Đột phá khoa học của
thế kỷ XX được đánh dấu bằng việc khám phá ra thuyết tương đối của nhà vật lý
học Albert Einstein ngay vào những năm đầu thế kỷ đã làm chấn động dư luận thế
giới, nhưng ý nghĩa lớn lao của nó, theo tôi nghĩ, lại chính là sự tác động dây
chuyền và có tính chất lâu dài trong suốt cả một thế kỷ, làm lung lay một
phương pháp tư tưởng đã hằn sâu thành nếp, chiếm địa vị độc tôn trong nghiên
cứu, có lúc gây bế tắc trì trệ cho nhiều ngành khoa học, không chỉ khoa học tự
nhiên mà cả khoa học xã hội và nhân văn - phương pháp duy lý cổ điển1 của phương Tây.
1. Trước
hết, xin kể một vài kỷ niệm của chính người viết bài này về sự cảm nhận
Einstein. Là thế hệ gần cuối của lớp học sinh kháng chiến chống Pháp trên mảnh
đất khu IV tuy gọi là vùng tự do nhưng thực chất rất ít có quan hệ thông thương
với thế giới bên ngoài, điều bất hạnh là tên tuổi Einstein ngay khi ông còn
sống đã không đến được với chúng tôi.
Mãi cho đến năm ông lìa bỏ cõi trần được cả nhân loại thương tiếc mà những học sinh cấp III ở Trường phổ thông Phan Đình Phùng, một ngôi trường nổi tiếng và cũng là ngôi trường duy nhất có cấp học cao nhất ở Hà Tĩnh thuở ấy vẫn không biết ông là ai, bởi một lẽ đơn giản, chương trình vật lý phổ thông bấy giờ không hề có một câu nào nhắc đến Einstein. Và các thầy giáo của chúng tôi - của đáng tội không thể trách họ - trong khi không tiếc lời đề cao những thiên tài khoa học Nga và Liên Xô như Lomonossov, Mendeleev, Lobachevski, Pavlov, Mitchourine-Lyssenko... đã không hề nói một câu nào về các nhà khoa học Âu Mỹ (trừ Darwin) nếu không là kích bác thậm tệ như đối với thuyết di truyền, và chắc họ cũng như chúng tôi chẳng hề biết Einstein là người nào. Không có gì đáng ngạc nhiên bởi vì tôi nhớ đây là năm mở đầu của cái trào lưu ngợi ca Liên Xô và Trung Quốc sau hòa bình lập lại, đánh dấu bằng cuộc triển lãm rầm rộ lưu động từ xã này qua xã khác về thành tựu khoa học của hai nước đàn anh trong phe xã hội chủ nghĩa, trong đó tôi còn nhớ như in người ta đã giới thiệu Liên Xô chế ra những thần dược làm cho con người trẻ mãi, còn Trung Quốc thì tiêm màu vào cây bông đến mức các thứ vải do những loại bông ấy làm ra có màu sắc tươi nguyên cho đến khi vải rách vẫn không phai. Xu hướng tụng ca một chiều mà sau này nhà thơ Việt Phương đã khái quát “Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ/Hình như đấy là niềm tin, ý chí và tự hào/Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ…” (Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi) bắt đầu nảy sinh từ đấy và ngày càng được khuếch đại, thì cũng dễ hiểu vì sao cái tên Einstein không đến tai người đi học những năm 50-55 dầu ở bậc cuối cấp học phổ thông. Nhưng từ 1956, lên đến đại học, thật là may mắn, tôi bắt đầu nghe tên Einstein qua một vị Giáo sư triết học, thầy Cao Xuân Huy, khi ông thuyết trình trong một buổi giảng về logique học: “Logique hình thức chỉ đáp ứng lý tính của chúng ta như một khoa học hiển ngôn bàn về chân ngụy của những phạm trù mà lý tính kiểm chứng được. Nhưng có một nhà vật lý người Đức là Einstein từ lâu đã tìm ra một học thuyết hết sức thâm viễn gọi là thuyết tương đối hẹp và rộng mà để hiểu được chúng, dù chỉ là một tí chút nào đấy, đòi hỏi chúng ta phải đảo lộn mọi logique thông thường”. Tôi ngạc nhiên và thích thú vô cùng.
Cái mệnh đề “A
không phải là phi A” bây giờ phải lộn ngược lại mới hiểu được Einstein sao? Con
người ấy là ai mà ghê gớm đến thế? Nhiều năm sau tôi mới biết thầy Cao Xuân Huy
đã tìm hiểu Einstein từ khá lâu khi đào sâu vào triết học phương Đông, nhưng
bấy giờ thì tôi chưa thấy mối liên quan nào giữa Einstein với nền triết học đó,
hơn nữa, dù cố gắng bao nhiêu tôi cũng chỉ hiểu Einstein một cách lờ mờ gần như
là huyền thoại.
Mãi cho đến năm ông lìa bỏ cõi trần được cả nhân loại thương tiếc mà những học sinh cấp III ở Trường phổ thông Phan Đình Phùng, một ngôi trường nổi tiếng và cũng là ngôi trường duy nhất có cấp học cao nhất ở Hà Tĩnh thuở ấy vẫn không biết ông là ai, bởi một lẽ đơn giản, chương trình vật lý phổ thông bấy giờ không hề có một câu nào nhắc đến Einstein. Và các thầy giáo của chúng tôi - của đáng tội không thể trách họ - trong khi không tiếc lời đề cao những thiên tài khoa học Nga và Liên Xô như Lomonossov, Mendeleev, Lobachevski, Pavlov, Mitchourine-Lyssenko... đã không hề nói một câu nào về các nhà khoa học Âu Mỹ (trừ Darwin) nếu không là kích bác thậm tệ như đối với thuyết di truyền, và chắc họ cũng như chúng tôi chẳng hề biết Einstein là người nào. Không có gì đáng ngạc nhiên bởi vì tôi nhớ đây là năm mở đầu của cái trào lưu ngợi ca Liên Xô và Trung Quốc sau hòa bình lập lại, đánh dấu bằng cuộc triển lãm rầm rộ lưu động từ xã này qua xã khác về thành tựu khoa học của hai nước đàn anh trong phe xã hội chủ nghĩa, trong đó tôi còn nhớ như in người ta đã giới thiệu Liên Xô chế ra những thần dược làm cho con người trẻ mãi, còn Trung Quốc thì tiêm màu vào cây bông đến mức các thứ vải do những loại bông ấy làm ra có màu sắc tươi nguyên cho đến khi vải rách vẫn không phai. Xu hướng tụng ca một chiều mà sau này nhà thơ Việt Phương đã khái quát “Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ/Hình như đấy là niềm tin, ý chí và tự hào/Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ…” (Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi) bắt đầu nảy sinh từ đấy và ngày càng được khuếch đại, thì cũng dễ hiểu vì sao cái tên Einstein không đến tai người đi học những năm 50-55 dầu ở bậc cuối cấp học phổ thông. Nhưng từ 1956, lên đến đại học, thật là may mắn, tôi bắt đầu nghe tên Einstein qua một vị Giáo sư triết học, thầy Cao Xuân Huy, khi ông thuyết trình trong một buổi giảng về logique học: “Logique hình thức chỉ đáp ứng lý tính của chúng ta như một khoa học hiển ngôn bàn về chân ngụy của những phạm trù mà lý tính kiểm chứng được. Nhưng có một nhà vật lý người Đức là Einstein từ lâu đã tìm ra một học thuyết hết sức thâm viễn gọi là thuyết tương đối hẹp và rộng mà để hiểu được chúng, dù chỉ là một tí chút nào đấy, đòi hỏi chúng ta phải đảo lộn mọi logique thông thường”. Tôi ngạc nhiên và thích thú vô cùng.
Lomonossov
(Hóa)
|
Mendeleev
(Hoá )
|
Lobachevski
(Toán)
|
Michourin
(Sinh)
|
Lyssenko
(Sinh)
|
Pavlov (Sinh) |
Sau chuyến công
tác trở về, gặp đêm Quốc khánh, chúng tôi rủ nhau ra Hồ Gươm xem pháo hoa.
Người chen nhau vòng trong vòng ngoài đông nườm nượp. Tôi và bạn tôi đi lòng
vòng cố tìm chỗ len vào phía trong để được xem cho rõ, chẳng ngờ lạc nhau. Anh
bạn chạy tít lên mãi đường Lê Thái Tổ còn tôi thì lại dạt về góc Tràng Tiền và
Đinh Tiên Hoàng. Khi pháo hoa bay lên tôi cứ có cảm tưởng bộ đội bắn chệch, đến
nỗi “hoa cà hoa cải” xanh đỏ nở tung hết cả phía trên đầu mình chứ không đúng
vào vị trí giữa hồ. Trở về tôi đem điều đó nói với bạn thì anh bạn ra sức cãi,
nói rằng chính là pháo hoa bay về phía chỗ đứng của anh. Chúng tôi cứ tranh
luận mãi mà chẳng ai chịu ai.Mãi đến năm
1959 ra trường, được phân công về Nhà xuất bản Lao động, hứng thú của tôi đối
với khoa học tự nhiên vẫn chưa nguôi. Một hôm đi công tác lên Việt Trì và là
lần đầu tiên trong đời được đi xe ô tô, tôi rất vui thích, mặc dầu đó là một
chiếc xe commanca với hai hàng ghế gỗ mà chúng tôi phải ngồi thành hai dãy quay
mặt vào nhau. Xe chạy một chốc, tôi đang lơ đãng nhìn vào các bạn phía trước
mặt mình, bỗng để ý thấy một chú ruồi đậu trên ve áo một người ở hàng ghế bên
ấy cất cánh bay sang đậu vào vai áo tôi. Chốc sau chú ta lại thảnh thơi bay
ngang bay dọc, đậu vào vai những người khác. Tôi hết sức kinh dị. Bởi vì tôi
biết xe ô tô đang chạy với một tốc độ rất nhanh, năm sáu chục kilômét một giờ
là ít. Vậy thì tại sao khi chú ruồi cất cánh bay khỏi vai người bạn của tôi nó
không bị chiếc xe đẩy tụt lại phía sau ngay lập tức mà thung dung như đang bay
trong một nơi yên tĩnh, chẳng hạn trong một ngôi nhà? Lực vô hình nào đã giữ nó
yên ổn vị trí trong khoảng không của ô tô? Cứ giả thử như chúng ta có cách gì
nhích người lên khỏi ghế lơ lửng giữa không trung thì thế nào? Tất nhiên ta sẽ
bị vận tốc ô tô đẩy tụt ra phía sau là cái chắc. Mà ô tô nào có kín gì đâu. Đó
là chiếc xe không cửa, đằng đuôi để trống, có một tấm gỗ chắn lưng lửng, người
lên kẻ xuống đều theo lối ấy, bầu không khí trong ô tô không phải giữ được cố
định như trong một chiếc bình vặn nút mà luôn luôn thay đổi, hài hòa với không
khí bên ngoài. Thế thì vì lẽ gì? Tò mò, tôi làm thêm một thí nghiệm cho riêng
mình: tôi xé một mảnh giấy trong cuốn sổ tay mang theo vo viên lại và cầm nó
giơ cao lên rồi thả xuống. Kỳ dị thay, viên giấy rơi thẳng xuống sàn ô tô mà
không rơi xéo ra phía sau như tôi tưởng, dù rằng khi viên giấy chạm sàn, ô tô
đã chạy được ít nhất cũng một mét. Nói rõ hơn, trong khi ô tô đang chạy, điểm
rơi của viên giấy xuống sàn xe vẫn như trong một căn phòng không có gió, nhưng
nếu ta so sánh với mặt đất ở điểm bắt đầu thả viên giấy thì thực tế viên giấy
đã rơi chếch về phía trước, và một người đứng ngoài ô tô thế tất phải nhìn thấy
viên giấy rơi chếch, trái ngược với người ngồi trong xe nhìn thấy viên giấy rơi thẳng xuống
sàn. Vậy phải chăng cái không gian trong chiếc ô tô lúc vận hành đã không đồng
nhất một cách tương đối với không gian bên ngoài, trong khi lý tính của chúng
ta thì cứ nghĩ nó hoàn toàn đồng nhất?
Về sau đọc đến cuốn Thuyết tương đối
là gì, một cuốn sách rất mỏng giải thích sơ lược thuyết tương đối của
Einstein nhưng cũng hết sức khó hiểu, tôi mới lờ mờ cảm nhận rằng những việc
“lạ” mình không lý giải được chắc có liên quan xa gần đến phát kiến “động trời”
của nhà vật lý người Đức hơn 50 năm trước. Có thể không phải lúc nào lực hấp
dẫn cũng có một tác động như nhau lên mọi vật đang chuyển động với những vận
tốc khác nhau. Đối với con người ngồi trên ô tô thì vận tốc năm sáu mươi
kilômét chẳng ảnh hưởng gì, nhưng với một vật nhỏ như con ruồi thì vận tốc ấy
ít nhiều đã tạo nên một trường hấp dẫn mới mà con ruồi sẽ tùy thuộc vào đó, bên
cạnh sự cố gắng của đôi cánh nó để thắng lực hấp dẫn của trái đất. Nghĩa là khi
ô tô chạy quả thực đã tạo ra trong lòng chiếc xe một không gian vận động tương đối
so với không gian yên tĩnh tương đối ngoài mặt đất, trong phạm vi ấy các con
vật bé tí như ruồi có thể hoạt động bình thường, không bị vận tốc ô tô làm cho
mình tụt lại. Cũng vậy, cảm giác về hướng bắn của pháo hoa giữa tôi và anh bạn
đồng sự nghe ra vô lý, kỳ thực cả hai đều đúng cả, do chúng tôi đứng ở hai vị
trí khác nhau để quan sát chuyển động của các chùm ánh sáng nên hình ảnh đập
vào thị giác mỗi người cũng có một độ lệch khác nhau tương đối. Thật ra nghĩ
ngợi thế thôi chứ về mặt khoa học, tôi biết những kiến giải của mình chẳng đâu
vào đâu, vì tốc độ của một chiếc ô tô và một chùm pháo hoa đâu có phải tốc độ
ánh sáng mà mong áp dụng được học thuyết tương đối Einstein. Hơn nữa, việc chú
ruồi bay thảnh thơi trong khoảng không của ô tô không bị tụt lại phía sau nếu
là do tác dụng của lực quán tính thì càng không có quan hệ gì đến thuyết tương
đối. Chẳng qua tuổi trẻ lãng mạn đã đưa tôi đến những liên tưởng “bốc đồng”, dầu sao đối với một người làm
khoa học xã hội, sự ngộ nhận đôi khi cũng là dịp phá vỡ nếp mòn, hơn thế dẫn
đến bứt phá và “đại ngộ”. Tôi hiểura
trong đời sống tự nhiên còn vô vàn chuyện bí ẩn mà các định luật có giá trị phổ
quát không phải lúc nào cũng dễ giải đáp. Ngay trắc nghiệm nhãn tiền cũng đã
cho thấy sờ sờ hai “không gian tương đối”, “hai điểm nhìn tương đối” mà bình
thường nào đã mấy ai chú ý. Từ đấy mà nhìn rộng sang nhiều lĩnh vực khác
của đời sống, sau nhiều năm trải nghiệm, tôi ngày càng thấm thía, không phải
những học thuyết về chính trị, kinh tế, triết học bao năm mình từng được nghe
giảng giải, tưởng như khuôn vàng thước ngọc, đều là chìa khóa mở thông hết mọi
rắc rối khó hiểu trên đời. Và những lời Giáo sư Cao Xuân Huy nói lúc tôi mới
bước chân vào đại học hóa ra lại chính là hòn đá tảng quan trọng của một phương
pháp tư duy hiện đại: sự chối bỏ logique thông thường để tiếp cận với những
chân lý tưởng chừng siêu nghiệm đang tồn tại hiển nhiên trên thế giới này. Tôi
có ngờ đâu vừa ra trường tiếp xúc với thực tế, mình đã bị cuốn vào một vấn đề
rồi đây sẽ trở thành trung tâm của mọi suy nghĩ, nó có ý nghĩa rọi sáng cho cả
một thời đại mới: thời đại “giải lý tính” (dérationnel) của nhận thức khoa học
với học thuyết tương đối của Einstein. Từ phương trình trường đến hằng số vũ
trụ, đến vụ nổ Big Bang, đến vũ trụ giãn nở rồi vũ trụ ổn định, rồi lại đến vũ
trụ giãn nở gia tốc... sự hiểu biết về vũ trụ trong một thế kỷ đã tiến những
bước thần kỳ làm cho nhiều người lo lắng thót tim. Và khi bắt tay tìm về triết
học phương Đông thì tôi càng bội phần sửng sốt. Trong khi phương Tây còn loay
hoay rất lâu với tinh thần duy lý của thời Khai sáng, kể từ tư tưởng cơ giới
của Descartes thế kỷ XVII đến chủ nghĩa duy lý-phê phán (le rationalisme
critique) của Karl Poper những năm 70 thế kỷ XX, thì ở phương Đông, nhiều bộ óc
khổng lồ thời cổ đại, đã bằng trực giác chứ không phải thực nghiệm mà dường như
tiếp cận được Einstein, hay đúng hơn là đã bác bỏ lý tính một cách sâu sắc,
thâm trầm, trên phương diện cái nhìn siêu việt về vũ trụ.
2.
Nói cho đúng, triết học đích thực khai sinh ở phương Tây từ thời cổ đại Hy Lạp,
khi người ta bắt đầu biết khu biệt chủ thể với khách thể để từ đấy tìm mọi cách
xác lập mối quan hệ giữa hai đại lượng, và nhờ đó mà nẩy sinh những khái niệm
công cụ làm cơ sở cho tư duy, cũng là một bước ngoặt bản lề cho các khoa siêu
hình học ra đời. Cổ đại phương Đông thì khác. Trong quá trình lâu dài của nhận
thức, hình như chưa bao giờ chủ thể và khách thể tách lìa hẳn nhau, “ngã” và
“đại ngã” tức bản thể vũ trụ vẫn mai phục trong nhau, phân ra rồi hợp lại ngay
đấy, hoặc khởi đầu là phân ra song đi đến tận cùng thì lại hợp lại, là một dạng
tồn tại lưỡng thể cộng thông. Tư duy phương Đông cũng chưa đạt đến chỗ xuất
hiện được những khái niệm then chốt cũng như những nguyên lý nhận thức then
chốt - trừ Danh gia học phái - có khả năng cấp cho chủ thế một ý thức rạch ròi
về khách thể. Suy xét duy lý đến đầu đến đũa là điều hoàn toàn vắng mặt trong
trước tác của các bậc hiền triết Trung Hoa. Một mặt, người ta quan niệm cái
chân lý mà mình tiệm cận không phải nhất thiết ở phía này hay phía kia như hai
mặt trắng và đen đối lập, cũng không phải luôn luôn cứng nhắc ở giữa (chữ
“trung dung” không có nghĩa là đứng giữa như một sức ỳ), mà chân lý gồm vào
trong nó cả hai phía một cách năng động, có lúc phải nghiêng về phía này ít
nhiều và có lúc phải nghiêng về phía kia ít nhiều (lưỡng hành). Và con đường đi
đến chân lý là một chu trình thay đổi liên miên, nhích về bên này rồi nhích trở
lại bên kia (quyền), có thay đổi thế thì mới đạt được sự hiển minh. Mặt khác,
việc thức ngộ chân lý không phải là một thao tác khổ công thực chứng. Nếu dùng
thực chứng có khi suốt cả đời anh cũng chẳng nhận diện được cái gì cả, bởi thực
chứng chỉ đưa anh đến những gì giản đơn, dễ thấy, mà chân lý thì ít khi lộ diện
nên giác quan hữu thức khó chạm được vào. Chân lý mà nhất là chân lý tối thượng
vốn không phải là “hữu”, nó là cái “vô” (Đại âm hy thanh, Đại
tượng vô hình 大音 希 聲 。大象 無 形 - Lão Tử chương 41). Nó không
phơi ra những đường, nếp, hình, khối... để cho giác quan chúng ta dễ dàng bám
lấy. Thế nên thay vì giác quan, con người phải dùng đến một thứ siêu giác quan
là lương năng để mặc khải chân lý. Mà lương năng chỉ thật sự sáng lên khi giác
quan cùn lụt đi. Cho nên, phải làm ngược lại với quy trình thông tục của sự suy
nghiệm, phải bắt cái tâm của mình (là cơ quan chỉ huy, điều khiển mọi giác
quan) trở nên tối tăm, ngu độn (Ngã ngu nhân chi tâm dã tai, độn độn hề! Tục
nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn. Tục nhân sát sát, ngã độc muộn muộn 我 愚 人 之 心 也 哉 。沌 沌 兮。俗 人 昭 昭。我 獨 昏 昏 。俗 人 察 察 。我 獨 悶 悶 - Lão Tử,
chương XX). Dĩ nhiên phương cách làm cho tâm ngu độn lại cũng không phải là cố
ý, nhân vi mà là hồn nhiên như không làm; phải “vô ý” trong khi không để trí
tới một vật gì. Lại phải làm cho tâm không dừng lại ở bất kỳ một động hình nào
cả - cái trạng thái gọi là “thành” ấy là một dạng thức đã được định vị của tư
tưởng, với nó tâm sẽ đóng cứng, không còn nhạy bén nữa, không chuyển sang được
một dạng thức khác nữa, hẳn nhiên không thể thích nghi với mọi sự chuyển đổi mà
hoàn toàn bất lực hoặc thiên vị.
Như vậy, so với
triết học Hy Lạp thì triết học phương Đông mà cụ thể là triết học Trung Hoa
tưởng chừng không thể gọi là triết học đúng nghĩa, nhìn bề ngoài nó không có
đối tượng và cũng không có sự mạch lạc trong diễn từ để trình bày đối tượng.
Nhưng kể cũng thật khó hiểu, chính khi được đặt vào một hoàn cảnh tâm thức
khiến tư duy trở nên mông lung, không còn sắc bén, triết học phương Đông lại
đạt đến cái mà triết học Hy Lạp cơ hồ không thể đạt đến, đó là sự tưởng tượng
siêu thăng về vũ trụ ẩn chứa trong nó rất nhiều hạt nhân hợp lý, ngày càng được
vật lý học chứng minh.
Từ trong điều kiện của một tâm thế vô vi, tịch lặng và trống rỗng, không bị vướng vào trạng thái đã “thành” của tâm, nhà hiền triết lại có nhiều cơ hội tiếp thu được một nguồn sáng kỳ diệu, giúp cho sức mạnh của trực giác trong mình bừng dậy, và bỗng “ngộ” ra cái không thể nhìn thấy bằng tri giác thông thường. Triết học Hy Lạp từng nói nhiều về bản thể, cái thường tồn. Nhưng vốn bị gò bó trong những khái niệm cụ thể, triết gia Hy Lạp ít ai vượt ra khỏi sự tưởng tượng cái thường tồn trong khuôn hình của những cái cụ thể, như nước, lửa, không khí, nguyên tử (Anassagore, Anaximandre, Démocrite...), cùng lắm gọi bản thể là ý niệm như Platon thì tuy không phải là vật chất cũng vẫn là một phạm trù không xa lạ với tư duy... Tóm lại cái bản thể vũ trụ mà triết học Hy Lạp nói đến, dù rộng lớn đến đâu cũng chỉ nằm trong phạm vi thế giới tự nhiên mà tai mắt con người có thể cảm thấy, hoặc thế giới ý thức mà con người có thể luận ra. Trong khi đó, triết học phương Đông không bị cái cụ thể chi phối, cũng không bị cái trừu tượng của suy tưởng đẩy đến thuần túy siêu hình, đã với được tới một chiều kích vừa mơ hồ vừa thăm thẳm. Hãy nghe Lão Tử nói: “Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề, độc lập bất cải. Chu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết đạo. Cưỡng vi chi danh viết đại. Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản 有 物 混 成 。先 天 地 生 。寂 兮 寥 兮 。獨 立 不 改 。周 行 而 不 怠 。可 以 為 天 下 母 。吳 不 知 其 名 。字 之曰 道 。強 為 之 名 曰 大 。大 曰 逝 。逝 曰 遠 。遠 曰 反” - Lão tử chương 25). Tạm dịch: “Có một vật hỗn độn mà thành, sinh ra trước cả trời đất. Tịch mịch trống rỗng, một mình nó không thay đổi. Chu lưu cùng khắp không lười biếng. Xứng đáng làm mẹ của thiên hạ. Ta không biết nó là gì, đặt tên cho nó là Đạo, lại miễn cưỡng hình dung nó là: lớn, đi mãi, xa tắp, quay trở lại”. Từ trước tới nay, không biết bao nhiêu nhà tư tưởng đã phải đối mặt với câu nói tối tăm trên đây của Lão, và đưa ra vô số lời giải đoán, tạo nên nhiều trường phái đối lập nhau. Một xu hướng hiểu chữ “đạo” theo nghĩa gốc từ Hán là con đường và cho rằng Đạo của Lão Tử ở đây nhằm nói về quy luật vận động của vũ trụ. Hiểu theo cách đó chưa hẳn đã không hợp lý, nhưng ít nhất về chỗ đứng của người tìm hiểu, đã đi ra khỏi phạm trù triết học phương Đông. Bởi vì như đã nói, phương Đông cổ đại có từng hình thành nên một hệ thống khái niệm quy củ nào đâu. Tư duy phương Đông cũng coi khinh khái niệm, chống việc bám vào “danh”, vì danh là một dạng thức của chân lý đã định hình, đã thành, bám lấy nó thì tư duy không còn sáng suốt nữa. Ngay Lão Tử cũng đã lưu ý : “Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh 道 可 道 。非 常 道 。名 可 名 。非 常 名” (Lão Tử chương 1). Tạm dịch: “Cái “đạo” mà có thể gọi tên là đạo thì đã là cái đạo không thường tồn; cái “tên” mà đã có thể gọi lên [bằng ngôn ngữ] thì đã là cái tên không thường tồn”. Phía sau một lời phủ định trống không, Lão Tử chừng như có ngụ ý chỉ trích cách hiểu Đạo chật hẹp và quá cụ thể của những học phái đang được đương thời sùng thượng, qua đó ông muốn minh định: kiến giải của riêng mình về Đạo mới đích thực vượt khỏi giới hạn bề ngoài của từ ngữ. Vậy hiểu Đạo là con đường là đã duy danh định nghĩa, trái với tinh thần Lão Tử. Dù có uyển chuyển đến mấy nó cũng đã đứng trên hệ quy chiếu của triết học phương Tây. Một xu hướng khác coi Đạo là phạm trù chỉ bản thể vũ trụ. Nhưng vì cũng chỉ đoán phỏng chứ không nắm được hàm nghĩa xác thực của chữ Đạo, xu hướng bản thể luận ngay từ bước khởi điểm đã bị phân rẽ, một phe cho Đạo của Lão là tâm, phe khác lại cho đấy là vật. Trong những người quy Lão Tử về tâm tức là duy tâm lại còn tách ra làm hai nhóm, nhóm trước nói Đạo là cái từ trong tâm mà ảo giác nên, nên Lão là duy tâm chủ quan, còn nhóm sau thì gán cho Lão cái tư tưởng hữu thần, Đạo của ông như một vị thần sáng thế và ông là duy tâm khách quan. Vân vân và vân vân. Ngày nay đem đối chiếu cặn kẽ từng lời của sách Lão Tử với tất cả các thuyết vừa dẫn, ta không thể không băn khoăn nghi ngờ trước những định luận từ bên ngoài áp vào cho ông, bởi chẳng ai tìm thấy một chỗ nào Lão Tử định nghĩa Đạo là bản thể vũ trụ, cũng chẳng một nơi nào ông nói Đạo là vật hay tâm. Quả như nhận xét của F. Julien, tư tưởng Trung Hoa cổ đại “không hề biết đến vấn đề bản thể và đến cả cái động từ của nó”2, và cũng từ sớm đã ly khai khỏi thần luận: “Ở Trung Quốc người ta sớm ưu tiên cho việc đặt ra quy trình cúng bái chứ không quan tâm mấy đến quyền năng của lời cầu nguyện; người ta quan tâm nhiều đến hình thức lễ nghi cúng bái, đến quy củ hơn là đến điều huyền bí của sự hiện tồn”3. Biết đâu những học giả quá sốt sắng định danh Lão là thế này thế khác cũng chỉ muốn mượn hệ quy chiếu của triết học hiện đại chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng mong nắm bắt cho được một tín hiệu của ngôn bản Lão Đam, một cái gì nằm ngoài mọi giải đoán và cực kỳ khó nắm bắt. Đấy đều là những việc làm xuất phát từ lợi ích thực dụng, muốn “xếp loại” cho tư tưởng Lão Tử, hơn là đặt một giả thuyết làm việc nghiêm chỉnh.
Từ trong điều kiện của một tâm thế vô vi, tịch lặng và trống rỗng, không bị vướng vào trạng thái đã “thành” của tâm, nhà hiền triết lại có nhiều cơ hội tiếp thu được một nguồn sáng kỳ diệu, giúp cho sức mạnh của trực giác trong mình bừng dậy, và bỗng “ngộ” ra cái không thể nhìn thấy bằng tri giác thông thường. Triết học Hy Lạp từng nói nhiều về bản thể, cái thường tồn. Nhưng vốn bị gò bó trong những khái niệm cụ thể, triết gia Hy Lạp ít ai vượt ra khỏi sự tưởng tượng cái thường tồn trong khuôn hình của những cái cụ thể, như nước, lửa, không khí, nguyên tử (Anassagore, Anaximandre, Démocrite...), cùng lắm gọi bản thể là ý niệm như Platon thì tuy không phải là vật chất cũng vẫn là một phạm trù không xa lạ với tư duy... Tóm lại cái bản thể vũ trụ mà triết học Hy Lạp nói đến, dù rộng lớn đến đâu cũng chỉ nằm trong phạm vi thế giới tự nhiên mà tai mắt con người có thể cảm thấy, hoặc thế giới ý thức mà con người có thể luận ra. Trong khi đó, triết học phương Đông không bị cái cụ thể chi phối, cũng không bị cái trừu tượng của suy tưởng đẩy đến thuần túy siêu hình, đã với được tới một chiều kích vừa mơ hồ vừa thăm thẳm. Hãy nghe Lão Tử nói: “Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề, độc lập bất cải. Chu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất tri kỳ danh, tự chi viết đạo. Cưỡng vi chi danh viết đại. Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản 有 物 混 成 。先 天 地 生 。寂 兮 寥 兮 。獨 立 不 改 。周 行 而 不 怠 。可 以 為 天 下 母 。吳 不 知 其 名 。字 之曰 道 。強 為 之 名 曰 大 。大 曰 逝 。逝 曰 遠 。遠 曰 反” - Lão tử chương 25). Tạm dịch: “Có một vật hỗn độn mà thành, sinh ra trước cả trời đất. Tịch mịch trống rỗng, một mình nó không thay đổi. Chu lưu cùng khắp không lười biếng. Xứng đáng làm mẹ của thiên hạ. Ta không biết nó là gì, đặt tên cho nó là Đạo, lại miễn cưỡng hình dung nó là: lớn, đi mãi, xa tắp, quay trở lại”. Từ trước tới nay, không biết bao nhiêu nhà tư tưởng đã phải đối mặt với câu nói tối tăm trên đây của Lão, và đưa ra vô số lời giải đoán, tạo nên nhiều trường phái đối lập nhau. Một xu hướng hiểu chữ “đạo” theo nghĩa gốc từ Hán là con đường và cho rằng Đạo của Lão Tử ở đây nhằm nói về quy luật vận động của vũ trụ. Hiểu theo cách đó chưa hẳn đã không hợp lý, nhưng ít nhất về chỗ đứng của người tìm hiểu, đã đi ra khỏi phạm trù triết học phương Đông. Bởi vì như đã nói, phương Đông cổ đại có từng hình thành nên một hệ thống khái niệm quy củ nào đâu. Tư duy phương Đông cũng coi khinh khái niệm, chống việc bám vào “danh”, vì danh là một dạng thức của chân lý đã định hình, đã thành, bám lấy nó thì tư duy không còn sáng suốt nữa. Ngay Lão Tử cũng đã lưu ý : “Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh 道 可 道 。非 常 道 。名 可 名 。非 常 名” (Lão Tử chương 1). Tạm dịch: “Cái “đạo” mà có thể gọi tên là đạo thì đã là cái đạo không thường tồn; cái “tên” mà đã có thể gọi lên [bằng ngôn ngữ] thì đã là cái tên không thường tồn”. Phía sau một lời phủ định trống không, Lão Tử chừng như có ngụ ý chỉ trích cách hiểu Đạo chật hẹp và quá cụ thể của những học phái đang được đương thời sùng thượng, qua đó ông muốn minh định: kiến giải của riêng mình về Đạo mới đích thực vượt khỏi giới hạn bề ngoài của từ ngữ. Vậy hiểu Đạo là con đường là đã duy danh định nghĩa, trái với tinh thần Lão Tử. Dù có uyển chuyển đến mấy nó cũng đã đứng trên hệ quy chiếu của triết học phương Tây. Một xu hướng khác coi Đạo là phạm trù chỉ bản thể vũ trụ. Nhưng vì cũng chỉ đoán phỏng chứ không nắm được hàm nghĩa xác thực của chữ Đạo, xu hướng bản thể luận ngay từ bước khởi điểm đã bị phân rẽ, một phe cho Đạo của Lão là tâm, phe khác lại cho đấy là vật. Trong những người quy Lão Tử về tâm tức là duy tâm lại còn tách ra làm hai nhóm, nhóm trước nói Đạo là cái từ trong tâm mà ảo giác nên, nên Lão là duy tâm chủ quan, còn nhóm sau thì gán cho Lão cái tư tưởng hữu thần, Đạo của ông như một vị thần sáng thế và ông là duy tâm khách quan. Vân vân và vân vân. Ngày nay đem đối chiếu cặn kẽ từng lời của sách Lão Tử với tất cả các thuyết vừa dẫn, ta không thể không băn khoăn nghi ngờ trước những định luận từ bên ngoài áp vào cho ông, bởi chẳng ai tìm thấy một chỗ nào Lão Tử định nghĩa Đạo là bản thể vũ trụ, cũng chẳng một nơi nào ông nói Đạo là vật hay tâm. Quả như nhận xét của F. Julien, tư tưởng Trung Hoa cổ đại “không hề biết đến vấn đề bản thể và đến cả cái động từ của nó”2, và cũng từ sớm đã ly khai khỏi thần luận: “Ở Trung Quốc người ta sớm ưu tiên cho việc đặt ra quy trình cúng bái chứ không quan tâm mấy đến quyền năng của lời cầu nguyện; người ta quan tâm nhiều đến hình thức lễ nghi cúng bái, đến quy củ hơn là đến điều huyền bí của sự hiện tồn”3. Biết đâu những học giả quá sốt sắng định danh Lão là thế này thế khác cũng chỉ muốn mượn hệ quy chiếu của triết học hiện đại chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng mong nắm bắt cho được một tín hiệu của ngôn bản Lão Đam, một cái gì nằm ngoài mọi giải đoán và cực kỳ khó nắm bắt. Đấy đều là những việc làm xuất phát từ lợi ích thực dụng, muốn “xếp loại” cho tư tưởng Lão Tử, hơn là đặt một giả thuyết làm việc nghiêm chỉnh.
Thế thì
trong văn cảnh của nó, phải hiểu Đạo của Lão Tử thế nào? Hãy tạm phỏng đoán
rằng vào thời của mình, đứng trước nhiều học thuyết khác nhau về Đạo, Lão Tử
muốn dùng lại một từ vốn đã quen dùng đầu miệng các học thuyết nọ, nhưng không
phải dùng theo nghĩa sáo mòn của họ, mà là để gợi lên một điều khác hẳn - gợi
lên hình ảnh của một một phi vật thể mà ông mặc khải được, giữa lúc tất cả
mọi học phái chưa ai có may mắn giác ngộ ra nó như ông. Phi vật thể đó có trước
trời đất, là uyên nguyên của vũ trụ khi vũ trụ chưa hình thành. Nhưng vũ trụ ở
đây không chỉ giới hạn trong phạm vi hệ mặt trời mà có thể còn rất rộng, nằm
ngoài cả trời đất (tiên thiên địa sinh). Thêm vào đó, cái uyên nguyên không
phải chỉ được hình dung ở thể chất tối sơ tối diệu, mà còn được xem xét ở
phương thức tồn tại, ở các tiến trình biến hóa và cả ở điểm mút của sự chuyển
hóa, sự “quy căn đáo để” của nó. Nghĩa là Đạo gồm thâu toàn bộ bản chất sinh
diệt của vũ trụ. Để định dạng Đạo, Lão Tử đưa ra bốn phẩm ngữ: Đạo là vô -
cái vô vĩnh cửu, là nhất - cái một vĩnh cửu, là động -
cái động vĩnh cửu, và là phản - sự phản phục vĩnh cửu. “Vô”
nghĩa là trống rỗng nhưng lại không phải hư vô mà hàm chứa cái hữu (Hữu vô
tương sinh). Vô và hữu là hai mặt chuyển đổi nói lên sự nhiệm màu của Đạo
trong bước hóa thân từ Đạo sang vũ trụ (Vô, danh thiên địa chi thủy; Hữu,
danh vạn vật chi mẫu. Cố thường vô, dục dĩ quan kỳ diệu; thường hữu, dục dĩ
quan kỳ kiểu 無 。名 天 地 之 始 。有 。名 萬 物 之 母 。故 常 無 。欲 以 觀 其 妙 。常 有 。欲 以 觀 其 徼 - Lão Tử chương 1). Liên hệ
đến Einstein, hãy nhớ lại lý thuyết Big Bang chẳng cũng đã cho rằng vũ trụ vốn
bắt nguồn từ một “khối vật chất Item” có kích thước bằng 0 mà khối lượng bằng
vô cùng đấy sao? Và năm 1917, chỉ sau khi thuyết tương đối phổ quát ra đời một
năm, chẳng phải William de Sitter nhà thiên văn Hà Lan đã khám phá ra một hệ
quả hết sức khó hiểu từ phương trình trường của Einstein: vũ trụ ban đầu có thể
trống rỗng không chứa một vật chất hấp dẫn nào cả? Có vẻ như thiên tài khoa học
của thế kỷ XX bằng các công thức vật lý học đã đi đến cùng một đích với nhà Lão
học sống trước mình 24 thế kỷ. Còn cái “Nhất” mà Lão Tử nói là tính toàn
vẹn không thể thêm bớt của Đạo (giống như định luật bảo toàn năng lượng) chứ
không phải nó chỉ nhất nhất có một. Trong cái một đã ẩn ngụ cả cái nhiều, và
mối quan hệ giữa một và nhiều cũng là hệ quả của mối quan hệ giữa tĩnh và động.
“Động” là phẩm chất tuyệt đối của Đạo nhưng trong động đã có tĩnh - khi hiểu
Đạo là thường tồn thì nó tĩnh, còn khi nhìn nó dưới những hình thức tồn tại
muôn vẻ thì nó động, nó mãi mãi sinh sôi nẩy nở: “Đạo sinh nhất; Nhất
sinh nhị; Nhị sinh tam; Tam sinh vạn vật 道生 一 。一 生 二 。二 生 三 。三 生 萬 物”
(Lão Tửchương 42). Ta lại nhớ đến trường hợp Einstein đã rơi vào “thế
kẹt” sau khi người khác dùng thực nghiệm kiểm tra phương trình trường: ông muốn
quy nó về một hệ vũ trụ tĩnh nhưng kết quả lại cho thấy nó chứng tỏ một vũ trụ
không ngừng giãn nở buộc ông phải đưa thêm vào hằng số vũ trụ. Ngẫu nhiên mà
gặp nhau hay có một năng lực thần bí nào mách bảo? Và “phản” chính là một đặc
điểm bổ sung cho động, đánh dấu bước hoàn kết của một chu trình luân chuyển của
Đạo trong vũ trụ: sự quay trở về lại chính nó, quay trở về cái khởi sinh4. Cứ
theo các nguyên lý của Einstein mà đẩy tưởng tượng đi xa hơn, ta sẽ hình dung
vũ trụ ra sao sau khi đã giãn nở gia tốc đến tột cùng, nếu chẳng phải là lại
trở về với cái mênh mông hoang sơ của một con số không kỳ bí trước khi một vụ
nổ Big Bang thứ hai lại sẽ xuất hiện? Lý thuyết Einstein và dẫn thân là lý
thuyết vụ nổ Big Bang của cơ học lượng tử rõ ràng đã lấp ló trong nó chữ “phản”
của Lão Tử.
Những chuyện trùng hợp kỳ quặc khó tin như thế còn tìm thấy ở khá nhiều phiến
đoạn rời rạc khác trong cuốn sách Lão Tử, nhưng chúng tôi muốn bạn
đọc quan tâm đến chương 14 sau đây như là một hướng trình bày mới của Lão về
Đạo, bổ sung cho hướng chấm phá bằng hình ảnh mà ông đã làm - đó là hướng khơi
gợi một đôi ẩn dụ thông qua cảm giác của chủ thể hay theo cách nói của triết
học phương Tây là góc nhìn nhận thức luận: “Thị chi bất kiến danh viết di.
Thính chi bất văn danh viết hy. Bác chi bất đắc danh viết vi. Thử tam giả bất
khả trí cật, cố hỗn nhi vi nhất. Kỳ thượng bất kiểu, kỳ hạ bất muội, thằng
thằng bất khả danh, phục quy vu vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi
tượng, thị vị hốt hoảng. Nghênh chi bất kiến kỳ thủ, tùy chi bất kiến kỳ hậu.
Chấp cổ chi đạo dĩ ngự kim chi hữu. Năng tri cổ thủy, thị vị đạo kỷ 視 之 不 見 名 曰 夷 。聽 之 不 聞 名 曰 希 。博 之 不 得 名 曰 微 。此 三者 不 可 致 詰 故 混 而 為 一 。其 上 不 皦 。其 下 不 昧 。繩 繩 不 可 名 。復 歸 於 無 物 。是 謂 無 狀 之 狀 。無 物 之象 。是 謂 惚 恍 。迎 之 不 見 其 首 。隨 之 不 見 其 後 。執 古 之 道 。以 御 今 之 有 能 知 古 始。是 謂 道 紀”.
Tạm dịch: “Nhìn mà không thấy nên gọi là di. Nghe mà không thấu nên gọi là hy.
Nắm mà không được nên gọi là vi. Ba cái đó [cũng chỉ là ước lệ nên] không thể
căn vặn đến cùng được. Vì thế hỗn hợp lại thành một. Phía trên nó thì không
sáng sủa. Phía dưới nó thì không tối tăm. Nó cứ triền miên không dứt, không thể
gọi tên được, cuối cùng lại quay trở về chỗ trống không, không có vật gì cả. Đó
là thể trạng mà không có thể trạng, là hình tượng mà không có hình tượng. Do đó
gọi nó là chập chờn. Đón nó thì không thấy đầu nó ở đâu. Theo nó thì không thấy
đuôi nó ở đâu. Hãy nắm cho được cái Đạo của thời tối cổ ấy để chế ngự cái Hữu
hôm nay. Khi đã có năng lực để tri giác về cái khởi đầu từ ngàn xưa thì mới gọi
đó là dường mối của Đạo”. Ít nhất phải thừa nhận đây quả là cách trình bày rất
đặc trưng cho tư duy phương Đông: mường tượng cái không nhìn thấy bằng chính
cái không nhìn thấy, gợi cảm giác về những điều cảm giác không thể nói rõ. Tất
cả mọi nỗ lực vượt khỏi “vô minh” mà ta đọc thấy trong lời lẽ của người trình
bày cũng nói lên một sự thực: Đạo thật tình chỉ mới là một linh cảm mẫn nhuệ từ
nơi trực giác sâu thẳm của vị tổ sư Lão học chứ chưa bao giờ hiện hữu. Sự bất
lực của ngôn ngữ để diễn tả Đạo cũng là điều chẳng có gì lạ. Khỏi phải nói, nếu
các nhà triết học thế kỷ XX đã bắt buộc liên hệ Đạo với những khái niệm có gốc
rễ từ Hy Lạp như “bản thể” hay “quy luật” giúp nhận thức bớt phần lúng túng thì
cũng là tình thế bất khả kháng. Chỉ có điều các khái niệm “bản thể” hay “quy
luật” dùng ở đây, nói như Lão Tử đều là “miễn cưỡng”, nên rất cần được quan
niệm theo hướng mở chứ không đóng, thì mới tương thích nhiều ít với Đạo là một
thực tồn rộng lớn không cái gì của thế gian có thể so sánh, cũng là một tổng
hợp của mọi điều huyền diệu nằm ngoài hết thảy tưởng tượng của thế gian. Muốn
thấu tỏ được Đạo không có cách nào hơn là sự thấu thị huyền nhiệm của tâm linh
(Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn 玄 之 又 玄 。眾 妙 之 門 - Lão Tử chương
1). Tuy thế, tâm linh huyền nhiệm vẫn không phải là dấu hiệu hữu thần, do chỗ
giữa cái huyền bí và cái thông tỏ, cái chưa biết và cái biết ở Đạo vốn có một
quan hệ nội tại khăng khít (Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt. Hốt hề hoảng
hề, kỳ trung hữu tượng. Hoảng hề hốt hề, kỳ trung hữu vật 道 之 為 物 。惟 恍 惟 惚 。惚 兮 恍 兮 。其 中 有 象 。恍 兮 惚 兮 。其 中 有 物 - Lão Tử chương 21). Quan hệ
đó diễn ra ở tầm vĩ mô theo hai chiều hướng: động - chuyển hóa
từ vô sang hữu (Hữu sinh ư vô); và phản - chuyển hóa
trở lại từ hữu sang vô (Phục quy ư vô vật). “Phản giả, Đạo chi động 反 者 。道 之 動”, phản chính là sự tiếp tục những vận động
nội tại của Đạo dưới một biến thái mới để chuẩn bị cho một tiến trình đa hóa
khác lại sẽ khởi đầu.
Rút lại, qua
cái mô hình được phác vẽ một cách lan man và đứt nối theo kiểu trận đồ bát quái
của một con người sống trước chúng ta đến mấy nghìn năm, mở đầu cho một trường
phái minh triết Trung Hoa nổi tiếng, thiết tưởng một câu hỏi đã đến lúc phải
đặt ra mạnh bạo và dứt khoát hơn: tại sao không thể xem Đạo của Lão Tử là dự
báo sáng suốt về cõi thiên hà muôn hình vạn trạng đang vận động với quy luật
giãn nở gia tốc mà vũ trụ học hiện đại đã và đang tìm ra cách nhận dạng? Chắc
chắn dự báo của Lão Tử có nhiều mặt thô sơ, ấu trĩ đến buồn cười, nhưng xét từ
bản chất, nó chứa nhiều ẩn số gần gũi với thuyết tương đối của Einstein biết
bao! Nó cũng đâu có gì giống với thần học, đâu có gì giống với các thứ chủ
nghĩa duy tâm hay chủ nghĩa duy vật mà con mắt “chủ biệt” của chúng ta rất sành
phân chia “trận tuyến” bằng lăng kính “tâm/vật” cố gò vào đấy? Tôi nghĩ, Lão Tử
là một chỗ đứng riêng trong triết học phương Đông chưa có tiền lệ.
Nhưng nếu đối
chiếu Lão Tử với một vài triết thuyết khác, cũng của phương Đông, ví như Phật
giáo, thì ta lại cảm thấy Lão Tử không phải là một hiện tượng đơn độc. Thực tế
có khi Phật giáo nguyên thủy từng bàn về vũ trụ từ trước cả thời Lão Tử, cho đến
khi truyền sang Trung Quốc đã phát triển thành một hệ thống hoàn chỉnh, mà đem
so với Lão học lại có không ít những điểm tương đồng. Phật giáo nói tới “Tam
thiên đại thiên thế giới” hay nói đến “Hà sa cảnh giới” là nói đến một con số
phiếm chỉ, nhiều đến mức khủng khiếp của những “cõi trời” khác nhau trong vũ
trụ mênh mông, không sao tính xuể - số lượng của nó ngang với cát sông Hằng.
Thế giới trần gian chỉ là một Tiểu thế giới, hợp một nghìn Tiểu thế giới lại
mới gọi là một Tiểu thiên thế giới. Hợp một nghìn Tiểu thiên thế giới lại mới
là một Trung thiên thế giới. Hợp một nghìn Trung thiên thế giới lại mới là một
Đại thiên thế giới. Thế mà ở đây lại là ba nghìn Đại thiên thế giới. Mấy chữ
“Tam thiên đại thiên thế giới” hẳn từ lâu đã lướt qua trí óc vô số người trong
chúng ta mà chẳng mấy khi để lại một dấu ấn, là vì tầm mắt chúng ta bị vướng
vào cái nhìn thế tục, không lường nổi tầm thước vũ trụ của những thông báo cô
đọng nói trên. Phật đã tưởng tượng thấy sự tạo thành hệ thống thiên hà còn bao
la hơn rất nhiều hệ thái dương mà con người nhìn thấy, trong đó những “cõi
trời” chưa biết đến là cả một con số khổng lồ. Còn về mặt khởi nguyên, để giải
thích từ đâu “Tam thiên đại thiên thế giới” sinh ra, sách Ca giả áo
nghĩa thư 歌 者 奧 義 書, một bộ sách cổ của Phật giáo Ấn Độ được dịch
sang tiếng Trung Quốc từ rất sớm đã chép: “Thái sơ chi thời, thế giới vi
hữu, duy nhất vô nhị....Thái sơ chi thời thế giới vi vô, duy nhất vô nhị, do
vô sinh hữu 太 初 之 時 。世 界 為 有 。惟 一 無 二 。。。。太 初 之 時 。世 界 為 無 。 惟 一 無二 。猶 無 生 有”. Tạm dịch: “Vào thời Thái sơ, thế giới là
hữu, có một không hai... Vào thời Thái sơ, thế giới là vô, có một không hai, từ
vô sinh hữu”. Không khác với Lão Tử, Phật giáo cũng thừa nhận vai trò đối lưu
ảo diệu của hai phạm trù “vô” và “hữu” trong cuộc “hoài thai” kỳ vĩ bậc
nhất ấy, tuy cái đích cuối cùng Phật nhắm tới vẫn là “vô”. Nào chỉ có thế. Phật
còn nói đến “kiếp” như những chu trình hết sức lâu dài của sự chuyển hóa, bao
quát hàng tỷ tỷ năm của thế gian, ở đó vũ trụ chuyển lưu qua bốn thời kỳ từ thành (có
hình dáng), trụ (đứng vững), hoại (tan vỡ)
đến không (trống không), và chu trình ấy cứ lặp đi lặp lại
trong vô lượng kiếp, một số lượng cũng không thể nào đếm hết được. Từ trong
những “kiếp” xa xưa đã ra đời những vị Phật Quá Khứ, đến “kiếp” này mới xuất
hiện vị Phật Hiện Tại là Phật Thích Ca. Rồi đến những “kiếp” sau thì chắc chắn
lại có mặt những vị Phật vị Lai. Chủ thuyết luân hồi của nhà Phật hiểu cho cặn
kẽ thực đã không còn bó hẹp trong phạm vi thế giới hữu tình. Luân hồi gần như
một hằng số chung dành cho toàn cõi thiên hà. Đủ thấy, có một sự đồng dạng lạ
lùng giữa nhãn quan của Phật và Lão trong tầm nhìn siêu thế giới, tuy một bên
đưa ra những con số gây chấn động về tâm lý còn một bên chỉ là những liên tưởng
thấp thoáng, mù mờ. Nhân tố nào đã dẫn đến sự gần gũi trong tiềm năng nhận thức
giữa hai trường phái tư tưởng cổ đại phương Đông kia? Chúng tôi lại muốn lưu ý
ở đây một đặc điểm giống nhau về phương diện tư duy: cả hai học thuyết đều
không hề cột chặt mình vào cái tuyệt đối mà luôn luôn năng
động trên cái tương đối. Đó là mặt ưu trội hiếm có của tâm thức
phương Đông có khả năng đối trọng với cỗ xe Tam cương ngũ thường rất duy lý của
Nho giáo từng thống ngự đời sống tinh thần tư tưởng suốt mấy nghìn năm.
3.
Chương 2 sách Lão Tử viết: “Thiên hạ giai tri mỹ chi
vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố hữu vô tương
sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương giao, cao hạ tương khuynh, âm
thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy 天 下 皆 知美 之 為 美 斯 惡 已 。皆 知 善 之 為 善 斯 不 善 已 。故 有 無 相 生。 難 易 相 成 。長短 較 。高 下 相 傾 。音 聲 相 和 。前 後 相 隨”.
Tạm dịch: “Thiên hạ đều biết đẹp là đẹp thì đã là xấu rồi, đều biết thiện là
thiện thì đã là bất thiện rồi. Cho nên hữu và vô sinh ra nhau, khó và dễ hoàn
thành nhau, dài và ngắn kế tiếp nhau, cao và thấp nghiêng đổ nhau, âm và thanh
hòa với nhau, trước và sau theo liền nhau”. Hãy cứ dùng con mắt duy vật biện
chứng mà suy, thì đây phải là một phát kiến hệ trọng của Lão Tử về sự tồn tại
và chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt đối lập ngay trong cùng một sự vật. Chương
58 sách Lão Tử còn viết “Phúc hề họa chi sở ỷ, họa hề phúc
chi sở bặc 福兮 禍 之 所 倚 。禍 兮 福 之 所 伏” - Phúc là chỗ dựa của họa, họa là chỗ ẩn náu
của phúc. Hai mặt mâu thuẫn mai phục ở trong nhau, không có gì đúng hơn thế
nữa! Nhưng cũng không loại trừ một cách hiểu thứ hai, rằng Lão Tử muốn nhắc ta:
mọi cái khác biệt vốn dĩ là tương đối, tách riêng chúng ra và xác quyết một
chiều về chúng mà không đặt chúng trong những liên hệ, đối sánh, chưa phải là ý
tưởng thích hợp. Cũng như: “Dụy chi dữ a tương khứ kỷ hà? Thiện chi dữ ác
tương khứ nhược hà? 唯 之 與 阿 。相 去 幾 何 。善 之 與 惡 。相 去 若 何”
(Lão Tử chương 20) - nhìn theo tri thức thông tục thì “ừ” và “hứ”
là hai phản ứng đối nghịch, “thiện” và “ác” cũng là hai hành vi đạo đức không
dung nạp nhau, nhưng đặt trong tầm vóc Đạo của bậc triết nhân, những mặt trái
ngược giữa chúng đều trở nên vô nghĩa, sự cách biệt không còn đáng kể, chúng là
đồng nhất mà thôi. Thế thì “Khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh, tệ
tắc tân 曲 則 全 。枉 則 直 。窪 則 盈 。敝 則 新”
(Lão Tử chương 22) - gãy thì tròn, cong thì thẳng, trũng thì cao,
cũ thì mới... sự vật luôn luôn tự nó đổi thay để trở về với Đạo, theo đó tâm
thế nhìn nhận sự vật cũng phải thấu thị mọi sự thay đổi để tri thức không rơi
vào phiến diện. Dưới con mắt Lão Tử những hiểu biết vừa vặn với lý trí chỉ là
hiểu biết chết, không bắt kịp sự vật đang vận động. Lần đầu tiên các phép tắc
được xem là “thiên kinh địa nghĩa” - bền vững muôn đời - của nhiều vị thánh
nhân thời cổ mà nhà cầm quyền các thời đại vẫn lấy làm chuẩn mực trị nước bị
giáng một đòn rất nặng.
Đối với Phật
giáo, tư duy tương đối xem ra còn được vận dụng một cách cao thâm hơn. Ta đều
biết theo quan niệm nhà Phật, hai phạm trù cơ bản biểu thị hai trạng huống “vô”
và “hữu” của mọi cảnh giới quanh mình là “không” và “sắc”. Nhưng cũng giống như
“vô” và “hữu” không thể tách khỏi nhau ngay từ thuở khai sáng vũ trụ (Thiên “Hữu
vô ca” trong kinh Vệ đà - Rigveda chép: “Hữu ký phi hữu, vô
diệc phi hữu 有 旣 非 有 。無 亦 非 有”5:
Hữu đã không phải là hữu, vô cũng không phải là hữu), khi nói “không” và “sắc”
cũng không hề có nghĩa đấy phải là hai. Bát nhã tâm kinh viết:
“Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không không tức thị sắc 色 不 易 空 。空 不易 色 。色 即 是 空 。空 即 是 色”
(Sắc không khác với không, không không khác với sắc. Sắc tức là không, không
tức là sắc). Nếu cứ nhất thiết khu biệt “không” và “sắc” thành hai tức đã rơi
vào “nhị kiến”, là cái nhìn chấp trước của những ai chưa ngộ đạo, nó sẽ trói
buộc tâm trí người ta trong vòng luẩn quẩn của sự u tối và không thể nào giải
thoát được - không đạt được đến chỗ xóa bỏ ngã kiến để đồng nhất mình với cái
tâm tịch lặng của trời đất.
Cho nên Phật đề xuất “phá chấp”, “tiêu trừ nhị kiến”, đòi hỏi dẹp bỏ mọi sự phân chia cứng nhắc giữa sinh-diệt, chân-vọng, thiện-ác, chính-tà, hạnh phúc-khổ đau, thậm chí giữa sinh tử và Niết bàn... Phật còn chủ trương “vô ngã”, xem cứu cánh tối hậu của vũ trụ chỉ là những năng lượng tự tính của chân tâm chứ tuyệt không có gì cả, giống y như việc bắn phá một hạt nhân nguyên tử cho đến cùng cũng sẽ giải phóng ra một năng lượng nào đấy mà không còn tìm thấy đâu cái gọi là vật chất nữa. Tinh thần phá chấp chính là nền tảng của chủ nghĩa nhân bản Phật giáo, không những làm mềm mại hẳn giáo lý nhà Phật, dẫn đến sự nẩy sinh những hệ phái có ý nghĩa cách mạng như Thiền tông, mà còn tạo nên một bầu không khí bình đẳng, bác ái, hướng thiện trong sinh hoạt tín ngưỡng cũng như trong cuộc sống hàng ngày, là nguồn sức mạnh vô hình lớn lao nâng đỡ chúng sinh vượt qua mọi bất hạnh chồng chất của đêm dài trung cổ.
Cho nên Phật đề xuất “phá chấp”, “tiêu trừ nhị kiến”, đòi hỏi dẹp bỏ mọi sự phân chia cứng nhắc giữa sinh-diệt, chân-vọng, thiện-ác, chính-tà, hạnh phúc-khổ đau, thậm chí giữa sinh tử và Niết bàn... Phật còn chủ trương “vô ngã”, xem cứu cánh tối hậu của vũ trụ chỉ là những năng lượng tự tính của chân tâm chứ tuyệt không có gì cả, giống y như việc bắn phá một hạt nhân nguyên tử cho đến cùng cũng sẽ giải phóng ra một năng lượng nào đấy mà không còn tìm thấy đâu cái gọi là vật chất nữa. Tinh thần phá chấp chính là nền tảng của chủ nghĩa nhân bản Phật giáo, không những làm mềm mại hẳn giáo lý nhà Phật, dẫn đến sự nẩy sinh những hệ phái có ý nghĩa cách mạng như Thiền tông, mà còn tạo nên một bầu không khí bình đẳng, bác ái, hướng thiện trong sinh hoạt tín ngưỡng cũng như trong cuộc sống hàng ngày, là nguồn sức mạnh vô hình lớn lao nâng đỡ chúng sinh vượt qua mọi bất hạnh chồng chất của đêm dài trung cổ.
Ngoài Lão Tử và
Phật giáo, cũng cần phải nói đến Trang Chu, một học trò xuất sắc của Lão ở thời
Chiến quốc, đã triển khai Lão học thành một học phái mới, đặc biệt đưa cảm hứng
tương đối luận đi đến một chặng mốc rất xa. Không làm như triết học Hy Lạp và
Danh gia học phái là phân loại sự vật theo thuộc tính, Trang Tử đặt tất cả
trong một thông số và đưa ra những đối sánh “cắc cớ” khiến cho mọi tiêu chí về
cái đúng cái sai không còn biết đằng nào mà lần. Trong thiên “Tề vật luận” sách Trang
Tử ông xây dựng luận điểm: vạn vật là như nhau, dựa trên
lý do mọi so sánh đều chỉ là rất tương đối. Nói về lớn nhỏ thì mảy lông mùa thu
so với những vật cực nhỏ đã là vô cùng lớn, trái lại so với những vật cực lớn
thì núi Thái Sơn vẫn chẳng thấm vào đâu. Nói về thọ yểu thì đứa bé chết yểu so
với những thai nhi chết yểu là thọ lắm rồi, trái lại so với những loài sống đến
hàng nghìn năm như con rùa hay cây “xuân” thì ông Bành Tổ lại là người chết
yểu. Nói về sở thích ăn ở thì loài người ăn thịt dê thịt bò thịt lợn lấy đó làm
ngon, nhưng loài hươu nai lại cho ngon là lá cây lá cỏ. Loài người ở trong chỗ
ẩm thấp thì không chịu nổi trong khi con lươn lại lấy chỗ ẩm thấp làm chỗ ở lý
tưởng của mình. Loài người phải sống trên cây thì run trong khi con khỉ coi chỗ
ở trên cây là nơi tốt nhất. Nói về đẹp xấu thì loài người khen Mao Tường, Lệ Cơ
là tuyệt đẹp trong khi hươu nai nhìn thấy họ lại chạy xa, chim chóc nhìn thấy
họ đều bay mất. Tiếp thu quan điểm “vận động” của Lão Tử, Trang Tử cũng xem xét
sự vật ở mặt biến thiên và chỉ ra giữa thời này và thời khác, tiêu chí về tốt
xấu, thật giả không còn đồng nhất. Nàng Lệ Cơ vừa phải xa cha mẹ về nhà chồng
thì khóc sướt mướt song đến khi về với vua Hiến Công nước Tấn, được nếm cao
lương mỹ vị lại thấy chuyện khóc lóc ngày trước là sai lầm. Bầy khỉ của một ông
già lần đầu cho ăn “sáng bốn chiều ba” thì kêu gào, lần sau cho ăn “sáng ba
chiều bốn” thì vui thích.
Trang Tử còn nhận thấy ý nghĩa tương đối của vạn vật đặt trong những không gian khác biệt nhau. Con chim bằng to lớn ở biển Bắc bay lên chín vạn dặm rồi băng mình về biển Nam, cảm thấy trời xanh là rộng lớn, nhưng con chim cút ở trong đầm lại cười chê nó, vì đối với cút bầu trời cao vài nhận và đám cỏ bồng cỏ cảo quanh đầm nước đã làm nó thấy cao rộng lắm rồi. Cuối cùng Trang Tử đi đến: coi “sống ngang với chết, chết ngang với sống” (Phương sinh phương tử, phương tử phương sinh 方 生 方 死 。方 死 方 生); tỉnh ngang với mộng, mộng ngang với tỉnh (Khổng Khâu khi giảng đạo lý là nằm mộng, Cô Thước Tử khi nhắc lời Khổng Khâu là nằm mộng, mà Trường Ngô Tử khi bảo hai người đó nằm mộng thì chính mình cũng nằm mộng nốt - Khâu dã dữ nhữ giai mộng dã, dư vị nhữ mộng diệc mộng dã 丘 也 與 汝 皆 夢 也 。予 謂 汝 夢 亦 夢 也); “không có vật nào không phải là vật khác, không có vật nào không phải là vật này” (Vật vô phi bỉ, vật vô phi thị 物 無 非 彼 。物 無 非 是); “cái kia là từ cái này mà ra, cái này cũng từ cái kia mà có” (Bỉ xuất ư thị, thị diệc nhân bỉ 彼 出 於 是 。是 亦 因 彼); “cái có thể cũng ngang với cái không thể, cái không thể cũng ngang với cái có thể” (Phương khả phương bất khả, phương bất khả phương khả 方 可 方 不 可 。方 不 可 方 可). Mấu chốt đáng nói trong kiến giải của Trang là ông muốn cởi bỏ cho con người cái lầm lẫn tệ hại của ý thức “sai biệt”, là nguồn gốc bao nhiêu khổ đau của nhân loại khi phải liên miên khắc phục một vế - vế “ác” vế “xấu” để bảo tồn một vế - vế “thiện” vế “hay”. Ông nói: “Dựa vào chỗ lớn để nói rằng lớn thì không vật nào là không lớn, dựa vào chỗ nhỏ để nói rằng nhỏ thì không vật nào là không nhỏ” (Nhân kỳ sở đại nhi đại chi tắc vạn vật mạc bất đại, nhân kỳ sở tiểu nhi tiểu chi tắc vạn vật mạc bất tiểu 因 其 所 大 而 大 之則 萬 物 莫 不 大 。因 其 所 小 而 小 之 則 萬 物 莫 不 小); “Dựa vào chỗ hữu dụng để nói rằng hữu dụng thì không vật nào là không hữu dụng, dựa vào chỗ vô dụng để nói rằng vô dụng thì không vật nào là không vô dụng” (Nhân kỳ sở hữu nhi hữu chi tắc vạn vật mạc hữu, nhân kỳ sở vô nhi vô chi tắc vạn vật mạc vô 因 其 所 有 而 有 之 則 萬 物 莫 有 。因 其 所 無 而 無 之 則 萬 物 莫 無); “Dựa vào chỗ phải mà nói rằng phải thì không vật nào là không phải, dựa vào chỗ trái mà nói rằng trái thì không vật nào là không trái” (Nhân kỳ sở nhiên nhi nhiên chi tắc vạn vật mạc bất nhiên, nhân kỳ sở phi nhi phi chi tắc vạn vật mạc bất phi 因 其 所 然 而 然 之 則 萬 物 莫 不 然 。因 其 所 非 而 非 之 則 萬 物 莫 不 非) 6.
Trang Tử còn nhận thấy ý nghĩa tương đối của vạn vật đặt trong những không gian khác biệt nhau. Con chim bằng to lớn ở biển Bắc bay lên chín vạn dặm rồi băng mình về biển Nam, cảm thấy trời xanh là rộng lớn, nhưng con chim cút ở trong đầm lại cười chê nó, vì đối với cút bầu trời cao vài nhận và đám cỏ bồng cỏ cảo quanh đầm nước đã làm nó thấy cao rộng lắm rồi. Cuối cùng Trang Tử đi đến: coi “sống ngang với chết, chết ngang với sống” (Phương sinh phương tử, phương tử phương sinh 方 生 方 死 。方 死 方 生); tỉnh ngang với mộng, mộng ngang với tỉnh (Khổng Khâu khi giảng đạo lý là nằm mộng, Cô Thước Tử khi nhắc lời Khổng Khâu là nằm mộng, mà Trường Ngô Tử khi bảo hai người đó nằm mộng thì chính mình cũng nằm mộng nốt - Khâu dã dữ nhữ giai mộng dã, dư vị nhữ mộng diệc mộng dã 丘 也 與 汝 皆 夢 也 。予 謂 汝 夢 亦 夢 也); “không có vật nào không phải là vật khác, không có vật nào không phải là vật này” (Vật vô phi bỉ, vật vô phi thị 物 無 非 彼 。物 無 非 是); “cái kia là từ cái này mà ra, cái này cũng từ cái kia mà có” (Bỉ xuất ư thị, thị diệc nhân bỉ 彼 出 於 是 。是 亦 因 彼); “cái có thể cũng ngang với cái không thể, cái không thể cũng ngang với cái có thể” (Phương khả phương bất khả, phương bất khả phương khả 方 可 方 不 可 。方 不 可 方 可). Mấu chốt đáng nói trong kiến giải của Trang là ông muốn cởi bỏ cho con người cái lầm lẫn tệ hại của ý thức “sai biệt”, là nguồn gốc bao nhiêu khổ đau của nhân loại khi phải liên miên khắc phục một vế - vế “ác” vế “xấu” để bảo tồn một vế - vế “thiện” vế “hay”. Ông nói: “Dựa vào chỗ lớn để nói rằng lớn thì không vật nào là không lớn, dựa vào chỗ nhỏ để nói rằng nhỏ thì không vật nào là không nhỏ” (Nhân kỳ sở đại nhi đại chi tắc vạn vật mạc bất đại, nhân kỳ sở tiểu nhi tiểu chi tắc vạn vật mạc bất tiểu 因 其 所 大 而 大 之則 萬 物 莫 不 大 。因 其 所 小 而 小 之 則 萬 物 莫 不 小); “Dựa vào chỗ hữu dụng để nói rằng hữu dụng thì không vật nào là không hữu dụng, dựa vào chỗ vô dụng để nói rằng vô dụng thì không vật nào là không vô dụng” (Nhân kỳ sở hữu nhi hữu chi tắc vạn vật mạc hữu, nhân kỳ sở vô nhi vô chi tắc vạn vật mạc vô 因 其 所 有 而 有 之 則 萬 物 莫 有 。因 其 所 無 而 無 之 則 萬 物 莫 無); “Dựa vào chỗ phải mà nói rằng phải thì không vật nào là không phải, dựa vào chỗ trái mà nói rằng trái thì không vật nào là không trái” (Nhân kỳ sở nhiên nhi nhiên chi tắc vạn vật mạc bất nhiên, nhân kỳ sở phi nhi phi chi tắc vạn vật mạc bất phi 因 其 所 然 而 然 之 則 萬 物 莫 不 然 。因 其 所 非 而 非 之 則 萬 物 莫 不 非) 6.
Nếu chỉ luận
giải trên câu chữ, ta có thể ngờ tư tưởng Trang Tử đã có chiều mấp mé ranh giới
một dạng phát ngôn hoài nghi chủ nghĩa trộn lẫn với tương đối chủ nghĩa. Tuy
nhiên, F. Julien nghiền ngẫm kỹ văn bản Trang Tử, đã tìm cách đính
chính giúp ông7. Nguyễn Hiến Lê, một trong những người dịch Trang Tử có
tiếng ở Việt Nam cũng biện hộ cho ông8 . Quan điểm tương đối của Trang sở
dĩ không rơi vào chủ nghĩa hoài nghi và cũng “khéo léo vượt qua” chủ nghĩa
tương đối vì chính ra ông vẫn không cực đoan hóa “cái một”, không hoàn toàn quy
mọi khác biệt về một. Vốn rất ghét mấy nhà “hữu vi” như Nho và Mặc bày ra nào
pháp độ, nào lễ tín, ghét cuộc chiến tranh khốc liệt giữa các chư hầu trong
thời Chiến quốc đặt ách áp bức của dân tộc này lên dân tộc khác khiến tự do của
con người mất đi, song ông vẫn đủ tỉnh táo để thấy đâu là chừng mực hợp lý của
những yêu cầu “tuyệt nhân nghĩa”, “thỏa tiêu dao”... Theo F. Julien, ngay trong
thiên “Tề vật luận”, khi Trang nói đến “cái một” như kết quả quy đồng giữa ta
và khách thể (mọi vật đều giống nhau) tức là đã thêm vào “cái một” được Trang
nhận thức, vậy đã là hai chứ không phải một. Và từ hai hợp với “cái một” ban
đầu - khi chưa quy đồng - thì đã thành ba9 . Còn theo Nguyễn Hiến
Lê cũng dẫn xuất từ thiên “Tề vật luận”, thì Trang Tử tuy biết “thị-phi” vốn
đích thực không phải hai, vẫn chủ trương “dung hòa nó, lấy “thị-phi” để làm tốt
đẹp mối quân bình tự nhiên, đó gọi là lưỡng hành” (Thị dĩ thánh nhân hòa chi
dĩ thị phi nhi hưu hồ thiên quân, thị chi vị lưỡng hành 是 以 聖 人 和 之 以 是 非 而 庥 乎 天 均 。是 之 謂 兩 行)10.
Rốt cuộc “thị-phi” cũng không nhất thiết là một.
4.
Với sự xuất hiện học phái Lão học của Lão Tử và Trang Tử và với sự du nhập Phật
giáo từ Ấn Độ sang Trung Hoa, bộ mặt tư tưởng phương Đông mất đi màu sắc đơn
điệu, một chiều vốn có, trở nên đa dạng, năng động, dồi dào sinh lực hơn. Lão
Trang như một nghịch lý sống động làm cho Khổng Mạnh lộ hết chỗ nhân vi cứng
nhắc của họ. Triết học phương Đông không còn chỉ đóng khung trong các vấn đề
thực tiễn: nhân sinh quan, chính trị luận... mà bắt đầu đề cập một vấn đề rất
cốt lõi là vũ trụ quan, xoay quanh nó có hai cái đích mà bao nhiêu thế hệ triết
gia âm thầm hướng tới: vũ trụ tự nhiên và vũ trụ tâm
linh. Lão học và sau này là Huyền học đã góp phần đưa con người trở về với
thiên nhiên, tắm mình trong trạng thái hồn toàn, giải phóng con người khỏi rất
nhiều vòng vây lễ nghĩa cứng nhắc, biến con người chức năng hay con
người phận vị thành con người tự do tự tại.
Ngoài
vòng cương tỏa chân cao thấp,
Trong thú yên hà cuộc tỉnh say.
(Nguyễn Công Trứ)
Lần đầu tiên ở phương Đông, với Lão học, những
phẩm chất nội tại của con người được đề cao, con người biết vui sống cái bản
năng sống của mình, biết hưởng cái quyền được làm đúng với sở thích của mình.
Còn Phật giáo
thì mở lối cho con người đi tìm cái tâm thanh tịnh, đắm vào những giây phút
trầm mặc siêu hình để lấy lại sự cân bằng tâm trí, không còn bị các loại “giả
tướng” sống-chết, phải-trái, có-không, buồn-vui, sướng-khổ... lục đục tranh
chấp hành hạ thân xác, nhờ đó đạt tới trạng thái thăng hoa, xuất thần. Thời
gian và không gian không còn tồn tại nữa trong tâm ý con người đắc đạo:
Tạc
dạ nguyệt minh, kim dạ nguyệt,
Tân
niên hoa phát, cố niên hoa.
Tam
sinh thúc hốt chân phong chúc,
Cửu
giới tuần hoàn thị nghĩ ma.
(Đốn
tỉnh - Chợt tỉnh)
Trăng
rọi tối nay: trăng tối trước,
Hoa
cười năm mới: hoa năm qua.
Ba
sinh gió thổi: đuốc lòe tắt,
Chín
cõi cối vần: kiến nhẩn nha.
(Chúng
tôi tạm dịch)
Bài thơ trên là
của Trần Tung (1230-1291), một nhà Phật học uyên bác thời Trần cũng là một nhà
thơ xuất sắc. Trần Tung đã ghi lại thần tình nguồn cảm hứng “nhập Thiền” của
ông - một sự thảnh thơi tâm trí được nâng cấp dần dần:
Tằng
vi vật dục dịch lao khu,
Bài
lạc trần hiêu, thế ngoại du.
Tát
thủ na biên, siêu Phật tổ,
Nhất
hồi đẩu tẩu, nhất hồi hưu.
(Xuất
trần-Thoát trần)
Vật
dục hành cho xác mệt nhoài,
Ruổi
rong thoát quách chốn trần ai.
Buông
tay sang đấy ta siêu Phật,
Mỗi
lúc vươn mình: lúc nghỉ ngơi.
(Chúng
tôi tạm dịch)
Trong trường kỳ
lịch sử chuyên chế phương Đông, Nho giáo sớm giành được vị trí độc chuyên, tầng
lớp sĩ phu rường cột của chế độ quân chủ đều xuất thân cửa Khổng sân Trình,
song có một hiện tượng lý thú là nhà nho dù ở thời đại nào cũng vậy, không mấy
khi trung thành với chỉ một hệ tư tưởng Nho giáo. Họ vừa là tín đồ của Khổng
Phu tử cũng vừa là tín đồ của Phật Lão. Nho giáo cung cấp cho họ những phương
châm hành xử để làm một người kinh bang tế thế, còn Phật Lão lại là chỗ dựa để
họ thoát khỏi gánh nặng của con người chức phận, hòa nhập vào thiên nhiên, tìm
thú vui tiêu sái, giải thoát mọi phiền muộn của cuộc đời bể khổ, trở lại sự tự
do, trở lại là mình.
5.
Ý nghĩa của cuộc đấu tranh phát huy tương đối luận và giải lý tính Nho giáo của
các trào lưu Lão học và Phật học còn để lại nhiều kinh nghiệm quý giá cho chúng
ta hôm nay, trong yêu cầu kiếm tìm một mẫu số chung của thời buổi toàn cầu hóa,
thời buổi thiên nhiên bị xâm hại đến cùng kiệt, thời buổi bài toán “tự do và
tăng trưởng” đang chưa có đáp số cuối cùng. Chúng ta đã từng rút được không ít
bài học thấm thía về sự cả tin vào ý chí của một thời vốn được
mệnh danh là “thời đại cách mạng lay trời chuyển đất”, cả tin vào lẽ
phải của lý trí, khi ta mơ ước chân thành mà cũng có phần nông nổi về lý tưởng
tối hậu của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giàu và nghèo là cốt triệt đi một vế -
vế xấu xa, vế của sự giàu sang - để vế nghèo cũng được xóa bỏ, cuộc đời
xung quanh ta sẽ tốt đẹp hơn. Nhưng kết cuộc lại không hẳn đã như ta nghĩ. Cái
giàu bị tiêu diệt nào ngờ cái nghèo càng nghèo thêm. Lịch sử xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta trong mấy thập niên 50-80 thế kỷ XX đã cho thấy,
sau cải cách ruộng đất tiêu diệt giai cấp địa chủ từ 1053-1955 và sau cải tạo
công thương nghiệp ở thành thị đánh sập giai cấp tư sản khoảng 1958-1962, năng
suất xã hội không cao hơn mà ngày càng tuột dốc, hàng hóa khan hiếm phải “xếp
hàng cả ngày”, đời sống nhân dân lâm vào quẫn bách, bị chế độ tem phiếu dồn đến
thế cùng.
Xin thử chiêm nghiệm lại Lão Trang, phải đâu hai bậc hiền triết Trung Hoa chỉ trưng dẫn một câu châm ngôn duy nhất: giàu nghèo mai phục ở trong nhau; họ còn nhắc nhở ta trong nhiều ngụ ngôn thâm thúy khác: giàu không phải có mặt bất thiện của giàu mà có cả mặt thiện của giàu, nó có thể cứu rỗi cái nghèo. Và xin thử chiêm nghiệm lại Phật giáo: miễn là “tức lự” thì kẻ sát sinh vẫn cứ thành Phật. Người chỉ quen duy lý chắc rất khó nhìn ra tiềm năng “thành Phật” của kẻ sát sinh. Vấn đề là cần làm sao kịp thời thức tỉnh, đừng biến mình thành nạn nhân của trò chơi lý trí - một kiểu trò chơi ú tim. Lý trí là mặt sáng mà giải lý trí là mặt tối, nhưng mặt sáng nhiều khi là ảo còn mặt tối mới chứa đựng sự thực, cái sự thực của những viên kim cương nằm sâu trong lòng đá. Từ gần hai thế kỷ nay, biết bao định hướng nạm vàng bằng “lý trí thông thái”, Tây cũng như Đông, đã lần lượt làm đá lát đường dẫn con người... xuống địa ngục. Giới hạn trong nhiều cảnh ngộ “đắt giá” mà chúng ta từng là người trong cuộc, liệu diễn dịch và quy nạp thật đúng logique kể cả logique biện chứng, có giải quyết được gì chăng? Tạm lấy một ví dụ ngẫu nhiên và hơi thô thiển trong sự kiện cải cách ruộng đất mà ở trên ta vừa nhắc: trước những chuyện đau lòng về mặt đạo lý như “đấu cha tố mẹ” cách đây hơn 50 năm, logique hình thức - và ngay cả logique biện chứng được trang bị bài bản trong đầu óc những bậc cầm chịch lúc bấy giờ - nào có đủ sáng suốt để cảnh báo một đáp án sai? Hoàn toàn không. Duy lương thức của chữ “tâm” bảo lưu từ Phật Lão và cả Khổng nữa mới giúp tìm thấy đích thực nghiệm số sai hay đúng. Biện chứng Phật Lão không rạch ròi, quy củ được như biện chứng Hegel và biện chứng của Marx, điều đó thì đã hẳn. Ấy thế mà hạt nhân hợp lý của nó lại có một sự ứng hợp khá cao trong đời sống tự nhiên và xã hội, khiến ngay nhiều nhà khoa học phương Tây trong đó có Einstein cũng từng rất xem trọng.
Xin thử chiêm nghiệm lại Lão Trang, phải đâu hai bậc hiền triết Trung Hoa chỉ trưng dẫn một câu châm ngôn duy nhất: giàu nghèo mai phục ở trong nhau; họ còn nhắc nhở ta trong nhiều ngụ ngôn thâm thúy khác: giàu không phải có mặt bất thiện của giàu mà có cả mặt thiện của giàu, nó có thể cứu rỗi cái nghèo. Và xin thử chiêm nghiệm lại Phật giáo: miễn là “tức lự” thì kẻ sát sinh vẫn cứ thành Phật. Người chỉ quen duy lý chắc rất khó nhìn ra tiềm năng “thành Phật” của kẻ sát sinh. Vấn đề là cần làm sao kịp thời thức tỉnh, đừng biến mình thành nạn nhân của trò chơi lý trí - một kiểu trò chơi ú tim. Lý trí là mặt sáng mà giải lý trí là mặt tối, nhưng mặt sáng nhiều khi là ảo còn mặt tối mới chứa đựng sự thực, cái sự thực của những viên kim cương nằm sâu trong lòng đá. Từ gần hai thế kỷ nay, biết bao định hướng nạm vàng bằng “lý trí thông thái”, Tây cũng như Đông, đã lần lượt làm đá lát đường dẫn con người... xuống địa ngục. Giới hạn trong nhiều cảnh ngộ “đắt giá” mà chúng ta từng là người trong cuộc, liệu diễn dịch và quy nạp thật đúng logique kể cả logique biện chứng, có giải quyết được gì chăng? Tạm lấy một ví dụ ngẫu nhiên và hơi thô thiển trong sự kiện cải cách ruộng đất mà ở trên ta vừa nhắc: trước những chuyện đau lòng về mặt đạo lý như “đấu cha tố mẹ” cách đây hơn 50 năm, logique hình thức - và ngay cả logique biện chứng được trang bị bài bản trong đầu óc những bậc cầm chịch lúc bấy giờ - nào có đủ sáng suốt để cảnh báo một đáp án sai? Hoàn toàn không. Duy lương thức của chữ “tâm” bảo lưu từ Phật Lão và cả Khổng nữa mới giúp tìm thấy đích thực nghiệm số sai hay đúng. Biện chứng Phật Lão không rạch ròi, quy củ được như biện chứng Hegel và biện chứng của Marx, điều đó thì đã hẳn. Ấy thế mà hạt nhân hợp lý của nó lại có một sự ứng hợp khá cao trong đời sống tự nhiên và xã hội, khiến ngay nhiều nhà khoa học phương Tây trong đó có Einstein cũng từng rất xem trọng.
Đã đành, từ bỏ
duy lý cổ điển, bao hàm cả duy lý mác-xít không phải là từ bỏ thực nghiệm khoa
học, cũng không phải là từ bỏ chủ nghĩa Mác như một triết thuyết. Trái lại khoa
học loài người đang phát triển như vũ bão vẫn cần và càng rất cần duy lý, miễn
đó là duy lý hiện đại, một thứ duy lý không đông cứng trong hai đáp số sai và đúngtheo
cách nghĩ “cái gì hợp với lý trí thì tồn tại”. Và chủ nghĩa Mác vẫn cần cho tư
duy con người như mọi học thuyết triết học khác của nhân loại, miễn không
biến nó thành một học thuyết chính trị xã hội độc tôn với những công
thức “bao giờ cũng đúng” như vô sản chuyên chính, đấu tranh giai cấp bằng bạo
lực cách mạng... Con người chức năng trong xã hội mới cũng không phải là không
còn đáng giá, miễn nó phải hài hòa với con người tự do, biết chủ động
chuyển hóa thành con người tự do, không bị điều kiện hóa trong mọi thứ công
thức từ trên dội xuống: “Ngang lưng thì thắt phương châm/Đầu đội chính sách
tay cầm chủ trương/ Hai chân đứng vững lập trường...”. Xưa kia con người
chức năng của nhà Nho đã tìm được ở Lão Trang và Phật giáo một liệu pháp cân
bằng tâm thế và giảm đẳng gánh nặng chuyên chế trong tư tưởng, trong ý thức hệ.
Từ mấy thập kỷ nay rồi con người chức năng xã hội chủ nghĩa vô
tình hay cố ý cũng tự phát tìm đến một liệu pháp giảm đẳng gánh nặng tâm lýbằng
hành vi tiêu cực: “nói vậy mà không phải vậy”. Không thể nói đấy là phương cách
“giải lý tính” đúng nghĩa. Tuy nhiên, tự nó đã là một thách đố gay gắt đòi hỏi
trước sau phải có lời giải.
Nguồn: Tham luận trong Hội thảo khoa học “Vật lý học hiện đại-Văn hóa
và phát triển” do Tạp chí Tia sáng thuộc bộ Khoa học và công
nghệ phối hợp với Ban sáng lập Trường đại học Phan Châu Trinh thuộc UBND tỉnh
Quảng Nam tổ chức tại Hội An vào hai ngày 31-7-2005 và 1-8-2005. Tác giả có bổ
sung và sửa chữa.
(1) Từ đây trở xuống tất cả những chữ duy
lý, lý tính dùng trong bài đều giới hạn trong phạm vi ngữ
nghĩa chủ nghĩa duy lý cổ điển hay chủ nghĩa duy lý truyền thống.
(2) Một bậc
minh triết thì vô ý. Nguyên Ngọc dịch. In trong Minh triết phương
Đông và triết học phương Tây; Nxb. Đà Nẵng, 2004, tr. 637.(3). Đại tượng
vô hình. Trương Quang Đệ dịch; Nxb. Đà Nẵng, 2004, tr. 25.
(4) Có người giải
thích “phản” là thuộc tính vận động chuyển hóa giữa các mặt đối lập. Chúng tôi
không phủ nhận nội hàm chữ “phản” có thể mang trong nó cả cách hiểu ấy, nhưng
trong mạch văn: “Cưỡng chi vi danh viết đại, đại viết thệ, thệ viết viễn,
viễn viết phản” thì “phản” chủ yếu là quay trở lại.
(5) Chúng tôi không có
nguyên bản kinh Rigveda bằng tiếng Phạn nên trích dẫn qua một
bản dịch tiếng Hán.
(6) Trở lên các dẫn
chứng đều rút từ Trang Tử, các thiên “Tiêu dao du”, “Tề vật luận”
và “Thu thủy”.
(7) Xin xem Một
bậc minh triết thì vô ý. Sđd, chương V và chương VI.
(8) Xin xem bản dịch Trang
Tử; Nxb. Văn hóa, 1994, tr. 178-179.
(9) Mệnh đề này trích
từ thiên “Tề vật luận”, rất khó hiểu, xin chú nguyên văn để bạn đọc tham khảo:
“Thiên địa dữ ngã tịnh sinh nhi vạn vật dữ ngã vi nhất. Ký dĩ vi nhất hỹ,
thả đắc hữu ngôn hồ? Ký dĩ vị chi nhất hỹ, thả đắc vô ngôn hồ? Nhất dữ ngôn vi
nhị, nhị dữ nhất vi tam 天 地 與 我 并 生 而 萬 物 與 我 為 一 。旣 以 為 一 矣 。且 得 有 言 乎 。旣 以 謂 之 一 矣 。且 得 無 言 乎 。一 與 言 為二 。二 與 一 為 三”.
(10) Chúng tôi chỉ dẫn
theo ý chứ không trích nguyên Nguyễn Hiến Lê, vì câu văn dịch của chúng tôi có
khác Nguyễn Hiến Lê.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét