Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý
Nếu tính bài hát “Ai xây chiến lũy”, viết năm 1949, là tác phẩm đầu
tiên của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, thì tới năm 2003, ca khúc “Mối tình câm”, coi
như là giai điệu cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ hoạt động âm nhạc của ông.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý tại nhà riêng
Nói vậy, bởi từ đó đến nay ông ở tuổi 92, không viết được nữa do bệnh
tật và cô đơn.
Sự nghiệp của ông được tôn vinh bởi Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn
học và Nghệ thuật năm 2000, với chùm ca khúc rất nổi tiếng: “Mẹ yêu con”, “Vượt
trùng dương”, “Bài ca năm tấn”, “Tấm áo chiến sỹ mẹ vá năm xưa”, “Một khúc tâm
tình của người Hà Tĩnh” và “Dáng đứng Bến Tre”.
Nhưng cùng với đó lại là những “Dư âm” của một thời vang bóng và những
hệ lụy gắn bó cho đến tận những năm tháng cam go nhất trong cuộc đời người nghệ
sĩ lãng mạn và tài hoa này.
Giờ đây, một ngày của ông được tính từ 1 giờ đêm, vì ông luôn thao
thức không thể ngủ nổi. Ông đếm từng canh giờ, lắng nghe những chuyển động
trong tâm hồn mình với bao ký ức tràn về...
Ca khúc “Dư âm”, mà ông viết vào năm 1950 khi đang làm Trưởng đoàn
văn công Sư đoàn 304. Ngạn ngữ cổ “Tình chị duyên em” xưa, đã xảy ra với nhạc
sĩ Nguyễn Văn Tý, khi ông được một người bạn giới thiệu để tìm hiểu một người
con gái ở Thanh Chương, cùng quê lúc ấy.
Sau khi người vợ đầu tiên yểu mệnh từ năm 1947, cũng đã đến ba năm
trời nuôi nấng con nhỏ, nên việc người bạn giúp tìm bạn mới làm nhạc sĩ trẻ
Nguyễn Văn Tý háo hức lắm. Nhưng cái duyên cái số mới lạ lùng và trêu người. Đã
mấy lần gặp gỡ nhưng vẫn chưa bén tình với cô chị, thì cô em bất ngờ xuất hiện,
với nụ cười hồn nhiên và đôi mắt long lanh hút hồn người nhạc sĩ. Đó là nỗi
khát khao ập đến như một tia chớp vậy.
Sét đánh chăng? Đúng thế! Nhạc sĩ họ Nguyễn bị ám ảnh vì đôi mắt ấy.
Khi người chị đuổi cô em ra khỏi câu chuyện của mình thì cũng là lúc tình yêu của
nhạc sĩ, cho dù mơ hồ, thoáng chốc với cô em lại nồng cháy.
Ngược lại cô em cũng vậy, như sự đồng vọng của thần giao cách cảm,
cũng không ngủ được. Nàng hong tóc ngoài hiên và ôm đàn hát bâng quơ trong nỗi
niềm mơ mộng trong đêm. Còn chính nhạc sĩ lại trở nên ngơ ngẩn vì tiếng tơ lòng
ngân nga.
Cảm xúc trào dâng, ngay giữa đêm đó, một câu nhạc chợt vang lên, nhạc
sĩ Nguyễn Văn Tý đã quây cót che bớt ánh sáng của đèn dầu và ghi lại những nốt
nhạc trên cái nong kê nghiêng. Nhạc sĩ ôm cây ghi ta và thầm hát lên những lời
đầu tiên về tình yêu trong mộng ước: “Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn, dìu muôn tiếng
tơ...”.
Anh có cảm giác như có ai đó trên trời đọc cho mình chép ra những
dòng nhạc dạt dào tuôn chảy. Đó là linh cảm vị ngọt của tình yêu không tới. Bởi
lẽ sau đó là sự cấm đoán chia xa. Hai người không thể gặp nhau.
Tuy tình chẳng tới, nhưng người nghệ sĩ lại để đời cho những phút
giây sáng tạo đột xuất, và ca khúc “Dư âm” đã làm nổi danh cái tên Nguyễn Văn
Tý từ đó. Đặc biệt từ khi bài hát này được lồng trong phim “Kiếp hoa”, chiếu ở
vùng địch tạm chiếm.
Một phút lắng đọng trên gương mặt
người nhạc sĩ già Nhạc sĩ Nguyễn
Văn Tý
Mặc cho “Dư âm” bị cấm trong vùng kháng chiến, nhưng trong những
ngày tháng ấy, nó vẫn được phổ cập sâu rộng trong đời sống và nhất là tầng lớp
tiểu tư sản và học sinh sinh viên. Nhưng thật rủi thay, đó cũng là một tai họa
cho người nhạc sĩ trẻ này, khi ba năm sau có một cuộc chỉnh huấn bất ngờ, và
“Dư âm” là một dị phẩm bị đưa ra là một điển hình để khảo cung.
Đây là sự kiện làm nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý choáng váng, bởi nó xảy ra
sau lễ thành hôn của ông với ca sĩ Bạch Lê, em gái nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương.
Niềm vui chưa kịp thỏa thì một không khí u ám bao trùm với những
câu hỏi dồn ép với nhạc sĩ rằng, vì sao bài hát “Dư âm” lại được đưa ra vùng bị
địch tạm chiếm, sào huyệt của kẻ thù; Hoặc nhạc sĩ đã nhận được gì của kẻ địch trả
công cho?...
Sau nhiều lần làm kiểm thảo, nhưng mọi chuyện cứ giằng co, bị đào bới
mãi, làm nhạc sĩ mệt mỏi, tuyệt vọng. Đến nỗi ông đành phó mặc cho số phận run
rủi, và kêu lên rằng, sẵn sàng chịu bị bắt nếu có chứng cứ gì xác đáng. May sao
một thời gian sau, lãnh đạo cấp trên cũng thông qua bản kiểm điểm thành khẩn của
nhạc sĩ và không có bằng cớ để xử lý kỷ luật. Nhưng mọi chuyện đâu đã kết
thúc...?
Quả là án treo “dư âm” kia vẫn dai dẳng đến mức, vẫn là nguyên cớ
ngầm cho cuộc chỉnh huấn lần thứ hai, khi có chuyện đồn thổi là, tác giả “Dư
âm” là một thành viên của nhân văn giai phẩm.
Đáng chú ý, khi đó nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đang là một trong 5 người
được cử ra thành lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam, vào năm 1957. Tất nhiên họ cũng chẳng
hề quan tâm đến những thành tựu sau 4 năm phấn đấu, mà nhạc sĩ đạt được sau lần
chỉnh đốn tư tưởng lần trước.
Ai cũng rõ rằng, sau “Dư âm”, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã có giải thưởng
cao nhất, với ca khúc “Vượt trùng dương”, vào năm 1952 và thêm một lần nổi lên
với ca khúc “Mẹ yêu con” (viết năm 1956), qua giọng hát của Khánh Vân và Thanh
Huyền, được phát liên tiếp trên Đài tiếng nói Việt Nam.
Trong 5 năm trời, từ 1962 đến 1967, ông đã lăn lộn với thực tế trên
đồng ruộng, cho ra đời những ca khúc hay như: “Bài ca năm tấn”, “Chim hót trên
đồng đay”, “Tiễn anh lên đường”, “Múa hát mừng chiến công” và “Người giỏi chăn
nuôi”. Ấy là chưa kể các tác phẩm nhạc nền cho những vở chèo của tỉnh và đạt những
HCV trong các hội diễn sân khấu.
Và may sao, sau khi trở về Hà Nội, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý vẫn giữ
phong độ sáng tác về những đề tài quê hương rất sung sức với những ca khúc thấm
đẫm chất dân ca, có sức truyền cảm sâu sắc.
Chẳng ai có thể quên được những giai điệu ngọt ngào và rất ấn tượng
của “Em đi làm tín dụng” (1971), “Tấm áo chiến sỹ mẹ vá năm xưa” (1973) hay “Một
khúc tâm tình của người Hà Tĩnh” (1974). Thời điểm này, ông nổi lên như một
ngôi sao tiên phong trong việc sáng tác mang phong cách âm nhạc dân gian, với
những đề tài mới.
Thế rồi con người năng động và ưa sáng tạo trong ông luôn luôn gắn
liền với những dịch chuyển, nay đây mai đó. Cuối cùng, ông định cư ở TP Hồ Chí
Minh từ năm 1976.
Cho đến nay, phong cách sáng tác của ông vẫn được phát huy triệt để
qua những sáng tác về quê hương, đất nước, đến nỗi anh em đồng nghiệp còn gọi
ông là người chuyên trị “Tỉnh ca”, vì ông thường nhận lời viết theo đơn đặt
hàng cho các tỉnh. Trong chùm bài hát viết về quê hương này ông có một số tác
phẩm để đời.
Đó là những ca khúc: “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ” (1976), hay như “Dáng
đứng Bến Tre” (1980), “Về Thuận Hải” (1984), và “Hát về thành phố biển dầu”
(1984)...
Đôi lúc chợt nghĩ lại những tai nạn đã trải qua ông lại thầm cảm ơn
số phận đã đẩy ông dấn thân vào con đường sáng tạo vô cùng phong phú.
Ảnh thời trẻ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý
và vợ, bà Nguyễn Thị Bạch Lê
Ông tự rèn luyện trên con đường nghệ thuật, thay đổi phong cách để
khẳng định tài năng và chứng minh cho nỗi oan khuất của mình. Đó là sự dâng hiến
cho sự nghiệp âm nhạc cách mạng. Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học và Nghệ thuật,
mà ông được trao năm 2000 đã khẳng định tất cả.
Và giờ đây, sau mười năm cam chịu với bệnh tật và nỗi buồn chia xa,
khi người vợ yêu quý của ông mất từ 2004. Ông côi cút trong ngôi nhà nhỏ đơn
sơ. Hằng đêm, ngắm nhìn ảnh vợ treo trên tường, ông đếm thời gian trong từng
khoảnh khắc. Canh một. Canh hai. Canh ba… Bà vẫn mỉm cười nhìn ông như thuở nào
còn luộc khoai, nướng sắn.
Còn trong ông một giai điệu lấp lánh đâu đó như muốn cất lên nhưng
sao nghẹn lại. Ánh mắt đục trầm ngước lên trong đêm tối. Những "Dư
âm" cuộc đời bỗng ngân vang trong tâm tưởng. Ông thầm hát lại bài ca cũ, với
âm thanh trầm khê, sưởi ấm những đêm lạnh lẽo, cô đơn.
eva flight
bán vé máy bay đi mỹ giá rẻ
korean air việt nam
book vé máy bay đi mỹ
săn vé máy bay giá rẻ đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich