Cung bậc của một dòng sông âm nhạc
Có những bài ca viết ra để đáp ứng mục đích thời sự hay tuyên
truyền, nhưng ở vào những thời điểm nhất định đã vượt lên công thức cổ động. Điều
đó phải nói tới yếu tố cảm xúc được cộng hưởng từ cảm hứng sử thi vẫn còn mạnh
sau thời gian dài chiến tranh, và vốn văn hóa đã có cơ sở lâu bền từ những nhạc
sĩ được đào tạo hay tiếp cận âm nhạc quốc tế từ trước…
Tình Yêu Trên Dòng Sông Quan Họ - Anh Thơ - YouTube
Ngay sau năm 1975, người ta chứng kiến những cuộc vận động lớn
thanh niên miền Nam tham gia các chương trình xây dựng quê hương sau chiến
tranh. Họ được gọi là “thế hệ thứ tư” khi nói đến các thế hệ cách mạng.
Công cuộc vận động này cần đến sự giúp sức của mặt trận truyền
thông, mà nổi bật và nhanh nhạy nhất chính là các phong trào ca khúc thanh
niên. Thừa hưởng một đời sống ca nhạc sôi động từ trước năm 1975, ở Sài Gòn và
các đô thị lớn đã có một lượng công chúng đông đảo có thói quen thưởng thức âm
nhạc. Lượng công chúng trẻ tuổi này cũng có nhu cầu có những ca khúc cho mình.
Và không ai khác chính là những nhạc sĩ từ phong trào học sinh, sinh viên trước
đây và những người sáng tác nổi lên kế cận các lứa nhạc sĩ từ chiến khu và từ Bắc
vào. Trong chuyến thăm TP Hồ Chí Minh vào năm 1979, nhà văn Gabriel Garcia
Marquez đã viết: “Trong bóng tối chạng vạng, thanh niên Sài Gòn tụ tập ở các quảng
trường - ăn mặc kiểu Mỹ, lắc lư theo nhịp nhạc rock, mơ về thời quá khứ đã ra
đi mãi mãi”. Những ca khúc cũ đã dần được thay thế bằng những ca khúc mới “những
ca khúc mang tính thời sự, sôi nổi, tươi vui, tràn đầy tinh thần lạc quan cách
mạng”, và được gắn với “tuổi trẻ đấu tranh, tuổi trẻ cách mạng trên thế giới”.
Em ở nông trường, em ra biên giới
Một trong những chương trình đầu tiên là vận động thanh niên
đi khai hoang, tham gia các đoàn quân thanh niên xung phong rời thành phố xây dựng
các nông, lâm trường. Đáng ngạc nhiên là trong mảng đề tài có vẻ khô khan này lại
xuất hiện nhiều ca khúc trữ tình mà đến giờ vẫn còn được yêu thích, thậm chí
làm nên tên tuổi của những nhạc sĩ mới và ca sĩ mới. Tình đất đỏ miền Đông (Trần
Long Ẩn), Như khúc tình ca (Nguyễn Ngọc Thiện), Tình ca mùa xuân, Giai điệu mùa
xuân (Tôn Thất Lập), Hoàng hôn màu lá (Thanh Tùng)… đọng lại vì chúng chuyên chở
một nội dung nhiều cảm xúc gần gũi với tâm lý quần chúng, có thấp thoáng những
nét trữ tình của tân nhạc những thập niên trước. Tìm ra được những cách kết hợp
tuyên truyền trong cái vỏ ca từ tương đối trau chuốt và giai điệu mượt mà, sôi
nổi, dễ hát, chúng có dáng vẻ khác với những ca khúc của các nhạc sĩ dòng nhạc
cách mạng miền Bắc – vốn nặng chất hàn lâm và đòi hỏi nhiều khuôn thức chặt chẽ
hơn.
- “Cây lúa non chờ từng cơn mưa nhỏ, cây lúa trổ chờ con nước
đổ trên nguồn… Ai đã qua rừng miền Đông đất đỏ, nghe máu đổ nhuộm hồng đã bao lần…”
(Tình đất đỏ miền Đông)
- “Tôi vẫn thấy em như ngày nào, dù nắng nông trường làm chiếc
áo bạc màu… Gió ơi gió nhờ gió mang theo, những yêu thương nồng cháy trong tôi,
đến bên em để ướp hương hoa, để cho tôi nghe một thoáng bối rối…” (Như khúc
tình ca)
- “Em đi lên biên giới hát ca hà ha ha… Anh băng qua con suối
hái hoa tặng em xuân này. Hương xuân bay trên tóc ngất ngây, tình xuân là đây…”
(Giai điệu mùa xuân)
Những bài ca này cũng vẫn giữ một công thức lãng mạn hóa đời
sống nhọc nhằn của đời sống lao động hay bom đạn, vốn đã thành quen thuộc ở
dòng ca khúc cách mạng thời chiến tranh. Sự đột phá không quá lớn, nhưng cách
diễn đạt đã tìm tới những thể loại ballad ngắn gọn, đơn giản. Những nhạc sĩ lớp
trước cũng có những cách viết đáp ứng thực tế mới như Trịnh Công Sơn với “Em ở
nông trường, em ra biên giới”, “Chiều trên quê hương tôi”, Phạm Trọng Cầu với
“Biển sáng” (viết chung với Trịnh Công Sơn)… Các nhạc sĩ từ chiến khu về cũng
có những bài hát nhắm tới lứa thanh niên mới như “Mùa xuân bên cửa sổ” (Xuân Hồng),
“Đường tàu mùa xuân” (Phạm Minh Tuấn)…
Tính biểu tượng của những ca khúc sớm xác lập, chẳng hạn vai
trò người phụ nữ trong cuộc xây dựng được tô đậm, thay thế những môtip người
thiếu nữ “từng gót chân trần, đi về giáo đường” hay nạn nhân của chiến tranh
“người con gái Việt Nam da vàng, mang trong tim giấc mơ quê hương lìa kiếp sống”
(Tuổi đá buồn và Người con gái Việt Nam da vàng - Trịnh Công Sơn). Nay họ là những
người dấn thân:
“Trên nông trường không xa lắm
Có đôi chân đi không ngại ngần
Em bây giờ quen mưa nắng
Gánh trên vai vấn vương bụi trần”
Có đôi chân đi không ngại ngần
Em bây giờ quen mưa nắng
Gánh trên vai vấn vương bụi trần”
(Em ở nông trường, em ra biên giới - Trịnh Công Sơn)
Gửi lại em phố vui qua từng chiều
Chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc dồn dập xảy ra để lại
trong không gian truyền thông những khắc ghi âm nhạc. Các ca khúc kế thừa không
khí sử thi vốn đã xuất hiện nhiều trong phong trào du ca học sinh - sinh viên
trước 1975 hay loạt ca khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn. Tuy nhiên, thế mạnh của
các nhạc sĩ miền Nam lúc này vẫn là ở góc độ trữ tình và mềm mại. Viết về cuộc
chiến tranh biên giới nhiều mất mát, nhưng Thế Hiển chọn những chi tiết “tiểu tự
sự” dễ đồng cảm trong người nghe trẻ tuổi như: “Về thăm thành phố, náo nức mùa
xuân, ba lô trên lưng mang theo nhánh lan rừng” (Nhánh lan rừng) hay: “Một ba
lô, cây súng trên vai, người chiến sĩ quen với gian lao” (Hát về anh). Người
nghe chứng kiến một hệ thống các bài hát tìm cách gài gắm các thông điệp chiến
đấu:
- “Đừng quên tôi nhé, ngày chia tay có hoa đẹp có nắng vàng.
Đừng quên tôi nhé, người tôi yêu, trái tim này mãi là của anh. Cánh hoa lưu ly
nhà ai, khẽ rung trong chiều nay, ôi tím ngát như lời ước hẹn…” (Cánh hoa lưu
ly - Diệp Minh Tuyền)
- “Gửi lại em giấc mơ bên giảng đường, gửi lại em lúa ngô
đang vào mùa….” (Gửi lại em - Vũ Hoàng)
- “Như hoa phong lan chờ đợi, mưa gió không phai tàn. Người về
nhụy hoa ngát hương, anh ơi em lại đón anh về…” (Ngày mai anh lên đường - Thanh
Trúc, lời Lê Giang)
Cặp bài trùng người chiến sĩ ra đi - người ở nhà chờ đợi đã rất
phổ biến trong tân nhạc và trong các cuộc kháng chiến trước đây, nhưng viết thế
nào ở một đất nước trên danh nghĩa đã có hòa bình nhưng vẫn còn những cuộc chiến
ở biên giới và ngay trong đời sống là một thách thức. Đây là lúc có những trăn
trở, băn khoăn tự vấn xuất hiện trong những bản chính ca. Một mặt khẳng định lại
các thành quả đã có, mặt khác có tác dụng động viên con người đi tiếp trong bối
cảnh đất nước khó khăn, “Bài ca không quên” của Phạm Minh Tuấn bước ra khỏi bộ
phim cùng tên năm 1981, trở thành một bản tuyên truyền bằng âm nhạc rất thành
công:
“Bài ca tôi không quên, tôi không quên những người đã ngả
Bài ca tôi không quên, tôi không quên giữ trọn đời cho tất cả
Là đồng đội tôi còn ôm súng giữ biên cương...”
Bài ca tôi không quên, tôi không quên giữ trọn đời cho tất cả
Là đồng đội tôi còn ôm súng giữ biên cương...”
Qua giọng ca Cẩm Vân, một giọng hát lớn lên sau ngày giải
phóng, “Bài ca không quên” có hiệu ứng to lớn khi nhấn mạnh: “Nhưng giờ đây, có
giây phút bình yên, sao tôi quên, bài ca tôi đã hát, với em yêu, với đồng đội,
với cả lòng mình. Tôi không thể nào quên…”. Nhà nghiên cứu âm nhạc người Mỹ
Jason Gibbs đã nhận xét:
“Bài hát dùng âm nhạc như một cách diễn tả ẩn dụ nhằm
tiếp tục cộng hưởng cảm xúc từ thời chiến, thông qua đóng góp của những người
đã chiến đấu và đã trải qua những mất mát. Nhưng những ca khúc này không dùng
nhịp quân hành để tái hiện những hi sinh của dân tộc, và thậm chí thể hiện sự
khó khăn gian khổ bằng những giai điệu hết sức xúc động về cả sự trang trọng lẫn
u buồn…”
Gần như lặp lại dòng chảy ca khúc cách mạng thời chiến, những
ca khúc chính trị thập niên 1980 đã làm một cuộc thay đổi nhiều ý nghĩa khi tìm
một hình thức khác với lối cổ động trực diện trước đây. Chúng gần với cảm xúc đời
thường hơn, và cũng vì thế có cơ hội ở lại với thời gian hơn.
Dòng sông hát cung bậc trầm
Miền Nam - nơi có tỉ lệ đô thị hóa cao hơn so với miền Bắc
vào thời điểm sau thống nhất, cũng là nơi còn dấu vết của một thị trường âm nhạc.
Tình thế này khiến cho các sáng tác theo chủ đề chính trị dễ bị lạc tông và
không có sự đón nhận thực sự. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đã rất nhiều ca khúc
về chủ đề xây dựng quê hương mới, lao động sản xuất hay công nghiệp có được sức
lan tỏa và thật sự có giá trị nghệ thuật. Trong những bài ca mới này lấp lánh một
phong thái pha trộn vẻ diễm lệ của thị thành với sự phóng khoáng của đồng nội,
của biển khơi:
- “Em có nghe dòng sông hát cung bậc trầm, lòng anh say đắm.
Con nước mang phù sa, vẫn xuôi thành dòng, bồi đắp bến bờ…” (Tình yêu con tàu
và dòng sông – Nguyễn Đức Trung)
- “Em ơi, con sông dòng suối tuy chưa hề nói có chung cội nguồn.
Em ơi, khi ta nhìn nhau, yêu thương tràn về thác đổ…” (Mùa xuân tình yêu - Từ
Huy)
- “Này chú chim ơi cho nhắn gửi, lời hát tình yêu trong trái
tim mọi người. Cuộc sống hôm nay tuy vất vả, nhưng cuộc đời ơi ta mến thương…”
(Ơi cuộc sống mến thương - Nguyễn Ngọc Thiện)
- “Dòng điện âm vang từ ngàn khối óc, dòng điện mê say gọi
ngày tương lai, dòng điện bao la gọi đời bay xa” (Trị An âm vang mùa xuân - Tôn
Thất Lập)
Cả những nhạc sĩ lớp trước như Xuân Hồng, Phạm Minh Tuấn,
Hoàng Hiệp… cũng chia sẻ không gian âm nhạc kiểu mới này, như những bài hát Mùa
xuân bên cửa sổ, Cây đàn ghi ta của đại đội ba, Thành phố tình yêu và nỗi nhớ,
Mùa xuân đến từ những giếng dầu, Đồng đội, Nơi gặp gỡ của tình yêu… Những nhạc
sĩ vốn quen thuộc không gian miền Bắc cũng tìm thấy thế mạnh ở miền đất mới như
Trần Tiến với Mùa xuân gọi, Điệp khúc tình yêu, Tùy hứng lý qua cầu; Nguyễn Cường
với những bài “rock rừng”; Vũ Thanh với Chiều bên hồ cao nguyên, Vũng Tàu biển
hát; Hoàng Vân với Tình ca Vũng Tàu, Trời Tây Nguyên xanh; Vũ Thiết với Nghe
câu quan họ trên cao nguyên…
Có những bài ca viết ra để đáp ứng mục đích thời sự, nhưng ở
vào những thời điểm nhất định, có những sự vượt lên công thức của cổ động. Điều
đó phải nói tới yếu tố cảm xúc được cộng hưởng từ cảm hứng sử thi vẫn còn mạnh
sau thời gian dài chiến tranh, và vốn văn hóa đã có cơ sở lâu bền từ những nhạc
sĩ được đào tạo hay tiếp cận vốn âm nhạc quốc tế từ trước. Tâm hồn con người mới,
không gian mới và tư duy mới đã dựng cho chúng một tư thế mới…
29/4/2017
Trúc Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét