Đọc thơ xuân của thi hào Nguyễn Du
Mùa xuân là một chủ đề được thi
hào Nguyễn Du nhắc đến khá nhiều trong thơ chữ Hán của cụ. Lạ thay, đó là
những mùa xuân tha hương buồn bã đến chết người. Trong 249 bài thơ chữ
Hán qua ba tập thơ Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc
Hành tạp lục, cụ đã dùng tới 40 từ “xuân” kết hợp với các từ hàn, bệnh,
vũ,… gợi nên một trường cảm xúc khá bi đát. Riêng trong 4 bài
thơ được đặt nhan đề có từ XUÂN (Xuân nhật ngẫu hứng, Xuân dạ, Xuân tiêu lữ thứ, Mộ
xuân mạn hứng), cụ đều bày tỏ một nỗi buồn sâu lắng, âm ỉ khi
thân phiêu bạt ở đất khách quê người. Đây đúng ra là một bi kịch trong cuộc
đời cụ.
Theo Đại Nam liệt truyện: “Nguyễn Du là người ngạo
nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào
chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì…”. Theo giai
thoại, vua Gia Long cũng từng lấy làm thắc mắc và đã từng có lần tìm hỏi cụ
nhưng nhà vua vẫn không có được câu trả lời rõ ràng. Cụ làm quan mà vẫn
chán nản buồn rầu, chức lớn nhưng cụ vẫn như thể la bất đắc trí, ba lần
xin về hưu, sáng tác nhiều bài thơ đầy phiền muộn, chán nản.Phải
chăng những biến cố lịch sử trong thời gian này
đã làm cho cụ bị trầm uất? Tại sao một con người được trọng
dụng như cụ lại có một nỗi niềm bi ai như thế?
Với Xuân nhật ngẫu hứng, ta thấy một Nguyễn Du bất cần đời,
chán chường trước “tài mệnh tương đố” khi sinh nhằm thời binh lửa triền
miên và dù đã đỗ tam trường vẫn đành lênh đênh hải giác thiên nhai.
Bài thơ được sáng tác trong thời kỳ cụ phải ăn nhờ ở đậu nơi quê
vợ, có lẽ vào khoảng đầu triều Tây Sơn lúc đất nước vẫn còn chưa hẳn ổn
định khi ở miền Nam, thế lực của Nguyễn Vương Ánh vẫn lăm le khôi phục
lại cơ đồ. Đây là thời kỳ loạn lạc nhất của đất nước ta vì có đến
năm thế lực phong kiến Mạc, Lê, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn đang giành
giật cơ đồ vương bá:
春 日 偶 興
Xuân nhật ngẫu hứng
患 氣 經 時 戶 不 開
Hoạn khí kinh thời hộ bất khai
逡 巡 寒 暑 故 相 催
逡 巡 寒 暑 故 相 催
Thuân tuần hàn thử cố tương thôi
他 鄉 人 與 去 年 別
他 鄉 人 與 去 年 別
Tha hương nhân dữ khứ niên biệt
瓊 海 春 從 何 處 來
瓊 海 春 從 何 處 來
Quỳnh Hải* xuân tòng hà xứ lai
南 浦 傷 心 看 綠 草
南 浦 傷 心 看 綠 草
Nam phố thương tâm khan lục thảo
東 皇 生 意 漏 寒 梅
東 皇 生 意 漏 寒 梅
Đông hoàng sinh ý lậu hàn mai
鄰 翁 奔 走 村 前 廟
鄰 翁 奔 走 村 前 廟
Lân ông bôn tẩu thôn thiền miếu
斗 酒 雙 柑 醉 不 回
斗 酒 雙 柑 醉 不 回
Đấu tửu song cam túy bất hồi.
Ngày xuân ngẫu hứng làm thơ
Trời xấu qua rồi cửa vẫn gài
Êm êm rét nóng rủ nhau trôi
Xa quê lại một năm ly biệt
Đất khách thêm mùa xuân của ai
Cỏ biếc lòng đau trời Nam phố
Mai vàng chi nữa chúa Xuân ơi!
Lão già trước miếu say mèm rượu
Quanh quẩn hồi lâu chẳng muốn rời.
Êm êm rét nóng rủ nhau trôi
Xa quê lại một năm ly biệt
Đất khách thêm mùa xuân của ai
Cỏ biếc lòng đau trời Nam phố
Mai vàng chi nữa chúa Xuân ơi!
Lão già trước miếu say mèm rượu
Quanh quẩn hồi lâu chẳng muốn rời.
* Quỳnh Hải: huyện Quỳnh Côi, quê vợ của cụ Nguyễn Du
Với “Xuân dạ”, ta lại thấy cụ Nguyễn Du đã thấm thía nỗi đau
đời dành cho một con người tài hoa: bệnh tật, xa nhà, không danh
phận. Đêm dù của mùa xuân nhưng lại nhuộm một màu u ám và đau
thương:
春 夜
Xuân dạ
黑 夜 韶 光 何 處 尋
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
小 窗 開 處 柳 陰 陰
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
江 湖 病 到 經 時 久
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu
風 雨 春 隨 一 夜 深
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm
羈 旅 多 年 燈 下 淚
Kỳ lữ đa niên đăng hạ lệ
家 鄉 千 里 月 中 心
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm
南 臺 村 外 龍 江 水
Nam Đài thôn ngoại Long Giang* thủy
一 片 寒 聲 送 古 今
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim).
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
小 窗 開 處 柳 陰 陰
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
江 湖 病 到 經 時 久
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu
風 雨 春 隨 一 夜 深
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm
羈 旅 多 年 燈 下 淚
Kỳ lữ đa niên đăng hạ lệ
家 鄉 千 里 月 中 心
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm
南 臺 村 外 龍 江 水
Nam Đài thôn ngoại Long Giang* thủy
一 片 寒 聲 送 古 今
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim).
* Long Giang hay Thanh Long giang: sông Lam
Lược dịch 1:
Đêm xuân
Đêm mãi đen hoài nắng đẹp đâu?
Ngoài song bóng liễu phủ lên nhau
Giang hồ thân bệnh hoài vương vấn
Mưa gió đêm xuân cứ dãi dầu
Lưu lạc bao năm đèn nhỏ lệ
Quê nhà ngàn dặm ánh trăng thâu
Nam Đài ơi với sông Lam đó!
Sóng lạnh muôn đời tiếng lắng sâu.
Ngoài song bóng liễu phủ lên nhau
Giang hồ thân bệnh hoài vương vấn
Mưa gió đêm xuân cứ dãi dầu
Lưu lạc bao năm đèn nhỏ lệ
Quê nhà ngàn dặm ánh trăng thâu
Nam Đài ơi với sông Lam đó!
Sóng lạnh muôn đời tiếng lắng sâu.
Năm 1789, Tây Sơn chiếm Bắc Hà, cụ vừa 24 tuổi. Để tránh nạn
binh lửa, cụ đã về ẩn tại quê vợ, huyện Quỳnh Côi (Thái Bình). Bài thơ trên nằm
trong Thanh Hiên tiền hậu tập, có lẽ đã được cụ Nguyễn Du làm
trong thời gian này, lúc cụ chưa tới 30 tuổi. Qua đấy ta có thể thấy thể
chất của cụ không mấy khỏe mạnh do cuộc sống nghèo túng và bản thân cụ
cũng hay đau ốm. Chính nơi đây đã chôn vùi quãng đời thanh xuân của cụ. Sống
nơi thôn ổ, cụ đã gần gũi và hiểu biết rõ ràng đời sống và
tâm tình của tầng lớp dân quê nghèo khó. Mãi hơn 10 năm sau, lúc đã
37 tuổi (1802) cụ mới ra làm quan với triều Nguyễn với chức vụ Tri Huyện Phù
Dung (Hưng Yên) rồi sau đó thăng Tri phủ Thường Tín (Hà Tây).
Những mùa xuân tha hương tại Quỳnh Côi vẫn là đề
tài cho cụ viết các bài thơ khác, cũng chất ngất lòng nhớ quê hương, xót thân
mình đau yếu và cảnh sống nhờ ở tạm trong nghèo túng thiếu thốn như
trong bài Mạn hứng: Bách niện thân thế ủy phong trần/ Lữ thực
giang tân hựu hải tân (Trăm năm thân thế mặc phong trần/ Bãi biển
bờ sông kiếm miếng ăn). Nguyễn Du thường gọi mình là “tha hương nhân” (Xuân nhật
ngẫu hứng) hay “bạch đầu nhân” (Mạn hứng, Tạp thi I…) luôn mang cái “Nhất phiến
hương tâm thiềm ảnh hạ” (Sơn cư mạn hứng: Một mảnh lòng quê soi bóng nguyệt) mà
cuộc sống thì “Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa.” (U cư II: Đầy nhà
xuân lạnh thêm nhiều bệnh) hay “Tam niên tích bệnh bần vô dược” (Mạn hứng: Ba
năm đau ốm, thuốc thang không). Theo ông Đào Duy Anh, trong Thanh
Hiên tiền hậu tập, Nguyễn Du có 17 bài nói về bạch phát hay bạch đầu.
Nguyễn Du đã phát họa cuộc đời trẻ trung của mình như sau:
雜 詩
Tạp thi I
壯 士 白 頭 悲 向 天
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
雄 心 生 計 兩 茫 然
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
春 蘭 秋 菊 成 虛 事
Xuân lan thu cúc thành hư sự
Xuân lan thu cúc thành hư sự
夏 暑 冬 寒 奪 少 年
Hạ thử đông tàn đoạt thiếu niên
Hạ thử đông tàn đoạt thiếu niên
黃 犬 追 歡 鴻 嶺 下
Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ
Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ
白 雲 臥 病 桂 江 邊
Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên
Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên
村 居 不 厭 頻 沽 酒
Thôn cư bất yếm tần cô tửu
Thôn cư bất yếm tần cô tửu
尚 有 囊 中 三 十 錢
Thượng hữu nang trung tam thập tiền.
Thượng hữu nang trung tam thập tiền.
Lược dịch 1:
Bài thơ vớ vẩn
Bạc đầu tráng sĩ nhìn trời
Miếng ăn, chí lớn tơi bời lòng son
Xuân thu muôn sự héo mòn
Hè đông đoạt sạch trẻ non sức người
Chó vàng Hồng Lĩnh rong chơi
Mây nằm nghỉ bệnh trắng trời Quế Giang
Cứ mua cho hết rượu làng
Có lẽ không gì làm cho ta chạnh lòng hơn những câu
thơ như thế, nhất là đối với một con người tài hoa như cụ Nguyễn Du. Một
cõi lòng tan nát, không dám mơ một ngày được trọng dụng và liệu khi ấy thì có
còn “hùng tâm” để dâng hiến hay không. Vả lại, triều Lê mà Nguyễn Du ví
như muốn phù trợ cũng chỉ là một triều đại ươn hèn, mục nát, tham
tàn và về cuối lại rướt voi về giày mã tổ, gây nên lắm điều sỉ nhục.
Với “Mộ xuân mạn hứng”, Nguyễn Du lại bày tỏ một nhân
sinh quan đậm màu sắc Lão Trang, xem kiếp sống như một trò mộng huyễn và công
danh lại càng phù ảo như ánh nắng cuối xuân.
暮 春 漫 興
Mộ xuân mạn hứng
一 年 春 色 九 十 日
Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật
拋 擲 春
光 殊 可 憐
Phao trịch xuân quang thù khả liên
浮 世 功 名 看 鳥 過
Phù thế công danh khan điểu quá
閒 庭 節 字 帶 鶯 遷
Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên
側 身 不 出 有 形 外
Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại
千 歲 長 憂 未 死 前
Thiên tuế trường ưu vị tử tiền
浮 利 榮 名 終 一 散
Phù lợi vinh danh chung nhất tán
何 如 及 早 學 神 仙
Hà như cập tảo học thần tiên.
Lược dịch 1:
Làm thơ vào cuối xuân
Một năm xuân đẹp chín mươi ngày
Vùn vụt thiều quang ngẫm xót thay
Cõi thế công danh chim cánh lướt
Sân nhàn thời tiết bóng oanh bay
Xét thân không thoát vòng sinh hoại
Lo mãi làm chi cuộc sống này
Rốt cuộc lợi danh tan tác cả
Phải chi sớm học phép tiên hay.
Vùn vụt thiều quang ngẫm xót thay
Cõi thế công danh chim cánh lướt
Sân nhàn thời tiết bóng oanh bay
Xét thân không thoát vòng sinh hoại
Lo mãi làm chi cuộc sống này
Rốt cuộc lợi danh tan tác cả
Phải chi sớm học phép tiên hay.
Sau khi ra làm quan với triều Nguyễn, cụ lại tiếp tục xa
nhà. Cuối năm 1803, với tư cách là Đông các điện Đại học sĩ,
cụ Nguyễn Du đi đón sứ thần Thanh triều ở Lạng Sơn. Ở địa vị này,
cụ vẫn mang tinh thần chán danh lợi trần thế và nỗi niềm
bất đắc chí khi cộng tác với triều Nguyễn. Phải chăng cụ
Nguyễn Du còn mang tâm trạng của một di thần triều Lê với quan điểm Nho
giáo cứng nhắc “Trung thần bất sự nhị quân”? Ta nên nhớ rằng quãng đời làm
quan của cụ rất hanh thông và nhà Nguyễn rất trọng dụng cụ.
Dẫu vậy, qua “Xuân tiêu lữ thứ”, được làm ra trong thời điểm
này, tâm sự của cụ được bộc bạch rất bi thương:
春 宵 旅 次
Xuân tiêu lữ thứ
蕭 蕭 蓬 鬢 老 風 塵
Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần
暗 裏 偏 驚 物 候 新
Ám lý thiên kinh vật hậu tân
池 草 未 闌 千 里 夢
Trì thảo vị lan thiên lý mộng
庭 梅 已 換 一 年 春
Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân
英 雄 心 事 荒 馳 騁
Anh hùng tâm sự hoang trì sính
名 利 營 場 累 笑 顰
Danh lợi doanh trường lụy tiếu tân
人 自 蕭 條 春 自 好
Nhân tự tiêu điều, xuân tự hảo
團 成 成 下 淚 沾 巾
Đoàn thành thành hạ lệ triêm cân.
Lược dịch 1:
Đêm xuân xa nhà
Tóc mai phơ phất giữa phong trần
Mê muội lòng lo việc mới dần
Giấc mộng văn chương chưa dứt bóng
Mai vàng sân trước đã mời xuân
Anh hùng chí lớn thôi rong ruổi
Danh lợi quan trường chỉ lụy thân
Người dẫu xác xơ, xuân vẫn đẹp
Chân thành* riêng lão lệ đầm khăn.
Mê muội lòng lo việc mới dần
Giấc mộng văn chương chưa dứt bóng
Mai vàng sân trước đã mời xuân
Anh hùng chí lớn thôi rong ruổi
Danh lợi quan trường chỉ lụy thân
Người dẫu xác xơ, xuân vẫn đẹp
Chân thành* riêng lão lệ đầm khăn.
* Đoàn thành là thành Lạng Sơn.
Khi đi tiếp sứ trở về, cụ ở tại Phú Xuân một thời
gian. Đến năm 1809, Nguyễn Du được cử làm Cai bạ Quảng Bình. Năm 1913 cụ đi sứ
hơn một năm tròn ở Trung Quốc. Về nước cụ lại được thăng làm Tham tri Bộ lễ
và làm việc tại kinh đô Huế. Trong quãng thời gian làm quan này, cụ
Nguyễn Du vẫn thường đau ốm bệnh tật và cuộc sống có nhiều khó khăn. Vì thế, Huế
cũng chỉ là một đất khách, nơi khiến cụ thấm thía hơn nỗi đời luân lạc. Huế
trong mắt cụ cũng buồn bã vì lòng thương nhớ quê nhà bao la trong
tim cụ như cụ viết trong bài Thu chí: Hương giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ
hứa đa sầu (Sông Hương một mảnh trăng soi/ Dáng sầu vời vợi bao đời
đêm nay).
Đúng ra, chúng ta có thể nói cụ Nguyễn Du một
đời luân lạc tha phương, nếm đủ mọi cay đắng phong trần không
thua gì cô Kiều trong tác phẩm của cụ. Điều đáng chú ý là chính nhờ trải
qua cuộc phong trần mà cụ Nguyễn Du gần gũi và hiểu được nỗi cơ
cực của dân chúng thời cụ sống ngày ấy.
Phải chăng chính vì nhờ hiểu thấu đời sống cơ
cực của dân chúng mà cụ chẳng chút bằng lòng với chế độ dân chủ thời
bấy giờ. Năm thế lực phong kiến Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây
Sơn với những cuộc tương tranh của họ đã gây nên bao mất mát tang tóc cho người
dân nghèo khổ. Cuối cùng, Nguyễn Vương Ánh nắm được ngai vàng và mở
ra một triều đại mới. Thế nhưng các lý tưởng nhân bản mà Nho
gia hướng đến như thay trời chăn dân, thương dân như con đỏ, dân là quý,
quan lại là cha mẹ của dân,… vẫn còn trong sách vở. Qua một số bài
thơ khác Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả, Thăng Long cầm
giả ca, Văn tế thập loại chúng sinh,… chúng ta càng cảm
thấy rõ ràng cụ cảm thông rất sâu sắc đến lớp người thấp cổ
bé họng, gặp muôn vàn bất hạnh trong cuộc đời. Con người Nho
sĩ lý tưởng trong cụ đụng độ với thực tế lầm than trong xã
hội. Bi kịch cuộc đời Nguyễn Du - Từ Hải - Thúy Kiều là ở đây. Từ đấy,
cụ không thể lấy cái cớ được triều Nguyễn trọng dụng, vui với cái thành đạt của
riêng mình mà làm ngơ trước khổ đau của dân chúng. Hơn hết, với một tâm
hồn nhạy cảm, một hiểu biết sâu sắc, cụ đã nhận ra sự
bế tắc của chế độ dân chủ phong kiến. Lẽ tất nhiên, trong vòm tư
tưởng của thời đại, chúng ta không thể trông đợi cụ
có thể nghĩ tới một hình thức xã hội cấp tiến hơn là chỉ chán
ngán than thở xã hội thời ấy còn đầy bất công và hà lạm, như cụ
viết “Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”. Chỉ hiểu
vậy, chúng ta họa mới giải thích được những nỗi niềm u
sầu hay chán ngán công danh trong thơ của cụ.
Đọc suốt Truyện Kiều, có lẽ không ai kìm được xúc cảm
trước mười lăm năm luân lạc của Kiều mà tai họa, khổ nạn chan đều
trong những tháng ngày đau thương, bi đát của Kiều. Nếu cụ Nguyễn
Du bản thân không trải những xót xa phong trần thì hẳn chúng
ta cũng không có cái may mắn được thưởng thức những vần
thơ trác tuyệt như thế. Viết Truyện Kiều hay là viết cuộc
đời trôi nổi của mình, khóc Tiểu Thanh hay khóc Tố Như cũng thế mà
thôi. Đọc những bài thơ chữ Hán trên, ta thấy rõ hơn cuộc đời tác giả để đối
chiếu với nhân vật mà tác giả xây dựng nên. Âu cũng là số
phận của giới sĩ phu một thời, của “con tằm đến thác vẫn còn
vương tơ”.
Ngày xuân, đọc lại những bài thơ xuân chữ Hán của cụ gọi là
nén nhang, bát nước dâng cho một con người tài hoa mà mệnh bạc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét