Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Đến xuân này, nếu còn sống, Trung niên thi sĩ Bùi Giáng 86 tuổi. Ông sinh năm 1926, thuộc dòng họ Bùi có tiếng ở Vĩnh Trinh (Quảng Nam). Suốt một đời, ông chỉ sống với văn chương và triết học.
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Đến xuân này, nếu còn sống, Trung niên thi sĩ Bùi Giáng 86 tuổi. Ông sinh năm 1926, thuộc dòng họ Bùi có tiếng ở Vĩnh Trinh (Quảng Nam). Suốt một đời, ông chỉ sống với văn chương và triết học.
Bùi Giáng là hiện tượng văn học không dễ lý giải. Có lẽ một
vài thế hệ sau, khi con người trầm tĩnh lại, lúc ấy mới có thể bàn đến thi sĩ vừa
tỉnh vừa cuồng này. Bây giờ, thơ văn, dịch thuật và nghiên cứu triết học của
ông đã in lại. Mưa Nguồn, NXB Hội Nhà văn, in 1993.
Nhớ lại khoảng cuối những năm 50 đầu 60 ở miền Nam, khi các tập
khảo luận về Tản Đà, Bà Huyện Thanh Quan, Chu Mạnh Trinh... ký tên Bùi Giáng ra
đời, người ta đã thấy ở đây một giọng điệu lạ lùng trong việc tìm hiểu, khám
phá các tác phẩm, tác giả. Phân tích Qua Đèo Ngang, Bùi Giáng đã đẽo tạc nỗi
lòng lữ thứ của nữ sĩ đất Tây Hồ bằng một thứ ngôn ngữ chất ngất nỗi niềm triết
học. Cả khi bình Hương Sơn Phong Cảnh của Chu Mạnh Trinh, ông cũng phủ lên bao
sương khói hư huyền. Trước đó và sau đó không có văn ấy, giọng ấy.
Về thơ cũng vậy. Ông thổi vào Mưa Nguồn một hơi thở với rất
nhiều hương đồng gió nội. Thơ mang âm sắc lạ lùng, gây ngỡ ngàng không ít cho
bao thế hệ người đọc. Dần về sau, cánh cửa thơ ông uyên áo quá, khó đi vào. Đọc
Mưa nguồn, tiếp xúc với chuồn chuồn, châu chấu với cồn xưa cỏ mọc, với truông đèo và những địa danh quen thuộc của xứ Quảng như Trung Phước, Cà Tang, Trà
Linh, Tý Sé, Phường Rạnh, Dùi Chiêng, Hòn Kẽm, Đá Dừng... người đọc hiểu đoạn đời
15 năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt trong Nỗi lòng Tô Vũ của ông. Phải chăng
ông mượn điển tích Tô Vũ, tự Tử Khanh, thời Hán Vũ Đế, từng chăn dê gửi tình
yêu đến với bát ngát thiên nhiên?
Mưa Nguồn, có đến một phần tư trong tổng số bài nói đến mùa
xuân. Ở đây, có xuân sớm, trời xuân, ngàn xuân, bờ xuân, đầu xuân, cành xuân, mộng
xuân, trái xuân, bến xuân, ruộng xuân, đường xuân, thư xuân, dòng xuân... Xuân
của Bùi Giáng còn có cả màu: màu xuân se, màu nguyên xuân, màu xuân. Xuân như
suối nguồn chảy ra từ một cõi uyên nguyên nào, không cụ thể. Đó là thứ xuân đầu
chứa đầy chiêm bao, huyền thoại, hư ảo quyện với cuộc đời thực, nhiều mơ mộng:
Mai sau hẹn với ban đầu
Chờ nhau ngõ khác ngó màu nguyên xuân
(Hẹn ước)
Chờ nhau ngõ khác ngó màu nguyên xuân
(Hẹn ước)
Những trùng ngộ, sơ ngộ chợt đến chợt đi, nghe mùa xuân không
đổ lục bên đường mà xuân xanh xô cổng chạy dài, đến một mùa xuân hấp tấp, xuân
hối hả, xuân bay biến... người đọc nhận ra cái gì đó đang rời bỏ và con người hốt
hoảng níu giữ. Phải vậy chăng mà Bùi Giáng khát khao và ngây đi dưới mùa xuân
man dại, tha thiết đứng lại nghe xuân, mong mỏi dựng lại trời xuân để giữ một
giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại? Mưa Nguồn có đến 10 bài có tựa đề nói đến
mùa xuân. Đó là những Chào Nguyên Xuân, Mùa Xuân, Xuân Xanh, Xuân Bình Dương,
Thư Xuân, Lời Xuân, Xuân Thôn Nữ... Song, mùa xuân không được nhìn dưới góc độ
của một không gian, thời gian cụ thể. Tất cả đều là trùng vợi của cố quận, của
ngàn mây, của đất trích chiêm bao:
Màu trời đó bữa nay về trở lại
Một mùa xưa người nhớ chứ năm kia
Ngày chạm mắt dưới mùa xuân man dại
Dịp trùng lai em hẹn với tan lìa ...
Một mùa xưa người nhớ chứ năm kia
Ngày chạm mắt dưới mùa xuân man dại
Dịp trùng lai em hẹn với tan lìa ...
Ngày mở mắt ngó trời xanh xa thế
Ở đây là màu đất cỏ xuân non
Hè nắng hạ với thu đông buồn thế
Với tình yêu em giữ mất hay còn…
Giờ khép mắt nhớ một lần ngẫu nhĩ
Nhớ rất nhiều ngày loạn ngửa đêm nghiêng
Cuồng dại nát liễu hờn xuân rủ rỉ
Giờ ra đi em cảm thấy có quyền.
Ở đây là màu đất cỏ xuân non
Hè nắng hạ với thu đông buồn thế
Với tình yêu em giữ mất hay còn…
Giờ khép mắt nhớ một lần ngẫu nhĩ
Nhớ rất nhiều ngày loạn ngửa đêm nghiêng
Cuồng dại nát liễu hờn xuân rủ rỉ
Giờ ra đi em cảm thấy có quyền.
(Khép mắt)
Cảm thức về sự bay biến của thời gian đã dựng lên trong nhiều
bài thơ xuân của Bùi Giáng cái dư vang vô thanh (chữ dùng của thi sĩ) về những
hoài niệm xa vời vợi. Chẳng thế mà ở tập Mùa Thu trong thơ ca (NXB An Tiêm, Sài
Gòn, 1970), khi nói về Xuân người Tàu ngày nay, nhà thơ đã viết: “Người Tàu ở
Chợ Lớn dường như có phần không thơ mộng bằng người Tàu trong thi văn cố quận của
họ”. Bởi lẽ là:
Thời gian chắn bước chân chiều
Khóc sông bến lạ, mưa chiều sớm xuân
(Cỏ hoa hồn du mục)
Hoặc:
Hoặc:
Màu con mắt bên mùa xuân xiêu đổ
Ở bên kia nhìn trở lại bên này...
Ở bên kia nhìn trở lại bên này...
(Người
đi đâu)
Bên kia là đâu? Bên này là đâu? Không biết. Chỉ thấy rằng,
màu nước chảy, màu lãng đãng, màu lở dở xen giữa màu xuân khiến cho thi sĩ muốn
ủ lại xuân phơi giữa bốn trời. Với ngần ấy sắc thái xuân, ta có thể gọi Bùi
Giáng là thi sĩ của những mùa xuân phôi pha.
HUỲNH VĂN HOA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét