Lịch sử hình thành,
con người và nếp sống Huế
Hoàng thành
triều đại nhà Nguyễn
1. Lịch sử hình thành
Tuy có sự khác nhau giữa các nguồn sử liệu, song đã có nhiều
ý kiến đồng tình với khẳng định vùng đất này trong những thế kỷ đầu Công Nguyên
(CN) thuộc huyện Tượng Lâm quận Nhật Nam thời thuộc Hán.
Từ năm 192 sau CN vùng đất này thuộc địa bàn nước Lâm Ấp và
sau đó là vương quốc Champa kéo dài gần 12 thế kỷ. Sau chiến thắng Bạch Đằng của
Ngô Quyền, biên giới Đại Việt mở rộng dần về phía Nam. Năm 1306, vua Trần Anh
Tông gả Huyền Trân Công chúa cho Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô - Rí. Năm sau
vua Trần cho đổi thành châu Thuận, châu Hóa và đặt chức quan cai trị. Thành Hóa
châu (nằm cách Huế 9 km về phía hạ lưu sông Hương) là trị sở và trung tâm chính
trị kinh tế hành chính và quân sự của châu Hóa. Sau hơn hai thế kỷ mở mang khai
khẩn, đến giữa thế kỷ thứ XVI, lộ Thuận Hóa đã thành nơi "đô hội lớn của một
phương". Năm 1636 chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long là bước khởi đầu
cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của thành phố
Huế sau này. Hơn nửa thế kỷ sau, năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ
chính đến làng Thụy Lôi, đổi là PHÚ XUÂN, ở vị trí tây nam trong kinh thành Huế
hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị
phát đạt của xứ Đàng Trong. Chỉ trừ một thời gian ngắn (1712-1738) phủ chúa dời
ra BÁC VỌNG, song khi Võ Vương lên ngôi lại cho dời phủ chính vào Phú Xuân
nhưng dựng ở "bên tả phủ cũ", tức góc đông nam Kinh thành Huế hiện
nay. Sự nguy nga bề thế của Đô thành Phú Xuân dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát
đã được Lê Quý Đôn mô tả trong sách Phủ biên tạp lục năm 1776. Đó là một đô thị
phát triển thịnh vượng trải dài hai bờ châu thổ Sông Hương, từ Kim Long - Dương
Xuân đến Bao Vinh - Thanh Hà. Tiếp đó, Phú Xuân là kinh đô của nước Đại Việt thống
nhất dưới triều Tây Sơn (1788-1801) và là kinh đô của nước Việt Nam gần 1,5 thế
kỷ dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn (1802-1945).
Phu Vân Lâu
Nhưng Phú Xuân được thay bằng tên gọi HUẾ từ bao giờ?
Cho đến nay chưa có tư liệu nào chính xác để khẳng định thời
điểm ra đời đầu tiên của danh xưng Huế. Chỉ biết rằng từ HUẾ đã xuất hiện rất sớm,
muộn lắm cũng từ khi giáo sĩ A. De Rhodes (1591-1660) dùng từ KẺ HUẾ để gọi thủ
phủ Kim Long của chúa Nguyễn. Từ đó dần dần KẺ HUẾ, rồi HUẾ được dùng để chỉ đô
thị - thành phố, nơi tập trung sinh hoạt phồn vinh về kinh tế lẫn chính trị,
quân sự, văn hóa, học thuật. Trong trường hợp này, Huế chỉ là một địa bàn lãnh
thổ nhất định, có ranh giới cụ thể, có phân cấp quản lý hành chính rõ ràng, và
qua mỗi thời một khác, khi thu hẹp, lúc mở rộng, chẳng hạn:
Ngày 20-10-1898, dụ của Vua Thành Thái lập thị xã Huế, ngày
30-8-1899 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định chuẩn y đạo dụ và ngày 12-12-1929
được nâng thành thành phố Huế (địa giới hành chính chỉ gồm 9 phường nằm ngoài
Kinh thành, từ phường đệ nhất đến phường đệ cửu, đến năm 1934 được sắp xếp
thành 11 phường).
Sau Cách mạng Tháng Tám, thị xã Huế bao gồm cả khu vực nội
ngoại thành, là tỉnh lỵ của Thừa Thiên.
Năm 1956 Ngô Đình Diệm ban hành dụ 37A cải tổ hành chính, Huế
là thành phố (về sau là thị xã) ngang cấp với tỉnh Thừa Thiên nhưng tỉnh lỵ Thừa
Thiên vẫn đặt tại Huế.
Sau năm 1975 Huế là tỉnh lỵ của tỉnh Bình Trị Thiên (cũ) gồm
18 phường, 22 xã.
Năm 1989 Thừa Thiên tách khỏi tỉnh Bình Trị Thiên, Huế là
thành phố tỉnh lỵ của Thừa Thiên - Huế gồm 18 phường, 5 xã và hiện nay là
24 phường, 3 xã.
Cổng ra vào thành
Song, dù là Thủ phủ - Đô thành - Kinh đô - Thị xã hay Thành
phố thì Huế vẫn luôn luôn là một TRUNG TÂM quan trọng về nhiều mặt. Ngày nay Huế
là thành phố Anh hùng, thành phố có hai Di sản thế giới, thành phố Trung tâm
văn hóa du lịch, thành phố Festival; một trong những đô thị cấp quốc gia.
2. Con người và nếp sống
Vùng đất Huế là lợi địa của một thế kỷ rưỡi vương triều, đã
xây đắp những giá trị tập truyền, hình thành những nếp gấp trong suy nghĩ, đời
sống, phong cách ăn và mặc, nói năng, ứng xử...
Kinh đô Huế làm nảy sinh nơi người dân một phong cách mà người
ta nương tình gọi là “đài các”, tức là một vẻ cao sang mơ hồ nào đó, nhưng cái
đài các này không khu biệt trong vòng hoàng thành mà còn lan tỏa trong dân
gian. Từ cái đài các ấy còn rẽ riêng một nét tinh mà người tại chỗ gọi là tính
“đài đệ”, có nghĩa là một sự giữ kẽ, giữ ý, và luôn cả một tính cách mà người
ta gọi là “đế đô”. Khi người mẹ mắng con gái “đừng có đế đô!” thì có nghĩa là đừng
có đòi hỏi, đừng với cao, đừng học làm sang.
Cái tính “đài đệ” được thể hiện rộng rãi, tràn lan, chẳng hạn
ở chiếc áo dài mà có lẽ Huế là nơi được mang mặc nhiều hơn cả. Cho đến những
năm 1970, người nữ ở Huế ra khỏi nhà là mặc áo dài, kể cả chị tiểu thương ở chợ
hoặc bà bán hàng rong. Thậm chí nhiều bà danh giá đi ngủ vẫn mặc luôn áo dài.
Thiếu nữ Huế thường là kín đáo, không bộc lộ tâm tình cho người
khác biết, có khi là e ấp, cũng có khi là ỡm ờ. Trong hai câu thơ của Đông Hồ
nhắc đến cô gái Huế: “Gió chiều vương áo nàng Tôn Nữ, quai lọng nghiêng vành chiếc
nón thơ”, ta cảm thấy các món trang sức như tà áo, chiếc nón, bài thơ trong nón
đều góp phần tạo nên nét duyên e ấp của “nàng Tôn Nữ” và nàng Tôn Nữ ở đây dùng
để chỉ chung các thiếu nữ Huế. Một tác giả Pháp chấm phá dung nhan này như sau:
“... Các cô gái Huế kiêu sa và dễ làm ra vẻ khinh khỉnh, họ là đám hậu sinh của
các phi tần không bao giờ quên rằng một giọt máu thiên tử đang chảy truyền
trong huyết quản của mình” (Jean Hougron, Soleil au ventre, trang 67).
Trong khi sông Hồng và sông Cửu Long đi vào địa lý và hiên
ngang đi vào kinh tế, thì sông Hương êm đềm đi vào thơ nhạc. Văn hóa nghệ thuật
là một cõi mênh mông, rất ít tính chất thực tế, nhưng làm đẹp cho đời, giống
như bông hoa trong đời sống.
Sông Hương hiển nhiên như đóa hoa tô điểm cho thành phố.
Không có con sông nào làm hao tốn giấy mực cho bằng sông Hương. Không có con
sông nào làm tuôn trào suối nhạc cho bằng sông Hương. Và cũng chính nó là
nguyên ủy cho sự ra đời của bao nhiêu hiệp hội ái hữu, đồng hương với nó ở
trong nước cũng như ở hải ngoại.
Vẻ đẹp của sông Hương
Như ta vừa nói, sông Hương đã khơi nguồn cho nhiều suối thơ.
Nó cắm được nhiều điểm lưu khách, nhiều bến sông hữu tình dễ neo thuyền. Một số
lớn các chúa, các vua, các vương, các hoàng thân công nữ đã chấm bút vào nghiên
thơ. Các thi xã, hội thơ, thi đàn nối tiếp nhau ra đời.
Về lĩnh vực thơ của các tôn thất, hãy khoan nói đến chất lượng
có cao như lời khen tặng của vua Tự Đức chăng, hay là ngược lại, có thấp như lời
phê nghiêm khắc của Cao Bá Quát, ta chỉ cần ghi nhận rằng thi ca trở thành một
sinh hoạt tinh thần rộng khắp, cho già trẻ trai gái, cho mọi nghề, mọi nhà, như
thể là một sinh hoạt bình thường hằng ngày, giống như người ta hít thở không
khí vậy.
Tuy nhiên, cũng chính con sông Hương mà người ta dễ tưởng là
suốt đời lặng lẽ ngoan hiền ấy hằng năm vùng dậy quẫy nước tràn bờ. Bởi Huế
không những nổi tiếng nắng nóng mùa hè, nó còn nổi tiếng về lụt lội nhiều lần
trong năm và những lúc ấy nước sông đục ngầu, dữ dội, có khi chảy ngược dòng.
Nước sông cuồn cuộn ấy, dù là trái ngược hẳn với thường ngày, vẫn đúng là hình ảnh
của sông Hương, là lòng dạ sâu thẳm của nó đã lộ diện, là bộ mặt bổ túc vào bộ
bộ mặt thường bắt gặp của nó.
Tóm lại, nắng cháy với mưa dầm bão lụt, ấy là Huế. Nước chảy
lờ đờ và nước phăng phăng cuồn cuộn, ấy là sông Hương. Người thiếu nữ nghiêng
nón dạ thưa nhưng yêu thương say đắm, dữ dội, ấy là con gái Huế.
Người Huế thường phản ứng chậm. Vẻ bề ngoài và hành động
không hô ứng tiếp liền nhau. Hay nói cách khác, giác quan tiếp nhận cảm giác và
nội tâm cứ hành hai nhịp khác nhau và giữa hai nhịp đó là một khoảng dành cho nụ
cười, tiếng dạ thưa, sự e dè, cân nhắc. Đó là một loại “phản ứng hẹn giờ”,
nhưng một khi phản ứng phát ra, nó có tính cách dứt khoát, không vãn hồi. Đó là
nét tinh Huế mà người ta gọi là “thâm trầm”, “thâm thúy”.
Nếu không có lịch sử sẵn chực những bằng chứng cụ thể, hùng hồn
thì ít ai ngờ rằng cái đất Huế trầm mặc này lại có thể là sân khấu phát động,
châm ngòi những biến cố lớn của đất nước từ trong lòng những học sinh sinh viên
chăm học hoặc những chị tiểu thương hiền lành tần tảo. Hóa ra đất Huế là đất
nuôi trồng những thái cực, và con người xứ Huế để ra cả một đời mình để gỡ rối
mớ bòng bong tâm lý và mâu thuẫn nội tâm này.
Con người Huế làm nên Huế là những con người đi ngược lại những
thuộc tính ban đầu của vùng địa lý. Nó vật lộn thường trực với những mố giằng
co tâm lý.
Trịnh Công Sơn trong ca khúc Diễm xưa có nói tới một loài
chim di. Chim di là một loài chim di trú, không định cư tại một nơi chốn, tùy
theo mùa xoải cánh đi tìm nơi khí hậu ôn hòa.
Người dân Ô Lý chất chứa trong tâm khảm mình một món nợ tinh
thần đời đời với công chúa Huyền Trân ngày xưa đã vùi quên tuổi thanh xuân của
mình mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Đó là một sự lưu đày biệt xứ nhưng tự
nguyện và vị tha.
Nó đã ghi dấu sâu đậm vào ca nhạc của xứ sở này. Cái hơi “ai”
của ca Huế không hẳn là sầu bi nhưng đầy hoài bão, vừa tự sự mà vừa khơi dậy mạch
tình bắt nguồn từ xa xưa, hòa tan vào huyết mạch, hầu như khó lòng truy cứu,
khó lòng giải mình. Nó như thể một loại tình cảm nguồn cội, lắng sâu, dằn lòng
xuống kết tạo thành một trọng lượng của tâm hồn. Sợi dây tình cảm này trói buộc
bước chân con người, níu kéo con người không cho nó rời xa cái phố đẻ của nó.
Người ta bảo đất Thừa Thiên này vừa là vườn ươm vừa là bệ
phóng nhân tài, cũng có nghĩa nơi đây vừa là địa điểm đào tạo, rèn luyện con
người vừa là môi trường thiên nhiên hun đúc bồi dưỡng tư chất cho tuổi thanh
niên, lập nghiệp để rồi sau đó đàn chim rời tổ bay xa.
Người con của Huế cảm thấy khó lòng rời xa bàn thờ tổ tiên hoặc
cõi nhà vườn của mình. Tuy nhiên vẫn có cảm nghĩ chưa bỏ nhà ra đi vẫn chưa
viên thành vận số của mình. Và một khi xa xứ, bắt đầu nảy nở trong tâm thức kẻ
ly hương một loại tình cảm mới: tình cảm hoài hương. Loại tình cảm này có tính
cách siêu hình, thâm sâu như tình con với mẹ, nó âm ỉ như mạch ngầm, như than hồng
vùi dưới tàn tro. Xin đừng xem đó là một thứ tình cảm nhi nữ thường tình, ủy mị.
Nó vừa giúp con người không quên nguyên quán của mình, vừa thôi thúc con người
sống chẳng phải cho bản thân, mà cho một vận hội chung, có tính vị tha, hướng
thượng. Trong nhận thức ấy, con người lưu vong gầy dựng hội đoàn, tập thể ái hữu
hướng vọng về quê hương, xem đó như những ốc đảo tình cảm giữa đời sống mênh
mông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét