Steven Weinberg (nhà vật lý
Mỹ, giải thưởng Nobel 1979), đã kết thúc cuốn sách "Ba phút đầu tiên - một
cách nhìn hiện đại về vũ trụ” bằng một ý tưởng độc đáo: "Sự cố gắng hiếu
biết về Vũ trụ là một trong rất ít cái làm cho đời sống con người được nâng lên
cao hơn trình độ của một hài kịch và cho nó một phần nào dáng đẹp của một bi kịch”.
Albert Einstein đã cống hiến
trọn vẹn cuộc đời đầy bi kịch của mình cho "sự cố gắng hiểu biết về vũ trụ”
ấy với cả một vầng hào quang các giai thoại hài hước, cùng với dáng điệu ngộ
nghĩnh không trộn lẫn vào đâu được, nhưng gần gũi với tất cả mọi người, như kiểu
vua hề Charlie Chaplin.
Sự hiểu biết về Vũ trụ mênh
mông, huyền bí luôn luôn là khát vọng cháy bỏng của con người. Ta là ai? Ta từ
đâu tới và sẽ đi về đâu? Đâu là điểm tựa của Đức Tin duy trì sự trương tồn của
nhân loại? Nhũng câu hỏi huyết mạch muôn thuở ấy đã thôi thúc con người tìm hiểu
nguồn gốc của Vũ trụ, của vật chất, của không gian và thời gian. Và chính những
quan niệm (hay là sự hiểu biết) ấy là nguồn gốc của mọi nền Văn minh và Văn
hóa.
Trong
suốt hơn năm trăm nghìn năm lịch sử của mình, loài người mới chỉ có hai lần may
mắn được chứng kiến những thay đối có tính cách mạng trong những quan niệm đó.
Lần thứ nhất do nhà thiên văn học Ba Lan kiệt xuất, Copernic (1473- 1543), mở đầu
bằng một kết luận khoa học bác bỏ quan điểm "Trái đất là trung tâm Vũ trụ!".
Kết luận ấy đã xé tan bức màn đen của đêm dài Trung cổ, đưa loài người sang thời
kỳ Phục hưng. Đó chính là cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất với sự hình
thành và phát triển vật lý - thiên văn cổ điển do công lao sáng tạo của nhiều
thế hệ các nhà khoa học, mà tiêu biểu là Kepler (Ba Lan), Galilée (Ý) và Newton
(Anh).
Einstein là người đột phá
trong cuộc cách mạng khoa học lần thứ hai, đúng vào lúc khoa học cổ điển tương
chừng như sắp có thể hoàn chỉnh sự mô tả toàn bộ Vũ trụ bằng giả thuyết chất
ether tràn ngập không gian. Với trí tưởng tượng , siêu đẳng và trực giác bẩm
sinh, Einstein đã làm đố vỡ nền móng của khoa học cổ điển bằng lập luận khoa học
xác đáng phủ nhận sụ tồn tại của chất ether, và do đó phủ nhận luôn cả hai cái
tuyệt đối của khoa học cổ điển (không gian tuyệt đối. Và thời gian tuyệt đối) bằng
Thuyết tương đối bất hủ của mình. Lúc đó, cả thế giới triết học lẫn khoa học đã
chao đảo như có ai đó, (hẳn là Einstein rồi!), rút mạnh tấm thảm dưới chân
mình. Cùng với Thuyết lượng tử, Einstein cũng đóng góp một phần không nhỏ,
Thuyết tương đối của riêng Einstein là phiến đá tảng của nền khoa học và công
nghệ hiện đại - một trong vài ba nét đặc trưng quan trọng nhất của thế kỷ XX.
Vì thế, Einstein đã được cộng đồng các nhà khoa học thế giới chọn làm biểu tượng
của thế kỷ vừa qua - thế kỷ của khoa học và cồng nghệ (xin xem Tạp chí
"Time", số 31/12/1999).
Cuộc đời của Einstein đã
không suôn sẻ ngay từ nhỏ. Bên cạnh người mẹ độc đoán, cậu bé Einstein chậm biết
nói và hay "nổi loạn" chỉ có được một niềm an ủi duy nhất: bà đã khuyến
khích con mình ham mê âm nhạc cổ điển và chơi đàn violon. Với người bố dễ dãi
và thất bại liên tục trong kinh doanh, Einstein chỉ còn giữ một kỷ niệm duy nhất
về một món quà đã gây cho cậu thú vui tò mò đầu tiên: chiếc la bàn (vì sao đầu
kim của nó luôn quay về phương Bắc ?). Einstein đã phải tự quyết định con
đường học tập của mình từ năm 15 tuổi. Từ bỏ trường trung học có khuynh hướng
quân sự, Einstein sang Thụy Sĩ và tốt nghiệp Trường Đại học Bách khoa Zurich rồi
làm việc tại cơ quan đăng ký sáng chế - phát minh. Chính ở đây, vào năm 1905,
ông đã công bố các kết quả nghiên cứu khoa học của mình (khi 26 tuổi). Chỉ với
hai bài báo rất ngắn gọn, trình bày hai công trình nghiên cứu quan trọng nhất,
Einstein đã trở thành một trong các nhà vật lý hàng đầu thế giới. Một trong hai
bài báo đó trình bày kết quả nghiên cứu về hiện tượng quang - điện mà sau này,
vào năm 1921, đã mang lại cho ông giải thưởng Nobel. Trớ trêu thay, công trình
nghiên cứu mang lại cho ông niềm vinh quang bất diệt lại đã không hề nhận được
bất kỳ giải thưởng nào: công trình về Thuyết tương đối hợp với những kết quả
làm đảo lộn toàn bộ khái niệm đương thời về không gian, thời gian và thực tại
(Reality).
Trong công trình này, Einstein
đã đặt ra bài toán: nếu ta trưởng một con tàu chuyển động với vận tốc bằng tốc
độ ánh sáng thì ta sẽ thấy sóng ánh sáng thế nào? Liệu ta có thấy không gian và
thời gian khác đi so với bình thường ta vẫn thấy? ông đã giải bài toán ấy một
cách chính xác và đi đến các kết luận kinh hoàng đối với khoa học thời đó: tốc
độ ánh sáng là không đổi, gần bằng 300.000 km/giây, bất kể ta chuyển động về
phía nguồn sáng hay ngược lại. Và không gian cũng như thời gian là tương đối: nếu
tốc độ chuyển động của con tầu gần bằng tốc độ ánh sáng, thì thời gian trên con
tầu chậm hơn so với lúc nó đứng yên (hoặc chuyển động chậm hơn), đồng thời
chính con tầu cũng sẽ trở nên ngắn hơn và nặng hơn. Nói cách khác, không tồn tại
chất ether và không có cái gì là tuyệt đối cả. Quan điểm này về sau đã lan truyền
sang các lĩnh vực văn học, nghệ thuật... thậm chí cả đạo đức trong suốt thế kỷ
XX.
Đi xa hơn nữa, Einstein còn
chứng minh rằng năng lượng và vật chất (khối lượng) là hai mặt khác nhau của
cùng một thực thể. Quan hệ giữa chúng được mô tả bằng một phương trình rất đơn
giản nhưng lại cực kỳ lợi hại: E = mc2 (E là năng lượng được giải phóng khi vật
chất bị hụt đi một khối lượng bằng m, c là tốc độ ánh sáng). Đây chính là nguồn
gốc của năng lượng nguyên tử, và đau đớn thay (như sau này ông từng than thở) của
cả bom nguyên tử nữa!
Ngay từ năm 1907, ông đã nhận
thấy Thuyết tương đối hẹp của mình tuy phù hợp với các định luật Điện - Từ trường
(đã được xác lập một cách hoàn chỉnh), nhưng không tương thích với Định luật Trọng
trường của Newton (đã được xác lập một cách còn có vẻ như hoàn chỉnh hơn!). Định
luật Newton đã dẫn đến kết quả là: nếu ta thay đổi sự phân bố vật chất ở một
vùng nào đó trong không gian thì trọng trường trong toàn bộ Vũ trụ tức thời
thay đổi. Có nghĩa là về nguyên tắc có thể truyền tín hiệu với vận tốc lớn hơn
vận tốc ánh sáng, và hơn thế nữa, thời gian là tuyệt đối. Điều đó mâu thuẫn với
Thuyết tương đối hẹp. Để khắc phục mâu thuẫn này, Einstein đã lập luận rằng, ắt
phải có một mối liên hệ nào đó giũa trọng trường và chuyển động gia tốc. Mối
liên hệ đó được ông -mô tả bằng sự uốn cong của không- thời gian bốn chiều (ba
- chiều không gian và một chiều thời gian) dưới tác động gian) dưới tác động của
khối lượng (năng lượng). Đó chính là Thuyết tương đối tổng quát, khác với
Thuyêt tương đối hẹp ở chỗ có sự hiện diện của trọng trường. Einstein đã công bố
công trình đồ sộ này của mình vào năm 1916, có lẽ đó là đỉnh cao nhất trong cuộc
đời sáng tạo của ông.
Từ đây cho đến khi qua đời,
Einstein không làm được gì đáng kể hơn cho khoa học nữa, mặc dầu ông đã dồn tất
cả tinh lực của mình cho niềm đam mê cuồng nhiệt: tìm hiểu chân lý khoa học về
nguồn gốc vũ trụ. Cũng bắt đầu từ đây, cuộc sống riêng của ông gặp nhiều trắc
trở, và như để bù lại, tiếng tăm của ông càng ngày càng nổi như sóng cồn.
Tình duyên lỡ dở với người bạn
gái thông minh cùng lớp, cùng mê say cả vật lý lẫn âm nhạc là bi kịch nặng nề của
đời ông. Sau khi đứa con ngoài pháp luật của họ chết ngay sau khi ra đời.
Einstein vẫn cưới người yêu của mình mặc cho gia đình phản đối. Họ đã chia tay
nhau sau một thời gian ngắn, rồi lại chung sống, để rồi lại vĩnh viên chia tay
vào năm 1919. Khi chia tay, Einstein hứa dành tiền thưởng của giải Nobel, mà
ông tin chắc là sẽ có được, cho vợ và hai người con trai của họ. Hai năm sau,
khi nhận giải thưởng, ông đã làm đúng như điều đã hứa.
Trong khoa học, Einstein
cũng không còn may mắn nữa. Ông đã tự mình làm hồng phần nào vẻ đẹp toàn bích của
Thuyết tương đối tổng quát bằng cách thêm vào phương trình nguyên thuỷ "hằng
số vũ trụ” một cách vô căn cứ hòng chứng minh vũ trụ là "vô thủy vô
chung" (như mọi người, kể cả ông, tưởng thế!). Giá như ông không “bịa"
ra cái hằng số quái quỷ ấy, thì phương trình của ông đã mô tả đúng: Vũ trụ đang
nở sau một vụ nổ lớn Bia Bang, đúng như mô hình chuẩn của vũ trụ mà ngày nay được
coi là gần với hiện thực nhất. Trong lúc cả gan “bịa" ra "hằng số vũ
trụ” thì Einstein lại không thể nào chấp nhận nổi sự mập mờ “bất khả trị” của
cơ học lượng tử (xin xem bài “Bohr chưa hắn đã sai” của tác giả, Tạp chí Tia
Sáng số 6/1999). Nhiều lần trong khi tranh luận với Bohr, người bênh vực một
cách không nhân nhượng hệ thức bất định Heisenberg, Einstein cứ lúc lắc cái đầu
to với mớ tóc bù xù và lẩm bẩm: “Thượng đế không chơi trò xúc xắc!". Có lần
Bohr nổi giận, vặc lại: “Thôi đi Einstein, đừng bảo Thượng đế phái làm
gì ?” Điều đó đã dày vò Einstein suốt đời, đến nỗi trước khi mất một
năm, năm 1954, ông còn than vãn: "Tôi chắc giống như con đà điểu, rúc đầu
mãi vào đông cát thấy con quỷ “tương đối” để khỏi phải tìm thấy con quỷ “Lượng
tử” . Khốn thay trong đống cát "Tương đối" ấy ông càng trở nên bất
hạnh hơn: suốt ba mươi năm cuối đời ông đã sa lầy vào cái "bẫy" Lý
thuyết trường thống nhất (chứa đựng cả điện - từ trường và trọng trường) mà
không sao thoát ra được. Ngày nay, Lý thuyết trường thống nhất vẫn còn là giấc
mơ xa vời của các nhà vật.
Trong những năm 20, Einstein
đã sống trong hoàn cảnh bị kìm kẹp bởi chủ nghĩa bài Do thái của Đức quốc xã,
nhất là sau khi ông cùng ba nhà khoa học Đức khác, ông sang Mỹ năm 1933 và làm
việc cho đến cuối đời tại Viện nghiên cứu cao cấp ở Princeton N.Y.
Trong suốt 20 năm, Einstein
là linh hồn của Viện này. Với tính tình bộc trực, hồn nhiên, giản dị là vô cùng
hóm hỉnh, ông à bạn của mọi người trong thành phố, tù các nhà khoa lọc lớn đến
các cháu nhỏ da mầu con của các gia đình lao động nghèo. Chuyện kề rằng, khi
ông tới Princeton, có người hỏi: “Sao ông không thay cái áo măng tô này
đi ? Nó sờn cũ rồi".
Ông trả lời: "Ôi dào! Ở đây có ai biết tôi
là ai đâu mà lo!”. Mấy năm sau người ta vẫn thấy ông mặc chiếc áo đó, ông lại
biện bạch: ( Vẽ ! ở đây ai người ta chê, mà tôi thay làm
gì!". Tấm áo cũ kỹ ấy ấp ủ một tấm lòng vị tha và một trái tim nhân hậu. Với
tấm lòng vị tha và trái tim nhân hậu ấy, Einstein đã trở thành một nhà hoạt động
xã hội nhiệt thành và hơn thế nữa, một nhà hoạt động chính trị nhân văn cao độ.
Năm 1939, khi được biết Đức quốc xã âm mưu phát triển vũ khí nguyên tử, ông đã
viết thư thúc giục Tổng thống Roosevelt, D. Franklin phê duyệt đề án
chế tạo bom nguyên tử của Mỹ. Thế nhưng, khi được biết hai quả bom nguyên tử đã
rơi xuống Hiroshima và Nagasaki vào cuối Thế chiến thứ hai thì Einstein đã vô
cùng hối hận. Ông thú nhận:
"Có lẽ đó là sai lầm lớn nhất của đời tôi”. Từ
đó, ông đã trở thành một chiến sỹ hòa bình tích cực, ra sức chống chiến tranh
phi nghĩa và chống phổ biến vũ khí nguyên tử. Tuy vậy chính trị “thực sự” thì
Einstein không màng. Khi nhà nước Do thái được thành lập năm 1952, người ta ngỏ
lời mới ông làm Tổng thống, ông từ chối với một quan điểm rất rõ ràng:
"Chính trị là nhất thời, phương trình là vĩnh cửu”. Ít ra là về sau của lời
tuyên bố ấy đã rất đúng: những phương trình của Thuyết tương đối tổng quát chắc
chắn sẽ trường tồn cùng vũ trụ. Ba năm sau đó, Einstein qua đời với sự bình
tĩnh và thanh thản lạ thường. Ông nói với những người thân vây quanh giường bệnh:
"Đừng bối rối thế! Ai mà chẳng phải chết một lần!". Trước đó ông đã từng
viết: "Nỗi lo sợ về cái chết là nét phổ quát rất dễ thương của loài người.
Đó là một trong những phương thức mà tạo hóa dùng để duy trì sự sống của muôn
loài. Nhưng công bằng mà nói, nỗi lo sợ ấy thật là khó biện minh, bởi vì chẳng
có rủi ro tai họa nào có thể xảy ra đối với một người đã chết”. Những người thực
hiện di chúc đã đưa ông trở về với cát bụi bằng cách rắc nắm tro thi hài lòng
ông vào thinh không. Họ đã không ngờ rằng, có một nhà bệnh lý học táo tợn dám cất
giấu bộ não của Einstein và bảo quản cho đến tận ngày nay. Nhờ thế mà gần đây,
các nhà khoa học Canada mới có điều kiện thông báo rằng: thùy não dưới (trung
tâm tư duy toán học và hình tượng không gian) của con người vĩ đại ấy lớn hơn
nhiều so với bình thường.
Einstein đã vĩnh biệt chúng
ta gần nửa thế kỷ rồi, nhưng tên tuổi và hình ảnh của ông sẽ mãi mãi sống cùng
thời gian. Người đời sau sẽ vẫn cứ luôn luôn kinh ngạc trước trí tuệ siêu phàm
của Einstein. Đồng thời, cũng sẽ mãi lưu truyền những câu cách ngôn hóm hỉnh mà
lúc nào ông cũng có thể úng khẩu một cách cũng dễ dàng nhượng làm toán vậy. Chẳng
hạn: "Khoa học là một thứ tuyệt vời nếu như ta không phải kiếm sống bằng
khoa học!”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét