NƯỚC VỐI CẦU TIÊN
Người kể câu chuyện huyền thoại thứ năm bắt đầu bằng mấy câu khiến cho tất cả người ngồi nghe đều bực.
Đó là Kiếm, một ký giả chừng ba mươi ba, ba mươi tư, đã hoạt động tích cực chống Pháp, đả Nhật từ lúc kháng chiến còn ở trong bóng tối và anh đã có tiếng là một người có công với văn học vùng giải phóng ngay từ thời đó. Sau một thời gian Nhật bắt rồi trốn được, anh xung vào bộ đội đi đánh nhiều trận. Đến trận Đầm Muống, anh bị thương mất một vành tai và bị mổ vì có nhiều miếng đạn xiên vào lưng và bụng. Khỏi, anh khiêm tốn và bình dị xin trở lại mặt trận, nhưng anh em khuyên anh nên trở lại đời văn công vì những bài báo, bài thơ anh viết không những là một sự thách thức thực dân, vẽ ra bức tranh chân thật về xã hội mục nát do thực dân và đế quốc câu kết dựng lên lúc bấy giờ, mà còn đem lại cho các anh em ở sơn cùng thủy tận, ở miền Nam xa xôi, những hy vọng sáng sủa về tiền đồ cách mạng.
Trong cuộc hành trình này, Kiếm không có một chức vị gì rõ rệt, nhưng anh em có cảm giác Kiếm phụ trách công việc thu thập tài liệu để sáng tác, đồng thời giúp đỡ cho các đồng chí cán bộ trong chiến dịch nâng cao văn hóa và tìm hiểu mong ước của họ để xây dựng một nền đạo đức cán bộ hoàn chỉnh hơn.
Anh Kiếm nói:
- Câu chuyện tôi sắp kể đây là một chuyện huyền thoại có thực.
Mọi người cười vẻ chế nhạo:
- Đùa dai quá. Đã là huyền thoại mà lại là chuyện có thực! Thôi đi, đừng có đề tựa dằng dai làm gì. Cứ nói thẳng vào chuyện cho anh em nghe, chứ nghe tựa mất thì giờ nhiều quá.
- Vẫn biết thế, nhưng dù các anh em muốn vậy tôi cũng cứ phải phân trần đôi câu: nói đến huyền thoại tức là nói đến vai trò của yếu tố tưởng tượng. Yếu tố tưởng tượng đó vừa là vấn đề hình thức nghệ thuật, vừa là vấn đề nội dung của huyền thoại. Trong huyền thoại nào cũng có phần hoang đường quái đản và cũng có cả phần lãng mạn tức là “mong sẽ xảy ra như thế”. Nguyên tắc như vậy, kể chuyện huyền thoại không thể coi là kể chuyện hoang đường quái đản để mị dân, mà phải nghĩ rằng kể chuyện huyền thoại tức là kể cho nhau nghe những chuyện đầy hình tượng đẹp Việt Nam, những chuyện mà chúng ta không có quyền không biết, vì chuyện huyền thoại đã được các nhà sử học dành cho một niềm tin cậy xứng đáng bởi trong các chuyện ấy chan chứa những nhận xét, những tiếng nói của nhân dân về một sự kiện lịch sử, về sự hình thành người, vật, hoa lá, đồi núi trên đời và cả về một số hoạt động của những nhân vật lịch sử đáng cho chúng ta theo gương học tập.
“Vậy là vấn đề hoang đường, quái đản của huyền thoại không đáng làm cho chúng ta bận tâm, nhưng trước khi kể câu chuyện “Nước vối Cầu Tiên”, tôi phải nói trước: trong chuyện huyền thoại đó, có tôi là nhân chứng.
Một người tự nhiên cười hô hố:
- Anh Kiếm là nhân chứng chuyện huyền thoại anh sắp kể? Trời ơi là trời, nói giỡn cái gì cũng được, nhưng đừng giỡn đến như thế thì hơi quá đấy!
- Không quá tí nào. Các anh chị nghe sẽ thấy. Nhưng tôi phải nói trước, trong đời sống đấu tranh, đã đành ta có bổn phận không nói những chuyện gì không có tính cách “hai năm rõ mười”, ta phải loại trừ những gì có tính cách “phản khoa học”, “phản tiến bộ”, nhưng các anh các chị phải chấp nhận cho tôi, nhân lúc hợp nhau trò chuyện giải trí như lúc này, được tự do kể một câu chuyện huyền thoại có thực hoàn toàn - và các anh chị phải hứa là không chê trách người kể nếu anh chị xét ra là vô lý, tuy là có thực - có thực hoàn toàn như tôi đã nói ở trên kia.
Hai ba người vò đầu:
- Trời! Sao mà nói dài dòng thế? Đây là anh em họp giải trí, chứ không nhằm tuyên truyền, sách động tinh thần ai… Anh thích cái gì, cứ nói: quái đản, huyền bí cách gì cũng được, mà càng phản khoa học thì càng thú, chứ sao. Thôi, xong rồi, kể đi.
Kiếm hắng giọng, kéo thêm mấy hơi thuốc sâu kèn rồi thong thả bắt đầu câu chuyện “Nước vối Cầu Tiên”.
Tôi không nhớ rõ lúc ấy là vào năm nào nhưng biết chắc là vào thời kỳ Nhật đổ bộ lên Đông Dương và ăn gỏi người Pháp trong một đêm ngắn ngủi. Pháp hàng liền không ho he, song các phần tử yêu nước Việt Nam thì hăng hái chiến đấu chống Nhật đồng thời diệt Pháp thực dân sợ sệt. Trong khi ấy thì Đồng minh, nói cho thực, không làm được gì ngoài việc trông cậy hết cả vào kháng chiến Việt Nam đánh Nhật, trừ việc đưa tàu bay đến ném các căn cứ quân sự Nhật. Nói thế mà thôi, chứ họ ném vớ vẩn, ném tào lao, ném lếu láo, chứ có phải lúc nào cũng nhắm được các căn cứ của Nhật đâu. Chứng cứ lúc bấy giờ tôi ở Hàng Da Thầy Bói, một mặt đường trông sang Nhà Thương Phủ Doãn còn một mặt trông ra nhà chiếu bóng “Địa Đàng” và chợ, bói hàng cây số không ra cơ quan nào có Nhật, thậm chí đến một tư gia Nhật cũng không, ấy thế mà họ cứ bắn như điên và ném bom xả láng làm cho bao nhiêu nhà thường dân tan nát.
Vì thấy Đồng minh ném vô trách nhiệm như thế, ném một cách vô lương tâm như thế, vợ chồng tôi bèn mua một căn nhà nhỏ ở Cầu Tiên dùng làm chỗ tránh bom rơi đạn lạc của Anh và Mỹ ném xuống Việt Nam. Nhà ở ngay mặt đường Quốc lộ số I, trước mặt là đầm Linh Đường nổi tiếng nhiều sen, lắm cá. Những người chạy loạn đều đi qua đó trước khi đến Bằng Vồi. Thỉnh thoảng, có những bạn bè quen thuộc tạt vào nhà chơi, uống một chén chè vối, ăn một bữa cơm rau dưới mấy gốc bưởi, gốc nhãn ở ngoài vườn, trò chuyện với vợ chồng chúng tôi thú lắm.
Cầu Tiên ở cách Hà Nội chừng mười cây số. Đường sá phẳng lì, xe đi nhiều lắm, mất độ một tiếng là cùng. Hôm nào nghe có vẻ yên yên, vợ chồng lên phố ngó vào căn nhà mình cửa đóng then cài xem có gì lạ không, đến chiều lại trở về Cầu Tiên với lũ con sống quây quần ở đó, không được bén mảng về Hà Nội.
Riêng tôi có chiều tôi không về Cầu Tiên. Lúc ấy, đất nước tiêu điều xơ xác vì chiến tranh, ở chung quang Hà Nội đã có nhiều làng mạc bắt đầu chết đói: ai còn bụng dạ nào mà nghĩ đến chơi bời chè rượu. Những đêm phải ở lại Hà Nội không về đều bắt nguồn từ việc phải lo vấn đề sinh sống. Lo bom đạn, lo sinh kế, lo Nhật khủng bố, đàn áp những người nổi lên chống chúng và cả những người không có tội tình gì: ngần ấy thứ đủ chết rồi, ấy thế mà ông con và mẹ nó lại giở quẻ không để cho mình yên, quả quyết bảo rằng cái nhà mình ở Cầu Tiên “dữ” lắm, không thể nào chịu được.
Thâm tâm tôi tính toán thế này: Hà Nội dưới ách Nhật chẳng vui gì cả, ăn Tết làm quái gì cho thêm buồn (bởi vì lúc đó gần đến Tết).
Tôi bàn với vợ, hai mươi chín, ba mươi thì về ở hẳn Cầu Tiên, kho một nồi cá, muối một vại dưa hành, mua ít đồ nấu xì xằng gì cúng kiếng gia tiên, quây quần lại với nhau ăn uống rồi rút bất, đánh tam cúc với nhau cho nó xong ba ngày Tết nhất đi. Chương trình dự liệu nghe được, ấy thế mà vào khoảng rằm tháng Chạp thì xảy ra chuyện căn nhà ở Cầu Tiên “dữ” lắm.
Chịu! Mẹ con nhà nó quả quyết như thế, tôi còn biết nói lại làm sao cho được.
Thoạt đầu, tôi cũng tưởng là chuyện mơ ngủ, nói xong rồi bỏ đấy. Nào ai có ngờ đâu suốt cả một mùa đông năm ấy, thằng Lăng cứ vài ngày lại đem chuyện ấy ra đề cập. Tôi cố trấn an tinh thần của con trai. Nhưng qua tiết đông chí thì không còn cách gì khả dĩ cứu vãn được tình thế nữa: nhất định mẹ con nó không ăn Tết ở Cầu Tiên. Mà không ăn Tết ở Cầu Tiên là cả một vấn đề đối với tôi, bởi vì lúc ấy Đồng minh ném bom ở Hà Nội mỗi ngày một dữ hơn; về ăn Tết ở căn nhà trên phố, nói dại xảy ra chuyện gì thì chạy làm sao cho kịp. Lại nữa, khu vực Hàng Da tôi ở đã bị các phi công mù ném lung tung, bậy bạ một lần rồi, rất có thể họ bị choáng mắt trở lại oanh tạc nữa.
Mới nghe thấy mẹ con nó nhắc lại, tôi cười không trả lời. Nhưng hai lần, ba lần, rồi bốn, năm lần thấy vợ con nói sa sả vào tai, tôi cũng đâm bán tín bán nghi, nhưng vì có bổn phận phải giữ vững tinh thần cho cả gia đình, tôi phải làm bộ anh hùng và bảo:
- Trời đất này mà còn nói chuyện đất lành đất dữ! Sao mà “quê” thế?
- Ờ, cậu không tin, đêm nào thức mà xem.
Tôi thức hai ba đêm liền, không thấy có gì khác lạ. Nhưng mẹ con thằng Lăng quả quyết như đinh đóng cột là có nhiều đêm đã trông thấy rõ ràng ở cái chuôm sau nhà có những người đàn ông, già có, trẻ có, trông như các bậc văn nhân thời trước, từ dưới nước đi lên bờ cỏ, ngửng mặt lên trời làm thơ rồi ngâm vang trong đêm tối, tiếng ngâm lanh lảnh vọng sang tận căn gác mẹ con thằng Lăng nằm ngủ.
Tò mò, mẹ con nó he hé cửa sổ ở trên gác nhìn ra đêm tối thì thấy suốt cả một cái chuôm rộng ở sau nhà tưng bừng một cách kỳ lạ ở dưới ánh trăng xanh - mà lúc ấy lại chính là giữa mùa đông, đêm nào cũng có gió bấc mưa phùn.
Sợ lầm, mẹ nó đưa tay qua cửa sổ xem sao thì quả là lúc ấy, ở vườn hoa nhà tôi, đương có mưa phùn rả rích! Tại sao chỉ có riêng cái khoảnh đất ấy có ánh trăng mờ mờ? Không hiểu. Mẹ nó sợ, đóng cửa lại, nhưng con trẻ tò mò chưa chịu ngủ, lại he hé cánh cửa sổ ra nhìn thì bấy giờ thấy một sự việc còn kỳ bí hơn thế nữa: có những văn nhân quấn khăn lượt trên đầu có búi tóc, mặc áo vàng, đỏ, xanh, nâu, viết những cái gì không biết vào những mảnh hoa tiên rồi treo lên các cành cây, đoạn rủ nhau vào một quán nước ở gần đó, tay phe phẩy quạt.
Rồi một người trong bọn họ đứng dậy đi ra dưới một gốc lão mai, lấy ở trên lưng ngựa một túi gấm da đồng, thong dong đi lại phía chuôm, mở ra lấy một cái chai, rồi nằm xuống bờ cỏ múc đầy nước vào trong chai, giơ lên ánh trăng cười lặng lẽ. Thế thì nước chuôm ấy là nước gì mà chàng văn nhân nọ giữ gìn đến thế? Nước thánh để chữa bệnh hiểm nghèo? Là nước suối Ôn Tuyền để uống cho mát ruột sau những đêm thức để ngâm thơ, vịnh phú?
Nghe thấy vợ con nói mãi như thế, tôi đâm ra nghi ngờ cái óc tưởng là khoa học của tôi (xin các anh chị tha thứ vì chuyện nhắc lại đây là một chuyện mà tôi nói ra với tất cả lòng thành thực để xả hơi). Tôi không biết đối phó ra thế nào. Ờ thì muốn ăn Tết ở căn nhà phố Hàng Da cũng được, nhưng dù sao cũng phải biết những văn nhân, nho sĩ đi đi lại lại ở cái chuôm sau nhà mình là ai đã chứ? Họ muốn gì? Họ chơi cái trò gì vậy? Và cứ ở luôn cái nhà chúng tôi đương ở lúc đó thì có đụng chạm gì đến các vị ấy không?
Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không hiểu tại sao trong đời sống lại có thể có những sự việc lạ lùng đến thế, khiến cho mình cố không tin những chuyện dị đoan mà lắm lúc cảm thấy không tin không được.
Để dàn hòa với chính mình mà cũng là để dứt khoát về vấn đề đất lành, đất dữ với vợ con, tối hăm ba tháng Chạp năm đó, tôi đề nghị cầu cơ để xem các thầy cử, thầy tú, các nho sĩ văn nhân hiện lên ở cái chuôm sau nhà là những người gì, là ma hay quỷ, là thánh hay thần mà có ý định đòi hỏi gì người mới đến ở hay không.
Từ trước tôi vẫn nghe thấy nói đến cầu cơ, nhưng chưa bao giờ thí nghiệm. Lần này, nhân năm hết Tết đến, không có công việc gì bận rộn, tôi muốn thử xem sao. Tôi nhớ dường như lúc đó đã hai giờ sáng. Tất cả làng Pháp Vân ở Cầu Tiên im lặng. Bên ngoài chỉ nghe thấy tiếng mưa rơi rầu rĩ trên giàn hoa đậu. Vợ chồng và con trai thắp một ngọn nến lên ở trên căn gác lạnh, ngồi chung quanh một cái bàn tròn nhỏ. Lăng đã trải sẵn một cái khăn bàn có viết hai mươi bốn chữ cái bằng phấn xanh. Con gái tôi để sẵn một tập giấy và cây bút để ghi. Giữa bàn, đặt một miếng cây nhỏ. Mỗi người chúng tôi đặt một ngón tay lên miếng cây đó, cùng lẩm nhẩm cầu xin các vị ứng quẻ, phá ngu trừ mê, giúp chúng tôi là bọn người trần mắt thịt được biết đường ngay mà đi, đường tà mà tránh.
Đến đây, xin nhấn mạnh một điều, tôi không bao giờ ngu muội để đến cái độ đi tuyên truyền cho bất cứ cái gì phản khoa học, phản tiến bộ, nhưng tôi đã thấy và thấy như thế thật, bắt tôi không được nói ra, tức không thể nào chịu nổi.
Vì thế, tôi cứ nói. Cảm giác của tôi chừng hai mươi phút sau khi đặt một ngón tay lên miếng cây hình tròn để giữa bàn là một cảm giác tôi chưa từng thấy bao giờ. Đầu ngón tay tê tê một chút, óc tôi chơi vơi như một người không quen đi sóng nước mà phải ngồi một ngày thuyền để vượt trường giang, còn mắt thì có vẻ mờ đi một chút và dường như có những tia sáng màu sắc cầu vồng lóe lên rồi tắt đi rồi lóe lên. Tôi cố cưỡng, nhắm lại.
Hư hư, thực thực, tôi nghe thấy tiếng vợ tôi nói một cách bé bỏng, như van xin, như lạy lục: “Vị nào về ứng quẻ này đấy? Xin chỉ bảo cho chúng tôi được biết. Xin phá ngu trừ mê cho chúng tôi. Xin chỉ dạy cho chúng tôi là lũ người trần mắt thịt để chúng tôi sửa lễ cúng các ngài”.
Trong khi ấy, tôi cảm thấy như có ai đẩy ngón tay tôi đi. Tôi cố giữ lại không được.
Uất thật! Tôi mở mắt xem sao. Ngón tay của vợ và con tôi cũng động đậy và đẩy miếng gỗ vào những mẫu tự viết bằng phấn trên cái khăn trải bàn.
Vụ cầu cơ kéo dài mãi tới lúc trời mờ mờ sáng. Tôi cầm lấy tờ giấy ghi chép những mẫu tự mà cái cơ đã chỉ do con gái tôi ghi lại thì thấy đại khái như thế này: Người ứng quẻ hôm đó là một thiếu nữ tên Hậu Tú. Ở đâu? Tại sao mà lại hiện về được ở đây? Có biết những văn nhân mặc áo xanh đỏ ở cái chuôm gần nhà chúng tôi không? Chúng tôi có làm phiền gì đến các vị ấy không?
Người thiếu nữ tự nhận là Hậu Tú cho biết nàng là người mở quán bán nước vối ở Cầu Tiên, ngày xưa, bị một ông quan cậy thế cậy thần bắt đem đi, nhưng nàng giữ được vẹn toàn danh tiết. Những tao nhân mặc khách hiện lên ở bờ chuôm không hề có ý hại ai, mà cũng chẳng muốn làm phiền người ở đó xuân thu cúng lễ, chẳng qua là thương tiếc một người bạn gái ngày xưa bị chết oan vì tay một viên chức nhà nước đại gian đại ác vào một đêm gần Tết, nên họ đến đây để tưởng niệm người xưa và cũng là để nhớ lại một quãng thời gian thần thoại mà người ta không giết chóc lẫn nhau bằng bom đạn, chỉ biết ngâm thơ vịnh phú như những thần tiên nho nhỏ. Những người như thế không làm hại ai bao giờ.
Tôi không biết tin dị đoan thì tai hại ra sao, riêng tôi thấy trong vụ này tất cả gia đình tôi đều vững lòng sau vụ cầu cơ đêm hai mươi ba tháng Chạp năm tao loạn đó.
Nói cho thật đúng, tôi không tin gì hết, nhưng thấy cơ lên nói một cách có lợi về phía mình, tôi cứ nhất định là cái hồn ứng vào quẻ cơ đó rất linh, và bảo vợ con:
- Thôi thế là mình yên tâm. Cơ bảo các vị hiện lên ở cái chuôm sau nhà mình là hiền sĩ tao nhân, không hề có ý hại ai hay gây buồn phiền cho ai. Mình cứ ở, mình cứ ăn Tết, không lo âu gì hết. Hơn thế, có khi các vị lại còn phù hộ cho mình cũng nên.
Thâm tâm tôi không hề có ý định đẩy vợ đẩy con vào vòng mê tín; nhưng quả lúc nào tôi cũng nghĩ rằng người ta cần phải tin tưởng một cái gì hoặc thần bí hoặc cao cả, cần phải kính Phật, sợ Trời, cần phải thương yêu cả người sống lẫn người chết và tôn trọng đời sống của người khác, kể từ con muông con thú kể đi.
Thế là êm. Năm ấy, chúng tôi ăn một cái Tết thanh đạm nhưng vui vẻ ở căn nhà cỏ ở Cầu Tiên. Thế rồi là những ngày Nhật bước khỏi Đông Dương. Việt Nam giành lại chủ quyền được ít lâu thì Pháp quay lại gây loạn ly tang tóc.
Cũng như tất cả những người biết suy nghĩ, chúng tôi bỏ Hà Nội chạy về ở Cầu Tiên, trong căn nhà cũ có một hồi đóng cửa bỏ vườn, bỏ sân hoang phế.
Cho rằng chuyến này sẽ ở lâu, tôi dọn dẹp vườn tược cho sạch sẽ hơn một chút, treo ở trước cửa nhà một cái biển gỗ nhỏ đề ba chữ Nho “Vạn Lý Trình”. Ở giữa hai cây cột nhà trông xuống sân, có dán một đôi câu đối không lạc khoản:
Bổ thiên vô lực, đàm thiên dị,
Tế thế phi tài, tị thế nan. ([1])
Một hôm, có một cụ già râu tóc bạc phơ chạy loạn qua đó, dừng bước nhìn vào nhà tôi, ngắm lại gốc tùng la hán và cặp tiễn xuân la cổ thụ chưng ở ngoài vườn. Thấy người mến cảnh, tôi mời cụ vào chơi xơi một chén nước trà. Xong một tuần, cụ đứng dậy xem bộ tứ bình treo ở chỗ ngồi chơi rồi đọc đi đọc lại đôi câu đối và mấy bài thơ treo trên tường:
- Hay. Nhưng mà…
Cụ già không nói hết, bắt sang chuyện khác.
Cụ nói:
- Vậy ra thầy là nhà văn… Tôi cũng có một người con trai làm văn, viết báo. Có lẽ thầy cũng biết. Bút hiệu nó là Tảo Trang.
Thì ra ông cụ này là thân phụ một người bạn cùng làm mấy tờ báo với tôi. Cụ ở Thanh Hóa ra chơi Hà Nội, không may gặp biến cố ở thủ đô, phải chạy tạm lánh về Bằng Vồi, tại nhà một người bà con. May quá, không ngờ lại gặp người quen biết. Cụ coi tôi như là con cái trong nhà.
- Thưa cụ, khi nãy khi xem câu đối cụ bảo là hay, nhưng sau đó lại có nói “nhưng mà…”. Bây giờ đã được coi là hàng con cháu, có thể mạn phép xin cụ nói tiếp câu nói nửa chừng đó không?
- Thầy đã hỏi, tôi xin nói. Câu đối này hay thật, nhưng mạn phép thầy, tôi thấy có ngụ một ý ngông - nếu không muốn nói là hơi bắc bậc làm cao một chút. Ở một nơi khác, tôi nghĩ cũng chẳng làm sao; nhưng ở đây, ở cái đất Cầu Tiên này có tiếng là lắm người hay chữ… mà dám dán giữa nhà một đôi câu đối như thế… nếu ở địa vị tôi thì tôi không làm!
Đây là lần đầu tiên từ khi trở về Cầu Tiên, tôi nghe thấy một người nói thế.
Tôi hỏi cụ:
- Bẩm, đất Cầu Tiên này cũng là đất văn học hay sao?
- Ồ, thế ra thầy không rõ đấy nhỉ! Tôi nhớ có vài lần đã kể chuyện này cho Tảo Trang nghe. Nó không nói với thầy?
“Vâng, thầy ạ, đất này có một thời đã nổi tiếng là nơi hội họp của nhiều danh sĩ thủ đô. Tôi nhớ cha tôi khi trước có bảo tôi là các cụ ngày xưa đã ghi chép giai thoại văn chương đó trong nhiều sách vở, nhưng lâu ngày, mất mát đi, tuy nhiên tình tiết câu chuyện tôi còn nhớ.
Ngày trước, dưới thời vua Lê Thánh Tôn, thiên hạ sống trong cảnh an lạc như vẫn tả trong các truyện thần kỳ: trời trong và đẹp, trẻ con hát đồng dao ngoài đường, còn các văn nhân thi sĩ thì đi tha thẩn trên những vùng cỏ thơm uống rượu, ngâm thơ họa lại những vần của các thi thánh trong hội Tao Đàn mới thành lập ở Đế Kinh. Vào khoảng đầu niên hiệu Hồng Đức, một hôm giao mùa có một nàng con gái đẹp như mây trời, da trắng như san hô, có cặp mắt biêng biếc sầu như núi đồi mùa thu, theo con lộ Thiên Trường về làng Pháp Vân, xin với chức sắc cho một miếng đất nhỏ trông sang đầm Linh Đường để mở một quán nước bán cho khách qua đường.
Chỗ cái quán mà cô mướn người dựng lên không cách xa đây mấy chút, bây giờ người ta kêu là Chuôm Cô Tú, nhưng lúc đó thì là một bãi cỏ thơm có liễu rủ và nhiều gốc mai già, hàng ngày dập dìu mặc khách tao nhân đến để xướng họa với nhau và uống nước chè của cô gái mỹ miều, nền nếp, có một sức quyến rũ lạ lùng, kỳ ảo.
Sức quyến rũ đó phát sinh từ cô hàng bán nước đã khéo ăn nói mà lại có một cái vốn chữ Nho kha khá, tạm đủ dùng để thưởng thức những vần hay ý đẹp của các thi sĩ văn nhân? Từ vẻ đẹp não nùng của cô? Hay sức quyến rũ đó bắt nguồn từ cái cười đậm đà và đuôi con mắt đẹp có lúc như là lẳng lơ mà có khi lại nghiêm nghị làm cho người đàn ông nào cũng e dè không dám thốt ra những lời chọc ghẹo?
Cô Tú - bởi vì không ai được biết tên thật cô ta là gì, chỉ thấy dân làng ở đó gọi là cô Tú thì người ta cứ thế mà gọi theo - rất có thể hấp dẫn các văn nhân về ba điểm đó, nhưng sau này có người ngồi suy nghĩ, quả quyết rằng sức quyến rũ của cô Tú còn nằm ở trong một điểm khác kỳ bí hơn: họ đến hàng cô đông đảo mỗi ngày là vì nước vối cô nấu có một hương vị khác thường, chè và nụ vối của bất kỳ hàng quán nào khác không có cách gì sánh được với nước vối của cô Tú rót bằng cái gáo dừa sang bát đàn trắng màu ngà voi, quái! Sao trông cứ vàng ong óng như là hổ phách, chưa bưng lên nhắp đã thấy thơm phưng phức rồi, mà uống xong, cứ cầm cái bát ở tay, sao hương thơm của vối cứ thoang thoảng, cứ chơi vơi mãi như thể không bao giờ hết?
Nhưng bao nhiêu cái đó, thực ra, chưa lạ.
Lạ là nước vối của cô Tú, không hiểu do một sức huyền bí thiêng liêng nào, hình như lại giúp cho các tao nhân mặc khách có nhiều tứ để làm thơ, vịnh phú.
Nhiều người quả quyết hôm nào không uống nước vối của cô Tú thì trông vào gương thấy mặt mũi mình xấu xí hẳn đi, còn nói gì đến thơ văn chữ nghĩa, không những đã không hay mà có nhiều khi mạch văn lại nghèo nàn, khô cạn.
Do đó, tất cả những người uống nước của cô Tú đều ghiền, không có không chịu được. Quán nước vối của cô lần lần thành ra một nơi hội họp đẹp như một hội quần tiên, vì thế về sau này người ta gọi là Quán Tiên hay Cầu Tiên - vì ở gần quán có một cái cầu tre bắc ngang một cái lạch, hai bên trồng toàn thanh liễu.
Đẹp đến như thế rồi, các văn nhân thi sĩ vẫn còn cho là chưa đủ: họ làm không biết bao nhiêu là câu đối, họ vịnh không biết bao nhiêu bài tứ tuyệt, bát cú, thất ngôn cổ phong, hát nói, liên ngâm ca ngợi… Có nhiều câu được truyền tụng đến bây giờ và cũng có nhiều câu khác đã thành tục ngữ, như: “Chè Quán Tiên, tiền Thanh Nghệ”, “Nước vối Cầu Tiên, bánh dầy Quán Gánh” hay “Đi thời nhớ cháo làng Ghề, nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Cầu Tiên”.
Tiếng đồn cô Tú là người đẹp trời sai xuống để an ủi các văn nhân, thi sĩ cùng với nước vối của cô là sản phẩm hi hữu ở thế gian đồn vào tận Đế Kinh.
Có một ông quan, không quản ngàn dặm xa xôi, quyết tìm đến Cầu Tiên để uống nước vối của cô Tú thần tiên. Hình như ông quan này là một ông quan võ không có chất gì là văn nghệ trong đầu, gặp gió phất cờ, chó nhảy lên ngồi bàn độc, tha hồ dựa quyền ỷ thế thỏa mãn vật chất thô lậu mà bẩm sinh lại chỉ nuôi cái óc cướp bóc và chiếm đoạt của người, nên vừa uống được mấy tuần chè vối thì ngây ngất say mê liền rồi nảy ra một ý tưởng đê hèn. Ông tự nhủ phải lấy cô Tú làm thiếp cho kỳ được.
Nhưng mối manh đi lại cả một tuần trăng chẳng tiến tới đâu, ông giận quá, sai hai tên gia nô lang sói bôi nhọ mặt, giữa một đêm tối trời cuối Chạp, bắt cô Tú cho vào một bao tải mang đi. Ý là để kịp đưa cô hỏa tốc về Đế Kinh để hưởng một cái Tết Nguyên đán thơm tho bên cạnh người đẹp mà tất cả văn nhân, thi sĩ Bắc Hà đều thèm khát, nhưng vì kính nể, không hề dám hở môi trao tình.
Trò đời vẫn thế: cái gì quý vẫn làm cho quân trộm cướp, kẻ tham tàn háo hức manh tâm chiếm đoạt. Nhưng tên quan võ đại gian đại ác cùng với lũ gia nô của nó đã thất vọng sâu cay: người đẹp có đôi ba chữ thánh hiền cũng như các thi sĩ, văn nhân có đầu óc, không bao giờ sợ uy vũ và không bao giờ chịu thất thân cho quyền thế độc tài…
Chạy ra được đến cây cầu tre, tức là chỗ bây giờ kêu là “Chuôm Cô Tú” hoặc là “Chuôm Hậu Tú” - vì sau này người ta biết tên thật của cô là Hậu Tú - hai tên gia nô mở bao tải ra định đẩy cô lên một cái cáng đã chờ sẵn đó thì ô hay, cô Hậu Tú đã biến đi đâu mất rồi…
Nghe cụ già nói đến đây, tôi tự nhiên cảm thấy có cái gì váng vất bất thường:
- Thưa cụ, cô gái bán nước vối ở Quán Tiên tên thật là gì?
- Hậu Tú… Hậu Tú, thầy ạ.
Một cái gì lạ lắm, lạnh lắm, tự nhiên chuyển động trong tôi.
Tôi rùng mình và cảm thấy rờn rợn y như thể ta bước vào một thế giới hoang vu có rất nhiều bí mật đang chờ đợi.
Ấy là tôi sực nhớ lại hình như đã nghe thấy hai chữ “Hậu Tú” ở đâu. Thôi rồi, không thể lầm được nữa. Vụ cầu cơ đêm hai mươi ba Tết gần đây từ từ diễn lại trước mắt tôi như một cuốn phim quay chậm: Hậu Tú, há chẳng là cái hồn linh đã hiện về để báo cho vợ chồng, con cái tôi biết là sinh thời nàng đã bị một ông quan cậy thế cậy thần bắt đem đi, mà những tao nhân mặc khách hiện lên ở bên bờ chuôm không có ý hại ai, nhưng đến đó để tưởng niệm cô hàng nước vối, đồng thời nhớ lại một thời gian thần thoại, chỉ biết ngâm thơ vịnh phú, chớ không bao giờ mưu hại ai, giết chóc ai bằng bom đạn.
Tôi pha một tuần trà mới, mời ông khách tuổi tác dùng, và nói:
- Xin cụ kể nốt câu chuyện đang hay. Cô Hậu Tú biến đi thật, hay trốn được và sáng hôm sau lại trở về?
- Tất cả cái gì đẹp ở đời đều hiện ra rất mong manh, rồi mất để lưu lại một sự thương tiếc khôn cùng cho những ai giàu cảm lụy. Không bao giờ người ta thấy cô Tú nữa. Hai tên côn đồ quăng giũ bao tải, không thấy người đẹp bước ra, hoảng sợ, vứt bao tải xuống cái lạch và cắm đầu chạy mất.
“Từ khi đó, nước ở lạch đương xanh biến ra màu ong óng vàng như hổ phách, thơm thơm mùi lá vối Quán Tiên. Khách văn nhân, mang cả một trời thê lương ở trong lòng, thấy vắng bóng hình cô Tú cũng ít bước chân đến đó ngâm thơ nữa, nên chẳng mấy lúc thành ra hoang phế. Nước ở lạch dường như tiếc người đẹp đã đi không trở lại, mỗi năm cứ đến gần Tết thì lại dâng lên gần mặt lộ, y như thể là nước mắt chan hòa. Và lần lần cái lạch ấy thành ra cái chuôm bây giờ.
Dân ở đó kêu là “Chuôm Cô Tú” hay là “Chuôm Hậu Tú” và truyền miệng với nhau rằng “nước chuôm Hậu Tú, nét chữ như tiên” vì họ yên trí là các tao nhân mặc khách mà lấy nước chuôm Hậu Tú đem về mài mực thì không những nét chữ như rồng bay phượng múa mà lời thơ ý nhạc cũng hay hơn, thần diệu hơn.
“Tuy nhiên, chuôm Hậu Tú lần lần cũng mất dần vẻ thơ mộng của trăm năm về trước. Tây họ chặt hết cây thanh liễu đi và thay cái cầu tre ngày xưa bằng một cái cầu xi măng đúc. Phong cảnh khác xưa nhiều lắm. Lại thêm người Pháp cướp được nước ta và bình định tạm xong, bắt đầu bỏ khoa cử, đánh mất giá chữ nghĩa thánh hiền đi nên lần lần người ta cũng chẳng còn thấy các ông tú, ông cử, các thi sĩ, văn nhân đến lấy nước chuôm Hậu Tú để mài mực vào nghiên, dầm ngọn bút lông thỏ viết những bài thơ tuyệt tác ca ngợi cái đẹp của sông hồ, mây nước, của đất tổ quê cha, của âu ca lạc nghiệp.
Đêm ấy, ông khách tuổi tác nghỉ lại nhà tôi. Thâm tâm, ông và tôi - được đãi làm bạn vong niên - ngồi uống rượu suông, nghe tiếng mưa lún phún rơi trên giàn hoa đậu.
Về gần sáng, rượu ngấm tê tê trong lòng, tôi nói:
- Bẩm cụ, ở đây được cái tịch mịch, nhưng hơi buồn. Nhưng giả thử chỉ buồn thôi cũng còn chịu được, đàng này có nhiều đêm con trẻ lại không yên vì chúng sợ.
- Sợ gì? Mà sao lại sợ?
Tôi kể lại hết cho ông khách nghe tất cả đầu đuôi câu chuyện đất dữ, từ vụ vợ con tôi thấy bóng những nhà nho thời trước đi lại ở trên chuôm, ngâm thơ vang động cả một góc trời, cho đến vụ chúng tôi cầu cơ để xin các hồn linh ở quanh quất đó giáng trần chỉ dạy điều hơn lẽ thiệt.
- Thưa cụ, tôi thú thật đã ngạc nhiên hết sức và lạnh toát cả người vì câu chuyện cụ kể cho nghe buổi tối.
“Cái hồn linh chúng tôi cầu cơ về hôm đó xưng tên là Hậu Tú và cũng kể rằng ngày xưa có mở một quán bán nước vối ở Cầu Tiên được nhiều danh sĩ, văn nhân đến đó hàng ngày thưởng thức. Tôi yên trí đó là một chuyện mơ hồ, vô căn cứ, không để dạ làm gì, không ngờ hôm nay được cụ kể cho nghe câu chuyện cô Tú Quán Tiên… sao mà phù hợp với những lời tiên giáng trong vụ cầu cơ một cách lạ lùng đến thế. Tôi không còn hiểu ra thế nào. Vậy thì khoa học không đi tới đâu sao? Người ta chết chỉ là chết có thể phách, mà cái tinh anh thì vẫn tồn tại mãi hay sao? Ngoài thế giới ta đang sống, hóa ra còn một thế giới huyền bí khác nữa hay sao?
Ông khách gật đầu một giây lâu. Cụ tự rót một ly rượu đầy, uống khà một ngụm rồi nói:
- Tất cả những điều thầy vừa hỏi, tôi chưa có lúc nào suy ngẫm kỹ. Mặt khác, tôi cũng chẳng biết cầu cơ là một chuyện thật hay ảo giác. Nhưng đoạn thầy, cô và các cháu trong nhà thấy những cái bóng người đi lại trên chuôm, quả là tôi đã nghe thấy các cụ tôi nói tới nhiều lần và hình như cụ Phạm Đình Hổ đã có ghi ở các trang sách cũ, bây giờ thất lạc hết, không còn ai giữ được.
Theo các cụ thì sau khi cô Hậu Tú mất ít lâu, người ở trong mỗi khi có tết nhất, hội hè, thường vẫn thấy các vị ấy, dù ở xa gần, dù cách sông ngăn núi, cũng mặc quần áo đẹp, hoặc cưỡi ngựa, hoặc thong dong đi bộ đến Quán Tiên để tưởng nhớ hương thơm của cô Hậu Tú khi xưa, rồi viết thơ lên những mảnh hoa tiên ngũ sắc dán vào vách quán hay mắc lên cành cây. Gió thổi, hoa tiên bay phấp phới y như là những đàn bướm thông minh bay lượn để chào một tiên nga ban phúc cho những nhà văn nghệ.
Ở đất này, vào cuối Chạp, mà thấy hình bóng các nho sĩ hiện lên ở trên chuôm ngâm vịnh, đàn hát hay lấy nước ở chuôm Hậu Tú cho vào trong chai đem về mài mực cho chữ tốt hơn, văn hay hơn, tôi nghĩ chẳng có gì lạ lắm.
Là vì, như tôi đã nói với thầy hồi tối, cô Hậu Tú đã bị ưng phệ bắt đem đi vào cái cữ đông gần hết, xuân sắp sang. Hồn các nho sĩ tề tựu trên chuôm chắc chắn không nhằm mục đích gì khác hơn là trở lại chốn cũ để tìm lại một ít dấu xưa, nhân đó hy vọng được uống lại chén chè vối thần tiên ngày trước của cô hàng nước mỹ miều không tài ba gì lắm nhưng cũng đủ chữ thánh hiền để thưởng thức nghĩa lý cao siêu ẩn trong những chữ thần chuốt trong những vần thơ thánh.
Nhưng chè vối Cầu Tiên đâu còn nữa, mà cô Hậu Tú thì ở bến nước cầu mây nào, có bao giờ còn thấy nữa đâu?
Không biết hỏi ai, các nho sĩ đành nhìn nhau thở dài ngâm không biết bao nhiêu bài thơ nuối tiếc, nhưng đến nay người ta chỉ còn nhớ được một bài:
Lai thị mơ hồ khứ tuyệt tung,
Đỗ quyên trì bạn nhạ đông phong.
Nguyệt minh cao thụ thanh sương lý,
Do tưởng yên trung đao kiếm hồng.
mà con trai tôi là Tảo Trang đã có lần tạm dịch như sau:
Đến chẳng ai hay, đi biệt tích,
Tiếc xuân quyên khóc suốt năm canh.
Trăng soi cây cối trong sương biếc,
Tưởng má hồng tươi sau khói xanh.
Mỗi lần thấy các hồn nho sĩ hiện lên ở trên chuôm như thế, người ở trong vùng lại nhắc nhở đến chuyện Hậu Tú Cầu Tiên và hết thảy những người già lão không tiếc lời ca ngợi những nho sĩ thanh cao, thủy chung như nhất, không năm nào quên về Cầu Tiên để ngâm ngợi “tinh thần Hậu Tú”.
Có một số người ít tuổi không nghĩ thế, lại cho rằng các nho sĩ ấy hiện về trên chuôm Hậu Tú là do một mục đích khác hẳn: họ cho rằng các nho sĩ ấy vịnh thơ, làm phú và cao ngâm trong đêm khuya như vậy là để oán hận cho thân thế, mơ lại những ngày cực thịnh của nho học và tiếc nuối chế độ khoa cử cũ đã chết, không còn hy vọng có ngày trở lại.
Ở giữa một khoảng sân rộng nào đó, một ông già râu tóc bạc phơ sẽ mỉm cười, nhấp một ngụm trà và nói:
- Lúc Tây đến đây, chế độ khoa cử cũ đã được người ta hủy bỏ… Nhưng các nho sĩ hiện lên ở chuôm Hậu Tú Cầu Tiên đâu có phải bận tâm suy nghĩ về mấy chuyện tầm thường đó. Hơn cả ai ai, họ biết rằng mọi việc đều thường xuyên sinh hóa, hóa sinh, đời chỉ là tạm bợ, thiên chung vạn tứ cũng là không, duy chỉ có cái Đẹp, và chỉ cái Đẹp tồn tại mãi.
Chú thích:
([1]) Nghĩa là: Vá trời không có sức, chuyện trời đất nói thì dễ, cứu đời không phải tài, lánh đời lại rất khó.
([1]) Nghĩa là: Vá trời không có sức, chuyện trời đất nói thì dễ, cứu đời không phải tài, lánh đời lại rất khó.
Truyện thứ sáu
NGỌC KHOA, GÁI NƯỚC VIỆT
Cái tựa của người kể câu chuyện huyền thoại thứ sáu lại còn dài dòng hơn cả cái tựa của người thứ năm. Ngay khi anh ta mới đưa ra mấy câu vào đầu, mọi người đã tỏ ra chán phè và chỉ muốn anh đi thẳng vào câu chuyện cho sốt dẻo, nhưng Tư Sắc - bí danh Trần Hùng – không chịu và cứ nói thẳng thừng, không một hai gì cả:
- Truyện của tôi phải kể lể dài dòng một chút, các anh em chịu thì tôi cảm tạ, nếu không thế, tôi xin rút lui, không kể, để cho người khác kể thay.
Tư Sắc nổi tiếng vì ngang bướng. Lúc bắt đầu kháng chiến chống Pháp, anh đã có nhiều phen chống lại những tư tưởng hủ hóa của cấp trên, chống tinh thần thư lại của các cán bộ phụ trách công việc đãi ngộ các anh em văn nghệ. Một số người đã làm báo cáo mưu hại anh, nhưng không làm gì nổi anh bởi vì cái tiếng thành thực, dám nói, dám làm của anh. Hết thảy các quân khu trên đều rõ. Thêm nữa, cấp chỉ huy hồi đó lại đặc biệt mến thương anh vì xuất thân là một “quái xe díp” ([1]), anh đã cố công học tập, anh đã trước tác được nhiều bút ký miêu tả sâu sắc cuộc đời cực nhọc của công nông trong xã hội thực dân mà còn đi sâu miêu tả ý nghĩ và hành động anh hùng, tính chủ động sáng tạo, mưu trí tuyệt vời của công nông.
Một bản nhạc của anh được toàn dân ca hát. Nhưng cái tài của anh đến đấy chưa hết: Tư Sắc lại còn là một họa sĩ, một nghệ sĩ nhiếp ảnh yêu nước đem tâm trí phục vụ kịp thời các nhiệm vụ chính trị cách mạng. Rồi mỗi khi đi tới đâu, có liên hoan, đại hội, anh lại biểu diễn kịch nói, kịch hát “ra gì”, đem văn nghệ đến cho nhân dân và quân giải phóng sau những giờ sản xuất và chiến đấu.
Tất cả tội của anh chỉ là tội nghiền á phiện. Nhưng ở ngoài đó thỉnh thoảng lắm người ta mới dám giở bàn đèn ra hút. Đa số phải “táo” vào bao diêm để lấy ra nuốt dần mỗi ngày một hai viên, hoặc dưới hình thức uống nước pha một hai giọt vào trong nước trà. Một bọn xấu làm báo cáo mật lên cấp trên về trường hợp Tư Sắc nhưng không ăn thua gì hết, vì kháng chiến lúc ấy đặc biệt đãi ngộ văn nghệ sĩ vì cho rằng “năm năm có thể tạo được một lớp thợ, chứ mười lăm năm chắc gì đã tạo được một lớp văn nghệ ra trò!”.
Có lẽ một phần vì thế mà Tư Sắc hách lắm, quen cái tính giận lẫy những người trái ý anh. “Tôi biết như thế là không hay ho gì cả, nhưng tôi cứ hành động như vậy, bởi vì sống với anh em lúc bắt đầu kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn, mâu thuẫn, mình không luôn luôn “giở phép” thì mình bị họ chèn, họ bắt nạt và bị xuống nước ngay”.
Tư Sắc hỏi:
- Vậy bây giờ anh em có bằng lòng tôi nói mấy câu khơi mào không? Xin cứ dạy. Thưa các anh em, tôi hủ lậu, tôi quan niệm như thế này: một câu chuyện kể mà không có tựa - nói nôm là không có mào đầu – y như thể là một người không có trán. Bắt tôi tạo ra một người không có trán, tôi không thể nào chịu nổi.
Một vài anh em bực quá:
- Thôi, xong rồi. Mào đầu nhanh lên rồi vào ngay câu chuyện. Nói dằng dai, sốt ruột quá.
Tư Sắc chậm rãi tiếp:
- Các anh em, chị em ở đây ai cũng biết chuyện “Huyền Trân công chúa” và “Tây Thi - Ngô Phù Sai” rồi.
Như các anh em chị em đã biết, Tây Thi là một cô gái tuyệt đẹp ở thôn Trữ La, nước Việt, làm nghề dệt lụa, được Phạm Lãi dạy cách dùng nhan sắc mê hoặc người rồi đưa sang hầu hạ Ngô Phù Sai, hại vua này mất nước bởi tay Câu Tiễn là vua nước Việt.
Còn Huyền Trân công chúa thì anh chị em lại càng biết quá: nàng là công chúa, con vua Trần Nhân Tông, được vua cha hứa gả cho vua Chàm là Chế Mân. Đến khi Chế Mân sai người đem sính lễ để xin cưới thì triều thần không thuận, vì thế năm Bính Ngọ (1306), Chế Mân phải tình nguyện đem hai châu Ô, Lý làm sính lễ. Vua Trần Anh Tông, anh của công chúa, thuận gả để lấy hai châu ấy sau đổi ra là Thuận Châu và Hóa Châu.
Nói đến đây, Tư Sắc đập một miếng cây vào cái bát đựng cà phê và hát:
Nước non ngàn dặm ra đi,
Mối tình chi!
Mượn màu son phấn,
Đền nợ Ô, Ly.
Xót thay vì
Đương độ xuân thì
Số lao đao hay là nợ duyên gì?…
Vì lợi cho dân,
Tính đem lợi mà cân
Đắng cay muôn phần.
Hát Nam Bình xong, anh ngâm bốn câu:
Lòng đỏ khen ai lo việc nước,
Môi son phải giống mãi trên đời?
Châu đi rồi lại châu về đó,
Ngơ ngẩn trông nhau một lũ Hời!
Tư Sắc ngâm xong lại độc diễn:
- Tại sao “châu đi rồi lại châu về đó”? Là vì đến năm 1307, Chế Mân chết, vua Anh Tông sai Trần Khắc Chung giả mượn tiếng đến thăm, tìm cách cướp được công chúa Huyền Trân đưa về nước để tránh nạn hỏa thiêu, theo phong tục Chiêm Thành.
Rút lại thì hai chuyện “Tây Thi - Phù Sai” và “Huyền Trân công chúa” cho ta thấy gì? Thấy là gái cũng như trai đất Việt, đến khi đất nước cần dùng, bao giờ cũng sẵn sàng xung phong “Có tôi đây!”. Mà riêng gái Việt thì ở vào những lúc như thế, họ coi danh tiết nhẹ mà chỉ biết quyền lợi của đất nước là to, cái chết của mình không có nghĩa gì mà chỉ có sự sống của quốc gia dân tộc mới là điều đáng kể. Nhưng ở cả hai trường hợp vừa nói, cả hai người đẹp hy sinh cho đất nước đều không chết.
Tây Thi được Phạm Lãi cứu vừa kịp lúc, đem xuống con thuyền du ngũ hồ, sống những giờ thơ mộng. Cũng thế, công chúa Huyền Trân được Trần Khắc Chung cướp được, cũng sống một cuộc đời mộng thơ không kém Tây Thi. Là vì Trần Khắc Chung là người tình trước đây của nàng: hoa xưa ong cũ, ai ngờ còn có ngày tái ngộ, đôi trai tài gái sắc kéo dài cuộc ân tình trên mặt biển hơn một năm mới về đến Kinh.
Tư Sắc trông mọi người với đôi mắt lạnh như một lưỡi dao sắc bén, cười:
- Thôi, xong. Bây giờ các anh em chị em có bảo tôi tiếp bài tựa nữa, tôi cũng chịu. Tôi xin vào chuyện chính. Nhưng trước khi kể, thiết nghĩ cũng nên nói trước là người thứ ba, người đàn bà Việt cũng hy sinh cho đất nước, cũng đem thân tuyết trinh ra bán rẻ cho quân địch vì quyền lợi của nhân dân, cũng không quản lặn ngòi noi nước sang đất rợ một mình để phá quân xâm lăng tàn ác từ trong lòng chúng, như Huyền Trân công chúa, như Tây Thi, người đàn bà ấy đến chung cục không có người nào đón rước và cuối cùng đã bị giặc chặt đầu bêu trước chợ.
- Gớm quá, người đẹp ấy là ai mà cứ kể lể con cà con kê mãi vậy?
- Xin bắt đầu vào chuyện.
Người đẹp ấy là Ngọc Khoa, con gái thứ ba của chúa Nguyễn Sãi Vương.
Nguyên vào thời đó, giặc ở nhiều nơi nuôi mộng xâm chiếm nước ta. Trong khoảng hai mươi năm, Lê Đại Hành phá Tống bình Chiêm. Đến thời Hậu Lý, Tống lại đem quân sang đánh báo thù và lại bị Lý Thường Kiệt chặn đánh ở sông Như Nguyệt. Quân Tống phải rút về Quảng Nguyên, nhưng sau cùng phải trả Quảng Nguyên cho ta để đổi lấy tù binh.
Còn quân Chiêm thì lại ngoan cố cách khác: thường thường chúng sang quấy nhiễu nước ta, nhưng vào thời đó, điều quan trọng hơn là chúng lại tự ý bỏ lệ triều cống nước ta theo một điều giao ước của vua Chiêm với vua Lê Đại Hành, theo đó thì vua Chiêm xin thần phục vì đã bắt sứ giả của ta.
Các vua nhà Hậu Lý nhiều phen cử binh đi đánh. Qua các cuộc bình Chiêm, cuộc Nam tiến bắt đầu. Chính câu chuyện tôi đương kể đây xảy ra hồi bắt đầu cuộc Nam tiến đó. Chiêm Thành bị Lý Thường Kiệt đánh bại, nằm yên được ít lâu, lại trỗi dậy quấy phá nước ta. Hai viên tướng Chế Nông, Chế Bốc của Chiêm Thành lại gây rối quân ta, nhưng đó không phải là điều quan hệ. Truyền rằng quân xâm lược Chiêm Thành sở dĩ cứ nối tiếp nhau gây rối nước ta như thế, hết đời này sang đời khác là vì nhờ có một cây Cam Xe mọc trước cung điện của Pô Rô Mê.
- Pô Rô Mê là vua Chàm phải không?
- Chính đó. Cây Cam Xe là thần mộc của dân Chàm. Còn Pô Rô Mê là vị vua mà dân Chàm sùng bái vào bực nhất. Chế Củ, Chế Bốc, Chế Nỗng, Chế Bồng Nga không theo bén gót. Là vì Pô Rô Mê tuy là vua Chiêm thật, nhưng thực ra là một vị thần. Mà “Bài ca Pô Rô Mê” của Chiêm Thành đã thuật lại như sau:
“Thần Pô Rô Mê đẹp vô song, đầu như vàng, vai và đùi như đồng trơn, nhẫn đeo chói lọi nơi tay, đôi hài bóng như ban ngày.
“… Khi Pô Rô Mê ngồi trên ngai vàng, thân hình sáng rực lên, đầu phát ra những làn chớp.
“Mỗi lúc trông thấy Pô Rô Mê, tóc người ta dựng đứng lên, hồn xiêu phách lạc vì khuôn mặt của nhà vua sáng như vàng…”.
Bài ca không nói rõ ông từ trên trời rơi xuống hay từ ở dưới đất chui lên, nhưng cứ theo lời dân chúng Chiêm Thành đến bây giờ vẫn còn kể lể cho nhau nghe, thì Pô Rô Mê là con của một cô gái ở Pa Rích (tức là Phan Rí bây giờ). Tôi nói là “một người con gái” vì mẹ Pô Rô Mê là một cô gái hoàn toàn trong trắng, không hề đi lại với đàn ông bao giờ, nhưng một hôm thụ thai vì tắm ở một khe núi nọ có thần linh đang ngự. Thấy con gái như thế, bố mẹ nàng yên trí là con gái mình hư hỏng, nhất quyết đuổi đi. Không nơi nương tựa, cô gái ấy đi lang thang hết các đồi này núi nọ, sống qua ngày bằng củ dại, nước khe. Rồi một hôm, đến một thung lũng kia, cô giở dạ đẻ ra một đứa con trai. Mà ở chỗ ấy tuyệt nhiên không có một làn khóc bốc lên, thậm chí đến cái tiếng gà gô gáy buổi trưa cũng không nghe thấy nốt. Sau một cơn thiêm thiếp, cô mở mắt ra nhìn thì thấy mây đen vần vụ ở trên đầu. Cô tưởng là mưa kéo tới, nhưng hóa ra không phải: một con rồng không rõ từ phương nào bay tới đã đến rửa sạch những vết sinh đẻ của cô và cuốn cả mẹ cả con bay đến một cánh đồng có nhiều người đang gặt. Thấy người con gái và đứa bé sơ sinh khóc oe oe, mọi người chạy lại xem rồi bồng cả mẹ cả con vào trong một cái cầu gần đấy, đốt lửa, cho ăn và đánh một túp lều nhỏ để tránh mưa tránh nắng.
Đứa trẻ lớn lên trông thấy.
Người mẹ bế con đến một làng Ra Đê để hái nấm và măng độ nhật.
Thằng bé ấy chính là Pô Rô Mê.
Pô Rô Mê đi chăn bò cho những người giàu có, bị trẻ con ở đó chế nhạo là “Đồ không cha”. Giận quá, Pô Rô Mê về hỏi mẹ “Cha con là ai?”. Người mẹ trả lời: “Con không có cha bao giờ hết”. Hôm sau, nó lặp lại câu ấy với bạn bè. Chúng vỗ tay: “Thế thì mày là con hoang rồi còn gì nữa!”
Pô Rô Mê ứa nước mắt về nói với mẹ: “Con là một đứa con hoang. Nhục này không chịu nổi. Con phải bỏ làng mà đi, dù chết đói cũng còn sướng hơn là ở đây”.
Pô Rô Mê đến làng Ha Mu tại xứ Ka Rang. Bị chê bai nữa, nó lại đi đến làng Bo Mo Thu tại xứ Pan Rang. Nơi đây, trẻ nhỏ đỡ tàn ác hơn. Chúng coi Pô Rô Mê là bạn. Pô Rô Mê được chúng giới thiệu giữ trâu cho vua Mo Ta Ha. Trong những lúc chăn trâu trong rừng, Pô Rô Mê học hát, học bắn cung. Về tài bắn cung thì bao nhiêu trẻ nhỏ và cả người lớn - kể cả các hiệp sĩ cao cường võ thuật - đều phải chịu thua tài Pô Rô Mê. Không bắn thì thôi, chớ một khi đã giương nỏ lên để bắn, chim gáy, gà gô, công, sáo sậu… thể nào cũng lăn ra chết. Còn tiếng hát của y thì kỳ tuyệt: cất tiếng hát, cây cối, núi non, sông hồ, chim muông đều phải dừng cả lại để nghe, mà riêng bầy trâu của y chăn, tản mát mỗi con một chỗ trong rừng, hồ nghe thấy thì cúi đầu chạy ùa cả về chỗ Pô Rô Mê đứng đợi. Có một hôm kia, Pô Rô Mê đương nằm khểnh trên một cây đại thụ nhai trầu, vừa định nghiêng đầu nhổ bãi quết trầu thì chợt thấy ở dưới gốc cây có hai con mắt long lanh đỏ hiện ra, rồi toàn thể cái cây cong queo, uốn éo thành ra một con rồng, lá là vẩy, ngọn là đầu, còn gốc là đuôi. Con rồng bay lượn một hồi lâu rồi biến mất. Đất ở chỗ ấy đùn lên, đùn lên mãi thành một cái núi, bây giờ người ta kêu là Núi Mắt Đỏ (Cheek Bhong Meeta) hiện còn nằm ở Pan Rang.
Pô Rô Mê thấy thế hoảng sợ, nhảy từ trên cây xuống, cắm đầu bỏ chạy. Y chạy mãi, chạy mãi, rồi lạc, không biết đường về. Quân hầu của nhà vua thấy mất Pô Rô Mê và bầy trâu, đổ đi tìm. Mấy hôm sau mới tìm thấy Pô Rô Mê nằm ngủ ở dưới chân một ngọn đồi bên một khe suối, chung quanh có ác thú nằm vây lại, như thể để canh y vậy.
Pô Rô Mê sống yên ổn như thế được ít lâu. Bỗng một hôm nhà vua lâm bệnh. Vị thầy cả chiêm tinh, nổi tiếng là coi số thuật hay nhất lúc bấy giờ, được mời vào triều để xem số cho Ngài. Giữa khi thầy cả tâu lên rằng mệnh Ngài còn vững, ít ra Ngài cũng còn trị vì được vài năm nữa thì tiếng của Pô Rô Mê đuổi chó vang đến chỗ Ngài ngự. Vị thầy cả giật mình hỏi:
- Tiếng ai vậy?
Một quân hầu tâu lên:
- Thưa, đó là Pô Rô Mê.
Vị thầy cả bèn truyền kêu Pô Rô Mê lên hầu. Nhìn tướng mạo xong xuôi rồi lại nghe tiếng nói của y thêm lần nữa cho kỹ càng, thầy cả cho Pô Rô Mê lui xuống bếp rồi tâu với nhà vua:
- Tâu bệ hạ, thần đã coi kỹ tướng mạo và nghe kỹ tiếng nói của Pô Rô Mê: Đó chính là người sau này sẽ là vua Chiêm Thành. Bệ hạ nên nuôi nấng y cẩn thận và cho học hành chu đáo.
Vua Mo Ta Ha, theo đúng chỉ dạy của vị thầy cả, cho y ở riêng biệt một nơi, phái người dạy chữ và dạy lễ. Ít lâu sau, Pô Rô Mê thành một thanh niên mạnh khỏe, đi đứng hiên ngang, nói năng hoạt bát, làm cho ai cũng phải kính sợ, nể vì. Đức vua bèn gả công chúa cho chàng và một năm sau đó thì truyền ngôi cho chàng.
Ăn ở với vợ là Bia Than Chi ngót hai năm vẫn không sinh được mụn con nào, Pô Rô Mê đi về phía Tây đến xứ người Ra Đê kiếm một phương thuốc nổi tiếng là thần diệu để giúp cho hoàng hậu có con. Nhưng cùng chuyến đi ấy, Pô Rô Mê lại đem về một người đẹp Ra Đê, tên là Bia Than Chan.
Hoàng hậu Bia Than Chi nhờ được phương thuốc của Pô Rô Mê kiếm về, sinh được một nàng công chúa, Pô Rô Mê gả cho ông hoàng Bích Chích (Phik Cheek).
Bia Than Chan, tức là người vợ gốc Ra Đê, thấy thế buồn lắm, bèn thu nạp thủ hạ thân tín lén kết bang giao với vua Việt Nam lúc bấy giờ. Trong số các thủ hạ, có con rể của Pô Rô Mê là Bích Chích. Chính Bích Chích đã tố cáo với vua Việt Nam tính háo sắc của Pô Rô Mê.
Nắm được cơ hội tốt, vua Việt Nam bèn họp đình thần lại, tương kế tựu kế tìm mưu để thao túng Pô Rô Mê. Lý lẽ viện ra như sau: “Nước Chiêm Thành sở dĩ liên tiếp quấy rối nước ta không chịu thần phục hẳn, mà lại còn manh tâm phản bội là khác, chính vì thần mộc Cam Xe mọc ở trước dinh thự của Pô Rô Mê. Bây giờ có lung lạc được Pô Rô Mê thì mới hy vọng hủy diệt được cây thần mộc”.
Phải làm sao bây giờ? Triều đình nước ta bàn nhau tái diễn cái kế của Việt Vương Câu Tiễn đem Tây Thi cống hiến Phù Sai. Vua bèn đem ý kiến đó ra hỏi hết thảy các vị quan to có con gái đẹp lúc bấy giờ, nhưng người quốc sắc mà lại đủ tài cầm kỳ thi họa xét ra có đủ khả năng lấy Pô Rô Mê rồi từ đó dụ hoặc y, làm cho y mê mẩn tâm hồn, nhất nhất bảo gì cũng nghe theo, người quốc sắc thiên tài như thế, lọc lựa mãi rút lại chỉ còn một người. Và người ấy chính là công chúa ba. Nghe kể mưu đồ của triều đình, nhằm tiêu diệt quân phản bội nuôi mộng xâm lăng đất Việt, hầu đem lại một nền hòa bình trường cửu cho dân tộc, công chúa Ngọc Khoa chịu liền.
Theo dân chúng Chàm bây giờ còn nhớ lại lời ông cha họ kể cho nghe những buổi mưa chiều nắng sớm, Ngọc Khoa giả làm một người đi buôn vào đất Chiêm Thành. Danh tiếng của cô nàng khả ái mỹ miều đồn đến tai Pô Rô Mê. Ngài bèn cho mời đến. Vừa trông thấy mặt Ngọc Khoa, Ngài say mê liền, cưới về làm vợ ba và kêu là nàng Bia Út. Theo nguyên văn của bài ca Chàm nói về vụ này, còn truyền tụng đến bây giờ, thì công chúa Ngọc Khoa cùng hai thể nữ xuống thuyền vượt biển, trên bảy ngày đến nơi. Đồn canh ở biên giới báo động, người Việt ở trong thuyền cho hay: “Chúng tôi đưa công chúa nước tôi sang quý quốc”. Vua Pô Rô Mê tự mình đến, gặp công chúa trang sức cực kỳ lộng lẫy, không gì có thể sánh bằng. Trông thấy nàng, vua đã yêu ngay, nàng yêu cầu làm lễ thành hôn. Lễ cưới trọng thể, trâu bò giết vô số ([2]).
Giả làm người buôn bán để sang đất Chiêm Thành, hay cùng đi với thể nữ với tư cách một nàng công chúa, sự kiện đó không có gì quan hệ. Chúng ta chỉ cần biết là Pô Rô Mê, vị vua háo sắc, được Ngọc Khoa làm vợ rồi, say mệt say mê, quên cả hai bà vợ hiền là Bia Than Chi và Bia Than Chan. Tất cả đàn bà con gái ở trong triều thấy Bia Út, hoàng hậu Út, người Việt Nam được đức vua sủng ái như thế đều ghen ghét, thậm chí họ đã liều chết khuyên can vua phải nhớ đến bổn phận cứu dân giữ nước, song le bao nhiêu lời khuyên đó đều như nước đổ lá khoai.
Sau khi đã mê hoặc được Pô Rô Mê và gạt hai hoàng hậu Miên xuống gót chân rồi, hoàng hậu Út mới bắt đầu thực thi mưu kế đã được ấn định và dặn dò kỹ lưỡng lúc ra đi.
Bây giờ nhắc đến Bia Út, người Chàm vẫn còn hát với nhau:
“Trong vòng ba tháng, hoàng hậu Út đã dùng sắc đẹp và mưu mẹo làm cho nhà vua mê đắm rồi vờ bệnh nặng, không có thuốc thang nào trị nổi. Vua đến thăm, hoàng hậu Út vờ bệnh nặng lên, kêu rên thảm thiết vô cùng. Các bậc thánh chiêm tinh, số thuật được vua mời đến chữa bệnh cho người thương của Ngài. Xem xét, nghiên cứu tướng mạo và số thuật rồi chẩn bệnh đi, nghe mạch lại, đều chịu không tìm ra bệnh gì. Không có gì khác, sao lại bảo là có bệnh? Họ nhìn nhau, lắc đầu, tỏ vẻ nghi ngờ, tức thì nhà vua la hét ầm cả cung điện lên, khiến cho tóc của những ông quan đứng đó đều dựng đứng cả lên, hồn xiêu phách lạc vì tiếng nói của nhà vua sang sảng như tiếng vàng chen tiếng sắt:
- Lũ ngu ngốc kia sao dám nghĩ là hậu của ta không có bệnh tật gì cả? Nếu không đau, sao hậu lại kêu rên thảm thiết làm đứt lòng đứt ruột ta như vậy?
Nói rồi đuổi hết cả danh y, tướng thuật đi khỏi cung, lập tức truyền gọi các bà đồng đến hỏi. Theo lời dặn dò bí mật của Bích Chích và đồng bọn, các bà đồng làm phép xuống âm hỏi các hồn linh rồi trở về tâu rằng: “Bệnh tình của hoàng hậu Út do cây Cam Xe, thần mộc của Chiêm quốc gây ra”.
Đêm hôm ấy, nhân khi thanh vắng, Pô Rô Mê hỏi Bia Út:
- Hậu đau ở đâu?
- Thần thiếp không biết rõ, nhưng dường như ở bụng.
Nói đoạn, Bia Út cựa mình, Pô Rô Mê nghe thấy xương nàng kêu răng rắc. Thực ra, đó không phải là tiếng xương kêu, nhưng là tiếng bánh tráng bể vì Bia Út đã cố ý mỗi khi lăn lộn rên xiết thì bánh vỡ kêu răng rắc, nghe tưởng là tiếng xương kêu.
- Hậu ơi, ta không có hậu không thể nào sống nổi. Ta chiều tất cả ý muốn của hậu, hậu muốn gì cứ nói.
- Bệ hạ để cho thiếp chết. Thiếp không bao giờ dám nói ý muốn của thiếp ra với bệ hạ vì e có tội.
- Tội gì ta cũng tha thứ cho hậu hết, miễn là hậu sống được thì thôi.
- Tâu bệ hạ, đã nhiều đêm lăn lộn giữa cái sống và cái chết, thiếp thấy một vị thần mặt đỏ, mắt xếch, râu hàm, hiện đến bảo thiếp rằng, thiếp vô phúc không thể nào sống nổi để mà hầu hạ quân vương. Trong cơn mơ màng như thế, chính thiếp thấy thiếp quỳ lạy vị thần linh, xin cho thiếp sống, “vì cái ân của quân vương đối với thiếp như trời cao bể rộng, ví thiếp có đem máu đào xương trắng ra đền bù cũng không thể đáp được cái nghĩa của quân vương đối với thiếp trong muôn một”. Lạy như thế đến đêm thứ ba, vị thần linh mới bảo thêm rằng: “Cái số của con thì vắn nhưng tấm lòng của con thì quý, thần thánh lấy làm cảm động nên đã ưng thuận cho con sống thêm hai con giáp nữa nhưng với một điều kiện là chặt ngay cây Cam Xe đi liền, vì bao nhiêu tật bệnh của con đều do thần mộc ấy gây ra cả!”.
Nghe thấy giấc mộng của Bia Út phù hợp với lời tâu của các bà đồng thiếp xuống âm để hỏi các hồn linh. Pô Rô Mê đứng dậy la lên:
- Tại sao bây giờ hậu mới nói với ta chuyện đó? Chặt cây Cam Xe nào có khó gì đâu mà ngại?
- Tâu bệ hạ, bệ hạ có lòng thương thiếp thì nói thế, chớ cái phận hèn mọn này dù biết vậy mà không dám nói ra là vì đã biết cây Cam Xe là thần mộc, bây giờ bệ hạ cho đốn đi vì thiếp, e rằng các quan to trong triều đình không bằng lòng và trút hết tội lỗi lên đầu thiếp…
Bị chạm đến lòng tự ái, Pô Rô Mê la hét quân hầu ầm ĩ. Đầu ngài như vàng phát ra những lằn chớp, vai và đùi như đồng trơn sáng rực lên như đốt cháy. Pô Rô Mê ra lịnh cho quân hầu sửa soạn đẵn cây Cam Xe liền.
Nghe được tin dữ đó, các quan quỳ mọp xuống dưới đất tâu lên:
- Nếu cây Cam Xe bị đốn, vương quốc sẽ nguy. Từ bao nhiêu đời nay, ai cũng biết thế, mà Trời cũng dạy ta như thế. Lời dạy đó còn ghi trong một đạo bùa từ trên trời thả xuống, bây giờ hãy còn giữ được trong Thái miếu để thờ!
Thôi, bây giờ muốn nói cách gì đi nữa thì Pô Rô Mê cũng chẳng thèm để vào tai. Phải đốn cây Cam Xe ngay lập tức! Ai trái ý, sẽ bị chôn sống. Và ngài lại hét lên:
- Bớ thần mộc, ta đốn ngươi và ta cần phải đốn ngươi đi vì ngươi bội bạc với danh vị mà ta đã đưa ra để đãi ngươi.
Ngay hôm đó, cuộc đốn cây Cam Xe bắt đầu. Trước khi đốn, tất cả các quan lớn, nhỏ trong triều, mũ cao áo dài, mổ ba con trâu, giết không biết bao nhiêu heo, gà, vịt để làm lễ tế cây, xin phép đốn. Vừa lễ xì xụp, các quan vừa khấn: “Xin thần mộc chứng giám cho lòng của chúng tôi, quả chúng tôi không bao giờ dám tự ý làm điều càn rỡ. Chẳng qua chúng tôi làm đây là theo ý của hoàng thượng truyền ra. Mà thần mộc, xin thần cũng chớ nên phật ý hoàng thượng vì hoàng thượng muốn tức là Trời muốn”. Bao nhiêu lá cây Cam Xe, tự nhiên không có gió, rụng rào rào xuống đất. Sau này, các cụ già từng chứng kiến vụ này kể lại cho cháu chắt nghe, bảo rằng lá rụng đó tức là nước mắt của cây chảy ra vậy. Rồi một lát sau, cây cất lên tiếng nói rất buồn: “Tôi có tội gì đâu mà đốn tôi đi, chẳng qua là vua nghe lời xiểm nịnh của bà vợ Việt Nam, sau này hối hận không còn kịp nữa”.
Lễ xong, vua quan cùng dân chúng xúm lại hạ cây thần bằng đao búa, bằng móc câu, bằng dao quắm, bằng tầm sét, nhưng hạ như thế suốt hai ngày trời mà cây cứ đứng trơ ra, không chuyển động. Là vì những vết đao, búa, tầm sét, móc câu đốn vào thân cây đều liền lại, đao búa vừa rút ra thì từ thân cây tiết ra một thứ nước nhờn, đỏ như vang, hàn gắn liền ngay khi ấy những vết thương kia lại. Người ta đem bảy con voi đến cột vào gốc cây để cho chúng kéo thân đổ xuống, nhưng cũng vô ích nữa. Cây Cam Xe dường như có hàng ngàn vạn thần linh tiếp sức để cho nó đứng trơ như đá, vững như đồng. Ai cũng rởn tóc lên. Riêng có vua Pô Rô Mê không sợ. Ngài nổi giận đùng đùng, sai quân lính kiệu Ngài đến tại chỗ. Ngài chỉ vào cây, mắng chửi hồi lâu rồi cầm lấy một cái rìu lớn nhất, nặng nhất, bổ vào cây liền ba nhát. Bao nhiêu người đứng đó trông thấy từ cái rìu tiết ra một ngọn lửa đỏ đòng đọc rồi ở bốn chung quanh, dường như có tiếng kêu than vọng lại. Thế rồi cây đổ gục xuống, bao nhiêu rễ bật cả lên khỏi mặt đất và một chất nước đỏ tuôn chan hòa trên mặt đất, y như máu người. Người nào bị máu của cây bắn vào mình bị chết ngay tại chỗ. Còn về phần cái cây thì đổ xuống rồi, nó còn rên rỉ như một con voi, ba đêm ba ngày chưa nín.
“Cây thần chết rồi”, “Cây thần Cam Xe chết thật rồi!”. Dân tộc Chàm truyền tin ấy cho nhau và khóc cả một tháng trời không ráo nước mắt.
Người Việt thấy thế cũng động lòng trắc ẩn, nhưng biết làm sao được? Một khi mà các vua Chàm vẫn còn ngoan cố, mưu định xâm lăng nước Việt và không ngớt quấy rối biên cương, vua Việt không thể dung túng họ với ý đồ bạo ngược, tham tàn như vậy. Bèn gửi thư cho Pô Rô Mê, yêu cầu con rể và con gái về thăm, lấy cớ là ngài ngọa bệnh. Thư có đoạn như sau: “Nếu Pô Rô Mê hoàng đế vì công việc triều chính bận rộn không qua nước Việt được thì cũng xin để cho hoàng hậu về thăm nhà một ít ngày vì thái hoàng, thái hậu nhớ con khắc khoải, mà các chị cũng muốn gặp mặt em trò chuyện hàn huyên để cho vơi bớt niềm thương nỗi nhớ”.
Ngoài ra, trong thư còn có một đoạn yêu cầu Pô Rô Mê ký kết với Việt một hiệp ước long trọng thừa nhận chủ quyền của Việt Nam và cam kết từ giờ sắp sau sẽ thần phục và triều cống như trước, không bao giờ lại giở giáo và ngoan cố nữa.
Pô Rô Mê không trả lời. Hơn thế, lại cho người gìn giữ biên cương cẩn mật hơn cả bao giờ hết, nhất định không để cho Bia Út rời khỏi cung điện một giây, ngoài ra lại còn họp triều thần quyết định một thái độ dứt khoát với vua nước Việt.
Hay tin đó, vua Việt tức giận con rể không biết chừng nào, ra lịnh cho binh lính ào ạt tấn công Chiêm Thành trị tội và cũng là để cứu công chúa ba ra khỏi cái đất buồn tênh tiếng hát líu lo, mông mênh cát đỏ, từng chặng lại chênh vênh những ngọn tháp bí mật dường như mọc từ đời thần thoại.
Chính Pô Rô Mê cầm quân ra đánh toán quân đầu của ta. Chàng khỏe mạnh như một vị thần khỏe mạnh nhất trong các cổ tích Chàm, nhưng quân ta lại mạnh hơn thế nữa, toán này vừa thấm mệt thì toán khác lại đến thay, hết ngày nọ sang ngày kia kéo tới trùng trùng điệp điệp, càng đánh lại càng hăng, mỗi lúc lại đông hơn gấp bội, đánh chỗ nào, y như là chẻ tre chỗ đó. Trước cái khí thế ào ào như thác lũ của ta, quân Chiêm sợ hãi chui cả vào hầm để trốn. Một số đông tướng lĩnh xin hàng. Còn binh sĩ Chàm, phần đánh nhau lâu kiệt quệ, không kham nổi sức tấn công như vũ như bão của ta, mật bàn với nhau hạ khí giới xin ngưng chiến, nhưng Pô Rô Mê được thám báo cho biết như thế, ra lịnh bắt và xử tử.
Chiêm quốc sống những giờ rối ren chưa từng thấy trong lịch sử. Pô Rô Mê vẫn không chịu bó tay. Nhưng rồi có một lúc chính mình nhận thấy thế cùng lực tận rồi, Pô Rô Mê phải họp một hòa nghị toàn dân, toàn quân lại để lấy ý kiến phải đối phó với vua Việt ra thế nào. Hai bà Chúa người Miên ngỏ ý nên tìm đến chỗ cây thần mộc bị hạ đặt lễ xin tạ tội với cây thần mộc rồi lấy thân cây làm ván, cành cây làm cột buồm, rễ cây làm bánh lái, đóng một cái thuyền thần để cho vua thân chinh xuống đó băng sông vượt biển, đánh thẳng vào trái tim nước Việt, phá ngay nước Việt từ nơi quân lính xuất phát và tiêu diệt ngay từ ổ tiếp tế thực phẩm và binh sĩ.
Vua cho đề nghị ấy chính đáng, xuống lịnh triệu tập ngay lập tức mười tám ngàn thợ để đóng thật lẹ một chiếc thuyền lớn nhất thời bấy giờ và hẹn nội trong bảy ngày phải xong xuôi. Đúng hẹn, hoàng đế Pô Rô Mê nai nịt gọn gàng, mang cung ở vai, đeo tên tẩm thuốc độc bên mình, cầm ngang ngọn giáo bước xuống thuyền. Lúc ấy, đầu Pô Rô Mê phát ra những lằn chớp rùng rợn hơn cả bao giờ hết, tóc của bàn dân đưa tiễn Ngài dựng đứng cả lên, hồn xiêu phách lạc vì khuôn mặt nhà vua dữ như mặt một thiên tướng bằng vàng.
Thì ra cây thần cũng có khác cây thường! Mặc dầu đã bị đốn và chết lăn ra như con voi rồi, gỗ của cây Cam Xe đóng thành thuyền vẫn có một sức mạnh kỳ bí và huyền diệu không thể nào tưởng được. Không cần chèo, không cần lái, cái thuyền khổng lồ ấy cứ tự ý trôi đi vun vút, y như thể có hàng ngàn, hàng vạn tay chèo vô hình lèo lái. Đứng ở trên bờ trông theo, người ta thấy những lằn chớp phát ra từ đầu Pô Rô Mê loang loáng như sấm sét lòe ra trong một đêm tối trời, rồi những lằn chớp ấy kéo dài mãi ra liên tiếp, không dứt. Thế là bao nhiêu người ở đó không ai bảo ai, quỳ cả xuống bờ bể mà lạy đấng tối cao đã cho họ “một vị thần chỉ huy có một bộ óc nối liền trời với bể, mây với nước, một vị thần đi trên đất thì làm cho đất đau đớn, mà phi trên nước thì làm cho bao nhiêu nước rung chuyển và kêu than cùng khắp cõi đời”.
Quả nhiên quân Việt bị đánh tơi bời. Sau này, “Bài ca Pô Rô Mê” thuật đến đoạn này, kể lại rằng “Pô Rô Mê chỉ một cái, có những tảng đá nặng hàng ngàn tấn rơi vào đầu dân Việt, chết đầy cả mặt đất. Pô Rô Mê la lên một lời, tức thì có những con chim sắt tung ra những độc tố phá hủy mùa màng, làm thành mưa bão tạo thiệt hại không để đâu cho hết, mà lại còn có thể gây ra những bệnh dịch làm cho người Việt chết trong khoảnh khắc”.
Trước sự độc ác vô ngần của giống Chàm xâm lăng nuôi ý đồ tiêu diệt người Việt, làm cho Trời phải oán hận, Đất phải căm hờn, quân Việt thề phải tiêu diệt cho kỳ được quân bạo Chàm, dù phải hy sinh xương máu trong mười, mười lăm năm hay hơn thế nữa. Khắc chữ vào tay, vẽ lên trên quần áo, quân Việt thề “thà chết hai mươi tuổi còn hơn làm nô lệ quân Chàm”. Quân Chàm càng giết, quân ta đánh lại càng hăng, và càng uất ức thì những người dân tình nguyện xung phong ra trận lại càng đông.
Vua Pô Rô Mê, dù là thần cũng thấm mệt, mà quân lính của ngài vì thiếu chính nghĩa, đánh mãi cũng thấy chán chường cái cảnh máu chảy thịt rơi. Quân ta, chờ đúng giờ đúng phút, xuất toàn lực đánh một đòn quyết liệt, đổi thế thủ ra thế công, đánh lại quân Chàm tan nát, có khi không chạy kịp. Đồng thời, ta lại dùng cọc sắt và xích sắt chắn sông nước lại, đắp be bờ để cho nước không thể lưu thông, lại thả nỏ xuống cửa bể, cửa sông phá nổ thuyền bè của địch.
Chiếc thuyền thần làm bằng gỗ cây Cam Xe không hiểu vì kỵ sắt hay vì sợ máy nỏ của ta thả xuống nước, tiến đến chỗ có cọc sắt và xích sắt thì đứng dừng hẳn lại, muốn làm cách gì cũng không chịu tiến thêm lên nữa. Pô Rô Mê ngửa mặt lên trời hét ba tiếng. Miệng Ngài bốc ra lửa, tiếng của Ngài âm vang đến một trái núi xa đấy hai dặm và bao nhiêu cây cối vì bị sức ép, gục xuống ầm ầm. Lửa ấy, theo dân Chàm bây giờ kể chuyện với nhau, đốt cháy mất nhiều cây tháp cổ, không thế thì tháp Chàm còn nhiều gấp trăm và cũng lớn gấp trăm bây giờ. Còn trái núi có cây đổ vì sức ép của tiếng hét Pô Rô Mê thì bây giờ là cái đồi trọc Mu Gajang trên có đền Mỹ Sơn (Trà Kiệu).
Đồng thời, cả đoàn thuyền đi theo thuyền thần của nhà vua cũng chơi vơi. La hét cùng trời chẳng thấy ăn thua, Pô Rô Mê quăng ngọn giáo xuống nước, rút gươm ra chém đứt đầu mũi thuyền thần. Thuyền lạng đi rồi chìm dần xuống nước, đồng thời đoàn thuyền theo sau cũng đắm luôn.
Quân Việt ào tới giết quân Chàm không tiếc tay. Máu làm đỏ rực cả một khúc sông và đông đặc lại làm cho nước sông không chảy được. Bây giờ, chỗ ấy thành ra một cái bãi kêu là bãi Chà Bàn.
Về phần Pô Rô Mê thì đến tận lúc đại nguy nan như thế vẫn không chịu thua quân địch: Ngài lặn xuống đáy sông, trọn một ngày, rồi thừa lúc đêm hôm khuya khoắt, bơi tít ra ở một nơi xa, trèo lên trên bờ, vừa đi vừa xóa những vết chân hằn lên trên cỏ nên quân Việt không biết đâu mà tìm.
Pô Rô Mê ẩn trong một cái hang kỳ nhông ở độn cát. Vì ở cửa hang có cây cối um tùm và có giống nhền nhện khổng lồ chăng tơ bít lấy cửa hang như thể dây tơ hồng, quân Việt không thể nào tìm thấy. Kiểm soát hai ngày không thấy bóng dáng Pô Rô Mê, quân Việt đã tính bỏ đi thì chẳng may có một con tắc kè cất lên tiếng kêu ai oán và dài dặc. Quân lính Việt nghe thấy tiếng kêu đó lại tưởng là tiếng rên của một người bị thương, gỡ những sợi tơ bít cửa và tìm thấy Pô Rô Mê. Thế là họ ào cả lại, lấy dây thừng tam cố thòng vào cổ Pô Rô Mê và chặt lấy đầu Ngài - cái đầu mà bài hát Chàm ca ngợi là trông đẹp như vàng vậy.
Truyền rằng cái thân xác của Pô Rô Mê, sau khi mất đầu rồi vẫn không chịu thất bại, nghỉ một giây lâu lại vùng đứng dậy đi khật khà khật khưỡng về cung điện. Bất hạnh lúc thây ma không đầu tóc đi qua một cánh đồng cỏ, có một lũ chăn trâu trông thấy la lên: “Ơ kìa, cái thây ma không đầu mà đi được, lạ chưa?”, thế là cái thây ma của Pô Rô Mê ngã gục xuống đất, không bao giờ dậy được.
Còn cái đầu “đẹp như vàng” của Pô Rô Mê thì quân lính Việt cắt đem về doanh trại, cất kín vào trong một cái buồng tối âm u; nhưng sáng hôm sau, tìm lại thì không còn nữa. Quân lính đổ đi tìm kiếm khắp mọi nơi không thấy, thì kỳ lạ thay, đêm hôm sau, cái đầu lâu ấy lại quay trở về buồng tối âm u mà nằm nguyên vẹn ở chỗ cũ, như không có chuyện gì lạ xảy ra. Người ta bảo rằng, cái đầu lâu của Pô Rô Mê tiếc nuối Bia Út đã về nơi điện ngọc đền vàng xưa cũ để tìm nàng, nhưng tuyệt mù tăm cá bóng chim nên chán nản lại quay trở lại, với hy vọng được thấy Bia Út trở về với cha mẹ và các chị trên đất Việt.
Thì ra Pô Rô Mê, mặc dầu là thần, một khi đã chết cũng nghĩ sai, đoán trật như những người tầm thường trên đời này. Bia Út không còn ở trong cung điện quốc vương Chàm nữa mà cũng không bao giờ trở lại quê hương thơm ngát với đồng bào thương mến ngày nào.
Sau khi được tin Pô Rô Mê đã bị quân lính Việt bằm thây và cắt lấy thủ cấp đem về nước, bao nhiêu quan cao chức trọng trong triều còn sống sót đã họp một phiên tối khẩn với vị hoàng hậu người Miên Bia Than Chi và vị hoàng hậu người Ra Đê, Bia Than Chan, bắt giữ Bia Út, chằng dây vào khắp người rồi buộc vào chân mười bảy con voi cho chúng phanh thây.
Còn cái thây của Pô Rô Mê thì triều đình Chàm ướp bằng một trăm hai mươi thứ hoa thơm để trong một cái nhà quàn dựng bằng những cành cây Cam Xe thần để cho dân chúng đến chiêm ngưỡng và lễ bái trong một trăm ngày rồi mới đem hỏa táng.
Hoàng hậu Bia Than Chan, từ trên đàn cao, nhảy vào lửa chết theo chồng. Về sau, tưởng nhớ đến mối tình chung thủy vô vàn của bà ta, người Chàm tạc tượng Bia Than Chan đặt ở trong tháp Pô Rô Mê -một cái tháp cao bốn tầng, ở tiền điện mỗi tầng đều có tạc tượng thần và có những cái trụ cất theo hình nụ sen. Bà Bia Than Chi cũng được người Chàm tạc tượng, nhưng chỉ để ở phía ngoài tháp mà thôi.
Cho đến tận bây giờ không ai biết là lúc hỏa táng Pô Rô Mê thì người Chàm có làm thêm một cái đầu lâu giả hay chỉ hỏa táng cái thây không thôi, bởi vì người ta biết đích xác rằng cái đầu lâu của Pô Rô Mê từ khi quay trở lại căn buồng tối âm u trong hoàng cung nước Việt thì ở luôn tại đó, không còn đi đâu nữa.
Thấy thế tội nghiệp - dù sao Pô Rô Mê cũng là một người anh hùng đã chiến đấu oanh liệt cho vương quốc Chàm, thêm nữa lại có cái tình con rể với mình - một hôm vua Việt truyền đem cái đầu lâu đó đi chôn cất tử tế ở một cái đèo giữa biên giới hai nước Việt - Chàm. Nhưng sắp đem chôn, cái đầu lâu ấy cất tiếng sang sảng nói cùng vua Việt: “Đừng chôn cất làm chi. Dùng đầu lâu tôi làm cái đồ đựng rượu, không có nước nào thôn tính nổi Việt Nam!”.
Vua Việt nghe thấy thế bèn phán với quần thần:
Bèn làm đúng theo lời của đầu lâu đã bảo, sai thợ khéo chuốt cho thật đẹp, thì quả nhiên, trải qua nhiều triều đại, không có nước nào thôn tính nổi Việt Nam. Đã đành rằng trong các cuộc tiêu diệt xâm lăng, để bảo vệ cho lãnh thổ, ý chí quyết chiến quyết thắng của toàn dân là điều kiện chính yếu, nhưng dù sao ta cũng phải nhận rằng sự ủng hộ tinh thần của các nước anh em, của các phần tử địch cảm phục lòng tốt của ta mà quay về chính nghĩa với ta cũng là một yếu tố có một tính cách quan trọng không phải là nhỏ.
Chú thích:
([1]) Quái xe: ăn cắp xe. Lúc Pháp mới trở lại Đông Dương sau Thế chiến thứ nhì, có phong trào đánh cắp xe jeep và vũ khí của Mỹ cho Pháp.
([1]) Quái xe: ăn cắp xe. Lúc Pháp mới trở lại Đông Dương sau Thế chiến thứ nhì, có phong trào đánh cắp xe jeep và vũ khí của Mỹ cho Pháp.
([2]) Nguyên văn bài ca Chàm này đã được ông Hoàng Trọng Miên dịch đăng trong “Việt Nam Văn học toàn thư”.
Truyện thứ bảy
TRUYỆN QUẢ MÁC PHÂY NỞ TỪ HANG THUỒNG LUỒNG
Thấy Việt, người thứ bảy kể chuyện huyền thoại đưa cái đề ấy ra, cả bọn không lấy gì làm ngạc nhiên vì hầu hết đã đi rừng và biết trái mác phây là trái gì rồi.
Duy có Hảo không biết, hỏi anh Tiến ngồi bên cạnh:
- Mác phây là trái gì vậy?
Tiến chưa kịp trả lời thì Việt đã nghe thấy và đáp thay cho Tiến:
- Mác phây, theo tiếng Thổ, là trái lửa. Nhưng trái lửa đây không phải là hỏa châu của bọn thực dân từ trên máy bay xuống để soi đường tiêu diệt dân chúng ta đâu. Trái lửa đây là trái dâu da mà chúng ta thường vẫn ăn, nhất là vào dịp lễ mồng năm tháng Năm, ăn để giết sâu bọ cùng với quất hồng bì vào thuở thanh bình.
Thuở đó, chúng ta đều ăn dâu da mà không có làm sao hết. Nhưng bây giờ đi… kháng chiến thì dâu da là một thứ trái cây bị cấm ngặt, nhất là đối với quân đội, vì lẽ chỉ ăn vài quả dâu da vào buổi sáng thì buổi chiều hay cùng lắm là sáng hôm sau biết nhau ngay: sốt rét. Mười người ăn thì có nhiều phần chắc chắn bị sốt rét cả mười.
- Thế ở tỉnh thành ăn dâu da có việc gì không?
- Thường thường không việc gì.
- Thế tại sao ở rừng ăn lại bị sốt rét?
- Điều đó, chưa có ai bảo cho ta biết. Hồi còn ở trong Nam, tôi cũng nghe thấy có một giống trái cây có tính chất khó hiểu như thế mà không ai giải thích được gọn gàng. Đó là quả dưa hấu. Dưa hấu ở Bắc, ăn không có gì lạ lắm, bất quá cũng như roi, mận, dưa hay măng cụt. Ở Nam, dưa hấu có tiếng là nóng, ăn nhiều dễ bị kiết lỵ, nhưng đặc biệt không phải ở chỗ đó mà ở điểm này mà các tay buôn dưa hấu đã nhiều lần xác nhận với tôi: dưa hấu trồng ở rẫy, lấy ăn ngay và ăn rất nhiều, ăn bằng thích không hề làm cho người ta khó chịu, đau bụng hay nóng nảy trong người; nhưng chở xe đò hay thuyền về tỉnh thành để bán cho người ta ăn thì dưa hấu thuộc vào cái loại trái cây nóng vào hạng nhất.
Tại sao dưa hấu ăn ngay ở rẫy không độc mà ăn ở thành thị lại độc? Mà tại sao trái dâu da ăn ở rừng lại sinh ra sốt rét mà ăn ở tỉnh thành lại chẳng làm sao?
Có bác sĩ nào đọc đến đây, xin khoan khoan đừng viện lý do khoa học để cắt ngang câu chuyện này, tội nghiệp. Nhiều người trước vấn đề “dâu da ăn vào sinh ra chứng sốt rét” đã đọc làu làu những bài học ở nhà trường mà bảo “sốt rét là do muỗi anophèle sanh ra chớ đâu phải vì dâu da” nhưng rút cục thì ai cũng thấy rằng khẳng định như thế tức là nói như con vẹt. Chứng cứ hiển nhiên là có nhiều anh em ra kháng chiến uống ký ninh đều đều không bị sốt rét bao giờ, vậy mà hôm ăn thử mấy chùm dâu da bị sốt rét thực, không cãi vào đâu được.
Đau nhất cho người kháng chiến là đi rừng có nhiều thứ củ ăn no lòng được, nhưng khát nước thì, kể về trái cây, chỉ có dâu da là nhiều. Có khi đi cả một ngày đường mà hai bên rừng toàn là dâu da – mà không được ăn, thèm quá, thèm muốn chết…
Có một bọn người, ở trong tình trạng đó, tức quá, một hôm chỉ vào một rừng dâu da, bảo nhau:
- Uất thật. Cả một rừng cây, cây nào cũng chi chít quả to bằng đầu ngón tay cái, mà quả nào cũng mọng nước có khi ngọt lừ, có khi rôn rốt chua, mà không ăn được, thế thì trời sinh ra làm gì? Há chẳng vô ích lắm sao?
Một người trong bọn nói:
- Không vô ích đâu. Chúng tôi vẫn ăn dâu da, nhưng có một điều mà người ở dưới Kinh ít biết: ăn dâu da ở dưới Kinh không có làm sao thực, mà ăn ở rừng thì bị sốt rét thực, nhưng nếu biết cách thì ăn ở rừng cũng vẫn có thể tránh được sốt rét như thường.
- Phải làm sao?
- Không khó. Các anh bộ đội ăn dâu da bị sốt rét là vì mắc công việc, vừa ăn vừa đi, chớ không có thời giờ rảnh rỗi. Theo thói quen truyền lại hết đời này qua đời kia, chúng tôi trước khi ăn dâu da bao giờ cũng phải uống rượu cần - hoặc nếu không có rượu thì ăn xong rồi ngậm một cái lá “gơ ram” nuốt nước bọt rồi nhả cái lá ấy đi. Làm như thế thì không sợ sốt rét. Tôi chỉ biết thế thôi. Nếu hỏi tôi tại sao, tôi chịu. Tôi chỉ thấy ông cha chúng tôi bảo là mấy thứ đó “kỵ” nhau.
- Ăn uống như thế thì vất vả quá nhỉ.
- Tưởng vậy mà thôi, chớ cũng chẳng vất vả gì cho lắm. Là vì chúng tôi ở đây không có đầu tắt mặt tối như người ở dưới Kinh. Ngày của chúng tôi rộng, tháng của chúng tôi dài, chúng tôi ăn uống nhởn nha, thanh thản. Và trong khi ăn uống như thế, bao giờ chúng tôi cũng có dư thì giờ để khề khà trò chuyện với nhau. Các anh em thử tưởng tượng: ngồi trên một cái nhà sàn, đốt lửa nướng thịt trâu, uống rượu cần, trông ra chớp bể mưa nguồn ở đàng xa mà trò chuyện thú vị biết chừng nào. Đến lúc tráng miệng, nhón mấy quả dâu da, bóc vỏ ra, lột hai cái múi trắng ngà ở bên trong để lên trên lưỡi cho nước ở trong hai múi tứa ra, vừa hút rượu cần vừa ngẫm nghĩ đến sự tích trái lửa có hai múi ngà đó, và biết rằng mình ăn dâu là ăn cả một chuyện bi tình của một cặp vợ chồng chung thủy từ lúc sống cho tới khi chết, hỏi ở đời còn có thứ nào phong lưu hơn, cao cả hơn không?
- Anh vừa nói gì? Trái dâu da là một chuyện bi tình của một cặp vợ chồng chung thủy từ lúc sống cho tới khi chết?
- Chớ sao!
Việt ngưng một giây, vê một điếu thuốc cho vào đầu nõ điếu cày rít một hơi nghe muốn xé lỗ tai, hãm một ngụm nước rồi lim dim mắt, ngồi im không nói nữa.
Nhu tưởng anh ngủ, lay anh và nói:
- Chuyện chỉ có thế thôi à?
Việt nói:
- Đâu có! Bây giờ tôi mới bắt đầu. Đây, đầu đuôi câu chuyện trái mác phây mà anh bạn Phổ kể cho tôi nghe như thế này…
Ngày xưa, tại một bản thượng du nọ, có một cây bàng sum suê thường có tiếng đàn địch từ trong lòng cây vọng ra; người ta bảo là có thần ở bên trong. Hàng ngày, có một nàng con gái nhan sắc tuyệt trần đi hái lá kim giao và kiếm nấm xong, về qua đấy, vẫn thường nghỉ chân ở đó, nằm trên bãi cỏ, nhìn mây bay và hát theo tiếng đàn nhạc thần tiên. Bao nhiêu chàng trai trẻ trong bản nghe thấy thế đều đến vây lấy nàng, hát theo và tìm các cách để cho nàng lưu ý. Nàng là Kha Taô, con vị tù trưởng có trâu bò nhiều như kiến đen.
Kha Taô thêu phá lấy để mặc, dệt lấy mền để đắp. Ở tai, có đôi khuyên làm bằng ngà voi, cổ tay, cổ chân đeo không biết bao nhiêu vòng bằng thau. Nàng đang tuổi cập kê. Có nhiều người đến hỏi, nhưng không bằng lòng ai cả. Nàng yêu cây bàng có tiếng đàn địch từ trong vọng ra, yêu gió mơn man cỏ non xanh buổi hoàng hôn, yêu mây trắng, yêu dòng suối đời đời kể chuyện từ trời cao, yêu đất đai màu mỡ và những cánh đồng lúa thơm thơm mùi lành mạnh.
Trong các chàng trai lẩn quẩn ở bên cạnh nàng để mong được nàng để ý, có một người tên là Dam Di, gương mặt tươi hồng như thể ngà ngà say rượu, mà lại như lừ lừ giận dữ. Dam Di đeo một cái khố đủ màu, miệng tươi hơn hớn, khi cười hai làn môi nhếch ra đẹp như hai múi hành, tóc dài thõng xuống vai trông như một quả cà dái dê vừa chín. Dam Di không yêu ai cả, thấy đàn bà con gái là ngó đi chỗ khác ra vẻ như không trông thấy, thế mà từ khi được thấy mặt Kha Taô thì lúc nào chàng cũng muốn được ở cạnh nàng để đọc những trường ca hay nhất cho nàng nghe và hái những bông hoa đẹp nhất biếu nàng để ở dưới chân cho nàng thơm luôn.
Kha Taô ngẩng mặt lên trời, nhìn mây mà cười. Nàng muốn cuộc sống cứ kéo dài ra như thế mãi và tuyệt nhiên không biết rằng Dam Di yêu thương mình.
Giữa lúc đó, có một chàng trai khác ở một rừng núi xa xôi trở về bản thấy Kha Taô cũng say mê liền. Trớ trêu thay người ấy lại chính là Dam San, em ruột của Dam Di. Dam San không biết là Dam Di cũng yêu nàng Kha Taô như mình. Dam San cho rằng anh mình yêu Kha Taô như một người anh yêu một người em gái, còn mình mới yêu với cái tình trai gái yêu nhau.
Còn Kha Taô thì không biết và cũng không phân biệt hai thứ tình yêu ấy. Kha Taô yêu cả hai như hai người anh lớn tuổi, duy nàng nhận thấy hai người này tuy là anh em máu mủ nhưng tâm tính khác nhau hoàn toàn. Dam Di là một người mơ mộng y như nàng, yêu cây bàng có tiếng đàn địch từ trong lòng vọng ra, yêu gió mơn man cỏ non xanh, yêu mây trắng, yêu dòng suối đời đời kể chuyện từ trời cao, yêu đất đai màu mỡ và những cánh đồng lúa thơm thơm mùi lành mạnh. Còn Dam San thì hoàn toàn trái lại. Sau nhiều năm lội sông trèo núi, ăn gió, nằm sương ở các bộ lạc Mán, Sré, Bana, Kha, Mèo, Lô Lô, Dam San về đến làng được ít lâu thì bắt tay ngay vào việc dạy dân trồng lúa ở nương đồi núi, không để cho cỏ mọc lẫn với lúa. Dân làng nghe theo, phát cây cối ngã xuống, đốt ra than làm rẫy, tỉa lúa, tỉa bắp dễ dàng. Họ hết lời ca ngợi Dam San. Chàng nói:
- Ủa, dân làng ta đây chưa thạo nghề săn bắn!
Chàng lại dạy cho dân làng cách thức đào hầm hố, lót cành cây rồi phủ cỏ lên trên, dồn thú rừng cho sa xuống hầm, rồi lại đi tìm các lá cây đun lên nấu thành nhựa, tẩm vào mũi tên để bắn. Biết được hai thuật đó, dân làng kể từ đó săn được không biết bao thú rừng: cọp, tê, nai, voi, beo, giống nào cũng bị sa lưới hay bị tên độc bắn chết. Dân làng thừa ăn, sống một cách an vui sung sướng nên lại càng cảm ân đức của Dam San và cho chàng là một vị khắc đã đem hạnh phúc đến cho làng mạc.
Chưa hết. Một khi ngồi uống nước với các bậc già lão trong làng, Dam San lại ngỏ ý rằng người là một cái vốn rất quý, nếu có thua kém thì chỉ có thua kém Trời, Đất và Thần linh thôi, chớ tất cả tà ma quỷ quái thì nhất định không thể làm gì được ta, phải thần phục chúng và trừng trị thẳng tay là khác.
Đến đây, Dam San gặp rất nhiều sự chống đối của dân làng, mặc dầu Dam San đã hết lời thuyết phục. Là vì dân làng này rất ngang bướng và hùa theo những phong tục tập quán mấy trăm năm nay không thay đổi, cái gì chứ bảo không thờ cúng ma quỷ thì không có cách gì nghe được.
Nhưng sự chống đối ấy sẽ chỉ tiến tới đó và không thể đi xa hơn nữa nếu không có một sự đáng tiếc xảy ra chính vào giữa lúc Dam San khích lệ dân làng cách cúng vái thần linh cho phải phép và bỏ cái tục cúng vái tà ma quỷ sứ đi.
Sự đáng tiếc đó là một đám cháy giữa lúc già trẻ lớn bé trong làng tụ tập nhau để uống rượu cần vì có một người đàn ông trong làng bị cọp vồ.
Nhưng trước khi nói về đám cháy này, ta phải biết tâm trạng nàng Kha Taô ra sao trước những cuộc cải cách mà Dam San đem lại cho dân làng.
Không. Phải thành thực nói rằng tất cả dân làng, không phân biệt lớn bé trẻ già, ai cũng nhận Dam San là người Trời sai xuống để đem hạnh phúc đến cho họ và tất cả đều cho Dam San là một vị thần đáng kính.
Vừa kính vừa yêu Dam San là nàng Kha Taô. Mặc dầu là con gái một tù trưởng có những cái nhà dài như tiếng ngân của cái cồng, mặc dầu có voi, ngựa, trâu bò như kiến đen, mặc dầu có nhiều vòng đôi và nhiều đầy tớ, Kha Taô cũng bỏ “váy phồng lên theo mỗi bước chân đi, trông như con gà mẹ xù cánh che chở đàn con” để mặc một cái khố nhỏ đi đốt rẫy làm rừng, kêu lên những tiếng hú kỳ lạ để đi săn thay cho những tiếng gọi nhau ơi ới, và đeo một con dao dài cong lưỡi đằng sau lưng, xăm chàm ở ngực và tay để ngăn ngừa bệnh tật.
Bây giờ, Kha Taô không còn yêu gió sớm mây chiều, trăng non gió vàng, không còn yêu dòng suối xanh rót tiếng hát từ trên trời cao xuống đất, mà cũng không còn yêu những bông hoa lạ mà Dam Di đi hái để ở chân nàng cho thơm. Dưới mắt Kha Taô bây giờ mặt trời, mặt trăng vô nghĩa, chim chóc bướm hoa chỉ là không. Nàng chỉ thấy có một người, mà người đó là Dam San.
Quên làm sao được một chiều kia đứng dựa chiếc cầu tre, bên một ngọn suối cao chót vót trên đỉnh núi, Dam San, vai mang một cái gùi đã nói như rót vào bên tai nàng mấy câu ân tình thánh thót như một bài ca tuyệt tác:
Da nàng thơm hơn hoa lan trong rừng,
Chân nàng và ngực nàng trắng hơn ngà voi mới lên ba tuổi,
Làn da nàng mỏng quá tưởng chừng như lấy kéo xắt mỏng ra cũng không bằng,
Mỗi khi nàng đi rừng một mình để đào củ khoai mài, tôi muốn theo nàng vào rừng để mời nàng một miếng trầu gắn bó…
Nếu Kha Taô bằng lòng lấy Dam San thì Dam San sẽ cưới Kha Taô với một cái bát lớn bằng bạc, hai cái chiêng đồng, một cái mền vải xanh đỏ và một con trâu trắng.
Hứa với nàng, đôi ta sẽ ăn ở suốt đời bên cạnh nhau, tình duyên của đôi ta sẽ vững chắc như đôi bàn chân voi… ([1])
Nghe lời Dam San, Kha Taô cảm thấy lòng nàng nở hoa nhưng làm ra bộ dỗi nguây nguẩy, không ưng chịu:
- Anh Dam San, anh đừng có nói nhiều. Ví bây giờ anh có trâu bò cả trăm con, vòng bạc ngàn chiếc, và xâu chuỗi ngọc biếc hàng đống, tôi cũng chẳng lấy anh đâu.
Trong bóng chiều tà, Dam San buồn rũ như một đám mây đen báo hiệu một cơn mưa sắp tới. Kha Taô cười, nói tiếp:
- Tôi lấy anh mà không cần gì cả. Tôi chỉ cần có một thứ: lửa lòng của anh. Và tôi tin rằng chỉ có lửa lòng của anh mới xứng đáng với lửa lòng của tôi.
Dam San và Kha Taô đưa nhau về làng. Ngày ngày, trông ra tơ trời giăng mắc trên ngàn lau bên bờ suối có tiếng gió rì rào kể chuyện ân tình, Kha Taô và Dam San hát lên những bài ca yêu đương thắm thiết làm cho đồi núi, cỏ cây, mây nước cũng phải lắng tai nghe và ghen tức cuộc tình duyên thần thoại. Trong lúc đó, ở trong một cái nhà sàn dựng lên, không xa chỗ cây bàng có tiếng đàn địch véo von mấy chút, có một người uất ức thở dài và nhai một khối hận tím không có cách gì tiêu tan được.
Người ấy là Dam Di, anh ruột của Dam San.
Uất ức vì em lấy mất người yêu của mình, Dam Di quên hẳn tình máu mủ, không kể đến ruột thịt anh em, nung nấu một âm mưu quyết diệt trừ Dam San cho kỳ được và cướp lại Kha Taô. Thì ra đến lúc quá giận mất khôn thì chẳng còn đếm xỉa gì tới nhân luân đạo lý, nhiều khi vì tư lợi, tư thù có thể tàn sát người ruột thịt của mình còn hơn cả người ngoài nữa.
Dam Di tìm một thầy phù thủy bàn mưu rồi leo ba trái núi, lội năm con suối đến động Thiên Muông, hạt Xã Xơn, kiếm một bà Chằng nổi tiếng là có nhiều ma thuật. Hơn thế, bà Chằng này lại kết giao với hai con quái vật nổi tiếng là độc ác: một con thuồng luồng và một con ác điểu. Bộ ba này làm mưa làm gió cả một vùng, ai nghe cũng khiếp sợ - nhất là con thuồng luồng mà cũng coi là một con tinh ghê gớm.
Dam Di bán linh hồn cho bà Chằng, ác điểu và thuồng luồng và nhờ ba quái vật này giúp tay mình trong việc bắt cóc Kha Taô và thủ tiêu em ruột mình là Dam San.
Được lòng tin của ba quái vật rồi, Dam Di trở về làng hành động theo đúng mưu kế của bà Chằng đã dạy. Một đám cháy lớn đột nhiên bùng lên trong làng giữa lúc già, trẻ, lớn, bé tụ tập nhau uống rượu cần vì có một người đàn ông trong làng bị cọp vồ. Lửa bắt đầu bốc lên từ căn nhà Kha Taô, lan qua những căn nhà khác rồi lém sang những nhà sàn ở đàng trước, đàng sau, không chừa một căn nhà nào. Dân làng đạp đổ những vò rượu cất đã lâu ngày để chạy - chạy mà không kịp mang được thứ gì: mền chiếu, cung nỏ, dao rựa, quần áo cũng như vòng cổ tay, hết thảy đều bị thiêu ra tro. Thê thảm nhất là trâu, bò, gà, lợn cũng chết cháy hết. Thôi rồi, bao nhiêu công của dành dụm trong bao nhiêu năm trời, bây giờ, chỉ còn là một đống tro than cao ngút như trái đồi. Tất cả mọi người ôm nhau mà khóc. Họ giậm chân, đấm ngực, vò đầu, cào mặt và tin rằng thần linh đã trừng phạt họ vì có một bọn người nào đó làm điều tội lỗi khiến cho thần linh nổi giận.
Họ bèn đi kiếm thầy phù thủy để hỏi vì tất cả yên trí rằng thầy phù thủy thả hồn đi khắp trên thiên đình và dưới âm cung có sức để mà biết rõ cái tội ấy là tội gì và do người nào đã gây ra.
Tên phù thủy, vốn đã thỏa hiệp với Dam Di từ trước, nhắm mắt lại hồi lâu trước một bàn thờ có bày thịt trâu còn máu, ba con gà và một cái đầu dê, bỗng vùng dậy hét lên: “Không phải tìm đâu xa! Kẻ gây ra tội khiến thần linh nổi giận chính là Dam San và Kha Taô. Chúng nó lấy nhau ngoài vòng lễ giáo cho nên thần Mặt Trời phối hợp với thần Sấm và thần Sét đã gây ra đám cháy này để thiêu đốt làng ta. Nếu không giết chết Dam San đi thì tai họa sắp tới còn ghê gớm và thê thảm gấp trăm ngàn lần nữa”.
Thế là già trẻ lớn bé, đàn ông đàn bà trong làng vác gậy tầy, rìu búa và dao rựa đi tìm Kha Taô và Dam San.
Nhưng họ chỉ thấy Dam San ngồi gục xuống một gốc cây đại thọ một mình mà tuyệt nhiên không thấy bóng Kha Taô đâu hết.
Tất cả dân làng hô lên:
- Đâm chết thằng đàn ông ma quái này đi! Chính nó đã quyến rũ Kha Taô, gây ra tội và làm cho làng ta cháy rụi! Chính nó đã làm cho dân làng ta khổ cực, mồ mả ông bà cũng bị bật lên vì nó, đạo lý cương thường bị xáo trộn vì nó, bây giờ ta không có bát cơm ăn vì nó. Giết chết thằng vô thần ấy đi!
Một người lại gần hét lên:
- Giết nó đi, không được. Thần linh có thể vẫn chưa nguôi giận.
- Phải làm sao?
Một ông già nhất trong bọn đứng ra:
- Bắt lấy nó. Trói nó lại. Ngày mai, ta sẽ làm lễ tạ thần linh và vứt nó vào trong một giàn củi đang cháy.
Dam San tức thì đứng thẳng dậy, vươn vai hỏi lớn:
- Các người làm gì thì làm. Ta chỉ muốn biết một điều này, khá trả lời ngay. Các người có thấy Kha Taô ở đâu không? Bảo cho ta biết, ta vui lòng chịu hết những tội lỗi mà các người gán cho ta.
Một người xông ra chỉ vào trán Dam San:
- Thôi đi, mi đừng lòe bịp nữa. Chính mi đã ăn thịt Kha Taô rồi!
Ông già khi nãy giơ tay ngăn lại:
- Không nên nói bất cứ điều gì vô căn cứ, nếu mắt ta không trông thấy thực.
Rồi nhìn vào Dam San:
- Ta trông thấy thực, ta nói. Trong khi đám cháy bốc to, ta đã trông thấy có một mụ già đến bắt Kha Taô chạy về vùng núi Khâu Song.
Dam San nhắm mắt lại như một người ngủ đứng. Mọi người im lặng đợi xem y làm gì. Bỗng đồi núi chung quanh vang lên một tiếng thét:
- Kha Taô bị nạn rồi. Hỡi hỡi dân làng, các người là một lũ điên, các người không biết rằng tên phù thủy này là kẻ thù ghét ta nhất từ khi ta trở về làng chỉ bảo cho anh em chị em làm rẫy, đi săn, cải cách việc cúng tế thần linh, ma quỷ. Tất cả những lời nó nói chỉ nhằm mục đích diệt ta. Không đời nào ta để cho nó sống.
Nghe thấy thế, tên phù thủy run lẩy bẩy, tuy miệng vẫn hò hét: “Giết nó đi! Giết thằng đàn ông ma quái ấy đi!”.
Mắt Dam San tiết ra một ngọn lửa làm cho mọi người sợ hãi. Ai cũng đứng trơ ra nhìn. Dam San lùi lại một bước, nhổ một cái cây lên. Tên phù thủy bắt quyết. Dam San cầm cái cây đập vào đầu, óc nó tung tóe ra bên ngoài. Dam San quắc mắt nhìn dân làng mà nói:
- Ta không hề muốn giết hại tên phù thủy này. Nhưng nó mê hoặc dân làng, xúi bẩy dân làng diệt trừ những người ngay thẳng như ta, nên bất đắc dĩ ta phải giết nó để trừ một hậu họa cho dân làng. Bây giờ kên kên sẽ xuống ăn xác nó. Ta không cần nghĩ tới. Điều phải làm ngay là tái thiết lại làng. Ai theo ta? Đứng cả về một phía! Ai không theo ta? Cũng đứng cả về một phía!
Không ai bảo ai, họ dạ rân rân lên vang cả núi đồi và đứng về phía Dam San.
Ngay hôm sau, già trẻ lớn bé trong làng bắt chước Dam San vận một cái khố nhỏ vào rừng chặt cây, cất lại nhà cửa, làm lại khung cửi, dệt lại quần áo. Rồi chẳng mấy lúc làng trở lại phồn thịnh gần như trước. Bấy giờ Dam San mới mời ông cụ trước đây đã nói trông thấy có người đem Kha Taô chạy vào vùng núi Khâu Song, yêu cầu thuật lại rõ ràng sự việc đó. Ông cụ nói:
- Tôi không thể lầm được. Qua đám khói bốc lên từ nhà Kha Taô, tôi trông thấy một mụ già đi với hai người con gái đến bắt Kha Taô và rảo bước về núi Khâu Song. Tôi thấy rõ Kha Taô giựt tay mụ ra để quành lại, nhưng có hai người con gái giúp sức cho mụ nọ và ghìm tay Kha Taô lại nên nàng không thể chống lại ba người đó.
- Trong lúc ấy, lão có thấy tôi đứng đâu không?
- Tôi thấy Dam San đương cởi trần ra giựt những cái nhà đang cháy và ôm những đứa trẻ ở trong nhà cháy ra.
Dam San gật đầu suy nghĩ. Bấy giờ chàng cảm thấy hơi tiếc đã giết mất tên phù thủy, phải chi bắt giữ nó được đến bây giờ thì nó đã tiết lộ biết bao nhiêu điều hữu ích. Là vì đến lúc Dam San cảm thấy rõ rệt là Kha Taô bị một mụ già và hai người con gái bắt dẫn đi có liên quan đến vụ tên phù thủy giả đò đi hỏi các thần linh, rồi vu cáo chàng là kẻ đã gây ra tội lỗi cần phải giết, kẻo không các thần linh nổi giận và còn ra tay nữa!
Tiếc thay, tên phù thủy đã chết mất rồi. Nhưng Dam San không thất vọng: chàng triệu tập dân làng lại và hỏi có ai dám cùng chàng đến núi Khâu Song không.
Những người già cả nhất lắc đầu khuyên:
- Không bao giờ nên tới đó!
- Là vì núi ấy có tiếng nguy hiểm nhất vùng này, đến đấy chỉ có chết mà không có hy vọng gì về được bởi vì ở đấy có ba quái vật: một bà Chằng, một ác điểu, một thuồng luồng thành tinh.
- Có lẽ mụ đàn bà đến bắt Kha Taô hôm cháy lớn là bà Chằng ấy chăng?
- Sao lại không thể như thế được?
- Nếu vậy, ta càng phải đến Khâu Song và ta càng phải tìm cho được con mụ Chằng ấy.
Thấy con mắt nảy lửa của Dam San và giọng nói cương quyết như dao rựa chém cây, bao nhiêu người dự buổi họp đều cúi nhìn cả xuống đất, không dám ngăn cản Dam San nữa.
Đúng như lời thiên hạ vẫn đồn ở Khâu Song, quả có một mụ Chằng, một ác điểu và một con thuồng luồng thành tinh thật.
Những ông già bà cả kể chuyện rằng có nhiều người đi rừng đến đấy, đến đoạn đường lên núi Sâm Khê, thường gặp hai người con gái vẫn đi lại nhởn nha dưới những cội tùng cổ thụ. Thường thường, thấy người lạ, hai người con gái đó thường bắt chuyện và cho biết rằng đất ở đây dữ lắm, khe nào động nào cũng có những con quái vật gớm ghê, nếu lỡ không biết mà đi vào đó thì có thể yên trí là mất xác.
Người nào yếu bóng vía nghe thấy thế mà sợ, nhờ hai cô gái nọ đi trước để chỉ cho con đường ngay, không lo gặp hiểm nghèo, chết chóc, nhưng chính ra thì hai cô dẫn đến động Thiên Muông cho mụ Chằng ăn thịt, bởi vì hai cô gái ấy là cháu của mụ Chằng.
Lúc Dam San và dân làng đến Khâu Song, hai cô gái ấy cũng tình nguyện đưa đường cho họ. Nhưng vừa đi được một quãng thì mụ Chằng lù lù ở đâu tiến tới. Mụ gầy như một bộ xương khô, hai mắt thì long lanh sáng, luôn luôn thè một cái lưỡi dài ba thước quay bên này, quay bên kia. Đoán rằng đây là kẻ đã đi với tên phù thủy lập mưu hãm hại mình và bắt sống Kha Taô, Dam San hô một tiếng trời rung đất chuyển:
- Bà con anh em đứng cả lại, kẻo quái vật phun độc khí. Để cho một mình tôi xử trí với nó thôi.
Nói đoạn, Dam San tuốt gươm ra tiến lên trước mặt bà Chằng, ngăn lại và bảo:
- Trả ta Kha Taô!
Mụ Chằng không trả lời, thè cái lưỡi dài ra quấn lấy những vết gươm Dam San chém vào người mụ. Cuộc giao chiến kéo dài cả một nửa ngày, nhưng rút lại vô hiệu quả. Mặt trời lên cao, mồ hôi Dam San nhỏ giọt. Dân làng đứng xem, vừa sợ hãi vừa tức giận, không biết cách gì để ứng cứu Dam San, đành chỉ biết gào thét lên.
Kết quả mụ Chằng lại thoát. Uất ức không để đâu cho hết, Dam San đuổi theo đến cửa hang của mụ ta, nằm trốn dưới một tảng đá ở cửa hang để dò xem tình hình. Thì thấy tiếng hai đứa con gái khi nãy đương hỏi thăm mụ Chằng về cuộc giao chiến vừa qua. Chúng nói:
- Rõ thật không may. Sao bữa nay lại gặp một thằng cha quái ác như vậy nhỉ!
Mụ Chằng thở hổn hển không nói. Hai đứa con gái tiếp:
- Dì phải cẩn thận. Chúng cháu e rằng nó còn lởn vởn ở đây.
Mụ Chằng cười gằn:
- Nó còn gặp ta lần nữa, chắc chắn là nó chết.
- Dì nên cẩn thận, chớ nên khinh suất. Nó mà biết sở đoản của mình, bôi đồ dơ vào gươm của nó thì lưỡi dì liếm gươm của nó để chống đỡ e mất công hiệu đi chăng?
Biết thế, Dam San khẽ rón rén bò ra khỏi chỗ ẩn, đi về phía dân làng đứng đợi. Chàng lấy phân ngựa và nước đái voi bôi vào gươm, rồi bảo tất cả người đi theo cùng lấy đồ dơ bẩn trát vào dao rựa như thế, đoạn hè nhau xông cả vào trong hang của mụ Chằng.
Xung phong, Dam San huơ gươm chém mụ Chằng đứt lìa cổ, trong khi dân làng phân ra làm hai toán: một, bồi sức cho Dam San để chém ngang người mụ, còn một thì bắt sống hai người con gái để buộc đưa đến chỗ giam giữ Kha Taô. Hai đứa con gái kêu khóc van lạy xin tha chết và thú thực là quả chúng nó đã đi với mụ Chằng bắt Kha Taô hôm xảy ra hỏa hoạn, tuy nhiên Kha Taô hiện giờ không ở đây, nhưng bị giữ ở một nơi khác kín đáo hơn.
Hỏi ở đâu thì chúng nói:
- Ở hang thuồng luồng.
- Cách đây bao xa?
- Chừng bảy dặm. Nhưng đến hang thuồng luồng phải qua một núi Son Phách là tổ của con ác điểu kêu một tiếng thì chuyển động núi rừng, kêu hai tiếng thì người mạnh đến đâu cũng phải ngất đi bất tỉnh, kêu ba tiếng thì đất lõm xuống hàng trăm thước và chôn sống những người ở đó.
“Con ác điểu này là đồng minh với bà Chằng, có nhiệm vụ trấn ải địa đầu để bảo vệ hang thuồng luồng thành tinh vốn là tổng hành dinh của mụ.
Dam San nói:
- Chúng ta đến đó.
Nói rồi, cả bọn rần rần kéo nhau đi, sau khi đã ném xác mụ Chằng xuống dòng sông Đen cạnh đó. Tục truyền xác của mụ bị băm vằm thành ra nhiều mảnh, gặp hơi nước thì sống lại, bây giờ thành ra giống đỉa ban ngày hút máu người mà ban đêm thì biến thành giống quỷ đi tìm những đất lành để cướp phá và không ngại dùng những đòn ác độc nhất, mọi rợ nhất để mưu toan tuyệt diệt dòng giống người ta.
Theo sự chỉ dẫn của hai người con gái, Dam San và dân làng đi về phía núi Son Phách. Dam San hỏi hai người con gái:
- Tất cả những lời chúng mày nói về con ác điểu đều là những lời xảo trá, nhằm làm cho người nghe sợ hãi, không dám động chạm đến nó đó thôi. Riêng ta biết chắc nó chỉ là một thứ “quái vật giấy”, không làm được cơm cháo gì hết. Mụ Chằng mà còn chết vì lưỡi gươm này, thì cái thứ nó có ai thèm đếm xỉa làm gì. Tuy nhiên, ta không muốn phí sức làm chi. Ta muốn có cách gì trừ diệt nó cho thiệt lẹ. Chúng mày khai cho thực, ta tha cho tội chết.
Hai đứa con gái nghe nói thế, mừng quá, rập đầu xuống đất mà thưa:
- Thưa, đúng nó là “quái vật giấy”. Nó chỉ ham ăn thôi. Nhử nó xuống núi giết nó là việc dễ ợt.
- Làm thế nào để nhử?
Hai người con gái đáp:
- Thui một con heo rồi chôn đầu xuống đất.
Dân làng vào trong một cái bản gần đấy kiếm một con heo, đem thui, rồi chôn đầu heo xuống đất. Trong chốc lát, trời đất tối sầm hẳn lại. Thì ra là con ác điểu bay từ trên núi xuống, đôi cánh xòe ra che khuất bóng cả một vùng. Nó vừa ngửi thấy mùi heo thui, bay xuống để ăn, nhưng chưa xuống hẳn, còn đứng đậu trên một cành cây cổ thụ. Cả cái cây rung chuyển, lá rụng xuống rào rào như mưa. Dam San bèn giương một cái nỏ lớn, rút ba mũi tên tẩm thuốc độc bắn ra cùng một lúc vào chim. Nhưng cả ba mũi tên chỉ làm cho chim loạng choạng thôi. Dam San phải bắn bồi thêm hai mũi tên tẩm thuốc thật độc vào chính cổ, chim mới ngất ngư. Dân làng phải tung dây thừng lên cành cây, quấn chân chim kéo xuống, lấy dao rựa bổ vào đầu nó nhiều nhát, con ác điểu mới lăn quay ra chết thật.
Qua đã nhiều rừng. Qua đã lắm thung. Dam San và các bạn đến hang thuồng luồng thành tinh. Vị cố lão đã từng trông thấy mụ Chằng và hai cô gái bắt cóc Kha Taô đem đi hôm xảy ra hỏa hoạn mới nói:
- Đến đây, xin các anh em phải cẩn thận hết sức, cẩn thận hơn cả đối với mụ Chằng và con ác điểu.
Mọi người hỏi tại sao. Vị cố lão nói:
- Là vì nội trong các giống quái vật, thuồng luồng là giống độc ác nhất mà cũng căm thù loài người nhất.
- Tại sao lại có chuyện như thế?
- Thế anh em không nhớ sự tích nó sao? Theo cha mẹ chúng tôi kể lại khi chúng tôi còn bé thì ngày xưa, ở vùng thượng du, có một cô gái chăn trâu ở bờ sông Tam Đường, một hôm, gặp một chàng trai mạnh khỏe và đẹp như mặt trời.
Đẹp như mặt trời, nhưng lại không phải là thiên thần, mà là một thứ ác quỷ ở cõi âm. Cô gái chăn trâu và chàng trai nọ luyến ái nhau. Chàng trai đưa cô gái về âm phủ, ít lâu sau, cô ta có chửa. Nhớ dương trần, thương cha mẹ, cô ta bèn nói với chồng cho về thăm nhà rồi lại trở về cõi âm với chàng, nhưng biết là cuộc tình duyên này đến đây là hết, chàng dặn vợ:
- Tương lai không biết ra thế nào mà nói trước, tuy nhiên anh cũng dặn em một điều. Nếu một ngày gần đây, em có hạ sanh thì nhớ nuôi con theo cách này: chỉ cho uống nước, và không bao giờ thiếu nước.
Chín tháng sau, cô gái sanh ra một con cá lớn lên như thổi. Theo lời cha nó dặn, cô chỉ cho nó uống nước, nhưng nó uống nước nhiều quá đến nỗi cả nhà gánh nước mà không đủ cho nó uống. Bần cùng bất đắc dĩ, cô đành phải đem nó ra bến sông Tam Đường thả xuống nước mà nói: “Mẹ hết lòng nuôi con nhưng bây giờ ở vào cái thế không thể nào nuôi con được nữa, nên phải rứt ruột thả con đi để cho con sống theo loài của con”.
Con cá chiếm vực sông Tam Đường mà ở. Một hôm kia nó lên nằm phơi nắng trên một bãi cát ở bến sông thì có con rể của viên chúa Bầu đi săn qua đấy, trông thấy giương cung bắn chết. Chết nhằm giờ thiêng, con vật theo dõi nhà chúa Bầu mà báo oán làm cho chúa bị lưu ly oan khổ và kết cục bao nhiêu đất cát đều bị người khác chiếm cả, không còn gì, thậm chí đến khi chết không có một manh chiếu để mà bó xác.
Thấy thế, dân làng ở những vùng quanh đấy tôn con cá ấy làm thần Tu Ngước, con cháu nó, họ gọi là Tu Ngu Nàm mà người Việt kêu là thuồng luồng và truyền tụng với nhau rằng, nội trong các giống cá ở biển khơi, giống thuồng luồng là giống vật giữ một mối thù ghê gớm nhất đối với loài người.
Kìa, mải vui câu chuyện, chúng ta đến hang thuồng luồng từ lúc nào không biết.
Theo dân chúng ít ỏi ở vùng này thuật lại, cái hang thuồng luồng này trông bên ngoài tùm hụp không mấy lớn và có nhiều cây sanh, cây si cổ thụ che phủ cửa hang. Nhìn những cái rong rêu xanh thẫm đóng từng tảng lớn ở những cái vụng chung quanh, từng chỗ lại có những đám lau lách đìu hiu có gió chạy rì rào, ai cũng tưởng đó là một nơi hoang phế từ ngàn năm không có bóng một con vật nào qua lại, nhưng sự thật thì những đêm có bóng trăng mờ mờ, ai đi qua đấy sẽ thấy sinh hoạt cả một thế giới hỗn mang, gồm cả tà ma, quỷ quái, hồ ly, mà tiếng hú xen lẫn tiếng cười, tiếng gào thét xen lẫn với tiếng nỉ non khóc lóc.
Người ta bảo rằng những tiếng khóc nỉ non đó là của những người con gái tuyết trinh bị dì cháu mụ Chằng đồng lõa với ác điểu và thuồng luồng bắt cóc đem về đó để hãm hiếp và bắt làm nô lệ, vì người ta quả quyết rằng cái hang đó đi sâu quá vào trong thì phình lớn ra và trang trí như một cung động vua chúa, đủ các kỳ châu dị bảo và suốt ngày đêm vang âm tiếng đàn ngọt hát hay.
Tất cả những lời đồn ấy, dù sao cũng chỉ là giả tưởng bởi vì thực ra đã có người nào vào hang ấy mà trở về được đâu? Những sơn nhân lảng vảng kiếm củi chung quanh đấy, con thuồng luồng thành tinh không để cho mà yên thân. Dân số mỗi năm mất tích cũng đến mươi người là ít. Có nhà có con gái sắp lấy chồng, quay đi quay lại, mất con gái lúc nào không biết. Lại có khi có cặp vợ chồng đương ngồi trên sàn nhà ăn cơm, bỗng có một trận gió hôi tanh thổi tới làm rung chuyển cả núi non, nhà cửa, làm đổ cả cây cối, làm tối tăm mù mịt cả trời đất, rồi người vợ bị cuốn đến hang thuồng luồng… Đã hơn một lần, dân cư không chịu nổi cái khổ thống ấy, liều chết cầm đuốc lửa kéo nhau rần rần đến đốt cái hang ma quái, nhưng vô ích. Là vì họ vừa tới cửa hang thì một làn gió lạnh lẽo mà tanh tưởi từ miệng hang đã bốc ra, thiêu rụi các cây đuốc, kế đó gió chạy cát bay làm cho những người mạnh nhất cũng không thể nào đứng vững. Thế là họ giẫm cả lên nhau mà chạy về để thoát lấy thân. Do đó, nhiều người bị chết oan ức, còn những người thoát nạn mà chạy về được đến cửa đến nhà cũng sinh ra đau ốm không chứng này thì bệnh kia. Nhiều người vì thế phải bỏ bản mà đi kiếm nơi khác sinh nhai. Còn những người vì không có phương tiện để tha phương cầu thực đành ở lại, nhưng luôn luôn kéo dài một cuộc đời lo sợ phập phồng, không biết sống lúc nào, chết lúc nào.
Dam San và dân làng kéo đến trước cửa hang thuồng luồng cũng theo đúng cách như những người trước đó, đốt đuốc cháy phừng phực và hò reo rầm rộ để tác oai với con tinh thuồng luồng. Nhưng, cũng như đối với dân chúng trong vùng nổi lên chống đối mấy lần trước đó, họ chưa tới được cửa hang thì bao nhiêu đuốc lửa thốt nhiên tắt hết. Từ trong hang, một làn hơi lạnh buốt và tanh tưởi xông ra làm cho mọi người nghẹt thở, muốn lăn ra chết liền. Họ không hò reo được nữa, nước mắt nước mũi trào ra. Thế là họ bỏ chạy tán loạn, người nọ giẫm cả lên người kia mà chạy. Đến một cái đồi cách đó không xa, họ trèo lên nhìn lại phía hang thì thấy sương khói bốc lên mịt mù. Dam San một mình vẫn cứ tiến vào hang Tu Ngước. Quái lạ, sao ở giữa đám khói sương ấy, ngọn đuốc của Dam San lại không tắt mà mỗi phút lại mỗi cứ bùng lên?
Bây giờ, họ trông kỹ thì không còn phải là ngọn đuốc thường như lúc đầu nữa, mà là một ngọn đuốc khổng lồ, một ngọn đuốc kỳ dị, một ngọn đuốc từ xưa đến lúc đó, chưa ai từng trông thấy bao giờ.
Thì ra cả người Dam San bây giờ là một ngọn đuốc cháy bùng bùng, bao nhiêu hơi lạnh bốc từ trong hang ra không còn cách gì làm cho tắt được. Dam San chạy tuốt vào trong hang thuồng luồng, bao nhiêu cây cỏ ở miệng hang cháy xèo xèo và rụng rào rào như mưa.
Về sau này, các cố lão trở về lập nghiệp ở vùng này, kể lại cho con cháu nghe cuộc chiến đấu kinh khủng giữa Dam San và con thuồng luồng thành tinh, thường kết thúc câu chuyện bằng một “Trường ca Dam San” đại để như sau:
Dam San đánh nhau với con thuồng luồng thành tinh trong hai ngày hai đêm liền. Con thuồng luồng càng phun tà khí ra thì cây đuốc thịt Dam San lại càng cháy to hơn. Ấy là vì trong mấy tháng trời nung nấu mối thù, sau khi đập nát óc tên phù thủy, Dam San đã vào rừng tìm được những thứ lá bắt lửa cổ truyền của miền thượng, đem sao tẩm theo một phương pháp bí mật, rồi dùng thoa khắp cả người. Có lửa, chất nhựa ấy bốc lên còn dữ hơn cả đình liệu nữa, mà càng có gió thì lửa lại càng cháy to hơn và cao hơn. Nhưng đặc điểm của lửa ấy không phải chỉ có thế mà thôi. Nó là một thứ lửa kỳ lạ mà không phải ai cũng luyện được và dùng được. Điều tiên quyết là người dùng lửa đó, tự mình, đã phải hun đúc từ lâu một thứ lửa linh thiêng khác: lửa lòng. Có lửa lòng thì lửa thần đó mới linh – mà linh nhất là mặc dầu nó bốc lên rất lớn, rất cao, nhưng không hề đốt cháy được da thịt người thoa thứ dầu đó, trái lại, khi nào xét ra không cần đến ngọn lửa để làm cây đuốc thịt đó nữa, thì chỉ việc niệm một câu thần chú và lấy một ít bột ra thoa vào trán thì tự nhiên lửa tắt hẳn và người tẩm dầu làm đuốc lại trở lại nguyên vẹn như người thường.
Vậy là tà khí của con tinh Tu Ngước không có cách gì làm hại được Dam San. Càng đánh càng mạnh – vì có ngọn lửa lòng trợ lực thêm – Dam San sau hai ngày hai đêm, vật ngã con thuồng luồng, bắn ba phát tên lửa vào miệng nó. Con quái vật ngã lăn như một con ma mút giẫy chết, cái đuôi nó quật vào thành hang làm rung chuyển cả một vùng chung quanh và bao nhiêu phiến đá khổng lồ ở đấy đều nát ra như sạn.
Dam San nhấc bổng xác con thuồng luồng quăng xuống nước ngập lút cả mình, chỉ thòi ra cái đầu. Dam San rút gươm chém phăng cái đầu ấy rời khỏi mình thuồng luồng. Truyền rằng đầu ấy theo dòng nước qua Xiêm và hàng vạn nô lệ của nhà vua lúc bấy giờ ra sức kéo mà không nổi.
Nói về Dam San, sau khi đã chém đứt đầu thuồng luồng rồi, chàng xông vào hang động ở phía trong, đi đến chỗ nào bao nhiêu nô lệ của thuồng luồng đều chết cháy như than cả. Đã thất vọng vì tưởng không thấy được Kha Taô đâu nữa thì chàng chợt thấy ở dưới đất một sợi chỉ xanh biêng biếc. Dam San chợt nhớ lúc Kha Taô bị bắt cóc thì đương đánh ống, màu chỉ này là màu chỉ ưa thích của nàng, mà Dam San trước đây vẫn thường thấy trên thoi dệt.
Dam San cầu nguyện cho sợi chỉ không đứt giữa quãng. Chàng lo sợ. Sự lo sợ mỗi lúc mỗi tăng thêm, nhưng sau cùng chàng thấy điều mình đoán mỗi lúc mỗi thêm chắc chắn: đầu chỉ biến trong một cái phòng đá nhỏ. Dam San bước vào thì quả là Kha Taô đương bị giam trong ấy. Lập tức Dam San lấy thuốc bột thoa vào trán. Lửa cháy bùng trên da thịt chàng phụt tắt. Dam San chạy vội lại cởi trói cho vợ. Hai người ôm lấy nhau. Nước mắt của Kha Taô đỏ như máu, rơi xuống thành một thứ hoa mà bây giờ ta vẫn gọi là hoa súng.
Ra về, Dam San nhìn lại chỗ mình vừa đánh nhau với con thuồng luồng thì thấy cây cối chết rụi cả, không còn một cây nào đứng vững. Nhưng lạ thay là tình yêu chung thủy của người đàn ông và người đàn bà: chân họ bước tới đâu thì đất lại mịn màng trở lại, cây cối có vẻ như được hồi sinh mà đá núi, nước khe như thể reo lên để cảm ơn người mạnh của núi rừng đã can trường chiến đấu chống một quái vật từng làm cho họ bao nhiêu lầm than ai oán.
Ít lâu sau, nghe tin ba quái vật đã bị Dam San hạ cả, những người đã bỏ bản ra đi cũng như những người lạ ở các phương xa kéo tới làm ăn nườm nượp. Ở hai bên bờ sông và triền núi, cây cối lại mọc lên xanh tốt, nhưng các cố lão nhận thấy rằng ở chỗ hang Tu Ngước ngày xưa, có một loài cây mới mọc từ chỗ tàn phá và lớn lên mau lẹ lạ lùng. Những cây đó mang những chùm quả đỏ rực cả bầu trời. Nhớ lại câu chuyện chiến đấu oai hùng của “cây đuốc thịt Dam San” đem lửa lòng cộng với lửa thần đốt cháy hang thuồng luồng, đốt cháy cả cây cối ở cửa hang và trong hang, họ kêu những chùm quả đó là “quả lửa” vì họ tin rằng những quả lửa đó là những khối lửa còn sót lại sau trận chiến của Dam San. Quả lửa, theo tiếng người Thượng, là mác phây, mà người dưới Kinh thì gọi là quả dâu da lửa hoặc vắn tắt là “dâu da”.
Trong đoạn kết thúc, “Trường ca Dam San” cho biết rằng quả dâu da chín vào đầu mùa hạ và cũng chính vào khoảng thời gian đó, người ta tìm thấy ở trong núi Tà Kê, trông sang hang Tu Ngước, một cái xác người bị thú rừng ăn cụt cả chân tay, duy chỉ còn cái mặt và cái cổ.
Mặc dầu cái mặt và cái cổ ấy đã bị rã ra rồi, người ta cũng nhận ra rằng người chết ấy là Dam Di, anh ruột của Dam San, người thanh niên đa tình trước đây đã say mê Kha Taô mà chỉ vì lẽ không lấy được nàng, đã cúi mặt gục đầu làm tôi mọi cho bà Chằng và câu kết với tên phù thủy để bắt cóc Kha Taô và giết em là Dam San.
Dam Di hy vọng rằng Kha Taô bị nhốt ở trong hang Tu Ngước, ngày một ngày hai, sẽ quên Dam San và sẽ cùng Dam Di nối lại mối duyên hương lửa, nhưng chẳng ngờ Dam San không những không bị hại, lại còn giết chết cả bà Chằng, ác điểu và con thuồng luồng thành tinh một lúc. Biết là đã đến thế cùng rồi, Dam Di không còn cách gì khác hơn là vào trong núi treo cổ lên một cành cây cao tự tử, một là để tránh cái hình phạt cuối cùng chắc chắn thế nào cũng sẽ diễn ra, mà hai là để thanh toán một lần cho dứt hẳn một niềm hối hận cắn rứt tim óc chàng không rời ra một phút – hối hận rằng mình chỉ vì một ảo ảnh không đâu mà nỡ lòng câu kết với quái vật và phù thủy mưu hại đời sống của chính em ruột mình!
Bây giờ, những cặp tình nhân cầm một chùm dâu mà lột cái vỏ chín đỏ ra, tẽ hai múi để uống cái nước ngọt mà lại rơn rớt chua ở bên trong, họ nhìn nhau không nói vì cùng cảm nghĩ hai múi đó là hai trái tim tình muôn đời ngàn kiếp ở cạnh nhau, dù sông cạn đá mòn, bể dâu thay đổi, cũng không có cách gì chia rẽ được.
Nhưng người đi rừng không nghĩ thế. Mỗi khi bứt một chùm dâu chín để ngồi trên phiến đá nhởn nhơ nhấm nhót cho đỡ cơn khát buổi trưa hè, họ không hề quên câu chuyện người anh đi mướn tay ngoại nhân từ viễn phương lại để bắt cóc em dâu và mưu sát hại chính em ruột mình.
Lột cái vỏ đầy đỏ tươi màu lửa ở ngoài mà lại trắng ngà ở phía trong, họ thấy có hai múi mòng mọng nước lộ ra, hung hung sắc trắng sữa dê, cách nhau bằng một cái màng cũng trắng và mịn như tơ nõn. Tẽ hai múi ra, để lên đầu lưỡi, đè lên khẩu cái cho nước ngọt tứa ra, họ có cảm tưởng đang nuốt vào trong lòng những trái tim bé nhỏ, kết tinh của bao nhiêu chí khí hiên ngang của người anh hùng không sợ chết, không sợ gian nguy, quyết tâm diệt trừ cho kỳ được những giống ác quỷ đem đau thương, tang tóc đến cho đồng bào.
Nghĩ như thế, họ cảm thấy ăn bao nhiêu trái dâu da lửa vào trong bụng cũng vẫn còn thèm, vì ăn như thế là tiếp thu cái máu bất khuất của người hùng ngày trước vào trong lòng trong ruột. Rồi vừa nhìn lên những cái vòm cây xanh biêng biếc, đỏ thắm những trái dâu da lửa, họ vừa ăn vừa nói với nhau:
- Nghĩ cho cùng thì cái gì ở đời rồi cũng đến tiêu ma cả, duy chỉ có cái lòng người ta ăn ở với non sông đất nước, cái chí khí cương cường không sợ uy vũ của ngoại nhân, cái tinh thần tự tin, không vọng ngoại, không rước voi về giày mộ mới có thể lưu lại đời đời kiếp kiếp, và đời đời kiếp kiếp hun đúc cho những người đến sau một ngọn lửa lòng không bao giờ tắt được, một ngọn lửa lòng lúc nào cũng sáng rực, còn sáng hơn cả các tinh tú trên nền trời, một ngọn lửa lòng bất diệt làm cho ngàn xưa nở dạ mà ngàn sau phải cúi đầu khâm phục.
Khắp chung quanh, trên đồi dưới khe, những cây mác phây trĩu trịt những chùm quả đu đưa tàn lá xanh xanh và tỏa ra trên nền trời chói lòa ánh sáng trong trong một màu rực rỡ như lửa đang bốc cháy.
([1]) Theo một bài hát của đồng bào Thượng do Hoàng Trọng Miên dịch.
Phần thứ ba
Phần thứ ba
TRÈO LÊN ĐỈNH NÚI TÌM CHO ĐƯỢC NGƯỜI THƯƠNG
1. Người anh em kể hết câu chuyện truyền kỳ thứ bảy thì trời chạng vạng sáng. Bóng đêm chưa tan hẳn, nhưng nhìn ra ngoài trời, người ta thấy không khí bắt đầu loãng ra như một vết dầu loang trên tấm giấy. Xa xa có vài tiếng gà nước gáy te te. Rồi bỗng nhiên ở trong đám lau lách sau nhà quàn, nổi lên những tiếng rúc liên tiếp như tiếng người gõ một ống bương xuống đất.
Mọi người lắng tai nghe, ngơ ngác nhìn nhau không hiểu. Mãi lát sau, anh chính ủy gốc Thổ mới nói:
- À, đấy là tiếng rúc của con Lông Ô đấy mà!
- Lông Ô? Nó là giống gì mà rúc lên ghê thế? Giống ngựa ô à?
- Nó là giống chim thuộc loại già sói, già đẫy, ngày trước Tây họ đi bắn vẫn kêu theo tiếng Latinh là Leptoptilos cruminiferus. Khó bắn lắm vì nó chỉ đi về đêm, mà thấy bóng đen nó lẩn còn nhanh hơn con cuốc, mặc dầu giống chim này rất lớn, có con cao tới một thước rưỡi, nặng tới hai, ba chục ký, hai cánh dang ra có thể dài tới non hai thước.
Nghe anh người Thổ nói thế, tất cả anh em đều đực mặt ra không nói gì. Dường như không muốn để cho cái không khí lắng đọng ấy kéo dài thêm, anh tiếp:
- Giống này, thịt ngon lắm. Nhưng ở miền rừng núi, thịt của nó không đáng kể bằng tiếng rúc của nó. Theo những người ở lâu tại những miền rừng núi truyền tụng lại cho nhau, mỗi khi giống chim này rúc ở đâu thì trời sẽ tốt đẹp, không có động rừng hay cháy, mà dân cư ở đó sẽ được phong đăng hòa cốc.
Quả nhiên đến hửng sáng thì mây hồng hiện lên ở chân trời báo hiệu một ngày thật đẹp. Dung bảo Hảo:
- Ăn mãi muối vừng, chán quá! Hôm nay, tôi muốn đi kiếm một ít rau đay, mồng tơi hay bông so đũa xì xằng gì nấu canh để ăn cho đỡ xót ruột. Chị có đi với em không?
- Đi thì thú lắm, nhưng em lại muốn ngủ hơn. Thôi Dung đi với Nhu, để cho mình ngủ một giấc vì thức đêm mệt quá.
Dung và Nhu đi qua hai cái đồi sang đến bản Tước hái được ít rau thì nắng bắt đầu lên. Họ chọn phiến đá to và nhẵn ngồi rửa chân. Nhu thừa dịp rửa rau ở khe suối, còn Dung thì ngồi nhìn bướm bay ở bụi cây, nói vẩn vơ:
- Đến bây giờ, quả thực mình mới biết là nước mình đẹp quá. Chẳng biết Nhu nghĩ thế nào, chớ riêng mình thì kháng chiến thành công rồi, mình không muốn trở về Hà Nội nữa, cứ ở đây với dân bản Thổ, đánh một cái nhà tranh nhỏ ở bên bờ suối, chiều chiều ngồi ở trước nhà trông lá vàng rụng sườn đồi…
- Dung nói y như là hát “Bài thơ bên suối”. Nhưng Dung có nhớ rằng trong “Bài thơ bên suối”, không phải chỉ có một người, mà là những hai người hẹn nhau cùng xây nhà để nghe suối róc rách trôi, và nhìn đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi… không?
Dung cười, nói chọc Nhu:
- Thì lo gì chuyện ấy. Bấy giờ mình kiếm thêm một người nữa, còn đủ thì giờ chán!
- Lúc ấy mới kiếm, e hơi muộn.
- Sợ muộn thì kiếm ngay từ bây giờ cũng được chớ sao?
Dung và Nhu cả cười. Tiếng cười vang lên trong một khoảnh rừng cây, vọng vào khe đá rồi dội lại y như thể có những cô tiên bé nhỏ ở đâu gần đấy cất tiếng cười đáp lại.
Một lát, Nhu hỏi:
- Này, Dung nói đùa như vậy mà hóa ra thật, chưa biết chừng. Vậy chớ nghe bảy câu chuyện huyền thoại của bảy đồng chí kể trong bảy đêm nay, Dung cho chuyện nào hay nhất? Mà Dung phải thú thật với mình, cấm được nói dối nghe! Dung có ý định “chấm” người kể câu chuyện hay nhất, thật hay là đùa đấy?
Mặt Dung nghiêm hẳn lại:
- Nhu đã hỏi thật, mình cũng nói thật cho mà nghe. Thoạt đầu, thấy các bạn nói, mình cũng ừ lấy lệ, nhưng lạ hết sức là cái diễn tiến trong tâm trạng của con người. Mình nghe các anh kể chuyện, thấm thía cái giọng và nét mặt từng anh, mình thấy vẩn vơ trong lòng thực, rồi thì cái ý tưởng chọn một người để gửi gắm đời mình không còn là một chuyện đùa cợt nữa.
“Nói như thế này thì rất trung thực, nhưng Dung cấm Nhu cười mà cấm luôn cả Nhu không được nói lại với ai: nghe bảy anh kể bảy câu chuyện huyền thoại, mình đều yêu cả bảy anh, nhưng chẳng lẽ lại lấy cả bảy anh làm chồng? Không. Bây giờ thì Dung đã quyết rồi: Dung sẽ lấy một trong bảy anh đó vì thương không chịu được. Tính Dung từ trươc đến nay vẫn thế: muốn cái gì thì cái muốn ấy đeo mình đến thành ra ám ảnh, không thực hiện nổi thì khổ sở vô cùng, không còn thiết sống làm gì. Nhưng người đó là ai, quả là đến giờ phút này đây, Dung vẫn chưa hề biết. Vậy theo ý Nhu thì chuyện nào hay nhất trong bảy câu chuyện đó?
Nhu ngừng tay rửa rau, nhìn Dung, ngặt ngoẽo cười:
- Bộ Dung điên sao? Mỗi người một ý, biết thế nào mà nói! Ví dụ mình có lựa sẵn trong óc lấy chuyện hay nhất rồi, chắc chắn mình cũng không bao giờ nói cho Dung biết, vì đây là câu chuyện định đoạt đời Dung, riêng cho Dung, sao người khác lại phát biểu ý kiến riêng vào đó được? Thôi đi, đừng có nói dớ da dớ dẩn. Sửa soạn đi về, kẻo ở nhà các anh ấy đợi.
Đến gần nhà quàn, Nhu nói:
- Cứ nghĩ cho chín đi, không có vội gì đâu. Đằng nào rồi cũng phải có đôi bạn, mà có dịp chọn đôi bạn như Dung, thiết nghĩ cũng là một dịp may hiếm có.
- Mình cũng biết như thế. Nhu không bảo thì mấy hôm nay mình cũng vẫn băn khoăn hoài. Thể nào trong bảy người thương mình cũng có một người làm đôi bạn với mình, nhưng chưa biết chọn người nào đấy thôi. Nhưng trước sau gì rồi cũng chọn được người thương đó. Bây giờ gần đến nhà rồi, ta hãy gác chuyện đó lại đã. Tối nay, người thứ tám kể chuyện, rồi người thứ chín kể chuyện, còn đến sáu bảy người kể nữa, mình hãy nghe cho thích đã. Rồi quyết định cũng chưa muộn gì, phải không Nhu?
2. Sau này, ngồi nghĩ lại các sự việc xảy ra buổi chiều hôm đó, vài người trong bọn chúng tôi cười anh chính ủy gốc Thổ không biết chừng nào. Cái con chim Lông Ô mà anh bảo là vẫn thường báo điềm lành, “nó rúc ở đâu thì rừng không động, không cháy mà dân cư lại vui vẻ vì phong đăng hòa cốc”, té ra là một thứ chim đem lại những sự việc trái ngược hẳn với những điều anh đã nói.
Khoảng bốn giờ chiều hôm đó, vào lúc anh em sắp ăn cơm, một đoàn chín máy bay mang cái tên nhơ nhớp là “Mèo địa ngục” đen trùi trũi, bay như thể mũi tên về phía chúng tôi đang đóng. Vì buổi đầu kháng chiến chưa rút được nhiều kinh nghiệm, lại thêm cả bọn sơ suất cho rằng đây chỉ là cái trạm nghỉ chân tạm thời, không cần đào hầm cá nhân trú ẩn, chúng tôi mất bình tĩnh chạy tán loạn mỗi người một nơi. Trớ trêu thay là một trong những lời nói của anh người Thổ về con chim Lông Ô lại đúng: là trời hôm ấy đẹp quá cho nên máy bay của thực dân tha hồ phá phách, bắn cứ loạn cả lên. Chưa xong. Chín cái này bắn vừa dứt thì một chục cái khác rồi chục cái khác nữa ở đâu lại sà tới như tên bắn tiếp, quần thảo trên nền trời trong vắt hơn hai mươi phút đồng hồ, làm cho căn nhà cháy rụi, bao nhiêu cây cối ở một vùng quanh đấy chừng năm trăm thước ngã gục cả xuống, còn đất thì có chỗ bị xới lên to bằng cái nong.
Ngay lúc ấy, tôi tưởng chừng như trong bọn ít nhất cũng phải có dăm bảy người thiệt mạng, nhưng sau này được tin đích xác cho hay thì chỉ có hai anh bị thương: một người bị đứt cái vành tai bên mặt, phải chở đi quân y viện gần đấy nhất để vá; còn một người bị một viên đạn vào bắp vế, mổ lấy được ra và sau đi lại như thường, nhận kỹ lắm mới biết là có tật. Tuyệt nhiên không có người nào chết cả.
Tuy nhiên, sau trận bắn phá đó, bọn chúng tôi tan tác mỗi người một nơi, không được tin tức gì của nhau trong một khoảng thời gian khá dài.
Phần tôi, gặp một người bạn già rủ về làm việc ở Thanh rồi từ đó về Mộc Châu làm văn hóa. Trên các nẻo đường công tác, chỉ có một người ở trong bọn cùng chia sẻ với tôi những đêm mưa rừng ở đỉnh Voi Gầm theo tôi. Người ấy là Hảo. Chắc các bạn chưa quên là ở phần thứ nhất truyện này, đoạn nói về ba người chị em là Dung, Hảo và Nhu, tôi có nói là Hảo có một người chồng thiệt mạng trong một cuộc xung kích ở Sơn Tây và ít lâu sau đó thì có một chàng trai “đeo”.
Người đeo ấy chính là tôi. Một sự tình cờ may mắn khiến chúng tôi cùng chạy trên một con đường với nhau. Đến Đò Lèn, tôi bị chứng sốt rét nặng bị liệt giường liệt chiếu ít ngày. Hảo săn sóc và chạy thuốc cho tôi. Chúng tôi chính thức lấy nhau từ đó. Chạy hết nơi này nơi khác rồi lần lần đến Mộc Châu, Hảo và tôi vẫn được cùng làm chung ở một cơ quan. Trừ những giờ phút đầu tắt mặt tối vì công tác không kể, hồ có lúc nào thanh thản nhìn ra mây chiều gió sớm mà nghĩ đến chuyện chín nhớ mười trông, chúng tôi lại rầu rầu tưởng lại những đêm ngồi nghe kể chuyện huyền thoại ở bên đỉnh Voi Gầm và hai đứa lại hỏi nhau không biết những bạn cũ bây giờ ra thế nào.
Hình như bốn năm tháng sau đó chúng tôi mới lại được liên lạc và biết tin có mỗi một bạn đường buổi ấy, còn những người khác thì không có một ai từ miền xuôi lên ngược, từ miền bể về rừng, biết sống chết ra sao.
Trong những người bặt tin ấy, có Dung và bảy anh đã kể chuyện huyền thoại ở heo hút trong rừng già bên đỉnh Voi Gầm vào đầu mùa dân Việt đánh bọn xâm lăng độc ác “mọc lông ở bụng”.
3. Nhiều khi, Hảo và tôi ngồi ở trên đồi sim nhìn xuống dưới nương, nhớ bạn, thường tự an ủi với nhau:
- Ở vào cái buổi chiến tranh không biết thế nào mà đoán được. Rất có thể là mình lo thế này thế khác cho bạn tác, mà có khi họ lại yên hơn mình cũng nên.
Hảo không trả lời, rút một cái cỏ bạc đầu ngậm vào miệng, một hồi lâu mới nói:
- Mà không biết Dung bây giờ ra thế nào? Em sợ cho Dung quá… Đã có sắc mà lại có tài, làm cái thân đàn bà con gái, e không may mắn…
- Ôi chao, lo như thế thì biết đến bao giờ hết chuyện… Em cứ yên trí, Dung bây giờ đương sung sướng là được rồi…
- Ai chẳng muốn như thế, nhưng có nhiều lúc muốn yên trí mà không thể nào yên trí được. Bè bạn với nhau… Có nhiều lúc em còn điều vô lý nữa. Ờ, thí dụ là bây giờ Dung đã có chồng rồi thì người chồng ấy là ai? Có phải là một người bạn đường như anh với em không? Hay là một người nào khác? Anh không biết, em với Dung là chỗ bạn gái với nhau, em biết Dung kỹ lắm: Dung không phải là một người dễ dãi trong sự kén chọn bạn lứa đôi đâu. Chị ấy đã nói nhiều lần là phải lấy được người ý hợp tâm đầu. Thế thì trong bảy người yêu chị ấy, và đã kể bảy câu chuyện huyền thoại mà chúng ta đều đã biết, chuyện nào là chuyện mà chị ấy cho là hay nhất, người nào là người mà chị ấy muốn gửi phận trao thân?
Ở đời, có những chuyện rất không đâu mà làm cho đầu óc ta thắc mắc không chịu nổi. Tính thắc mắc cũng là một tính hay lây. Gặp bất cứ bạn cũ nào, chúng tôi cũng hỏi tin tức của Dung, nhưng trước sau vẫn không có người nào biết tin đích xác về chị, tất cả đều chỉ là “nghe thấy nói” mà thôi. Vào thời buổi loạn ly, những điều nghe thấy đều không có cách gì tin được.
Mấy tháng sau nữa, chúng tôi mới gặp Đá, một người bạn tương đối tin được nhất vì anh là một cán bộ nổi tiếng biết rất nhiều, quen rất nhiều, hơn thế anh lại cùng phụ trách công tác văn nghệ và diễn xuất với Dung sau vụ quân Pháp thực dân ném bom ở Voi Gầm.
Đá quả quyết rằng chừng hơn hai tháng trước đó, anh gặp Dung lần cuối, trước khi bỏ ra đi đến một quân y viện xa xôi mà chị giữ kín không cho ai biết. Hỏi chị đến quân y viện đó làm gì, Dung chỉ cười, mà nói: “Để thăm người ta, chớ còn để làm gì nữa mà cứ hỏi hoài hỏi hủy”.
Người ta! Người ta là ai vậy? Là các thương bệnh binh? Là người thân trong quyến thuộc? Hay là người tình chung? Không ai biết rõ, nhưng một vài chị giao liên quả quyết rằng Dung đã có ý trung nhân trong những tháng gần đây, nhưng ý trung nhân đó lại lâm bịnh nặng.
Nghe thấy Dung đã lựa được người yêu, tất cả các anh em quen biết đều xôn xao bàn tán và hỏi Đá có biết người đàn ông may mắn đó là ai không.
Đá lắc đầu:
- Mình cũng chỉ nghe thấy thế thôi, chớ thật tình cũng chẳng biết gì hơn các cậu. Mình chỉ biết cuộc tình duyên này là cả một sự tình cờ và cả anh cả ả đều không định trước, bắt đầu chỉ là một câu chuyện đùa trong những buổi liên hoan hay độc tấu gì đó trên đường đi công tác.
Vì có nhiều anh em tò mò muốn biết rõ hơn về cuộc tình duyên này, Đá tiếp:
- À, phải rồi. Đúng ra thì như thế này: có bảy người thương Dung, kể bảy câu chuyện huyền thoại để cho anh em nghe đỡ buồn. Mấy anh chị đứng ngoài nhân đó vun vào, và nói đại rằng anh nào kể câu chuyện huyền thoại được Dung cho là hay nhất thì sẽ là chồng Dung.
“Tưởng là nói đùa vậy thôi, không ngờ tình yêu có những điểm kỳ bí không thể nào lý giải được: trong bảy câu chuyện huyền thoại do bảy anh cán bộ kể trong bảy đêm ở trong rừng, Dung say mê một chuyện như điên, nhất định lấy người kể câu chuyện ấy, tưởng chừng nếu không lấy được anh ta thì không thể lấy được bất cứ người đàn ông nào khác.
- Thế rồi sao nữa?
- Thế rồi thì hết, chớ sao?
- Nghĩa là hai người ấy lấy nhau và sanh rất nhiều con cái như trong chuyện thần tiên vậy?
- Nào có biết! Tôi chỉ nghe thấy thế thôi… Còn tại sao Dung lại đến cái quân y viện bí mật và đến đó để thăm ai, có phải là thăm ý trung nhân đó hay không, thực tình tôi không biết, cũng như tôi không hề biết bảy câu chuyện huyền thoại của bảy đồng chí ấy ra thế nào và chuyện nào được Dung cho là hay nhất và mê nhất.
Hồi đó là cuối 1947, đầu 1948. Chiến dịch Hạ Lào bị ngưng lại vì một lý do riêng, nay có chiến dịch Thượng Lào thay thế. Tạm biệt Hảo, tôi theo binh đoàn hai trăm mười bốn một sớm đìu hiu lạnh từ thành Tây Giai nhà Hồ đi dọc theo sông Mã qua Muông La, Mương Hiu, hát bài “Y, Hu! Hi! Nguy hồ cao tai – Thục đạo chi nan, nan vu thượng thanh thiên” của Lý Bạch.
Ôi chao! Gớm! Hiểm mà cao thay,
Đường Thục đi khó, khó hơn đường lên trời!
Tăm tòng và Ngư phù,
Tính năm khi đã bốn vạn tám
Bóng khói ải Tần chưa tới nơi…
Phía Tây núi Bạch có đường chim,
Ngưng đỉnh non Nga, nơi tuyệt vời.
Đất sụt, núi lở, tráng sĩ chết,
Rồi sau cầu đá nối được thang trời.
Trên là núi Cao Tiêu, như sáu con rồng ngăn bóng ác,
Dưới thì dòng sông quằn quại, thác dội, sóng vỗ, nước chảy lùi
Cánh con hạc vàng không thể vượt
Khỉ vượn muốn leo qua vịn vai…
Truyền rằng ngày xưa núi rừng ở Ba Thục trùng trùng điệp điệp không có chỗ nào để lách chân. Tình cờ đến gần sau này, vua Thục mới cho ra lịnh cho dọn con đường hiểm trở như đường đi lên trời để đón một người đẹp của vua nước Tần xin dâng. Nhà vua cử năm lực sĩ đi làm công việc đó, chẳng may núi đổ, đá lở, năm lực sĩ đều bị chết bẹp, bấy giờ rặng núi chắn ngang hai xứ Tần, Thục mới có chỗ hở.
Nhân đó, người sau mới dựng thang và bắc cầu đá để đi từ núi nọ qua núi kia, và cũng từ đó mới có đường vào nước Thục. Nhưng con đường ấy không phải dễ đi đâu! Trên thì có núi Cao Tiêu hình giống như sáu con rồng Hoàng Bá Đăng đã cưỡi, có thể làm cho mặt trời phải vướng mà quay trở lại, dưới thì khe suối quanh co, nước chảy lộn ngược, coi rất ghê sợ.
Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc quá
Viên nao dục độ, sầu phan viên.
Gớm cho con đường vào Ba Thục: bay cao như con hạc vàng cũng không thể qua, leo giỏi như loài khỉ loài vượn, khi muốn vượt qua cũng phải lo ngại về sự trèo vịn.
Tất cả những sự hiểm trở, gian nguy tả trong bài “Thục đạo nan” của Lý Bạch nghe đã ghê, nhưng đối với chúng tôi lúc đó thật quả chưa ghê bằng cuộc Tây tiến của chúng tôi năm đó - cuộc Tây tiến làm cho bao nhiêu người lội suối không mọc được tóc, bao nhiêu người xanh xao màu lá chết đau chết khổ dọc đường.
Ban ngày quạ gào trên cổ thụ,
Con mái bay lượn, con trống theo.
Ban đêm cuốc kêu dưới ánh trăng,
Đồi núi đều quạnh hiu.
Đường Thục đi khó, khó hơn đường lên trời!
Nghe nói má hồng hầu răn reo,
Dãy núi cách trời chẳng đầy thước
Thông khô vách đá vẫn treo ngược…
Sớm lánh cọp dữ,
Tối tránh rắn dài.
Mài nanh, liếm máu,
Giết người như chặt gai!
Ấy đấy, con đường vào Ba Thục mở rồi mà còn hiểm nghèo đến thế, sao mà có thể so sánh với con đường Tây tiến được. Đường Minh Hoàng chạy vào đất Thục “nan vu thượng thanh thiên” nên tự lấy làm sung sướng, chớ đoàn quân Tây tiến thì phải nói là vừa đi vừa phá đường, vừa dọn núi, là vì con đường Sầm Nưa tương đối dễ đi nhưng Pháp biết, kháng chiến phải cữ không dùng được.
Thục đạo chi nan, nan vu thượng thanh thiên,
Trắc thân tây vọng trường tư ta.
Đường Thục đi khó, khó hơn đường lên trời!
Nghiêng mình về tây đành ngậm ngùi ([1]).
Ngậm ngùi mà dừng bước nghỉ lại hoặc là không đi nữa, chớ đoàn quân Tây tiến thì không thể ngậm ngùi, không thể dừng bước được. Cứ phải đi, và có nhiều buổi sương mù cứ phải đi, dù là đương lên cơn sốt rét.
4. Nhưng rồi cũng có lúc muốn đi mà không thể nào đi được là vì có những chặng đường bị bịt kín, trước mặt là núi đá cheo leo, cao tưởng như lên đến trời, không có cách gì qua được. Gặp những trường hợp như thế, chúng tôi đành phải dừng lại để tìm các cách vượt qua, mà nếu không thấy một đường mòn nào thì dù núi cao và dốc đến thế chớ dốc và cao đến trăm lần thế nữa, cũng cứ phải vượt cho kỳ được, ai chết thì chịu chớ không thể nào làm khác.
Đó là trường hợp của bọn chúng tôi vào ngày thứ hai mươi mốt trong chuyến Tây tiến cuối 1947, đầu 1948. Chúng tôi qua Muông Lát, Muông Hiu rồi tiến về phía Tây, ngang Sơn La, gần tới Điện Biên Phủ thì gặp một trái núi cao ngút ngàn. Bây giờ hỏi tên núi ấy là gì, có nhiều bạn cùng đi chuyến ấy với tôi không nhớ, mà nói cho thực cũng không biết tên núi ấy là gì nữa; nhưng chắc chắn, cho tới khi nhắm mắt, người nào chuyến ấy đã đi qua đều nhớ rõ vụ trèo núi ấy, không có cách gì quên nổi.
Là vì trái núi ấy cao vút lên đến trời, sự đó đã đành rồi, nhưng vách núi lại thẳng như bức tường, đứng dưới mà nhìn lên, ai cũng phải thất vọng và yên trí là có tài leo trèo như khỉ cũng không thể nào bò được lên tới đỉnh. Ấy thế mà rồi chúng tôi cũng phải liều chết mà trèo, mũi người đi sau bám sát lấy chân người trèo trước, hai bàn tay rớm máu mà cứ đành là phải bám lấy vách đá không dám rời ra một phút. Đến một chỗ nào có cái hang hay lùm cây, chúng tôi lại nghỉ giây lâu để lau máu ở tay chân và bắt những con vắt cắn sưng cả hai chân hai tay lên như thể là những cái hoa chuối vậy.
Nói cho thực đúng, núi không cao quá như chúng ta đã nhận xét lúc đầu. Bây giờ ngồi nhớ lại, tôi áng chừng núi ấy chỉ cao khoảng sáu trăm thước là cùng, nhưng trèo ngược lên tới đỉnh quả là chúng tôi đã vất vả cả một ngày vì bắt đầu leo từ chạng vạng sáng chưa rõ mặt người mà đến lúc mặt trời xế bóng mới lên tới đỉnh.
Lên được tới đỉnh, bọn mở đường chúng tôi đều tính ít nhất phải có một vài anh lăn ra chết vì mệt đứt hơi đứt ruột, nhưng tất cả đều lầm, tất cả đều sửng sốt, vì tất cả đều tỉnh ra vì ngạc nhiên – một sự ngạc nhiên không ai có thể tưởng tượng được, một sự ngạc nhiên làm cho tất cả mệt mỏi, đau đớn tiêu tan hết trong giây lát, một sự ngạc nhiên làm cho tất cả cảm thấy như đương bước nhẹ vào quê hương thần thoại.
Cái đỉnh mà chúng tôi đinh ninh là nhọn khi đứng ở dưới nhìn lên, không ngờ lên được đến nơi lại là một dải đất bằng phẳng như một cánh đồng bao la, bát ngát, có cây cối và có nhà cửa lưa thưa! Càng ngạc nhiên hơn nữa là chỉ sau đó một giây, vào khoảng dập bã trầu, tất cả người ở trên cái thế giới lạ kỳ, cách biệt hẳn dương trần đó, không biết do một đường dây bí mật nào đã biết tin, kéo lại vây lấy chúng tôi đón rước y như là trước đây, đọc trong truyện cũ, thấy các cô tiên đón rước Từ Thức lúc thư sinh này lạc vào động Thiên Thai.
Lúc ấy khí núi đã bắt đầu bốc lên mờ mờ, những rừng vầu bụi móc ở phía xa, nhìn đã không rõ nét, nhưng ở chỗ chúng tôi tập hợp để sửa soạn ra mắt các anh chị em này thì trời hồng hồng, sáng trong một cách kỳ lạ, thậm chí con chim đậu ở cành mận gần đó, chúng tôi cũng nhìn thấy rõ bộ lông màu cánh chả.
Thế này thì còn hiểu làm sao cho nổi? Đây là đất nước của ta hay là một cảnh thần tiên vẫn thường thấy tả trong các truyện mà ta đọc khi còn nhỏ? Hoa mận trắng, lá cây biêng biếc, bụi cây xanh điểm những nụ hoa vàng, mà xa xa thì là đồi núi trập trùng mờ mờ màu lam, thỉnh thoảng như lại róc rách tiếng hát của những con suối bạc mà mắt mình không trông thấy. Kìa, có phải là tiếng vượn ru con, chen vào những lời khúc khích của chim muông trò chuyện, hỡi các cô nàng đẹp nõn đẹp nường có những cặp mắt hạnh nhân lúng la lúng liếng?
Sau khi định thần và biết chắc đây là đất của ta thật và những người đứng trước mặt mình là người bằng xương bằng thịt thật, chúng tôi lên tiếng hỏi đây là đâu, và ngỏ ý cho chúng tôi tạm tá túc một đêm để sớm hôm sau đi sớm, nhưng hết thảy đều ngơ ngác không hiểu chúng tôi nói gì. Tuy nhiên, nhìn dáng điệu và những cái vẫy tay của họ, chúng tôi biết là họ mời chúng tôi vào trong nhà họ nghỉ ngơi.
Tất cả chỉ có sáu, bảy nhà sàn mái nâu, dựng lên cách nhau bằng những thửa vườn rộng mông mênh trồng những thứ cây lạ cao chỉ tới đầu người.
Ngồi nghỉ được một lát thì trời tối hẳn. Bóng sáng của các cây đình liệu tỏa lung linh khắp các gian nhà sàn. Ngoài kia, im phăng phắc. Thỉnh thoảng lại có tiếng chầy giã gạo vọng lên. Chúng tôi vừa định xin phép giở cơm nắm ra ăn để rồi đi nghỉ ở ngoài hè thì bỗng thấy một hồi cồng vang lên. Một cụ già râu bạc như tuyết vòng tay lại xá chúng tôi và nói một hồi một thứ tiếng mà chúng tôi không hiểu – trừ một người là Dũng, hiểu đại khái câu được câu chăng, vì anh ta đã ở lâu tại Hoa Nam và biết nhiều thổ ngữ Trung Hoa lục địa. Anh thông ngôn lại:
- Cụ đây có nhã ý mời anh em dùng một bữa cơm muối măng rừng và cho biết đã xếp đặt giường chiếu xong xuôi để anh em nghỉ lưng sau khi dùng bữa.
Chao ôi, sự ngạc nhiên này chưa hết thì đã đến sự ngạc nhiên kia, quả thật là tim óc chúng tôi đêm ấy muốn bể ra vì không thể nào ngờ được ở trong đất nước mình lại có thể có nhiều sự lạ lùng đến thế.
Bao nhiêu bát đĩa trong bữa tiệc vĩ đại ấy đều là đồ sứ cổ với những kiểu cách hoa văn nứt nẻ khác thường, không biết đã trải biết bao nhiêu thời đại rồi mà còn giữ được đến bây giờ. Còn thức ăn, thì đủ cả gà, heo, cua, cá… không thiếu một thức gì mà chúng ta vẫn ăn ở các trà đình tửu điếm hồi chưa kháng chiến, ngon không chịu được. Nhưng, ngon có nghĩa gì với sự thích mắt của chúng tôi lúc đốt đuốc thêm, bỗng có tiếng khèn trỗi lên như tự trên trời rơi xuống, rồi từ bên hông nhà hiện ra các cô nàng trong bản đi hàng hai khép nép ra hầu tiệc.
Không. Nói cho thực, phải có dự một bữa tiệc như thế, và trông thấy các cô nàng như mây, xinh như mộng, mặc xiêm áo rực rỡ mỹ miều còn hơn cả xiêm áo của những bà hoàng bà chúa trong truyện cổ nước Tàu, nước Nhật, ta mới thấm thía được hết cái đẹp mê ly của mấy câu thơ, mà nhiều người còn nhớ:
Doanh trại bùng lên khúc nhạc ca,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ!
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chiên xây hồn thơ…
5. Ở lại đến ngày thứ hai, Dũng hiểu rành rọt tiếng nói ở đây hơn và bắt đầu trò chuyện đại khái được với những người trong bản.
Họ không có bao lăm, chỉ gồm khoảng ba bốn chục người trở lại và đa số là phái đẹp. Họ là người Việt hay từ đâu đến? Hỏi mãi ra thì mới biết rằng đỉnh núi này là nơi định cư của một bộ tộc thiểu số người Dao, trước kia ở miền Nam nước Tàu phiêu bạt tới đây.
Ông cụ già râu bạc trắng nói:
- Ông cha chúng tôi đến đây tới nay được ba đời rồi. Tại sao lại đến? Chính chúng tôi cũng không biết. Chỉ thấy lúc chết, các cụ di ngôn lại rằng mọi người ở trong dòng họ chúng tôi không vì bất cứ lẽ gì được rời khỏi khu vực này. Hơn một trăm năm nay chúng tôi khai phá, sản xuất và tự túc. Có thể nói là ga, vịt, trâu, dê… không còn thiếu thức gì - chỉ trừ có giống ngựa là chúng tôi không có vì trong buổi đầu băng rừng vượt suối, ông cha chúng tôi có mang theo hai con ngựa, nhưng cả hai đều chết - và cũng có thể bảo là đời sống của chúng tôi tương đối buồn, nhưng theo lời di chúc của ông cha, không một người nào trong tộc chúng tôi rời bỏ chốn này để tìm nơi khác.
- Nói vậy, chúng tôi đến đây chẳng là có lỗi lầm lắm sao, vì đã đem bụi bặm ở những đất phù hoa về quý địa.
- Thưa không, trái lại. Chúng tôi rất hiếu khách. Mỗi khi có người lạ lạc vào đây, chúng tôi quý như nén vàng và lấy làm tiếc là không đủ tiện nghi và biết đủ nghi lễ để tiếp rước cho thập phần trọng hậu.
Câu chuyện đến đây thì có hai cô vận xiêm áo còn đẹp hơn cả xiêm áo ngày hôm trước nữa, bưng ba mâm đào và mận đến mời chúng tôi dùng nước, đồng thời trên mỗi mâm lại để mấy cái ống trúc dài và một cái hộp sứ thủy lục trong đựng một thứ lá gì thái nhỏ.
Dũng hỏi rồi thông ngôn lại cho chúng tôi nghe, cùng lúc chúng tôi lại nhờ anh dịch những câu nói của chúng tôi để nhờ các cô chỉ bảo. Thì ra cái hộp đựng lá thái nhỏ đó là lá cây thẩu để hút với những cái ống trúc kia.
Một cô cho Dũng biết:
- Chúng em không hút cái này nhưng ông em nói rằng hút một hai mồi, nhắm mắt lại thì say sưa một cách nên thơ lắm. Trước đây, đã có một người trai ở dưới Kinh lên, cũng như các anh, đến ở với ông em gần một năm, hút tối ngày vì hình như anh ấy bị bịnh gì không biết, hễ hút vào thì tỉnh, mà không hút thì thành ra si dại, cả ngày cứ ngồi trơ ra như phỗng, không cười, không nói…
- Ủa, em vừa nói gì? Có một người trai dưới Kinh đã đến đây trước chúng tôi? Vào bao giờ vậy? Mà bây giờ ra sao?
Câu chuyện của cô gái đẹp người Dao làm tôi chú ý. Ăn xong bữa cơm trưa hôm ấy, tôi máy Dũng mời cô gái đi tắm suối nước nóng rồi cả ba chúng tôi ngồi ở dưới một gốc tùng cổ thụ, trên mỗi bãi cỏ mướt như nhung, trở lại câu chuyện bỏ dở hồi ban sáng.
- Sáng nay, lúc nói về người trai Kinh đến đây trước chúng tôi, em có nói một câu mà tôi còn nhớ: “cũng như các anh”. Cũng như các anh là thế nào?
- Là ăn mặc cũng như thế, nói năng cũng như thế và… cũng đánh Tây như thế. Lúc thoạt đến, anh ấy chảy máu ở cổ và vai. Tất cả chúng em đi tìm lá rịt cho anh ấy khỏi. Ông em lại cho anh ấy thuốc dấu, dần dần mạnh lên, nhưng chừng độ một tháng sau thì anh ấy dường như mất trí. À, nhưng mà không đúng hẳn thế đâu. Không phải có một người trai Kinh đã đến đây, nhưng có tới hai người, hai anh à. Một người là con gái.
Câu chuyện đến đây có vẻ bí mật hơn. Tôi vội hỏi:
- Hai người cùng đến một lúc với nhau?
- Không đâu. Người trai đến trước. Chừng bảy tám tháng sau, người con gái mới đến, có vẻ như đi tìm người trai, nhưng người con gái đến nơi thì người con trai đã mất hẳn trí, không nhận ra được cô nọ là ai nữa. Làm cách gì cũng không nhận được.
“Nhưng hai anh để cho em kể từ đầu cho mà nghe. May ra hai anh sẽ hiểu nội dung câu chuyện lạ lùng này, chớ riêng chúng em đây thì quả là đến bây giờ vẫn không biết hai người đó có liên hệ gì với nhau và có phải thật là người con gái vượt đèo vượt núi đi tìm người con trai mà may ra tìm được, hay là hai người ấy đã hẹn hò nhau từ trước một ngày nhất định để gặp gỡ nhau trên đỉnh non cao này.
Không hiểu tại sao nghe thấy cô gái tộc Dao nói như thế, tự nhiên tôi thấy lạnh ở nơi xương sống và dường như trong tim tôi có một sự xao động khác thường như thế, quả thực là đến tận bây giờ tôi vẫn chưa tìm hiểu được lý do. Người con gái ấy lặn ngòi noi nước để đi tìm người con trai? Thế thì cô ấy là chị, là em, là vợ hay là người thương của chàng trai ấy? Tôi không có tiên cảm gì hết, nhưng tôi buột miệng hỏi:
- Người con gái ấy chừng bao nhiêu tuổi? Cắt tóc, cài bím hay là bới?
- Trẻ lắm, đẹp lắm, nhưng tả cho hai anh biết người con gái ấy vóc dáng, mắt môi thế nào, em không có cách gì tả được. Em chỉ biết giọng nói của cô ta ấm lắm, đằm thắm lắm, mà cô ta hát thật hay, bởi vì đôi khi chúng em đi hái trái cây ở khe đá bóng sim, thỉnh thoảng có nghe thấy cô ấy hát. Hát gì và câu hát nói lên cái gì? Chúng em cũng không hiểu. Mãi sau, ở với nhau được ba bốn tháng rồi, cô ta học tiếng Dao nói câu được câu chăng, em mới biết đại khái rằng cô ấy và chàng trai kia là đồng chí. Nhưng nghe thấy vậy thì tin vậy, chớ cứ như mắt chúng em nhận xét thì cô ta thương xót chàng trai hơn là một người mẹ thương con, một người chị thương em, một người vợ thương chồng, hai anh à.
“Nhưng tại sao đồng chí lại lặn lội đi tìm nhau như thế? Tại sao thấy chàng trai mất trí, si dại, sống cũng như chết, cô ta ở luôn để săn sóc chăm nom không trở về? Rồi tại sao một buổi sáng nọ, cô ta cùng chàng trai nọ ra đi mà lại vào giữa lúc bịnh của chàng trai trầm trọng nhất? Thế thì hai người đã cùng chết với nhau hay là chàng trai nhờ một phép màu nào đó khỏi bịnh và cả hai trở lại với kháng chiến hoặc cả hai đã bỏ đi đến một chân trời nào thật xa, còn xa hơn cả nơi đây nữa?
6. Theo lời cô gái người Dao, mãi cho đến tận lúc hai người rời bỏ cái đỉnh núi thần thoại để trở về đồng bằng, chàng trai nọ vẫn còn si dại, mặc dầu trong mười một tháng ở với tộc này, người con gái Kinh đã tìm đủ các thứ lá, các môn thuốc gia truyền của những người già còn giữ được để chữa chạy cho chàng trai nọ.
- Bệnh có khi giảm khi tăng. Có ngày, chàng trai không nói một lời, nhưng cũng có hôm tỉnh táo, tuy nhiên chỉ tỉnh chừng vài giây, cùng lắm là một buổi rồi đâu lại trở lại đấy, có khi cười một mình nhưng cũng có khi lại rú lên như sợ hãi một chuyện gì ghê gớm lắm. Sau này, có dịp ngồi trò chuyện với chúng em, cô ta cho biết…
Đến đây, tôi cảm thấy bực bội không chịu được. Ít ra ở mười một tháng với nhau, cũng phải có cái tên để gọi, tại sao các cô này cứ gọi cô gái Kinh nọ là “cô ta”: Thế thì cô ta tên là gì?
- À phải, để em nghĩ một chút. Hình như cô ta tên là Dương – Thúy Dương hay là Thùy Dương gì không rõ, chỉ biết chắc là có chữ Dương.
Thôi, chết rồi! Thùy Dương! Thùy Dương! Tôi nhớ ra rồi: Dung không phải là tên thật mà chỉ là bí danh; còn chính tên nàng từ lúc nhỏ, còn đi học trường Đồng Khánh Hà Nội là Thùy Dương - Hoàng Thị Thùy Dương - điều đó hết thảy các bạn hữu của nàng đều rõ.
- Em vừa nói gì? Tên cô gái ấy là Thùy Dương?
- Phải. Thùy Dương. Người mảnh mai, da không trắng lắm. À, để cho em nhớ lại một chút. Hình như ở cổ, về bên tay mặt, có một mụn ruồi đỏ thắm.
Tôi bắt đầu ngờ người con gái mà cô nàng người Dao đang nói chuyện đó chính là Dung. Ngờ chứ chưa tin là bởi vì biết đâu ở đời lại chẳng có những người mảnh mai có một mụn ruồi son ở cổ, mà không phải là Dung thì làm sao? Mặc dầu trí óc tôi lúc đó vẩn vơ suy nghĩ lan man, tôi vẫn giục cô nàng nói tiếp câu chuyện đang bỏ dở.
Cô em tiếp:
- Phải, sau này có dịp ngồi trò chuyện với chúng em, cô ta cho biết chàng trai nọ bị thương ở đầu trong một vụ ném bom ở một miền xa xôi, sau khi nằm dưỡng bịnh ở một quân y viện, anh bỏ đi không ai biết. Cô gái tên Thùy Dương lặn lội đi tìm bảy tám tháng trời mới gặp, nhân một sự tình cờ…
- Thế em có bao giờ nghe thấy nói tên người trai ấy là gì không? Thùy Dương có bao giờ cho biết tên không?
- Không bao giờ. Em chỉ thấy gọi là anh. Mà chúng em vì lý do mà hai anh đã biết, cũng không bao giờ hỏi tên anh là gì, chỉ gọi là “hoong ti” tức là người Kinh gọi anh hai vậy.
“Hoong ti” bị đau đầu, thỉnh thoảng vết mổ lại chảy máu. Và không hiểu vì vết thương ấy không lành hẳn hay vì lý do gì khác, anh thành ra si dại, có khi ngồi thần ra cả một nửa ngày, có lúc lại rú lên như sợ hãi một chuyện gì ghê gớm lắm, như em vừa nói. Ấy là vì - theo lời Thùy Dương nói lại khi chuyện trò với anh khi tỉnh - những lúc đó, rõ ràng mở mắt và đủ minh mẫn trong trí óc, anh ta thấy hàng triệu con rắn đủ các màu, đủ các loại và đủ các giống, không biết từ đâu bò lại và vây chặt lấy anh, lại cũng có khi anh thấy có hàng ngàn cái tà áo đàn bà bay phất phơ trước mắt, rồi có hàng ngàn thiếu nữ đẹp lạ đẹp lùng hiện ra để một lúc sau biến dần cả đi, mà biến đi một cách kỳ lạ là cái đầu tách ra bay đi trước, rồi đến chân tay rời ra từng cái lơ lửng trên trời một lát rồi mờ đi dần cho tới khi mất hẳn…
“Bây giờ, ngồi nghĩ lại cái tình và cái nghĩa của Thùy Dương đối với người bịnh như thế, em nhất định với hai anh là ở trần đời này khó có hai người có một tình yêu thương lớn lao đến như vậy, một lòng hy sinh cao cả đến như vậy. Mà đáng sợ nhất là em không hề thấy Thùy Dương than khóc hay tỏ vẻ chán nản bao giờ.
“Không. Tấm lòng kiên trì ấy, phải nhận là ghê gớm quá. Em còn nhớ có một hôm “hoong ti” tỉnh táo, ngồi nói chuyện với Thùy Dương, trước mặt ông nội và chúng em. Thùy Dương can đảm và tài tình vượt bực, hai anh à. Nàng vui cười với “hoong ti” y như không có gì xảy ra và quay lại chúng em nói tiếng Dao câu được câu chăng: “Hôm nay mình hát cho các em nghe nhé. Mình hát bài này, chắc “hoong ti” dù lãng trí cách nào cũng phải nhớ ra…”.
“Giỏi lắm, giỏi quá, giỏi nhất trần đời, hai anh à. Mặc dầu không hiểu tiếng hát và những lời giải thích của Thùy Dương, chúng em cũng hiểu đại khái nội dung các chuyện nàng đem ra kể, kèm với bộ điệu và câu hát.
“Thôi, bây giờ Thùy Dương đi đâu mất rồi, không trở lại đây nữa, bao giờ chúng em còn được nghe thấy giọng hát như suối đàn, tiếng cười như hạt châu rơi trên mâm đồng, và tiếng khóc buồn như gió thổi mưa rơi trên ngàn lúc nàng diễn cái trò mà nàng gọi là trò “Con chim cánh tiên”, trong đó con chim tuyệt đẹp biến thành một nàng con gái kề vai người đi săn vào rừng mà hát một câu nói lên cái đẹp của rừng xanh và cái hùng khí rừng rực đỏ của người chiến binh cứu quốc.
Nghe nói đến đó, tự nhiên không hiểu làm sao tôi thấy buồn muốn chết. Tại vì tôi nhớ lại bài độc tấu đã được coi ở Cao Bắc Lạng? Tại vì mấy câu thơ hay tại một duyên do khác? Nhưng muốn sao đi nữa thì nghe đến đây, tôi chắc chắn cá một trăm phần trăm nàng con gái người Kinh lặn lội đi tìm chàng trai ở trên đỉnh núi thần thoại chính là Dung, không có gì sai được. Dung, bạn của Nhu, người đã cùng với chúng tôi vượt con đường số 6 và sống những đêm mưa rừng trong nhà quàn; Dung, người nữ cán bộ đẹp như cánh hoa mai đã làm cho chúng tôi quên khổ cực, quên nhớ nhà, nhớ cửa trong những ngày nghỉ chân ở Voi Gầm nghe kể chuyện huyền thoại của các anh bạn Vinh, Kiếm, Việt, Hoa Vàng, Rốc Lai…
7. Suốt trong thời kỳ Tây tiến, tôi bị ám ảnh vì câu chuyện của người em gái tộc Dao. Bao nhiêu nỗi buồn thương - thắc mắc tôi đều có ghi trong bốn cuốn nhật ký đem theo về thành khi “rinh”, nhưng mật thám Pháp đã tịch thu mất hết lúc tôi đến một làng tề ở Bình Thủy nhìn về Hà Nội.
Nhưng dù cách nào đi nữa thì ấn tượng này cũng ghi rất đậm trong óc tôi từ lúc ấy cho đến mãi bây giờ và chắc chắn là cho tới khi tôi chết, không có thể gì phai mờ được, thay đổi được: Người con gái trèo lên đỉnh núi của tộc Dao chính là Dung, mà Dung lặn ngòi noi nước lên trên đó không có mục đích gì khác hơn là tìm cho kỳ được người thương. Nhưng người thương ấy là ai? Có phải là một trong bảy người kể chuyện huyền thoại mà Dung cho là hay nhất và tự hứa với lòng sẽ trao xương gửi thịt? Hay người ấy là một người khác hẳn mà Dung gặp ở trên đường kháng chiến sau này, gặp rồi thương, thương rồi lấy như ngàn vạn người con gái khác?
Bao nhiêu ức thuyết đó làm cho trí óc tôi bận rộn trong cả một thời gian đằng đẵng. Khổ nhất là thắc mắc như thế mà không biết nói cùng ai, bàn cùng ai, vì trong những người bạn cùng Tây tiến với tôi kỳ đó không có một người nào biết Dung hay biết một trong bảy anh bạn đã kể chuyện huyền thoại ở chân đỉnh Voi Gầm. Phải đợi đến cuối thu năm 1948, làm xong công tác trở về, tôi mới nhẹ nhõm trong lòng được phần nào sau khi đem hết câu chuyện ra nói cho vợ biết. Và không quên nói lên cả những băn khoăn thắc mắc của tôi.
Thì ra óc tôi hỏng một cách đáng thương. Hảo nói:
- Anh kỳ quá. Chuyện rõ ràng đến như thế mà còn thắc mắc nỗi gì. Chàng trai mất trí, si dại, không nhận được ai là ai, chàng trai mà Dung trèo đèo lội suối để đi tìm đó không có cách gì là một người khác được. Người đó chính là người đã kể câu chuyện huyền thoại mà Dung cho là hay nhất.
Thấy tôi ngơ ngác chưa hiểu tại sao lại có thể có một câu quyết đoán dễ dàng như thế, Hảo tiếp:
- Thế anh không nhớ câu chuyện của anh Đá nói với chúng mình khoảng một tháng trước khi anh lên đường Tây tiến hay sao?
Tôi cố nhớ dần dần. Thôi, đúng rồi: Chàng trai si dại ở trên đỉnh núi của tộc Dao chính là người đã bỏ quân y viện ra đi biệt tích trong khi vết thương ở đầu chưa lành hẳn, người mà Dung đã một mình đi đến quân y viện xa xôi nọ để săn sóc, chăm nom; người mà chính Đá biết chắc được Dung thương yêu vì đã kể câu chuyện huyền thoại mà Dung cho là mê nhất.
Nhưng tại sao chàng lại trốn khỏi quân y viện mà Dung không biết? Hoặc là chàng đã ra đi ngay từ trước khi Dung tìm được đến nơi chàng dưỡng bệnh? Rồi thì sau đó nhờ sự tình cờ nào Dung lại tìm được lên đến đỉnh núi thần thoại kia và gặp người thương bấy giờ hoàn toàn si dại, không còn biết thù ghét thương yêu là gì?
Tuy nhiên tất cả những câu hỏi ấy chỉ làm cho Hảo và tôi băn khoăn phần nào. Điều day dứt chúng tôi nhất là không biết tại sao ở ngót một năm trời với tộc Dao trên đỉnh núi cao thần thoại, Dung cùng với người thương vào giữa lúc bệnh tình anh ta trầm trọng nhất lại xuống núi đi - mà đi thì đi đâu? Hay là cặp vợ chồng “không bao giờ cưới” này chết cả rồi?
Mà chàng trai nọ nếu đã chết thì lúc sắp chết có một lúc nào biết rằng ở đời lại có một người yêu thương anh ghê gớm đến như thế và hy sinh cả một cuộc đời não nùng đến thế không?
Mấy đêm liền, Hảo rong một ngọn đèn lên ngồi khóc một mình. Khóc Dung và khóc chàng trai tên là “Hoong Ti”. Hoong Ti! Hoong Ti là cái gì? Tại sao không có một người nào biết được tên thật của anh, kể cả Đá là người chúng tôi vẫn cho là “thạo tin tức nhất ở ngoài kháng chiến” và kể luôn cả cô em gái ở trên trang trại tộc Dao, vận xiêm áo mỹ miều còn hơn cả xiêm áo của những bà hoàng bà chúa trong truyện cổ nước Tàu, nước Nhật?
Bực quá chừng là bực. Thế thì người đồng chí được Dung chọn làm bạn lứa đôi ấy là ai? Là Vinh, là Kiếm, là Việt, là Rốc Lai, là Hoa Vàng… hay là ai?
Cho đến tận bây giờ, không có một người nào còn kháng chiến hay đã rời kháng chiến vào đây biết rõ được cái bí mật thê thiết ấy.
Thành thử ra đến tận bây giờ, Hảo và tôi vẫn không biết “người chồng không bao giờ cưới” của Dung là ai và cũng chính vì thế, không thể biết trong bảy câu chuyện huyền thoại kể trong những đêm mưa rừng ở Voi Gầm, chuyện nào được người em bé nhỏ của chúng tôi là Hoàng Thị Thùy Dương, bí danh “Thanh Dung” coi là ý vị, say mê nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét