Ai đã từng đọc bài thơ nổi tiếng “Chansons D’automne” của thi sĩ lừng
danh Pháp quốc Paul Verlaine đều cảm thấy lòng mình bồi hồi và xúc động. Không
xúc động sao đựơc khi nhà thơ đa tình này đã rung cảm hồn mình thành những dòng
thơ bất hủ sau đây để nức nở về tình thu bên bờ sông Seine tuyệt đẹp năm nào:
Les sanglots longs
Des violons
De l’automne
Blessent mon coeur
D’une langueur monotone
Tout suffocant
Et blême, quand
Sonne l’heures
Je me souviens
Des jours anciens
Et je pleure
Et je m’en vais
Au vent mauvais
Qui m’emporte
Decà delà
Pareil à la
Feuille morte
Tiếng đàn ai đó lê thê
Vĩ cầm réo rắt ê chề lòng đau
Bơ vơ chuông đổ đồng hồ
Lòng như héo hắt thu tàn năm xưa
Bao kỷ niệm, theo gió đưa
Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót xa
Bao năm lữ thứ xa nhà
Giang hồ phiêu bạt lá vàng tả tơi…”
(Lãng
Du)
Thật vậy, mùa thu là mùa của tình yêu, mùa của lá vàng rơi rụng.
Mùa thu là mùa của những cặp tình nhân dìu nhau đi dưới nắng thu để thưởng thức
bầu không khí mát mẻ trong lành, rồi trao cho nhau những nụ hôn nồng cháy để rồi
cùng nhau nhìn lá vàng rơi, rơi mãi tận cuối chân trời.
Mùa thu là mùa các thi nhân đi tìm những vần thơ để sáng tác thành
những tuyệt phẩm bất hủ nghìn năm.
Ai đã từng đi qua phố vắng dưới ánh nắng chiều thu khi lá vàng bay
bay khắp trời rồi lác đác rơi qua mái đầu và rớt xuống đất, mới cảm thấy được
cái đẹp tuyệt vời của mùa thu, mới rung cảm theo nhịp của lá vàng đang rơi,
rung cảm theo những tia nắng thu dịu hiền vươn mãi đến tận chân trời xa thăm thẳm.
Nói đến mùa thu là nói đến mùa của lá vàng bay bay, mùa của lá vàng rơi rơi,
mùa của lá vàng khô rụng khắp mọi nẻo đường. “Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi
cho đám cưới về”. Ta hãy nghe các thi nhân Việt nam nói về lá vàng rơi mỗi độ
thu về qua những dòng thơ trữ tình sau đây.
Hình ảnh nổi bật nhất về lá rụng giữa mùa thu là hình ảnh trong hai
câu thơ sau đây của thi sĩ Tản Đà:
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm lá bay sang.
Nhưng hình ảnh trữ tình và lãng mạn nhất là hình ảnh con nai vàng
ngơ ngác giữa rừng thu qua bài “Tiếng Thu” của Lưu Trọng Lư với những câu thơ
năm chữ nghe thật êm đềm như khúc nhạc tình thu trong rừng vắng:
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Không phải chỉ có Tản Đà hay Lưu Trọng Lư mới nói đến lá vàng khi
mùa thu tới; hầu hết các thi nhân Việt Nam đều ca ngợi cái đẹp của mùa thu bằng
cách diễn tả hình ảnh của lá vàng rơi giữa trời thu. Sau đây là những dòng thơ
diễn tả về lá vàng mùa thu của một số thi nhân Việt Nam
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng
(Huy Cận)
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
(Xuân
Diệu)
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
(Nguyễn Khuyến)
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
(Chế Lan Viên)
Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Đặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương
(Thái
Can)
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa
(Ngô Chi Lan)
Đêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương
(Nguyễn
Du)
Ngoài lá vàng rơi là biểu tượng của mùa thu, ta còn phải đề cập đến
ánh trăng thu huyền ảo. Nói đến mùa thu mà không đề cập đến ánh trăng thu mờ ảo
sau áng mây trời giữa đêm khuya thanh vắng là một sự thiếu sót lớn lao đối với
mùa thu.
Không phải đêm thu nào ánh trăng cũng vằng vặc giữa trời trong khi
lá vàng rơi nhè nhẹ giữa đêm khuya cô tịch mà trái lại, có những đêm thu trăng
buồn ảo não, gió heo may thổi về làm cho lòng người cảm thấy u buồn man mác trước
cái lạnh không làm tê buốt con tim như mùa đông, nhưng lắm lúc làm cho hồn ta
bâng khuâng giá rét, làm cho hồn ta nhung nhớ lạnh lùng.
Nếu thi sĩ Thượng Quan Nghi đời Đường bên Trung Quốc đã diễn tả cái
đẹp của ánh trăng thu qua hai câu thơ:
“Thước phi sơn nguyệt thự
Thuyền táo đã phong thu”
“Sườn non trăng sáng chim bay
Đồng thu gió lộng, ve say nhạc sầu”.
(Chi Điền dịch)
Thì tại Việt Nam, rất nhiều nhà thơ đã tốn không biết bao nhiêu mực
và giấy để diễn tả chị Hằng giữa đêm thu huyền diệu. Thật vậy nếu bài “Tiếng
thu” của Lưu Trọng Lư không đề cập đến ánh trăng mờ thì toàn bài thơ mất đi rất
nhiều ý nghĩa về mùa thu:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Riêng nhà thơ Xuân Diệu đã nhân cách hóa ánh trăng thu khiến những
dòng thơ trở thành bất tử:
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò.
Tuy nhiên nói đến trăng nhất là ánh trăng thu mà không nói đến thi
sĩ Hàn Mạc Tử là một sự thiếu sót vô cùng trọng đại.
Ta hãy nghe Hàn Mạc Tử nói về trăng thu qua những câu thơ bảy chữ với
lối nhân cách hóa làm cho ta có cảm tưởng như người đẹp Hằng Nga đang rón rén dời
gót ngọc vào nhà ai giữa đêm thu trăng sáng:
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
hay là:
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
Ngoài Lưu Trọng Lư, Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu ra, ta cũng thấy rất nhiều
nhà thơ nói về ánh trăng thu. Sau đây là một số bài thơ của một vài thi nhân đều
ca tụng ánh trăng thu qua những dòng thơ đủ các thể loại:
Lòng anh giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh
Lòng em như bụi kinh thành
Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe.
(Nguyễn Bính)
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
(Nguyễn Khuyến)
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nữa rồi
(Tản Đà)
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô
Lạnh lùng thay, bấy chiều thu,
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi
(Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm dịch)
Vi lô san sát heo may
Một trời thu để riêng ai một người
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc chen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn!
(Nguyễn
Du)
Đêm thu gió lọt sông đào
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời
(Nguyễn
Du)
Hoa xuân nọ, còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia, chưa hé hàn quang
(Ôn
Như Hầu)
Nếu mùa thu có lá vàng rơi rụng, có trăng thu huyền ảo thì cũng có
nắng thu nhẹ lướt trên đồi. Nắng mùa thu không gay gắt rực lửa như mùa hạ trái
lại rất mát dịu trong lành, nhất là những lúc trời xanh mây trắng nắng hồng. Đi
dưới nắng thu người ta thấy tâm hồn rất thoải mái lâng lâng, nhất là những lúc
trời chiều nhạt nắng có lá vàng bay bay rồi rụng khắp phố phường. Nhiều cặp
tình nhân thích đi dưới nắng thu để thưởng thức cái vẻ đẹp của mùa thu, nhặt những
lá vàng rơi rồi nhìn những hàng cây khẳng khiu chỉ còn những cành trụi lá dọc
hai bên đại lộ lúc chiều tà.
Ai cũng biết rằng các thi nhân khi nói về mùa thu thường không quên
đề cập đến nắng thu. Nhà thơ Chế Lan Viên đã làm cho ta ngạc nhiên khi viết mấy
câu thơ liên quan đến nắng thu như sau:
Chao ôi! thu đã tới rồi sao?
Thu trước vừa qua mới độ nào
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao.
Nhưng ngạc nhiên hơn nữa là hai câu thơ đầy nhạc tính của nhà thơ
Bích Khê sau đây làm cho ta cảm thấy thích thú khi đọc lên vì nghe như một giai
điệu tuyệt vời:
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
Dĩ nhiên, mỗi nhà thơ diễn tả vẻ nắng thu một cách khác nhau, nhưng
hầu hết đều ca ngợi nắng thu như là hình ảnh tuyệt đẹp giữa gió chiều.
Nhà thơ Xuân Diệu cũng nói về nắng thu với hai câu thơ thất ngôn đầy
lưu luyến trữ tình:
Nõn nà sương ngọc quanh thềm dậu
Nắng nhỏ bang khuâng chiều lỡ thì
Nhưng nếu ai đã đọc mấy câu thơ sau đây của nhà thơ Trúc Ly đều cảm
thấy hồn mình xao xuyến bâng khuâng:
Tôi đứng bên nầy bờ dĩ vãng
Thương về con nước ngại ngùng xuôi
Những người con gái bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa thu tha thiết nắng hoe thềm
Ngoài ra ta còn thấy rất nhiều nhà thơ khác cũng đã nói về nắng thu
với những dòng thơ thật đẹp và thật buồn:
Chiều nay nắng nhạt luyến chân đồi
Hơi lạnh tàn thu giục lá rơi
Sương xuống chiều đi lòng vắng vẻ
Thê lương thêm bận khúc ly hoài.
hay là:
Hát bài hát ngô nghê và êm ái
Bên sườn non mục tử cưỡi trâu về
Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê
Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái.
(Nam Trân Nguyễn Học Sỹ)
Nếu những hình ảnh đẹp của mùa thu là lá vàng rơi, là ánh trăng thu
giữa đêm khuya thanh vắng, và nắng chiều thu trong buổi hoàng hôn, thì hình ảnh
buồn nhất của mùa thu là mưa thu. Chính những giọt mưa thu đã làm cho lòng người
lạnh lẽo, u buồn, làm cho lòng người hoang vắng sầu thương, bơ vơ giữa thế giới
mưa rơi buồn bã.
Trước cảnh mưa thu ảm đạm ở ngoài bệnh viện, nhạc sĩ tài hoa Đặng
Thế Phong đã xúc động rồi sáng tác ngay bản nhạc “Giọt mưa thu” trước khi vĩnh
biệt trần gian để lại cho đời những giọt lệ thu sầu thương nức nở, những giọt lệ
tình ai oán lâm ly: “Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi. Trời lắng u buồn
mây hắt hiu ngừng trôi. Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu ai khóc ai than hờ…
…”
Bởi vậy nói đến mưa thu là nói đến một trong những cảnh vật buồn bã
nhất của trần thế. Đọc mấy câu thơ sau đây của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy cảnh
mưa thu thật là tiêu điều buồn bã:
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Hay hai câu thơ sau đây của nhà thơ Xuân Diệu cũng cho ta thấy cảnh
lặng lẽ u buồn:
Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa
Tuy nhiên nếu trăng thu, nắng thu, mưa thu là những đề tài bất hủ
cho các văn thi sĩ, nhạc sĩ lấy đó để sáng tác thì sương thu là một đề tài
không kém quan trọng để các thi nhân dệt thành thơ. Vào những lúc trời sáng
tinh sương, ai đã từng ra sau vườn, đều trông thấy những giọt sương đọng trên
cành cây, ngọn cỏ giống như những hạt kim cương lóng lánh đẹp tuyệt vời. Cho đến
ngày hôm nay, rất nhiều người Việt nam đã thuộc lòng đoạn văn của nhà văn Thanh
Tịnh tả về cảnh sương thu: “Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy
gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi, dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp”.
Một nhà thơ nổi tiếng như sóng cồn một thời vang bóng đã ca ngợi sương thu qua
bài thơ “Sương rơi”. Đó là thi sĩ Nguyễn Vỹ với bài thơ hai chữ đã để lại cho đời
một tác phẩm bất hủ về sương thu:
Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu…
Nhưng hơi
Gió bấc
Lạnh lùng
Hiu hắt
Thấm vào
Em ơi,
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương!..
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Tả tơi
Em ơi!
Từng giọt
Thánh thót,
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang!..
Rơi sương
Cành dương…
Gió mưa
Tơi tả
Từng giọt,
Thánh thót..
Từng giọt,
Tơi bời,
Mưa rơi,
Gió rơi,
Lá rơi,
Em ơi!...
Như đã được trình bày ở trên, mùa thu là mùa có lá vàng rơi lác
đác, có trăng thu mờ ảo giữa đêm buồn, có những giọt mưa rơi thánh thót thật
lâm ly. Đã thế, nhiều lúc ánh nắng chiều thu làm cho người lữ hành thêm cô độc
bâng khuâng, luôn luôn cảm thấy như xa vắng lạc loài như biệt ly hiu quạnh.Vì
thế mà nhiều người đã cho rằng, mùa thu là mùa của biệt ly, của xa cách nên
tình thu thường nức nở nghẹn ngào. Mùa thu là mùa nhớ nhung từ đó và cũng là
nhung nhớ từ đây. Thế nên nói đến mùa thu là nói đến biệt ly nhung nhớ, là nói
đến ngăn cách xa nhau, là nói đến chia ly buồn bã và lắm lúc nói đến vĩnh biệt
ngàn đời để rồi “nghìn trùng xa cách người đã đi rồi, còn gì đâu nữa mà khóc với
cười”.
Sau đây, ta hãy nghe các thi nhân Việt nam nói về sự biệt ly, sự
nhung nhớ cũng như những nỗi u buồn giữa mùa thu:
Mây vẫn từng không chim bay đi
Khí trời u uất, hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
(Xuân Diệu)
Hay những dòng thơ lục bát đầy vẻ âm u, tiêu điều của Huy Cận:
Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.
Hoặc những câu thơ đầy nhung nhớ quằn quại giữa mùa thu:
Chao ôi! mong nhớ! ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.
(Chế Lan Viên)
Hay hình ảnh xa vắng biệt ly của người chinh phu trong lòng người
cô phụ:
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ.
(Lưu Trọng Lư)
Hoặc là những câu thơ đầy nỗi nhớ thương của thi nhân:
Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Đặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương.
(Thái Can)
Nhưng sự biệt ly đớn đau nhất hay nỗi nhớ nhung quằn quại triền
miên cũng như sự khổ đau cay đắng suốt đời mà ta có thể thấy được là những dòng
thơ nức nở lệ nhòa của nữ thi sĩ T.T.KH, một nhà thơ đã sáng tác nên những bài
thơ bất hủ ngàn năm và đã trở thành huyền thọai trong thi ca Việt Nam. Ta hãy
nghe nhà thơ T.T.KH nức nở những điệp khúc tình thu sau đây:
Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có còn đâu!.
hay là:
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người.
Tóm lại qua thi ca Việt Nam, ta thấy hầu hết các thi nhân nước Việt
đều nói đến mùa thu, ca ngợi mùa thu vì mùa thu có những đêm trăng mờ ảo, có những
lá vàng rơi tuyệt đẹp, có những giọt mưa thu thánh thót rơi thật lâm ly, bi thảm
v.v... Và cũng vì mùa thu là mùa của ngăn cách, của ly biệt, là mùa của nức nở
nghẹn ngào nên các thi nhân Việt Nam không ai mà không xúc động khi thấy mùa
thu đến. Vì vậy, qua thi ca Việt Nam, ta thấy nhiều nhà thơ đã để lại cho đời
những bài thơ trữ tình bất hủ về mùa thu.
đặt vé máy bay eva airline
đặt vé máy bay đi mỹ online
korean airline
vé máy bay từ sài gòn đi mỹ
vé máy bay đi canada giá rẻ
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich