Mỗi con người khi bước vào đời không bao giờ có được một chọn
lựa cả, ai cũng đồng ý rằng bất cứ ai trong 7 tỷ dân trên trái đất đều không
bao giờ được hỏi trước liệu có muốn được sinh ra hay không? Nhưng rồi khi được
sinh ra làm một con người, qua bao cuộc chuyển hoá, trở nên một người trưởng
thành biết nghĩ suy, mới hoang mang nhận ra, sẽ làm được gì với cuộc sống mà Tạo
Hoá đã chọn cho mình? Đời người, làng xóm, cận nhân, những chọn lựa đó của Tạo
Hoá hoàn toàn không theo sở thích của mình, không theo nhận định và cách mình
thích. Tương lai cũng lơ mơ, mù tịt về những băn khoăn điểm đến cho những chuyến
hành trình. THƯỢNG ĐẾ cho mỗi con người bắt đầu học về những thứ đó từng bước,
từng bước như trẻ tập đi. Điều duy nhất được học là làm sao để đạt giá trị. Đời
người là một quà tặng của Tạo Hoá, sự sống là món quà đẹp, đáng yêu, cũng có những
chặng cuộc sống tưởng mình như cái cục nợ đáng chán nản, rồi lại muốn bỏ cuộc.
Lúc nào đó, nhận ra bản thân chẳng có giá trị gì về mặt con người cho đúng. Và
rồi, mau mắn nhận ra một điều, chỉ có những ai biết mình, chọn lựa cách dấn
thân trong cuộc đời này mới tận dụng được môi trường làm người để vươn lên chân
- thiện - mỹ tuyệt đối. Vậy mà, phần nhiều trong 7 tỷ thụ tạo ấy của Tạo Hoá,
chẳng biết mình là ai, muốn gì, cứ ầm ầm lao đầu vào xã hội bằng bản năng, chiến
đấu giành giật, giẫm đạp lên nhau mà sống; và đương nhiên có nhiều người, bằng
mọi cách; để đến nỗi những người rớt lại phải chán nản và xấu hổ hay kể cả
quyên sinh... tiếc thay, thương thay!!
Trong suốt cuộc đời, ai cũng có thể khai triển một thái độ tự
do khi đối diện với sự sống: sẽ đón nhận sự sống như một ân huệ, và theo một
nghĩa nào đó, “trở nên” điều khả dĩ có thể là nơi bản thể hữu hạn nhân sinh, trở
nên bước chân Tạo Hoá tìm đến tình thương, nhân từ, khoan dung, độ lượng và cống
hiến phụng sự. Bước chuyển đó sẽ đánh dấu một khúc quanh trưởng thành trong hữu
thể nhân sinh và trong tương quan liên đới, và mối tương quan này chứa đựng
Lòng thương xót của Tạo Hóa kỳ tài, huyền ái. Đó là một bước chuyển làm cho hữu
thể khả biến cũng có khả năng đi vào thường hữu, bất chuyển dịch nhờ thường trụ
với Tạo Hóa, tập tành thương xót, quảng hiến như Tạo Hóa...
Ngày 13 tháng 06, 2017
Mỗi lần chớp mắt nhìn lên trời, là khi công cụ có tên gọi là
“đôi mắt” bắt một nhịp cầu cho nội tâm phóng suy nghĩ của mình lên nền thinh
không và thu vào tâm hồn cảm hứng từ bên ngoài. Tuy nhiên, hình ảnh bên ngoài
này có thể lấp đầy cho nỗi khác vọng vươn lên bằng tất cả bản thể, chứ
không phải chỉ “nhìn” và tạp niệm mông lung trong tưởng tượng vô thường. Vũ trụ
tồn tại trọng điều kiện tự do, xác thể ta cũng là hiện thân của tự do, không ai
có thể phủ nhận. Nhưng thân thể ta là hoàn cảnh giới hạn, là một thứ tù ngục, bởi
vì hiện hữu là tự đặt vào hoàn cảnh thân xác một khoảng hẹp của trách nhiệm, sứ
mạng, làng xóm, môi trường văn hoá, công sở, nói cách khác, bối cảnh hữu hạn
ràng buộc ta vào vô số điều kiện khiến ta gần như bất động và khó giải phóng bản
thể, ngay cả khi chết đi, huỷ hoại tù ngục này rồi sẽ ra sao? Xác thể hữu hạn
ràng buộc trong sự yếu nhược không thể bay, không thể phóng xa, không hiện diện
ở nơi mà ý thức có thể vươn tới. Thực chất của tự do không thể bay nhảy trong sự
bất toàn khiếm khuyết, cho nên ta không thể đạt tới điều kiện của tự do như
quan điểm cổ điển chủ trương.
Hoàn cảnh, trách nhiệm, phẩm hạnh, tính khí là những xác định
riêng biệt cho một xác thể. Tự do là chân trời rộng lớn hơn thân xác và tự do
có một khoảng cách vô hạn chỉ khi nào đạt đến tự do hoàn toàn, thân xác mới
hoàn tất vai trò con thuyền cho bản thể sang sông đời. Tự do và ý chí con người
cùng đồng tính chất trong nhiều phương diện với thế giới vật lý, nên thân xác
luôn luôn vươn tới để trở thành tự ngã như toàn thể vũ trụ vật lý hoặc sinh học.
Chính lúc thân xác đạt đến cao độ của tự ngã như trong hiện tượng ngụy tín chẳng
hạn là lúc tôi tự thấy mình được mình tự do nhất. Mặt khác, chính lúc thân xác
trở thành tự ngã là lúc tôi đạt đến cao độ của buồn nôn đối với thân xác tôi
như lời Jean Paul Sartre.
Ngụy tín hoặc buồn nôn là những sự kiện chứng tỏ hiện hữu tự do của tôi. Một đàng thì, nhờ hai bàn tay, tôi mới sờ mó sự vật, mới giao tiếp được với ngoại giới, đàng khác tôi lại cảm thấy nó không phải là tôi mà chỉ là một đồ vật vô duyên, trơ trẽn. Tôi không phải là hai bàn tay, tôi không phải là thân xác tôi, và do đó, tôi không là ngoại vật, tôi không là gì cả, tôi không có gì cả. Tôi là như vậy, tôi mất tự do trong những điều kiện ấy và trong hoàn cảnh ấy, và chỉ có trong hoàn cảnh ấy không tồn tại, mới tự do. Mặc dầu hoàn cảnh không mang đến tự do, nó chỉ khắc lên tâm hồn khát vọng tự do. Một lần nữa, tự do tồn tại bên trong và bên ngoài ngục thất xác thể, người sinh ra là đi vào ngục thất bất đắc dĩ ấy: “Những bàn tay tôi, đó là khoảng cách bao la làm cho tôi thấy được sự vật, và làm cho tôi bao giờ cũng ly khai với sự vật. Tôi không là gì cả. Tôi không ly khai khỏi thế giới, giống như ánh sáng chờn vờn trên mặt đá và nước, không một cái gì bám được vào tôi hoặc trát bùn lên tôi. Ở ngoài, ở ngoài, ở ngoài thế giới, ngoài thế giới, ngoài quá khứ, ngoài chính tôi: đó là tự do, tự do là lưu đày, và tôi đã bị kết án phải tự do” (x. Le Sursis).
Ngụy tín hoặc buồn nôn là những sự kiện chứng tỏ hiện hữu tự do của tôi. Một đàng thì, nhờ hai bàn tay, tôi mới sờ mó sự vật, mới giao tiếp được với ngoại giới, đàng khác tôi lại cảm thấy nó không phải là tôi mà chỉ là một đồ vật vô duyên, trơ trẽn. Tôi không phải là hai bàn tay, tôi không phải là thân xác tôi, và do đó, tôi không là ngoại vật, tôi không là gì cả, tôi không có gì cả. Tôi là như vậy, tôi mất tự do trong những điều kiện ấy và trong hoàn cảnh ấy, và chỉ có trong hoàn cảnh ấy không tồn tại, mới tự do. Mặc dầu hoàn cảnh không mang đến tự do, nó chỉ khắc lên tâm hồn khát vọng tự do. Một lần nữa, tự do tồn tại bên trong và bên ngoài ngục thất xác thể, người sinh ra là đi vào ngục thất bất đắc dĩ ấy: “Những bàn tay tôi, đó là khoảng cách bao la làm cho tôi thấy được sự vật, và làm cho tôi bao giờ cũng ly khai với sự vật. Tôi không là gì cả. Tôi không ly khai khỏi thế giới, giống như ánh sáng chờn vờn trên mặt đá và nước, không một cái gì bám được vào tôi hoặc trát bùn lên tôi. Ở ngoài, ở ngoài, ở ngoài thế giới, ngoài thế giới, ngoài quá khứ, ngoài chính tôi: đó là tự do, tự do là lưu đày, và tôi đã bị kết án phải tự do” (x. Le Sursis).
Khả năng gặp gỡ, đón nhận là dấu hiệu của một tự do rộng mở tới
tột đỉnh để có thể thực hiện những gì tốt đẹp nhất cho cuộc đời. Hành động tự
do là hành động của một người đã thấm sâu trong đam mê vươn lên triền miên.
Augustinô đã xác quyết: “Dilige et quod vis fac”: cứ yêu đi rồi làm điều bạn muốn
làm. Đó là một tình yêu trọn hảo dám ban tặng trọn vẹn bản thân. Ở mức độ này,
tự do trở thành luật lệ cho chính mình, và không còn luật lệ nào khác ngoài luật
của tự do: “Anh em hãy nói năng và hành động như những người sẽ bị xét xử theo
luật tự do.” (x. Gc 2, 12).
Nói rằng tự do là tự động và cần thiết để hoàn thiện xác thể.
Tự do không mục đích là tự do chết, tự do vô nghĩa, không thể quan niệm được.
Trong vũ trụ ngoại cảnh và nội tâm, có sẵn những động lự tiến tới của tự do, và
mục đích tự do chân thật, tuyệt đối ấy lại ở ngoài con người. Mục đích ấy được
nhắm tới và có tác dụng giải phóng tự do. Vì thế, một con người khép kín trong
bản thân sẽ là một bế tắc, không thể tìm được lối thoát. Duy ngã bế tắc chỉ tìm
thấy một thú tiêu khiển tạm bợ trong vòng lẩn quẩn của vật chất và hoan lạc trần
luỵ, dẫn tới vô nghĩa chứ không dẫn đến vô biên. Sự giải phóng của tự do chỉ có
thể xảy ra trong sự gặp gỡ. Trong sự gặp gỡ này, ta nhận ra một giá trị vô
biên, cũng chính là giá trị ta cảm thấy nơi mình. Khao khát tự do là khao khát
một giá trị vô biên. Điều đó mời gọi ta nhận ra cái hiện diện vô biên đang ở
trong mỗi con người. Nhờ sự gặp gỡ, mà người ta cho mình có quyền thực hiện điều
mình muốn, vì đã giải phóng khỏi bản thân bằng việc mở ra cho ngoại giới, phóng
chiếu cho tự do đích thật.
Tình yêu hữu tính như một nguyên lý cho sự sinh sôi nảy nở của
nòi giống. Hữu tính là liên kết mật thiết của hai đối thể bổ túc cho nhau được
xem như là phương tiện cho sự sinh sôi nảy nở ấy. Tuy nhiên, có một bộ phận
đáng kể của cả thế giới thực vật lẫn động vật sinh sôi nảy nở một cách vô tính:
bằng sự phân hóa, đâm chồi, bào tử, ghép chiết. Giao tính là khả năng tự nhiên
của của đối tượng cấp thực vật cho đến cả động vật bậc cao. Trong tính giao, sức
hấp dẫn hữu tính diễn ra với quy mô rất lớn: sức sinh sản khổng lồ bởi sức hấp
dẫn tương tự khái niệm như tình yêu hữu tính (bởi lẽ chưa có ngay sự phân chia
tính); tiếp theo, ở những sinh thể hoàn hảo hơn, xuất hiện sự phân hóa giới
tính, và ứng với nó, một sự hấp dẫn hữu tính nhất định. Xem xét tình yêu hữu
tính chỉ riêng trong thế giới con người; ở đây, ở một độ cao hơn rất nhiều so với
thế giới động vật, nó thu nhận được tính chất cá thể, khiến cho một và chỉ một
cá nhân nhất định thuộc giới khác trở nên có ý nghĩa tuyệt đối đối với người
yêu quý nó, như thể một cái gì đó độc nhất vô nhị, không gì thay thế được, như
một mục đích tự thân tự tại.
Cuộc sống của loài người, được hiểu như là một tiến trình lịch
sử, nhiệm vụ nâng cao và hoàn thiện bản chất con người. Muốn thế, cần có không
chỉ càng nhiều càng tốt những kiểu mẫu khác nhau của tính người, mà còn cần làm
cho xuất hiện những kiểu mẫu ưu tú, có giá trị không chỉ một cách tự thân
tự tại, như là những kiểu thức cá thể, mà còn do tác dụng nâng cao và làm cho
hoàn thiện hơn cá thể khác. Trong sự sinh sản của loài người, cái sức mạnh thúc
đẩy tiến trình thế giới và tiến trình lịch sử có nguyện vọng không chỉ làm cho những
cá thể con người sinh sôi nảy nở liên tục theo chủng loại của mình, mà còn làm
cho ra đời những cá thể nhất định, càng có giá trị cao càng hay. Mà
muốn thế, thì chỉ một sự sinh hạ đơn thuần bằng đường kết hợp ngẫu nhiên và vô
tình các cá thể khác giới là chưa đủ: để có những sản phẩm cá thể - xác định, cần
có sự kết hợp những người sản xuất cá thể - xác định, và vì thế mà cái sức
hút hữu tính chung phục vụ cho sự tái sản xuất nòi giống ở các động vật đã
không còn là đủ. Trong nhân loại, vấn đề không chỉ là sản sinh ra hậu thế nói
chung, mà còn là sản sinh ra một loại hậu thế nhất định, thích hợp hơn cả
cho mục đích thế giới, và bởi lẽ một cá nhân xác định có thể sản sinh ra
hậu thế ấy không phải với bất kì một cá nhân nào khác giới, mà chỉ với một cá nhân
xác định, cho nên chỉ một cá nhân ấy có sức hấp dẫn đặc biệt đối với y, hiện ra
trong con mắt y như là một cái gì đó hết sức đặc biệt, không gì thay thế được,
có một không hai và có khả năng ban thưởng cho y một hạnh phúc cao nhất. Đấy,
chính cái đó là sự cá thể hóa và sự phấn khích bản năng tính dục, nó làm cho
tình yêu của con người khác tình yêu của con vật, nhưng cả hai thứ tình yêu ấy
đều được kích thích ở trong ta bởi một sức mạnh xa lạ với ta, mặc dù có thể đó
là một sức mạnh cao siêu, và những mục đích của nó nằm ngoài ý thức của cá nhân
ta - được kích thích như là một dục vọng phi lý tính và định mệnh, chiếm lĩnh
và chi phối ta, nhưng sẽ biến mất ngay như ảo ảnh một khi đã không còn cần thiết
đến nó nữa* .
Nếu mà cái thuyết ấy là đúng, nếu mà sự cá thể hóa và
phấn khích hóa tình cảm yêu đương có toàn bộ ý nghĩa, có lý do và mục đích duy
nhất của nó ở ngoài tình cảm ấy, đích thị là ở những phẩm chất của hậu thế cần
thiết (cho những mục tiêu thế giới), thì từ đấy, theo lôgic, sẽ phải suy ra là
mức độ cá thể hóa và phấn khích hóa cái tình yêu ấy, hay là sức mạnh của
tình yêu, có quan hệ trực tiếp với mức độ điển hình và giá trị của hậu thế là sản
phẩm của tình yêu: hậu thế càng là những nhân vật quan trọng bao nhiêu, thì
tình yêu của các thân sinh càng phải mãnh liệt bấy nhiêu, và ngược lại, tình
yêu gắn bó hai con người nào đó càng mạnh bao nhiêu, thì ta càng phải chờ đợi ở
họ những hậu thế xuất sắc bấy nhiêu, theo cái thuyết ấy. Nếu nói chung tình cảm
yêu đương đựơc ý chí hoàn vũ kích thích chỉ vì thế hệ mai sau cần thiết và chỉ
là phương tiện để sản sinh ra nó, thì dễ hiểu là trong từng trường hợp
một, sức mạnh của phương tiện mà động cơ vũ trụ sử dụng phải tương xứng với tầm
quan trọng của mục đích muốn đạt. ý chí hoàn vũ càng quan tâm đến một sản phẩm
nào đó sẽ phải ra đời thì nó càng cuốn hút lại với nhau mạnh hơn và gắn bó với
nhau chặt hơn hai người sản xuất cần thiết. Chẳng hạn, vấn đề là làm cho ra đời
một thiên tài cấp thế giới mà hoạt động của con người ấy sẽ có ý nghĩa rất to lớn
cho tiến trình lịch sử. Thế thì sức mạnh tối cao điều khiển tiến trình ấy sẽ phải
bận tâm với sự ra đời này nhiều hơn gấp bao nhiêu lần so với những sự ra
đời khác, tương đương với việc vị thiên tài thế giới này là hiện tượng hiếm
hoi hơn cũng gấp bằng ấy lần so với những con người bình thường, và vì thế mà
cái sức hấp dẫn hữu tính, mà bằng nó ý chí hoàn vũ (theo thuyết này) bảo đảm
cho mình sự thực hiện mục đích quan trọng ấy, sẽ phải mãnh liệt hơn cũng gấp bằng
ấy lần so với ham thích bình thường.
Tất nhiên, những người bảo vệ thuyết này có thể bác bỏ ý tưởng về tương quan số lượng chính xác giữa tầm quan trọng của nhân vật và sức mạnh ái tình ở cha mẹ anh ta, bởi lẽ những đối tượng này không cho phép đo lường chính xác; nhưng điều hoàn toàn mặc nhiên (theo quan điểm của thuyết ấy), là nếu ý chí hoàn vũ quan tâm đặc biệt đến sự ra đời của một con người nào đó, thì nó phải có những biện pháp đặc biệt để bảo đảm kết qủa mong muốn, tức là theo nghĩa của thuyết này, nó phải kích thích ở trong cha mẹ người ấy một dục tính mãnh liệt đặc biệt, có khả năng chiến thắng mọi trở lực không cho họ đến với nhau.
Tất nhiên, những người bảo vệ thuyết này có thể bác bỏ ý tưởng về tương quan số lượng chính xác giữa tầm quan trọng của nhân vật và sức mạnh ái tình ở cha mẹ anh ta, bởi lẽ những đối tượng này không cho phép đo lường chính xác; nhưng điều hoàn toàn mặc nhiên (theo quan điểm của thuyết ấy), là nếu ý chí hoàn vũ quan tâm đặc biệt đến sự ra đời của một con người nào đó, thì nó phải có những biện pháp đặc biệt để bảo đảm kết qủa mong muốn, tức là theo nghĩa của thuyết này, nó phải kích thích ở trong cha mẹ người ấy một dục tính mãnh liệt đặc biệt, có khả năng chiến thắng mọi trở lực không cho họ đến với nhau.
Trong thực tế thì chúng ta lại chẳng tìm thấy một cái gì
tương tự như thế - chẳng có một tương quan nào hết giữa sức mạnh của dục vọng
tình ái và tầm quan trọng của hậu thế. Trước hết, chúng ta bắt gặp một hiện thực
mà thuyết này tuyệt không giải thích nổi, đó là tình yêu mãnh liệt nhất lại hay
không được chia sẻ và vì thế mà tuyệt không để lại sau mình một hậu thế nào. Nếu
vì một tình yêu như thế mà người ta cắt tóc đi tu hay tự tử, thì cái ý chí hoàn
vũ bận tâm với hậu thế xăng xái ở đây để làm gì? Nhưng giả sử chàng
Werther cuồng nhiệt không tự vẫn đi nữa, thì niềm say đắm bất hạnh của
chàng vẫn cứ là một câu đố không giải được đối với thuyết hậu thế ưu việt. Tình
yêu hết sức cá thể hóa và phấn khích hóa của Werther đối với nàng
Scharlotte chỉ ra rằng (theo quan điểm của thuyết này), chính cùng với
Scharlotte, Werther sẽ phải sản sinh ra một hậu thế đặc biệt quan trọng và cần
thiết cho nhân loại, vì nó mà ý chí hoàn vũ đã kích thích nên trong chàng niềm
say mê phi thường ấy. Thế nhưng vì sao cái ý chí toàn tri và toàn năng ấy
lại đã không đoán ra hay là đã không thể tác động đến cả Scharlotte theo hướng
mong muốn, bởi lẽ không có sự tham gia của nàng thì dục vọng nơi Werther là
hoàn toàn vô đích và vô dụng ? Đối với một bản thể hoạt động hợp đích,
love’s labor lost là cái vô nghĩa hoàn toàn.
Tình yêu mãnh liệt đặc biệt thường đa số là bất hạnh, mà tình
yêu bất hạnh rất hay đẩy đến tự sát dưới hình thức này hay hình thức kia; và mỗi
một cuộc tự sát như thế vì thất tình rõ ràng làm đổ nhào cái thuyết cho rằng
tình yêu mãnh liệt được kích thích ngõ hầu bằng mọi cách cho ra đời một thế hệ
mai sau mong muốn, mà tầm quan trọng được biểu thị bằng sức mạnh của tình yêu ấy,
trong khi đó thì trong thực tế, ở tất cả các trường hợp ấy, chính sức mạnh tình
yêu loại trừ không chỉ khả năng có được một hậu thế quan trọng, mà còn cả khả
năng có được bất kì một hậu thế nào.
Những trường hợp tình yêu không được chia sẻ quá là thông thường,
để có thể nhìn thấy ở đấy một ngoại lệ không để ý đến cũng được. Mà giả sử nó
có là ngoại lệ, thì cái đó cũng chẳng hề chi, bởi vì ngay cả trong những trường
hợp có tình yêu mãnh liệt đặc biệt từ hai phía, nó vẫn không dẫn đến cái mà lý
thuyết đòi hỏi. Theo lý thuyết, lẽ ra Romeo và Juliet, tương xứng với niềm say
đắm nhau vĩ đại ở họ, sẽ phải sinh ra một con người nào đó rất vĩ đại, ít nhất
cũng một Shakespeare, nhưng trong thực tế, như mọi người đều biết, thì ngược lại:
không phải họ đã tạo tác ra Shakespeare, như là lý thuyết dạy, mà Shakespeare
đã tạo tác ra họ, mà lại một cách vô dục hoàn toàn – bằng sáng tác vô tính.
Romeo và Juliet, cũng như đa số các cặp tình nhân cuồng nhiệt, đã chết đi mà
không đẻ ra ai cả, còn Shakespeare đã sinh ra họ thì, cũng như những vĩ nhân
khác, đã được sinh ra không phải từ một tình yêu cuồng điên nào đó, mà từ một
cuộc hôn nhân đời thường rất xoàng xĩnh (và bản thân ông, mặc dù đã từng nếm trải
cái tình yêu say đắm, cuồng nhiệt, như có thể thấy, thí dụ, từ những bài xonê của
ông, nhưng từ đấy đã chẳng ra đời một hậu thế tuyệt vời nào). Sự ra đời của
Christophe Colomb, đối với ý chí hoàn vũ, có thể còn quan trọng hơn sự ra đời của
Shakespeare; song chúng ta không biết tí gì về tình yêu đặc biệt của các thân
sinh ông, mà biết về mối tình say đắm mãnh liệt của chính ông đối với qúy nương
Beatrice Enriquez, và mặc dù ông đã có với nàng một con trai ngoài giá thú tên
là Diego, nhưng người con ấy đã không làm nên sự nghiệp gì vĩ đại, mà chỉ để lại
tiểu sử về cha mình là việc mà bất cứ người nào khác cũng làm được.
Nếu toàn bộ cái lẽ của tình yêu là ở hậu thế và nó có một sức
mạnh tối cao điều khiển việc yêu đương, thì vì sao sức mạnh ấy, thay vì lo liệu
cho những người yêu nhau được đoàn tụ, lại ngược lại, cứ như cố tình ngăn cản sự
đoàn tụ ấy, cứ như nhiệm vụ của nó chính là bằng mọi cách tước đoạt của những
người tình chân chính ngay cả khả năng sinh đẻ con cái: nó bắt họ, do một sự hiểu
nhầm định mệnh, đâm chết mình trong nhà mồ, nó nhận chìm họ dưới đáy biển
Hellesponte và bằng nhiều phương cách khác dẫn dắt họ đến cái chết sớm
không để lại con cái. Còn trong những trường hợp hãn hữu, khi mà tình yêu cường
liệt không kết thúc thê thảm, khi mà cặp uyên ương sống hạnh phúc đến già, thì
dẫu sao họ vẫn không có con. Một linh tính thơ ca nhạy sắc với hiện thực đã buộc
Ovidius và Gogol tước đoạt con cháu hậu sinh của Philimon và Baucis, Afanasi
Ivanovich và Pulkheria Ivanovna.
Không thể thừa nhận tương quan trực tiếp giữa sức mạnh của
tình yêu cá thể và tầm quan trọng của hậu thế, khi mà với tình yêu như thế,
ngay sự tồn tại của hậu thế chỉ là điều ngẫu nhiên hiếm hoi. Như ta đã thấy,
1) tình yêu mãnh liệt rất hay không được chia sẻ; 2) nếu được chia sẻ, thì sự đắm
đuối mãnh liệt đưa đến kết cục bi thảm, trước khi để lại hậu thế; 3) tình yêu hạnh
phúc, nếu nó rất mạnh, cũng thường không sinh con đẻ cái; còn trong những trường
hợp hãn hữu, khi mà một tình yêu mãnh liệt phi thường để lại hậu thế, hậu thế ấy
hóa ra hết sức tầm thường.
Có thể xác định một quy tắc chung hầu như không có ngoại lệ
là cường độ đặc biệt của tình yêu hữu tính hoặc là hoàn toàn không cho phép có
con cháu hậu sinh, hoặc chỉ cho hậu sinh mà giá trị không tương xứng tí nào với
độ căng thẳng của tình cảm yêu đương và tính chất ngoại biệt của những quan hệ
nảy sinh từ đấy.
Nhìn thấy ý nghĩa của tình yêu ở sự sinh con đẻ cái hợp đích
– tức là chỉ thừa nhận ý nghĩa ấy ở nơi nào hoàn toàn không có tình yêu, còn ở
đâu nó có, thì tước đoạt đi của nó mọi ý nghĩa và mọi lẽ tồn tại. Cái thuyết hư
mạo ấy về tình yêu, khi ta đối chiếu nó với hiện thực, hóa ra không phải là một
giải thích, mà là một sự chối từ bất kì giải thích nào.
Cái sức mạnh điều khiển sự sống của loài người, mà có người gọi
là ý chí hoàn vũ, có người gọi là tinh thần vô thức, nhưng trong thực tế nó là
Cơ Trời, rõ ràng sắp xếp sự ra đời đúng lúc của những con người thiên hựu cần
thiết cho những mục đích của nó, xếp đặt trong các chuỗi dài của các thế hệ những
kết hợp phải có của những người sản sinh, hướng tới những sản phẩm tương xứng
không chỉ gần nhất, mà cả xa xôi nhất. Để có được sự lựa chọn theo thiên mệnh
những người sản sinh ấy, nhiều phương tiện hết sức đa dạng được sử dụng, nhưng
tình yêu theo nghĩa đích thực, tức là sự say đắm hữu tính, được cá thể hóa và
phấn khích hóa đặc biệt, không thuộc về số những phương tiện ấy. Lịch sử Thánh
Kinh, với chủ nghĩa hiện thực chân chính và sâu sắc của nó – cái chủ nghĩa hiện
thực không loại bỏ, mà thể hiện ý nghĩa lý tưởng của các sự việc trong những
chi tiết nghiệm chứng của chúng – lịch sử Thánh Kinh, trong trường hợp này cũng
như mọi khi, cho ta một minh chứng chân thật và giàu sức giáo huấn đối với tất
cả những ai hiểu biết lịch sử và nghệ thuật, không phụ thuộc vào tín ngưỡng tôn
giáo.
Sự kiện trung tâm của thánh sử, tức là sự ra đời của Đấng Cứu
Thế, hơn bất kì sự kiện nào khác, giả ước một kế hoạch thiên định trong sự lựa
chọn và kết hợp những người sản sinh nối tiếp nhau, và qủa là cái thú vị chính
của các thánh tích tập trung ở những số phận kì lạ muôn màu muôn vẻ đã
làm phương tiện cho sự ra đời và liên kết của các bậc ‘tổ tiên thần thánh’. Thế
nhưng trong toàn bộ hệ thống phức tạp ấy của những phương tiện đã quy định,
theo trật tự hiện tượng lịch sử, sự giáng sinh của Đấng Cứu Thế, không có
chỗ cho tình yêu theo đúng nghĩa của nó; trong Kinh Thánh tất nhiên cũng có
tình yêu, nhưng đó chỉ là những sự kiện riêng biệt, không phải là công cụ của
quá trình sản sinh Đấng Kitô.
Sách thánh không nói, Abraham đã lấy Sara có phải vì tình yêu nồng cháy hay không, nhưng trong mọi trường hợp thì Thiên Cơ đã chờ đến khi tình yêu ấy đã nguội lạnh hoàn toàn mới cho ra đời từ cặp thân sinh đã trăm tuổi một đứa con của đức tin, chứ không phải của tình yêu. Isaac đã lấy Rebecca không phải vì tình yêu, mà theo kế hoạch định trước của cha mình. Jacob yêu Rachel, nhưng tình yêu ấy hóa ra không cần thiết cho sự sinh hạ Đấng Cứu Thế. Ngài là hậu dụê của con Jacob - Juda, nhưng ông này đã có mẹ đẻ không phải là Rachel, mà là Léa không được chồng sủng ái.
Sách thánh không nói, Abraham đã lấy Sara có phải vì tình yêu nồng cháy hay không, nhưng trong mọi trường hợp thì Thiên Cơ đã chờ đến khi tình yêu ấy đã nguội lạnh hoàn toàn mới cho ra đời từ cặp thân sinh đã trăm tuổi một đứa con của đức tin, chứ không phải của tình yêu. Isaac đã lấy Rebecca không phải vì tình yêu, mà theo kế hoạch định trước của cha mình. Jacob yêu Rachel, nhưng tình yêu ấy hóa ra không cần thiết cho sự sinh hạ Đấng Cứu Thế. Ngài là hậu dụê của con Jacob - Juda, nhưng ông này đã có mẹ đẻ không phải là Rachel, mà là Léa không được chồng sủng ái.
Để sản sinh ra trong thế hệ này một vị tổ tiên của Đấng Cứu
Thế, đã cần có sự kết hợp của Jacob với Léa chứ không phải ai khác; nhưng để có
được sự kết hợp ấy, Cơ Trời không kích thích ở Jacob tình yêu đắm đuối mãnh liệt
đối với người mẹ tương lai của vị ‘tổ tiên thần thánh’ – Juda; không vi phạm tự
do của tình cảm trái tim, sức mạnh tối cao đã để cho Jacob yêu Rachel, còn để
thực hiện sự kết hợp không thể thiếu được của ông với Léa thì nó lại dùng một
phương tiện hoàn toàn khác: đó là cái mẹo vụ lợi của một nhân vật thứ ba- một
Lavane trung thành với những lợi ích của gia đình và kinh tế của mình. Bản thân
Juda để sản sinh ra những tổ tiên gần hơn của Đấng Cứu Thế đã phải, ngoài
con cháu trước đây của mình, lúc đã về già còn phối giao với người con dâu
Tamara. Vì sự phối giao như thế tuyệt không nằm trong trật tự sự vật và sẽ
không thể xẩy ra trong những điều kiện bình thường, cho nên mục đích đã đạt được
nhờ một cuộc phiêu lưu rất kỳ lạ, khá giàu sức cám dỗ đối với những người đọc
Kinh thánh một cách hời hợt. Trong cuộc phiêu lưu này, không thể nói về bất kỳ
một thứ tình yêu nào. - Không phải tình yêu đã liên kết một kỹ nữ ở Ierechon
tên là Rahab với một người Do Thái ngoại bang; ban đầu, nàng hiến thân cho
chàng theo nghề của mình, sau đó quan hệ tình cờ ấy được gắn bó bằng niềm tin của
nàng vào một Thần Linh mới và nguyện vọng được Thần che chở cho mình và những
người thân thuộc của mình. Không phải tình yêu đã kết hợp cụ nội của vua David,
ông già Booz, với nàng Ruth trẻ tuổi thuộc bộ tộc Mohabit, và cũng không từ một
tình yêu chân chính, sâu sắc, mà chỉ từ một ý muốn kì quặc, tội lỗi của bậc
vương giả mấp mé tuổi già mà vua Salomon đã ra đời.
Trong thánh sử, cũng như trong thông sử, tình yêu hữu tính
không phải là phương tiện hay công cụ của những mục đích lịch sử; nó không phục
vụ cho nòi giống con người. Vì thế cho nên, khi cảm giác chủ quan nói với ta rằng
tình yêu là một phúc lợi độc lập, rằng nó có giá trị riêng, siêu tương đối
trong cuộc sống cá nhân của ta, thì ứng với cảm giác ấy, cả trong thực tại
khách quan ta cũng thấy tình yêu cá thể mãnh liệt không bao giờ là phương tiện
cho mục đích giống nòi, những mục đích ấy luôn đạt được ở bên ngoài tình yêu.
Trong thông sử, cũng như trong thánh sử, tình yêu hữu tính (theo đúng nghĩa của
nó) không đóng một vai trò nào cả và không tác động trực tiếp đến tiến trình lịch
sử: ý nghĩa chính diện của nó phải bắt rễ trong cuộc sống cá nhân.
Phật giáo tin rằng “Karma - Nghiệp” là hành động tạo tác nhiều
lần có chủ ý của Thân, Khẩu và Ý. Hay Công giáo gọi đó là hành vi nhân linh kéo
theo trách nhiệm luân lý. Ngôn ngữ mang tính trung lập, “nghiệp” và “quả báo” tạo
thành” do miệng lưỡi phỉnh phờ và tâm loạn ác. Ngôn ngữ, không được sử dụng bởi
tâm minh, thiện hành sẽ vĩnh viễn tuần hoàn không dứt, đưa con người luân hồi
biển khổ. Khẩu phát gieo nghiệp thiện thì kiến tạo niềm vui, hạnh phúc, tạo
nghiệp ác thì sẽ bị đọa vào khổ luỵ triền miên. Sức mạnh ngôn ngữ là thứ có thể
gieo tạo nghiệp nhiều nhất, hơn cả mọi binh khí.
Nguyễn Du viết:
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao (Nguyễn Du, tr. Kiều)
“Nàng đà biết đến ta chăng,
Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi!” (Nguyễn Du, tr. Kiều)
Và gã hẹn hò giờ giấc cụ thể để dẫn Kiều “trốn thoát”, những
lời nói ấy không đơn thuần truyền đạt thông tin mà còn thực hiện một hành động
lừa bịp đầy ác ý. Triết học hiện đại dành cho hiện tượng này một thuật ngữ
chuyên môn: “hành vi ngôn ngữ”. Cam kết, hứa hẹn, tuyên bố, ra lệnh…, ngôn ngữ
còn là hành vi gây ra hậu quả, chứ đâu phải chỉ là lời nói gió bay! Kể sao hết
bao nhiêu tội ác và bao nhiêu nạn nhân của trò chơi ngôn ngữ, của việc đánh
tráo và lạm dụng khái niệm. Thêm nữa, ngôn ngữ càng có sức biểu cảm bao nhiêu,
càng dễ mang tính bạo lực bấy nhiêu. Ca tụng lên tận mây xanh hoặc vùi dập xuống
bùn đen, ngôn ngữ đều phô bày tính bạo lực của nó: gây ảo tưởng và khổ đau cho
người khác. Có câu: “phù sĩ xử thế, phủ tại khẩu trung, sở dĩ trạm thân, do kỳ
ác ngôn” - nghĩa là, xét người ở đời, búa để trong miệng, sở dĩ giết người, do
lời nói ác. Cổ nhân cũng có dạy: “Bệnh tùng khẩu nhập, hoạ tùng khẩu xuất”
nghĩa là: bệnh từ cái miệng do ăn uống mà đem vào, họa cũng từ cái miệng do nói
chuyện thị phi mà tạo ra. Đức Cồ Đàm dạy chúng đệ tử: trong thập nghiệp ác của
con người thì trong đó khẩu ngữ đã chiếm hết bốn: dựng chuyện xuyên tạc sự thật,
buông lời hung ác, miệng lưỡi hai chiều, khoa trương phóng đại sự thật. Ngoài
ra phê bình, khen chê, rêu rao lỗi của mọi người cũng tạo nên nghiệp chẳng
lành. Không cần ngôn, sẽ chỉ gây nên những tổn phước và tội lỗi, gây mâu thuẫn,
hận thù giết hại lẫn nhau mà thôi.
Phương ngôn có câu: “Khẩu khai thần khí tán. Thiệt động thị
phi sanh” - mở miệng nhiều lời sẽ hao tổn thần khí, lưỡi động thường nói chuyện
phải trái, hơn thua rồi phải tranh đấu, miệt thị mà sinh chuyện thương tâm. Do
vậy mà ngạn ngữ Tây phương cũng có câu: ”trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần”.
Phật giáo có bài kệ rất hay rằng:
“Lời nói đổi trắng thay đen,
Đó là điạ ngục bon chen lối vào.
Trực ngôn tâm chẳng lao xao,
Giữ tâm thiền định biết bao an lành.”
“Thần khẩu nó hại xác phàm,
Người nào nói quá họa làm khổ thân.
Lỡ chân gượng được đỡ lên.
Lỡ miệng gây họa phải đền trả thôi"
Ngày trước, sách “Quốc văn giáo khoa thư” dạy cho học trò những
bài luân lý vỡ lòng qua những câu chuyện dân gian có kể đến câu chuyện sau đây
cho thấy hậu quả của ngôn ngữ tuỳ tiện, hoạ miệng lưỡi:
“Một hôm ông phú hộ ra lệnh cho người làm giết heo và chọn phần
quí nhất của con heo làm cho ông một món ăn. Người làm vâng lời và sau đó dâng
cho ông một món ăn mà phần quí nhất là cái lưỡi heo. Ông phú hộ hỏi tại sao thì
người làm trả lời rằng cái lưỡi là bộ phận quí nhất, vì nhờ cái lưỡi mà con người
có thể diễn đạt những tình cảm chân thành, những ý tưởng cao siêu, ích nước lợi
dân và có ích cho nhân loại. Ít lâu sau, ông phú hộ lại ra lệnh cho người làm
giết heo và chọn một bộ phận xấu xa nhất làm cho ông một món ăn. Người làm vâng
lời và sau đó dâng cho ông phú hộ một dĩa đồ ăn mà bộ phận xấu xa nhất lại cũng
là cái lưỡi heo. Ông phú hộ hỏi tại sao, người làm bèn trả lời rằng vì cái lưỡi
có thể nói lên những lời nói xấu xa nhất tàn ác nhất làm tan nát gia đình xã hội
và có thể khuynh đảo nước nhà ngay cả làm hại cho nhân loại. Ông phú hộ vô cùng
ngợi khen sự thông minh của người làm”. (x. Quốc Văn Giáo Khoa Thư)
Nếu như Ngôn ngữ tạo ra cho chúng ta một cơ hội, một địa chỉ
để gặp gỡ, cuộc gặp gỡ này không bao giờ diễn ra trên một bề mặt bằng phẳng,
trong một không gian được kết cấu vững chắc của các biểu đạt, đúng hơn là một
thứ quan hệ xa lạ, đầy lo âu và nghiệt ngã. Chúng ta đang sống trong thế giới của
từ ngữ. Trong tất cả các phương tiện mà con người dùng để giao tiếp thì ngôn ngữ
là phương tiện duy nhất thoả mãn được tất cả nhu cầu của con người. Ngôn ngữ có
vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống.. Mỗi một giây, một phút trôi
qua đều có người đang nói, đang viết, hoặc đang đọc cái gì đó. Cuộc sống của
chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng ngôn ngữ nhanh chóng và hiệu quả.
Công cụ giao tiếp vạn năng ấy đã hành trình cùng con người, từ lúc con người xuất
hiện cho tới tận ngày nay. Như thế, ngôn ngữ cần được sử dụng trọng một thái độ
ứng xử tích cực trong quan hệ giao tiếp với nhau.
Luôn nhớ rằng ngôn ngữ xuất từ “tự khẩu” có sức mạnh rất lớn,
tác động vô cùng tích cực hoặc tiêu cực đến cuộc sống của bất kỳ ai. Nếu là suy
nghĩ thì ta chỉ giữ trong đầu, chỉ mình mình biết, còn lời nói sẽ có người nghe
rồi họ ngẫm nghĩ, suy tư, bị tác động ít nhiều. Khẩu ngữ thường nhật rất
cần cân nhắc cẩn trọng vì không thể thu hồi, lấy lại được. S. Maugham có câu:
“Người ta có đủ thời giờ để lựa lời, nhưng không có cơ hội để rút lại”. Trước
khi nói, ta có tự hỏi liệu lời nói ấy có gây hại cho bản thân mình hay cho người
khác không? Càng là lúc gặp điều không mong muốn, điều khiến ta bực bội và muốn
trút giận, càng là khi ta dễ dàng nói những lời khó nghe, dễ gây tổn
thương đến tình cảm với người ta quý mến, và gây tổn hại đến mối quan hệ, công
việc sau này. Cẩn trọng với những gì mình đang nói và sắp nói để những lời nói ấy
thực sự là những lời hay ý đẹp có giá trị. Vậy, thay vì nói những lời phàn nàn
và những điều mình bực bội về người khác hoặc về những tồi tệ đang xảy ra cho
mình, hãy tập nói những câu nói ý nghĩa, những lời hay ý đẹp có tác dụng tích cực
và tạo động lực cho nhau. Hãy học cách nói những lời hay ý đẹp đúng lúc, đúng
chỗ và vận dụng phù hợp cho chính cuộc sống của bạn.Rất quan trọng, các từ ngữ
thường dùng hàng ngày phản ánh phần nào lối sống của bạn. Hạn chế nói những lời
như “chán quá”, “chắc không thể”, “không được đâu”, hoặc những lời buồn nản,
than thân trách phận. Những từ ngữ tưởng chừng như chẳng có ảnh hưởng gì ấy sẽ
làm bạndần mất đi nghị lực và sự tự tin. Thay vào đó, hãy nói những lời hay ý đẹp,
những lời đầy tự tin và tích cực như: “cố lên”, “làm được mà”, “chẳng có gì phải
sợ”, v.v... sẽ giúp bạn thêm tự tin, lạc quan và nỗ lực nhiều hơn. Roland
Dorgeles viết rằng: “Lời nói mà không chủ ý làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn lên là
lời nói hư không”.
Trong đời sống, để sáng tỏ một việc gì đó cho người khác thấy
hoặc làm cho ai đó tin vào nhận định của mình, thì rất cần đến lập luận, khi muốn
người khác ủng hộ lập trường của mình thì cần biện luận, khi muốn đả phá sai lầm
trong quan điểm hay thực hành nào đó thì cần đến biện bác. Trên thực tế cuộc sống
chỉ có thể tin vào nhận định của ai đó khi nhận định đó có căn cứ đúng đắn, dựa
trên những sự thật được thừa nhận. Chẳng hạn, chứng minh tính bền vững thì phải
đưa ra luận chứng, lập luận chặt chẽ. Trong khi khẳng định một luận điểm nào đó
là đúng sự thật (thay vì nêu bằng chứng), vận dụng lí lẽ, dẫn chứng phải được lựa
chọn thật tiêu biểu, trình bày rõ ràng, phong phú càng có sức thuyết phục.
Không có con đường tắt nào đi đến thuyết phục triệt để thực sự
công luận. Trái lại, lập luận giả tạo, phiến diện và nguỵ tạo lại có thể đạt được
tính thuyết phục trên bình diện đại chúng một cách nhanh chóng. Một lúc nào đó,
chúng ta nghĩ rằng lập luận của chúng ta trống rỗng và mình đang bị kiểm soát bởi
những dữ kiện và lý lẽ sai lầm mang những hậu quả bi thảm đi kèm mà khó bác bẻ
được. Người ta thường dựa vào uy thế đám đông trong những cuộc tranh
luận. Thuyết khách thường sử dụng khả năng hùng biện của mình, lợi dụng truyền
thống, tình cảm, quyền lợi, thói quen suy nghĩ của đám đông để tranh thủ cảm
tình và sự ủng hộ của đám đông đó, tạo áp lực buộc người tranh luận đối mặt phải
chấp nhận quan điểm riêng của mình đưa ra. Trong kiểu lập luận dựa vào dư luận,
thay cho việc đưa ra luận cứ và chứng minh luận điểm, thuyết khách cho rằng
luận điểm của anh ta là đúng vì có nhiều người công nhận như vậy. Đây là lập luận
thường thấy, thể hiện đôi khi xảo ngữ, giả ngôn lại thành tựu, vì nhiều người
cho là đúng mà vẫn chưa đảm bảo tính đúng đắn chân thật của luận điểm;
nhiều người chấp nhận luận điểm ấy vì nó hợp cách suy nghĩ, hợp tầm hiểu biết của
họ.
Thường thấy, lập luận xã hội đôi khi dựa trên sức mạnh số
đông. Ví dụ, trước con đường nhà tôi, thiên hạ vứt rác bừa bãi. Có người quăng
rác ra đường cách công khai, có người lẻn bỏ vào giữa đêm, nếu chẳng may bị
nhân viên thu dọn đường phố nhắc nhở thì gân cổ lên: “Ở khu phố này, người
ta làm vậy, có sao đâu?”. Đó có phải lập luận đúng? Không, đó là nguỵ biện và rất
nguy hiểm khi nó ăn sâu vào tập quán thiếu trách nhiệm vệ sinh công cộng. Ngụy
biện được sử dụng rất nhiều trong đời sống xã hội. Đó là những cách lập luận
quanh co, đánh đổi khái niệm, mơ hồ nước đôi, phản logic khiến người khác phải
hiểu sai sự thật. Tuy nghe có vẻ đúng nhưng ẩn sâu là thói quen dối trá cố ý và
đầy thủ đoạn. Cũng có lúc, nguỵ biện không quá phức tạp như vậy, mà ngay cả
chính bản thân chúng ta đã ngụy biện mà không hề biết là mình ngụy biện.
Lập luận giỏi đóng vai trò quyết định thành bại cũng khá lớn;
nhưng nhiều khi trong tranh luận để đi tới sự đồng thuận, lập luận giả cũng được
xen vào khiến con người ta tư duy theo lối mòn, lập luận thiếu sắc bén, vô căn
cứ, thường đuối lý mà không biết rằng mình đang đuối lý, để rồi cuối cùng nói
những lời có phần xúc phạm người khác. Đó cũng chính là lý do chúng ta lại có
thuật ngữ "anh hùng bàn phím", ám chỉ những thanh niên tay gõ ra toàn
những lời lẽ thiếu căn cứ, mang tính xúc phạm là chủ yếu. Để thành công trong lập
luận, phản tính và nắm vững lý chứng, nguyên tắc suy luận có vai trò vô cùng to
lớn. Nhận thức đúng đắn và bác bỏ nguỵ biện trong đời sống mới có thể giúp tiến
bộ. Lập luận chính đáng được hỗ trợ cách trực tiếp nhờ quan sát, làm thí nghiệm,
trải nghiệm, nhờ lượng thông tin tiếp nhận từ thực tiễn. Để có được lập luận hiệu
quả, phải rút ra nhiều thông tin khác từ các thông tin đã có, tức là phải suy
luận. Với một tinh thần tư duy, mỗi người đều có thể có tầm nhìn xa, nhìn rộng,
luôn nhìn lại chính mình cách khách quan nhất để vượt lên. Lập luận khách quan,
khoa học với niềm tin từ kho tàng tri thức và tài nguyên vô giá là sự kiên trì
học hỏi và khai thác tốt những nguồn thông tin từ cuộc sống sẽ là nguồn lực hỗ
trợ khắc phục khiếm khuyết quá khứ và lớn lên từ mọi thất bại để vươn đến những
mục tiêu lớn lao, cao thượng với khao khát dồn sức, dốc lòng nắm bắt mọi vận hội
để phát triển.
Nếu trong đời sống người ta thích biện bác hơn tư duy thì sẽ
dễ nghiêng về nguỵ biện hơn là lập luận khách quan và thực tế. Điều đó giải
thích phần nào nhiều kẻ thắng được lời nói nhưng hiệu quả thuyết phục nhân tâm
thì chưa đạt mức tối ưu. Thông tin đa chiều, góc nhìn rộng, phương pháp khoa học
rất thuận lợi cho những lập luận đích xác mang lại sự tiến bộ, nắm bắt vận hội
của chính mình. Người có đầu óc lập luận hiệu quả luôn luôn ý thức phải biết
nhìn lại mình, biết học hỏi, biết nhận ra sự thật, nắm lấy cơ hội và đặt mục
tiêu phát triển đúng khả năng của mình. Óc tư duy luôn luôn buộc người ta nghĩ
lại xem đã cập nhật được những điều mới mẽ hay chỉ khư khư ôm lấy quá khứ không
đón nhận đổi thay tất yếu. Mọi thứ ngày nay đều thay đổi rất nhanh, khó có gì
tuyệt đối đúng mãi mãi, lập luận cũng không thể theo chủ quan hay quá khứ mãi.
Óc phê bình, biện luận thường không hài lòng với quá khứ, không cố giữ mô hình
cũ, không để cho mình ngủ quên trên chiến thắng.
Nhưng, dù lập luận giỏi, thu hút dư luận đồng tình thế nào
cũng không bằng lập luận xuất phát từ lòng thành thật, luôn luôn bao giờ thành
thật thì mới có khả năng vững bền. Lập luận giỏi, nắm được nhiều kiến thức, thu
được nhiều cảm tình công luận mà chủ trương lọc lừa, xảo trá, gian ngoa sẽ chuốc
lấy thất bại. Tự nhiên mọi người cũng sẽ dần dần thấy ngay một nguyên lý chung,
tính đứng đắn, chân thành, luôn luôn biết tôn trọng những quyền lợi người khác
và giữ cho mình một sự chân thành tuyệt đối cùng với những người chung quanh mới
nắm được quy luật tồn tại. Vì thế lập luận cho chân lý là một chuyện đương
nhiên để thành công.
Để bảo toàn được thiên chức làm người của cá nhân là nguyên tắc
đầu tiên, chính lòng chân thành là nêu cao nhân cách. Con người nếu sống trong
xã hội, vấn đề chân thành càng phải được bảo toàn. Lập luận, nói năng, ứng đối
để chung quanh khâm phục khởi phát từ tấm lòng thành thật, từ chuyện khâm phục
lòng thành thật trong lập luận, mới có thể nói đến những vấn đề mật thiết lâu bền.
Lập luận thành công chính là chân thành tuyệt đối và chỉ có tồn tại trong sự thật,
mới đem đến chiến thắng thực sự trong đời.
Trong quyển sách tiểu thuyết lịch sử triết học của Jostein
Gaarder “Thế giới của Sophie”, tác giả đã trả lời vấn đề mà mọi người đều cần
phải quan tâm này bằng sự khẳng định của các triết gia: “Con người không chỉ sống
bằng lương thực. Mọi người đương nhiên cần đến chúng. Lại nữa tình yêu và
lòng đôn hậu cũng thiết yếu vậy. Nhưng trong cuộc đời cần hơn những mảng thiết
yếu đó, rất cần, đó là tự vấn và trả lời được: chúng ta là ai và tại sao chúng
ta sống?”. Hạnh phúc khi được là chính mình, biết mình và sống theo ý mình, dĩ
nhiên là loại trừ khả năng thác loạn và lối sống hai mặt bệnh hoạn. Trong khi
phấn chấn, thành không, ít có người nào ngồi lại ngẫm nghĩ: “tôi là ai? Tại sao
tôi có mặt trên cõi đời này? Điều gì quan trọng nhất trong cuộc sống tôi?”. Mải
miết làm việc, bận rộn trách nhiệm, mê đắm vào bao cuộc vui đôi khi khiến ta
quên luôn mục đích sống của mình và thái độ tự thân đi tìm hạnh phúc thật sự. Nếu
mục đích sống của tôi là sự giàu có thì tiền bạc là quan trọng nhất, nếu
niềm vui của tôi là những cô gái xinh xắn dễ thương thì tôi sẽ chìm ngập trong
sắc dục, nếu mục đích sống của tôi là thành đạt, địa vị, tôi sẽ miệt mài học tập
và nắm lấy mọi cơ hội, vì có được một địa vị cao trong cuộc sống thì sự thăng
tiến trong sự nghiệp là điều quan trọng nhất. Thứ hạnh phúc thật sự có phải là
sự hài lòng, thoả dạ mong chờ nơi những sự kiện trên đời mà ta đặt mục tiêu phấn
đấu cho mình? Vậy khi tuổi già đếnm sức khoẻ suy kiệt, lâm cảnh bần hàn, hoá ra
những đối tượng ấy là không hạnh phúc?
Thông thường, ta hay nhẫm lẫn cảm giác tuyệt vời của hạnh
phúc và sự phấn chấn là hạnh phúc. Hạnh phúc thật sự có thể được phản ảnh qua dữ
kiện tâm thần tuy nhiên đắc hữu hạnh phúc không phải lèo lái thần kinh bằng ảo
giác, á phiến hay loại thuốc kích thích nào đó cũng tác động cơ học thể lý. Tác
giả Gérard de Nerval (1808-1855), người được biết đến như người bị chứng tâm
thần phân liệt và tình trạng tâm thần định kỳ đã mô tả thế này: “Tôi đã cảm
giác như thể tôi đã biết mọi sự và mọi sự đã tỏ hiện với tôi, tất cả những bí mật
của thế giới tôi đã hiểu trong những giờ phút hạnh phúc”. Hạnh phúc không chỉ
đơn thuần là những cảm giác biết mọi sự, yên trí mình biết mọi sự. Tất nhiên niềm
vui của sự hiểu biết rất đáng trân trọng nếu không bị truy bởi ảo giác. Triết
gia Công giáo Karl Jaspers (1883-1969) kể rằng, một lần có ai đó nói với ông:
“Tôi thức dậy vào một buổi sáng với cảm giác tuyệt vời của việc được tái sinh.
Niềm hạnh phúc thần linh ấy tôi đã cảm nhận được, cái cảm giác tràn ngập của sự
hiện diện tự do đối với mọi sự thì thật là nhỏ nhoi.” Đó cũng chỉ là cảm nhận,
với tới nhưng chưa thật sự là hạnh phúc bền vững. Dữ kiện hôm qua và hôm nay
thay đổi nhiều, tâm trạng cũng không luôn tốt, vậy hạnh phúc nếu chỉ là sự hài
lòng với dữ kiện có điều kiện thì hoá ra rất mơ hồ và yếu ớt.
Một bộ phận thanh niên nghiện ma túy hoặc nghiện rượu, hoặc bất
cứ thứ gây nghiện nào khác cũng tìm thấy cảm giác đê mê, thần kinh kích động
hưng phấn dữ dội nhưng tuyệt đối không phải là hạnh phúc. Khi dùng những chất
gây nghiện này, có thể chúng ta có được cảm giác cực kỳ phấn khích, nhưng
điều này nhanh chóng qua đi. Sự mất mát đi kèm với trí phán đoán và trí năng sắc
bén thường kết thúc trong sự trầm cảm, tha hoá tâm thần. Quyến rũ của danh vị -
sắc đẹp - thành tựu và sự hưng phấn ảo giác của á phiến chỉ là hạnh phúc ảo, ảo
tưởng phù du của sự thỏa mãn tạm qua, nhất thời. Lại bởi, hạnh phúc giả tạo có
thể đạt được một cách nhanh chóng theo sau đó là một cảm giác trống rỗng kiểm
soát, thậm chí hậu quả bi thảm đi kèm.
Hạnh phúc không xuất phát từ của cải và danh tiếng. Tất cả
cúi mình trước sự giàu có mà không bao giờ có thể tìm được hạnh phúc thật sự bền
lâu nơi vật chất. Theo bản năng, ai ai cũng tỏ lòng kính trọng của cải, tôn
xưng kẻ lắm của thừa tiền. Hệ số đo lường hạnh phúc trần gian thường bằng của cải
và sự an toàn tích trữ; và hình thái xã hội nào cũng đánh giá việc tôn trọng tư
cách bằng của cải, khuyến khích làm ra của cải hơn là tạo lập hạnh phúc thật sự
dựa trên những giá trị nhân văn, tâm linh. Không biết từ bao giờ, nhân thế có
niềm tin sâu xa rằng với của cải, ta có thể làm mọi việc, Tiền bạc là quyền
năng xã hội, là nhân cách xã hội và thước đo thành công xã hội. Hạnh phúc, tôi
cho rằng không hệ tại loại triết lý vật chất thông dụng hiện đại: “nhiều, nhiều
hơn nữa”- như tiền bạc nhiều hơn, thoải mái hơn, tự do tình dục hơn, kích động
nhiều hơn hoặc ngay cả nhiều kinh nghiệm thống trị. Lòng tham vọng tạo cho con
người cảm giác thiếu thốn và có nhu cầu bất tận. Người ta kêu gào tiêu thụ,
tiêu thụ nữa, cánh kinh doanh than phiền khủng hoảng là do ít mua sắm, ít xài
tiền. Thực hành theo loại triết lý này, trên thực tế luôn tạo nên bất hạnh. Triết
lý “kiếm tìm nữa, xài nhiều hơn nữa”, “làm tới nơi, chơi tới bến, xài tới hết”
lại luôn luôn không thể làm hài lòng tất cả. Người ta như đang khát trong sa mạc
“uôn luôn muốn có nhiều hơn nữa, luôn luôn thấy thiếu thốn, luôn luôn có nhu cầu
cạnh tranh”. Muốn kỳ nghỉ đắt đỏ, muốn ngôi nhà đẹp, một xe hơi sang trọng, một
người phối ngẫu hoàn hảo. Cam đoan, kẻ có được tất cả những điều đó sẽ nói ra
không chút ấp úng về niềm hạnh phúc ấy “không phải là hạnh phúc thật”. Thậm
chí, kém hơn niềm vui của bà mẹ nghèo quét đường với điểm mười mới trong tập cô
con gái nhỏ cấp 1 của bà.
Tất nhiên, hạnh phúc rất cần cho con người, là chất xúc tác
cho cuộc sống lành mạnh. Người ta sẽ phấn chấn, hoạt động hiệu quả hơn khi thấy
những nhu cầu của mình được đáp ứng đầy đủ và cảm thấy hài lòng với cuộc sống.
Song, khi tìm thấy giá trị của mình, tìm thấy hạnh phúc thật sự là động lực
hoàn thiện nhân cách và các khả năng cá nhân. Nhìn sâu hơn vào tâm hồn, sẽ
thấy mỗi nơi chính mình nhiều những lúc như thế. Công tâm nhìn nhận trên số
đông, việc tiêu dùng ngày càng tăng thì nhu cầu cá nhân được thỏa mãn, dường
như chỉ số hạnh phúc đã đồng thời gia tăng qua các nghiên cứu xã hội học.
Tuy nhiên, đàng sau những kẻ sang trọng, phía sau những toà nhà đầy đủ tiện
nghi, những con người lịch lãm, sang trọng, hớn hở là sự thật về chỉ thất vọng
dường như đã tăng lên và ở mức độ đáng báo động. Thử nhìn qua một nghiên cứu, cứ
mười lăm người Mỹ thì có một người chịu đựng tình trạng trầm cảm nặng. Đây là kết
quả của công trình nghiên cứu được tiến hành gần đây do giáo sư Ronald Kessler
thuộc Đại Học Y Harvard. Lần nữa, có thể khẳng định: vật chất thừa mứa, vũ khí
tối tân, ngân hàng đầy tiền mặt, công nghệ đỉnh cao, sức mua sắm ào ào chưa đổi
lấy được hạnh phúc. Những thứ thật sự quan trọng để tạo nên hạnh phúc bền vững
thì không được bày bán tại chợ, không thể đổi chác trên hệ thống kiều hối,
siêu thị và ngân hàng. Hạnh phúc thì không chỉ có niềm vui, sự ham mê vui thú,
hay cảm giác được thỏa mãn. Hạnh phúc dường như nằm bên ngoài những thứ có thể
đo lường, đong đếm hay cảm nhận được. Tiền tài vật chất và những biến cố trong
cuộc sống theo đúng ý cá nhân cũng không bao giờ có thể được gọi là hạnh phúc
đúng chất. Theo thiển nghĩ, hạnh phúc khó nắm bắt, nhưng lại trong tầm tay, khó
nhìn thấy, sờ mó nhưng rất dễ bắt lấy. Vì, hạnh phúc phụ thuộc vào việc “tôi
là” hơn là “tôi có”. Nếu mỗi người luôn được dạy dỗ những điều này tiệm tiến
theo tuổi đời kể từ khi đến lớp đồng ấu, ắt hẳn niềm vui sẽ đến rộng rãi
trong xã hội, và chúng ta luôn bắt gặp thường trực nụ cười trên gương mặt người
trên phố từ chị lao công quét chợ đến bác giám đốc nhẵn bóng.
Hạnh phúc từ nhận thức bản thân không phải cảm giác thỏa mãn
thuần túy và nhất thời của người sống trên mây trên gió. Thỏa mãn là cảm nhận bản
năng sinh học. Hạnh phúc là cảm nghiệm tâm linh, văn hóa và thẩm mỹ. Những giới
hạn thấp của va chạm xác thịt, vật chất và công nghệ làm cho con người thỏa mãn
bản năng nhưng không làm cho con người hạnh phúc, bởi vì chỉ cần nhìn lên những
giới hạn cao hơn, họ sẽ đau khổ. Thỏa mãn bản năng bằng thói quen phụng sự các
giác quan cơ thể chỉ làm tăng nhu cầu xác thể, do đó con người không phát triển
tới hạnh phúc thật sự dù bề ngoài họ vượt hẳn số đông. Càng thỏa mãn một cách
giản đơn như vậy bao nhiêu thì chỉ xác lập sự chậm phát triển càng rõ rệt bấy
nhiêu. Hạnh phúc là năng lực biết thưởng thức và gìn giữ cho bền vững tất cả những
gì tạo ra niềm vui chân chính, tiến bộ. Và hành trình tìm kiếm hạnh phúc chính
là cuộc trường chinh chiến đấu với nhu cầu xác thể, phá vỡ mọi sự thoả mãn đơn
giản.
Hạnh phúc không phải là một khái niệm túc thể bản năng, nhưng
là một bản thể văn hóa chiều sâu, tiêu chuẩn cho sự đúng đắn của con người
trong đời sống. Theo tôi, hạnh phúc chân thật đi từ lẽ phải tâm hồn của mình
khi biết chủ động, biết rõ lộ trình sống, lộ trình làm việc, lộ trình cống hiến,
lộ trình thưởng thức cách hợp lý tất cả những yếu tố mà cuộc sống đem lại.
Càng biết chịu trách nhiệm trước cuộc đời, càng biết sống hài hoà với môi trường,
với tha nhân bao nhiêu, thì cho đến cuối cuộc đời, con người sẽ tìm đến một miền
triển vọng mới, đó là hạnh phúc túc linh nơi Thượng Đế. Miền hy vọng lớn nhất
và vô tận nhất của con người chính là đạt tới sự hiểu biết mình, biết người và
biết mệnh trời. Sống hạnh phúc là cảm nhận bình an từ giây phút hiện tại cho tới
trước từ giã cuộc sống một khắc. Niềm tin vào hạnh phúc là niềm tin rằng sẽ đến
một miền cao thượng hơn cái miền đã có trong quá khứ, trong hiện tại. Hành
trình đi tìm hạnh phúc, sống với hạnh phúc thật sự là con đường mỗi ngày đi vào
các miền cao thượng của đời sống con người, tương lai đầy triển vọng và tự do.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét