Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống
tâm lý con người (nhận thức, tình cảm, hành động) nó quan hệ chặt chẽ với các mặt
kia, nhưng không ngang bằng về nguyên tắc. Nó có quan hệ mật thiết với các hiện
tượng tâm lý khác của con người. Nhận thức là một quá trình, ở con người quá
trình này thường gắn với mục đích nhất định nên nhận thức của con người là một
hoạt động. đặc trưng nổi bật nhất của hoạt động nhận thức là phản ánh hiện thực
khách quan. Hoạt động này bao gồm nhiều quá trình khác nhau, thể hiện những mức
độ phản ánh hiện thực khác nhau (Cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng) và
mang lại những sản phẩm khác nhau về hiện thực khách quan (hình tượng, biểu tượng,
khái niệm). Căn cứ vào tính chất phản ánh có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức
thành hai giai đoạn lớn: Nhận thức cảm tính (cảm giác và tri giác). Nhận thức
lý tính (tư duy và tưởng tượng). Hai giai đoạn nhận thức nêu trên có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau và tác động lẫn nhau. V.I.Lênin đã tổng kết mối quan hệ này
thành qui luật của hoạt động nhận thức nói chung như sau: “Từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.”
I. NHẬN THỨC CẢM TÍNH
CẢM GIÁC
1.1. định nghĩa
Mọi sự vật, hiện tượng xung quanh ta đều bộc lộ
hàng loạt những thuộc tính bề ngoài như: hình dạng, kích thước, màu sắc, trọng
lượng, tính chất…những thuộc tính đó được liên hệ với bộ não của con người nhờ
cảm giác.
Vậy cảm giác là gì?
Vậy cảm giác là gì?
Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng
thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự vật và hiện tượng khi chúng đang
trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
– Cảm giác là quá trình tâm lý đơn giản nhất,
nghĩa là có mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách rõ ràng. Nhưng nó có vai trò rất
quan trọng đối với hoạt động nhận thức của con người. Kích thích gây ra cảm
giác chính là các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan và các trạng
thái sinh lý của bản thân ta.
– Cảm giác mới chỉ phản ánh từng thuộc tính
riêng lẻ, bề ngoài của sự vật, hiện tượng (như màu sắc, hình dạng, mùi vị, âm thanh…)
thông qua hoạt động của từng giác quan riêng lẻ chứ chưa phản ánh được trọn vẹn
các thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Nên cảm giác mới chỉ phản ánh đối tượng
một cách mơ hồ, không chính xác.
– Cảm giác phản ánh hiện thực khách quan một
cách trực tiếp. Hay nói cách khác cảm giác chỉ xảy ra khi sự vật hiện tượng đang
trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta. Nếu sự vật hiện tượng mất đi
thì kết thúc quá trình cảm giác. Ví dụ: khi âm thanh tác động vào thính giác ta
có cảm giác nghe.
– Cảm giác có cả ở con người và con vật, nhưng
cảm giác ở người khác về chất so với cảm giác của động vật. Cảm giác của con người
mang bản chất xã hội lịch sử và là sản phẩm của xã hội lịch sử. Cảm giác của
con người có sự tham gia của tư duy và ý thức nên chất lượng phản ánh của nó
hơn hẳn con vật.
Cảm giác của con người còn phụ thuộc vào trạng
thái sức khỏe, tâm trạng, kinh nghiệm sống, ngôn ngữ, tâm thế, tri thức nghề
nghiệp và các quá trình tâm lí khác…
1.2. Vai trò của cảm giác
– Cảm giác giúp con người định hướng hành vi,
hoạt động trong cuộc sống và có thể thích ứng với sự thay đổi của môi trường.
– Cảm giác là điều kiện quan trọng để đảm bảo
trạng thái hoạt động của vỏ não giúp cho con người có cuộc sống tinh thần bình
thường. Các trình nghiên cứu cho thấy những người “đói cảm giác” thì các chức
năng tâm lý và sinh lý sẽ bị rối loạn.
– Cảm giác là một trong những con đường để nhận
thức hiện thực khách quan. đặc biệt quan trọng đối với những người bị khuyết tật.
– Cảm giác là nguồn cung cấp nguyên vật liệu
cho các quá trình tâm lý cao hơn. Lênin: “Cảm giác là viên gạch đầu tiên để xây dựng
nên tòa lâu đài nhận thức”.
1.3. Phân loại cảm giác
1.3.1. Cảm giác bên ngoài
* Cảm giác nhìn (thị giác) cho ta biết những
thuộc tính về màu sắc, hình dạng, kích thước… của đối tượng.
* Cảm giác ngửi (khứu giác) cho ta biết
thuộc tính mùi của đối tượng.
* Cảm giác nghe (thính giác) cho ta biết
thuộc tính âm thanh, ngôn ngữ…
* Cảm giác nếm (vị giác) cho ta biết thuộc
tính về vị của đối tượng như vị: mặn, ngọt, chua và đắng.
* Cảm giác da (xúc giác) cho ta biết thuộc
tính nhiệt độ, về trọng lượng…
1.3.2. Cảm giác bên trong
Phản ánh trạng thái của các cơ quan nội tạng và
do những bộ máy thụ cảm ở bên trong cơ thể tiếp nhận kích thích. Cảm giác bên
trong gồm có:
* Cảm giác vận động: phản ánh những
biến đổi xảy ra trong các cơ quan vận động, nó cho ta biết độ co, độ căng, độ gập
của các bắp thịt, gân, dây chằng, khớp xương của cơ thể. Cảm giác vận động kết
hợp với cảm giác đụng chạm cho ta cảm giác sờ mó. Cảm giác sờ mó giúp ta điều
chỉnh có hiệu quả các động tác lao động, nhất là những động tác đòi hỏi tính
chính xác cao.
* Cảm giác thăng bằng: phản ánh vị trí và
sự chuyển động của đầu ta so với phương của trọng lực. Cảm giác này rất quan trọng đối
với hoạt động của con người. Khi cơ quan này bị kích thích quá mức thì sẽ gây
ra hiện tượng chóng mặt, ói mửa…Người kém về cảm giác này không thích hợp nghề
hàng không, hàng hải.
* Cảm giác cơ thể: phản ánh tình trạng
hoạt động của các cơ quan nội tạng. Nó bao gồm cảm giác đói, no, nghẹt thở, buồn nôn và cảm
giác đau ở các bộ phận bên trong cơ thể (tim, gan, ruột…). Cảm giác cơ thể báo
hiệu tình trạng hoạt động hoặc sự rối loạn của các bộ phận bên trong cơ thể.
* Cảm giác rung: phản ánh sự rung động của
các sự vật. Nó do các dao động của không khí tác động lên bề mặt thân thể tạo nên.
Cảm giác này đặc biệt phát triển mạnh ở những người khuyết tật (nhất là người vừa điếc,
vừa câm).
Các cảm giác bên ngoài và các cảm giác bên
trong luôn tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên sự đa dạng phong phú
về cảm giác của con người.
1.4. Các qui luật cơ bản của cảm giác
1.4.1. Qui luật ngưỡng cảm giác
– Muốn có cảm giác thì phải có sự kích thích
vào các giác quan, nhưng không phải bất cứ kích thích nào tác động vào giác
quan cũng đều gây ra cảm giác. Muốn gây ra cảm giác thì kích thích đó phải đạt
tới một giới hạn nhất định. Giới hạn đó được gọi là ngưỡng cảm giác. Có hai loại
ngưỡng cảm giác: ngưỡng phía dưới và ngưỡng phía trên.
+ Ngưỡng phía dưới là cường độ tối thiểu đủ để
gây được cảm giác. Khả năng cảm nhận được kích thích này gọi là độ nhạy cảm của
cảm giác
+ Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ tối đa
của kích thích vẫn còn gây được cảm giác. Ví dụ: ngưỡng phía dưới của cảm giác
nhìn có bước sóng là 390 milimicron và ngưỡng phía trên là 780 milimicron.
– Phạm vi giữa hai ngưỡng cảm giác có những
vùng cảm giác được, trong đó có một vùng phản ánh tốt nhất, giúp ta nhận biết đối
tượng một cách rõ ràng chính xác.
– Ngưỡng sai biệt là mức độ chênh lệch tối thiểu
về cường độ hoặc tính chất của hai kích thích đủ để phân biệt được sự khác biệt của
hai kích thích đó.
Ngưỡng sai biệt có vai trò đặc biệt quan trong
trong việc vận dụng để thay đổi giá cả, mẫu mã và chất lượng sản phẩm của doanh
nghiệp. Ngưỡng sai biệt tỷ lệ nghịch với độ nhạy cảm sai biệt. Ngưỡng sai biệt
càng lớn thì độ nhạy cảm của cảm giác nhỏ và ngược lại ngưỡng sai biệt nhỏ thì
độ nhạy cảm của cảm giác càng cao. Ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt của cảm
giác có thể thay đổi tùy theo lứa tuổi, trạng thái sức khỏe, trạng thái tâm
sinh lý, tính chất nghề nghiệp và do rèn luyện của mỗi người.
1.4.2. Qui luật thích ứng cảm giác
để đảm bảo cho sự phản ánh được tốt nhất và bảo
vệ hệ thần kinh khỏi bị hủy hoại, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với
kích thích.
– Tính thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm
của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích. Có nghĩa là
khi cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm của cảm giác giảm, khi cường độ kích thích giảm
thì tăng độ nhạy cảm của cảm giác. Ví dụ: khi ta đang ở chỗ sáng (cường độ kích
thích của ánh sáng mạnh) mà vào chỗ tối (cường độ kích thích của ánh sáng yếu)
thì lúc đầu không nhìn thấy gì cả, phải sau một thời gian ta mới dần dần thấy
rõ (thích ứng). Trong trường hợp này đã xảy ra hiện tượng tăng độ nhạy cảm của
cảm giác.
– Qui luật thích ứng có ở tất cả các loại cảm
giác, nhưng mức độ thích ứng ở các cảm giác khác nhau thì khác nhau. Có những
loại cảm giác có khả năng thích ứng cao như thị giác (trong bóng tối tuyệt đối
thì độ nhạy cảm với ánh sáng tăng tới gần 200.000 lần sau 40 phút), cảm giác
đau thì khả năng thích ứng rất kém. Khả năng thích ứng của cảm giác có thể phát
triển do hoạt động và rèn luyện (công nhân luyện kim, có thể chịu đựng được nhiệt
độ cao tới 50°C– 60°C trong hàng giờ đồng hồ)
Qui luật này thể hiện rõ ở sự thích ứng nghề
nghiệp của người lao động. Nhờ có tính thích ứng mà cảm giác của con người có thể phản
ánh những kích thích có cường độ biến đổi trong một phạm vi rất lớn. Nếu được
rèn luyện đúng đắn thì tính thích ứng sẽ phát triển rất cao và trở nên bền vững.
1.4.3. Qui luật tác động qua lại giữa các
cảm giác
– Tác động qua lại giữa các cảm giác là sự thay
đổi tính nhạy cảm của một cảm giác này dưới ảnh hưởng của một cảm giác kia. Có
nghĩa là: Khi kích thích nhẹ vào cơ quan phân tích này sẽ tăng độ nhạy cảm của
cơ quan phân tích kia. Kích thích mạnh vào cơ quan phân tích này sẽ làm giảm độ
nhạy của cơ quan phân tích kia.
Ví dụ: trong phòng có mùi thơm dễ chịu sẽ làm
cho mắt ta nhìn tinh hơn. Hay khi ta nấu chè mà nếm lúc còn nóng sẽ cảm thấy
không ngọt bằng lúc chè nguội.
– Sự tác động qua lại giữa các cảm giác còn được
thể hiện ở chỗ là từ một cảm giác này có thể tạo ra một cảm giác khác. Chẳng hạn
ta lấy hai thanh tre, nứa cọ vào nhau, lúc đầu ta có cảm giác về âm thanh nhưng
nghe một hồi thì ta cảm thấy gai người (cảm giác cơ thể).
– Sự tác động qua lại giữa các cảm giác diễn ra
đồng thời hay nối tiếp trên cơ sở những cảm giác đồng loại hay khác loại sẽ tạo
ra sự tương phản giữa các cảm giác. Hiện tượng dùng phấn trắng viết trên bảng
đen…
Cảm giác tuy là quá trình phản ánh thấp nhất
nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con người. Do vậy mà con người cần rèn luyện cho cảm giác thêm tinh, thêm
thính, phải giữ gìn các cơ quan phân tích làm cơ sở để phát triển tính nhạy cảm
của cảm giác.
TRI GIÁC
2.1. Định nghĩa
Tri giác là quá trình tâm lý phản ánh một cách
trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi chúng đang
trực tiếp tác động vào giác quan của ta. Cùng bậc thang nhận thức cảm tính nên tri giác có những
đặc điểm giống cảm giác: đều là một quá trình tâm lý, tức là có nảy sinh, diễn
biến, kết thúc một cách rõ ràng. đều phản ánh những thuộc tính bề ngoài của đối
tượng và phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp. Tuy cùng bậc thang
nhận thức cảm tính nhưng tri giác phản ánh ở mức cao hơn so với cảm giác. Bởi
vì, tri giác đã phản ánh một cách trọn vẹn thuộc tính của sự vật hiện tượng mà ở
quá trình cảm giác mới chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng.
Tri giác phản ánh sự vật một cách trọn vẹn là do bản thân sự vật, hiện tượng
mang tính trọn vẹn; do sự kết hợp của các cảm giác thành phần, đặc biệt là vai
trò của kinh nghiệm sống và sự tham gia của ngôn ngữ trong quá trình tri giác đối
tượng. Tri giác được thực hiện trên cơ sở phối hợp của nhiều cơ quan phân tích.
Nhờ đó mà con người có thể tri giác đối tượng một cách đầy đủ chính xác hơn.
2.2. Phân loại tri giác
Căn cứ vào sự phản ánh những hình thức tồn tại
khác của các svht ta có:
2.2.1. Tri giác không gian: là sự phản ánh
không gian tồn tại của các svht một cách khách quan. Loại tri giác này giữ vị
trí quan trọng trong sự tác động qua lại của con người với môi trường, là điều
kiện cần thiết để con người định hướng trong môi trường. Ví dụ: Căn cứ vào mùi
có thể xác định vị trí của cửa hàng ăn.
Tri giác không gian cho ta biết độ lớn, nhỏ của
sự vật, chiều sâu, độ xa và phương hướng của svht. Khi tri giác cơ quan phân
tích thị giác giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nhưng không phải bao giờ ta cũng
tri giác đúng các svht, mà đôi khi ta cũng có sự tri giác sai lệch, hiện tượng
đó gọi là ảo giác không gian.
2.2.2. Tri giác thời gian: là sự phản ánh
độ dài lâu, tốc độ và tính kế tục khách quan của các sự vật, hiện tượng trong
hiện thực.
Những khoảng cách thời gian được xác định bởi
các quá trình diễn ra trong cơ thể theo những nhịp điệu nhất định (nhịp tim, nhịp
thở, thức ngủ…) cảm giác nghe và vận động hỗ trợ cho sự đánh giá các khoảng thời
gian chính xác nhất. Nội dung của hoạt động, trạng thái tâm lý và lứa tuổi có ảnh
hưởng lớn đến việc tri giác thời gian. Chẳng hạn: khi ta chờ đợi những sự kiện
tốt đẹp đến thì ta thấy thời gian dài, khi hứng thú đối với công việc thì thời
gian trôi nhanh, khi còn nhỏ thấy thời gian trôi đi quá chậm…
2.2.3. Tri giác vận động: phản ánh những
biến đổi về vị trí của các sự vật trong không gian. Loại tri giác này phụ thuộc
vào khoảng cách chuyển động của vật và sự di chuyển của người đang tri giác. Chẳng
hạn những vật chuyển động quá nhanh hay quá chậm ta cũng khó có thể tri giác được.
2.2.4. Tri giác con người: là quá trình nhận
thức lẫn nhau của con người trong những điều kiện giao tiếp trực tiếp. đây là
loại tri giác đặc biệt vì đối tượng là con người. Loại tri giác này do giá trị
xã hội qui định, nó có chức năng điều chỉnh quá trình hoạt động và giao tiếp của
con người, đặc biệt là trong quá trình dạy học và giáo dục.
Các loại tri giác trên giúp ta phản ánh những
hình thức tồn tại của sự vật hiện tượng.
Nó không phải do bẩm sinh mà có, mà nó được
hình thành trong hoạt động thực tiễn của cá nhân.
3.3. Các qui luật cơ bản của tri giác.
3.3.1. Tính đối tượng của tri giác.
Hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao giờ
cũng thuộc về một sự vật, hiện tượng nhất định của thế giới bên ngoài, đó chính là đối
tượng của tri giác. Tính đối tượng của tri giác nói lên sự phản ánh hiện thực
khách quan chân thực của tri giác vì nó hình thành do tác động của sự vật hiện
tượng xung quanh vào giác quan của con người trong hoạt động do những nhiệm vụ
của thực tiễn. Tính đối tượng của tri giác là cơ sở của sự định hướng cho hành
vi và hoạt động của con người.
3.3.2. Tính lựa chọn của tri giác (qui luật
hình – nền)
Các sự vật, hiện tượng trong thế thế giới khách
quan vô cùng đa dạng và phức tạp.
Trong cùng một lúc chúng có thể đồng thời tác động
vào các giác quan của ta. Trong trường hợp đó, con người không thể phản ánh tất
cả các svht đó được, mà con người chỉ có khả năng phản ánh một vài đối tượng
nào đó trong vô số các svht xung quanh. đó là tính lựa chọn của tri giác, hay
nói cách khác tri giác là một quá trình hoạt động tích cực, trong đó con người
thực hiện sự lụa chọn.
Tính lựa chọn của tri giác thực chất là quá
trình chủ thể hoạt động tích cực để tách được đối tượng ra khỏi bối cảnh để tri giác đối
tượng một cách rõ ràng. Sự lựa chọn của tri giác không mang tính chất cố định,
mà vai trò của đối tượng và bối cảnh có sự giao hoán cho nhau có nghĩa là một vật
lúc này là đối tượng nhưng khi khác lại là bối cảnh và ngược lại. Vì vậy, những
thuộc tính của đối tượng càng khác biệt với thuộc tính của bối cảnh thì ta tri giác dễ dàng, đầy đủ hơn. Tính lựa chọn của
tri giác phụ thuộc vào hứng thú, tâm thế, nhu cầu của bản thân chủ thể tri
giác. Trong đó, ngôn ngữ cũng đóng vai trò rất quan trọng, nó có tác dụng định
hướng cho sự lựa chọn đối tượng để tri giác. Qui luật này được ứng dụng rất nhiều
trong thực tiễn.
3.3.3. Tính có ý nghĩa của tri giác
Tri giác được nảy sinh do sự tác động trực tiếp
của các sự vật vào cơ quan cảm nhận, nhưng hình ảnh tri giác luôn có một ý
nghĩa xác định. Khi tri giác sự vật hiện tượng một cách có ý thức thì ta có thể
gọi được tên sự vật đó trong đầu và có thể xếp sự vật đang tri giác vào một
nhóm sự vật hiện tượng xác định, ta cũng có thể khái quát nó trong một từ xác định…Con
người có được khả năng đó là nhờ tri giác luôn gắn liền với quá trình tư duy, với
sự hiểu biết về bản chất của sự vật.
Nếu ta tri giác được càng nhiều thuộc tính, nhiều
bộ phận của đối tượng thì quá trình
tri giác càng có ý nghĩa hơn. Ở đây kinh nghiệm
sống có vai trò rất quan trọng đối với tính ý nghĩa của tri giác, đặc biệt là
vai trò của ngôn ngữ. Trong quá trình dạy học khi giáo viên sử dụng đồ dùng trực
quan cần phải chú ý đến qui luật này giúp học sinh tri giác một cách đầy đủ,
sâu sắc hơn.
3.3.4. Tính trọn vẹn của tri giác
Tính trọn vẹn của tri giác là quá trình tri
giác phản ánh tương đối đầy đủ các thuộc tính biểu hiện ra bên ngoài của đối tượng
một cách trọn vẹn, nó đem lại cho ta một hình ảnh hoàn chỉnh về sự vật hiện tượng.
Nhưng đây không phải là sự cộng lại của các cảm giác thành phần, mà là sự kết hợp
giữa các cảm giác thành phần đã được trừu xuất và khái quát hoá từ những cảm
giác đó. Tính trọn vẹn của tri giác còn do tính trọn vẹn khách quan của svht
qui định. Ngoài ra, kinh nghiệm sống và ngôn ngữ cũng có vai trò rất quan trọng
giúp ta tri giác đối tượng một cách trọn vẹn.
VD: Khi nghe một bản nhạc là ta tri giác toàn bộ bản nhạc đó chứ không chỉ nghe từng nốt nhạc.
VD: Khi nghe một bản nhạc là ta tri giác toàn bộ bản nhạc đó chứ không chỉ nghe từng nốt nhạc.
3.3.5. Tính tổng giác
Hình ảnh tri giác không chỉ phụ thuộc vào tính
chất, đặc điểm của vật kích thích, mà còn phụ thuộc vào bản thân chủ thể tri
giác. Sự phụ thuộc của hình ảnh tri giác vào nội dung đời sống tâm lý con người
được gọi là hiện tượng tổng giác. Trong quá trình dạy học và giáo dục ta cần
tính đến kinh nghiệm, những hiểu biết, nhu cầu, hứng thú, tâm thế…của học sinh
nhằm nâng cao hiệu quả tri giác và năng lực quan sát ở học sinh, tránh hiện tượng
“yêu nên tốt, ghét nên xấu” dễ dẫn đến sai lầm. Mặt khác, trong giao tiếp hàng
ngày chúng ta cần phải gây ấn tượng tốt với đối tượng ngay trong những buổi đầu
gặp gỡ để duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên.
3.3.6. Tính ổn định của tri giác
Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh
các sự vật,hiện tượng một cách không thay đổi khi điều kiện tri giác đã thay đổi.
Tính ổn định của tri giác thể hiện rõ trong các
trường hợp tri giác về độ lớn, hình dạng, màu sắc của đối tượng. Nó được hình thành
trong hoạt động của con người với đồ vật, nó không phải do cơ chế bẩm sinh mà
do kinh nghiệm sống của con người tạo nên. Tính ổn định của tri giác phụ thuộc
vào kinh nghiệm sống; phụ thuộc vào cấu trúc tương đối ổn định của svht trong một
thời gian, thời điểm nhất định và phụ thuộc vào khả năng tự điều chỉnh mối quan
hệ ngược của não.
3.3.7. Tính ảo giác (ảo ảnh của tri
giác)
Trong một số trường hợp với những điều kiện thực
tế xác định, nhưng tri giác có thể không cho ta hình ảnh đúng về sự vật hiện tượng.
Hiện tượng này gọi là ảo giác. Ảo giác là tri giác không đúng, phản ánh sai lệch
các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Ảo giác là một hiện tượng có
tính qui luật xảy ra ở tất cả mọi người bình thường và có ở tất cả các loại tri
giác. Mỗi loại ảo giác đều có nguyên nhân riêng của nó. Có loại ảo giác do nguyên nhân vật lý, do nguyên nhân sinh lý và
nguyên nhân tâm lý. Người ta đã lợi dụng hiện tượng ảo giác trong mọi lĩnh vực
hoạt động như trong hội hoạ, kiến trúc, trang trí nội thất, quảng cáo, kinh
doanh, thời trang…
Tóm lại: Các qui luật của tri giác có quan hệ bổ
sung cho nhau làm cho tri giác của con người ngày thêm đa dạng phong phú và
mang tính chất chủ thể cao. Vì vậy, khi đánh giá khả năng tri giác của mỗi cá
nhân và rèn luyện năng lực tri giác của bản thân, ta cần phải chú ý đến các qui
luật nói trên.
II. TRÍ NHỚ
Khái niệm về trí nhớ
Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh những
kinh nghiệm đã trải qua của con người dưới hình thức những biểu tượng.
Trí nhớ là sự ghi nhớ, gìn giữ và tái hiện lại
những gì con người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động. Nhận thức cảm tính
chỉ phản ánh được sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan
của ta. Trí nhớ phản ánh các svht đã tác động vào chúng ta trước đây mà không cần
có sự tác động của bản thân chúng trong hiện tại. Hay nói cách khác trí nhớ phản
ánh những kinh nghiệm mà con người đã trải qua. Kết quả của trí nhớ là tạo ra
trong đầu ta những biểu tượng.
Biểu tượng là những hình ảnh của sự vật hiện tượng
được nảy sinh trong đầu óc con người khi những svht đó không còn trực tiếp tác
động vào các giác quan. Ví dụ: khi ta để cuốn sách ở trước mặt ta thì ta có
hình ảnh cuốn sách ở trong đầu. Nhưng ta cất cuốn sách đó đi rồi thì hình ảnh
cuốn sách vẫn hiện ra rõ nét trong óc ta. Hình ảnh đó chính là biểu tượng của
trí nhớ.
Biểu tượng là sản phẩm của trí nhớ, nó được
hình thành trên cơ sở của sự tri giác. Vì vậy, nó vừa mang tính trực quan cụ thể, vừa
mang tính khái quát, nên trí nhớ được xếp vào giai đoạn chuyển tiếp trung gian
giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Trí nhớ không chỉ là thành phần của
hoạt động nhận thức thuần túy, mà nó còn là thành phần cơ bản tạo nên nhân cách
con người. Do đó, trí nhớ có vai trò rất quan trọng trong đời sống hoạt động của
con người.
Các quá trình cơ bản của trí nhớ
2.1. Quá trình ghi nhớ (tạo vết)
Ghi nhớ là quá trình lưu trữ lại trong não con
người những hình ảnh của sự vật, hiện tượng trong quá trình tri giác.
Sự ghi nhớ là quá trình ghi nhận thông tin
trong não con người hay còn gọi là quá trình tạo vết. Là quá trình thành lập đường
liên hệ thần kinh tạm thời vững chắc trên vỏ não để sau này có thể khôi phục lại
được do tác động của những kích thích khác nhau. Có hai cách ghi nhớ: ghi nhớ
không chủ định và ghi nhớ có chủ định.
– Ghi nhớ không chủ định: là loại ghi nhớ không
đề ra mục đích từ trước, không cần dùng một cách thức nào để ghi nhớ và không
đòi hỏi sự nỗ lực của ý chí. Độ bền vững của loại ghi nhớ này phụ thuộc vào
đặc điểm của đối tượng, vào sự thỏa mãn nhu cầu của cá nhân, vào mục đích hoạt
động…Ghi nhớ không chủ định giúp ta có thể nhớ được một số lớn những hiện tượng
trong cuộc sống, làm cho vốn kinh nghiệm sống của con người ngày càng thêm
phong phú. Khi ghi nhớ không chủ định phù hợp với mục đích của cá nhân thì nó sẽ
trở thành ghi nhớ có chủ định.
– Ghi nhớ có chủ định: là loại ghi nhớ với mục
đích đã được định trước. Trong quá trình ghi nhớ đòi hỏi phải có các biện pháp,
phương tiện và có sự nỗ lực của ý chí.
Ghi nhớ có chủ định là hình thức ghi nhớ chủ yếu
của trí nhớ. Kết quả của loại ghi nhớ này phần lớn phụ thuộc vào mục đích, động
cơ, tâm thế của sự ghi nhớ. Ghi nhớ có chủ định được tiến hành bằng hai cách:
+ Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ dựa vào những
mối liên hệ bề ngoài của sự vật hiện tượng mà không cần hiểu nội dung cũng như
ý nghĩa của sự vật hiện tượng.
Ghi nhớ máy móc là lặp đi lặp lại nhiều lần một
cách đơn giản đối tượng cần ghi nhớ. Nó là cơ sở của sự học thuộc lòng.
+ Ghi nhớ có ý nghĩa: là loại ghi nhớ dựa vào sự
hiểu biết nội dung, bản chất và mối quan hệ lôgic có tính qui luật của các sự vật
hiện tượng.
Ghi nhớ có ý nghĩa gắn liền với hoạt động tư
duy giúp con người hiểu được bản chất và mối quan hệ có tính qui luật của các sự
vật hiện tượng, nó được dựa trên sự hiểu biết của con người nên nó rất bền vững khó quên. Nếu có
lỡ quên thì ta vẫn có thể suy luận ra để
nhớ lại vấn đề.
2.2. Quá trình gìn giữ (củng cố vết): là
quá trình củng cố vững chắc những dấu vết đã được hình thành trên vỏ não trong quá trình
ghi nhớ. Quá trình gìn giữ có thể được diễn ra đồng thời
hay diễn ra ngay sau quá trình ghi nhớ. Gìn giữ thường diễn ra theo hai cách là
gìn giữ tích cực và gìn giữ tiêu cực.
2.3. Quá trình nhận lại: là quá trình nhớ
được đối tượng đã tri giác trước đây mà hiện tại đối tượng đó lại xuất hiện trước mặt
ta một lần nữa. Nhận lại là một quá trình đơn giản diễn ra trước quá trình nhớ
lại, nên nó không phải là tiêu chuẩn để đánh giá trí nhớ của con người. Tính
chính xác của sự nhận lại phụ thuộc vào mức độ bền vững của sự ghi nhớ, phụ thuộc
vào sự giống và khác nhau của hình ảnh cũ và hình ảnh mới. Vì thế, có khi ta nhận
lại bị sai do đối tượng gặp lại khác nhiều so với hình ảnh trước đây.
2.4. Quá trình nhớ lại: là quá trình
làm xuất hiện lại trong não những hình ảnh của svht trước đây đã được tri giác mà hiện tại
svht đó không còn trước mặt ta nữa.
Nhớ lại có thể diễn ra một cách không chủ định
hoặc có chủ định. Nó mang tính chủ thể rõ nét vì nó phụ thuộc vào kinh nghiệm sống
và tính chất hoạt động. Nhớ lại là khâu cuối cùng của trí nhớ, nó là tiêu chuẩn
để đánh giá trí nhớ của con người.
Các quá trình của trí nhớ có vai trò vị trí
khác nhau nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau. Trong đó, quá
trình ghi nhớ và quá trình gìn giữ là tiền đề, điều kiện của sự nhận lại và nhớ
lại. Mặt khác, nhận lại và nhớ lại sẽ giúp con người có thể ghi nhớ và gìn giữ
thông tin một cách tốt hơn.
Quá trình quên
* Quên là không thể nhận lại hoặc nhớ lại đối
tượng đã ghi nhớ trước đây vào thời điểm cần thiết.
Quên là quá trình mất dần thông tin trong trí
nhớ. Khi ta quên thì những đường liên hệ thần kinh tạm thời, những dấu vết đã được
hình thành trước đây đã bị ức chế và không thể khôi phục lại được trong một thời
gian lâu dài hay tạm thời.
* Các mức độ quên:
+ Quên hoàn toàn: không thể nhận lại và nhớ lại
được.
+ Quên cục bộ: không thể nhớ lại được nhưng có
thể nhận lại được.
+ Quên tạm thời: trong một thời gian nào đó ta
không thể nhớ lại được, nhưng trong một lúc nào đó đột nhiên nhớ lại được. đó
là hiện tượng sực nhớ.
* Qui luật quên
- Con người thường quên những gì không phù
hợp với nhu cầu, hứng thú và ít liên quan đến cuộc sống.
– Ta thường hay quên những gì ít tham gia vào
hoạt động, ít được sử dụng trong việc đạt tới mục đích.
– Chúng ta cũng hay quên khi gặp những kích
thích mới lạ, những kích thích có cường độ mạnh.
– Ta thường hay quên những yếu tố chi tiết những
yếu tố phụ trước và quên những yếu tố chính, yếu tố quan trọng sau.
– Sự quên diễn ra với tốc độ không đồng đều
như: tốc độ quên diễn ra rất nhanh ngay sau khi vừa ghi nhớ, nhưng sau đó tốc độ quên
giảm dần.
* Biện pháp chống quên
– Phải gắn tài liệu cần ghi nhớ vào tài liệu học
tập của học sinh, làm cho nội dung đó trở thành mục đích của hành động, hình thành
nhu cầu, hứng thú của học sinh đối với tài liệu học tập.
– Phải tổ chức hoạt động dạy học một cách khoa
học như phân bố thời gian học tập và giải lao hợp lý, không nên dạy hai môn có
nội dung tương tự kế tiếp nhau (để tránh các qui luật ức chế).
– Tổ chức cho học sinh tái hiện tài liệu học tập,
làm bài tập ứng dụng ngay sau khi học lý thuyết ở trường, về nhà phải ôn lại
bài ngay sau khi học tài liệu mới. Nên sử dụng phối hợp các loại ghi nhớ, có kế
hoạch ôn tập thường xuyên có khoa học.
III.NHẬN THỨC LÝ TÍNH
1.TƯ DUY
Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những
thuộc tính bản chất, những mối liên hệ, quan hệ có tính qui luật bên trong
của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa
biết.
Tư duy là hình thức cao nhất của sự phản ánh,
là mức độ nhận thức mới về chất so với cảm giác, tri giác. Nếu cảm giác, tri giác
chỉ phản ánh thuộc tính bề ngoài, những mối quan hệ, liên hệ về không gian và
thời gian, thì tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất bên trong, những mối
liên hệ, quan hệ có tính chất qui luật của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: đứng trước
một con người, nhận thức cảm tính cho ta biết nét mặt, hình dáng, cử chỉ…Còn tư
duy cho ta biết được quan điểm, lập trường, tính cách, tài năng…những cái bản
chất bên trong của nhân cách. Tuy rằng tư duy phản ánh thuộc tính bản chất bên
trong của svht nhưng không phải bao giờ tư duy cũng đi đến cái đúng, mà tư duy
cũng có thể đi đến cái sai. điều đó nhắc nhở con người cần phải cẩn thận trong
khi nhìn nhận đánh giá sự việc. Cần biết kết hợp cái hiện tượng bên ngoài với
cái bản chất bên trong. Tư duy phản ánh khái quát các thuộc tính bản chất của
svht để rút ra qui luật chung của những svht đó. Tư duy phản ánh cái chưa biết
tức là phản ánh cái mới, nhờ nó mà ta mới có khả năng giải quyết những vấn đề
do thực tiễn đề ra. Tư duy con người mang bản chất xã hội lịch sử, nó gắn liền
với ngôn ngữ. Tư duy được hình thành và phát triển trong quá trình lao động và
quá trình giao tiếp giữa con người với con người trong các mối quan hệ xã hội.
Hiện nay, khoa học kỹ thuật phát triển nhưng con người vẫn là chủ thể duy nhất
của quá trình tư duy đích thực.
1.2. Đặc điểm của tư duy
1.2.1. Tính có vấn đề của tư duy
Trong thực tế tư duy chỉ nảy sinh khi gặp hoàn
cảnh có vấn đề. Nhưng không phải bất cứ tác động nào của hoàn cảnh đều xuất hiện
quá trình tư duy. Hoàn cảnh có vấn đề là những tình huống mà bằng vốn hiểu biết
cũ, phương pháp hành động đã có ta không thể giải quyết được nó. để nhận thức
và giải quyết hoàn cảnh có vấn đề mới thì con người cần phải có những tri thức
và phương thức hành động mới nhằm đạt được mục đích mới. Hoàn cảnh có vấn đề
thường là những câu hỏi, bài tập hay những nhiệm vụ được đặt ra trong hoạt động
nhận thức thực tiễn.
Ví dụ: Quá trình quang hợp của cây xanh được diễn ra như thế nào?
Ví dụ: Quá trình quang hợp của cây xanh được diễn ra như thế nào?
Trong hoàn cảnh có vấn đề luôn có sự mâu thuẫn
giữa mục đích đề ra và phương pháp để đạt được mục đích đó. Khi hoàn cảnh có vấn
đề xuất hiện sẽ kích thích con người tư duy, nhưng không phải bất cứ hoàn cảnh
có vấn đề nào cũng có hoạt động tư duy (Nếu nó quá dễ hoặc quá khó thì cũng
không có tư duy).Vì vậy, tư duy chỉ nảy sinh trong hoàn cảnh có vấn đề mà đã được
con người nhận thức một cách đầy đủ và có nhu cầu chuyển thành nhiệm vụ của tư
duy để giải quyết vấn đề đó. Khi gặp hoàn cảnh có vấn đề mới thì cá nhân cần phải
xác định được cái gì đã biết, cái gì cần tìm và mối liên hệ giữa cái đã biết và
cái cần tìm như thế nào để có nhu cầu muốn biết, muốn tìm cái mới.
1.2.2. Tính gián tiếp của tư duy
Nhận thức cảm tính mới chỉ phản ánh bản thân sự
vật một cách trực tiếp. Tư duy có khả năng phản ánh svht một cách gián tiếp thông
qua các dấu hiệu, kinh nghiệm, ngôn ngữ, những công cụ lao động…Ví dụ: Nhà khảo
cổ học chỉ cần dựa vào một vài di tích hoá thạch nhưng có thể biết được nguồn gốc,
thời gian tồn tại và nền văn hoá trong niên đại đó như thế nào. Nhờ khả năng phản
ánh gián tiếp của tư duy đã giúp con người nhận thức thế giới một cách sâu sắc
hơn và mở rộng khả năng hiểu biết của con người đến vô tận. Nhờ tính phản ánh gián tiếp của tư duy đã giúp con người
phản ánh được cái quá khứ, cái hiện tại và cái trong tương lai, phản ánh được
những cái mà cảm giác tri giác không thể phản ánh được. Dựa vào các qui luật và
các mối liên hệ giữa các hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên mà con người có thể
hiểu biết được và khám phá được những gì xảy ra trên mặt trăng, mặt trời, sao
Kim, sao Hỏa…một cách gián tiếp.
1.2.3. Tính trừu tượng hóa và khái quát của tư duy
Trong một svht bao giờ cũng có những thuộc tính
riêng đặc trưng cho đối tượng đó và có những thuộc tính chung khái quát của hàng
loạt các đối tượng cùng loại. Nhận thức cảm tính mới chỉ phản ánh từng thuộc
tính riêng lẻ rời rạc của một sự vật cụ thể, chứ chưa có khả năng khái quát
hàng loạt sự vật cùng loại. Tư duy không chỉ phản ánh svht một cách riêng lẻ cụ
thể, mà có khả năng phản ánh svht một cách khái quát. Có nghĩa là tư duy có khả
năng trừu xuất khỏi đối tượng những thuộc tính không bản chất mà chỉ giữ lại những
dấu hiệu bản chất chung nhất đặc trưng cho nhiều svht cùng loại. Ví dụ: dấu hiệu
bản chất của kim loại là có tính dẫn nhiệt và dẫn điện…
Nhờ tư duy phản ánh khái quát các svht mà ta biết
được qui luật phát triển chung của xã hội, biết được những cái mà ta không thể
biết được bằng nhận thức cảm tính. Nhờ tính khái quát của tư duy mà ta có thể
phân loại được sự vật đó thuộc nhóm svht nào và nó có đặc tính gì…Tính khái
quát không chỉ giúp ta giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà còn có thể dự kiến
được những cái trong tương lai.
1.2.4. Tư duy quan hệ chặt chẽ với
ngôn ngữ
Trong nhận thức cảm tính dù có ngôn ngữ hay
không có ngôn ngữ tham gia thì quá trình cảm giác, tri giác vẫn diễn ra. Nhưng nếu
không có ngôn ngữ thì không có bất cứ một quá trình tư duy nào, bởi vì, ngôn ngữ
là hình thức biểu đạt những sản phẩm của tư duy (ý nghĩ, khái niệm…). Ngôn ngữ
là một mặt không thể tách rời của tư duy, không có ngôn ngữ thì không có tư
duy. Ngược lại, nếu không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là một chuỗi âm thanh vô
nghĩa, không có nội dung và nó cũng chẳng khác gì những tín hiệu âm thanh của
loài động vật. Nhưng tư duy không phải là ngôn ngữ, mà tư duy và ngôn ngữ có mối
quan hệ biện chứng với nhau, đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
1.2.5. Tư duy liên hệ mật thiết với
nhận thức cảm tính
Tuy là mức độ nhận thức cao hơn hẳn về chất so
với nhận thức cảm tính, nhưng tư duy không tách rời nhận thức cảm tính. Tư duy
dù trừu tượng, khái quát đến mấy cũng phải dựa vào các tài liệu trực quan mà cảm
giác và tri giác đưa lại. Hơn nữa, muốn tư duy trước hết phải tri giác được
hoàn cảnh có vấn đề, tri giác được các sự kiện. Như vậy tri giác là một khâu,
là thành phần của quá trình tư duy. Kết quả của tư duy đòi hỏi phải được kiểm
tra bằng thực tiễn thông qua các quá trình nhận thức cảm tính. Mặt khác, tư duy
cũng ảnh hưởng đến nhận thức cảm tính, nhờ có tư duy mà ta có thể tri giác đối
tượng một cách nhanh chóng và chính xác hơn. Tư duy ảnh hưởng đến tính lựa chọn,
tính ý nghĩa và tính ổn định của tri giác.
1.3. Các giai đoạn của một quá trình tư duy
1.3.1. Các giai đoạn của một quá trình tư duy
Tư duy là một hành động trí tuệ, là một quá
trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó nảy sinh trong quá trình nhận thức hay
trong hoạt động thực tiễn. Quá trình đó được thực hiện bởi các thao tác trí tuệ
nhất định, nó được diễn ra theo các giai đoạn sau:
1.3.2. Xác định vấn đề
Xuất hiện hoàn cảnh có vấn đề là một điều kiện
quan trọng của tư duy. Hoàn cảnh có vấn đề chứa đựng các mâu thuẫn khác nhau (giữa
cái đã biết và cái chưa biết, giữa cái đã có với cái chưa có) con người càng có
nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nào đó càng dễ dàng nhìn ra và đầy đủ những
mâu thuẫn đó. Chính vấn đề được xác định này quyết định toàn bộ những việc giải
quyết sau đó. đây là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất của quá trình tư
duy.
1.3.3. Xuất hiện các liên tưởng – huy động
các tri thức, kinh nghiệm
Xuất hiện trong đầu những tri thức, kinh nghiệm,
những liên tưởng nhất định có liên quan đến vấn đề đã được xác định.
1.3.4. Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết
Các tri thức, kinh nghiệm và liên tưởng xuất hiện
đầu tiên còn mang tính chất rộng rãi chưa thực sát với nhiệm vụ đề ra. Trên cơ sở
sàng lọc này sẽ hình thành giả thuyết tức là cách giải quyết cho phù hợp với
nhiệm vụ của tư duy. Chính sự đa dạng của các giả thuyết cho phép xem xét cùng
một sự vật hiện tượng từ nhiều hướng khác nhau để tìm ra cách giải quyết đúng đắn
nhất.
1.3.5. Kiểm tra giả thuyết
+ Nếu giả thuyết đúng thì khẳng định giả thuyết
và đi đến giải quyết vấn đề.
+ Nếu giả thuyết sai thì bác bỏ, xây dựng giả
thuyết mới, rồi kiểm tra lại.
Khi giả thuyết đã được kiểm tra và khẳng định
thì nó sẽ được thực hiện, tức đi đến
câu trả lời cho vấn đề được đặt ra.
Sơ đồ các giai đoạn của quá trình tư duy
Nhận thức vấn đề
Xuất hiện các liên tưởng
Sàng lọc liên tưởng và hình thành giả thuyết
Kiểm tra giả thuyết
Chính xác
hóa
Khẳng định
Phủ định
Giải quyết vấn đề Hđ tư duy mới
1.4. Các thao tác của quá trình tư duy
1.4.1. Phân tích-Tổng hợp
– Phân tích: Là hoạt động trí tuệ phân chia đối
tượng thành những bộ phận, những thuộc tính, các quan hệ khác nhau theo một hướng
nhất định.
– Tổng hợp: Là quá trình kết hợp những thuộc
tính, quan hệ…mà ta đã tách ra do quá trình phân tích thành một chỉnh thể thống
nhất.
Phân tích và tổng hợp có mối quan hệ mật thiết
với nhau, phân tích được tiến hành trên cơ sở tổng hợp và tổng hợp được thực hiện
trên kết quả của phân tích.
1.4.2. So sánh: là sự xác định sự giống
nhau hay khác nhau, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các sự vật hiện tượng.
Thao tác này cũng có quan hệ chặt chẽ với phân tích và tổng hợp. So sánh là cơ
sở của mọi sự hiểu biết và tư duy. Nhờ có sự so sánh các sự vật, hiện tượng với nhau mà ta có thể lĩnh hội các
tài liệu học tập với tất cả tính đa dạng độc đáo và phức tạp của chúng.
1.4.3. Trừu tượng hóa và khái quát hóa
Trừu tượng hóa: Là quá trình gạt bỏ khỏi đối tượng
những bộ phận, thuộc tính, quan hệ không cần thiết chỉ giữ lại những yếu tố cần
thiết để tư duy.
Khái quát hóa: Là quá trình dùng trí óc để hợp
nhất nhiều đối tượng khác nhau trên cơ sở có một số thuộc tính giống nhau nào
đó.
Nhưng ta cũng cần phân biệt những thuộc tính
chung gồm có hai loại: những thuộc tính chung giống nhau và những thuộc tính
chung là những thuộc tính bản chất. Vì vậy, nếu khái quát hóa chỉ dựa trên những
dấu hiệu chung giống nhau thì dễ dẫn đến sai lầm. Ví dụ: Một số học sinh đã sai
lầm khi xếp cá voi vào loài cá…
Trừu tượng hóa và khái quát hóa có quan hệ qua
lại với nhau. Muốn khái quát hóa đối tượng thì ta phải trừu tượng hóa những dấu
hiệu không bản chất. Khái quát hóa chính là sự tổng hợp ở mức độ cao.
1.4.4. Cụ thể hóa: là sự vận dụng
những khái niệm, định luật, quy tắc đã được khái quát hóa vào hoạt động thực tiễn
nhằm giải quyết những nhiệm vụ cụ thể.
Tóm lại: Trong quá trình tư duy các thao
tác tư duy có quan hệ mật thiết với nhau, chúng thống nhất với nhau theo một hướng
nhất định để giải quyết các nhiệm vụ của tư duy. Việc thực hiện các thao tác tư
duy có thể không tuân theo một thứ tự nhất định và cũng không nhất thiết phải sử
dụng tất cả các thao tác trong một quá trình tư duy.
1.5. Các sản phẩm của tư duy
1.5.1. Khái niệm: Là những tri thức đã được
khái quát hóa ở một loạt các sự vật cùng có chung những dấu hiệu bản chất nhất
định.
Khái niệm bao giờ cũng được biểu hiện bằng từ gọi
là từ khái niệm. Một khái niệm bao giờ cũng bao hàm một nội dung nhất định gọi
là nội dung khái niệm. Quá trình tư duy ở trình độ nào đó sẽ giúp con người nhận
thức được một số lượng khái niệm ở một mức độ nhất định. Nên cùng một khái niệm
nhưng có người hiểu rộng có người hiểu hẹp.
1.5.2. Phán đoán: Là một sự khẳng định
hay phủ định về các sự vật, hiện tượng hoặc những mối quan hệ nào đó giữa các sự vật, hiện
tượng trong hiện thực.
Ví dụ: Tất cả kim loại đều dẫn điện hoặc mỡ
không tan trong nước…
Phán đoán có thể là một nhận định đơn giản hay
phức tạp, nhưng nó cũng có thể đúng cũng có thể sai. Kinh nghiệm càng đa dạng
phong phú và toàn diện thì việc thực hiện các thao tác tư duy càng hợp lý thì
phán đoán càng đúng đắn.
1.5.3. Suy lý: Là một phán đoán được rút
ra từ một phán đoán khác. Suy lý có hai loại:
+ Diễn dịch: Từ phán đoán chung đến phán đoán
riêng (khái quát – cụ thể) Ví dụ: Kim loại dẫn điện, đồng là kim loại thì đồng
cũng dẫn điện.
+ Quy nạp: Từ phán đoán riêng đến phán đoán
chung.
Quy nạp và diễn dịch là hai hình thức suy lý gắn
bó chặt chẽ với nhau và có vai trò quan trọng trong việc lĩnh hội tri thức.
1.6.Các loại tư duy
* Xét theo mức độ phát triển của tư duy ta có:
– Tư duy trực quan hành động: Loại tư duy này nảy
sinh rất sớm ở trẻ dưới 3 tuổi. để nhận biết đối tượng thì con người phải giải quyết
bằng những hành động cụ thể.
– Tư duy trực quan hình ảnh: Loại tư duy này chủ
yếu dựa vào những hình ảnh trực quan của đối tượng đang tri giác. Loại tư duy
này được phát triển ở trẻ 4 tuổi.
– Tư duy trừu tượng: Có hai loại
+ Tư duy hình tượng: Kết quả của quá trình tư
duy này cho ta một hình tượng chứ không phải là một khái niệm. Loại tư duy này
phát triển mạnh ở những người nghệ sĩ.
+ Tư duy từ ngữ – logic: Loại tư duy này tạo
nên những khái niệm, phán đoán nhờ đó mà ta có thể phản ánh khái quát những dấu
hiệu thuộc tính, những mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng. đây là loại tư
duy phát triển ở mức độ cao nhất, phức tạp nhất của con người vì nó phản ánh sự
vật hiện tượng một cách sâu sắc và hoàn chỉnh nhất.
* Xét theo hình thức biểu hiện của nhiệm vụ và
phương thức giải quyết vấn đề ta có:
– Tư duy thực hành:là loại tư duy mà nhiệm vụ đề
ra một cách trực quan cụ thể và phương thức giải quyết bằng những hành động cụ
thể.
VD: Người thợ sửa chữa máy móc
VD: Người thợ sửa chữa máy móc
– Tư duy hình ảnh cụ thể:
Nhiệm vụ dưới hình thức một hình ảnh cụ thể và
phương thức giải quyết phải dựa trên hình ảnh đã có.
Ví dụ: Hai con đường nhưng ta chọn con đường
nào ngắn hơn.
– Tư duy lý luận: Nhiệm vụ đề ra dưới hình thức
lý luận và việc giải quyết nhiệm vụ phải đòi hỏi sử dụng những khái niệm tri thức
lý luận.
Ví dụ: Giáo viên giảng bài, tư duy của học sinh
khi học bài.
( Các loại tư duy trên có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Trong thực tế ít có trường hợp ta sử dụng một loại tư duy mà cần có sự
phối hợp các loại tư duy với nhau, nhưng trong đó có một loại giữ vai trò chủ đạo.
1.7. Các phẩm chất của quá trình tư duy
Tư duy mỗi người là khác nhau là do phẩm chất
tư duy của họ khác nhau. Những phẩm chất tư duy được hình thành do con người
thường xuyên tư duy tích cực và có phương pháp tư duy trong một thời gian dài.
Tư duy gồm có một số phẩm chất sau:
1.7.1.Tư duy khái quát và sâu sắc: Là
phẩm chất trí tuệ giúp con người có thể bao quát được một phạm vi rộng lớn của
thực tiễn tri thức và nắm được mối liên hệ giữa nhiều lĩnh vực. Người có phẩm
chất này bao giờ cũng nhìn thấy rõ ràng cái cốt lõi, cái bản chất của vấn đề,
có khả năng đi sâu vào đối tượng nhận thức để tìm ra cái mới. Nhờ phẩm chất này
mà con người có thể thấy được những nguyên nhân sâu xa, những ý nghĩ đúng đắn,
những nguyên nhân hậu quả của vấn đề…
1.7.2.Tư duy linh hoạt: là phẩm chất
trí tuệ giúp ta có thể thay đổi kế hoạch hoặc giải pháp đã được xác định, nếu nó không phù hợp
cho việc giải quyết nhiệm vụ.
1.7.3. Tư duy độc lập: là phẩm
chất quan trọng giúp ta tự tìm ra cách giải quyết vấn đề, nhờ đó con người biến
tri thức của loài người thành kinh nghiệm riêng của mình để vận dụng vào hoạt động
thực tiễn. Tư duy độc lập đòi hỏi con người phải lao động trí óc thực sự, tốn
nhiều công sức, giúp con người có khả năng sáng tạo.
1.7.4.Tư duy nhanh chóng: Là khả năng
giải quyết vấn đề trong một thời gian ngắn và đem lại hiệu quả cao.
1.7.5.Tính phê phán của tư duy: Là khả
năng đánh giá một cách khách quan những ý nghĩ của mình và của người khác, chứng
minh chặt chẽ và kiểm tra một cách toàn diện tất cả mọi giả thuyết và kết luận
đưa ra.
2. TƯỞNG TƯỢNG
2.1. Khái niệm chung
2.1.1. Định nghĩa
Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những
cái chưa từng có trong kinh nghiệm của con người bằng cách xây dựng những hình ảnh
mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.
Không phải bất kỳ hoàn cảnh có vấn đề nào, bất
kỳ nhiệm vụ nào do thực tiễn đặt ra cũng giải quyết bằng tư duy. Có những trường hợp
con người không thể giải quyết vấn đề bằng tư duy mà con người phải giải quyết
vấn đề đó là tưởng tượng. Tư duy và tưởng tượng cùng ở bậc thang nhận thức lý
tính, nên giữa tư duy và tưởng tượng có những điểm giống nhau như: đều nảy sinh
trước hoàn cảnh có vấn đề, đều phản ánh cái mới một cách khái quát và gián tiếp. Nhưng giữa tư duy và tưởng tượng
cũng có những điểm khác nhau. Tưởng tượng tạo ra hình ảnh mới trên cơ sở những
biểu tượng của trí nhớ nhờ các phương thức lắp ghép, liên hợp, nhấn mạnh, mô phỏng…
Vì vậy, những hình ảnh của tưởng tượng dù là những hình ảnh sáng tạo nhất, viễn tưởng nhất về nội dung, cũng đều là sự kết hợp độc đáo của những yếu tố nằm trong bản thân các sự vật, hiện tượng có thật.
Vì vậy, những hình ảnh của tưởng tượng dù là những hình ảnh sáng tạo nhất, viễn tưởng nhất về nội dung, cũng đều là sự kết hợp độc đáo của những yếu tố nằm trong bản thân các sự vật, hiện tượng có thật.
2.1.2. đặc điểm của tưởng tượng
– Tưởng tượng cũng nảy sinh trước hoàn cảnh có
vấn đề. Khi con người đứng trước một hoàn cảnh mới, một nhiệm vụ mới do thực tiễn
cuộc sống đề ra mà con người không thể giải quyết được bằng tư duy, thì con người
phải tưởng tượng ra. Giá trị của tưởng tượng chính là ở chỗ tìm được lối thoát
trong hoàn cảnh có vấn đề ngay cả khi không đủ điều kiện để tư duy.
– Tưởng tượng cũng phản ánh hiện thực khách
quan một cách gián tiếp và khái quát, nhưng nó mang tính độc đáo sáng tạo hơn so với
quá trình tư duy.
– Tưởng tượng có quan hệ chặt chẽ với nhận thức
cảm tính và ngôn ngữ.
– Tưởng tượng có vai trò rất quan trọng trong bất
kỳ hoạt động nào của con người. Tưởng tượng giúp con người định hướng hoạt động
của mình bằng cách xây dựng trước mô hình tâm lý về kết quả cuối cùng của hoạt
động và đảm bảo việc tiến hành hoạt động để đi đến kết quả đó. Nếu không hình
dung ra được kết quả công việc của mình thì ta khó có thể bắt đầu công việc được.
đây là sự khác nhau cơ bản giữa lao động của con người và những hành động theo
bản năng của con vật.
- Tưởng tượng là cơ sở của mọi phát minh khoa học
vĩ đại, vì nó giúp cho các nhà khoa học thu thập những thông tin sự kiện để tạo
ra các phát minh vĩ đại đó.
- Tưởng tượng giúp nhà giáo dục hiểu sâu sắc thế
giới bên trong của học sinh để xác định nội dung, phương pháp và hình thức dạy học
và giáo dục có hiệu quả.
- Tưởng tượng giúp cho con người vượt qua một
vài giai đoạn của hoạt động trí tuệ, khi mà tri thức của con người không đủ sức
giải quyết vấn đề.
- Tưởng tượng có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình
thành và phát triển toàn bộ nhân cách của con người. đây cũng chính là căn cứ để
đánh giá nhân cách của mỗi người như căn cứ vào hình mẫu lý tưởng của con người.
- Tưởng tượng có vai trò to lớn trong đời sống
tinh thần của con người, nó có liên quan đến xúc cảm và có thể là nguồn gốc làm xuất
hiện các tình cảm sâu sắc và bền vững. Ngoài ra, tưởng tượng còn ảnh hưởng tới
các quá trình hoạt động của cơ thể, nó có thể tạo ra những phản ứng nhất định của
một cơ quan nào đó trong cơ thể con người. Chẳng hạn như hiện tượng ám thị hay
bệnh tưởng…
2.2. Các loại tưởng tượng
* Căn cứ vào mức độ tham gia của ý thức ta có 2
loại tưởng tượng.
– Tưởng tượng không chủ định là loại tưởng tượng
không theo mục đích trước.
– Tưởng tượng có chủ định là
loại tưởng tượng theo một mục đích đặt ra trước, có kế hoạch và có phương pháp
nhất định nhằm tạo ra hình ảnh mới. Loại này gồm:
+ Tưởng tượng tái tạo: là quá trình tạo ta những
hình ảnh mới đối với cá nhân người tưởng tượng dựa trên sự mô tả của người
khác, của sách vở, tài liệu.
+ Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng những
hình ảnh mới chưa có trong kinh nghiệm của bản thân, cũng như chưa có trong xã
hội. đây là một phần không thể thiếu được trong hoạt động sáng tạo nói chung của
con người.
* Căn cứ vào tính tích cực hay không của tưởng
tượng có thể chia làm 2 loại:
– Tưởng tượng tiêu cực (mơ mộng)
– Tưởng tượng tích cực: đây là loại tưởng tượng
định hướng cho hoạt động và thúc đẩy con người hoạt động để biến tưởng tượng
thành hiện thực. Ước mơ và lý tưởng là hình thức đặc biệt của tưởng
tượng.
2.3. Các cách sáng tạo hình ảnh mới của tưởng
tượng
– Thay đổi kích thước, số lượng, thành phần của
các sự vật.
– Nhấn mạnh các chi tiết, thành phần, thuộc
tính của sự vật hiện tượng.
– Chắp ghép những thành phần, thuộc tính của
nhiều svht khác nhau.
– Liên hợp là kết hợp một số bộ phận của nhiều
svht một cách sáng tạo.
– Điển hình hóa.
– Loại suy là tạo ra hình ảnh mới bằng cách mô
phỏng từ các sự vật hiện tượng có thật.
hãng hàng không eva air
mua vé máy bay đi mỹ hãng nào rẻ
korean air việt nam
khuyến mãi vé máy bay đi mỹ
Vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich