, cỏ... đều là người, và người lại biến
thành vật ảo, thành bóng ma của chính mình:
Ai cúi soi mương rong khỏa mặt
Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao.
Những rung động mới này xuất phát từ những nghiệm sinh về tồn
tại và thời gian, hợp với cách tạo hình siêu thực, tạo thành "nỗi đau
hôm nay", một nỗi đau xâm thẳng vào bản thể, dày vò tâm thức, cực kỳ nhức
nhối (khác hẳn với nỗi đau lãng mạn êm dịu thời tiền chiến), tạo nên những hình
ảnh thầm lặng mà vô cùng chua xót như mùa hè đi khuất kêu không lại, thăm
thẳm trưa thời gian chết xanh, thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao... Nơi Tô
Thùy Yên, có tồn tại nào qua mắt được thời gian? Tồn tại và thời
gian ẩn kiếp trong nhau: Không biết ai phụ ai? Ai lấn át ai? Ai chết trước
ai?
Hải Phận, một bài thơ nhỏ với mối sầu lớn. Tô Thùy Yên dựng hải
phận tình yêu trong hải phận người. Vừa chia cắt, vừa gần gụi như biển và cát,
như nước và đá. Ảo tưởng gần xa, hợp tan, sáng tối, tuy một mà hai, giao nhau tạo
nên một mối sầu non trẻ luôn luôn bắt đầu, luôn luôn trở lại:
Như một con sò giữa chiếc vỏ
Chúng ta cuộn trốn trong tình yêu
Như đôi dã tràng không biết mỏi
Chúng ta khởi sự lại mối sầu
Từng chút vỗ về từng chút một
Em tạt vào anh rồi rút đi
Thương tích chẳng lành chan muối xót
Bào sâu thân đá, nước tay ghì.
Người lính trong hải phận cũng nhập nhằng, khiêm tốn. Ở đây
không có khí hạo nhiên, không có lời hào sảng mà chỉ là những tích tụ đau
thương, nhục cảm, tìm đến đối tượng yêu đương như một cõi sống, cõi về, cõi hải
đăng sáng diệu:
Anh sống làm quen cùng cái chết
Liếm lấy mặn mà trên đau thương
Chìm mãi xuống em và mất tích
Như mặt trời rã trong nước loang.
Vị thần mun hải đăng trơ trọi
Trừng mỏi con mắt ngó không gian
Em trở về em chờ biến đổi
Trở về em như kim chỉ nam
(Hải Phận)
Sau này, nếu tất cả nhân gian đã bị thời gian cuốn đi, ý thức
cô đơn nơi Tô Thùy Yên sẽ còn dội lại như một âm thừa tưởng lạc đến muôn
sau. Và những gia tốc vận hành của nhà thơ, ngược thời gian, tìm về tiền thân,
rồi cũng sẽ được lưu lại như một thử nghiệm tư tưởng.
May ra, trong một mùa hạn nào đó, Tô Thùy Yên sẽ
tìm thấy
Ở đâu còn cụm mây hư ảo
Bay tự ngàn năm trắng cổ thi
Tưởng tượng ta gom vào hiện kiếp
Trọn luân hồi ấy, một lần đi.
Paris tháng 10/1998
Chú thích:
(1) Nhân hóa này rất khác với nhân cách hóa trong thơ lãng mạn: phất
phơ hồn của bông hường (Xuân Diệu).
Tiếng Kèn của Nhật Tiến
Từ khi đọc Những Vì Sao Lạc, Thềm Hoang của Nhận
Tiến đến nay đã trên hai mươi năm. Mới đây (1), tôi tình cờ tìm được Tiếng
Kèn trong một hàng sách. Tiếng Kèn, tác phẩm thứ hai mươi của Nhật
Tiến là tập truyện ngắn viết tại trại tỵ nạn Songkhla, Thái Lan, và những ngày
đầu tiên trên đất Mỹ (1980-1981). Song những sách xuất bản bên Mỹ tới tay người
đọc bên Pháp là cả một hành trình, tuỳ theo hên xui, may rủi, có khi một vài
tháng, đôi lúc vài năm, rất có thể không bao giờ.
Tiếng Kèn đến như một kỷ niệm cũ, lưu lạc từ lâu, có lẽ
vì hình ảnh Thềm Hoang trong tôi chưa bao giờ phai lạt.
Tiếng Kèn kể lại đời sống tầm thường của người dân miền
Nam, sau ngày đổi chủ. Nhưng từ những tầm thường đó, xới lên, bốc lên bao nhiêu
hơi hướm bất thường, trụ lại những hồ hỡi xót xa, lây lất những thế đứng trật
đường của những con người gọi là vừa-được-giải-phóng. Mười một mẩu đời tầm thường,
đôi khi tuyệt vọng, đôi khi tan tác, đôi khi cười ra nước mắt, nhưng đã nói lên
biết bao sự thực không tên tuổi, phô bày những lộ trình không lối thoát của con
người.
Những lời biện bạch nhăn nhở của một gã mù để gỡ cái "tội"
thổi nhạc "lãng mạn" của mình hực lên tử khí vực thẳm chôn những con
người bị "cướp đoạt dĩ vãng", mất bản quyền tư tưởng.
Dưới vực ấy, chúng ta lại chới với bắt được đôi chút
"khoái trá" tạm thời, cái "ranh vặt" của một bà già
"gân" muốn "phá chơi" chiếc máy phóng thanh phường. Chừng
nó hỏng thật, bà Năm tưng hửng:
"Gặp chuyến ngon lành (bán củi, nước mắm ngoài tiêu chuẩn
v.v...) tổ cha chúng nó cái miệng êm rơ, hổng thèm nói với ai một tiếng để dễ bề
tẩu tán. Hỏi đến nơi đến chốn thì chúng nó lại khai bị cái loa hư." (Ước
Vọng Của Bà Năm trong tập Tiếng Kèn, NXB Văn Học, Hoa Kỳ 1982, trang 97)
Rồi chất phi lý trào tiếu, tiết ra từ những kiếp người đã một
thời là anh hùng dân tộc (Chuyến Tàu Ngày Cuối Năm). Cái cười ở đây là cái cười
chết yểu, chưa ra khỏi miệng đã tắt ngấm. Không đóng khố, tất cả bi kịch của
con người, của chế độ trần truồng hiện ra.
Nồi Cháo Thịt là một truyện rất buồn, đưa người đọc vào
tận cùng biên giới giữa trần gian và cõi chết; cái "thảm" này đến một
cách tự nhiên, không kịch chút nào. Nó đến như hai giọt nước mắt đọng mí đã
lâu, từ từ lăn trên má, âm thầm, thấm thía, lặng lẽ như đoạn kết câu chuyện.
Ám khí lại hiện về, lởn vởn, chập chờn trong Chiếc Áo
Tây Vàng. Từ sự lợm giọng, buồn nôn của người thiếu nữ vô tình cuốc phải con
cóc một nhát chết tươi, đến cái nghề hắc ám nàng làm, tất cả đều chưa lấy gì
làm quái đản: cái quái đản nằm trong lời khai của nàng trước tòa án, nhờ đó mà
nàng được trả tự do.
Chúng ta đã lạc bước quá sâu vào thế giới tuyệt vọng của những
kiếp người: Từ gã thổi kèn dạo mù lòa bị cưỡng đoạt dĩ vãng ở trong Nam, đến cô
gái hành nghề đào mả kỳ dị ở chợ trời ngoài Bắc, đâu là ranh giới phân chia hai
miền, đâu là địa phận ngăn cách âm ty và trần thế?
Dù có những đoạn có thể là còn chưa thực nhuần nhuyễn, còn có
thể được viết kỹ hơn, đối với một ngòi bút như Nhật Tiến, nhưng Tiếng Kèn vẫn
là một tác phẩm giá trị, nói lên sự thực của một thời kỳ và sự thống khổ của
con người trong thời kỳ ấy: Thời kỳ đất nước vừa hợp nhất nhưng ranh giới lại
rõ nhất. Tiếng Kèn xóa ranh giới tinh thần giữa hai miền Nam Bắc, giữa
những kiếp người: Người lính cộng hòa trốn trại cải tạo "gặp" người
lính nhân dân đào ngũ từ chiến trường Campuchia; người vợ đại úy ngụy cùng đường,
cho các con ăn nồi cháo thịt bỏ thuốc độc trong Nam "gặp" cô gái đào
mả, ăn cắp áo người chết, đem bán chợ trời ngoài Bắc. Tất cả xáo trộn trong môi
trường cười khóc của kẻ thắng, người thua. Tất cả đều mất dĩ vãng, cho nên
không có hiện tại, nói gì đến tương lai! Tất cả đều lang thang như tiếng kèn của
gã mù, lạc lõng, không có người nghe, trổi lên rồi âm thầm rớt xuống trong đêm
như những giọt sương tuyệt vọng.
Tiếng Kèn trung thành với tâm thức xã hội của một nhà
văn mà tên tuổi đã gắn bó với những định mệnh lạc loài, ngay từ những tác phẩm
đầu tay như Những Người Áo Trắng, Những Vì Sao Lạc...
Tiếng Kèn là một tác phẩm chứng nhân không khí buổi giao
thời dưới ngòi bút một nhà văn đích thực. Hình ảnh lão mù trong Tiếng Kèn phản
ảnh một cách khôi hài đớn đau hiện tượng xóa bỏ con người trong "giải
phóng". Tập truyện mở ra trước chân dung gã mù thổi kèn trong ngõ hẻm. Nhật
Tiến viết:
"Gã có vóc dáng của một tay đô vật nhà nghề. Ðôi vai như
vai gấu. Hai cánh tay thật dài [...] vầng trán rộng và phẳng. Cả khuôn mặt
vuông chữ điền của gã như bị nuốt bởi đôi kính đen gắn trên cái gọng đồi mồi giả.
Gã mù. [...] Hình như ngày trước gã đã đi lính. Hình như gã đã bị hỏng mắt sau
một cuộc hành quân. Hình như vợ gã đã bỏ [...]
Gã lau cây kèn thật lâu. Thời gian lâu lắc đó vừa đủ để cho
trẻ con trong xóm bu đen lại. Gã nhếch miệng cười. Hai hàm răng nhe ra trắng nhởn.
Lần này nụ cười của gã tươi rói. Gã biết mình đang được tiếp đón một cách nồng
nhiệt. Rồi gã nâng cây kèn bằng cả hai tay. Cặp môi dầy tụp của gã chụm lại, đặt
vào ống thổi, chúm chím một cách điệu nghệ, kiểu cách. Rồi hai má của gã phùng
to lên. Gã dồn tất cả làn hơi phong phú của mình vào đó [...] Bài Lòng Mẹ qua
điệu nghệ của hắn, nghe rền rĩ như một lời than van [...] Gã dồn thêm hơi sức
vào cây kèn. Hai hàm của gã bạnh thêm ra. Những hàng gân ở cổ căng lên như những
mối dây chằng chịt. Mười ngón tay của gã như múa trên hàng nút đồng [...]
Từ bài Lòng Mẹ, gã chuyển sang bài Xuất Quân. Hết bài Xuất
Quân gã quay về chơi nhạc cổ điển với bài Thiên Thai, bài Bến Cũ, rồi hứng chí,
gã quay ra thổi nhạc Tây, nhạc Mỹ với những bài như Cầu Sông Kwai, Que Sera
Sera...
Nhưng đúng vào cái lúc gã đang gân cổ thổi theo lối "vài
hàng gởi anh trìu mến, vừa rồi nàng mới được tin..." thì bỗng một bàn tay
khô khan nắm cứng lấy bờ vai của gã. Gã hốt hoảng quay đầu lại. Tiếng kèn của
gã đang lên một nốt cao bỗng oằn xuống rồi tắt ngấm [...]
- Công an khu vực đây! Ði theo tôi!
(Tiếng Kèn, trang 11)
Trên đây là trích đoạn mở đầu truyện ngắn Tiếng Kèn. Cuộc
phiêu lưu của gã mù cứ thế tiếp tục, mặc dù bà con bênh gã nhưng gã cũng ngoan
ngoãn theo công an về trụ sở khóm. Rồi những biện bạch nhăn nhở của gã mù để gỡ
cái tội thổi nhạc "đồi trụy" của mình, đại loại: "Hì hì,
thưa đồng chí, em mù, em đâu có nợ máu gì!". Hoặc hắn xuống nước nữa:
"Trăm lạy các đồng chí, cháu là nghệ sĩ, cháu có biết chính trị chính em
gì đâu."
Cuối cùng gã cũng được hưởng khoan hồng, gã được thả, sau khi
phải ký cái giấy cam đoan từ nay xin chừa, không được thổi nhạc ngụy nữa.
Hình ảnh gã mù đột nhập chúng ta không gõ cửa: cái cặp môi
dày tụp ấy, cái lý luận cù nhầy ấy, nụ cười cầu tài ấy... Rồi đến những bản nhạc
tiền chiến, "đồi trụy" như Thiên Thai, Xuất Quân, Bến Cũ... hắn thổi.
Ngay cả đến miếng bánh mì hắn ăn chung với con chó, nhân vật duy nhất thông cảm
và chia xẻ tâm sự với hắn trong những đêm tối âm u giữa thanh thiên bạch nhật
triền miên của hắn. Tất cả báo hiệu và bắc cầu mối tương quan chênh vênh giữa
sáng và tối. Giữa thua và được, giữa "ngụy" và "ta". Tất cả
phản ánh cái bi - hài của những kẻ bị phải quên dĩ vãng, bị phải đánh
mất dĩ vãng, bị phải gột rửa trong phút chốc tất cả những gì tàng trữ
trong đầu từ nhỏ, và bị phải tiếp thu cái mới, lập tức và toàn diện: Cái bi hài
của những kẻ bị được "giải phóng", nằm gọn trong vài câu nói lém lỉnh,
liến thoắng của gã mù để gỡ tội thổi kèn:
"Chèn ôi! Bài hay của cách mạng em có nghe chớ. Mà điều
em có sol pha sol pheng gì đâu. Em phải nghe lâu riết rồi mới thuộc. Thuộc rồi
mỗi lần mò ra nốt nhạc, có nốt nhạc rồi mới lên bổng xuống trầm, mới lôi cuốn
được bà con. Em cũng đang tập đó. Em thích nhất bài Tiếng Chầy trên sóc
Bombo..." (Tiếng Kèn, trang 14)
Sự chao đảo từ bi sang hài, từ hài sang bi rất chớp nhoáng.
Và cũng chỉ trong khoảnh khắc ngôn ngữ, thoát thai những biến độ trong thân phận
con người: Từ một gã trai tráng, khỏe mạnh, lực lưỡng, gã bị chiến tranh cướp
hai con mắt thành kẻ tàn tật mù lòa. Gã bị tước những bài hát trong ký ức thành
kẻ không được quyền có trí nhớ... rồi hắn lại bị tự học những bài ca mới... Hiện
tượng tẩy xóa cứ tiệm tiến như thế trong con người gã, cho đến lúc gã không còn
dĩ vãng. Và đến khi gã đã hoàn toàn trắng tinh, hoàn toàn "sạch",
thành một con người mới, với bộ óc mới, không còn "đồi trụy", hắn trở
về ngõ hẻm cũ để trình làng bộ mặt mới toanh, tiếng kèn tự cải tạo của mình,
thì:
"Tất cả mọi người đều dồn mắt về phía gã và gã đã làm
xong đầy đủ lệ bộ của mình: Cười thật tươi với hai hàm răng trắng nhởn, rút chiếc
khăn tay đen đúa ra lau mồ hôi ở trán, ở cổ, rồi tới cây kèn đồng. Sau cùng gã
cầm cây kèn đưa lên miệng. Gã trịnh trọng dồn hết làn hơi của mình để cất lên bản
nhạc thứ nhất:
"Như có Bác Hồ trong ngày vui giải phóng"
Tiếng kèn của gã vừa rúc lên một câu đầu thì cả một làn sóng ồn
ào ở bốn phía bỗng nhiên ùa tới. Có tiếng huýt sáo. Có tiếng cười ồ lên chế nhạo.
Có cả tiếng nguyền rủa bằng những lời lẽ thô tục. Gã như một con bò mộng giữa đấu
trường đang tới tấp nhận lãnh đủ loại dáo nhọn ném vào mình. Gã chưa kịp ngân
lên theo đúng điệu thì tiếng kèn đã đột nhiên tịt ngẵng lại." (Tiếng
Kèn, trang 18)
Như vậy, tiếng kèn của gã mù hai lần tắt ngấm, trong hai cảnh
huống đối lập nhau. Tiếng kèn ấy dạo lên tiếng kêu của con người trước hai bờ
phân cực không sao cứu vãn được. Gã mù tiến không được và lui cũng không xong.
Gã tịt ngẫng. Không phải đi cải tạo, gã là kẻ đã ký giấy bán đứt dĩ vãng của
mình, đoạn tuyệt với tư tưởng, với kỷ niệm, để hướng về tương lai, hướng về những
hứa hẹn có-thể-ngày-mai sẽ sáng.
Nhưng bi kịch của gã mù là hắn đã trót ký tờ giấy xóa quá khứ,
mà hắn chưa hề biết tương lai là một thực thể như thế nào, có tin được
không? Tương lai, rồi sẽ có đấy, rồi sẽ đến đấy, nhưng tương lai chưa
bao giờ là một cái gì có thể nuôi sống con người, dù chỉ trong những giấc mơ, bởi
vì chưa ai biết tương lai mình nó sẽ như thế nào.
Gã mù đâu có ngờ cái tương lai gần nhất là lũ trẻ lại phỉ
phui gã, gã đâu có ngờ cái tương lai tức thời là bị ăn đá, ăn đòn trong ngõ hẻm?
Khi người ta đoạn tuyệt với quá khứ, thì người ta không còn điểm tựa để sống
trong hiện tại, và như thế khó có thể có một tương lai.
Tiếng Kèn thổi lên, xoáy sâu vào những bờ vực không lối
thoát của những con người bị tước đoạt quá khứ, của những người đi tước đoạt
quá khứ. Cả hai đều tuyệt vọng như nhau, vì không thể có hy vọng sản xuất ra
tương lai, nếu con người phủ nhận quá khứ của mình.
Paris 1987, 1998
Chú thích:
(1) năm 1987.
Tiếng Kèn của Nhật Tiến
Từ khi đọc Những Vì Sao Lạc, Thềm Hoang của Nhận
Tiến đến nay đã trên hai mươi năm. Mới đây (1), tôi tình cờ tìm được Tiếng
Kèn trong một hàng sách. Tiếng Kèn, tác phẩm thứ hai mươi của Nhật
Tiến là tập truyện ngắn viết tại trại tỵ nạn Songkhla, Thái Lan, và những ngày
đầu tiên trên đất Mỹ (1980-1981). Song những sách xuất bản bên Mỹ tới tay người
đọc bên Pháp là cả một hành trình, tuỳ theo hên xui, may rủi, có khi một vài
tháng, đôi lúc vài năm, rất có thể không bao giờ.
Tiếng Kèn đến như một kỷ niệm cũ, lưu lạc từ lâu, có lẽ
vì hình ảnh Thềm Hoang trong tôi chưa bao giờ phai lạt.
Tiếng Kèn kể lại đời sống tầm thường của người dân miền
Nam, sau ngày đổi chủ. Nhưng từ những tầm thường đó, xới lên, bốc lên bao nhiêu
hơi hướm bất thường, trụ lại những hồ hỡi xót xa, lây lất những thế đứng trật
đường của những con người gọi là vừa-được-giải-phóng. Mười một mẩu đời tầm thường,
đôi khi tuyệt vọng, đôi khi tan tác, đôi khi cười ra nước mắt, nhưng đã nói lên
biết bao sự thực không tên tuổi, phô bày những lộ trình không lối thoát của con
người.
Những lời biện bạch nhăn nhở của một gã mù để gỡ cái "tội"
thổi nhạc "lãng mạn" của mình hực lên tử khí vực thẳm chôn những con
người bị "cướp đoạt dĩ vãng", mất bản quyền tư tưởng.
Dưới vực ấy, chúng ta lại chới với bắt được đôi chút
"khoái trá" tạm thời, cái "ranh vặt" của một bà già
"gân" muốn "phá chơi" chiếc máy phóng thanh phường. Chừng
nó hỏng thật, bà Năm tưng hửng:
"Gặp chuyến ngon lành (bán củi, nước mắm ngoài tiêu chuẩn
v.v...) tổ cha chúng nó cái miệng êm rơ, hổng thèm nói với ai một tiếng để dễ bề
tẩu tán. Hỏi đến nơi đến chốn thì chúng nó lại khai bị cái loa hư." (Ước
Vọng Của Bà Năm trong tập Tiếng Kèn, NXB Văn Học, Hoa Kỳ 1982, trang 97)
Rồi chất phi lý trào tiếu, tiết ra từ những kiếp người đã một
thời là anh hùng dân tộc (Chuyến Tàu Ngày Cuối Năm). Cái cười ở đây là cái cười
chết yểu, chưa ra khỏi miệng đã tắt ngấm. Không đóng khố, tất cả bi kịch của
con người, của chế độ trần truồng hiện ra.
Nồi Cháo Thịt là một truyện rất buồn, đưa người đọc vào
tận cùng biên giới giữa trần gian và cõi chết; cái "thảm" này đến một
cách tự nhiên, không kịch chút nào. Nó đến như hai giọt nước mắt đọng mí đã
lâu, từ từ lăn trên má, âm thầm, thấm thía, lặng lẽ như đoạn kết câu chuyện.
Ám khí lại hiện về, lởn vởn, chập chờn trong Chiếc Áo
Tây Vàng. Từ sự lợm giọng, buồn nôn của người thiếu nữ vô tình cuốc phải con
cóc một nhát chết tươi, đến cái nghề hắc ám nàng làm, tất cả đều chưa lấy gì
làm quái đản: cái quái đản nằm trong lời khai của nàng trước tòa án, nhờ đó mà
nàng được trả tự do.
Chúng ta đã lạc bước quá sâu vào thế giới tuyệt vọng của những
kiếp người: Từ gã thổi kèn dạo mù lòa bị cưỡng đoạt dĩ vãng ở trong Nam, đến cô
gái hành nghề đào mả kỳ dị ở chợ trời ngoài Bắc, đâu là ranh giới phân chia hai
miền, đâu là địa phận ngăn cách âm ty và trần thế?
Dù có những đoạn có thể là còn chưa thực nhuần nhuyễn, còn có
thể được viết kỹ hơn, đối với một ngòi bút như Nhật Tiến, nhưng Tiếng Kèn vẫn
là một tác phẩm giá trị, nói lên sự thực của một thời kỳ và sự thống khổ của
con người trong thời kỳ ấy: Thời kỳ đất nước vừa hợp nhất nhưng ranh giới lại
rõ nhất. Tiếng Kèn xóa ranh giới tinh thần giữa hai miền Nam Bắc, giữa
những kiếp người: Người lính cộng hòa trốn trại cải tạo "gặp" người
lính nhân dân đào ngũ từ chiến trường Campuchia; người vợ đại úy ngụy cùng đường,
cho các con ăn nồi cháo thịt bỏ thuốc độc trong Nam "gặp" cô gái đào
mả, ăn cắp áo người chết, đem bán chợ trời ngoài Bắc. Tất cả xáo trộn trong môi
trường cười khóc của kẻ thắng, người thua. Tất cả đều mất dĩ vãng, cho nên
không có hiện tại, nói gì đến tương lai! Tất cả đều lang thang như tiếng kèn của
gã mù, lạc lõng, không có người nghe, trổi lên rồi âm thầm rớt xuống trong đêm
như những giọt sương tuyệt vọng.
Tiếng Kèn trung thành với tâm thức xã hội của một nhà
văn mà tên tuổi đã gắn bó với những định mệnh lạc loài, ngay từ những tác phẩm
đầu tay như Những Người Áo Trắng, Những Vì Sao Lạc...
Tiếng Kèn là một tác phẩm chứng nhân không khí buổi giao
thời dưới ngòi bút một nhà văn đích thực. Hình ảnh lão mù trong Tiếng Kèn phản
ảnh một cách khôi hài đớn đau hiện tượng xóa bỏ con người trong "giải
phóng". Tập truyện mở ra trước chân dung gã mù thổi kèn trong ngõ hẻm. Nhật
Tiến viết:
"Gã có vóc dáng của một tay đô vật nhà nghề. Ðôi vai như
vai gấu. Hai cánh tay thật dài [...] vầng trán rộng và phẳng. Cả khuôn mặt
vuông chữ điền của gã như bị nuốt bởi đôi kính đen gắn trên cái gọng đồi mồi giả.
Gã mù. [...] Hình như ngày trước gã đã đi lính. Hình như gã đã bị hỏng mắt sau
một cuộc hành quân. Hình như vợ gã đã bỏ [...]
Gã lau cây kèn thật lâu. Thời gian lâu lắc đó vừa đủ để cho
trẻ con trong xóm bu đen lại. Gã nhếch miệng cười. Hai hàm răng nhe ra trắng nhởn.
Lần này nụ cười của gã tươi rói. Gã biết mình đang được tiếp đón một cách nồng
nhiệt. Rồi gã nâng cây kèn bằng cả hai tay. Cặp môi dầy tụp của gã chụm lại, đặt
vào ống thổi, chúm chím một cách điệu nghệ, kiểu cách. Rồi hai má của gã phùng
to lên. Gã dồn tất cả làn hơi phong phú của mình vào đó [...] Bài Lòng Mẹ qua
điệu nghệ của hắn, nghe rền rĩ như một lời than van [...] Gã dồn thêm hơi sức
vào cây kèn. Hai hàm của gã bạnh thêm ra. Những hàng gân ở cổ căng lên như những
mối dây chằng chịt. Mười ngón tay của gã như múa trên hàng nút đồng [...]
Từ bài Lòng Mẹ, gã chuyển sang bài Xuất Quân. Hết bài Xuất
Quân gã quay về chơi nhạc cổ điển với bài Thiên Thai, bài Bến Cũ, rồi hứng chí,
gã quay ra thổi nhạc Tây, nhạc Mỹ với những bài như Cầu Sông Kwai, Que Sera
Sera...
Nhưng đúng vào cái lúc gã đang gân cổ thổi theo lối "vài
hàng gởi anh trìu mến, vừa rồi nàng mới được tin..." thì bỗng một bàn tay
khô khan nắm cứng lấy bờ vai của gã. Gã hốt hoảng quay đầu lại. Tiếng kèn của
gã đang lên một nốt cao bỗng oằn xuống rồi tắt ngấm [...]
- Công an khu vực đây! Ði theo tôi!
(Tiếng Kèn, trang 11)
Trên đây là trích đoạn mở đầu truyện ngắn Tiếng Kèn. Cuộc
phiêu lưu của gã mù cứ thế tiếp tục, mặc dù bà con bênh gã nhưng gã cũng ngoan
ngoãn theo công an về trụ sở khóm. Rồi những biện bạch nhăn nhở của gã mù để gỡ
cái tội thổi nhạc "đồi trụy" của mình, đại loại: "Hì hì,
thưa đồng chí, em mù, em đâu có nợ máu gì!". Hoặc hắn xuống nước nữa:
"Trăm lạy các đồng chí, cháu là nghệ sĩ, cháu có biết chính trị chính em
gì đâu."
Cuối cùng gã cũng được hưởng khoan hồng, gã được thả, sau khi
phải ký cái giấy cam đoan từ nay xin chừa, không được thổi nhạc ngụy nữa.
Hình ảnh gã mù đột nhập chúng ta không gõ cửa: cái cặp môi
dày tụp ấy, cái lý luận cù nhầy ấy, nụ cười cầu tài ấy... Rồi đến những bản nhạc
tiền chiến, "đồi trụy" như Thiên Thai, Xuất Quân, Bến Cũ... hắn thổi.
Ngay cả đến miếng bánh mì hắn ăn chung với con chó, nhân vật duy nhất thông cảm
và chia xẻ tâm sự với hắn trong những đêm tối âm u giữa thanh thiên bạch nhật
triền miên của hắn. Tất cả báo hiệu và bắc cầu mối tương quan chênh vênh giữa
sáng và tối. Giữa thua và được, giữa "ngụy" và "ta". Tất cả
phản ánh cái bi - hài của những kẻ bị phải quên dĩ vãng, bị phải đánh
mất dĩ vãng, bị phải gột rửa trong phút chốc tất cả những gì tàng trữ
trong đầu từ nhỏ, và bị phải tiếp thu cái mới, lập tức và toàn diện: Cái bi hài
của những kẻ bị được "giải phóng", nằm gọn trong vài câu nói lém lỉnh,
liến thoắng của gã mù để gỡ tội thổi kèn:
"Chèn ôi! Bài hay của cách mạng em có nghe chớ. Mà điều
em có sol pha sol pheng gì đâu. Em phải nghe lâu riết rồi mới thuộc. Thuộc rồi
mỗi lần mò ra nốt nhạc, có nốt nhạc rồi mới lên bổng xuống trầm, mới lôi cuốn
được bà con. Em cũng đang tập đó. Em thích nhất bài Tiếng Chầy trên sóc
Bombo..." (Tiếng Kèn, trang 14)
Sự chao đảo từ bi sang hài, từ hài sang bi rất chớp nhoáng.
Và cũng chỉ trong khoảnh khắc ngôn ngữ, thoát thai những biến độ trong thân phận
con người: Từ một gã trai tráng, khỏe mạnh, lực lưỡng, gã bị chiến tranh cướp
hai con mắt thành kẻ tàn tật mù lòa. Gã bị tước những bài hát trong ký ức thành
kẻ không được quyền có trí nhớ... rồi hắn lại bị tự học những bài ca mới... Hiện
tượng tẩy xóa cứ tiệm tiến như thế trong con người gã, cho đến lúc gã không còn
dĩ vãng. Và đến khi gã đã hoàn toàn trắng tinh, hoàn toàn "sạch",
thành một con người mới, với bộ óc mới, không còn "đồi trụy", hắn trở
về ngõ hẻm cũ để trình làng bộ mặt mới toanh, tiếng kèn tự cải tạo của mình,
thì:
"Tất cả mọi người đều dồn mắt về phía gã và gã đã làm
xong đầy đủ lệ bộ của mình: Cười thật tươi với hai hàm răng trắng nhởn, rút chiếc
khăn tay đen đúa ra lau mồ hôi ở trán, ở cổ, rồi tới cây kèn đồng. Sau cùng gã
cầm cây kèn đưa lên miệng. Gã trịnh trọng dồn hết làn hơi của mình để cất lên bản
nhạc thứ nhất:
"Như có Bác Hồ trong ngày vui giải phóng"
Tiếng kèn của gã vừa rúc lên một câu đầu thì cả một làn sóng ồn
ào ở bốn phía bỗng nhiên ùa tới. Có tiếng huýt sáo. Có tiếng cười ồ lên chế nhạo.
Có cả tiếng nguyền rủa bằng những lời lẽ thô tục. Gã như một con bò mộng giữa đấu
trường đang tới tấp nhận lãnh đủ loại dáo nhọn ném vào mình. Gã chưa kịp ngân
lên theo đúng điệu thì tiếng kèn đã đột nhiên tịt ngẵng lại." (Tiếng
Kèn, trang 18)
Như vậy, tiếng kèn của gã mù hai lần tắt ngấm, trong hai cảnh
huống đối lập nhau. Tiếng kèn ấy dạo lên tiếng kêu của con người trước hai bờ
phân cực không sao cứu vãn được. Gã mù tiến không được và lui cũng không xong.
Gã tịt ngẫng. Không phải đi cải tạo, gã là kẻ đã ký giấy bán đứt dĩ vãng của
mình, đoạn tuyệt với tư tưởng, với kỷ niệm, để hướng về tương lai, hướng về những
hứa hẹn có-thể-ngày-mai sẽ sáng.
Nhưng bi kịch của gã mù là hắn đã trót ký tờ giấy xóa quá khứ,
mà hắn chưa hề biết tương lai là một thực thể như thế nào, có tin được
không? Tương lai, rồi sẽ có đấy, rồi sẽ đến đấy, nhưng tương lai chưa
bao giờ là một cái gì có thể nuôi sống con người, dù chỉ trong những giấc mơ, bởi
vì chưa ai biết tương lai mình nó sẽ như thế nào.
Gã mù đâu có ngờ cái tương lai gần nhất là lũ trẻ lại phỉ
phui gã, gã đâu có ngờ cái tương lai tức thời là bị ăn đá, ăn đòn trong ngõ hẻm?
Khi người ta đoạn tuyệt với quá khứ, thì người ta không còn điểm tựa để sống
trong hiện tại, và như thế khó có thể có một tương lai.
Tiếng Kèn thổi lên, xoáy sâu vào những bờ vực không lối
thoát của những con người bị tước đoạt quá khứ, của những người đi tước đoạt
quá khứ. Cả hai đều tuyệt vọng như nhau, vì không thể có hy vọng sản xuất ra
tương lai, nếu con người phủ nhận quá khứ của mình.
Paris 1987, 1998
Chú thích:
(1) Năm 1987.
Nguyên Sa (1932-1998)
Những năm 54-60, miền Nam chào cờ phải hát bài Suy Tôn
Ngô Tổng Thống, miền Bắc phải học thơ Bác Hồ, thì ở sân trường miền Nam, học
trò tình tự với nhau bằng thơ Nguyên Sa. Cái khác nhau giữa nhà nước và nhà thơ
là ở chỗ ấy: Một bên, người ta phải hát, phải học. Một bên khơi khơi
đi vào lòng người, không thông hành, không gõ cửa và khi đã đột nhập vào rồi
thì dù có tẩy não nó cũng chẳng đi.
Áo Lụa Hà Ðông, Cần Thiết, Tuổi Mười Ba, Paris Có Gì Lạ Không
Em... những bài thơ Nguyên Sa đã đi vào giới trẻ miền Nam những năm 60 và ở
lại trong lòng người như thế:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở xung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Bầy vội vã vào trong hồn mở cửa.
Gặp một bữa anh mừng một bữa
Gặp hai hôm thành nhị hỷ của tâm hồn
Thơ học trò anh chép lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu.
Em không nói đã nghe từng giai điệu
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình
Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt.
Em chợt đến, chợt đi anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Ðể anh gọi tiếng thơ buồn vọng lại.
Ðể anh giận mắt anh nhìn vụng dại
Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
Em đi rồi xám hối chạy trên môi
Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng.
Em ở đâu hỡi mùa thu tóc ngắn
Giữ hộ anh mầu áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.
(Áo lụa Hà Ðông)
Nguyên Sa thuộc lớp người muốn canh tân văn học. Cuối thập
niên 50, ở Pháp về, hành trang nặng gánh Sartre, Camus, ông dạy triết học trong
những lớp luyện thi tú tài, thời ấy gọi là cua riêng. Cua riêng của
thầy Trần Bích Lan lúc nào cũng đông nghẹt học trò. Triết học, nơi ông, là triết
học xuống đường, thực dụng, triết học bình dân, dễ hiểu, hợp với tạng học trò.
Trong lớp, dù là giờ Tâm lý, Ðạo đức hay Triết học hiện sinh, học trò không thể
ngủ gật vì những bản thể, những siêu hình, những hư vô, những phương pháp luận...
lọc qua lăng kính Trần Bích Lan, đã trở thành những tiếng cười châm biếm Tú
Xương... những câu hát đối hóm hỉnh Cầu Lim, Nội Duệ..., Trần Bích Lan đến với
tuổi trẻ qua ngả học đường bằng hình ảnh người thầy Tây học, hiện sinh, tài hoa
và thơ mộng.
Rồi Thơ Nguyên Sa ra đời. Ra đời trong bối cảnh Mai
Thảo giã từ Hà Nội, Vũ Thành mơ giấc mơ hồi hương, Thanh Tâm Tuyền không
còn cô độc, Cung Trầm Tưởng, Phạm Duy hát tiễn em giữa mùa thu Paris. Vũ
Khắc Khoan mộng thấy thần tháp rùa. Nhật Tiến bước vào thềm hoang. Vũ
Bằng nhớ miếng ngon Hà Nội. Bình Nguyên Lộc ký thác cho đò
dọc. Võ Phiến viết chữ tình. Nguyễn Văn Trung đang nhận định, Vũ
Hoàng Chương mang tâm sự kẻ sang Tần. Ðinh Hùng lạc trong mê hồn ca...
Hồi ấy, như Nguyên Sa kêu gọi: Chúng ta -tức là những người bạn
của ông- không hô hào đổi mới suông. "Chúng ta" phải đánh đổ những
người đi trước bằng tác phẩm văn học. "Chúng tôi" muốn đổi mới
văn học, tác phẩm của chúng tôi đây, các anh đọc xem có được không? Trước những
xông xáo xuống đường của Sáng Tạo, Nhất Linh lên suối Ða Mê tu tiên, Vũ
Hoàng Chương khề khà Kinh Kha hề Kinh Kha và Ðinh Hùng miệt mài
trên đường vào tình sử, Nguyên Sa hóm hỉnh ném vào sân trường trung và đại
học, những hình ảnh bất ngờ:
Hôm nay Nga buồn như con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Ðôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Ðể anh giận sao chả là nước biển.
(Nga)
Và học trò yêu ngay, chấp nhận ngay. Họ dấu thơ Nguyên Sa
trong áo, họ tán nhau bằng thơ Nguyên Sa. Nhưng học sinh, sinh viên không phải
là một giai cấp. Ðời sinh viên chỉ có một thời. Ðời sinh viên sẽ chấm dứt như
tuổi trẻ. Vậy mà thơ Nguyên Sa ở lại. Tại sao? Bởi vì nó đã tạo được một mốc thời
đại.
Nguyên Sa không đổi mới vần điệu. Cũng không làm thơ tự do.
Ông vẫn dùng vần điệu của thơ tiền chiến. Thơ ông cũng không sâu sắc gì, ông
nói trực tiếp, không ngụ ý hàm ngôn. Ông trải ẩn dụ ra để chúng trở về với thực
tế so sánh, đơn giản và dễ hiểu như nói với học trò. Tóm lại, ông đi thẳng vào
câu chuyện yêu đương, ở chỗ con trai còn rụt rè chưa dám tán, ông nói phắt hộ:
Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa.
(Cần thiết)
Cái tình ở đây là tình học trò, bồ bịch, Tây gọi là copain,
copine, hơn là tình yêu da diết, say đắm, "trưởng thành" trong thơ
Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử... Thơ Nguyên Sa dò dẫm, vụng về như tuổi trẻ vào đời:
Chân díu bước mà mắt nhìn vương vướng
Nàng đến gần tôi chỉ dám quay đi
Cả những giờ bên lớp học trường thi
Tà áo khuất thì thầm chưa phải lúc.
(Tuổi mười ba)Nhưng thơ Nguyên Sa cần thiết và trực tiếp cho thời mới lớn.
Cần thiết và trực tiếp cho giai đoạn đổi mới.
Cần thiết vì ở một thời điểm mới, nếu muốn hạ bệ quá khứ
tiền chiến của các bậc đàn anh, không lẽ lại vẫn nhai đi nhai lại một hình ảnh người
em sầu mộng của Lưu Trọng Lư đã cũ mèm. Mà phải tạo ra một nàng thơ mới, mốt
hơn, điệu hơn. Nàng thơ này không thể tìm thấy trong "Liên, đêm mặt
trời tìm thấy" của Thanh Tâm Tuyền với những ý thức chạy ngược trong
tiềm thức hoang loạn, học trò không hiểu gì cả.
Cũng không thể là "người em" tóc vàng xứ tuyết lên
xe tiễn em đi chưa bao giờ buồn thế của Cung Trầm Tưởng. Người em không thể
đầm đặc như thế.
Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến không tạo được các người em Biên
Hòa, Bình Ðịnh, vì họ không sành thơ.
Nguyên Sa đã tạo được một mẫu người em lý tưởng: người
em Bắc Kỳ tóc ngắn, mặc áo lụa Hà Ðông và người em này đã tức khắc thay thế người
em ngồi bên cửa sổ của Lưu Trọng Lư trong tư thế văn học và trong lòng người.
Em bây giờ -tức là em những năm 60- phải là em Bắc kỳ di
cư. Sau này Nguyễn Tất Nhiên có cóp lại mẫu người em của Nguyên Sa,
nhưng hơi muộn. Thời Nguyễn Tất Nhiên, các "em Bắc kỳ di cư" tóc đã
điểm sương rồi. Văn học hải ngoại chưa có "người em". Chả biết "người
em Linda mặt ngang" của Ðỗ Kh. rồi có trở thành "người em hải
ngoại" chăng?
Sự thành công của mẫu hình người em tóc ngắn, áo lụa Hà
Ðông, buồn như con chó đói, như con mèo ngái ngủ của Nguyên Sa không phải
là chuyện đùa, nó phản ánh tính cách áp đảo của văn học di cư ở miền
Nam, những năm chia đôi đất nước.
Người Bắc di cư, mang theo mỗi người một hình ảnh Hà Nội
trong lòng, vào hội họa, thi ca, tiểu thuyết... Những tên tuổi như Nguyễn Gia
Trí, Tạ Tỵ, Thái Tuấn, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Nhật Tiến, Mặc
Ðỗ, Mặc Thu, Vũ Khắc Khoan, Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Cung Trầm Tưởng... thời
54-60 vẫn còn chưa rũ được hơi hướng Hà Nội của họ. Duy nhất, có Phạm Duy, và
cùng lắm Phạm Ðình Chương, vượt trên tính địa phương, làng xóm để tìm đến với tất
cả mọi miền, ngay trong những ngày đầu của thời kỳ chia đôi đất nước bằng Tình
Ca, Tình Hoài Hương, Con Ðường Cái Quan, Mẹ Việt Nam, Hội Trùng Dương...
Cho nên, sự thành công của Nguyên Sa là đã vẽ được một người
em mới, điển hình cho một thế hệ tình yêu mới, một giai đoạn văn hóa tư tưởng
mới.
Sau này khi sang Mỹ, Nguyên Sa cho xuất bản tập Thơ
Nguyên Sa II, mượt mà hơn, đầy nhục cảm và đớn đau hơn:
Anh nắm tay cho chặt tiếng đàn
Tiếng mềm hơi thở, tiếng thơm ngoan
Khi nghe tiếng lạnh vào da thịt
Nhớ tiếng thơ về có tiếng em.
(Em gầy như liễu trong thơ cổ)
Nhưng thơ ông không còn được mọi người chú ý đến nữa. Thơ ông
đã trở thành cổ điển. Ngày trước ông mở đường, bây giờ ông đoạn hậu. Ðoạn
hậu cho một giai đoạn khó khăn, giai đoạn mà những người cũ đã lần lượt ra đi
và lớp người mới chưa thật sự thành hình.
Nguyên Sa, một bông hồng cho văn nghệ
Những suy tưởng về sáng tạo, về sự hình thành một tác phẩm
nghệ thuật, về khái niệm thẩm mỹ học... ít thấy xuất hiện trong văn học Việt
Nam. Có lẽ đó là lý do khiến Nguyên Sa viết Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ năm
1967. Ðây là một trong những tác phẩm hiếm hoi có tính cách triết học thực dụng
trong đời sống tư tưởng và văn nghệ.
Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ đối với Nguyên Sa tương tự
như Viết Và Ðọc Tiểu Thuyết đối với Nhất Linh. Cả hai đều tóm lược những
kinh nghiệm và suy tưởng của người cầm bút, sau một thời kỳ sống và sáng tác.
Nhất Linh chủ yếu nghiêng về kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết mà
Thạch Lam đã có lần đề cập đến trong Xuôi Dòng; Nguyên Sa mổ xẻ vấn đề suy
tưởng trong sáng tác nghệ thuật. Nguyên Sa đi từ: 1- tình cảnh nhà
văn Việt Nam những năm năm mươi, sáu mươi, để 2- tìm chỗ đứng của văn
học nghệ thuật Việt Nam trong tình thế hiện đại, để 3- bầy tỏ về sự
giàu có và nghèo nàn của văn học nghệ thuật ta, để 4- đào sâu nỗi cần
thiết suy tưởng về nghệ thuật, ngõ hầu 5- nhìn kỹ về ý thức và nghệ
thuật, và 6- sự sáng tạo đề tài về 7- khái niệm thẩm mỹ học.
Những suy nghiệm đó bắt nguồn từ nhận thức về sự cô đơn.
Sự cô đơn của thế hệ năm mươi, sáu mươi, thế hệ Nguyên Sa, mà ông gọi là
"sự cô đơn của thế hệ không có đàn anh". Ðây không phải là sự cô đơn
trừu tượng, nhập tâm nhập tủy của người cầm bút trước trang giấy trắng mà các
triết gia chuyên nghiệp hay bàn đến. Ðây là cái cô đơn hiện thực, sờ mó được,
những thiếu vắng, mất mát, ly tán, kiệt quệ của thế hệ làm văn nghệ sau ngày
chia đôi đất nước. Nguyên Sa viết:
"Chúng ta bước vào một ngôi nhà trống rỗng, một khu vườn
bỏ hoang, một vũ trụ không người, chẳng có ai trước mặt thật. [...] Bọn họ đâu
cả rồi? [...] Chiến tranh đã trổ ra trăm cánh tay móng nhọn trăm đầu miệng rộng
răng to để cướp mất người này bằng cánh tay vũ khí, xóa mất người kia bằng hàm
răng chính trị. Người bị thủ tiêu, Khái Hưng đấy. Người phiêu bạt rừng núi, ở
quê người chẳng về, đứng lại tê liệt ở bên kia vĩ tuyến, lặng lẽ rút khỏi thế
giới văn nghệ hoặc khoác lên vai chiếc áo chính ủy như những tác giả Lửa
Thiêng, Vang Bóng Một Thời, Gửi Hương Cho Gió. Mất cả, mất cả. [...]
Các anh hãy tưởng tượng tác giả Ðoạn Tuyệt đứng giữa bìa báo
bao bọc bởi những Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Ðạo, Xuân Diệu, Huy Cận, Hồ Dzếnh,
Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Nguyễn Tuân thì khuôn mặt văn nghệ những năm Năm
Mươi, Sáu Mươi sẽ khác đi không biết thế nào. Các anh thử nghĩ đi."
(Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ, NXB Ðời, California in lại,
không đề năm, trang 18-19-20)
Người đi sau, không có người đi trước để cản đường. Nguyên
Sa đã nhận thấy sự trống rỗng ấy rất sớm. Trước những bài báo đả kích Tự Lực
Văn Ðoàn, Nhất Linh không nói gì. Ðinh Hùng, Vũ Hoàng Chương im lặng. Lớp đàn
anh còn lại, đây một người, kia một người, đã "không hợp thành một lớp
người" để đòi hỏi "chúng tôi" phải tận lực chống, phải vượt
qua hay xin gia nhập họ. "Chúng tôi" đã phải "múa gậy trong
khoảng không", đã phải "đối thoại với chính mình", phản
kháng chính mình, không biết là mình đã tìm ra được "những miếng võ
ghê gớm" hay là chỉ "múa may hỗn loạn".
Thế hệ năm mươi, sáu mươi, ngoài cái cô đơn siêu hình của người
cầm bút còn thêm cái cô đơn hiện thực của một dân tộc nghèo đói, ly tán chiến
tranh. "Nhà văn, nhà thơ chỉ có số phận mà dân tộc nó có".
Những trống rỗng mà Nguyên Sa nhận thấy ở thế hệ ông vẫn còn
kéo dài cho đến bây giờ. Nỗi cô đơn này, người cầm bút hiện nay ở trong cũng
như ngoài nước, đều gặp phải, như một cái rớp. Thế hệ nhà văn hôm nay vẫn đứng
trước một trống vắng, một thực tại không có đàn anh hoặc đàn anh còn sống mà kể
như không có, họ không còn là một lực lượng văn học đáng kể, không còn là những
lực cản đường để kẻ đi sau có thể phản kháng, đạp đổ mà xông tới những cái
khác, hoặc cổ võ họ để xin gia nhập họ. Ðàn anh của thế hệ hôm nay cũng bị dập
vùi trong trận chiến rồi trong hòa bình di tản, trong những chiến dịch luân lưu
trói, cởi, cởi, trói văn nghệ.
Sự cô đơn của thế hệ hôm nay vẫn còn dai dẳng, vẫn còn
"nhập cuộc". Sự cô đơn này nằm trong khối cô đơn khổng lồ, bao trùm
toàn diện những người cầm bút nhược tiểu.
Ðã biết bao lần những người làm văn nghệ Việt Nam tự hỏi: Tại
sao văn nghệ chúng ta khựng lại? Chúng ta không thật sự bằng lòng với nền văn học
hiện đại của mình, nền văn nghệ này phải tự kiểm và tìm ra những cần thiết để
tiến bộ. Nguyên Sa cũng như những người làm văn nghệ thông thạo tình hình văn học
thế giới, biết rõ hơn ai hết, là dù nền văn nghệ Việt Nam còn có những chỗ chưa
hoàn hảo, chưa thật sự đáp ứng lòng mong muốn của mọi người, nhưng với những kết
quả đã thu lượm được của những người đi trước, với những tác phẩm văn học của
thế kỷ XVIII, XIX, XX, văn học Việt Nam, từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Gia Thiều, Ðặng Trần Côn, Tản Ðà, Nguyễn Khuyến... đến văn học tiền chiến, văn
học trong thời kỳ chia đôi đất nước và cả hiện tại bây giờ, với những thành tựu
tác phẩm đã đạt được, văn học Việt Nam có thể ngẩng đầu. Chúng ta không có gì hổ
thẹn cả. Nhưng tại sao văn học ta vẫn phải đứng hàng ghế chót của đại sảnh,
đứng chỗ chầu rìa trong khung cảnh văn học thế giới? Tại sao? Tại
sao?
Bởi đúng như lời Nguyên Sa viết, nhà văn, nhà thơ chỉ có
chỗ đứng mà dân tộc nó có (trang 37), chỗ đứng của một dân tộc nhược tiểu,
nghèo đói, chiến tranh, tan rã.
Ở thời Nguyên Sa viết Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ mọi
người xôn xao hỏi nhau: Sách của ai sắp được dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp?
Nghe nói người này sắp được dịch, người kia sắp được dịch? Nhưng rồi cuối cùng
vẫn trơ ra một vài tên sách, một vài địa chỉ xuất bản. Nghe nói Nhất Linh, nghe
nói Vũ Hoàng Chương... sắp được dịch nhưng không thấy, không chắc gì cả. Kiều
và Chinh Phụ Ngâm có được dịch ra Pháp ngữ với tư cách tài liệu sưu tầm. Nguyên
Sa viết:"Giới văn học nghệ thuật Pháp Anh không bàn đến Nguyễn
Du như ta bàn đến Victor Hugo hay Lamartine, Byron hay Keats. Nghĩa là ngay khi
được phiên dịch, tác phẩm của văn học nghệ thuật ta vẫn đứng ở cái chỗ khốn nạn
ấy: hàng ghế chót của đại sảnh, chỗ chầu rìa trong thiên đường của anh thánh
đàn em mà cả các thánh đàn anh, cả Thượng Ðế, nếu có, đều không biết tên, không
biết mặt. [...]Sartre có thể hoặc đã làm, hoặc muốn làm cái việc đọc Dos
Passos bằng Anh ngữ. Evtouchenko có thể đã thử đọc Eluard nguyên tác, nhưng có
nhiều hy vọng họ không biết đến Nguyễn Du và cũng chẳng bao giờ nẩy ra ý muốn,
dù chỉ là ý muốn, đọc các nhà văn nhà thơ ta qua nguyên tác.Các người làm văn học nghệ thuật Tây phương này chắc chắn
không có một quan niệm kỳ thị. Vả lại họ có thể biện bạch: Không thể học hết mọi
thứ tiếng để đọc văn của mỗi nước. Tôi cũng chẳng nghĩ như thế bao giờ. Nhưng đấy,
tôi chỉ muốn nói đến một sự thực đơn giản này: Chỗ đứng sáng chói của Tây
phương trên thế giới ngày nay, Tây phương Mỹ cũng như Nga, Anh cũng như Pháp,
đã mang lại cho văn học nghệ thuật của họ cái chỗ đứng sáng chói. Và trong vùng
sáng chói lòa đó, dù không chủ trương ý thức và hữu ý, các nhà văn học nghệ thuật
Tây phương vẫn bị lóa mắt, không còn nhìn thấy trong vùng bóng tối, do đó chỗ đứng
của văn học nghệ thuật các nước nhỏ, đã hoặc đang bị trị, nghèo đói, trong đó
có ta, đã bị lệch lạc vì chỗ đứng của quốc gia, lại càng bị lu mờ hơn nữa vì
khuynh hướng kỳ thị vô thức."(Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ, trang 51, 64 và 65)Tất cả những điều Nguyên Sa nói trên đây vẫn còn đúng, vẫn
còn đang xẩy ra bây giờ.Có thể bây giờ người ta tìm dịch các tác phẩm Việt Nam nhiều
hơn năm 67, nhưng chúng ta đừng vội mừng. Tìm dịch để thỏa mãn nhu cầu
exotisme, để chứng tỏ sự mở cửa của văn minh Tây phương, để thỏa mãn niềm tự
tôn dân chủ, nâng đỡ những tác giả dissident, hơn là tìm dịch vì muốn thật sự
tìm hiểu văn hóa Việt Nam, tìm hiểu văn hóa của một nước "nhược tiểu".Bản dịch tiếng Anh của Nỗi Buồn Chiến Tranh, nghe đâu bán rất
chạy, nhưng nếu so với nguyên tác, nghe đâu cũng lại rất đáng buồn. Hiện nay ở
Pháp có những nhà xuất bản chạy về Việt Nam, tìm cách ký những giao kèo rất rẻ
với các tác giả, và tìm người dịch vội vàng, cũng rất rẻ, để về Pháp, họ nhờ
người Pháp viết lại bằng thứ tiếng Pháp gẫy gọn. Sách bán được. Sống được. Nghề
buôn bán văn nghệ nhược tiểu này khá thịnh hành. Khởi sắc. Sống được. Niềm cay
đắng là chính các nạn nhân "được dịch" vẫn tin tưởng ở cái hào quang
"được dịch" mà không có phương tiện để kiểm chứng cái sự dịch kia nó
đã xẩy ra như thế nào. Khuynh hướng kỳ thị vô thức của những người làm văn nghệ
Tây phương mà Nguyên Sa đề cập đến năm 67, nay trở thành một khuynh hướng trao
đổi, thành sự cởi mở, giao lưu mang lại rất nhiều lợi điểm xã hội, chính trị,
tiếc rằng những lợi điểm này không dành cho văn học.Nếu chúng ta nhìn rộng ra đến những cuộc hội thảo quốc tế Việt
học, chúng vẫn xẩy ra bằng tiếng Pháp, tiếng Anh một cách tự nhiên mà người được
mời cũng như người tổ chức không thấy một trở ngại gì. Người duy nhất phản đối
việc tiếng Việt không được sử dụng ở các hội nghị quốc tế Việt học hiện nay là
giáo sư Nguyễn Văn Trung, còn tất thẩy giới trí thức Việt Nam, trong cũng như
ngoài nước, tham dự hội nghị đều mũ ni che tai, hồ hỡi chấp nhận mà không thấy
có ý kiến phản đối nào cụ thể (1).Từ nhận thức Nguyễn Du phải có chỗ đứng bên cạnh Shakespeare,
Dante, Hugo, Nguyên Sa nói đến "ý thức tìm hiểu sự thất bại" và ông
phân tích những cái nghèo nàn trong văn học nghệ thuật Việt Nam. Theo ông, cái
nghèo khổ thứ nhất của văn học Việt Nam là sự thiếu suy tưởng quy mô
về nghệ thuật, thiếu quan điểm về nghệ thuật, về bản chất nghệ thuật, bản chất
sáng tác.Một thái độ chấp nhận quá dễ dãi, sự biến chế vội vàng, đôi
khi vụng về những quan điểm văn học nghệ thuật thế giới, hay ngược lại, không
biết đến những quan điểm này, hoặc biết rồi mô phỏng, bắt chước một cách thô
thiển, hoặc không biết gì cả, cả ba thái độ đều nguy hiểm. Do đó, suy tưởng về
nghệ thuật, về sự sáng tạo đề tài, về khái niệm thẩm mỹ học là những yếu tố cần
thiết để đánh bại cái nghèo nàn trong văn học nghệ thuật của ta.Nguyễn Du đã nghĩ đến sự tương phản gay go giữa Tự Do và Ðịnh
Mệnh, đến ba trăm năm sau, đến tính chất "mua vui" của nghệ thuật. Tản
Ðà đã nghĩ đến đời đáng chán hay không đáng chán. Nguyễn Công Trứ đã nghĩ
đến chí nam nhi. Nguyễn Gia Thiều, Xuân Hương đã nghĩ đến thân phận của
người phụ nữ, Ðặng Trần Côn đến hậu quả của chiến tranh. Khái Hưng, Nhất Linh về
xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX... Tất cả những tác giả lớn của ta đều đã có những
suy tưởng về nghệ thuật, về nhân sinh nhưng chưa có ai hệ thống hóa những
ý thức đó thành những lý thuyết cơ bản về nghệ thuật để những người đi sau có
thể dùng được như ta dùng Sartre, Camus, Blanchot hay Breton, để những người đi
sau biết được yếu tính của cái đã có, biết cái mình đã có, rõ hơn, là
một cách để đừng đi lại lối mòn, để vượt qua hay để làm một cái gì khác họ.Chẳng hạn nếu chúng ta nắm rõ bản chất cái gọi là thơ mới,
thì có lẽ bây giờ chúng ta đã vượt xa nó từ lâu, để lập ra những cái khác nó,
chưa chắc là đã hay hơn nó, nhưng chắc chắn phải khác nó.Nếu nói đến một chúc thư văn học của người mới ra đi, thì
chúc thư của Nguyên Sa nằm ở những dòng sau đây:"Văn học nghệ thuật và dân tộc ta không dừng mãi ở chỗ
này. Và sự di chuyển, sự đổi thay đã bắt đầu ngay từ ý thức tàn nhẫn về thất bại.
Sự đổi thay của dân tộc sẽ mang lại sự di chuyển của văn học nghệ thuật. Ngược
lại, làm cho văn học nghệ thuật di chuyển, đổi mới, thoát xác trong thực chất
và sáng rõ trong chỗ đứng, chắc chắn sẽ là động lực có sức mạnh khỏe hơn cả
kinh tế, quân sự, chính trị, làm cho đất nước hồi sinh, dân tộc vạm vỡ, tổ quốc
bình phục."Paris, tháng 5/1998Chú thích:(1) Ðây là tình hình tháng 5/98. Về sau có thay đổi. Có thể
vì ý kiến của giáo sư Nguyễn Văn Trung đã được nghe chăng? Cho nên trong các cuộc
hội thảo quốc tế về Việt học người ta đã lẻ tẻ dùng tiếng Việt.Marie Sến, Phạm Thị HoàiPhải thưa ngay với bạn đọc lạc quan hải ngoại rằng: Nếu ai bắt
được Marie Sến, chớ vội hồ hỡi, chào mừng rằng đây "đích thực" là
"văn chương hải ngoại", là tác phẩm chống cộng, "lột trần"
đời sống xã hội cộng sản không thương tiếc, còn "chúng ta" (tại ngoại)
vô can.Và đối với bạn đọc bi quan trong nước, chưa có dịp đọc Marie
Sến, mặc dù sách đã do Thanh Văn xuất bản tại Mỹ từ năm 1996, cũng không nên buồn,
rồi các bạn sẽ được đọc và biết đâu các bạn sẽ chẳng hết mình lên án Marie Sến
"bôi nhọ tổ tiên", "phỉ báng thánh hiền", "mạ lỵ dân tộc".Xin mách rằng: Marie Sến trật rầy quốc cộng, Marie Sến chừng
như cũng "không có tham vọng" nói xấu lèm bèm vụng về thô thiển bất cứ
ai, bất cứ cá nhân hay thành phần xã hội nào. Sến chỉ quên không viết mào đầu:
Nếu có giống một "mẫu hình thời đại" nào đó là "ngoài ý muốn của
tác giả" như người ta vẫn có lệ ghi như vậy ở trang đầu những tiểu thuyết
thời danh.Marie Sến là một tác phẩm quậy. Nó khuấy đục những môi trường
giả đò trong, lập nghiêm đạo đức, bằng ngôn ngữ "cách tân" rất mốt,
thứ ngôn ngữ sống động, lai căng; với chủ đích điều tra sự thực về những
cơn sốt Sến thời đại, trong lòng những hữu thể Việt Nam, trong nước cũng như
ngoài nước, quốc cũng như cộng ở thời này.Sến là "phăng-tát" dân tộc (nói một cách bác học, Sến
mang tính ảo đăng) không phân biệt tả khuynh, hữu khuynh, mới cũ, hiện đại hay
truyền thống. Sến là Sến tú cua.Marie Sến là một ẩn số, một ẩn ức, một sếch-áp-pin, một thực
tại "phi lịch sử", cải lương, rởm, lai căng, một Tôn Ngộ Không Việt,
hiện đại hóa, nữ hóa, ảo hóa, rất quậy.Sến (có vẻ) gốc gác đến từ phương Nam, muốn phá bĩnh sự ổn định
môi trường phía Bắc. Sến là một thực thể đồi trụy, là nhọt ung thư và nó cũng
là tình yêu, là tự do với bản chất mơ hồ và không tưởng: Sến là một tác phẩm
văn học.Cơn sốt Sến bốc lên trong không khí giao lưu tưng bừng giữa
cái đổi mới và cái phải đạo, cái tích cực và cái tiêu
cực, cái kinh tế thị trường và cái xã hội chủ nghĩa, cái phản
kháng và cái chính thống, cái Mỹ và cái Việt đề
huề. Tóm lại, Sến, hầm bà làng như ngôn ngữ Việt Nam "hiện đại": Nó rổn
rang, lổn nhổn, nó lai căng, nó nhăng nhít, nó lưỡi gỗ, nó siêu cường, nó a
dua, nó bẻm, nó lém, nó tôm tép rẩy những: prô-tít, manh-xờ-lam, si đa, em
xi-rô, đét xe, phó mát, mác, mác xờ (nghĩa là mác bằng tiếng Tây), ghế
Việt Bắc, túi phong lưu, bản sắc dân tộc, hông đa 67, bây bi, gút bai, bách gia
chi tử, hen nô, ai lớp iu, uy ét xì a, kit mi, đờ rim, giấc mộng mê ny...Marie Sến có một nhan sắc tròn trĩnh Thúy Vân. Ðặc điểm: Sến
ăn hết mình, Sến chẳng sợ béo, Sến không sĩ diện hão. Sến có tâm hồn khêu gợi
kiểu Emmanuelle (hay Linda mặt ngang?), được giải phóng tình dục sau cơn cách mạng
toàn cầu me-xoát-xăng-tuýt (Mai 68). Sến có sự chất phác rất Thị Nở và một tính
người rất Ngộ Không. Cả ngần ấy thứ "vận" vào Nguyễn Thị Sến, me
(tây, ta) thời mở cửa, rất mốt, một thực thể yêu tự do, thích ái tình cải lương
mùi mẫn, vào ra xuất quỷ nhập thần, đằng vân giá vũ như khỉ đá.Marie Sến có quan hệ "ninh tinh" với ít nhất ba thế
hệ: Nằm trong sáu phạm trù cá nhân mà năm là viện sĩ chính cống và một suýt
thành viện sĩ.Thế hệ già: Một viện sĩ trí thức, cách mạng Việt Bắc, rồi
Nhân Văn, ba mươi năm đọa đầy.Thế hệ trung niên: Một viện sĩ nhà quê, ngày đánh răng ba bận,
sản phẩm nông thôn trăm phần trăm. Một viện sĩ bác học, đi Tây (Tây Liên Xô)
nghiện phó mát, lấy tiếng Mẽo làm chuẩn. Một viện sĩ nhà văn, đang ngồi viết
truyện Marie Sến -có lẽ là tác giả trá hình- bạc nhược, lười biếng, dân Hà
Thành chính hiệu.Và thế hệ thứ ba, choai choai, gồm hai cậu ấm, thằng Tân
hoang tưởng, khinh bỉ tổ tiên, trầm mình trong những cuộc độc thoại hun
hút dài những cô đơn tập thể, và những ký ức uất hận. Thằng
Tân "ra đời khi ông Thân đã đi kéo xe bò ở trại cải tạo, nhưng ấm Tân
làm như chính nó mới là kẻ lằn vai, chính nó vác trên lưng nỗi đau địa ngục của
cả một thế hệ trí thức bị đầy ải"(Marie Sến, nxb Thanh Văn, California 1996, trang 34)Cậu ấm thứ hai là thằng Ðủ. Thằng Ðủ, típ Răm Bô bản xứ, con
đẻ của các cuộc luân dân điên rồ đẩy hàng trăm ngàn người Hà Nội đi
nông thôn, miền núi, và cho dân miền núi, nông thôn về chiếm hộ khẩu Hà Nội. Thằng
Ðủ, con của me ta Tứ Kỳ với Sở Khanh Hà Nội, lớn vụt, ngoại khổ, du côn, hậu
Thánh Gióng, là khối thịnh nộ lừng lững nhất nước Nam. Bao nhiêu uất ức nó
quất lên đầu thằng bố Sở Khanh:"Tao cưỡi lên đầu chúng mày, quân thành thị lưu manh,
quân thành thị ton hót, quân thành thị hèn ươn thây, lười thối thịt. Ðứa nào
đào ngũ? Thằng Hà Nội! Ðứa nào trốn việc? Thằng Hà Nội! Ðứa nào vào làng ăn trộm
gà? Thằng Hà Nội! Ðứa nào làm hại đời con gái nhà người ta rồi gút bai? Thằng
Hà Nội! Ðứa nào mua thủ trưởng? Thằng Hà Nội! Ðứa nào bán lựu đạn? Thằng Hà Nội!
Ðứa nào say rượu, triết lý thối cả đêm? Thằng Hà Nội!" (trang 31)Ðấy chỉ mới là "chân dung" hai nhân vật điển hình
cho thế giới trẻ "tương lai của đất nước", và đây là thế giới thượng
lưu trí thức có nhiệm vụ lãnh đạo đời sống tinh thần của dân tộc: "Ông
viện trưởng có thể tiếp khách trong quần pyjama phía dưới, áo len phía trên, mà
không thấy gì bất tiện. Ông là một người Việt điển hình, nhặt nhạnh khắp nơi
trên thế giới và sống chen chúc với những vật dụng tùy tiện của mình, nhà ông
giống một cửa tiệm bán đồ lưu niệm đông tây kim cổ. (trang 41)"Trí thức chúng ta không đi ra ngoài để mang về những kiến
thức trước sau cũng trở thành vô dụng" (trang 47)Marie Sến là cuộc phiêu lưu tìm sự thật trong lòng ngôn ngữ
Việt. Một cuộc phiêu lưu bí mật. Sến là một nhân vật ảo, không thể sờ mó được.
Sến, như lời tác giả, là một câu đố, giải được đoạn này thì đoạn kia càng bí hiểm
hơn.Kẻ nào chiếm đoạt được Sến đều toi mạng. Thằng Tân chết trước,
rồi đến thằng Ðủ, v.v... Sến như cái động thiên thai sâu thẳm, huyền bí và nguy
hiểm, mà ngàn đời, những kẻ không biết sống không thể chiếm hữu được. Sến
là tình yêu.Sến còn là Tác Phẩm mà bạn cầm trên tay, viết bằng thứ ngôn
ngữ Sến, của một dân tộc Sến, trong một nhà nước Sến. Ai dám bảo Sến dở? Ai dám
chê Sến quê mùa? Sến là "tiến trình đổi mới xuyên qua các thời đại từ Hán
thuộc đến ngày nay". Sến lai căng. Sến chính là cái tính dân tộc mà
Phạm Thị Hoài muốn khám phá, muốn khai quật. Sến là sự thật. Và kẻ nào mon
men đến gần sự thật, muốn làm tình với sự thật, tất phải hóa kiếp, đổi
hộ khẩu xuống âm ty.Marie Sến tung tăng đi lại trong môi trường viện sĩ chung cư
hộp diêm méo mó, bốn hộ chung nhau một cầu thang, cùng câu cơm ở một viện và
cùng yêu một người: Marie Sến. Sự chung đụng bắn tung ra tất cả mùi vị cá
nhân, và mỗi cá nhân lại gánh cái mùi chung của thế hệ."Áp phe Sến" bắt đầu chỉ là fantasme của xã hội trí
thức, viện sĩ Hà Nội; rồi từ bốn hộ viện sĩ ấy, Sến xuất hành tứ tung vào xã hội:
mỗi chi tiết trên một nhân vật, trong một hành động cá nhân hay tập thể đều có
"tính Sến"; từ các hội nghị, di sản, đổi mới, nổi loạn, vợ chồng... đến
tình dục, văn chương, dấn thân, phản kháng, dân chủ, đi nước ngoài, tất cả đều
xà bần, hổ lốn, làm dối, làm giả, pha trộn nhau như hũ nước mắm mậu dịch Việt
Nam thuần túy. Tác phẩm nhại cái tính cóp, "tính Sến" ấy, "tính
dân tộc" ấy trong ngôn ngữ giai cấp, ngôn ngữ cá nhân. Và chính cái ngôn
ngữ ấy xác định bản chất của cá nhân, của tập đoàn và của dân tộc:"Tôi xin mạo muội nhắc bạn đọc rằng trong giới hàn lâm,
thỉnh thoảng lại dậy lên một phong trào dùng từ mới (...) Chẳng hạn tính nữ,
khi tai chúng ta đã điếc dở vì nghe ù ù cạc cạc toàn những tính đảng, tính dân
tộc, tính thời đại, tính chiến đấu, tính công khai, tính khách quan, tính giai
cấp, tính phê bình, tính cảnh giác, tính nhân loại, tính xã hội, tính nhân dân,
tính tập thể, tính kỷ luật, tính khái quát, tính phê phán... thì một từ thường
như tính nữ bỗng vang lên như một cuộc cách mạng nhung, nó mở cửa ra một con đường
chưa ai đi, nó gợi ra một cái gì cá nhân, riêng tư, thuộc về con người, mười
năm trước người ta gọi chung đấy là tiểu tư sản. Bạn đọc có thể chắc chắn rằng
học giả đầu tiên của chúng ta dám dùng tính nữ đã tự coi mình là một đại diện
đáng kể của giới dissident. Ông ta có quyền khoe rằng thư tín của mình bị kiểm
tra và dĩ nhiên vụ tổ chức của cơ quan sẽ phong tỏa mọi lời mời ông đi nước
ngoài dự hội nghị." (trang 29)Và đây là thằng Ðủ, Răm bô bản xứ, hậu Thánh Gióng, con lai
Hà Nội Tứ Kỳ, diễn thuyết dậy đời ở chợ người, đầu đường Giảng Võ:"Các người phải nàm việc nghiêm túc, nhưng một khi quân
Hà Nội giở thói mất dậy, bóc nột người nhà quê chất phác, thì đái vào nồi nước
phở, tương mùn cưa vào vữa xây tường, tung hê xích nô, bóp vú bọn con đĩ thị
thành mắt xanh mỏ đỏ, cứ nhằm những con Ðờ Rim Giấc Mộng Mê Ny mà chém, nếu cần
thì cho tuốt một mồi nửa nà xong. Tội vạ đâu thằng Ðủ này chịu hết." (trang
33)Và đây là trường hợp học chữ của thằng Tân, con nhà trí thức
kinh niên phản kháng:"Thằng Tân đẩy em (tức Marie Sến) vào thế giới đàn ông
cao siêu mà nó khinh bỉ. Nó ngửi ra mùi thất bại của cái thế giới đó từ chăn tã
nhà nó, trước khi biết tởm mùi phân người. Ngồi nghịch dép dưới gầm bàn, nó thuộc
những từ đề mô cờ ra xi, li bẹc tê và cuyn tuya trước khi phải đánh vần a a a
quả na, ơ huyền ờ lá cờ ở trường, sau này hễ nghe ai tha thiết phát âm mấy từ
sang trọng đó, nó chỉ nhếch cười nhớ bạn bố nó tan cuộc bàn luận chính trị xã hội
đứng lên dép ông dép tôi loạn xạ rồi thể nào cũng có một ông lật đật trở lại
xin lỗi không phải dép tôi à cái bài báo hôm nọ ông nhớ đòi về, đúng thế, sau
này nó bảo, vâng, các cụ tài giỏi thật, mỗi tội xỏ nhầm dép." (trang
54)Giữa tất cả những hỗn độn bầy nhầy ấy, Marie Sến là cầu nối,
là phương tiện giao thông giữa các quần hùng cá nhân sâu xa cách biệt, giữa những
thằng Tân, thằng Ðủ mất dậy và một ông trí thức uyên bác, chuyên môn "đặt
tên mới cho những nội dung cũ mèn" (trang 110) cả đời bị chính
thống hắt hủi nhưng suốt đời khao khát chính thống (trang 111) chỉ cần
gặp không chính thứcvới lãnh đạo lớn của quốc gia là toàn bộ những năm tháng
đau thương kể như được phục hồi (trang 111). Quả thật cuộc phản kháng
của thế hệ ông Thân như thể khúc cung oán của những nàng cung nữ chết khô trong
cuộc đời hạn hán dằng dặc mỏi mắt chờ trông một trận mưa tinh trùng của mình rồng
[...] Nàng nào ngủ được với vua thì gút bai cung oán với lại phản kháng (trang
138) và thích nghi chắc chắn là đặc sản Việt góp cho nhân loại . (trang
133)Là một thực thể phi lịch sử, phi chính trị; trải bao đời các
cụ Khổng, cụ Lão, cụ Hồ, cụ Mác, cụ Lê, các chủ nghĩa, hệ thống, đổi mới, phản
kháng... Sến là cơ chế Việt, đặc sản Việt, Sến là hậu duệ của Xuân tóc đỏ, với
một tinh thần vọng ngoại sâu sắc, một dân tộc tính phi thời gian. Sến đã vượt
qua hết cả các thời kỳ Hán thuộc, Phật hóa, Khổng hóa, Lão hóa đến thời
Pháp thuộc của Xuân tóc đỏ, quá độ sang thời cách mạng mùa thu của cụ
Hồ thuộc Mao, thuộc Mác, rồi thời ngụy thuộc Mẽo
bước sang độc lập thống nhất thuộc kinh tế thị trường. "Mở cửa"
trở về thuộc Pháp, yêu hồng mao Huê Kỳ: Chúng ta rất yêu những kẻ thù
bại trận. Chữ thuộc là tính dân tộc, tính Sến, tính sáo, tính cóp,
tính ăn mót, làm giả hàng ngoại.Vừa đánh trống vừa ăn cướp, Marie Sến chính là ngôn ngữ. Con
người khai sinh ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ xác định con người. Ngôn ngữ của chúng
ta lai căng, vay mượn. Chúng ta nhập cảnh những Phờ-Rớt, Mác Ðô Nan, Mác Xờ,
Răm Bô, Ðờ Rim của các cường quốc, xuyên tạc chúng đi để làm vốn cho mình và
chính các siêu Sến mà chúng ta vay mượn và cưỡng hiếp ấy lại làm nên bản chất của
chúng ta.Phạm Thị Hoài dùng thứ ngôn ngữ lai căng đó để tạo sinh khí
cho tác phẩm, mô tả xã hội nực nồng mùi Sến, gồm những mùi thất bại kinh
niên của những trí thức phản kháng xó nhà kiểu ông Thân, mùi hoang tưởng
khăm khẳm, giả vờ học lóm của thằng Tân, mùi tiện dân thum thủm ngày đánh
răng ba bận ở Ðoài và mùi nổi loạn thối hoắc, pha trộn Rambo Thánh Gióng,
hồn Trương Ba da hàng thịt ở thằng Ðủ. Chúng ta du nhập các chủ nghĩa Mác miếc,
hiện sinh hiện siếc... của siêu cường. Chúng ta nhai dập dạp, nuốt vội cho
nhanh, cho nhiều, cho đầy bụng "hàng ngoại". Rồi bão hòa vốn Sến,
chúng ta đòi trở về nguồn. Trở lại chủ nghĩa dân tộc, một mực ta
về ta tắm ao ta. Ai nào có biết cái ao của mình nó thế nào? Nó ở đâu? Nó có mùi
gì?Trong một không khí dân tộc chủ nghĩa bốc mùi như thế, Marie
Sến, con cháu của Xuân tóc đỏ, xứng đáng là chủ tịch nước, là tổng bí thư của một
nhà nước xã hội phồn vinh, xây bằng cái tiếng Việt hiện đại lộn xà bần áp pô ca
líp, đề mô cra xi, cuyn tuya, li bẹc tê, tính nữ, đít xi đăng, đô la, Bác... Sến
hợp nhất các "gu" thời đại trong ngôn ngữ ăn cắp của cường quốc mà
không có khả năng Việt hóa thành sản phẩm của mình. Chúng ta chưa bao giờ có một
Bồ Ðề Ðạt Ma.Tháng 4/1998Cổ dao Cung Trầm TưởngCung Trầm Tưởng gắn bó với giai đoạn đầu của thời chia đôi đất
nước, qua thi tập Tình Ca, mười ba bài mà Phạm Duy đã phổ nhạc năm bài, đó
là Mùa Thu Paris, Kiếp Sau, Về Ðây, Khoác Kín (Phạm
Duy đổi là Chiều Ðông) và Chưa Bao Giờ Buồn Thế (Phạm Duy đổi
thành Tiễn Em). Tất cả năm bài đều thuộc vào những bài thơ phổ nhạc tiêu
biểu cho sự gặp gỡ giữa thi ca và âm nhạc ở cung cao sáng tạo.Trong năm bản nhạc thơ ấy, có Kiếp Sau ít nổi tiếng
hơn cả, nhưng lại là bài hay nhất. Thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc Phạm Duy và tiếng
hát Thái Thanh kết hưởng thành một thể toàn bích, gói trọn thiên thu trong khoảnh
khắc. Nhạc Phạm Duy và giọng hát Thái Thanh, không lạ gì với thính giả, duy có
chất Thơ trong bài Kiếp Sau, riêng nó đã đạt tới đỉnh nghệ thuật
nhưng ít ai đề cập.Bài thơ rất ngắn, sau này Cung Trầm Tưởng có viết lại hai
version khác, nhưng có lẽ vẫn không vượt được bản đầu in năm 1959 ở Sài gòn:Bù em một thoáng trời gần,đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!Bù em góp núi chung đồithiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơBù em xuôi có ngàn thơ,vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thươngQuên thôi, bông sẽ phai hường,mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu.Non sông bóng mẹ sầu u,mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầuThôi em xanh mắt bồ câu,vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau...Kiếp Sau làm năm 1956. Hơn bốn mươi năm. Không một vết
nhăn.Trò chuyện về thơ tức là chuyện trò với chữ -vấn đề ngữ
sự- nói như Cung Trầm Tưởng.Trước hết là chữ bù. Bù em. Phạm Duy có lẽ vì nhu cầu
âm nhạc đã đổi ra đền. Ðền em, nũng nịu, Tây hơn, hợp thời hơn,
nhưng Bù em, mới hiếm, mới Việt. Chữ đền có nghĩa đổi trao, lấy
đi rồi đền lại. Chữ bù chỉ thấy cho, chỉ "lấp đầy".
Nguyên lý lấp đầy lại rất phụ nữ, rất nhục cảm, rất Sartrien, rất
Cung Trầm Tưởng. Bù lại gần với âm bu. Bu là gọi mẹ theo tiếng
quê ta. Một người "Tây con" như Cung Trầm Tưởng thời ấy, làm thơ tặng
những em "tóc vàng sợi nhỏ" mà lại viết Bù em thật
tuyệt.Nhưng Phạm Duy có lý khi ông đổi lại là đền em. Ai cũng
hiểu. Ở Phạm Duy là ý thức cộng đồng, ý thức dân ca, ở Cung Trầm Tưởng là ý thức
biệt dã, ý thức thi ca. Bù em là ngôn ngữ thứ nhất, ngôn ngữ bùa
chú khác lạ, không giống ai: Ngôn ngữ vừa được nhà thơ tác tạo. Cả bài thơ
có hơi cổ điển, có hồn ca dao. Nhưng không phải ca dao thuần túy mà là ca dao
đã hóa thân, cổ điển đã tục lụy.Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơCác cụ xưa đâu viết thế. Các cụ môn đăng hộ đối, đâu có thẩy
bình dân "cũng rồi" ngồi chung chiếu với quý tộc "thiêu
nương". Rồi lại:Thôi em xanh mắt bồ câuCa dao đâu viết thế. Ca dao thường trực tiếp, dễ hiểu: Em
thôi, mắt xanh, hay mắt em, thôi xanh v.v... Nên khi gặp thôi em xanh
mắt người đọc lạc vào mê đạo.Mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thuToàn thể câu thơ là một bể hoang đường, lạc đất.Tất cả những "cũng rồi", "mà xưa",
"nghe dường" gieo vào câu thơ ở những chỗ bất ngờ nhất, làm lỗi
nhịp, làm đảo thần lục bát, phát sinh một hồi âm mới: Wagner hay Mozart? Phạm
Duy hay Văn Cao? Có hết. Tất cả đồng quy ở tiếng gọi thiên thu hay tất
cả đều đã hoang sơ?Cung Trầm Tưởng đã xướng lên một thứ cổ dao hiện đại:Non sông bóng mẹ sầu uMòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầuNhững tiết tố âm nhạc, quá khứ, hiện tại, không gian, thời
gian, ẩn hiện, giao tỏa với nhau. Những hình ảnh sáo mòn như "đơm hoa
kết mộng", "sông Thương trắc trở" được hồi sinh trong
một kiếp mới, nhờ cách xếp câu, đảo tứ:Bù em một thoáng trời gần,đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!Bù em góp núi chung đồithiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơBù em xuôi có ngàn thơ,vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thươngNhững cách treo chữ: cũng rồi, cũng ngần..., buông chữ: bù
em, thôi em..., đảo chữ: mòn trông..., hoặc tạo cảnh: chiều lu mái sầu...
đều có tính cách phá tán âm thanh lục bát, phá tan nội dung ca dao để tạo ra, về
mặt thời gian, một tiếng gọi từ ngàn xưa vọng lại, về mặt âm thanh và tư tưởng,
một khúc điệu mới, phong liệm nỗi buồn nguyên thủy, rồi nghiền tán nó ra,
rắc vào không gian, gieo vào vũ trụ, tạo ra một môi trường buồn ẩm nhạc:Ngày đi, chiều tới không nghiêm,khoan thai gió cởi phong niêm rũ buồnBờ nghiêng nắng giốc đường thuôn,thiết tha tiếng cũ nghe luồn không trung.(Về Ðây)Trong bài Bémol, Buồn lại rơi theo nhịp khác,
như nốt nhạc bị giam cầm:Chiều buồn lạc thanh âmHoang sơ vào khuya tốiLinh hồn tôi dương cầmBài Khoác Kín cũng là một trong những giá trị độc
đáo của thi ca Cung Trầm Tưởng mà Phạm Duy đã phổ nhạc và đổi tên thành Chiều
Ðông (Phạm Duy có tài lựa những tuyệt tác của mỗi tác giả để đưa vào cung
bậc âm thanh). Khoác Kín cũng là một bài thơ ngắn, nhưng mỗi câu, mỗi
chữ đều là những giọt tuyết lệ của thời gian, nhỏ trong không gian tàn tạ:Chiều đông tuyết lũng âm ubâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồnNhớ ngày tầu cũng đi luôn,ga thôn trơ nỗi, băng nguồn héo hon.Phường xa nhịp sắt bon bon,tàu như dưới tỉnh, núi còn vọng âm.Sân ga mái giọt âm thầm:Máu đi có nhớ hồi tâm đêm nào?Mình tôi với tuyết non cao;với cồn phố tịnh buốt vào xương da;với mây trên nhợt ánh tà;với đèn xóm hạ cũng là tịch liêu.Tôi về bước bước đăm chiêu,tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm.Giọng buồn Cung Trầm Tưởng, thời 55-60, đã khác hẳn giọng sầu
Huy Cận trong thời thơ mới. Cung Trầm Tưởng đem lại một cô đơn mới: Cô đơn hiện
sinh. Cô đơn của con người trong sự nhận thức lại chính mình. Cô đơn
của một Roquentin trực diện với "bản lai chân diện mục" của mình trước
gương soi mói, soát lục. Cô đơn của gã tử tù Meurseult, xa lạ với loài người:Hoang liêu về chết tha maTiếng chân gõ guốc người xa vắng người(Tương Phản)Và chắc hẳn Wagner dưới suối vàng cũng đã có phần nào trách
nhiệm trong cách biến tấu nhịp điệu thể xác và linh hồn lục bát Cung Trầm Tưởng.Cung Trầm Tưởng những năm cải tạo đã thay đổi quan niệm sáng
tác, trữ tình chuyển sang dấn thân:"Người thơ xưa nói lên tâm thức bộ lạc. Người thơ tù
"cải tạo" bây giờ, một nạn nhân kiêm chứng nhân, nói lên tâm thức cộng
đồng của những người tù cải tạo. Cái tâm thức sâu thẳm, lên men từ khổ đau,
thúc trướng bởi bản năng tập quần, xúc tác ra một nhân gian thuần nhất, nền cộng
hòa của những người anh em đồng cảnh, những người tù cùng khổ." (Ainsi
parlait le poète)Từ một quan niệm thơ như thế, lục bát Cung Trầm Tưởng, bài Nguyện
Cầu Mùa Thu, làm ở Hoàng Liên Sơn, thu 77, có những câu:Áo tù thẫm máu đôi vaiBàn chân nứa chém, vành tai gió lùaNgó tay bỗng thấy già nuaCứa êm thân xác mấy mùa thu quaMôi cằn, má hóp thịt daNgô vơi miệng chén, canh pha nước bùnÐêm nằm ruột rỗng vai runÐầu kề tiếng suối, chân đùn bóng đêmCung Trầm Tưởng thơ tù trở thành hiện thực. Rất hiện thực,
nhưng không phải lúc nào cũng hiện thực. Những mộng, mơ, những trữ tình bị kìm
hãm trong lao lý nhưng khó thoát khỏi bản năng. Cung Trầm Tưởng thơ tù, có mộng,
có mơ, nhưng lại là những cơn ác mộng mà vẫn có cái ngất ngư, cao đạo của tâm hồn:Sớm đi đội gió đỉnh đầuTưởng như hồn chết giữa vầu nứa khôÐường lên dang nứa nhấp nhôNgả nghiêng mây núi, lệch xô đất trời(Ðường lên dang nứa)Mười năm lao cải luyện thép cho thơ. Thơ ông đanh hơn. Như thể
muốn thổi bễ thời gian, luyện quánh nỗi đau trong tiếng hò địa phủ:Mồ dẹt thời gian xe hủ lôSương tang sô xóa bặt sông hồNiềm đau sờ thấy hồn vong tộcNham nháp trời và sần đất thôCon đường mười năm đã vùi chôn những ngây thơ, những tin yêu,
những nhẹ dạ xưa, và đưa thi ca vào một lộ trình gai góc, lộ trình heo hắt, lộ
trình tang trắng mà thơ là sự cô đọng những tang thương, khấp liệm trong lòng
người tù cải tạo:Và đi cho tới cùng đườngCủa heo hút xứ khôn lường khổ đauThoắt đi tóc đã phai màuNhư nghìn tang trắng quấn đầu vi lôChiều tê sương sập nấm mồVùi chôn chú bé hồ đồ năm xưa.Paris, tháng 10/1999Bùi Ngọc TấnChuyện kể năm 2000Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Câu Tử, Hợp Thành, Thủy
Nguyên, Hải Phòng.Ông bắt đầu viết văn, viết báo từ 1954. Cùng lớp với Lê Bầu,
Lê Mạc Lân (là con của Lê Văn Trương nhưng không bao giờ dám nhắc đến cha), Vũ
Thư Hiên, Nguyên Bình, Vũ Bão... Truyện ngắn đầu tay gửi dự thi báo Văn Nghệ, Chị
Trúc, được Tô Hoài khen hay, nhưng không được in và cũng không được giải vì nói
đến những mất mát của chiến tranh "hơi quá liều lượng".Vào làm phóng viên báo Tiền Phong, việc kỳ cục đầu tiên ông
nhận thấy là người ta cấm nhà báo viết văn, muốn viết phải chui, viết văn chui,
ký tên khác. Thế hệ ông, nhiều người bạn đã mắc vòng hệ lụy: như Bùi Minh Quốc,
như Vũ Thư Hiên, như Phù Thăng, như Vũ Bão...Bùi Ngọc Tấn bị tù năm năm, mang số CR880, như Hắn, Nguyễn
Văn Tuấn, nhân vật chính trong Chuyện Kể Năm 2000.Kết thân với Nguyên Hồng từ những ngày viết văn làm báo tại Hải
Phòng.Bùi Ngọc Tấn rất gần gụi và quý trọng Nguyên Hồng. Bị đi cải
tạo 5 năm (từ 1968 đến 1972), Bùi Ngọc Tấn im lặng hơn 20 năm (từ 1968 đến
1989). Xuất hiện lại trên tạp chí Cửa Biển, hè 1989, với một bài viết về Nguyên
Hồng, sau trở thành tập hồi ức Một Thời Ðể Mất (NXB Hội Nhà Văn,
1995) và sau đó là hai tập truyện ngắn: Những Người Rách Việc (NXB Hà Nội,
1996) và Một Ngày Dài Ðằng Ðẵng.Ngoài ra, trong Chuyện Kể Năm 2000, tác giả nói đến hơn
ngàn trang pelure bản thảo chữ nhỏ li ti, bị bắt làm "tang vật cho vụ
án", gồm những tác phẩm: Hải Ðăng, tiểu thuyết; Hoa Cau, truyện
dài; Làn Sóng Thứ Nhất, tiểu thuyết; Những Người Ðang Sống, kịch bản
phim; Những Chuyện Trên Một Vùng Cửa Biển, truyện ngắn; Ðầu Cầu, trường
ca;...T.KNăm 2000, tiểu thuyết trở về sau một thời xa vắng, với những
tác giả như Bùi Ngọc Tấn, như Nguyễn Bình Phương... Báo hiệu sự hồi sinh của
văn học ở thời điểm mà các tác phẩm có giá trị đích thực vẫn chưa thoát khỏi cuộc
giảo nghiệm của tử thần: từ án treo, đến án chung thân, đôi khi tử hình như trường
hợp Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn: "Ngày 16/3/2000, Bộ Văn
Hóa Thông Tin đã ra quyết định số 395/QÐ-BVHTT, đình chỉ phát hành và thu hồi,
tiêu hủy cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của tác giả Bùi Ngọc Tấn" (1)Như một nghịch lý hợp lý, bản án trên đây xác quyết những điều
Bùi Ngọc Tấn đã viết về sự lầm than, về những vò xé, xuyên tạc, những chụp giật,
đập phá, ức hiếp của thẩm quyền và thế quyền trên những con chữ li ti. Mà chữ
thì không có khả năng kháng cự với dùi cui, chúng chỉ là những thực thể tí hon
chạy chơi trên tờ pelure mỏng, làm sao chọi lại những bàn tay thô bạo, những khối
óc vô hồn. chữ là một vi sản trong các di sản, là kẻ yếu nhất, trong số những nạn
nhân hiện hữu trên đời: khi bị hành hạ, cả đến côn trùng, thảo mộc, con sâu,
con kiến cũng còn có phản ứng, quằn quại trước khi chết, nhưng chữ thì không.
Tuyệt đối không. Dù bị kết án tử hình, chữ cũng lặng thinh. Bất động.Nhưng sự im lặng nào cũng đáng ngờ. Bởi làm thinh cũng là một
thái độ. Làm thinh là không chấp. Làm thinh vì biết, mình, người. Làm thinh vì
biết sức mạnh của mình, rồi mình sẽ sống khi những kẻ hành hạ mình đã chết, biết
được chất vĩnh cửu của những giá trị, nằm ngoài thô bạo của lịch sử, trên mu muội
của con người.Như đường về mê ngục. Như bước xuống âm ty. Chuyện Kể
Năm 2000 mở cửa Goulag Việt Nam. Một Goulag thâm u, tiền sử, nhuần nhuyễn
bản chất Ðông phương, không sôi nổi bạo tàn, không máu mê tra tấn như Goulag
phương Tây. Ở đây là tịch mịch Á Ðông, là hình thức toàn trị rất thiền, cái
Goulag thầm lặng nhưng vô cùng hữu hiệu bởi người tù cải tạo đã chết khi còn
đang sống. Ðó là ý nghĩa sâu xa nhất của tác phẩm.Với Bùi Ngọc Tấn, tiểu thuyết Việt Nam bước vào một ngõ ngoặt,
một giai đoạn mới: Giai đoạn mà nhà văn (ở trong nước) lại có quyền được in những
tác phẩm nói lên sự thật, biện hộ cho tự do, sau mười năm bặt vắng. In xong, có
thể bị tịch thu liền. Nhưng in là quan trọng. Là thiết yếu. Bởi đã in là thoát.Trong gần mười năm, tiểu thuyết Việt Nam đã trải qua thời kỳ
xuyên sa mạc. Sau những Thời Xa Vắng, những Bên Kia Bờ Ảo Vọng, những Nỗi
Buồn Chiến Tranh, những Bến Không Chồng, v.v... của thời kỳ đổi mới, văn học
trong nước chuyển sang thời kỳ tụt hậu mười năm: trừ một vài trường hợp hạn hữu
như tác phẩm của Nguyễn Bình Phương, vượt ra ngoài "cõi đọc" của số
đông cho nên không bị thẩm xét gắt gao, hầu như không có tiểu thuyết giá trị
nào được phép ra đời. Nhiều người nói đến sự tuyệt chủng của tiểu thuyết, nhưng
dường như với bình minh 2000, người đọc có quyền hy vọng.Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn xuất hiện như sự trở
mình của thần long ngủ trong lòng biển. Sự trở mình này, trước tiên tùy thuộc ở
những cố gắng và can đảm xuất bản: Nhà Thanh Niên, do Bùi Văn Ngợi trách nhiệm,
chỉ trong hai tháng đầu năm 2000, đã in ít nhất 3 tác phẩm giá trị. Ðó là Ðối
Thoại Sử Học của nhóm Bùi Thiết (7 sử gia lớp sau) chống lại khuynh hướng
bóp méo lịch sử vì nhu cầu chính trị. Quyển thứ nhì là tiểu thuyết Chuyện
Kể Năm 2000 và thứ ba, tiểu thuyết Hai Nhà của Lê Lựu. Ðiều này
chứng tỏ khi người làm công việc xuất bản có lương tâm văn học, những tác phẩm
xứng đáng vẫn được chào đời dĩ nhiên họ đã phải trả giá rất đắt.Trở về với tác phẩm của Bùi Ngọc Tấn: Ðây là một tác phẩm có
tầm vóc lớn. Vừa ra đời nó đã là một tác phẩm classique, cổ điển, trong cái
nghĩa đẹp nhất của hai chữ "cổ điển". Cổ điển như Dịch Hạch của
Camus, bởi nó đã bao trùm lên được nỗi đau của con người trong thời kỳ Xã Hội
Chủ Nghĩa.Từ trước đến nay, độc giả -nhất là độc giả ngoài nước- đã được
đọc nhiều hồi ký cải tạo của những người cầm bút ở hai miền Nam Bắc. Mỗi hồi ký
đều nói lên những khía cạnh khác nhau của đời tù cải tạo. Qua những tác phẩm
đó, người đọc biết được đại cương đời sống trong tù. Nhưng thể hồi ký, luôn
luôn gò bó người viết trong tư thế nhất định của cái tôi chủ quan nên khó có thể
bước vào thế giới mộng tưởng nghệ thuật. Ở hồi ký, người viết cũng lại gần như
bắt buộc phải đưa ra những việc thực, người thực nghèo nàn, giết chết khả năng
sáng tạo.Sự lựa chọn thể tiểu thuyết, nơi Bùi Ngọc Tấn, là một sự lựa
chọn độc sáng. Với tiểu thuyết, nhà văn có thể tung hoành, sống nhiều cái tôi,
đứng trên muôn vàn khía cạnh để rọi những lăng kính khác vào cuộc đời Goulag."Hắn" là Tuấn, Nguyễn Văn Tuấn, nhân vật chính
trong tác phẩm, tù số CR880, là tổng hợp của nhiều "hắn" khác trong một
đời tù. những bạn tù của hắn, mỗi danh xưng: Già Ðô, Vũ Lượng, A Thềnh, Lê Bá
Di, Triều Phỉ... cũng lại tổng hợp nhiều nhân vật khác trong nghìn đời tù. những
khuôn mặt công an, quản giáo: Ông Trần, ông Lan, ông Thanh Vân... tiêu biểu những
khuôn mặt "có quyền" dẵm lên con người một cách tùy tiện, tùy theo
"ngẫu hứng" của mình trong cơ chế toàn trị. Do đó, qua câu chuyện của
"Hắn" người ta đọc thấy, không chỉ có những trầm luân của một Bùi Ngọc
Tấn, một Vũ Thư Hiên, những người cùng trang lứa với Hắn, mà người ta còn nhìn
thấy cả một thế hệ "được đi thực tế" trước "Hắn", những
Nguyễn hữu Ðang, hữu Loan, Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Lê Ðạt... và thế hệ
"được cải tạo" sau hắn như Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hoàng
Chương, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng... Ðó là những tai ương của người cầm bút,
sau Cách Mạng Tháng Tám.Bi kịch của "Hắn" chỉ kéo dài có 5 năm.Bi kịch của những người không-phải-hắn kéo dài có khi gấp
hai, gấp ba nữa. Vậy mà chỉ cần đọc "Hắn" người ta đã rụng rời, người
ta đã được nếm mùi địa ngục. Bùi Ngọc Tấn viết:"Bọn hắn là một lũ tội phạm. Mỗi người một kiểu khác
nhau, nhưng cùng phạm những tội ác với nhân dân, với cách mạng, với Ðảng. Bọn hắn
là địch. Còn nguy hiểm hơn địch. Pháp, Mỹ, mũi lõ mắt xanh, cầm súng bắn vào
nhân dân, ai cũng nhận ra. Nhưng bọn hắn khó nhận diện hơn, nên càng nguy hiểm.
Tội lỗi ấy không đáng được đối xử như những con người. Không đáng thở bầu không
khí chung với nhân dân. Không đáng được gọi là người Việt Nam, một dân tộc anh
hùng. Dân tộc xấu hổ vì bọn hắn. Tuy nhiên Ðảng vẫn tin tưởng ở cái phần người
còn lại trong mỗi kẻ bọn hắn. Ðảng nhen nhúm chút phần còn sót lại ấy. Và bọn hắn
được đối xử đúng như vậy. Con trâu cày, con lợn giống còn được các ông quản
giáo vỗ về, vuốt ve, tình cảm. Bọn hắn, không ai dám mơ tưởng đến hạnh phúc lớn
lao ấy. Một lời động viên thông cảm cũng không dám màng. Không được như những
cây rau. Luống rau cải bắp, luống rau muống có sâu, hắn phải đem bình vô-pha-tốc
ra xịt ngay. (Bọn hắn ốm thử đi xin viên thuốc ở chỗ ông Chắn, công an y tá
xem) Gặp ai cũng phải gọi là ông, là bà. Gặp bà công an kế toán bế con trai lên
bốn đi chơi, là phải kính cẩn:- Bà với ông đi chơi ạ!"(Quyển I, NXB Thanh Niên, 2000, trang 88-89)"Bọn hắn" là những ai? Là những kẻ mang tội
danh "tuyên truyền phản cách mạng", những kẻ được liệt vào thành
phần phản động, những kẻ bị quy kết là bôi đen chế độ. Tóm lại là những tù
chính trị, công giáo có, nhà văn có, nhà báo có, cộng có, ngụy có, Việt kiều
có, nông dân có... tất cả được giam chung với tù hình sự, đảo ngũ, trộm cắp, giết
người... Chỉ khác là tù hình sự thì có án rõ ràng, 5 năm, 7 năm, 10 năm... Còn
tù chính trị, tù tư tưởng là tù không án tức là không biết được ngày về, không
biết được tội trạng của mình, được gọi bằng những chữ đẹp đẽ nhẹ nhàng: đi
"tập trung học tập cải tạo" chứ không phải đi tù.Hành trình "cải tạo" đã có bao nhiêu ngàn người trải
qua? Không ai biết được. Khi Hắn được tha, đi trên đường phố Hà Nội, Hắn đã nhận
thấy những khuôn mặt quen quen, tất nhiên đây chỉ là ảo tưởng của Hắn. Nhưng một
ảo tưởng gắn liền với sự thật: những khuôn mặt tù hàng ngày diễn qua quãng đời
năm năm của Hắn, cứ 1000 khuôn mặt ấy (trại của Hắn giam độ 1000 người) nhân
lên với gần 2000 ngày tù là đủ có một thế giới hai triệu khuôn mặt tù. Ấy là
chưa kể những khuôn mặt nằm ngoài phạm vi "nhìn thấy" của Hắn, ở những
trại khác, ở những thời điểm khác.Không thể biết được bao nhiêu người đã sống đời Goulag Việt
Nam, nhưng qua câu chuyện kể năm 2000 của Hắn, của tù nhân mang số CR880, thì tất
cả những hạng sous-homme "dưới người" như Hắn, không phải là ít. Và hầu
như tất cả tầng lớp nô lệ hiện đại này đều phải trải qua một giai đoạn mấu chốt:
Ðó là sự tàn phá con người -sau Goulag- và Hắn buồn rầu nhận thấy: "Mình
đã bị tiêu diệt. Tiêu diệt hoàn toàn."Cái khác nhau giữa "nô lệ tiền sử", "nô lệ
phong kiến" và "nô lệ hiện đại" là ở hai thời kỳ đầu, sự chiếm hữu
nô lệ xẩy ra giữa những bộ tộc khác nhau, ở những giai cấp khác nhau, mà thường
là bộ tộc mạnh đàn áp yếu, giai cấp giàu bóc lột nghèo. Ở hình thức "nô lệ
hiện đại", những người bị giáng xuống hạng dưới người, thường là những văn
nghệ sĩ, những trí thức, những nhà tư tưởng... thành phần élite của xã hội. Và
đó là bi kịch thời hiện đại, của những nhà nước chủ trương tiêu diệt thành phần
ưu tú của đất nước bằng tính ưu việt của Goulag.Chín trăm trang sách, đúc kết một đời người, nhiều đời người
trong một. Ðây không chỉ là chuyện tù ngục, lưu đầy. Ðây là những mảnh đời bị
xé nát, trù ếm, dẫm đạp của người tù và của cả những người không-bị-tù, tức là
những người có tương quan bạn hữu, máu mủ, thân thiết nhất với người tù.Ðây là cuốn sách viết về tình yêu, lòng nhân ái, viết về sự
thủy chung, về sự phản bội, về nhân phẩm, về tự do, về nhân bản. Một cuốn sách
trùm phủ lên những đề tài muôn thuở về con người. Nhưng có lẽ điểm độc đáo nhất
là người viết, ở đây, đã trực tiếp nhận trách nhiệm của mình trong sự tác thành
cái guồng máy chuyên chính toàn trị đã nghiền nát mình. Và có lẽ đó là chỗ lớn
lao nhất của tác phẩm: Vấn đề trách nhiệm.Nếu tất cả mọi người đều nhìn nhận trách nhiệm của mình,
không dựa vào Bác, không dựa vào Ðảng, vì "Bác-Ðảng" thực ra chỉ là
cái cớ, những hư danh hay những thực thể không thể sờ mó được. Bởi vì Bác, một
người đã khuất cách đây hơn 30 năm, và Ðảng, một tổ chức do các đảng viên dựng
lên, không thể trách nhiệm thay cho những người đã và đang tích cực góp phần
xây dựng vào sự v"ng vàng của guồng máy chuyên chính còn được gọi là Ðảng:
Bao giờ trách nhiệm cũng về phía con người. những người đang sống. Trong những
hàng cuối của cuốn tiểu thuyết, Bùi Ngọc Tấn đã viết rất sâu sắc về cái quyền
uy vô hình, đè nặng lên mỗi cá nhân:"Ai cũng có một người vô hình để mà trình bày, để mà sợ
sệt và thầm cãi lại. Người vô hình luôn bên cạnh mỗi người như hình với bóng, cả
trong giấc ngủ. Nhưng thật ít người dám vùng lên chống lại, vì cái giá trị phải
trả thường là cuộc đời, là sinh mạng."Cái người vô hình mà Bùi Ngọc Tấn nói đến ở đây, phải chăng
chính là con khủng long toàn trị mà mỗi cá nhân, trong đó có Hắn, đã góp phần tạo
ra, dinh dưỡng để nó nghiền nát chính mình?Bùi Ngọc Tấn bắt đầu viết từ tháng 6/1990 đến 30/11/91 hoàn tất Chuyện
Kể Năm 2000. Bản thảo được xem lại lần cuối vào tháng 8/98. Theo giới thân cận
tác giả, tác phẩm đã được viết lại nhiều lần trong 9 năm qua, điều đó giải
thích phần nào khía cạnh nung nấu, chín mùi về mặt cấu trúc hình thức cũng như
nội dung văn bản.Chuyện Kể Năm 2000 là một tự truyện. Nhiều nhân vật vẫn
gi" tên thật, tác giả đổi một vài tên đã xuất hiện trong tập hồi ức văn học Một
Thời Ðể Mất (2). Bùi Ngọc Tấn rất gần gụi và quý trọng sự nhìn xuống những
người dưới đáy của Nguyên Hồng trong Bỉ Vỏ. Một Thời Ðể Mất chủ yếu
viết về Nguyên Hồng, nhưng qua đó người đọc có thể biết rõ về môi trường sinh
hoạt văn học của lớp người cùng lứa tuổi với tác giả và nhất là về không khí
sáng tác theo "đúng đường lối của Ðảng" thời 1960-65; Một
Thời Ðể Mất cũng cho biết sơ lược nội dung những tác phẩm khác của Bùi Ngọc
Tấn mà sau này, trong Chuyện Kể Năm 2000 tác giả nói rõ hơn: Ðó là độ
khoảng hơn 1000 trang pelure, chữ nhỏ li ti, sản phẩm của 15 năm lao động tinh
thần đã bị tịch thu, bị đem ra mổ xẻ và không bao giờ trả lại, trong đó có tập
nhật ký ghi những tâm tư thầm kín nhất của tác giả.Ở tập trường ca Ðầu Cầu, sáng tác những năm 60, đã thấy
những tín hiệu của một nhà văn nhìn xuống đáy, tìm đến nỗi đau thực của con người
trong chiến tranh, âm thầm phản đối chiến tranh và những hồi còi lệnh giục giã
lên đường:[...] Ðầu cầu xe vềNước sôi trong kétAnh lái xe mắt xếchTắt máy chờ qua sôngÐầu gục vô lăngTranh thủNgủGiấc ngủ treo bao ngày đêm mỏi rời mi mắtGiấc ngủ đợi chờ vụt biến đi đâuKhi đến đây đầu cầu,Ðáy vực không gian sâu thăm thẳm,Sương rơi nắp ca-pôSương rỏ giọt ngoằn nghèo kính cửa,Sương Hải Phòng ướt bụi Trường Sơn,Sương buông thanh bình như ngàn năm trước sương buôngAnh lái xe, dựa vô lăng nghe đất trời yên lặng.Nghe máu mình khe khẽ thái dương.Dốc cầuCòi.Hiệu lệnhLên đường!(Một Thời Ðể Mất, NXB Hội Nhà Văn, 1995, trang 105)Chuyện Kể Năm 2000 là một tác phẩm nhìn xuống những người
dưới đáy ngục bằng cách giao hòa hai yếu tố: Thực tại và mộng du. Thực tại
trong tù và mộng du ngoài tù.Tác phẩm ban đầu có tên là Mộng Du. Mộng du là hình thức tự
do trong trạng thái nguyên thủy và là cơ nguyên của sáng tạo.Cấu trúc tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là sự giao thoa giữa tù
ngục và tự do, làm bật ra những nét tương phản giữa tự do và tù ngục. Sự giao
thoa này đưa đến những nhận xét kinh hoàng: Con người, một khi đã bị cải tạo
thì mùi vị tù ngục sẽ pha vào óc, vào máu, biến chứng trở thành những chấn
thương nội tại, và khi ra khỏi ngục, Hắn -kẻ bị tù- sẽ không thể rửa được óc,
máu của mình. Hắn vẫn tiếp tục sống với những người bạn tù cùng khổ, trong một
cõi mộng du khác. Cũng như, trong khi ở tù, chính cõi mộng du đó, đã tiếp máu,
đã hồi sinh hắn, cho hắn sống với người thân tại ngoại.Ðiểm quan yếu của tác phẩm là nói lên cái nội dung cải tạo
như người ta đã nói mà chưa từng nói như thế bao giờ.Nội dung đầu tiên của cải tạo nhằm việc triệt hạ nhân phẩm: Hạ
nhục người tù xuống mức độ dưới người. Gặp bà công an bế con trai lên bốn đi
chơi, là phải kính cẩn: Bà với ông đi chơi ạ! Nhất cử nhất động phải xin phép:
Báo cáo ông, tôi, Lê Bá Di, tù số 127 vào nhà mét đi đái. Tính cách đối xử này
phản ánh một trạng thái cực kỳ khôi hài: Gậy ông lại đập lưng ông, ngay trong lời
xin phép đi đái, hoặc gọi mẹ, con bằng bà và ông: mẹ con trở thành đồng hạng.
Tác giả chỉ thuật, không bình, nhưng cái ngôn ng" trần trụi ấy đã nói lên
bản chất phi lý, phi nhân, tức cười và vô giáo dục trong nội dung cải tạo.Ngoài việc triệt hạ nhân phẩm qua cách đối xử, cải tạo còn sử
dụng hai vũ khí khác để triệt hạ con người, đó là Ðói và Thời gian.Ngoài công việc khổ sai thứ nhất như gánh phân, bốc bùn, xẻ nứa,
làm rẫy, v.v... còn có Ðói. Ðói là khổ sai thứ nhì. Ðói đến vồ được thứ gì cũng
nhét vào miệng: từ con ếch, con nhái, con dế, con chuột, đến quả ớt, lá ráy...
A Thềnh chết vì ăn cắp ớt. Ðói triền miên. Ðói trong lúc ăn. Ðói trong lúc ngủ.
Ðói là sự triệt hạ nhân phẩm bằng đường thực phẩm. Ðói khiến tù phải hạ mình,
phải tố giác nhau vì miếng ăn. Tiếng chim "khó khăn", "khắc phục",
"còn khổ", tiếng chim "ối con ơi!" cất lên như tiếng định mệnh
của người tù dội về từ kiếp khác.Nhưng yếu tố ghê gớm hơn cả vẫn là thời gian: Thời gian vô định
của người tù cải tạo, người tù tư tưởng. Không có ngày về. Không biết ngày về.
Cái thời gian tàn bạo này có thể giết người không gươm giáo.Ðối diện với những phần tử triệt hạ con người, Ðói và Thời
gian, có một liều thuốc hồi sinh: đó là Mộng du. Mộng du còn là sáng tạo. Mộng
du về với người thân yêu, về với người yêu, cõi mộng du ấy đã giúp người tù sống
được trong cõi chết. Ðời tù chia hẳn thành hai lãnh vực: Lãnh vực thực tế, hiện
tại, khổ sai, đói rét và nhục nhã. Và lãnh vực yêu thương là những phút "mặc
niệm người thân", lấy chút dưỡng khí của tình yêu, của gia đình, tiếp vào
khí quản:Ðầu gối lên cùm sắt gỉ hanNghĩ tóc em xanh mười chín tuổiMái sương đêm những vì sao Hà NộiTrong nhật ký anh.Tóc em xanh trang nhật kýTrong hồ sơ mật an ninhCả đến tình yêu chúng ta cũng bị nhục hìnhCắn răng lại, em ơi, đừng khóc.(Quyển I, trang 187)Khi người vợ "góa sống" vượt đồi núi, vượt
đạn bom, đến thăm chồng "Em đem suốt nghìn đêm thương nhớ lại" và "Anh
giết dần từng giây địa ngục chờ em". Chính cõi mộng du đã cứu sống người
nghệ sĩ. Cung Trầm Tưởng cũng nói như vậy: Nếu không có nó -tức mộng
du, sáng tạo- thì tôi đã tự tử rồi.Mộng du giúp Bùi Ngọc Tấn sống lại những giờ phút thiêng
liêng nhất của cuộc đời: sống hoang toàng, xả láng với hạnh phúc, từ những nhục
cảm đầu đời, đến những giây phút cực cùng với bạn tù trong cõi chếtVà cũng chính cõi mộng du ấy đã triệt hạ con người sau
Goulag. Nó bắt người tù được thả, phải trở lại với thế giới trong tù, với những
người bạn còn đang dưới đáy, nó là một thứ lương tâm nhân loại, tàn ác không thể
loại trừ, nó theo đuổi con người như một bóng ma. những người đã thoát ngục,
không thể nào quên được những bộ xương còn nằm dưới đáy ngục, chính cái lương
tâm nhân loại ấy đã dấy lên, đã bắt Bùi Ngọc Tấn phải viết, phải làm chứng cho
những linh hồn oan khuất, đã vội sớm ra đi, không kịp để lại bút tích về sự hiện
hữu của chính mình.Bùi Ngọc Tấn dùng tâm, não, xương, thịt, đời tù của mình để tạo
ra tác phẩm. Trọng lượng cây thánh giá của người tù trên đường hành hương vào
cõi chết đã được tác giả mổ xẻ, cân đo, phân chất đến cội nguồn của cội nguồn,
gốc gác của gốc gác.Ngay từ khi nghe lời tuyên bố "lịch sử": "Anh
Nguyễn Văn Tuấn, hôm nay chúng tôi đến bắt anh đây", rồi qua những cửa ải
đầu tiên mà Bùi Ngọc Tấn gọi là bản dạo đầu, là xà lim, rồi cung vấn Nguyễn Văn
Tuấn, rồi lại xà lim, chờ đợi nhận tội. Anh không nhận đã có thời gian: Anh
không nhận chúng tôi cứ chờ. Chúng tôi kiên trì, chúng tôi có thời gian hậu thuẫn.
Cái thứ thời gian ác ôn, chôn vùi hàng vạn đời người trong lòng ngục.Bữa bún chả đầu tiên, ngoài tù, do Mạc bán máu lấy tiền khoản
đãi "Chúng tao không dám nói. Sợ mày khinh, ăn không ngon. Sợ nghĩ là mày
ăn thịt nó. Nó bán máu và bán luôn cả cái phiếu đậu bồi dưỡng." (Quyển I,
trang 201)Từ đây bắt đầu cuộc đời "tại ngoại"."Tại ngoại", người tù trở thành một thứ "phó
dân".Xã hội tại ngoại, dường như còn tanh tưởi, vấy máu hơn xã hội
trong tù."Thịt chỉ bán cho những người bán máu. Hắn về tay không
và nghĩ đến Vũ Mạc. Thịt hiếm thế này Vũ Mạc kiếm được đây. Mạc bán máu và bao
giờ cũng bán nốt mọi thứ phiếu bồi dưỡng." (Quyển II, trang 77)Xã hội tại ngoại không dung những thứ phó dân như già Ðô, như
Giang, như Tuấn... Hệ thống công an như một con mắt khổng lồ vô hình, vẫn tiếp
tục chõ vào cuộc đời của người tù được thả cũng như đã từng soi sáng hết cả huyệt
lộ cuộc đời những người thân, bạn thân của tù, như Bình. "Bình bàng hoàng
khi biết mình có đuôi [...] Anh ngửi thấy cái mùi của nhà tù. Anh bắt đầu biết
anh bị theo dõi vào một buổi chiều thứ bẩy [...]Anh sôi lên vì sợ hãi, tuyệt vọng. Và có cảm giác của một con
thú bị nhốt trong chuồng, lồng lộn nhưng không sao thoát được. Thì ra họ có
toàn quyền làm những việc họ thích. Họ huy động cả guồng máy khổng lồ để hại
mình. Ðạp xe đi, anh cứ thấy vương vướng ở phía sau lưng. Dinh dính ở gáy. Một
cảm giác lạnh ở phía sau. Và bẩn. Và dính. Anh thở dài." (Quyển I, trang
460-461)"Anh biết anh chưa bị bắt thôi chứ anh đã mất tự do rồi.
Không thể gọi là tự do khi mình đi đâu, làm gì (kể cả đi đái), gặp ai, trò truyện
bao lâu, cũng có người quan sát và ghi sổ "Ðối tượng P2 về thăm con. Không
đi la cà các nhà hàng xóm. Ngủ ở nhà...". Vì chắc anh cũng phải có một con
số bí. Nhưng không biết họ đặt cho anh số bí gì nhỉ? P2 hay A18. Hay T5? Thật
là một trò chơi chết người. Và thật buồn là mình lại ở trong vòng chơi đó [...]Anh uống trà với chú em mà không biết mình uống gì. Anh đang
nghĩ đến những cái đuôi. Cẩn thận thật. những hai cái đuôi." (Quyển I,
trang 462-463)Cái cảm giác trên đây của Bình, không ít người đả trải qua.
Ðó là cảm giác dinh dính ở gáy. Một cảm giác lạnh ở phía sau. Lạnh. Và bẩn. Và
dính. Bùi Ngọc Tấn đã đi đến ngọn nguồn cảm giác của kẻ thấy mình có đuôi. Cảm
giác dinh dính này trong thơ Ðặng Ðình Hưng có nhắc đến, nhưng dùng trong một
hình tượng khác: Kẻ bị theo dõi thấy chân dinh dính dưới đất, và hắn đi vòng
con số 8 lộn ngược. Ðặng Ðình Hưng đưa ra một hình tượng tù ngục khác của nhà
thơ. Biệt tài của nhà văn, nhà thơ là họ có thể chỉ dùng vài chữ ngắn gọn, nhỏ
bé để bất tử hóa một hiện tượng rộng lớn, bao trùm xã hội. Hiện tượng bị công
an theo dõi dường như ai cũng đã trải qua khi đặt chân lên đất Việt, nhưng ghi
lại cái cảm tường Dinh dính. Lạnh. Và Bẩn thì chỉ có những ngòi bút biệt tài mới
chụp được để đưa nó vào cõi bất tử.Với một bút pháp như thế, những khuôn mặt như già Ðô, Triều
Phỉ, Sáng, Giang, A Thềnh, Lê Bá Di, Vũ Lượng... đã được nhà văn khắc tạc trong
hang đá của thời gian, dù họ đã suối vàng hay còn trần thế, những chân dung của
họ đã đi vào lịch sử, không phải lịch sử tầm thường của đời sống, cũng không phải
lịch sử khốc liệt của chiến tranh, mà là lịch sử chữ, lịch sử văn hóa của con
người.Vì những già Ðô, những Triều Phỉ, những Sáng, những Giang...
mà Hắn, nhà văn, phải viết, Hắn bắt buộc phải tự do. Nếu không có tự do hắn
cũng phải sáng tạo ra tự do để viết. Viết về nỗi đau của những người đã nằm xuống.
Viết về nỗi đau của một người và cũng là nỗi đau của dân tộc, của loài người.
Ðó là vấn đề trách nhiệm và nhân cách của hắn, nhà văn.Paris, tháng 3/2000Chú thích(1). Ðây là nguyên văn của nghị quyết: "Ngày 16/3/2000,
Bộ Văn Hóa Thông Tin đã ra quyết định số 395/QÐ-BVHTT, đình chỉ phát hành và
thu hồi, tiêu hủy cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của tác giả Bùi Ngọc Tấn do
nhà xuất bản Thanh Niên xuất bản vì đã vi phạm khoản 1 và 2, điều 33, luật xuất
bản. Ðiểm 1, điều 3, quy chế lưu chiểu xuất bản phẩm của Bộ Văn Hóa Thông Tin
(số 01/1998 QÐ-BVHTT ngày 30/7/1998). Ðiều 8 quy chế liên doanh về in và phát
hành xuất bản phẩm của Bộ Văn Hóa Thông Tin (số 75/1999 QÐ-BVHTT ngày 8/11/1999).
Cũng theo quyết định này, Ban Bí Thư Trung Ương Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí
Minh, cơ quan chủ quản Nhà Xuất Bản Thanh Niên có hình thức kỷ luật nghiêm khắc
Ban Giám Ðốc Nhà Xuất Bản Thanh Niên và những người có liên quan trong việc xuất
bản và phát hành cuốn Chuyện Kể Năm 2000." (trích báo Tin Tức số ra
ngày 17/3/2000)(2). Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội 1995Hiện tượng Bùi GiángSinh thời, Bùi Giáng bảo: "Hãy để cho tôi yên, tôi
dại. Ðừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có ai bàn đến thơ tôi." (1)
Có lẽ vì tôn trọng nhà thơ, cho nên ít ai bàn đến thơ ông (2). Ca tụng Bùi
Giáng thì nhiều, nhưng phê bình Bùi Giáng thì ít.Như thơ, Bùi Giáng sống tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng,
cả đời lục bát. Tại sao lục bát? Lục bát bởi vì, đối với Bùi Giáng: "Lục
bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển,
ba bẩy sông hồ." (3) Ðó là lộng ngôn Bùi Giáng.Về bản thân mình, Bùi Giáng tự họa: "Nhe răng cười
trong bóng tối... Không bao giờ bắt chuồn chuồn mà cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt
chuồn chuồn... Không thiết chi đọc sách mà vẫn cặm cụi đọc sách hoài... Chán
chường thi ca mà cứ làm thơ hoài... Chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng
được một vài trống canh." (4) Ðó là mâu thuẫn Bùi Giáng.Hỏi về tiểu sử, Bùi Giáng trả lời:Hỏi tên? Rằng biển xanh dâuHỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa.Gọi tên là một hai ba,Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.Ðó là vô căn Bùi Giáng.Trên báo Văn, số 26 tháng 8 năm 1984, Mai Thảo kể lại rằng
khi hỏi về cái lực viết phi phàm của Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền lắc đầu cười:
"Chịu, không giải thích được. [...] Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng là
đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận, vô cùng là đúng hơn. Ngủ ra
thơ. Thở ra thơ. Ði ra thơ. Ðứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm
thơ."Vẫn theo lời Mai Thảo, ông Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản
An Tiêm, thuật lại: "Ảnh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi
viết hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra
sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in
không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng,
buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm bẩy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ
thôi, đâu có thì giờ đọc."Mai Thảo kể tiếp, khi làm số Văn, đặc biệt về Bùi
Giáng: "Tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Ông gật. Tưởng lấy ở
túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi
mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống và
trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ [...] Lần đầu
tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ
không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, xa quá, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút, từ đầu
ngón thôi [...] Lần đó, tôi đã thấy, đã hiểu tại sao Bùi Giáng, cứ cánh bướm
rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi."Về những cơn điên Bùi Giáng, Phạm Xuân Ðài kể trong lời tựa tập
Thơ Bùi Giáng (5): "Chỉ có thơ và những cơn điên [...] Bây giờ (năm
1992) anh ít làm thơ lắm, còn các cơn điên thì vẫn viếng thăm anh gần như định
kỳ. Những lúc ấy anh đi nhiều nơi, nhưng thường xuất hiện ở vùng chợ Trương
Minh Giảng (chỗ Ðại Học Vạn Hạnh, là nơi ngày xưa anh thường trú ngụ) đứng giữa
đường vung tay, điều khiển xe cộ, cử chỉ rất linh động, đặc biệt đôi mắt sáng
quắc bừng bừng [...] Có khi anh múa may trong một lớp áo lòe loẹt, động tác mạnh
mẽ chính xác gần như múa võ, miệng hò hét như đang nạt nộ với một đối tượng vô
hình."Ðó là hiện tượng Bùi Giáng, qua lời kể của những người thân
trong giới văn học.
|
Bùi Giáng là ai? Bùi Văn Vịnh, em của Bùi Giáng, cho biết
(6): Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu, huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ, học trường Bảo An tại Ðiện Bàn, Quảng Nam, trung
học ở trường Thuận Hóa, Huế. Năm 1950, đậu Tú Tài II văn chương ở Liên Khu V.
Sau đó ra Liên Khu IV học tiếp đại học. Nhưng sau khi nghe qua bài diễn văn
khai giảng của ông viện trưởng, Bùi Giáng quay về Quảng Nam và bắt đầu quãng
đời được gọi là "Mười lăm năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt". Tháng năm 1952, Bùi Giáng về Huế thi Tú Tài tương đương và
vào Sài gòn ghi danh Ðại Học Văn Khoa. Lần này, sau khi nhìn danh sách giáo sư giảng dậy ở Văn
Khoa, Bùi Giáng quyết định chấm dứt việc học ở trường và bắt đầu viết khảo luận,
sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục. Từ 1957 đến 1997, Bùi Giáng có khoảng 55 tác phẩm đã in về thơ, dịch và triết. Như lời Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tuệ, thơ có đến nghìn bài. Và nội trong một ngày, có thể ném bịch một vài trăm trang sách. Ðúng là một kỷ lục có một không hai. |

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét