Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2024
Sóng từ trường 3b00000
Con nữ của Đỗ Quỳnh Dao
Thu 2003, Lê Bá Ðảng triển lãm Thiền xanh ở
Paris dưới tiêu đề Thu xanh. Sang xuân 2004, Thiền xanh về
Huế cùng những sáng tác khác, tạo nên chủ đề Muôn, Một: muôn vàn
trong một, một trong muôn vàn: mỗi nét ẩn dấu muôn sự đời và biết bao sự đời
gói trọn trong vài nét phác.
Điểm đặc biệt thứ tư trong Dương Nghiễm Mậu là truyện không
còn "tác giả" và "nhân vật" theo nghĩa truyền thống: nhà
văn chối bỏ quyền thượng đế tối cao tạo nặn ra nhân vật, bắt khoan bắt nhặt như
trong hệ thống dựng truyện cổ điển. Ở đây nhà văn chỉ có phận sự "ghi
chép" những gì đã và đang xẩy ra; chữ tôi không thuộc quyền
sở hữu duy nhất của nhân vật chính, mà mỗi nhân vật trong truyện đều có
quyền xưng tôi như thể họ là "tác giả" của chính mình, tự xác định
cái tôi hiện hữu của mình qua hành động. Nét đặc thù thứ tư này phát xuất từ
ảnh hưởng giao thoa giữa triết học hiện sinh và tiểu thuyết mới, tạo ra cách viết
"đa âm" với những cái tôi biệt lập như trong Gia tài người mẹ:
không có "cốt truyện " về gia đình mà mỗi nhân vật trong truyện, mỗi
người con, đều có quyền đưa ra một thoại khác về sự xâu xé trong gia đình.
Trong Đêm tóc rối - kẻ xưng tôi, nhân vật chính, Lễ, một kẻ mất
định hướng (desaxé), không tin bất cứ gì: tình yêu, nhân nghĩa, đạo đức, hy
sinh... Trong Con sâu, cũng không có cốt truyện về chiến tranh, mà
năm nhân vật chính đều xưng tôi, đều là lính hoặc bạn lính, đều độc thoại nội
tâm và đưa ra những cái nhìn khác nhau về hạnh phúc, về con người, về chiến
tranh, về cái chết.
Tuổi nước độc tiêu biểu cho hệ tư tưởng của Dương Nghiễm Mậu về con
người, về tính chất hư vô trong cuộc sống, về bạo lực gia đình dẫn đến bạo lực
chiến tranh. Ngạc và các bạn khởi đi từ tuổi nước độc để sau
này, trưởng thành, gặp Lễ trong Đêm tóc rối (1965). Lễ đong
đưa giữa một "con đĩ già" và một người con gái trinh nguyên. Giữa xác
thịt và tình yêu. Hoàn toàn mất niềm tin, mất định hướng. Lễ, nhân vật
hư vô, bất lực trước cuộc sống, hoài nghi tất cả những gì "tích cực",
kẻ luôn luôn tự hỏi "tại sao tôi không là một người khác?" Tất
cả những hành động của Lễ không mang một ý nghĩa nào: "tại sao tôi
không kiếm ra lý do và mục đích cho một hoạt động nào đó, như Khang đã đi, như
Thục đi làm nuôi vợ con, như Khánh đang chiến đấu ngoài mặt trận, như Mạnh đang
vùi đầu trong thư viện, như Nghiêm ôm ấp mộng tưởng trở thành nhà văn. Họ có lý
do và mục đích. Còn tôi, tôi không có gì cả. Và cũng từ đó tôi hoài nghi công
việc của người khác. Biết đâu họ cũng như tôi, và họ tự lừa họ như thế." (Đêm
tóc rối, nxb Thời Mới, 1965, trang 15). Lễ không tìm thấy một lý lẽ nào chấp
nhận được cho sự tồn tại của mình, bởi đằng sau những bức bình phong của lý lẽ,
bao giờ cũng có khoảng trống của hoài nghi, của không thực. Thục đi làm nuôi vợ
con ư? Có thực thế không? Thục hạnh phúc ư? Có thật thế không? Thế nào là hạnh
phúc? Nếu Lễ tìm thấy một, chỉ một câu trả lời xác định thôi trong tất cả những
câu hỏi đó có lẽ anh đã "sống đẹp" hơn. Nhưng không có gì xác định
trong cõi đời này. Mọi xác định đều hồ đồ, kệch kỡm, thô thiển, giả tạo. Lễ dốc
toàn lực để hỏi tra. Tra hỏi tình yêu. Tra hỏi hạnh phúc. Tra hỏi mục đích của
cuộc đời. Tra hỏi sự hư hỏng của mình. Tra hỏi thành công, thất bại. Tra hỏi ý
nghĩa cuộc sống... rặt một trả lời: trống không, vô nghĩa. Về người yêu
cũ "Quyên đã đánh cắp tình yêu của tôi làm vốn liếng trong một
chuyến buôn hạnh phúc gian lận" (sđd, trang 28), về mình "bây
giờ anh chung sống với một con đĩ già... anh không oán em, nhưng anh thâm thù hạnh
phúc. Đôi cánh đã gãy, thiên thần và dòi bọ giống nhau" (sđd,
trang 49), "tôi hoài nghi những thần tượng, sự trong sạch, tinh
khiết, những điều chúng ta gọi là lý tưởng. Tôi ngờ ngay những nhận thức của
tôi. Tôi biết rõ một điều về tôi, sự hoang mang, mâu thuẫn..." (sđd,
trang 41). Dưới huyệt của "tuyệt vọng và hư vô", Lễ tìm đến thân xác
mụ Liên như chiếc hầm trú nhơ nhớp, che những quằn quại bùn xình trong óc "Những
cử động nhận chìm cơ thể tôi vào một hồ đất bùn đen nhớp nháp, nhưng ở đó những
đá sỏi sắc cạnh, hay gai góc của rừng làm tê buốt, nhức nhối, cùng đó trí óc
mưng tấy rồi co rút mang cả người tôi chúi xuống một cơn bão giật, lắc đi lắc lại,
như những hạt thóc đang được lắc trong cối xay... Những cảm giác đen nhầy nhụa
tan đi trong giây phút của nhiệt độ, rồi lả dần xuống cảm giác bải hoải tê mỏi
những nhớp nháp trầy trụa như vết chân cọ dài trên mặt đất sét cứng mà cơn mưa
vẫn còn rả rích. Nỗi cô đơn chót vót ngất ngư dâng lên trong tôi kéo dài...
trong một lúc nào thức dậy của trí tuệ, tôi gớm tôi, tôi lẩn tránh tôi những
thói quen, nhưng những thói quen như một chiếc lưới đen [...] chụp xuống, quấn
tròn tôi lại và quăng ra xa..." (sđd, trang 43). Trong đêm đen, Lễ
vẫn cố hướng sáng về cứ điểm cuối cùng "Em hãy mang anh trở về căn
nhà xưa, nơi mẹ anh đã chết". Bởi trùm phủ lên tất cả vẫn là mẹ.
Mẹ chiến tranh, mẹ gây chiến tranh và chết vì chiến tranh. Mẹ bỏ con một mình
trong cuộc chiến hư vô tàn nhẫn "Chiến tranh đã kéo dài từ bao giờ.
Bố tôi chết trong chiến tranh đó sau nhiều năm lặn lội và bỏ mẹ tôi một mình. Mẹ
tôi chết trong đó và bỏ tôi lại không nhớ chút gì. Chiến tranh vẫn kéo dài tôi
mất Quyên trong đời sống một người khác và tương lai một thời thái bình tôi
chưa thấy làm tôi rỗng đi trong đầu, trong tim, mất đi trong mạch máu một sự sống cần
thiết, và chiến tranh kéo dài đến bao giờ" (sđd, trang 80). Những
nhân vật trong Đêm tóc rối cùng chung nhau một bóng đêm,
một vùng tóc rối, họ mò mẫm từng bước trong khu rừng bấp bênh, đầy
lường gạt, ngộ nhận, trống rỗng và vô nghĩa. Lễ tỉnh táo, ý thức được tình trạng
"hư vô" của mình "có phải mọi người đều có hạnh phúc và
riêng tôi một mình hư vô trong cuộc sống. Có trời không. Trời làm gì, nghĩ gì,
đi đâu. Tôi nằm đây là cái gì. Chiếc bàn, cái ghế, tờ giấy, chiếc ảnh, số phận
nào, định đặt nào?" (sđd, trang 100).
Kinh cầu nguyện (1967) tập hợp nhiều truyện ngắn hay về những nỗi đau
trong mỗi trường hợp sống. Mỗi truyện là một vùng hoang tưởng xuất phát từ những
nguồn khác nhau, có thể từ sự chia cắt giữa hai mẹ con, khi người mẹ sắp đi lấy
chồng, người con trai hụt hẫng tưởng mình bước vào cõi chết như truyện Mẹ
và con. Và cũng có thể như Bên sườn núi đá có hồn lão ngư
ông và biển cả, viết về hai kẻ thuyền chài trên hải đảo; một già một trẻ, một
người đã từng mải mê cuộc sống thủy thủ giang hồ, bỏ bê gia đình, một người
đang đổi đời mình cho biển lấy về mẻ cá nuôi vợ con. Họ gặp nhau trong cô đơn,
trong nghiệt ngã của cuộc sống, trong những nghi vấn chưa thành lời về sự tồn
sinh. Một kẻ đã gần đến cuối đường, một kẻ chưa đi hết nửa, những câu hỏi còn
đang bỏ ngỏ nhưng họ đã bị gió bão cuốn đi và những trả lời chìm sâu đáy nước.
Lòng tôi vụt trở nên thương nhớ thăm thẳm gấp mấy giọng hát u
hoài...Trong giây phút, đặt sách vào lòng, tôi thấy nhộn nhạo trong lồng ngực
và ước muốn được làm ngay cái anh chàng Mai Sinh kia..." (Tóc chị Hoài, Nguyễn
Tuân toàn tập II, trang 657-658). Chất huyền ảo fantastique của Nguyễn Tuân
bắt đầu từ đây, từ mái tóc lãng mạn của chị Hoài, trước khi rẽ sang ngả kinh dị
của yêu ngôn. Ðọc Tóc chị Hoài, nhiều cảm giác khác lạ
nẩy sinh cùng một lúc: chị Hoài không chỉ nằm trong tâm hồn Nguyễn Tuân, mà
hình như, có lúc tóc chị còn xõa xuống dưới chiếc lược ngà của Alain
Robbe-Grillet trong La Jalousie (Bức mành mành) và
giọng nói chị cũng đã đôi lúc ngược thời gian, sẽ sàng rơi vào tai cậu bé
Marcel Proust nửa đêm đang ngái ngủ trên giường Combray, những lời đầy mộng mị...
rồi cảm giác nhẹ nhàng, êm ái, của mái tóc, của âm thanh thầm thỉ ấy còn vọng
cao mãi lên như tiếng nước mây trong không gian Hàn Mặc Tử... Và những cảm giác
ấy nếu có đến với ta thì cũng không lạ bởi tất cả hình hài, thể xác và tâm hồn
chị Hoài đã được tạo ra từ nghệ thuật, chị được nặn trong tinh chất của những
cái đẹp cất trong kho văn chương, hội họa của đời, chẳng phải vậy mà nhà văn
nhà thơ họa sĩ nào cũng có chút phần mình trong đó. Là nghệ thuật nên chị Hoài
ghen với nghệ thuật "chị chỉ ghét có nghệ thuật" có
lẽ vì nó như cái gương mà mỗi lần soi, nó cho chị biết xa kia vẫn còn có những
mái tóc khác đẹp hơn mình. Tóc chị Hoài, không chỉ là mớ tóc biết
nói, mà nó là suối tóc kết hàng ức triệu sợi cô đơn tuyệt đối của nhà văn trước
tờ giấy trắng, trước cuộc đời không người tâm sự, không kẻ hàn huyên, bước vào
sáng tạo như lạc vào khoảng trống của những Bá Nha không Tử Kỳ, cho nên phải tạo
đến cả tử kỳ huyền ảo.
Hướng vào nhà khách và cách nhà độ ba mươi bộ, có một cái gò
con. Chỏm gò phất phơ toàn một giống thạch sương bồ. Sườn gò, đây đó ít gốc rền
tiá. Gò ấy, chính là huyệt rượu. Bá Nhỡ chôn cơm men và rượu cất ở mả rượu ấy.
Ngoài Bá Nhỡ ra, cấm dân ấp không được ai lai vãng gần tửu phần. Tửu phần đã
phân ra từng khu đông tây nam bắc và chia từng hàng luống như ở một nghĩa trang
sơn thôn. Trên các khu và các luống tửu phần, có những thẻ tre sơn vôi trắng,
viết chữ đen và sơn đỏ, có thể lẫn với bài bùa phù thủy. Ấy là Bá Nhỡ ghi ngày
tháng từng lứa rượu và đặt tên cho từng mẻ rượu... Vô cố nhân - Mê Thảo Hầu -
Thuần Hoành Quận Chúa - Ức Sấu Viên [...]
Paris tháng 10-2003
Trong Nguyễn Tuân toàn tập, I, Nguyễn Đăng Mạnh lấy lại tên Bữa rượu máu với chú thích sau đây: "Đã đăng Tạp chí Tao Đàn, số 4 năm 1939. Khi đưa vào tập Vang bóng một thời (1940) bị cắt xén những chi tiết quan trọng và đổi tên là Chém treo ngành" (trang 485).
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Sóng từ trường 3b00000
Sóng từ trường 3b Con nữ của Đỗ Quỳnh Dao Con nữ , giao điểm giữa nhà văn và thầy thuốc, giữa văn chương và y học. Với tác phẩm đầu tay, Đỗ ...
-
Vài nét về văn học Đông Nam Á Đặc điểm của văn học Đông Nam Á (ĐNA) Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức m...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
-
Sự tích mặt đất và muôn loài Trái đất ngày xưa không được đẹp như bây giờ, một nửa đất sống, một nửa đất chết. Lúc ấy bề mặt quả đất ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét