Lỡ bước sang ngang
Bài thơ Lỡ bước sang ngang khi ra đời có lẽ không
bao giờ ngờ rằng nó sẽ trở thành tác phẩm «báo mộng» cuộc đời Nguyễn Bính: Một
đời lỡ bước, một đời tài hoa bạc mệnh. Một đời chia ly, phân kỳ, đoạn trường,
tang liệm, một đời khát khao tình yêu và hạnh phúc. Tập Lỡ bước sang
ngang mở đầu bằng bài thơ bạc mệnh ấy và kết thúc bằng hai bài Chuyến
tàu đêm và Đàn tôi, cả ba đều là thơ bạc mệnh, như thể bao nhiêu nỗi
buồn trên thế gian đều theo nhau vào thơ Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm
1919, quê ở xóm Trạm, thôn Thiện Vinh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Mồ côi mẹ từ lúc ba tháng. Không học ở trường mà học nhà với cha và cậu. Làm
thơ từ lúc 13 tuổi. Được giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn năm 1937. Đến
năm 1942, Nguyễn Bính đã có 7 tập thơ: Lỡ bước sang ngang và Tâm
hồn tôi (in năm 1940), Hương cố nhân và Một nghìn cửa sổ (1941), Người
con gái ở lầu hoa, Mười hai bến nước, Mây tần và Bóng giai nhân (1942).
Nguyễn Bính nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu, Lỡ bước sang
ngang. Người Việt từ Nam chí Bắc thuộc Lỡ bước sang ngang. Sự bình dân của
Nguyễn Bính được Hoài Thanh giải thích trong Thi Nhân Việt Nam, như một lời
khen, rằng Nguyễn Bính đã làm sống lại mỗi con người nhà quê trong
chúng ta, nhưng ông lại tiếc rằng Nguyễn Bính làm thơ bình dân như thế
thì «khó lọt vào mắt những nhà thông thái» và trách Nguyễn Bính đã
nhà quê sao lại không nhà quê cho trót, mà thỉnh thoảng lại chêm vào những câu
thơ rất «tỉnh», khiến «người ta khó nhận thấy cái hay của những câu
thơ khác có tính chất ca dao». Tóm lại, theo Hoài Thanh, thơ Nguyễn Bính nhà
quê và cái hay trong thơ Nguyễn Bính là nhờ giống ca dao. Cả hai nhận xét đều
sai lạc, bề ngoài, vì không phải trong thơ cứ tả cảnh sống ở thôn quê là thành
nhà thơ nhà quê, cứ có thôn Đông, thôn Đoài, có vườn dâu, nong tằm là có chất
ca dao. Sau này, hai nhà phê bình khác đã cảm thông sâu sắc với định mệnh khắt
khe, đau buồn trong thơ Nguyễn Bính là Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng
trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, do Sống Mới tái bản năm 1968, tại Sài
Gòn.
Thơ Nguyễn Bính bình dân, nhưng không quê mùa. Nguyễn Bính đã
nhập hồn người dân quê, hồn người phụ nữ, để viết lại đời sống quê hương và dân
tộc mình, bằng một giọng bình dân. Bình dân được như Nguyễn Bính không phải dễ.
Nguyễn Bính nói hộ cả một thế hệ đàn bà, một thế hệ lỡ bước trong những cuộc
hôn nhân dàn xếp, nói bằng ngôn ngữ của họ, bằng những thổn thức của họ. Nguyễn
Bính nói thơ chứ không làm thơ. Ngôn ngữ thơ của ông là
ngôn ngữ đối thoại giữa hai người, hoặc một người độc thoại với chính
mình. Cấu trúc thi thoại, gồm đối thoại và độc thoại đã tạo nên thi ca
Nguyễn Bính:
Em ơi, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Cấu trúc thi thoại nôm na gọi là thơ nói có
từ thế kỷ XVIII, trong các truyện nôm.
Nền thơ nôm của chúng ta khá rực rỡ trong thế kỷ XVIII với ba
tác phẩm cột trụ: Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều
(1741-1798), Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự (1743-1790) và Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn do Phan Huy Ích (1750-1822) dịch (mà tới nay người
ta vẩn coi là của Đoàn Thị Điểm, mặc dù Hoàng Xuân Hãn đã chứng minh về văn bản
trong Chinh phụ ngâm bị khảo từ hơn nửa thế kỷ nay).
Cung oán và Chinh phụ là những khúc ngâm, tức
là những lời tâm sự, than vãn của một người đàn bà; nói cách khác, đó là những
«tự truyện» khổ đau; trong khi Hoa tiên là một truyện nôm thuần tuý,
tức là một cuốn "tiểu thuyết" viết bằng thơ. Hoa tiên mở đường
cho những truyện nôm sau này như Quan Âm Thị Kính, Lục Vân Tiên, Bích Câu kỳ ngộ,
Nhị Độ Mai, Nữ Tú Tài, Phan Trần.... và nhất là truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện
nôm là một hình thức tiểu thuyết, mà trong tiểu thuyết phải có đối thoại. Vì vậy,
trong truyện nôm luôn luôn có những chữ: nàng rằng, chàng rằng. Ví dụ trong Hoa
Tiên:
Thưa rằng: Chút phận bọt bèo
Hậu sinh đã dám chơi trèo sao nên
Hoặc trong Quan âm thị kính:
Chàng rằng: Giấc bướm vừa say
Thơ Nguyễn Bính kết hợp hai thể loại trên đây: thể ngâm của
Cung oán và Chinh phụ và thể thoại của các truyện nôm: Hoa tiên, Kiều...
Nói khác đi thơ Nguyễn Bính là tự truyện kết hợp với tiểu thuyết.
Tác phẩm Lỡ bước sang ngang cho thấy ảnh hưởng sâu
sắc của hai dòng thi ca cổ điển này. Nếu Cung oán và Chinh phụ là
những khúc ngâm của người đàn bà thế kỷ XVIII, thì Lỡ bước sang ngang là
khúc ngâm của người đàn bà đầu thế kỷ XX. Khúc ngâm nào cũng gắn bó với hai niềm
đau: Tình thế bi đát của đối tượng mà tác giả đưa ra, và niềm đau nội tâm của
chính tác giả. Đối tượng trong Cung Oán và Chinh phụ chúng ta đã rõ. Đối tượng
trong Lỡ bước sang ngang, ở ngay trong đề, là lời than của một thiếu phụ lấy
người mà mình không yêu. Và đây cũng là bi kịch chung của người phụ nữ đầu thế
kỷ XX mà những ngòi bút thời ấy không mấy ai không viết, từ Hoàng Ngọc Phách đến
Khái Hưng, Nhất Linh, qua TTKh. Theo Bùi Hạnh Cẩn, anh họ của Nguyễn Bính,
trong cuốn Nguyễn Bính và tôi (nxb Văn Hoá Thông Tin, tái bản 1999)
thì đối tượng ngoài đời của bài thơ là Th, người yêu của nhà thơ Trúc Đường,
anh ruột Nguyễn Bính. Nguyễn Bính đặt tên cho người đàn bà này là chị Trúc. Chị
Trúc trở thành đối tượng của nhiều khúc ngâm. Trong những giây phút đau thương
nhất của đời mình, Nguyễn Bính thường làm thơ gửi cho chị Trúc, viết về niềm
đau của chị Trúc như niềm đau của chính mình. Chị Trúc là một nàng thơ, là một ảnh
thật và ảnh ảo chập chùng. Thân phận lỡ làng, nổi trôi của chị Trúc cũng là
thân phận lênh đênh lạc loài của Nguyễn Bính.
Lỡ bước sang ngang còn là một truyện nôm. Nguyễn Du khi
viết truyện Kiều đã chịu ảnh hưởng của Nguyễn Huy Tự trong Hoa tiên, và
Nguyễn Bính khi viết Lỡ bước sang ngang đã lấy Nguyễn Du làm mẫu.
Chúng ta thử đọc đoạn Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân trước khi đi
vào cuộc đời mưa gió, Nguyễn Du viết:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy, rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa, mặc em.
Nguyễn Bính viết:
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Cậy em, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Ảnh hưởng trực tiếp, rất thầy trò. Lỡ bước sang ngang có
hơi thơ Nguyễn Du, có cái tâm Nguyễn Du, có lòng thành Nguyễn Du, có cách đưa đối
thoại vào thơ thần tình như Nguyễn Du. Bởi cả hai nhà thơ đều đã nhập vào hồn
nhân vật mà họ diễn tả. Nguyễn Du nhập vào Kiều, viết hộ Kiều những lời tha thiết
dặn dò Thúy Vân, trước khi bước vào quãng đời mưa gió. Nguyễn Bính nhập vào hồn
người chị trước khi lấy chồng, dặn em những lời đau đớn xót xa:
Rồi đây sóng gió ngang sông
Đầy thuyền hận chị lo không tới bờ
Miếu thiêng vụng kén người thờ
Nhà hương khói lạnh, chị nhờ cậy em
Đêm nay là trắng ba đêm
Chị thương chị, kiếp con chim lìa đàn
Một vai gánh lấy giang san...
Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương
Mắt quầng, tóc rối tơ vương
Em còn cho chị lược gương làm gì!
Một lần này bước ra đi
Là không hẹn một lần về nữa đâu
Cách mấy mươi con sông sâu
Và trăm nghìn vạn dịp cầu chênh vênh
Cũng là thôi... cũng là đành...
Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao?
Lỡ bước sang ngang viết cho chị Trúc. Là tiếng bạc mệnh
của một người chị, nhưng cũng là điềm «báo mộng» quãng đời lưu lạc của tác giả:
Mười năm gối hận bên giường
Mười năm nước mắt bữa thường thay canh
Mười năm đưa đám một mình
Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên
Mười năm lòng lạnh như tiền
Tim đi hết máu, cái duyên không về
Những năm bốn mươi ở Hà Nội, nghệ sĩ, thường không có kế sinh
nhai, thơ không nuôi nổi người, phải đi nơi khác «kiếm ăn». Nguyễn Bính đi Nam
khoảng 1941, lang bang vào Thanh Hóa rồi đến Huế:
Chúng tôi hai đứa xa Hà Nội
Bốn tháng hình như kém mấy ngày
Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh
Để rồi nằm mốc ở nơi đây (Giời mưa ở Huế, 1941)
Từ Huế, Nguyễn Bính vào Nam, lại lang thang Rạch Giá, Hà
Tiên, Sài Gòn, ngủ đình, ngủ chợ, nay tá túc chỗ này, mai ở nhờ chỗ khác. Sau
này Kiên Giang đã viết những dòng cảm động, tả lại những nỗi «đoạn trường» nằm
đất, quấn nóp (một thứ túi ngủ) ngủ đình của Nguyễn Bính trong quãng đời lưu lạc
này.
1945, cách mạng bùng nổ, Nguyễn Bính được mời tham gia kháng
chiến, nhưng tạng Nguyễn Bính không hợp với thơ tuyên truyền, cho nên ông chỉ
viết được những vần thơ khẩu hiệu, không hay:
Đánh! Đánh! Đánh! Chỗ nào cũng đánh
Hoặc những câu gượng gạo như:
Nếu quân thù không đem binh tiếp viện
Thì quân ta tiêu diệt hết quân thù.
Trong suốt thời gian chín năm gắn bó với cách mạng, những vần
thơ hay nhất của Nguyễn Bính là những bài thơ ở Nam nhớ Bắc, rồi sau 54, về Bắc
nhớ Nam: Mối tình đầu tiên và chân thật nhất của Nguyễn Bính là quê hương đất
nước.
1954, tập kết ra Bắc, Nguyễn Bính để lại trong Nam người vợ
và đứa con. Khi chủ trương tờ Trăm Hoa cùng với Nhân Văn Giai Phẩm, Nguyễn Bính
viết bài Tỉnh giấc chiêm bao, trên báo Trăm Hoa, tháng 12/1956, với những
câu thơ đắng cay, hai nghĩa, có thể hiểu là ông viết lại truyện nhân duyên trắc
trở của mình với người vợ Nam hay là với cách mạng, bởi đó là cuộc nhân
duyên “Chín năm đốt đuốc soi rừng” (1945-1954). Những tưởng: “Duyên
nhau đã dựng Trường - đình”. Nào ngờ: “Mẹ em đã xé tan tành gối thêu”.
Sau cơn bão táp Nhân Văn Giai Phẩm, Nguyễn Bính trở về Nam Định,
sống quãng đời đen tối còn lại của những người đã trót gắn bó với phong
trào. Lỡ bước sang ngang lại một lần nữa trở về trong định mệnh của
Nguyễn Bính:
Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã sang sông đắm đò
Một định mệnh tăm tối, u buồn, sa thải, cho đến lúc mất,
trong cô đơn, bệnh tật, và đói, Nguyễn Bính vĩnh viễn ra đi vào ngày cuối cùng
của năm Ất Tỵ, ngày 20/1/1966.
Thi pháp Nguyễn Bính
Nói về thi pháp Nguyễn Bính tức là nói về một dòng thơ không
thi pháp. Nguyễn Bính đã vô hiệu hóa tất cả những quy luật về thi ca từ trước đến
giờ. Bởi tất cả những lý thuyết về thơ, đại loại như: ngôn ngữ thơ phải là một
thứ ngôn ngữ độc đáo phi thường, thoát khỏi phạm vi của lời nói hàng ngày. Nhà
thơ phải bóp méo ngôn ngữ thông dụng bằng những thủ pháp ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ...
để đạt tới ngôn ngữ thơ, mà mỗi chữ phải có một giá trị riêng biệt, khác với
công dụng của nó trong ngôn ngữ hàng ngày v.v... Nói khác đi, thơ phải là những
câu với lời lẽ trác tuyệt như thơ Ôn Như Hầu: Trải vách quế gió vàng hiu hắt/ Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng.
Tất cả những nguyên tắc ngôn ngữ thơ ấy đối với Nguyễn Bính đều
vô dụng. Thơ Nguyễn Bính chính là tiếng nói hàng ngày, là ngôn ngữ
chúng ta thường dùng để nói chuyện với nhau, không có gì khác cả, Thơ Nguyễn
Bính là lời mẹ dỗ con gái trong buồng, trước khi nhà trai đến đón dâu:
Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc nín đi không
Nín đi mặc áo ra chào họ
Rõ quý con tôi các chị trông
Ương ương dở dở quá đi thôi
Cô có còn thương đến chúng tôi
Thì đứng lên nào, lau nước mắt
Mình cô làm khổ bấy nhiêu người
Này áo đồng lầm quần lĩnh tiá
Này gương này lược này hoa tai
Muốn gì tôi sắm cho cô đủ
Nào đã thua ai đã kém ai (Người mẹ)
Thơ Nguyễn Bính là lời người dì thủ thỉ dặn dò cháu gái trong
đêm tân hôn:
Dì em khe khẽ tai em dặn:
Như thế... từ nay... cháu nhớ chưa?
Chết nhỉ! Đêm nay ngủ với chồng
Trời ơi! Gió lạnh! Gớm mùa đông
Lặng yên níu áo dì em lại
Ngủ nốt đêm nay có được không? (Giọt nến hồng, 35)
Thơ Nguyễn Bính là lời cha thi sĩ, tha thiết khuyên con gái:
Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ!
Nghèo lắm con ơi! Bạc lắm con! (Oan nghiệt)
Cái kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đời ấy, Nguyễn Bính lấy từ
đâu? Làm sao một cậu thanh niên chưa đầy hai mươi tuổi đã có thể nằm trong da
thịt và tâm hồn người đàn bà hôn nhân ngang trái, để viết nên những hàng:
Năm xưa đêm ấy giường này
Nghiến răng... nhắm mắt... cau mày... cực chưa? (Lỡ bước
sang ngang)
Nguyễn Bính không chỉ dừng lại ở ngang trái. Nhà thơ hai mươi
tuổi ấy đã đi hết trọn đời người và đã viết những câu thơ tiên tri cho định mệnh
của chính mình:
Bao nhiêu đau khổ ngần này tuổi
Chết cũng không non yểu nỗi gì (Giối giăng)
Cho nên, sự độc đáo nhất của Nguyễn Bính là ông đã khuynh đảo
tất cả những lý thuyết về ngữ học văn thơ từ trước đến giờ: thứ lý thuyết phân
biệt giữa văn thơ và lời nói thông thường. Ông dùng ngôn ngữ hàng ngày để làm
thơ, và thơ ông thường là một câu chuyện, ông kể lại những chuyện tầm thường nhất,
ví dụ chuyện hai chiếc lá bàng rụng:
Thu đi trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn
Hôm nay lá thấy tôi buồn
Lìa cành theo gió lá luồn qua song
Hai tay ôm lá vào lòng
Than ôi! Chiếc lá cuối cùng là đây (Cây bàng cuối thu)
Chỉ là câu chuyện hai chiếc là vàng rụng, với những lời
lẽ mộc mạc nhất, nhà thơ đã tạo nên một không gian chia lìa, một đời hoang lạnh,
một tình yêu chớm nở giữa lá và người, trước khi lá kia nhắm mắt Lìa cành
theo gió lá luồn qua song,người đã Hai tay ôm lá vào lòng.
Trong những trang cuối của tập Lỡ bước sang ngang,
bài Chuyến tàu đêm đứng riêng một cõi. Chuyến tàu đêm là một chuyến
tàu siêu thực, là tác phẩm đặc biệt của Nguyễn Bính ra khỏi quỹ đạo ngâm khúc
và truyện nôm:
Gió lạnh, nghe chừng đêm thấy sâu
Mà con đò mộng đã sang đâu!
Qua song, một chuyến tàu đêm chạy
Một chuyến tàu đêm chảy rất mau
Những ánh đèn phai tựa nắng tà
Toa này toa khác nối liền toa
Chập chờn như một con giời lớn
Như một oan hồn hiển hiện ra
Tàu chạy hình như để chở buồn
Chở người đi nhớ kẻ về thương
Nâng bao nhiêu gót chân xinh đẹp
Tàu chạy đêm nay có lạc đường...
Tàu biết bây giờ chạy đến đâu?
Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu
Bỏ đây một chiếc tàu kiêng đỗ
Chở một toa tim nặng oán sầu
Bài thơ tả một chuyến tàu đi trong mơ, đi trong tâm linh,
trong cô đơn hoang lạnh và không dừng lại ở ga hồn người chờ đợi. Tính chất
siêu thực không đến từ thủ pháp ghép chữ lạ như những nhà thơ khác vẫn làm, mà
đến từ những chữ rất bình thường như «tàu đêm» «chảy», «chập chờn như một
con giời lớn». Sự lộng lẫy ma quái của «con giời» ẩn chứa tất cả các thể lỏng,
thể đặc, sự thay đổi hình hài, biến thiên màu sắc, tạo ra cái ghê rợm trầm uất
của một con tàu ma «chở một toa tim nặng oán sầu». Tiếc rằng nhiều bản in
đã sửa "con giời" thành "con dơi", chứng tỏ người sửa không
hiểu gì về thi ca.
Nỗi đau nơi Nguyễn Bính đã nhập vào ngũ tạng nó không phải là
nỗi đau lãng mạn, mà đã trở thành nỗi đau nội tâm và ý thức. Rồi bài Quán
lạnh vẫn tác giả là cậu thanh niên hai mươi tuổi ấy dẫn chúng ta đến một hội
ngộ bất ngờ khác:
Mùa thu đến chậm như chưa đến
Lá vội rơi theo gió vội vàng
Sương đã dâng lên, chiều lắng xuống
Bến đò đã tắt chuyến sang ngang
Đem theo cát bụi đường xa lại
Tráng sĩ dừng chân khẽ thở dài
Hơi lạnh đầm đìa trong quán lạnh
Người ta đóng dở chiếc quan tài (Quán lạnh)
Trên cuộc đời không nguôi lữ thứ, quán là nhà, lạnh là bạn.
Nguyễn Bính nhỏ lệ khô bằng những gieo âm bất ngờ “Mùa
thu đến chậm như chưa đến”. Tại sao lại “như” ở đây? Ở chỗ không
ngờ nhất? Rồi đến “lá vội rơi theo gió vội vàng”. Lại nữa, hai lần vội, lá
vội và gió vội. Tiếp theo là “Hơi lạnh đầm đìa trong quán lạnh”, lại thêm
hai lần lạnh. Tất cả những bất ngờ, không chờ, không đợi ấy, dội lên không gian
hoang vắng của “bến đò đã tắt chuyến sang ngang”, dẫn đến bất ngờ cuối
cùng là nỗi chết: “người ta đóng giở chiếc quan tài”.
Những buồn, lạnh, vội, tạm, gặp nhau trong cái quán
này. Quán của niềm đau và nỗi chết. Thi sĩ như cái quan tài phiêu lưu, lang bạt,
nay chỗ này mai chỗ khác, một cái chết lưu vong, cái chết lữ thú, cái chết lạc
loài, không chốn đỗ:
Sáng mai xuôi ngược về đâu nhỉ
Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi (Ngược xuôi)
Đời và thơ bạc mệnh
Nguyễn Bính xuất hiện lần đầu trên văn đàn năm 1936 với
bài Mưa xuân.
Trong Mưa xuân đã thấy xuất hiện hai đặc điểm: thơ
ngâm và thơ thoại. Nhờ hai yếu tố này mà thơ Nguyễn Bính sớm đi vào
lòng người. Mưa xuân kể chuyện một cô gái quê đợi gánh chèo về làng
hát trong dịp tết để gặp người yêu.
Thời ấy làm thơ về cuộc sống thôn quê là một nhu cầu, một
"tất yếu", hầu như nhà thơ nào cũng viết dăm ba “bức tranh quê”. Nhờ
sự lựa chọn của Hoài Thanh trong Thi Nhân Việt Nam mà nhiều bài sau này trở
thành bài học thuộc lòng cho học sinh như thơ của Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Tế
Hanh, Bàng Bá Lân..., những câu dễ đọc, dễ nhớ:
Chiều hôm đón mát cổng làng
Gió hiu hiu thổi mây vàng êm trôi (Bàng Bá Lân)
Thơ Nguyễn Bính cũng dễ đọc, dễ hiểu, nhưng không thể
trở thành bài học thuộc lòng cho trẻ nhỏ, bởi nó có tình và nó đi ra ngoài quỹ
đạo “ngây thơ” của những "bức tranh quê" cùng thời. Dù với giọng rất
vô tư, thơ Nguyễn Bính luôn luôn chở cái bi đát của số phận. Tính chất bi đát gắn
bó với hai chữ bạc mệnh, tiềm ẩn ngay trong những câu thơ tưởng như vui nhất của
bài Mưa xuân:
Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa (Mưa xuân)
Lời người con gái tự giới thiệu mình: nàng ví nàng như
cây lụa trắng mà mẹ chưa đem bán. Nếu nói thơ Nguyễn Bính có chất
ca dao, thì quyết không phải là ở những yếu tố ngoài da như thôn Đông, thôn
Đoài, mà ở đây, gói trọn trong câu “mẹ già chưa bán chợ đàng xa” đã
có chất ca dao (thân em như tấm lụa đào, nắng mưa giữa chợ biết vào tay ai). Rồi
nhờ ở chữ bán, nó còn có chất Nguyễn Du (rẽ ra cho thiếp bán mình chuộc
cha) nữa.
Ngay trong những câu thơ “khai bút”, ở tuổi 18, Nguyễn Bính
đã nhìn thấy số phận bán mình của người phụ nữ, một ảnh hưởng Kiều và
ca dao giao thoa trong tư tưởng.
Người con gái quê trong bài thơ Mưa xuân ấy, rất mới,
nàng đợi người tình trong đêm hát chèo, lòng say đắm:
Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em (Mưa xuân)
Hai câu: Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh / Thoi ngà nằm
nhớ ngón tay em chứng minh một thiên tài vừa xuất hiện, với hai hình ảnh đắt
giá "đêm nay giường cửi lạnh" và "thoi ngà nằm nhớ
ngón tay em", nhẹ nhàng, thanh thoát, tự nhiên như lời nói, nhưng về
mặt nghệ thuật thi ca là những hình ảnh tuyệt vời, sâu sắc, hiếm quý, khơi gợi
nhục tình.
Nhưng gã trai lỗi hẹn, và:
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày
Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ
Mẹ bảo:“Mùa xuân đã cạn ngày” (Mưa xuân)
Nhưng người tình không đến, hội làng đã hết: mưa xuân đã
ngại bay, và hoa xoan đã nát dưới chân giày, lại những hình ảnh tuyệt
vời nữa. Tất cả chấm dứt bằng lời mẹ “xuân đã cạn ngày” như một chung kết cho
tàn lụi: xuân đã chết.
Thơ xuân Nguyễn Bính, ngay trong buổi đầu đời, đã gắn bó với
bất hạnh, đớn đau, tuyệt vọng, lụi tàn: Sự bạc bẽo của người tình ngay trong
mùa xuân đã trở thành vết thương vĩnh viễn trong thi ca Nguyễn Bính:
Nhưng rồi người khách tình, xuân ấy
Đi biệt không về với... bến sông
Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi
Mấy lần cô gái mỏi mòn trông (Cô lái đò)
Đó chính là cái khác biệt sâu xa giữa những câu thơ “quê mùa”
của Nguyễn Bính với những “bức tranh quê” cùng thời: các nhà thơ khác chỉ viết
ra những lời tả cảnh, vui tươi, nhộn nhịp cảnh chợ, cảnh làng, cho học trò học.
Nguyễn Bính lấy cảnh quê làm nền để vẽ bi kịch của con người
khuất sau, mà luôn luôn là bi kịch của người phụ nữ bị bỏ rơi, bị phản bội, bi
kịch của người bạc mệnh.
Nếu chiếu vào thân phận Nguyễn Bính, người bạc mệnh ấy chính
là Nguyễn Bính.
Ra đời được ba tháng thì mẹ mất, không được học trường, học ở
nhà với cha và cậu. 13 tuổi làm thơ. 15 tuổi lang thang lên Hà Nội “lập thân”,
làm nghề bán báo. 18 tuổi (1936) có thơ đăng báo. 19 tuổi (1937) được giải thưởng
Tự Lực Văn Đoàn. 20 tuổi (1938), trở thành một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất
thời ấy... Nhưng chìm sâu trong tâm thức Nguyễn Bính, vẫn có một mặc cảm u buồn
về bản thân, không mẹ, không được học “đến nơi đến chốn”:
Còn tôi sống sót là may
Mẹ hiền mất sớm giời đầy làm thơ (Nhà tôi).
Cái mặc cảm ấy có vì người đời đã “dạy” cho Nguyễn
Bính. Dạy bằng nhiều cách. Dạy suốt cuộc đời.
Nữ sĩ Mộng Tuyết kể lại khi Nguyễn Bính đến tá túc nhà ông bà
ở Hà Tiên: “Người khách thâm thấp. Phong trần hiện trên mớ tóc đen rậm, rối bồng,
dài tới mang tai. Bộ âu phục cũ nhầu nát làm cho người tăng thêm phần tiều tụy (...) Trong
khi nghe anh Đông Hồ và tôi bàn chuyện Tam Quốc Chí, Bính không góp chuyện được,
vì Bính chưa từng đọc Tam Quốc bao giờ. Bính thấy xấu hổ, cũng như đã xấu hổ vì
chưa biết đi xe đạp. Càng xấu hổ, khi thấy tôi và Đông Hồ tỏ vẻ ngạc nhiên vì
sao mà Nguyễn Bính lại có thể chưa đọc Tam Quốc Chí. Thế rồi, Bính về tìm trong
Vạn Vạn Quyển Lầu, đọc ngấu nghiến, suốt mấy đêm liền, hết bộ truyện” (trích Để
nhớ Nguyễn Bính những ngày ghé bến Hà Tiên, Văn số 60, ra ngày 15/6/1966 tại Sài
Gòn, trang 52 và 55).
Nữ sĩ Anh Thơ, ghi lại trong hồi ký mối tình của bà với B, “người
trong mộng, người lý tưởng, người tôi yêu bằng cả trái tim thơ tha thiết” rằng
hai người đã “tha thiết yêu nhau” qua thư từ. Và bà kể lại về lần gặp
mặt: “Tôi nhớ lại cảnh Kim Trọng “lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng”
gặp Thúy Kiều. Chàng là một thi sĩ thủ đô, hẳn là hết sức trang nhã, biết mọi
kiểu cách lịch sự để quý yêu tôi... Bỗng từ quán nước đầu cầu sông Thương, một
anh chàng thân hình lùn ngắn, cái đầu hơi to, sù lên những tóc, tay vất vội chiếc
điếu cày đang hút dở, xông lại trước mắt tôi, nhe hai hàm răng đen cáu nhựa thuốc,
cười sát mặt tôi...” (Từ bến sông Thương, nxb Văn học 1986, trang 101).
Rồi bà giải thích sự tan vỡ này bằng cử chỉ của Nguyễn
Bính “một cái hôn bất ngờ chộp lên má tôi”, khiến bà phải “thất
thanh” gọi anh bà, bởi bà là “con nhà nề nếp” cho nên "không
thể nào yêu được B, nên B luôn luôn bị thất vọng, từ cô này tới cô khác, và phải
tìm quên ở tiệm hút, lầu xanh” (sđd, trang 103).
Đấy là nhận xét của hai nữ sĩ. Đến nhà phê bình Hoài Thanh và
nhà thơ Xuân Diệu, sự phê phán có tính chất "văn học" hơn.
Trong bài Chân quê có câu: Hôm qua cô đi tỉnh
về/ Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều, (ý trách người con gái quê ra tỉnh học
đòi theo mốt thị thành). Nhưng nhà phê bình Hoài Thanh (1) lại "vận"
hai câu thơ đó vào thân Nguyễn Bính, một tác giả nhà quê, hơi có ngụ ý vô học nữa.
Về Xuân Diệu, điều đáng trách nhất ở ông, là trong thời kỳ
Nhân Văn Giai Phẩm, Xuân Diệu đã thực sự trở thành bồi bút, viết bài mạ lỵ Lê Đạt,
tố cáo Văn Cao và riêng đối với Nguyễn Bính cư xử rất tàn tệ. Lại Nguyên Ân,
trong bài nghiên cứu, tựa đề:“Xuân Diệu trong những năm 1954-58”, cho biết: “Tác
phẩm mới (1969-1976) mà Xuân Diệu là một trong số vài ba nhân vật chủ chốt cầm
lái, đã hầu như không nhắc gì đến Nguyễn Bính, đã làm như không hề có Nguyễn
Bính trong nền thơ Việt thế kỷ XX (...) Phải nhờ có dư luận văn nghệ miền Nam
nhắc nhở, tên tuổi Nguyễn Bính mới được sống lại với công chúng miền Bắc từ
1986”.
Nghệ thuật tạo sầu gây tương tư
Người ta chỉ yêu thơ Nguyễn Bính, yêu sự nổi tiếng của thi
nhân, nhưng khi gặp mặt, người ta vỡ mộng, người ta chê nhếch nhác quá, người
ta chờ đợi một tao nhân mặc khách Hà thành. Không ai lấy một nhà thơ lang bạt,
chẳng có nghề ngỗng gì để nuôi thân:
Không ai chôn cất hộ lòng tôi
Tất cả phũ phàng của những “người yêu”, mà thư tình đầy ắp những
hộp bích quy, như Tô Hoài thuật lại, dẫn đến điều lạ lùng và cũng dễ hiểu là những
mối tình tha thiết nhất trong tâm hồn, Nguyễn Bính thường dành cho những người
đàn bà không quen: Người hàng xóm, Cô lái đò, Cô hái mơ, Dòng dư lệ,
Viếng hồn trinh nữ... tất cả đều... không quen, vậy mà “bao nhiêu đau khổ
của trần gian trời đã dành riêng để tặng nàng” Nguyễn Bính đều biết cả. Mối
cảm thông của Nguyễn Bính với những người phụ nữ mệnh yểu, bị tình phụ, ngoài
tâm sự của chính mình, còn là sự giao cảm của nhà thơ với định mệnh, với cái chết,
tương tự như mối linh cảm giữa Kiều và Đạm Tiên. Sự cảm thông tình yêu qua cái
chết, giải thích mối linh ứng diệu kỳ giữa những người không quen ấy:
Nàng đã qua đời để tối nay
Có chàng đi hứng gió heo may
Bên hồ để mặc mưa rơi ướt
Đếm mãi bâng quơ những dấu giày...
Người ấy hình như có biết nàng
Có lần toan tình chuyện sang ngang
Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé
Đã cắm nghìn thu ở suối vàng
Có gì vừa mất ở đâu đây?
Lòng thấy mềm như rượu quá say
Hoảng hốt chàng tìm trong bóng tối:
Bàn tay lại nắm phải bàn tay...
Tôi với nàng đây không biết nhau,
Mà tôi thương tiếc bởi vì đâu?
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu. (Viếng hồn trinh nữ)
Nhưng còn một yếu tố khác, đã khiến thơ Nguyễn Bính rung động
nhiều thế hệ lòng người: âm điệu. Bất cứ người Việt nào xa nước đã lâu không về,
tình cờ nghe thấy một âm giai ngũ cung, trong lòng không khỏi gợn lên chút gì,
như tiếng sóng. Những tiếng ru, tiếng ngâm, thường cũng gợi trong lòng họ những
tiếng rì rào thầm thỉ. Thơ Nguyễn Bính, là một hợp âm có thể gây ra trong lòng
người Việt những tiếng sóng ngầm như thế:
Gió đưa xác lá về đường,
Thu sang nhuộm cả sầu thương một trời
Sầu thương quyện lấy hồn tôi
Đêm qua ngồi đọc thơ người xa xăm
Một nghìn năm, một vạn năm,
Con tằm vẫn kiếp con tằm vương tơ
Tặng người gọi một giòng thơ,
Hay là giòng nước mắt thừa đêm qua. (Dòng dư lệ)
Bởi âm nhạc trong thơ ông là những âm giai quen thuộc của lục
bát, gióng lên đều đều như tiếng ru ạ ời, thêm tiếng định mệnh Kiều, tiếng than
chinh phụ. Thơ Nguyễn Bính là hợp âm của nhiều thứ “tiếng” ấy, nó là một thứ âm
giai ngũ cung trong lòng người Việt. Bởi thế, khi Nguyễn Bính nói lên tình yêu
giữa những người không quen, giữa "tôi và nàng tuy không biết nhau",
tưởng như cái gì không thực nhưng vẫn làm tan nát lòng người. Bởi người ta
không yêu Nguyễn Bính trong đời thực. Đời thực chỉ có sự giả dối và phản bội.
Nguyễn Bính đã tạo ra đời mộng để yêu và được yêu. Những người không quen biết
nhau ấy đã gặp nhau trong mộng. Họ là những giấc mơ bạc mệnh của nhau. Họ sống
mơ nhưng yêu thật, yêu cái mệnh bạc, yêu những giấc mơ vắn số, yêu sự cô đơn của
chính mình. Phần hồn của kẻ cô đơn, tự chẻ đôi chẻ ba ra cho có bạn và mỗi nửa
riêng lẻ, mỗi phần xẻ ra ấy, tự cảm thấy không còn cô đơn nữa:
Những một mình em uống rượu hồng (Xuân tha hương)
Hoặc:
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly (Những người trên sân ga)
Những câu thơ lạc ra ngoài nỗi cô đơn thông thường của nhân
thế, bởi cái tôi nơi đây đã tự chẻ đôi chẻ ba ra, tự lũy thừa mình, tạo một cuộc
sống tâm linh mới lạ, đớn đau và ngoạn mục mà dường như chỉ Nguyễn Bính nắm bắt
được nghệ thuật biệt cách ấy: nghệ thuật tạo sầu Nguyễn Bính. Nghệ
thuật tạo sầu của nhà thơ dựa trên tính chất bạc mệnh, yểu số của những giấc
mơ, không chỉ nằm trong những bài thơ có chủ đề trực tiếp như Viếng hồn
trinh nữ, Dòng dư lệ... mà còn bàng bạc ở cả những bài thơ vui như Cô hái
mơ:
Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ
Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? Đường còn xa
Mà ánh trời hôm dần một tắt
Hay cô ở lại về cùng ta?
Nhà ta ở dưới gốc cây dương
Cách động Hương Sơn nửa dặm đường
Có suối nước trong tuôn róc rách
Có hoa bên suối ngát đưa hương
Cô hái mơ ơi!
Chẳng trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi (Cô hái mơ)
Cả bài thơ là một giấc mơ, từ “ta” đến cô hái
mơ, đến rừng mơ... may ra chỉ hai chữ Hương Sơn là thật. Giấc mơ
trên động Hương Sơn. Cô hái mơ là một trong những bài thơ đầu tiên của
Nguyễn Bính. Phạm Duy khi chọn bài thơ để phổ nhạc bài ca đầu tiên của đời mình
đã có con mắt tinh đời: người nhạc sĩ trẻ tuổi ấy, đã nhìn thấy ở Cô hái
mơ, không chỉ là một thực thể hữu hình, mà nàng còn là hiện thân của giấc mơ,
hiện thân của sự sáng tạo, Cô hái mơ khai phóng những giấc mơ bạc mệnh
của thi nhân, của nghệ sĩ.
Hết rủ rê lơi lả “hay cô ở lại về cùng ta”, đến tiếng
gọi khẩn khoản tha thiết:“Cô hái mơ ơi!”, nàng cũng chẳng thèm trả lời,
nàng “cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng”, một cách rất liêu trai, huyền
mộng, bởi tất cả chỉ là cuộc độc thoại của nhà thơ với chính mình. Trong rừng
mơ có ai đâu, ngoài kẻ có khả năng chẻ mình làm hai để thoát khỏi cô đơn, để tạo
thêm một đời sống nội tâm khác, ngoài mình, lũy thừa một mơ thành rừng
mơ hiu hắt lá mơ rơi.
Nghệ thuật tạo sầu của Nguyễn Bính phát xuất từ khả năng luỹ
thừa vô cùng biến ảo và liêu trai ấy, từ cách vạn hoá tâm hồn ấy, Nguyễn Bính
có những câu thơ tuyệt vời:
Hồn anh như hoa cỏ may.
Một chiều cả gió bám đầy áo em (Hoa cỏ may)
Hoặc ngược lại, nhà thơ có thể hội tụ vạn tâm hồn trong một:
Cả kinh thành có những ai?
Cả kinh thành có một người mắt nhung (Mắt nhung)
Nguyễn Bính dường như đã nắm trọn bí quyết làm xiêu đổ lòng
người qua nghệ thuật phân kỳ và hội tụ cảm xúc và tâm linh.
Cô hàng xóm, đối với chúng ta, là hình ảnh gần gụi, thân
quen. Nguyễn Bính có cô hàng xóm ấy thân quen ấy trong bài Xuân về:
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời, đôi mắt trong
Nhưng nhà thơ còn có Người hàng xóm, một đối tượng
khác. Rất khác. Bởi người khác cô. Người là người lạ, không
quen. Ở cái quan hệ không quen không biết gì về nhau ấy, Nguyễn Bính đã viết
nên bài thơ, có lẽ là một trong những bài thơ tình đẹp nhất của thế hệ ông. Đây
là một bài thơ liên hoàn, không thể đọc câu trên mà không đọc tiếp câu dưới, lời
lẽ hoàn toàn là ngôn ngữ hàng ngày, nhưng keo sơn gắn bó với nhau như một điệu
nhạc, một âm giai ngũ cung bám vào hồn người Việt:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng
Có con bướm trắng thường sang bên này...
Bướm ơi, bướm hãy vào đây
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi
Chả bao giờ thấy nàng cười
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên
Mắt nàng đăm đắm trông lên
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi
Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi
Tôi buồn tự hỏi: hay tôi yêu nàng?
Không, từ ân ái nhỡ nhàng.
Tình tôi than lạnh tro tàn làm sao!
Tơ hong nàng chả cất vào
Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang.
Mấy hôm nay chẳng thấy nàng
Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong
Cái gì như thể nhớ mong?
Nhớ nàng? Không, quyết là không nhớ nàng!
Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa
Tầm tầm giời cứ đổ mưa
Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm!
Cô đơn buồn lại thêm buồn
Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?
Hôm nay mưa đã tạnh rồi
Tơ không hong nữa, bướm lười không sang
Rưng rưng tôi gục xuống bàn... rưng rưng...
Nhớ con bướm trắng lạ lùng
Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng
Hỡi ơi bướm trắng tơ vàng
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi
Đêm qua nàng đã chết rồi
Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng
Hồn trinh còn ở trần gian
Nhập vào bướm trắng mà sang bên này
Bài thơ gói trọn tâm hồn và phong cách Nguyễn Bính: lung linh
giữa mơ và thực. Người hàng xóm, nàng là mẫu người mệnh yểu, nàng có thật
hay chỉ là giấc mơ nghệ sĩ, là sự chẻ đôi của tâm hồn? Là độc thoại của tình
yêu, nàng là thơ thoại: nàng mang không gian và thời gian Nguyễn Bính, phản ảnh
những cuộc tình chết yểu, những cuộc tình chưa ngỏ, chưa dám ngỏ, những cuộc
tình bướm trắng trong mơ, những bất hạnh khổ đau trên con đường tìm hạnh
phúc. Nàng giao liên giữa sự sống và cái chết, trong nỗi hóa kiếp Trang Chu.
Nàng là mối hoài nghi: nhớ thương-thương nhớ? Nàng là sự phủ định lòng mình, là
sự nói dối thành thật và thiêng liêng nhất của con người trước tình yêu và cái
chết.
Cõi nhớ trong Mười hai bến nước
Xa xôi ai nhớ mà thương nhớ
Mà nhớ mà thương đến thế này
Hai câu thơ trong bài Giời mưa ở Huế dẫn chúng ta
bước vào bầu trời nhớ của Nguyễn Bính, không gian bất tận bao trùm lên toàn bộ
thơ Nguyễn Bính như màn sương tâm hồn vừa phủ vừa trụ vào cõi nhớ để
tạo nên nghệ thuật thi ca.
Cõi nhớ Nguyễn Bính cũng lại khởi đi từ hồn thơ Tố Như:
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê (Kiều)
Nguyễn Bính:
Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ
Em thử quay xem được mấy vòng
Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ
Em thử lào xem được mấy thưng! (Nhớ, 1936)
Bính đong, Bính đếm niềm nhớ như Nguyễn Du đã đong, đã lắc nỗi
sầu.
Để đo Nguyễn Du dùng ngày tháng.
Để lường Nguyễn Bính dùng dây tơ.
Nhưng trẻ tuổi, nóng tính, Bính không dằn được nhục cảm:
Anh ơi! Em nhớ em không nói!
Nhớ cứ đầy lên cứ rối lên (Nhớ)
Đó mới chỉ là nỗi nhớ có đôi phần sôi nổi, những định nghiã
lý tính hay dục tính chưa nhuần lắm. Bài Chân quê, sâu lắng hơn, nhà thơ,
đem nỗi nhớ chan lên những câu thơ không có nhớ:
Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen? (Chân quê)
Tuyệt không một chữ nhớ, nhưng ở mỗi: nào đâu, là một
vấn mình về nỗi nhớ, là một trách móc người yêu sao lại đánh mất y phục, đánh mất
quá khứ, đánh mất chính mình.
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!
Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Nói ra sợ mất lòng em
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thày u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều (Chân quê)
Nhà thơ không chỉ trách cô gái quê đi tỉnh đã học đòi mốt“khăn
nhung quần lĩnh” làm mất hương thơm đồng nội đi, mà còn là lời cầu khẩn
tha thiết của một người tình, gắn bó với gốc gác cội nguồn “van em em hãy
giữ nguyên quê mùa”, và đào đến bản thân nỗi nhớ trong con người: trong thâm
tâm, nhớ chính là cái mà mình đã mất, mình đã đánh mất, mình đã mất
mình, mình bị tha hóa. Chân quê là bài thơ về tất cả những sự đánh mất
mình, không chỉ xảy ra ở thôn quê, với người con gái quê mà có thể xẩy ra cho bất
cứ ai, bất cứ ở đâu.
Cho nên khi Hoài Thanh viện vào Chân quê để
chê Nguyễn Bính nhà quê là đã không phải, rồi những người bênh vực Nguyễn Bính
(Tô Hoài, Bùi Hạnh Cẩn, Đức Trấn, Nguyệt Hồ...) đưa ra lập luận: đây là Bản
tuyên ngôn thơ của Nguyễn Bính chống lại các kiểu thơ lai căng, Âu hoá tới mức
lộ liễu (ý nói thơ Xuân Diệu), cũng lại không phải nữa, vì năm 1936 cả Nguyễn
Bính lẫn Xuân Diệu đều mới có thơ đăng báo, chưa nổi tiếng đến mức gây tranh luận.
Nhớ còn là một cảm tình, nó có khả năng lan rộng
ra không gian, nối một địa điểm (như thôn Đông) với lòng người (thôn Đoài):
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười thương một người (Tương tư)
Thôn Đông và thôn Đoài là hai địa điểm, nhờ hai chữ ngồi
nhớ chúng trở thành người. Rồi ngồi nhớ tạo nên một vũ trụ: vũ
trụ tương tư, vũ trụ một chiều của lòng mong nỗi nhớ. Như vậy thôn Đông và thôn
Đoài chỉ đứng làm cảnh cho Nguyễn Bính nói về niềm nhớ, chúng là quân
cờ cho nỗi nhớ để nhà thơ thú nhận tình yêu của mình:
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng (Tương tư).
Nhưng tiền thân của nỗi nhớ là gì?
Là sự vắng mặt. Vắng mặt là bắt đầu, là bào thai, là xuất xứ
của nỗi nhớ:
Vắng bóng cô em từ dạo ấy
Để buồn cho những khách sang sông (Cô lái đò)
Và say là thuốc chữa bệnh nhớ: “Chén ứa men lành lạnh
ngón tay” của Nguyễn Bính xứng đáng đứng cạnh “hương gây mùi nhớ trà
khan giọng tình” của Nguyễn Du.
Nguyễn Bính đã bắt được cơ nguyên của nỗi nhớ, những bài thơ
hay của ông luôn luôn đi từ hai nguồn: Nhớ và Say. Và Huế là một
địa điểm quan trọng trong đời Nguyễn Bính: từ Huế Nguyễn Bính vào Nam và dường
như không trở lại Bắc nữa, cho đến 1954, Huế còn là một chuyển biến trong thơ
Nguyễn Bính, từ thơ bạc mệnh sang thơ quan hoài.
Thơ quan hoài
Hiện nay chưa biết rõ Nguyễn Bính đi Nam lần đầu năm nào, có
thể khoảng 1939, vì trong tập Lỡ bước sang ngang (in năm 40) có
bài Lá thư về Bắc.
Theo Tô Hoài, trong Những gương mặt (nxb Tác phẩm mới,
1988), thì “Quãng những năm 1940, đói rách quá, ở Hà Nội ăn bám anh em mãi
không còn được, chúng tôi đành phải kéo nhau đi kiếm ăn nơi xa xôi. Lúc đầu đi
ba người Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can và tôi” (trang 110). Bùi Hạnh Cẩn ghi
Vũ Trọng Can và Nguyễn Bính, và thơ Nguyễn Bính cũng chỉ ghi có hai người:
Chúng tôi hai đứa xa Hà Nội
Bốn tháng hình như kém mấy ngày.
Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh,
Để rồi nằm mốc ở nơi đây.
Thuốc lào hút mãi người ra khói,
Thơ đọc suông tình hết cả say.
Túi rỗng nợ nần hơn chúa Chổm,
Áo quần trộm mượn, túng đồ thay. (Giời mưa ở Huế)
Vẫn theo Tô Hoài, ít lâu sau, Trọng Can và Tô Hoài trở về Hà
Nội, Nguyễn Bính ở lại Huế và sau vào Sài Gòn. Trong thời gian ở Huế, Nguyễn
Bính đã làm một số thơ tuyệt hay sau này tập hợp lại trong tập Mười hai bến
nước.
Mười hai bến nước viết để tạ lòng một người tri âm
vô danh vắng mặt. Nội dung tập hợp những bài, phần lớn làm ở Huế, nhớ về Hà Nội,
trong khoảng thời gian 1941- 1942. Tập thơ khai trương và tổng kết quá khứ đau
thương của một đời giang hồ, mà say và nhớ là hai biệt chất
dựng nên thơ, cô đọng thành thơ, như thể cậu thanh niên hai mươi tuổi ấy, bỗng“một
đêm mái tóc quá quan thay màu”,không những đã sống trọn đời này, mà còn sống
lùi về dĩ vãng của đời trước. Huế xưa, Huế nay, Bính trẻ, Bính già, Bính say, Bính
tỉnh, như thế nào thì Nhớ và say cũng trào lên nét bút như
thế.
Nhà thơ thả hồn mình chia ba chia bẩy vào cõi nhớ của kiếp
giang hồ.
Hơi thơ ở đây không giống những tập thơ khác, đặc cách và cổ
kính hơn. Như thể chất tím Huế đã nhuộm vào thơ, nước sông Hương làm buốt hồn
thơ.
Đến đây để “kiếm ăn” và cũng để trốn chạy chính mình, tìm xa
niềm đau cũ:
Chiều nay tôi chắp tay tôi lại,
Xa đất Bắc, Nguyễn Bính đã viết những bài thơ tuyệt vời gửi
cho người thân, gửi về dĩ vãng, như bài Hoa với rượu, Giời mưa ở Huế, Xuân
tha hương, Một chiều say, Oan nghiệt... Đất thần kinh là nơi Nguyễn Bính chọn để
đoạn tuyệt với những đớn đau, những oan nghiệt cũ của tình đời:
Giờ đây cha khóc mà thương nhớ
Gửi vọng về con một chiếc hôn
Tiền cha không đủ hoàn lương mẹ
Còn lấy đâu mà nuôi nấng con?” (Oan nghiệt).
Vào Nam, Nguyễn Bính sáng tác nhiều khúc ngâm lữ thứ khác, giọng
vẫn quan hoài, nhưng đã khác với giọng Huế, như Nửa đêm nghe tiếng còi tầu,
Nam kỳ cũng gió cũng mưa, Bài hành phương nam, Đêm mưa đất khách... Nhưng tới
Nam là tuyệt lộ rồi, không còn đi xa hơn được nữa:
Hỡi ơi! Trời đất vô cùng rộng
Nào biết tìm đâu một mái nhà?
Có như mắt Tịch xanh mà uổng
Đất khách cùng đường ta khóc ta!
Mưa mãi, mưa hoài, mưa bứt rứt
Đêm dài dằng dặc, đêm bao la... (Đêm mưa đất khách, Sài
Gòn, 1943)
Tất cả thơ quan hoài của Nguyễn Bính đều có giọng bi ca,
nhưng gồm thâu được nhiều mối tơ, nỗi hận đất trời và tình người nhất là
bài Một con sông lạnh.
Một con sông lạnh tuy không nổi tiếng như Tràng
giang của Huy Cận hay Nguyệt cầm của Xuân Diệu, nhưng lớn lao,
thơ mộng và sâu rộng hơn, âm thầm, lặng lẽ, đớn đau như thân phận Nguyễn Bính,
một Tỳ bà say, mang tâm thức Hà nội hành hương vào Huế:
Chén sầu nghiêng giữa trường giang,
Canh gà bên nớ giằng sang bên này.
Khoan đàn, em hãy gắng say,
Một đêm, chỉ một đêm nay thôi mà.
Chúng tôi người bến sông xa,
Giang hồ một chuyến về qua xứ này,
Phiền em dăm bảy đường tay,
Một con sông lạnh, vài giây tơ tằm.
... Rung rung ánh nến hoen vàng,
Hơi men lắng xuống, tiếng đàn cao lên
Ô, nàng chẳng phải là em
Tôi nghe vó ngựa hoà Phiên, rõ ràng,
Đừng em, quên đấy - thôi nàng
Đất Hồ xa quá, nàng sang sao đành.
Trời ơi, Hán Đế vô tình,
Tôi xin đốt cả kinh thành ấy đi...
Chưa say, em, đã say gì;
Chúng tôi còn uống, còn nghe em đàn.
... Rung rung ánh nến hoen vàng,
Đôi giây nức nở muôn ngàn nhớ thương.
Đôi giây như thể đôi đường...
Em ơi, Hà Nội là phương hướng nào.
Đêm tàn chẳng có chiêm bao,
Đêm tàn có mấy chòm sao cũng tàn,
Chén sầu đổ ướt trường giang,
Canh gà bên nớ giằng sang bên này.
Lạy giời, đừng sáng đêm nay,
Đò quên cập bến, tôi say suốt đời,
Chiêu Quân lên ngựa mất rồi... (Một con sông lạnh)
Khi vào Nam, Nguyễn Bính làm Tỳ bà truyện, dài 1548 câu,
Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng sưu tập, đăng trong Việt nam thi nhân
tiền chiến.Nhưng Một con sông lạnh, làm ở Huế, mới thực sự cô đọng hồn tỳ
bà. Mọi rung động của Nguyễn Bính với người tài tử vang lên không gian, tan
trong tiếng nhạc, loãng trong bầu khí mơ hồ, yêu ma, không thể có được ngoài trời
Huế mù sương, nước sông Hương lạnh, say, đắm đuối:
Rung rung ánh nến hoen vàng,
Hơi men lắng xuống, tiếng đàn cao lên
Ô, nàng chẳng phải là em
Để rồi chìm khuất trong đáy say là nỗi nhớ không cùng, rứt ra
rừ tiếng tơ ai oán:
Rung rung ánh nến hoen vàng
Đôi giây nức nở muôn vàn nhớ thương.
Sự giằng co, chia cắt, bên ni, bên nớ của con người vô gia
cư, không bến đỗ, lấy nhớ làm địa chỉ, lấy say làm chất bồi
dưỡng tâm hồn. Mười hai bến nước còn là tập thơ tương tư quá khứ, là
tâm sự của người “ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên”.Ngự viên xưa là vườn Thượng
uyển, nay đã trở thành xóm nhà lá, thanh vắng rợn người:
Nhọc nhằn tiếng cú trong canh vắng
Nhao nhác đàn dơi lúc đỏ đèn (Xóm Ngự Viên)
Đò Huế, sông Huế, trời Huế, mõ Huế, đàn Huế, những hiện tượng
hữu hình được nhà thơ ẩn hóa đi, trong âm thanh và màu sắc, làm vang lên trong
âm và ngữ, rồi lắng xuống, chìm đi, như chưa bao giờ hiện hữu:
Suốt giời không một điểm sao
Suốt giời mực ở nơi nào loãng ra!
Lửa đò trong cái giăng hoa,
Mõ song giục giục, canh gà te te.
Chừ đây, bên nớ bên tê,
Sương thu xuống, gió thu về bồng bênh
Đàn ai chừng đứt giây tình,
Nổi lên một tiếng buồn tênh rồi chìm (Lửa đò)
Nghệ thuật làm nhòe hiện tại, xóa hiện hữu, đẩy chúng đi xa,
làm chúng vắng mặt đi, chính là nghệ thuật tạo sầu, nuôi tương tư, trong
môi trường say, môi trường xót xa tuyệt vọng của Nguyễn Bính:
Cúi mặt soi gương chén rượu đầy
Bốn mắt nhuộm chung màu lữ thứ (Giời mưa ở Huế)
Chị Trúc, «chị tôi buộc thắm giam hồng lênh đênh» (Một
chiều say) không có thật. Chị Trúc, trong thơ Nguyễn Bính, là một sáng tạo thi
ca. Ở đâu cũng có hồn chị Trúc. Chị Trúc không phải là người yêu. Chị là mẹ. Chị
cũng là cha. Chị là cây trúc cho hồn thơ bám rễ leo lên. Chị là địa chỉ của nỗi
nhớ ở người con mất mẹ từ ba tháng tuổi. Nhưng chị cũng là hiện thân nỗi cô đơn
và chị còn là đối tác của cô đơn. Nguyễn Bính tạo ra chị Trúc, để biến những
tâm sự độc thoại của mình thành đối thoại, tạo khoảng cách giữa nhà thơ và chị
Trúc, giữa Huế và Bắc, giữa người trong ấm cúng và kẻ đi ngoài sương gió, để tưởng
như có một người chờ mình ngoài Hà Nội, để mở ra một không gian lô-gíc nhớ,
mà Xuân tha hương trở thành tâm thơ của tất cả những kẻ xa nhà khi Tết
đến:
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ôi! Chị một em, em một chị
Giời làm xa cách mấy con sông
Em đi giang giở đời sương gió
Chị ở vuông tròn phận lãnh cung
Chén rượu tha hương, trời: đắng lắm
Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông
Chiều nay ngồi ngắm hoàng hôn xuống
Nhớ chị làm sao nhớ lạ lùng...
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Tết này, ô, thế mà vui chán
Những một mình em uống rượu hồng (Xuân tha hương)
Trong «những một mình em uống rượu hồng» là niềm cô
đơn chia hai, chia ba, chia bẩy, thành những một mình, tìm đến say như một
cõi phúc, cô đơn và say hòa quyện nhau, tan trong nhau, thành chất lỏng:
Tôi rót hồn tôi xuống đã nhiều
Hồn tôi còn được có bao nhiêu?
Những oan nghiệt trong một đời giao kết giữa say và nhớ trong
thơ Nguyễn Bính, tạo nên một hồn thơ không hạnh phúc: Nợ tình trả hết,
túng đừng vay (Giời mưa ở Huế).
Một hồn thơ trọn kiếp cô đơn: Đầu tôi lại gối cánh tay
tôi (Oan nghiệt).
Một cô đơn tận cùng: Bàn tay lại nắm phải bàn tay.
Cũng hồn thơ ấy đã có lần: Uống say cười vỡ ba gian gác.
Ném cái chung tình xuống đáy sông (Xuân tha hương),
Với bao nhiêu thất bại đắng cay: Sòng đời thua đến trắng
hai tay (Hành phương Nam).
Nhưng có lúc vẫn sảng khoái, bất cần đời: Vẫn dám ăn
tiêu cho đến hết. Ngày mai ra sao rồi sẽ hay (Hành phương Nam).
Một hồn thơ vừa phỉ phui nỗi nhớ, ném cái chung tình đi,
nhưng đã trót:
Tôi vào sâu quá và xa quá
Đường lụt sương mờ lụt lá rơi
Và cũng chính hồn thơ ấy, trong sâu thẳm của hồn mình, vừa muốn
đẩy xa nổi nhớ, lại vừa sống vì nỗi nhớ. Tìm đến nỗi nhớ như một cứu
cánh của cuộc đời, của tình yêu và nghệ thuật.
Chúng tôi không thể kết thúc sự tìm hiểu thơ Nguyễn
Bính mà không nhắc đến mối duyên của Nguyễn Bính với cách mạng. Ở Nguyễn Bính
dường như đã có gì đoạn tuyệt với cách mạng, không chỉ ở thời điểm Nhân Văn, mà
ngay từ trước 1954. Bài “Tỉnh giấc chiêm bao” có hai câu thơ đa
nghĩa:
Duyên nhau đã dựng Trường đình
Mẹ em đã xé tan tành gối thêu...”
"Mẹ em" đây là ai? Có thể hiểu là người mẹ vợ trong
Nam. Nhưng dường như không phải. Bởi Nguyễn Bính không đem vào thơ những chi tiết
cá nhân như thế. Và trong bối cảnh bài thơ, mối duyên ở đây chỉ có thể là mối
duyên với cách mạng. Bài thơ mở một dấu hỏi dài về cuộc nhân duyên của Nguyễn
Bính với cách mạng, và không biết ai là người đã xé tan tành gối thêu? Khi đăng
trên Giai Phẩm (và cả Trăm Hoa) thời ấy, lời thơ kín đáo, không ai để ý, nhưng
ngày nay đọc lại, nó gói trọn bi kịch thầm kín của Nguyễn Bính và giải thích lý
do, tại sao Nguyễn Bính trên toàn bộ Nhân Văn Giai Phẩm, chỉ có một bài thơ “hiền
lành” như vậy mà bị lưu đầy.
Nếu trên mặt nổi, Nhân Văn Giai Phẩm có những bài thơ đấu
tranh trực tiếp của Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Quán... thì
trên mặt chìm có thơ Nguyễn Bính. Nguyễn Bính như người anh cả, trầm lặng hơn,
đau thương thầm kín hơn, ghi lại nỗi đau của chính mình, trước thời cuộc, trong
bài thơ, kín đáo, ít người hiểu ra tâm sự:
Chín năm đốt đuốc soi rừng
Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân
Cửa xưa mành trúc còn ngăn
Góc tường vẫn đọng trăng xuân thủa nào
Làng xa bản nhỏ đèo cao
Gió bay tà áo chiêm bao nửa chừng
Anh về, luyến núi thương rừng
Nhớ em, đêm sáng một vừng thủ đô
Bồi hồi chuyện cũ năm xưa
Gặp nhau lần cuối... trang thư lệ nhòa
Thư rằng: “Thôi nhé đôi ta
Tình sao không phụ mà ra phụ tình
Duyên nhau đã dựng Trường đình
Mẹ em đã xé tan tành gối thêu...”
(trích Tỉnh giấc chiêm bao, Giai Phẩm Mùa Thu, Tập
I, tháng 8/1956).
Tỉnh giấc chiêm bao, nói lên sự từng trải và thâm thúy của một
ngòi bút đàn anh, không sôi động, trực tiếp như Lê Đạt, Trần Dần, Nguyễn Bính
ví cuộc đời chín năm cách mạng của mình như một cuộc tình ngang trái. Từ rừng
sâu người kháng chiến trở về với thực tại:
Chín năm đốt đuốc soi rừng
Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân
Và nhớ:
Anh về, luyến núi thương rừng
Nhớ em, đêm sáng một vừng thủ đô.
Nhưng quá khứ chỉ là giấc mộng, bởi mối tình đã vỡ:
Tình sao không phụ mà ra phụ tình
Duyên nhau đã dựng Trường đình
Mẹ em đã xé tan tành gối thêu...”
Đó là lần thứ nhất, Nguyễn Bính trải lòng nói về cách mạng.
Cuối tháng 12/1957, Nguyễn Bính làm xong một truyện dài bằng
thơ 2000 câu, tựa đề Tiếng trống đêm xuân, toàn bài không biết phiêu
bạt nơi đâu, may có một trích đoạn được in trên tuyển tập Nguyễn Bính (nxb Văn
Học, 1986). Và qua trích đoạn này, chúng ta có thể hiểu Nguyễn Bính đã thuật lại
bi kịch Cách mạng và Nhân Văn dưới dạng hát chèo:
Hội làng đèn đuốc như sao
Đêm chèo tiếng trống giáo đầu nổi lên
Mặt hoa quạt bướm che nghiêng
Bước ra cô nữ làm duyên đưa tình
Cùng trong chiếc chiếu giữa đình
Mà bao nhiêu cảnh nhiêu tình bày ra
Đương ngục thất hóa vườn hoa
Buồng the trướng gấm hoá ra chiến trường....
Người xem khi giận khi thương
Khi yêu khi ghét khi mừng khi vui
Suy ra muôn việc ở đời
Rõ ràng như tấm gương soi bóng lồng
Giận thằng bán rượu Lý Thông
Tham mồi phú quý cướp công bạn hiền
Giận vua Trang dạ đảo điên
Giết người nho sĩ, ép duyên má đào
Ghét phường Lư Kỷ quyền cao
Chẳng chăm việc nước, chỉ mưu hại người
Ghét con mụ Tú già đời
Buôn người trinh tiết kiếm lời mà ăn
Khinh đồ mặt nhọ Sở Khanh
Mảnh tiên Tích Việt chối quanh được nào
Khinh tên bố vợ họ Hầu
Hối hôn con gái ra màu bạc đen
Thương nàng Thị Kính oan khiên
Đã nương cửa Phật chưa yên tội đời
Thương Kiều tài sắc vẹn đôi
Chuộc cha mười mấy năm trời gian truân”.
Nhà thơ ghi lại những bộ mặt ái ố trên diễn đàn chính trị và
văn học, như một vở tuồng chèo trên sân khấu. Nguyễn Bính trong màn kịch cuối
cùng, vẫn giao lưu hai dòng thơ ngâm khúc và truyện nôm, vẫn
dùng ngôn ngữ hàng ngày, cho nên ông đã tạo ra một địa bàn đời rất rộng, mà những
nhà thơ đương thời, không mấy ai đạt được. Thơ Nguyễn Bính đi sâu vào sinh hoạt
đời sống, vào phong tục của dân quê, đám cưới đám ma, rượu chè đình đám, vào những
cuộc đi, vào địa hình sông núi. Cả đến những bức tranh thời sự, về thời kỳ Nhân
Văn Giai Phẩm ông do tay ông vẽ lại, trong thơ. Nhưng, những gì Nguyễn Bính viết
ra, không biết còn giữ lại được bao nhiêu, hay cũng đã ít nhiều bị xóa sổ?.
Chú thích: (1) Hoài Thanh thích thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu
là nhà thơ “có học”, lại tỉnh thành, có những câu thơ rất Tây, y như dịch từ tiếng
Pháp: Yêu là chết ở trong lòng một ít, hay Yêu tha thiết thế vẫn còn
chưa đủ, hoặc: Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực! Đặc biệt câu Hỡi
xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi được rất nhiều người ca tụng, Anh Thơ thuộc
lòng. Có lẽ cũng nhờ nhà phê bình Hoài Thanh hết lời ca ngợi một hồn thơ “say đắm
tình yêu” mà Xuân Diệu trở thành nhà thơ số một của tình yêu.
Thật ra, thơ tình của Xuân Diệu hời hợt, vì ông là người đồng
tính, không thể yêu con gái. André Gide đã viết được những trang về tình trai,
kín đáo, tế nhị, thơ mộng và đớn đau làm rung động trái tim bao nhiêu người đọc
nam cũng như nữ trên trái đất. Nhưng xã hội Pháp không giống xã hội Việt Nam,
Xuân Diệu dù có muốn cũng không thể viết về tình trai được. Ông chỉ có một thơ
bài tên là “Tình trai” với câu “Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine” không
có gì đặc biệt. Thơ Xuân Diệu hay ở chỗ khác: tình trai của ông đã hóa thân
trong mối Giao cảm mà Baudelaire gọi là Correspondance giữa
cỏ cây, hoa lá, đất trời. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này khi viết về Xuân Diệu.
Dĩ nhiên là Hoài Thanh có quyền sai lầm về Xuân Diệu và Nguyễn Bính, nhưng cái
đáng trách là sau này, người ta cứ sao chép lại cái sai lầm của Hoài Thanh,
trong hầu hết những bài nhận định và phê bình văn học.
Tháng 3/2009
Thụy Khuê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét