Làng tôi là một làng thuần nông, vùng chiêm trũng. Đồng quê,
chẳng trồng được cây gì ngoài cây lúa. Mỗi năm hai vụ chiêm, mùa. Bà ngoại tôi vốn
là người con gái Hà Thành, bỏ về đất này làm dâu. Làm quen với việc cắm cây mạ
xuống cánh đồng đầy những con đỉa xanh ngoăn ngoắt, đánh bạn với gầu dai, gầu
sòng, với cái liềm, cái cuốc, quen đếm thời gian bằng mùa lúa xanh, lúa chín,
mùa phơi rạ, chất rơm. Bà tôi đã hòa mình vào cánh đồng, như bao nhiêu người
quê đã sinh ra, lớn lên, làm việc, mến yêu nhau trên cánh đồng làng, có những
người suốt đời chỉ ở trên cánh đồng mà không quen với việc gì khác ngoài vòng
quay cây lúa.
Chúng tôi lớn lên êm đềm trong vạt áo nâu mùi bùn đất, mùi trầu
không của bà. Quen với bóng bà mấp mô trên những bờ ruộng tháng tư xanh thăm thẳm
lúa vừa kịp đọng hương, quen với bóng lưng còng cắm cúi cấy nốt mấy dảnh mạ non
run rẩy trong chiều sương giá. Quen cả cách bà đoán thời tiết, đoán việc được -
mất mùa qua tiếng chim gọi nước, qua cánh bay con chuồn, hay mỗi giao thừa nhìn
lên trời tối đen hay có chút hửng. Bà dạy chúng tôi về thời khắc bắt được nhiều
tôm, nhiều cá trên những thửa ruộng mới gặt xong mùa nắng, dạy chúng tôi cách
tìm những con ốc ăn sương mùa đất phơi ải, cách dựng những mô rạ chụm vào nhau
như một mái nhà nhỏ…
Chúng tôi quen đến nỗi, đôi khi không nghĩ rằng bà đã được
sinh ra từ một miền quê khác. Ngày tiễn bà tôi về với đồng làng, tôi đã đứng rất
lâu bên con mương nhỏ, nơi bà tôi vẫn thường khỏa chân sau khi lội ruộng để giũ
sạch bùn đất, đã đứng rất lâu bên cây bún cuối làng cũng là nơi bắt đầu cánh đồng,
bà tôi vẫn thường ngả nón để ngồi nghỉ chân mỗi khi xong việc. Tôi đã thấy bóng
dáng nhỏ nhoi của bà tạc vào cánh đồng quê những nét vẽ vĩnh cửu. Bà, cũng như
bao nhiêu người đã sinh ra, ở lại, hay bao nhiêu người xứ khác đã đến đây, canh
tác trên đất này, đổ mồ hôi trên từng thớ đất, đường cày, bước chân trên những
bờ vùng, bờ thửa, bàn tay phát cỏ cuốc bờ, khơi mương, tát nước. Lớp người này,
tiếp nối lớp người khác. Mồ hôi đổ xuống cho đất xanh lên. Và rồi họ lại chọn
cách bình thản, nhắm mắt nằm lại trên cánh đồng rì rào sóng lúa.
Có những chiều chật hẹp trong lòng phố, tôi đã nhớ biết mấy
cánh đồng của tôi. Cánh đồng bạc thếch đất đai, phấp phỏng những hạt mầm mùa vụ,
cần mẫn nuôi lớn những giấc mơ, những hy vọng, tin vào phù sa ngày mai rồi sẽ
“còn chồi nảy cây” ngay cả khi lũ bão vừa qua…Và rồi, tôi đã mải miết đi tìm…
Chỉ cách trung tâm phố Vinh vài cây số, chạy dọc con đường đê
sông Lam là đã chạm bạt ngàn cói Hưng Hòa. Trên cánh đồng cói tháng bảy, tôi đã
gặp một ông lão xóm Phong Thuận đang miệt mài gặt cói, chẻ cói. Nhìn tấm thân vạm
vỡ của ông đánh trần dưới nắng chiều, không ai nghĩ ông lão Lê Xuân Thùy chạm
tuổi 70, lại còn là một thương binh. Ông kể: “Nhà tui làm cói từ đời cố, can.
Khi vừa mở mắt là thấy cây cói, là nghe mùi cói. 6 tuổi đã biết kéo gon. 10 tuổi
đã ra đồng cùng cha mẹ gặt hái. Các o không quen, thấy gốc cói sắc, đâm vào
chân trần là đau, chớ như bầy tui lại quen đi trên gốc cói, trên ruộng mấp mô
này. Đi đất bằng có khi thấy chân mình lạ lẫm, chông chênh”
Những lời nói thủng thẳng, tưởng chừng xù xì của ông, ấy vậy
mà khiến tôi sửng sốt. Không chỉ bởi nó giản dị, mà còn đầy sâu sắc, yêu
thương. Ông kể với tôi về những vụ cói ngày xưa, thời hoàng kim của cây cói
Hưng Hòa, về cái thời làm hợp tác, tiếng cười nói rộn rã cả cánh đồng bạt ngàn
gần 70 ha trồng cói. Rồi ông nói về gia đình mình, hiện còn 6 sào cói, mỗi năm
thu hoạch 2 vụ thay vì 3 vụ như trước đây mà “nguyên nhân là cói thoái hoá hết
rồi”. Ông thở dài, không giấu nỗi ngậm ngùi, rằng 4 con ông giờ đây đã chẳng ai
theo nghề cói, “2 đứa rời quê vào Nam lập nghiệp, 2 đứa làm thợ xây”. Vậy là
nghề cói 4 đời rồi sẽ khó mà giữ được. “Là cũng mừng cho chúng, vì làm cói xem
chừng vất vả, nhưng mà tiếc cái nghề truyền thống cha ông”. Nhưng rồi ông vẫn
hy vọng “Có thể rồi người Hưng Hòa cũng phải tìm được hướng đi bền vững cho cây
cói, biết đâu rồi nông dân trồng cói lại có một ngày được hưởng ấm no nhờ vào đồng
đất của mình”.
Ông cũng kể về năm mình ra trận, nắm cơm cuối mình ăn trên
chính cánh đồng này, có thể cũng ngồi trên chính là những gốc cói này, mà cây
cói ngày xưa cắt rồi lại lên mãi đến giờ. Ông đã chiến đấu 81 ngày đêm ở chiến
trường Quảng Trị nóng bỏng, trong giấc mơ bom đạn chập chờn vẫn thấy bạt ngàn
cánh đồng cói quê hương. Rồi ngày trở về, từ bỏ súng đạn, cởi áo lính để khoác
lên người tấm áo nông dân, ông lại miệt mài với cánh đồng này. “Cùng độ tuổi của
tui, người còn ra lấy gon được hiếm lắm. Dưới tôi chừng dăm tuổi còn có ông Dư
bên ruộng kia kìa, ông ấy cũng trở về từ chiến trường miền Nam, cũng là thương
binh, hoàn cảnh khó khăn hơn, sức khỏe yếu hơn và vẫn bám lấy cây cói mà sống”.
Theo tay ông Thùy chỉ, tôi gặp ông Dư. Ông Dư sinh năm 1954,
là thương binh 2/4. Con ông Dư là đời thứ 5 cũng đang làm cói trên cánh đồng
này. Cuộc sống còn nhiều vất vả, nên ông, dù đã yếu vẫn phải ra đồng. “Mà mùa
cói, không ra cũng nhớ. Tui quen bà tui cũng trên cánh đồng này. Cảm mến nhau
vì cái đức siêng năng, chăm chỉ mà nên đôi, nên lứa. Có thể nói, trừ quãng đi bộ
đội, thì cả cuộc đời tui, cuộc đời vợ tui đã diễn ra trên cánh đồng”
Tôi còn gặp ở đây những chị Hiếu, chị Duyên… rộn rã tiếng cười,
đẫm ướt giọt mồ hôi trên cánh đồng đầy nắng lóa. Nghề cói là thế, cần nắng. Có
biết bao nhiêu khó khăn nghề cói, cùng nỗi lo mai một, nhưng giây phút này đây,
tiếng máy chẻ, tiếng dao cứa vào từng lá cói xanh tươi, tiếng bước chân giẫm
lên từng thớ đất rậm cỏ, và tiếng đàn châu chấu nhảy rào rào sau khi bị đánh động
bởi bàn chân người khiến tôi cảm thấy tất cả như trong một điệu nhạc vui…
Những người nông dân Phong Thuận ra đồng từ lúc 4 giờ sáng,
trưa về nhà, chiều lại ra cho đến tận 7, 8 giờ tối. Bao nhiêu năm qua, họ đã
quen với cái mùi ngai ngái của đất bốc hơi khi nắng vừa lên, mùi của những giọt
sương tan ra trong bình minh, mùi của cỏ dại, của cói lúc đã cao ngang tầm với.
Và mùi của mùa màng, cái mùi mang đến niềm vui dìu dịu và một nỗi trìu mến khó
tả mà phải gắn bó lâu năm trên cánh đồng, người chủ nhân của chúng mới thực sự
cảm nhận được.
Khác với màu xanh bạt ngàn cói Hưng Hòa, thì trên cánh đồng
Khánh Sơn (Nam Đàn), lại ngập màu nâu vàng xao xác. Người đàn bà nhỏ thó thoăn
thoắt khiêng những bao tải ngô đặt lên cân dọc con đường nhỏ dẫn ra bến đò Vạn
Rú quệt mồ hôi nói với chúng tôi. Bà tên Tuyết, 60 tuổi, là dân ở Khánh
Sơn 2, vượt đò Vạn Rú sang cánh đồng Khánh Sơn 1 này bẻ ngô, phơi ngô thuê.
“Năm nay, chỉ có cỏ là xanh, còn ngô thì cháy”. Bà nói với bao nhiêu xót xa, rồi
chỉ cho tôi “ông chủ ngô”. “Ông chủ” Phạm Việt Xuân, năm nay 51 tuổi, bao năm tận
dụng đất bãi trồng vài mẫu ngô, nhưng năm nào cũng thấp thỏm. “Đất cát đã khó
trồng, mà năm nay hạn quá, ngô không thể ra bắp cho trọn”. Anh Xuân cũng cho
hay, “làm thì làm chứ xác định là lỗ. Phải thuê bà con bẻ tại ruộng, rồi bóc,
phơi luôn trên con đường nhỏ này, đóng bao, cân luôn. Phần lớn ruộng ngô năm
nay đành bỏ vì ngô không ra nổi hạt, thu hoạch được ít lắm”.
Trên cánh đồng rộng hút tầm mắt, nắng đã khiến cây ngô khô
giòn gãy gục. Thảng hoặc, có bóng một người đi mót trên những ruộng đã bỏ không
thu hoạch. Bà Tuyết nói, cả cuộc đời bà làm lụng trên đồng, hết việc nhà mình lại
kiếm việc đi làm thuê để trang trải cuộc sống. Nghề nông, với bà là nghề “cha
truyền con nối”, hết đời nọ sang đời kia, nên cánh đồng này bà thuộc từng ngách
cỏ, từng lối mòn. Bà đơn thân nuôi một cô con gái, “bán mặt cho đất, bán lưng cho
trời”, năm nào cũng trông cậy “ơn giời”. Thế nhưng, bà hay cả anh Xuân, bao năm
nhìn nắng hạn, nhìn mưa lụt vẫn tin “ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng” và
nhắc nhở nhau rằng: “chớ bỏ ruộng hoang”…
Giống như mọi người nông dân trên khắp các cánh đồng đất Việt,
người dân Khánh Sơn dành cho đất đai một tình yêu da diết. Họ không biết diễn tả
tình yêu đó bằng ngôn từ, nhưng tôi biết, nó ở ngay đây, trong trái tim họ,
trong ánh mắt xao xuyến niềm vui của họ khi được hỏi về nghề nông, trong nụ cười
hiền hậu rạng rỡ của họ ngay cả trong lúc đang lao động mệt nhọc nhất. Tình yêu
ấy thấm đẫm trong từng giọt mồ hôi nhỏ xuống cánh đồng, và những mùa vụ đã trôi
qua bấy lâu nay đều có thêm vị mặn nồng của mồ hôi và nước mắt. Tình yêu ấy đến
một cách tự nhiên như những cơn gió vốn đã thênh thang hiện hữu giữa cõi trời.
Trong sâu thẳm, nó là sự gắn bó một cách tự nhiên giữa người nông dân và công
việc của mình, cái công việc ngàn đời nay ông bà tổ tiên cha mẹ họ vẫn làm, vừa
là một cách để duy trì sự sống vừa như cuộc chơi mà họ dành cả đời đặt vào đấy,
một cách tự nguyện đến gần như nghiễm nhiên.
Như một nghệ sĩ yêu sân khấu của mình, người nông dân cũng
yêu cánh đồng bởi trong phần lớn cuộc đời đó chính là khoảng trời của họ. Mồ
hôi đổ xuống để những nhánh lá xanh tươi mọc lên, lung linh trong nắng.
Tôi vẫn luôn tin vào một thứ tình cảm mang tính chất gắn bó cội
rễ với tâm thức người Việt, đó là tình yêu đối với đồng ruộng. Dù bạn là ai, một
đứa trẻ sinh ra ở miền thôn quê hay trong đô thị phồn hoa, dù là người từ nhỏ
đã quen với cái tấp nập của phố phường hay những kẻ chân lấm tay bùn quanh năm
bán mặt cho đất. Một thứ tình yêu không đơn giản như yêu một nơi ta đã sinh ra
hay gắn bó lâu dài. Mà có lẽ là một tình yêu sẵn có, một tình yêu đã tồn tại
ngay cả trước khi con người sinh ra, nó vừa rất hiện thực lại vừa mang tính tâm
linh. Bởi trên quê hương hình chữ S, người ta đâu thể đếm hết được những cánh đồng.
Từ ngàn đời nay, người ta sinh sống và hít thở trong bầu không gian của chúng.
Và không chỉ sinh nhai, đến khi chết đi, người ta cũng nằm xuống cánh đồng, dưới
những nấm mồ xanh cỏ. Hết thế hệ này đến thế hệ khác, cánh đồng thực sự là máu
thịt của con người vì lẽ đó. Nó chính là nơi họ muốn quay về để vĩnh viễn nằm
xuống khi đã già. Là nơi những kẻ tha hương muốn quay đầu trở lại chỉ để đứng tần
ngần trong một chiều đầy ráng đỏ. Là nơi trong một thời điểm đau buồn hay thất
bại của cuộc đời, con người muốn được nhìn ngắm để vơi bớt nỗi lòng. Là nơi, cứ
mỗi dịp Tết đến hay thanh minh, giỗ tổ, người ta lại hẹn nhau quay về để thắp
nén nhang lên những nấm mồ và thầm thì gửi vào thiên thu những niềm thương nỗi
nhớ…
Và như thế, cánh đồng không chỉ là nơi làm việc của người
nông dân. Đó đôi khi là cả bầu trời của họ. Đó là mẹ. Là quá khứ, hiện tại và cả
tương lai của con người.Có lẽ vì thế, tôi yêu tha thiết những vần thơ viết về
nông dân của nhà thơ xứ Nghệ Nguyễn Sỹ Đại, và cũng luôn lấy nó để nhắc nhớ
mình:
Nội dung: Thùy Vinh
Ảnh: Trung Hà - Nguyễn Thành - Hoàng Tuấn
Thiết kế - Kỹ thuật: Hà Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét