Thứ Hai, 25 tháng 5, 2020

Bảy đêm huyền thoại 1

Bảy đêm huyền thoại 1
Phần thứ nhất. 
ĐÊM MƯA RỪNG
1. Bây giờ, nghĩ lại, tôi không cảm thấy như thế nữa. Sự vui sướng và cái say sưa của tôi đêm đó không còn. Tất cả chỉ còn lại một cái gì làm cho mình hồi hộp, nửa như là sợ, nửa như là buồn.
Đi trên sông nước về chiều mà gặp trời mưa gió đã buồn, nhưng buồn ấy không thấm vào đâu so với cái buồn đi ba bốn ngày đường, đến nửa đêm về sáng, phải tìm một cái miếu hoang hay một cái nhà bỏ không nào đó, kéo nhau vào tạm trú, mà lại đúng lúc đang nổi cơn mưa rừng. Chúng tôi có bao nhiêu người cả thảy? Tôi không còn nhớ nữa. Chỉ biết chúng tôi vừa vượt con đường số sáu tiến về đỉnh Voi Gầm để điều nghiên chiến trường rồi từ đó đi Lào, nói là để thu thập tài liệu viết văn cũng được, mà bảo là để thám sát chiến trường cũng được.
Gần tới đỉnh Voi Gầm thì mưa… Ở vùng Đầm Muống, ở mạn Chổng Mông, Chợ Trời, tôi đã biết thế nào là mưa rừng, nhưng mưa về chiều nó cũng chỉ buồn có chừng mà thôi. Trời đang gió hiu hiu, tự nhiên đen sầm lại rồi mưa trút xuống như thác lũ. Cứ đi, nhưng cây cối ở cách mình độ một thước, chỉ thấy mờ mờ như trong mộng. Quá một thước, tuyệt nhiên không còn nom thấy gì.
Mưa rừng ở mạn Voi Gầm đêm hôm ấy thì vượt bực. Đoàn chúng tôi nắm áo nhau đi trong đêm mịt mùng, đêm mông lung, đêm hãi hùng. Chớp lóe ra xanh lè như muốn xé nát bầu trời. Cây cối kêu răng rắc. Mưa gầm lên, thét lên, rú lên như hàng trăm ngàn con quỷ sứ từ trên trời sa xuống, từ hốc cây khe đá chui ra.
Dừng lại thì cây đổ, núi sập và mưa xối xả, cũng chết. Còn đi nữa thì đi đâu bây giờ?
Vào khoảng ba giờ sáng, may làm sao chúng tôi thấy lù lù ở trước mặt một cái bóng đen bên sườn một trái đồi. Một người bấm đèn ló lên:
- Có hy vọng! Hình như là một cái nhà.
Một người khác nói:
- Thoát chết rồi. Bây giờ mà được ngồi sưởi và được hút nhờ một điếu thuốc thì sung sướng không chịu được.
Nhưng tất cả bọn chúng tôi đã lầm. Cái nhà bên sườn đồi là một cái nhà hoang. Vào bên trong rồi đốt mấy thoi nhựa trám lên nhìn chung quanh, chúng tôi thấy da dẻ tê tê lên một thoáng. Kỳ, sao nhà lại chỉ có một bức tường? Bảo là ba phía tường kia bị phá thì không đúng vì chúng tôi không thấy dấu vết gì phá phách. Đây là lần đầu tiên chúng tôi đi công tác ở Hòa Bình. Cái gì đối với chúng tôi cũng lạ. Nhưng lạ nhất là ở một góc, về phía gần những cây ngải gió, làm sao lại có nhiều quan tài chồng chất lên như thế? Trong quan tài có người chết không? Hay chỉ là những cỗ hậu để sẵn đó để phòng khi có ai nằm xuống thì mới đem nhập quan rồi đưa chôn?
Chúng tôi không có thì giờ để tìm hiểu làm gì. Dù đây có là bãi tha ma mà trú được mưa rừng, chúng tôi đã đến thì cứ đóng lì ở đấy, không thèm đi đâu nữa. Anh em đốt thêm nhựa trám cho vui cửa vui nhà. Ánh lửa đỏ khé chập chờn, thỉnh thoảng lại kêu lép bép và tung lên trời những bụi lửa văng ra bóng tối đặc quánh và đen mù ở bên ngoài.
Chúng tôi cảm thấy mưa ở chỗ này cũng dịu rồi, nhưng ở bốn bề chung quanh thì tiếng gió vẫn rú lên và tiếng mưa ở xa xa vẫn ào ào trút xuống như chưa hết căm hờn, uất giận. Nhưng muốn cách gì đi nữa thì chúng tôi cũng không cần. Cơm nắm lấy ra ăn ngon không chịu được. Bảy cán bộ văn nghệ châu đầu lại với nhau đun nước pha cà phê. Một chính ủy, không nói gì từ lúc bước vào đây, lấy một mảnh vải đỏ lau cái ấm đất Mạnh Thần, pha trà Tàu độc ẩm. Anh trung đoàn trưởng gốc Thổ giở cuốn nhật ký, kề sát lại một thoi nhựa trám, lẩm nhẩm đọc một mình như học bài.
2. Không biết làm gì, tôi quay sang tán láo với ba chị cán bộ vừa đồng ca xong bài Sông Lô.
Tôi nhắc lại cuộc hành quân ấy. Chị Hảo nhìn ngọn lửa đỏ chập chờn của thoi nhựa trám gắn ở góc nhà, nhìn ra trời mù mịt, không nói gì. Chồng chị đã bỏ thân trong cuộc hành quân ấy. Hiện giờ, có một chàng trai khác đang đeo chị.
Chính chị Nhu tiết lộ điều đó cho mọi người biết và yêu cầu giữ kín đừng để cho ai rõ.
Tôi hỏi:
- Thế phần riêng chị thì sao?
Nhu lấy ngón tay trỏ vẫy mấy cái, nói:
- Ba khoan mà!
- Nhưng khoan mãi rồi cũng chọn lấy một người nào chứ!
- Cái đó phải hỏi chị Dung. Chị ấy mới có quyền chọn lựa.
Dung là một cán bộ sở trường về độc tấu. Vốn là một nữ sinh trước đây theo học trường Đồng Khánh, mỗi khi học ngụ ngôn La Phông Ten thì phải lên bục ngâm nga và làm điệu bộ sợ sệt như con cừu, hay hung dữ như con sói; Dung ra ngoài kháng chiến bắt đầu làm giao liên, sau chuyển sang ngành tân nhạc. Có một anh chính ủy viên thấy chị có biệt tài độc tấu, khuyên nên chuyên chú về mặt này. Chẳng mấy lúc Dung nổi tiếng về độc tấu, nhất là trong chiến dịch Khu Ba. Ới ơi các anh từng theo kháng chiến chống Pháp bây giờ về ở đây, sống trên nhung mướt, đi trong đêm màu hồng, nghe ca sĩ hát ru những bài đầy hương ngát hoa, các anh có lúc nào còn nhớ đến những buổi liên hoan, đốt lửa ngâm thơ, lần theo bóng trăng mà kể bất cứ chuyện gì, hay gẩy đàn cất cao tiếng hát trong đêm, nói lên mồ hôi đổ xuống ruộng lúa và máu tưới lên ngọn cờ?
Riêng tôi ưa độc tấu hơn cả là vì thấy độc tấu là một nghệ thuật bao gồm đầy đủ các hình thức ca kịch, thoại kịch, vũ kịch, nhạc kịch, múa rối. Người độc tấu không đeo râu, không vẽ mặt, mặc áo trấn thủ như tất cả mọi người, đứng ra kể một chuyện, hát một bài, tả lại một chiến công vừa thâu hoạch, đóng một mình một vở kịch ngắn hay bình chú một truyện hoặc cũ như Tam Quốc, Thủy Hử, hoặc mới như Mẫu Đơn Đình, Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài. Người độc tấu vừa nói vừa làm bộ điệu cười khóc, căm thù, la hét. Nghệ thuật mà đi đến chỗ vi diệu thì có thể chèo tuồng, vũ kịch cũng không bằng, mặc dù là không có phong cảnh bài trí như trong nhà hát.
Tôi còn nhớ trong cuộc hành quân Cao Bắc Lạng, tôi đã được coi Dung độc tấu một chuyện nhan đề là “Con chim cánh tiên”. Chuyện bắt đầu bằng một bài ca ngợi thành quả sản xuất. Sau khi Dung vừa hát vừa cấy lúa, nàng vụt biến thành một người đàn ông đi săn, vẽ một con thú lên vách đá, vừa làm động tác đi săn, vừa múa. Rồi bắn vào hình con thú mà miệng lẩm nhẩm đọc thần chú. Thế rồi đột nhiên nàng lại trở thành một nhà bình chú giải thích động tác đọc thần chú của mình như sau: “Việc đọc thần chú này không thể coi là một khía cạnh duy tâm, ta nên biết đó là một cách để tạo thêm tin tưởng vào kết quả sắp tới của lao động với mục đích ca ngợi những thành tích mà thôi”. Nói xong, nàng lại biến ngay ra thành người đàn ông đi săn như trước và tự mình lại đóng thêm một vai nữa. Người đi săn ra cái vẻ thấy con chim đẹp quá không muốn bắn. Phần con chim thì định trốn. Người đi săn do dự một chút, sau đành bắn vậy. Chim bị thương, lảo đảo rồi lăn ra chết. Người đi săn nhảy múa vì mừng đã giết được chim, nhưng ngay sau đó thì lại buồn bã ê chề vì hối hận đã bắn chết con chim tuyệt đẹp. Bất thần vào giờ chót, chim cựa quậy, biến thành một nàng con gái xinh ơi là xinh, đẹp ơi là đẹp. Và nàng con gái ấy gieo mình vào lòng người đi săn để rồi hai người cùng kề vai nhau đi vào rừng. Rồi người đàn ông và cô gái đẹp cùng hát một bài dân ca bắt đầu bằng bốn câu:
Rừng xanh ai nhuộm mà xanh,
Má hồng ai nhuộm mà quanh năm hồng.
Rừng xanh lấy núi làm chồng,
Má hồng em muốn lấy chồng chiến binh.
Một mình vừa thủ vai đàn bà cấy lúa, vừa thủ vai đàn ông đi săn, vừa thủ vai chim đẹp, làm điệu bộ gieo vào lòng chàng trai, lại làm điệu bộ quàng vai cô gái để hai người cùng hát… chỉ kể bấy nhiêu thôi ta cũng thấy Dung độc tấu thần diệu đến chừng nào mới có thể làm cho bao người say… muốn chết!
3. Sự tình cờ đã khiến cho tất cả những người mê Dung hôm đó cùng vượt con đường số sáu để tạm nghỉ ở vùng Đầm Rạ về phía đỉnh Voi Gầm.
Gần sáng, mưa rừng lại đổ nước xuống như thác lũ. Có một vài người ngủ được, còn thì thao thức nằm nghe sự chuyển mình của rừng núi hun hút chui vào vực đen huyền bí, thỉnh thoảng lại nhoằng lên những lằn chớp xanh màu ma quái.
Một người kể chuyện đã có lần được ăn nước xuýt voi “trong văn vắt mà ngọt cứ như đường”. Một người khác hỏi:
- Thế nhưng mà tôi hỏi anh em có ai biết tại sao lại gọi đỉnh Voi Gầm không?
- Không. Tôi chỉ biết xuất xứ của danh từ “Chổng Mông” ở mạn Hòa Bình thôi.
- Thế hả! Nói nghe chơi.
- Ngọn núi có tên đó cao và thẳng tuốt, muốn lên mà đi hai chân như thường, không thể được. Ai cũng phải bò, thành ra tên là “Chổng Mông”. Chẳng là chổng mông để bò mà…
Anh chính ủy viên nói:
- Thế thì cũng tựa như hang Cơm Toi ở Tuyên Quang. Hang ấy có tiếng là sâu lắm, thỉnh thoảng lại có những trận bão cát cuốn cả người và ngựa vào trong hang. Do đó, có tên là “Cơm Toi”: ai qua đấy vô phúc mà bị cuốn xuống thì coi như là ăn hại cơm, tức cũng như cơm toi vậy.
Trở lại cái tên “Voi Gầm”. Tôi không biết chắc, nhưng có một anh đã đi qua vùng này cho biết  rằng ngọn núi có tên ấy cao ghê lắm, trèo lên đến đỉnh rợn cả tóc gáy lên. Thậm chí voi mà cũng không chịu được, trèo lên đỉnh cũng phải gầm lên, đòi xuống.
Bên ngoài, bóng tối mịt mùng, rùng rợn. Mưa rừng trút nước xuống không ngừng. Ngồi ở trong này có than để sưởi và mấy thoi nhựa trám cháy lung linh làm cho lòng người ấm hẳn lên, lại được mỗi người làm quà một câu chuyện lạ tai - không, ta phải nhận là cái kiếp sống bô-hê-miêng của con người xả thân vì nước cũng có nhiều thi vị. Có thể nhà Phật gọi như thế là nghiệp duyên, nhưng chúng tôi lúc đó không tin như thế. Chúng tôi cho là cái bệnh. Bệnh không ngồi yên được, bệnh buộc người ta phải làm một cái gì. Bệnh nó hành cho mình phải xê dịch thường xuyên, không thế thì nhạt mồm đắng miệng, lừ đừ, mệt nhọc y như chết rồi.
Bọn chúng tôi vui như thế được một ngày một đêm. Sang ngày thứ hai, giữa lúc một vài người bắt đầu thấy một cái gì như sự nhạt nhẽo chảy trong mạch máu và len lỏi vào thớ thịt làn da, thì có một em bé tìm đến chỗ chúng tôi nghỉ tạm đưa một chỉ thị mật cho anh Trung đội trưởng.
Chiến dịch Hạ Lào tạm ngưng. Chúng tôi được lệnh ở yên trong miền đỉnh Voi Gầm chờ lệnh mới.
Không biết bao nhiêu là lời dự đoán về chiến dịch mà chúng tôi sẽ tham gia. Đầm Muống? Khu Ba? Hay Cao Bắc Lạng? Nhưng cùng lúc anh em phỏng đoán như thế thì hầu hết đều đã cảm thấy những ngày ăn chực nằm chờ sắp tới buồn biết chừng nào, nhạt biết chừng nào.
Ngay buổi trưa hôm đó, chúng tôi chia nhau công tác, người thì đi xem những cái quan tài chồng chất trong một xó kia có người chết hay là bỏ trống; người thì đi thám sát xem dân cư ở cách đó chừng bao nhiêu dặm đường; người thì đi tìm củi để đun và sưởi, đồng thời mua gạo để phòng ngừa gạo trong sắc cốt của chúng tôi hết mà chưa nhận được lệnh di chuyển đi nơi khác.
Đến sẩm tối, anh em tề tựu không thiếu một người ở trong căn nhà chỉ có một bức tường và chồng chất quan tài. Bóng đêm rủ xuống thì tiếng của rừng nổi lên rùng rợn hơn hết cả các khu rừng khác mà chúng tôi đã đi qua. Tiếng thú kêu cũng khác, tiếng chim cũng khác, thậm chí đến tiếng gió rung chuyển cây cũng khác luôn. Chị Hảo cho biết là rừng này có cọp.
- Cấm nói đùa. Ai bảo thế?
- Hôm nay tôi đi chợ Si Luông cách đây mười hai cây số, thấy người ta nói thế.
Không ai nói gì thêm nữa. Nhưng đêm ấy chúng tôi đốt lửa thức với nhau đến tận khuya. Không có một người nào ngủ cả. Ba bốn anh em xúm lại pha một phin cà phê bằng một phương pháp độc đáo là ít cà phê mà tương đối phải đặc, rồi pha nước sôi vào uống mỗi người một ngụm làm duyên.
Anh chính ủy vét ba cánh trà, cho vào cái ấm Mạnh Thần uống một mình, vì theo lời anh, nếu anh “không uống một tí thì bệnh ngã nước nó vật liền”.
Còn ba chị cán bộ thì lại khe khẽ hát với nhau trong bóng tối. Lần này, Hảo hát bài “Vui tổ đổi công”, còn Dung thì hát bài “Khắp hạn khuống”, bắt chước đúng hệt một “tồn khuống” đứng trên chiếc sàn hạn khuống của dân tộc Thái hát đối đáp trữ tình với một thanh niên tưởng tượng.
Lấy được nhau, ta sẽ xẻ núi cao xuống làm ruộng,
Xả đồi gianh xuống làm bản.
Khi còn nghèo chúng ta còn ăn măng,
Khi còn khó, ta hãy ăn nấm,
Nhà không có, ta ngủ lều nương…
Tất cả mọi người đều quay cả về phía Dung để nghe Dung hát.
Nhưng chỉ độ nửa tiếng đồng hồ thì cả ba chị cán bộ đều buồn ngủ. Cà phê, trà Tàu lúc này cũng đã cạn cả rồi. Mà anh em thì lại không muốn ngủ sớm vì người nào cũng ngay ngáy sợ có cái gì bất trắc xảy ra do sự tiết lộ của chị Hảo hồi trưa đi chợ Si Luông về…
Ở vào những trường hợp như thế mà muốn làm cho không khí sống động lên, chúng tôi thường thường vẫn cử một người tìm một đoạn nào hào hứng nhất trong truyện Tam Quốc hay Thủy Hử đứng ra độc tấu, hoặc là đốt lửa “liên hoan” cùng ngâm những bài thơ, ca giao duyên nổi tiếng, hoặc nói một bài thơ đại khái kể lại chiến tích Sông Lô hay cuộc hành quân Cao Bắc Lạng.
Anh chính ủy gốc Thổ đề nghị:
- Lặp đi lặp lại mấy cái đó nhàm rồi. Tôi là người Thượng ưa vui, xin đề nghị các anh em có mặt ở đây kể mỗi người một chuyện tiếu lâm nghe cho tỉnh ngủ.
Vừa nghe hai chữ “tiếu lâm”, tất cả anh em, chị em ngồi đó tỉnh ngủ liền, đúng thế. Nhưng Nhu gật đầu một giây rồi nói:
- Kể chuyện tiếu lâm thì nhất rồi, nhưng các anh thử nghĩ xem có nên kể ở trong một cuộc họp có đàn bà con gái tham dự hay không? Là vì truyện tiếu lâm, theo tên gọi và nội dung cùng mục đích của nó chỉ là những truyện có tác dụng gây cười không kể thanh hay tục, nhưng theo quan niệm thông thường thì truyện tiếu lâm vẫn lấy yếu tố tục làm chính yếu.
Thử hỏi các anh ở đây có ai lại có gan kể những chuyện tục ở trước mặt chị Dung không? Theo tôi thì nhất định không.
Dung đập vào vai Nhu:
- Chị lầm. Sao tôi lại không dám nghe các anh ấy kể chuyện tiếu lâm?
Nhu nói:
- Tôi có bảo chị không nghe đâu, nhưng tôi ngờ rằng các anh ấy không dám kể trước mặt chị những truyện “tủ” của các anh ấy! Mà không dám kể những truyện “tủ” nghĩa là những truyện tục nhất thì còn thú vị nỗi gì?
- Sao lại không dám kể?
- Ối, điều ấy ai mà lại còn không hay, làm bộ làm gì. Theo sự hiểu biết của tôi, có bảy anh mê chị Dung, muốn lấy chị và cả bảy anh ấy cùng có mặt ở đây. Là những ai? Chẳng cần nói ra làm gì. Ai có tật người ấy biết… Các bạn còn lạ gì những người đương yêu, ai mà không muốn là đẹp, ai mà lại không tìm cách tỏ ra mình tao nhã thanh cao… Nói tục tĩu, còn ra cái thể thống gì. Tôi yêu cầu cất những truyện tiếu lâm vào một chỗ để khi nào các bạn trai hội họp với nhau đem ra mà nói thả cửa với nhau. Còn ở đây, xin tìm một trò gì khác.
4. Hảo gật đầu. Nàng không phát biểu ý kiến, nhưng ai cũng biết nàng tán đồng quan điểm của Nhu.
Anh chính ủy viên nói:
- Chị Nhu nói đúng. Tôi cũng tán thành.
Anh chính ủy:
- Nếu thế thì đổi đi, không có sao!
- Đổi thế nào?
- Tôi đề nghị, mỗi người trong chúng ta đây, kể cả ba chị nữa, đều phải kể một chuyện ly kỳ.
- Ly kỳ thế nào? Chữ ly kỳ không rõ nghĩa.
- Tôi xin lỗi. Tôi muốn nói là truyền kỳ, tức là huyền thoại.
Một anh cán bộ giơ tay lên:
- Tôi tán thành ý kiến mỗi người kể một chuyện huyền thoại. Nhưng thế nào là huyền thoại? Cần phải định nghĩa cho thật rõ ràng mới được.
Anh chính ủy nói:
- Tôi hiểu huyền thoại theo nghĩa truyền thuyết.
Một anh khác lên tiếng:
- Mà truyền thuyết không phải là thần thoại đâu.
Một cán bộ văn nghệ giơ tay:
- Tôi xin đỡ lời anh chính ủy. Tôi xin đưa ra một định nghĩa thần thoại, truyền thuyết và huyền thoại. Nếu các anh em chấp nhận, ta cứ theo đúng thế mà tiến hành, nghĩa là thay phiên nhau mà kể chuyện theo định nghĩa ấy. Theo tôi, thần thoại là một hình thức sáng tác văn học dân gian nói lên cuộc đấu tranh của người nguyên thủy nhằm chinh phục tự nhiên. Thần thoại thấm nhuần quan niệm thần linh chủ nghĩa. Truyện “Thần Bàn Cổ”, truyện “Thần Trụ Trời”, truyện “Nữ Oa Bổ Thiên” là thần thoại.
“Truyền thuyết có một nội dung khá rộng hơn, đó là những truyện có dính líu đến lịch sử mà lại có sự kỳ diệu - tức là lịch sử hoang đường - hoặc là những chuyện tưởng tượng, có gắn với sự thực lịch sử ít nhiều: truyện “Yết Kiêu”, truyện “Sự tích Hồ Gươm”, truyện “Đức Thánh Gióng” là truyền thuyết.
“Cả thần thoại và truyền thuyết đều xây dựng trên căn bản của vai trò tưởng tượng nhưng dựa ít hoặc nhiều vào lịch sử.
“Truyện huyền thoại cũng diễn đạt tư tưởng bằng hình tượng, hình tượng trong huyền thoại cũng được xây dựng với sự giúp đỡ của yếu tố tưởng tượng, nhưng huyền thoại không dính líu đến sự thật lịch sử mà chỉ là những cái bóng của lịch sử mà thôi. Truyện “Từ Thúc”, truyện “Truyện Tú Uyên” không dính líu đến lịch sử, lại có tính chất tiên thoại, huyền thoại.
Nghe lời giải thích về huyền thoại có vẻ cám dỗ, tất cả anh em đều chịu.
Anh cán bộ văn nghệ giơ tay xin nói tiếp:
- Song le… Theo tôi thì trong tất cả mấy loại truyện vừa nói, loại truyện huyền thoại, mặc dầu cám dỗ người nghe nhất, dễ khiến tâm hồn bay bổng nhất, nhưng lại khó biểu dương được ý nghĩa nhân sinh tích cực.
“Vì thế, tôi đề nghị phải có một ban giám khảo để định đoạt truyện hơn kém, hay dở - dù vẫn biết rằng được thua không ăn cái giải gì - nhưng để chúng ta làm một cái dịp hầu rút kinh nghiệm và học hỏi; truyện nào có tính cách đấu tranh chống thiên nhiên, truyện nào có tính cách giữ nước hàm súc tư tưởng phản kháng chiến tranh xâm lăng, truyện nào có lợi cho giai cấp thống trị…
Một anh bạn thở dài:
- Ơi bạn, nói thế là đủ rồi. Ngồi xuống. Đây này, tôi xin nói vắn tắt một câu nhé: học tập nhiều quá rồi, óc nặng muốn chết đây. Có những giây phút này, xin để cho giải trí, thuyết này chưa hết lại đến thuyết khác, nghe mệt quá.
Anh chính ủy tán thành ngay:
- Đúng. Tôi hoan nghênh đồng chí Kiếm. Chúng ta có truyện huyền thoại gì hay, xét ra thú vị thì cứ kể bừa đi.
- Tôi cũng thế. Đọc một cuốn sách, nghe một câu chuyện, tôi chỉ cần một điều là: thích thú. Sách hay truyện theo thuyết này, hay kể theo văn phái kia mà dở thì có nhồi vào óc, tôi cũng chịu. Mà truyện hay, sách khá, tôi chả cần biết tác giả viết theo văn phái nào hay kể theo hệ thống nào, tôi thích thú là tôi thích thú mà cũng chẳng cần phân tách lôi thôi vớ vẩn tại sao tôi lại thích.
Dung vỗ tay:
- Nói đúng. Hay là hay, thế thôi, chứ không tại làm sao cả, tôi không cần biết là hay theo duy vật hay duy tâm, hay vì đề cao lao động, hay vì biết sử dụng tưởng tượng, vốn sống và tình cảm…
Anh cán bộ văn nghệ vẫn chưa chịu:
- Nhưng làm như thế có thể có hại.
- Ủa, đã gọi là giải trí mà! Không có hại đâu, đồng chí ạ. Có mấy ngày rỗi rãi, xin cho phép sống tự do cho nó sướng cái thân già một tí.
Một anh khác tiếp:
- Nếu anh Việt - tên anh cán bộ văn nghệ - muốn có một ủy ban nghe chuyện có quyền định đoạt chuyện nào hay, chuyện nào dở, cũng được đi. Tôi xin đề nghị cử ba chị Nhu, Hảo và Dung đứng ra làm việc đó.
Nhu và Hảo giẫy lên:
- Không được. Chúng tôi không tán thành. Chúng tôi đề nghị để cho một mình chị Dung định đoạt chuyện hay, dở mà thôi.
Dung đứng dậy:
- Không, tôi không chịu. Mỗi chuyện hay một cách, biết thế nào mà định đoạt được?
- Tôi vừa nói là được hay thua có ăn giải gì đâu. Nhưng tôi đề nghị chị đứng ra cho ý kiến khi cả bọn này kể xong mỗi người một chuyện.
- Cũng vẫn không được nữa. Nói thẳng ý kiến ra, tôi sợ không đúng và mất lòng anh em.
Hảo đùa:
- Sợ mất lòng thì đừng nói. Giữ ở trong bụng mình, ai cấm!
Nhu tiếp:
- Thế nghĩa là thế này: trong tất cả bọn đây, ai cũng kể một chuyện huyền thoại, trừ chị. Chị sẽ nghe và chọn lấy câu chuyện hay nhất theo ý chị - không cần theo một tiêu chuẩn gì, không cần phải theo một lý thuyết gì.
- Để làm gì?
- Để giải buồn. Đi thi đậu bây giờ có nước mẹ gì đâu. Nhưng chị phải nhớ rằng, ngày xưa những sĩ tử giỏi văn giỏi võ thi đậu trạng nguyên thường được đối xử thế nào không?
- Đối xử thế nào? Nói nghe chơi.
- Được vua cho vào vườn thượng uyển uống rượu, được vinh quy bái tổ… Lại có ông trạng nguyên được vua ban làm phò mã, nghĩa là lấy công chúa nữa.
Tất cả anh em cùng cười.
Nhu nói:
- Ngày xưa, một nàng Mỵ Nương mà có hai ông thần cầu hôn, người ta đã cho là nhiều. Bây giờ một người đẹp có tới bảy người muốn chiếm trái tim, nhất định là lạm phát.
“Tôi không nói đùa. Chị Dung cũng nhân dịp này bói thử nhân duyên xem ra thế nào. Trong truyện “Nữ tú tài”, “Kim ngọc kỳ duyên”, người đẹp cũng bói nhân duyên như thế đấy. Ai đỗ trạng thì mặc nhiên được là chồng người đẹp. Nói một cách chậm tiến, như thế tức là Trời chọn cho mình. Chị Dung có chịu ý kiến ấy chăng?
Dung suy nghĩ một giây, đáp lại một câu, như muốn chọc tức người vừa nói:
- Ý kiến ấy xét ra cũng không dở quá. Để còn cứu xét.
Nàng cười ngặt đầu lại đằng sau. Nhiều người cho là nàng đùa cợt. Thực ra, không có một người nào biết rằng chỉ trong có một giây đồng hồ, một cơn bão đã thổi qua óc nàng.
Ờ mà tại sao lại không thể như thế được? Và nàng nhớ lại truyện “Nữ tú tài diễn ca” mà nàng vẫn thường đọc cho bà nội nghe khi còn nhỏ, nói về một cô con gái giả trai bói một quẻ: ai thi đậu và đến với cô ta trước thì cô ta lấy làm chồng.
“Trong truyện “Nữ tú tài” kể ra còn có chỗ quá ư mê tín, quá ư tin tưởng nơi thần quyền và số mệnh… Đây thì không, tự ta quyết định mà… Ai kể câu chuyện huyền thoại mà tự ta cho là hay nhất, người ấy sẽ làm chồng ta… Phải, tại sao lại không thể như thế được? Tại sao ta lại không thể bói nhân duyên như thế được?
Phần thứ nhì. TRUYỆN TRONG CĂN NHÀ QUÀN
Truyện thứ nhất
CÂY TỲ BÀ VỚI GIÓ TƯƠNG TƯ
Dung hỏi:
- Bây giờ đã thỏa thuận xong các chi tiết kể chuyện rồi, anh nào xung phong?
Bao nhiêu anh em có mặt tại đó nhìn nhau không nói.
Dung cười:
- Thế thì biết làm sao bây giờ?
Một cán bộ nói:
- Ai nói trước, tùy ý. Nhưng còn một điều này, thiết tưởng ta cũng phải giải quyết dứt khoát trước khi bắt đầu. Là hạn định thời gian kể chuyện. Anh em, chị em muốn hạn định một câu chuyện kể trong mấy tiếng đồng hồ?
Một người đưa ra ý kiến:
- Muốn nói bao nhiêu lâu cũng được.
Nhu nói:
- Không thể được. Như thế, có người cảm hứng kéo dài một câu chuyện ra cả tuần lễ thì sao?
Sau một hồi thảo luận khá dài dòng, ban tổ chức quyết định mỗi chuyện kể nhiều nhất là một đêm, người kể nếu hứng lên mà kéo dài ra đến sáng cứ được đi, nhưng không nên kéo dài quá mức vì còn phải để thời giờ cho người khác. Vì lẽ thời gian lưu lại ở vùng Voi Gầm không do mình ấn định mà số người tham gia cuộc kể chuyện tương đối lại nhiều, nên một đêm thời gian không thể vượt quá được cho mỗi người.
Anh em chấp nhận nguyên tắc đó. Không cần phải chỉ định, mà cũng chẳng cần rút thăm lôi thôi làm gì, Vinh giơ một ngón tay lên xin kể trước.
- Đồng chí có thể cho biết đầu đề câu chuyện sắp kể là gì không?
- Tôi chưa nghĩ đến điểm đó, nhưng nếu anh em muốn vậy, xin cứ đặt cho câu chuyện tôi sắp kể cái đề là “Cây tỳ bà với Gió tương tư”.
Một anh dụi cái tàn nhựa trám đỏ khè, gật gù nói nhỏ:
- Nghe cứ như là một bài thơ. Ờ, đồng chí kể đi. Đồng chí Dung! Xin lưu ý!
Đây là câu chuyện thứ nhất mở đầu cho những đêm huyền thoại của anh em chúng tôi vào mùa mưa năm đó trên con đường đi từ Hòa Bình sang Hạ Lào để điều nghiên chiến trường.
Quả là từ khi Gió ra đời, nàng chưa bao giờ lại gặp một sự kỳ lạ khiến cho nàng sửng sốt và ngạc nhiên đến thế. Là vì nương đôi cánh bay từ ngàn non Thái một màu mây bạc đến lúc ra bể Đông đùa với những lớp kình nghê, sứ song hồ ngày tháng lân la cho đến lúc về thôn ở với trăng bạc dãi trên đồng lúa xanh tơ mơn mởn, Gió chưa bao giờ gặp sự gì trái ý mình. Ở ngàn cây nào, ở nước bèo nào, ở cầu quán nào, ở hương quan nào, ở gác vàng nào, Gió lần cành chưa tới thì lau lách đã cúi đầu sợ hãi, còn lá và cành của các cây cổ thụ thì đu đưa run rẩy vừa reo như chào. Gió cười reo với nước mây, lượn lờ trong tuế nguyệt và vui với én nhạn bay qua để quên cái thân thế phù trầm bị đày ải nơi trần tục.
Là vì nàng Gió có phải là thường nhân như chúng ta đâu. Nàng là con gái của vị thần Giông Bão không đầu, nổi tiếng là hung dữ, thường hợp sức với thần Mưa, thần Sét để gieo rắc tai ương cho người đời. Hàng năm, cứ mỗi khi Trời ra lệnh thì ông thần Cụt Đầu này lại lấy một cây quạt thần ra quạt, rồi với sự giúp sức của thần Mưa, thần Sét, bão tố, lụt lội diễn ra làm cho nước ngập cả núi đồi, phá hủy cả nhà cửa, ruộng nương hư hại, người và vật chết ngập cả sông cả bể… Gặp những năm bị thiên tai như thế, người ta cho rằng: Trời biểu lộ sự tức giận vì loài người đã tạo nên tội ác cần trừng phạt.
Nhưng có một hôm có người kiện ông thần Cụt Đầu lên tới tận Thiên Đình. Người này nghèo lắm, có khi phải nhịn đói ngày này qua ngày khác nhưng không vì đói khát mà làm điều bậy bạ hòng ngửa tay xin bát cơm chén gạo của ai. Người ấy chỉ sống bằng mồ hôi của mình làm ra và ngủ giấc ngủ lương thiện của một người vô tội.
Ấy thế mà có một buổi sáng kia, vừa ra ngồi ở cầu ao sắp vo rá gạo của chính mình đổ mồ hôi, sôi máu mắt để làm ra thì gió ở đâu bỗng nổi lên bốc cát bụi mù trời, vỗ sóng sông cao ngất ngất làm cho rá gạo của anh ta đổ hết cả xuống dòng nước trôi cuồn cuộn.
Giận không để đâu cho hết, người nghèo nọ cho tội này do ông thần Cụt Đầu đồng lõa với thần Sấm, thần Sét gây nên, bèn làm một lá đơn kiện lên Thiên Đình, tường thuật các sự việc xảy ra, cực lực chống lại Đấng Thiêng Liêng đã lợi dụng thế lực của mình để tạo nên sự bất công đáng trách.
Ờ thì bảo rằng Trời ra tay vì loài người đã tạo nên tội ác, nhưng trong vụ này, thì có tội ác gì đâu? Người nghèo đó viện đủ lý để minh tỏ lòng lương thiện của mình, đòi Thiên Đình phải nghiêm minh trừng phạt kẻ đã gây ra tai nạn.
Trời bèn cho đòi ông thần Cụt Đầu đến để tra xét xem nội vụ ra sao. Thì ra câu chuyện đã xảy ra như thế này: Thần Cụt Đầu một hôm kia đi vắng, đã để quên không cất cây quạt thần đi. Con gái của ông lúc ấy đương tuổi đào tơ, thích được nuông chiều, mà lại thấy cha cứ giữ kín cây quạt không cho ai động tới, bèn thừa dịp lấy cây quạt ra quạt một hồi xem sao. Ối chao, quạt thần có khác. Cô ta chỉ quạt phe phẩy có mấy cái sơ sơ, thế mà ở dưới hạ giới, gió thổi lồng lộn lên làm đổ cả cầu cả quán, do đó cái rá gạo của người nghèo khó, bị nước sóng kia đổ cả xuống sông, xuống nước.
Giận quá, Trời bèn phát vãng ông thần Cụt Đầu, đồng thời đày nàng con gái của ông ta xuống dưới trần làm gió đi khắp đầu chợ cuối sông, suốt đời không được định cư một nơi nào. Thành ra Gió cứ lang thang ở bến nước làng mây, để tìm lại cái quá khứ vàng son và kiếm một tâm hồn tri kỷ cho những ngày phù bình đỡ được phần nào sự đơn côi tẻ lạnh.
Thế rồi một hôm kia, nương đôi cánh lượn trên một triền núi xanh thật là xanh tại miền sơn cước nọ, Gió đã gặp bạn bốn phương. Đó là một Cây tỳ bà cổ thụ.
Dân ở chung quanh miền sơn cước đó kể chuyện rằng, theo lời ông cha họ thuật cho nghe, Cây tỳ bà này sống ít nhất cũng được hai trăm năm rồi. Thân cây to lớn, ba người ôm chưa xuể. Thường thường, cây mà đã sống lâu đến thế thì ít trái, lá cũng nhỏ đi, trái lại Cây tỳ bà này càng sống lâu thì tán nó lại càng rậm rạp xanh um mà lá thì lớn như thể là những cây quạt vậy. Còn quả? Ối, quả thì sai không thể đếm cho xiết được. Một người tiều phu đánh một mái tranh ở ngay dưới gốc tỳ bà đó, vào những đêm trăng rỗi rãi, ngồi một mình rót chén rượu nhìn cây, thường nói với những người đi săn đêm vẫn rẽ vào nghỉ chân ở đó:
- Cây này là cây thần chứ không phải thường đâu, các ông chớ có động vào mà khốn. Lão năm nay thiếu hai tuổi nữa thì đầy một trăm. Tính ra từ lúc đến làm nhà ở đây cho tới bây giờ đã được sáu mươi lăm, sáu mươi sáu năm rồi. Quả tình không có một năm nào cây không lúc lỉu những quả. Lão còn nhớ lúc mới đến đây, cây không to lắm, nhưng riêng có một mùa chảy xuống thì tính ra đã có tới hơn hai trăm quả.
Các bạn đã bao giờ trông thấy quả tỳ bà chưa nhỉ? Đó là một thứ quả thuộc loại bưởi, bòng, nhưng trái nhỏ nhất cũng to bằng trái bòng hạng đại, còn trái lớn nhất thì to không kém gì trái mít. Thử tưởng tượng một cái cây mà lúc lỉu trên dưới hai trăm trái to như thế thì cái thân cây nào chịu đựng cho nổi được? Vì thế cho nên thân cây tẽ ra làm hai, y như thể là bị chém. Đằng thằng thân đã bị bể ra như thế thì cây phải chột đi và kể từ đó trái cũng kém sai, nhưng Cây tỳ bà này khác hẳn: từ lúc thân cây bị tẽ ra như thế thì cành lá lại càng sum suê hơn trước, quả đến mùa xuân bói lại càng nhiều gấp bội. Nhờ đó, người tiều phu già, ngoài cách sinh sống bằng đốn củi và đi kiếm nấm ở trong rừng đem bán ra ngoài kẻ chợ, lại còn thêm được một mối lợi bán trái tỳ bà, kiếm được vô số tiền, đủ sống một cuộc đời nhàn nhã.
Thấy Cây tỳ bà đem lại cho mình một đời sống phong lưu tương đối, người tiều phu gia công bón tưới cho cây và chiều chiều lại thắp ba cây nhang cắm ở cái bình hương đặt ở dưới gốc cây khấn lạy như khấn lạy một người bạn thật.
Rồi vào những đêm không ngủ được, ông ra ngồi ở dưới gốc cây rót rượu uống một mình để đến lúc ngà ngà say thì đứng dậy vỗ vào thân cây mà nói như thể nói với một người bạn tâm giao:
- Tỳ bà, tỳ bà, mi và lão phu đây ắt hẳn có duyên nợ gì từ kiếp trước cho nên kiếp này mới được sống êm đẹp với nhau thế này. Lão phu thề với thiên địa quỷ thần, không bao giờ bỏ mi và nguyện một câu này nữa: Đến khi vận hết số cùng, lão phu cũng phải lê thân xác đến ở dưới chân mi để chết. Có như thế thì mới đền đáp được tấm lòng tri kỷ của nhau.
Ông lão vừa nói xong thì bao nhiêu lá tỳ bà cuốn cả lại một giây rồi duỗi dần dần ra, rung động như những bàn tay bé nhỏ múa vũ ở giữa trời.
Cùng lúc đó, Gió từ đàng xa lướt tới lượn như những con sóng ở quanh cây lúc khoan thai, khi dồn dập, như thì thầm, như tâm sự với tàn lá tỳ bà lúc đó reo lên như thể hát một bản tình ca thần thoại.
Lão tiều phu gật đầu cười một mình. Lòng ông lão căng lên một niềm vui sướng nhẹ nhàng vì ông lão tin rằng Cây tỳ bà hiểu những lời ông nói và cây reo lên như thế là để đáp lại tấm tình thành thật của ông.
Cây tỳ bà đáp lại tấm tình thành thật của ông?
Không, ông lầm. Cây tỳ bà reo mừng như vậy là vì vừa mới gặp nàng Gió từ viễn phương bay lại. Đây không phải là cuộc gặp gỡ đầu tiên. Gió và tỳ bà đã biết nhau từ lâu lắm rồi - quen biết nhau từ bao giờ, nào có ai biết chắc? - Cho nên lá tỳ bà nhiễm một thói quen mà bao nhiêu cây ở trong rừng đều biết. Cứ mỗi khi bao nhiêu lá cây tỳ bà cổ thụ tự dưng cuốn lại thì cây cối thì thầm với núi, núi lại khẽ bảo với mây, rồi mây lại rỉ tai với nước: “Gió sắp tới rồi!”. Quả đúng như thế thật!
Cây tỳ bà dường như linh cảm được sự hiện diện của Gió cho nên Gió còn ở cách xa bao nhiêu dặm cát đồi cây, bóng sim chân núi, mà tự ở triền núi này, tỳ bà đã biết rồi. Rồi Gió nhè nhẹ bước chân đi tới, bao nhiêu lá tỳ bà mở cả ra, run rẩy, múa may, nghiêng ngả y như say một thứ men gì kỳ lạ, y như ca lên một bản nhạc gì kỳ lạ. Thường nhân nghe như thế không thấy nói lên được một sự việc gì đặc biệt, nhưng cỏ cây mây nước ở chung quanh đấy đều thấy rừng núi bấy giờ tưng bừng như mở hội liên hoan mà không phải chỉ có tiếng ca tiếng hát mà thôi, nhưng ở lưng trời, ở gốc tỳ bà, ở cả một vùng rộng chung quanh đấy có tiếng tơ đồng réo rắt, u huyền, tiếng tơ đồng lánh lót như tiếng hạt châu đổ xuống mâm đồng, như tiếng oanh tiếng yến ríu rít lá, cành.  
Mối tình của Gió với Cây tỳ bà chẳng mấy lúc đã thành ra một thứ trường ca thuộc loại khan để cho người và vật kể cho nhau nghe những khi rảnh rỗi. Mỗi khi bắt đầu kể khan như thế thì “đàn bà con gái thôi lớn tiếng, trẻ con ngừng khóc, không một ai ngủ, không một ai nói cười, tất cả đều lắng tai nghe”. Và ai cũng cho rằng mối tình bất diệt ấy cũng như Gió và Cây tỳ bà bất tử.
Vậy mà không ngờ đâu hôm nay Gió đến với tỳ bà thì lại gặp một sự ngạc nhiên chưng hửng nhất trên đời. Ấy là vì từ lúc còn ở Thiên Đình, sống bên gối thần Cụt Đầu cho đến lúc bị biếm trích xuống trần bay bổng lang thang khắp đó thì đây, Gió chưa hề gặp một đột biến nào có thể làm cho nàng xúc cảm. Từ ngọn cỏ đến lá cây, từ con người đến nước bèo, tất cả đều phải cúi đầu theo lệnh của nàng, không có ai dám làm nàng phật ý buồn rầu, ấy thế mà hôm nay đến ở triền đồi tìm bạn tỳ bà để múa hát với nhau, nói dăm ba câu thương nhớ thì Cây tỳ bà lại biến mất, tìm cách mấy cũng không thấy bóng dáng ở đâu.
Tỳ bà, tỳ bà, sông nước đầy tràn buổi sáng, mây trời xanh vẫn bảng lảng ban chiều, vậy mà người thương giờ này đi đâu, ở đâu để cho người bạn chếch mác, đau quặn ruột gan vì trong một lúc mà phải nhận trăm sầu ngàn thảm.
Gió cuồng lên kêu “tỳ bà, tỳ bà” khắp cả bốn phương trời; Gió lồng lộn kêu cả núi cao sông sâu, cả đồi cây bến cát, rồi kêu luôn cả chim, cả cá, kêu cả bướm, cả hoa để hỏi xem có thấy tỳ bà đâu không, tất cả đều sợ sệt, lặng im chẳng nói.
Thế là tại làm sao? Mà tại làm sao lại thế?
Ấy là tại vì tất cả đều sợ rằng nói ra thì sự không may có thể xảy đến với mình: tỳ bà đã chết vì một bàn tay đẫm máu của một kẻ ngoại nhân tàn ác. Nếu nói thật ra cho Gió biết, rất có thể ngoại nhân đó sẽ giết chết mình luôn, mà nếu không thế chăng nữa thì tay sai của nó như dòi cũng rất có thể theo chỉ thị của chủ mà hại đời mình như bỡn.
Ngoại nhân ấy không ai rõ gốc ở đâu, chỉ biết đại khái rằng y từ phía Tây tới với một đoàn bộ hạ gồm những phần tử giang hồ tứ chiếng. Đến làm gì? Cũng không ai biết nữa. Chỉ biết rằng từ khi chúng đến thì dựng ngay một căn nhà ở ven rừng, rồi chia nhau từng bọn nhỏ đi khắp cả mọi nơi, tung tiền ra chiêu mộ những người bản thổ để tìm vàng của bọn tướng Bắc phương chôn giấu trước khi bị đánh bật ra khỏi khu rừng núi hiểm trở này.
Một hôm, một tên trong bọn đến tìm ông lão tiều phu bạn của Cây tỳ bà, trò chuyện lăng nhăng để đi đến cái kết luận rùng rợn sau đây:
- Thưa lão trượng, ba tháng trời thám sát ở đây đã đem lại cho chúng tôi một kết quả mà chúng tôi đã phối kiểm chắc chắn, không thể nào sai được: ở dưới gốc cây cổ thụ này có một kho vàng. Mà cây này lại nằm trong phạm vi nhà cụ nên chúng tôi đến đây để điều đình với cụ một công việc hưởng lợi, có thể làm cho cả cụ lẫn chúng tôi giàu thiên tứ đỉnh chung.
Ông lão tiều phu chột dạ, nhưng cố giữ bình tĩnh, hỏi:
- Các ông định làm gì? Xin nói rõ, lão quê mùa không hiểu.
- Chúng tôi tính bàn với cụ thế này: cụ để cho chúng tôi khai thác kho vàng, tính gồm cả lại được bao nhiêu thì chia ra làm ba phần: hai phần về chúng tôi có công có của, còn một phần về cụ.
- Nhưng muốn khai thác phải làm ra thế nào?
- Kể ra thì cũng hết sức khó khăn, nhưng bởi vì chúng tôi đã có sẵn những chuyên viên mộ từ ở ngoại quốc tới nên nhiều phần chắc chắn là phải thành công mỹ mãn.
- Phần tôi giúp được cho các ông việc gì?
- Chẳng phải làm gì cả. Cụ chỉ để cho chúng tôi đẵn cây cổ thụ này đi vì chúng tôi biết chắc vàng ở dưới gốc.
- Nếu không chặt cây đi thì có được không?
- Bẩm, không được ạ.
Nghe thấy nói thế, ông lão cảm thấy óc trí tự nhiên nhức nhối như có người lấy búa bổ vào đầu. Không bao giờ, không bao giờ lại có thể có chuyện như thế được. Đẵn Cây tỳ bà đi để lấy tiền chôn ở dưới gốc cây? Ông lão cười lên ba tiếng rồi bưng mặt khóc nức nở như chưa có ai từng khóc như thế bao giờ. Đồng thời bao nhiêu lời tâm sự của ông nói với Cây tỳ bà vào những đêm khuya thanh vắng trở lại với ông và nhỏ từng giọt, từng giọt vào tâm hồn.
- Không, thưa các ngài, bất cứ điều gì các ngài bảo tôi cũng xin theo, duy có cái việc chặt Cây tỳ bà đi, tôi nhất định không thể nào chấp nhận. Các ông không biết ư? Chặt Cây tỳ bà này tức là chặt đầu vợ con tôi. Hơn thế nữa, đối với tôi, Cây tỳ bà này còn hơn cả những người thân thích nữa. Cây tỳ bà này tức là tôi. Nếu các ngài muốn chặt Cây tỳ bà, xin hãy chặt đầu tôi trước đã.
Thấy giọng ông lão tiều phu cương quyết thế, người khách lạ không biết làm sao, đành phải bỏ về. Nhưng y không nản chí. Ngày nào y cũng trở lại ve vãn ông già:
- Cứ xem cách ăn ở của cụ đối với Cây tỳ bà này, chúng tôi thấy bái phục cụ là người chung thủy. Nhưng dù sao, cụ cho phép chúng tôi được nói - lòng chung thủy ấy cũng chỉ có tính cách một chiều. Chặt cây đi, cụ sẽ được nhiều cái lợi hơn - mà lòng chung thủy vẫn giữ được nguyên lành vì đó là một vấn đề duy tâm, người ta thương cây, yêu cây là ở trong óc, chứ có phải chỉ bằng vào những cái bề ngoài phù phiếm đâu.
Người khách lạ đưa ra một đề nghị mới: được kho vàng, không chia ba nữa, nhưng chia hai, một nửa cho ông lão, còn một nửa dành cho bọn người khai thác.
Ngày nọ tiếp ngày kia, bọn khách lạ không ngớt cám dỗ ông già, đôi khi lại đưa ra một vài luận điệu có ý đe dọa nữa:
- Chịu đi cụ ạ. Người cầm đầu chúng tôi có thừa thế lực, tiền tài, nếu cụ không chấp nhận, chúng tôi e cụ sẽ bị thiệt thòi nhiều lắm. Một nửa kho vàng có phải là chuyện thường đâu! Mấy đời ăn không hết của.
Ông cụ già không sợ chết. Ông không sợ bất cứ uy vũ nào, nhưng vàng! Vàng! Một nửa kho vàng! Thoạt nghe, ông không lưu ý, nhưng nhật nhâm nguyệt tí, nói mãi ông cũng thấy hay hay. Bây giờ ông không nghĩ đến những lời tâm sự nói trong khi vỗ vào thân Cây tỳ bà nữa, nhưng uống rượu ngà ngà rồi, ông tưởng tượng thấy bày ra trước mặt không biết bao nhiêu của cải… Lúc ấy, ông sẽ phạt hết cả khu rừng này, đi mua thật nhiều cây sồi về làm một cung điện nguy nga, sống y như vua chúa… và rất nhiều gái đẹp… Cả một cuộc đời vất vả lao đao, đến khi tuổi già bóng xế mà được yên ổn tấm thân, sống một cuộc đời no đủ phè phỡn, thì cũng chẳng phải là một cái tội.
Thế là Cây tỳ bà, một buổi sớm thu rất đẹp trời, bị một bọn người mọc lông ở bụng, đem gậy tầy, dao búa, cùng giáo mác đến đẵn rất ư tàn nhẫn. Sau này, có người kể lại rằng thoạt kỳ thủy dao búa chém vào cây chẳng ăn thua gì hết, chém đến đâu thì thân cây tiết ra một thứ nước đỏ như vang hàn lại vết thương lại liền ngay khi đó. Thấy thế, một người ở trong bọn khách viễn phương bèn lập một cái đàn ở gốc cây, kiều cúng ba đêm ba ngày, rồi xõa tóc hô tên hàng mười mấy vị thần của núi rừng ra xin giúp sức và hứa sẽ làm thịt rất nhiều trâu bò hậu tạ. Ngửi thấy mùi lợi, các vị thần không kể gì đến tình nghĩa trước sau, mà cũng chẳng thèm đếm xỉa đến luân thường đạo lý, toa rập lại để giúp sức cho bọn người mọc lông ở bụng hạ cho được Cây tỳ bà.
Hôm sau, Cây tỳ bà bật gốc. Năm chục người lực lưỡng kéo cái thân cây bị hạ đó đẩy xuống một con sông gần đó. Chính giữa lúc ấy, trời đất tối sầm hẳn lại, mây màu tang bay vần vụ trên trời, rồi sóng bạc đầu không biết từ đâu đến cuồn cuộn dâng cao và gầm thét suốt ngày đêm như một bọn thiên thần giận dữ.
Trong khi ấy, bọn khách lạ hì hục đào ở dưới gốc Cây tỳ bà. Đào chừng được ba bốn sải tay, quả nhiên họ thấy rất nhiều rương chứa không biết bao nhiêu là ngọc ngà vàng bạc. Giữ đúng lời đã hứa, kho tàng này chia đôi, một nửa về phần lão tiều phu bạn của Cây tỳ bà.
Ông lão, thực hành đúng như ước định, đi mua rất nhiều cây sồi về làm cung điện để an hưởng tuổi già, nhưng chính vào ngày các bạn thợ khởi công thì ông nằm mê thấy một thanh niên vận đồ săn, đến nhà ông, đứng ngay chỗ Cây tỳ bà ngày trước, buộc con ngựa bạch vào bờ giậu, tiến đến trước mặt ông vòng tay thi lễ mà rằng:
- Thưa lão hữu, vãn sinh đây là thần Cây tỳ bà. Cảm cái tình của lão hữu, tôi đến đây thăm lão hữu lần chót để nay mai đi một chuyến thật xa xôi, không biết bao giờ mới trở về.
Ở trong mơ, người tiều phu sực nhớ đến mối tình xưa của mình đối với Cây tỳ bà, mà chỉ vì một giây phút yếu đuối tinh thần, quá tham vàng bạc, mà không đếm xỉa đến cái nghĩa ở với nhau, bưng mặt khóc. Thì ra chưa có vàng thì thèm khát, đến lúc có vàng thì lại dửng dưng, lão tiều phu lúc ấy mới biết rằng vàng không đem chân hạnh phúc đến cho con người. Lúc ấy, ông ta mới thương đến Cây tỳ bà thì đã muộn. Mấy phen lão định nói câu gì, nhưng vị thần trẻ tuổi mặc quần áo đi săn gạt đi mà bảo:
- Lão hữu không cần nói, tôi biết lòng của lão hữu thương yêu tôi đến chừng nào. Vì thế, mặc dầu là công việc bộn bề hết sức, tôi cũng có bổn phận đến đây để báo cho lão hữu biết một tin quan trọng: có kẻ đang âm mưu sát hại lão hữu. Nội đêm nay hay ngày mai là cùng, lão hữu nên lánh đi một nơi khác cho qua vận hạn.
Thức giấc nửa đêm, ông lão ngồi rót rượu uống một mình. Ở ngoài kia, núi rừng tối mịt mùng, những con chim đêm thỉnh thoảng lại cất lên một tiếng kêu rùng rợn như tiếng thú vật bị người ta chọc tiết. Rồi thì ở đàng xa chớp bể nổi lên xanh lè, tứ bề có tiếng ào ào bất tuyệt như thể tiếng mưa nguồn vậy.
Đó là tiếng mưa nguồn thực hay là tiếng gì mà sầm sập, mà dạt dào, mà gào thét dữ dằn đến thế? Không, đó chỉ là tiếng Gió. Thì ra Gió, không thể ở yên một phút từ khi không thấy bóng tỳ bà, đã phát điên phát cuồng bay chạy khắp từ đỉnh núi xuống dưới lòng khe, từ ngọn sóng bạc đầu cho đến áng mây trôi lờ lững, để hỏi người, hỏi vật, hỏi đá, hỏi hoa, hỏi chim, hỏi thỏ xem tại sao lại có sự biệt ly đột ngột và não nùng như thế!
Rừng núi im lìm. Không có một tiếng gì đáp lại. Ở trong căn nhà cỏ, ông lão tiều phu nhớ lại giấc mộng vừa qua mà lại nghe tiếng Gió gầm thét ở chung quanh vang dội, đưa hai tay ôm lấy mặt. Nhưng dù thần Cây tỳ bà có thương mến bạn cũ đến báo trước tai nạn sắp tới cách nào đi nữa thì cũng đã muộn mất rồi.
Bọn viễn khách đến đây để đẵn Cây tỳ bà lấy vàng đêm ấy về chia vàng với nhau, quyết định không để cho lão tiều phu kia được sống.
Thì những kẻ sống ở đời mà chỉ biết có tiền bao giờ lại chẳng đi đến cái kết cục tất nhiên như thế?
Được vàng rồi, bọn viễn khách đem về chia nhau, nhưng chúng không thoát khỏi cái công lệ vừa nói ở trên kia. Chúng chia thành hai phe chống lại nhau kịch liệt, xâu xé nhau, chửi rủa nhau và toan giết lẫn nhau.
Một tên đứng ra điều giải:
- Sự chia rẽ nội bộ này tựu trung chỉ là tại chúng ta nhân ái quá. Thực ra, chúng ta có quyền hưởng tất cả số vàng đào được; vậy mà chỉ vì danh từ “cao nghĩa” trừu tượng, chúng ta lại đem chia một nửa cho lão tiều phu nọ, để đến nỗi chính chúng ta là những người từ phương xa đến đây, đổ mồ hôi ra làm việc lại gần như không được gì, mà hơn thế, nội bộ của chúng ta lại chia rẽ, bọn chúng ta rất có thể vì việc này mà mất uy tín đối với doanh hoàn!
Nghe nói như thế, mọi người dự họp cảnh giác liền, quyết định phải thanh toán lão tiều phu để lấy lại chỗ vàng bạc châu báu đã bị y “cướp mất”.
Thế là người tiều phu sống cái kiếp của hầu hết những tên nô lệ trên đời này: bẻ ná khi được chim, quăng nơm khi được cá. Chúng giết ông lão không thương tiếc, giết như một con chó dại, giết rồi quăng xác xuống một lòng khe sâu thẳm có thú rừng hàng đêm dừng chân lại đó để rình mồi, uống nước.
Không ai biết rõ xác ông lão bị ác thú ăn mất hay là sình lên rồi tan rã ra với rễ cây, lá mục ở trong khe, duy những người bản thổ đi bắt đông trùng hạ thảo, hái lá kim giao qua đó kể lại rằng, thường khi họ vẫn gặp ông lão ấy hiện lên ở khe suối ven rừng ngồi vắt vẻo ở trên cây, khi cười lúc khóc, và hỏi mọi người “Vàng của tôi đâu? Vàng của tôi đâu?”. Thoạt kỳ thủy bọn người đi rừng tưởng là người thật. Đến gần, ông lão biến mất; bấy giờ người ta mới biết là con tinh.
Đồn rằng con tinh ấy, tuy vậy mà lộng lắm, thường đêm vẫn đi vào các bản có người ở, thè lưỡi dài hơn một thước, cười rú lên rồi khóc the thé, đoạn co lưỡi xõa tóc ra như một con thú thời tiền cổ, không ai biết là nó muốn gì nhưng một thời gian sau đó thì ý đồ của nó được phơi ra ánh sáng: bọn viễn khách đào vàng lần lượt nối gót nhau mà chết vì bệnh cổ trướng ở trong rừng. Còn lại ba tên trốn tránh sang một vùng khác, thì một hôm có người trông thấy con tinh đó đương đêm đi xuyên qua cửa cái mà vào, giơ một sợi dây lên trời và cả ba tên còn sót lại trong bọn tự động chui vào trong thòng lọng…
Cũng kể từ khi đó người ta không thấy con tinh già phá phách trong khu rừng già huyền bí. Thỉnh thoảng, vào những đêm mưa gào gió thét, nó cũng hiện lên nhưng chỉ ngồi một chỗ xõa tóc ra mà khóc.
Sau này, những người biết chuyện nói lại với nhau rằng con tinh trả xong được mối thù bọn viễn khách rồi, hàng đêm thường lẩn về ngôi nhà cỏ, ngồi đúng ở dưới gốc Cây tỳ bà ngày trước khóc não nùng, khóc thê thảm người bạn thủy chung mà chính mình đã giết đi vì bị ngoại nhân mê hoặc, vì tham vàng bỏ nghĩa, vì sợ gian khổ mà đành “đi vào cửa lớn” để cầu lấy sống và sống cho dễ dàng.
Tiếng khóc than ấy động đến tai nàng Gió hàng đêm cũng trở về để nhớ lại những giây phút thiên thần cùng sống với hoa lá Cây tỳ bà. Nhớ lại những khi còn ở từ đàng xa chưa tới gần cây, bao nhiêu hoa lá Cây tỳ bà cuộn lại rồi đến khi thấy bóng hình mình hiện ra, bao nhiêu hoa lá lại duỗi ra như thể những bàn tay nhỏ bé múa những vũ khúc thần tiên theo với tiếng gió reo, nhớ lại như thế, Gió buồn bã rã rời, không còn thiết sống làm gì nữa. Ấy là Gió nhớ. Về sau này, những chàng trai và những cô gái yêu nhau mà vì cơn cớ gì đó không lấy được nhau, phải xa nhau, thấy gió ấy đẩy cánh màn hay chạy trên dãy lau lách đìu hiu, lấy bút đề thơ, gọi gió ấy là Gió tương tư.
Càng buồn, càng nhớ, càng tương tư, Gió lại càng tiếc tỳ bà biệt tích. Là thần có khác, lòng tiếc nuối người bạn thủy chung cũng như sự nhất tâm và ý chí kiên cường của Gió cũng có lâu dài và trường cửu hơn là thường nhân chúng ta nhiều. Chẳng thế, bao nhiêu năm tháng đã qua đi, bao nhiêu cuộc phế hưng, bao nhiêu trò dâu bể diễn ra, liên tiếp mà cho tới tận bây giờ, Gió vẫn cứ đi thiên sơn vạn thủy kiếm tìm Cây tỳ bà tâm giao.
Vào những đêm dông bão, ta thấy gió giật từng cơn, vật ngã cây cối, lật đổ thuyền bè và dâng nước lên phá hủy mùa màng, nhà cửa, đôi khi lại cuốn cả người và vật đi theo, ấy là gió cuồng gió táp. Những lúc nổi gió như thế chính là những lúc Gió nhớ Cây tỳ bà đến phát điên phát cuồng lên, gặp bất cứ cái gì cũng phá hết để cho nư nỗi giận hờn muôn kiếp ngàn đời không có cách gì làm tiêu tan cho được.
Nhưng mà giận cách mấy thì cũng vẫn chẳng thấy Cây tỳ bà tri kỷ. Biết làm sao bây giờ?
Nàng Gió, suốt cả một cuộc đời đi tìm kiếm người thương không thấy, chỉ còn biết bâng khuâng sầu sau khi đã nổi cơn thịnh nộ. Ấy là Gió buồn, Gió thở dài – cái gió làm cho người ta thương nhớ vẩn vơ, buồn không căn cớ, người ở phương trời thấy gió mà nhớ đến nơi phần tử, kẻ lỡ hội chồng con nghe tiếng gió về mà tự nhiên thấy bao nhiêu kỷ niệm đã khâm liệm tự nhiên sống lại, day dứt con tim mệt mỏi.
Người đa cảm khóc cho thân mình, cảm thấy gió cũng khóc than thê thiết. Người ta bảo rằng tiếng khóc của gió heo may thê thiết như vậy không phải chỉ vì Gió không được gặp bạn tỳ bà, nhưng còn vì, lẫn với tiếng khóc của Gió, lại còn tiếng khóc não nề của lão tiều phu hối hận vì đã nghe lời ngoại nhân dụ hoặc, gây ra sự rụng lá chia cây, để cho ai đó giạt bèo, chìm cá ([1]).
Chú thích:
(1) Theo câu thơ của Cao Bá Nhạ:
Ngựa hươu, thay đổi như chơi,
Giấu gươm đầu lưỡi, thọc dùi trong tay.
Gây ra sự chia cây rụng lá,
Để cho ai chìm cá, giạt bèo…
Truyện thứ nhì
ĐÓA BẰNG LĂNG TRÊN SUỐI BẠC
Người kể câu chuyện huyền thoại thứ nhì là một người bạn trẻ bí danh Hoa Vàng. Lúc Nhật hàng, Việt minh lên cầm quyền, anh làm Văn hóa cứu quốc. Lúc diễn ra câu chuyện này, anh là một cán bộ có chất lượng ở trong ngành giáo dục, nhận công tác tìm tòi tài liệu hầu cung cấp cho một hệ thông giáo tài, nhằm nâng cao trình độ văn hóa của tất cả những người ham học.
Hoa Vàng bắt đầu:
- Câu chuyện tôi sắp kể đây do một ông cụ già bảy mươi hai tuổi kể cho tôi nghe khi tôi nhận công tác ở trong Nam vào lúc Nhật còn làm mưa làm gió. Tôi đã tới vùng xảy ra câu chuyện để xem lại các di tích còn sót lại thì thấy ở trên núi Heo còn dấu một bàn chân trái và ở trên một núi khác gần đó, dấu của bàn chân phải của vị thần mà cụ già kể chuyện cho biết là đã ném viên đá khổng lồ lên cây bằng lăng đôi.
- Sao anh không nói rõ câu chuyện anh kể xảy ra ở vùng nào? Mà tại sao lại có chuyện dấu tích hai bàn chân đó?
- Đâu cũng là đất nước mình, không cần phải nói rõ địa danh làm gì. Truyện xảy ra đích ở vùng nào thì vẫn chỉ là thế, chớ cũng không hơn hay không kém hơn chút nào, phải không các anh các chị? Tôi chỉ nói tại sao lại có dấu tích hai bàn chân ở trên hai trái núi. Mà tại sao lại có người liệng viên đá tảng lên cây bằng lăng đôi để cho tảng đá kẹp vào chỗ tẽ ra của thân cây đến bây giờ? Xin chớ nôn nóng, tôi phải kể chuyện từ đầu mới được.
Cách đây lâu lắm rồi, ở một vùng cao nguyên nọ, có một cặp vợ chồng đã già rồi mà không có con trai. Hai ông bà đêm ngày cầu nguyện có một người con trai nối dõi, mà không phải chỉ cầu nguyện Trời mà thôi. Đối với con người lúc bấy giờ, tư tưởng trừu tượng được coi là thực thể cho nên trái núi, ngọn cây, dòng suối, bông hoa, con cầy, con sấu cũng thành ra những vật thiêng liêng có một quyền năng ghê gớm do loài người gán cho.
Hai ông bà cầu xin cả núi, cả mây, cả sông, cả biển, cầu xin luôn cả cây cỏ, cả hoa lá, cả hùm beo cho họ một đứa con trai, nhưng vô ích: vẫn chỉ có một người con gái. Cô gái này đẹp như mặt trăng, tóc xõa ra đen như đêm, đôi môi đỏ chót như lòng dưa hấu. Có người nói rằng mỗi khi cô cuộn bức rèm lên đứng ngó ra ngoài rẫy thì con sóc không bám chặt được vào cành cây nữa, con chuột quên cào đất, con rắn hổ mang chui ra khỏi lỗ để nằm giương mắt ra nhìn. Còn nếu nàng lại cất tiếng hát rù rì một mình! Người ta quả quyết rằng hươu nai nhút nhát nhất cũng phải dừng bước lại để nghe, con hoẵng quên gặm chồi non của cây cối, bao nhiêu chim chóc đều say sưa mê mệt những âm thanh huyền diệu.
Một người đẹp đến như thế làm thế nào để cho có một người chồng tương xứng bây giờ? Không biết bao nhiêu chàng trai, không biết bao nhiêu người lớn tuổi có địa vị, không biết bao nhiêu bậc quan quyền tiền bạc từ xa đến hỏi xin nàng về làm vợ nhưng nàng đều từ khước, viện cớ không có anh trên em dưới, phải ở nhà để phụng dưỡng cha mẹ già yếu. Tất cả những ai thương tưởng đến nàng, nàng đều cảm tạ, nhưng nàng chỉ có thể nghĩ đến vấn đề gia thất khi nào cha mẹ nàng cưỡi hạc quy tiên.
Nói đến như thế thì có thương yêu cách mấy cũng đành phải chịu, chớ còn biết nói năng làm sao bây giờ. Ai cũng đợi chờ, ai cũng xây mộng ước mơ, ai cũng mong rằng mình sẽ là người được nàng đoái hoài tới. Nhưng tất cả đều chưng hửng vì một buổi sáng nọ có tin nàng đã nhận lấy một người khác xứ, không ai nghe thấy nói đến bao giờ.
Ai cũng hỏi:
- Người có diễm phúc ấy là ai vậy?
Ai cũng hỏi nhưng không ai biết hết. Mà biết làm sao được bởi vì trong cuộc hôn nhân bất ngờ này chỉ có nàng và vị hôn phu ấy biết mà thôi!
Câu chuyện bắt đầu một cách rất tầm thường, không có gì đặc biệt. Là vì thế này: ở đằng sau nhà nàng có một cái suối nước trong văn vắt, hoa lá um tùm kết lại thành một cái bồn cây kín đáo, quanh năm suốt tháng có cỏ thơm và hoa tiết ra một mùi hương ngạt ngào. Bao nhiêu chim trong rừng, vào buổi bình minh đều bay cả lại đấy ca hát ríu ran để mừng ông mặt trời mới mọc.
Ngày nào cũng vậy, cứ đúng vào lúc ấy thì nàng đi ra tắm ở khúc suối thơm ngát hoa hương. Tắm như thế đã bao nhiêu lâu rồi nào có chuyện gì lạ xảy ra đâu, ấy thế mà không hiểu tại sao hôm đó, thần Cây, thần Núi, thần Suối, thần Chim lại khiến có một chàng trai không biết từ đâu đến trông thấy từ lúc nàng thoát xiêm y cho đến lúc nàng đùa giỡn với làn nước xanh ngăn ngắt…
Người con gái vốc nước vào lòng bàn tay vừa đưa lên cho nước hôn hai trái đào tơ thì không hiểu vì sao lại ngẩng đầu lên nhìn một ngọn cây cổ thụ đứng ở trên bờ cỏ soi bóng lá xanh xuống nước gương. Thoạt đầu, nàng tưởng mình được sống một chuyện thần thoại mà mẹ nàng vẫn kể cho nàng nghe lúc nhỏ. Nhưng không. Chàng trai ngồi ở trên cây không phải là một vị thần đeo cái khố mười màu có thêu bông hoa Ka u, đầu chít khăn vàng đen có hoa ê mê, mà chỉ là một chàng trai bình thường, vẻ mặt buồn hiu, ra cái dáng một người nghèo khó sợ sệt trước sắc đẹp não nùng và sự giàu sang kiểu cách của người con gái.
Vội vàng lấy cái váy áo ra quàng lấy thân ngà, nàng ra hiệu cho chàng nọ trèo ở trên cây xuống:
- Sao anh lại ở đây? Là con trai mà lại trèo lên cao để nhìn trộm con gái đàn bà tắm rửa, anh có nghĩ rằng như thế xấu lắm không?
Chàng trai trẻ tuổi đỏ mặt, chắp tay lại nói:
- Cô nói như vậy, quả thực oan cho tôi quá. Dù là một kẻ nghèo hèn dốt nát, tôi cũng vẫn nhớ rằng ông nội tôi, lúc tôi còn nhỏ, vẫn ẵm tôi đặt lên đầu gối mà rằng: “Cháu ơi, mình nghèo khó thực nhưng bao giờ cũng phải giữ lòng trong sạch để cho xứng đáng là con cháu của Mặt Trời, Mặt Trăng. Điều hèn đốn không bao giờ làm; điều tốt đẹp hiên ngang thì chẳng đợi ai mời, mình cũng phải tự động xin làm cho kỳ được, cho thật nhiều. Có như thế thì Trời mới cho lên đi “Con đường đi của linh hồn” ([1]) sống an vui ở thiên đình, khỏi phải hóa thành ra ma quỷ xanh lè có những răng nanh vừa dài vừa nhọn.
- Anh nói nghe hay lắm, thế thì tự nhiên ở đâu lại trèo lên cây này nhìn tôi tắm rửa?
- Thực tình tôi không nhìn. Mà lúc trèo lên cây này, tôi không hề được biết rằng cô tắm ở đây. Đây là lúc phải nói thực để tỏ nỗi lòng chân thật, vậy tôi không sợ chê cười, mà cũng chẳng sợ cô khinh rẻ, tôi nói tất cả sự thật để cô nghe. Thưa cô, tôi là một người con trai nghèo khó, đi tìm sự nghiệp bỏ nhà đã lâu ngày. Tôi vào rừng học phép trường sinh bất tử. Nhưng đi mãi chẳng tìm thấy tiên thánh ở đâu; tôi quay về để tạ lỗi với cha mẹ. Không may lúc đi qua đây thì trời tối. Rất có thể tôi đến xin một nhà giàu có nào đấy cho tôi một chén cơm và tá túc một đêm để mai sớm lại lên đường, nhưng trông thấy quần áo mình rách rưới, soi bóng xuống nước thì mặt mũi mình tiều tụy, tôi không dám. Chợt thấy gốc cây này to lớn mà ở chỗ tẽ ra lại rộng rãi đủ một người nằm, tôi bèn trèo lên để nghỉ chân, đợi qua đêm đến sáng thì xuống để lại tiếp tục đi. Chẳng may, cô lại ra đây tắm sớm. Tôi không biết làm thế nào khác hơn là ngồi im để đợi…
Nghe câu chuyện, cô gái bỗng cảm thấy buồn tê ở trong lòng. Nàng vận quần áo, chải đầu rồi cũng kể cho người con trai nghe câu chuyện đời mình:
- Tôi là con gái, từ nhỏ đến giờ chưa hề nói chuyện với một người đàn ông nào lạ mặt. Có những người có nương rẫy đầy cả sườn núi, có trâu bò đông như kiến đen, có đầy tớ nhiều như ốc sên trong rừng; có những người có địa vị đi đâu thì có một trăm người đi trước, một ngàn người theo sau, trong nhà đầy những cồng những chiêng; có những người có thế lực đầu chít khăn vành, gáy đẹp như quả cà tím đã chín, đánh lên một tiếng cồng thì cả ngàn người cúi đầu dạ ran… Anh à, tất cả những người ấy đều muốn cưới tôi về làm vợ nhưng đối với hết thảy, tôi đều từ khước. Tại sao thế? Chính tôi cũng không hiểu. Để đến ngày hôm nay, tôi gặp anh trong một trường hợp hết sức là kỳ lạ. Khiến cho anh thấy tận mắt xác thịt tôi, những chỗ kín đáo của tôi, khiến cho tôi tự nhiên phải mời anh từ trên cây trèo xuống với tôi và tôi nói chuyện với anh.
“Con gái mà nói chuyện với con trai ở một nơi kín đáo, có lẽ là điều không tốt. Phải không anh? Do đó, tôi nghĩ rằng tôi ít nhiều gì cũng bị thất tiết với anh rồi, tôi không thể làm điều gì khác hơn là lấy anh vì tôi không thể lấy một người nào khác ngoài anh ra.
Nghe thấy người con gái nói như thế, chàng trẻ tuổi run rẩy, thưa lên:
- Cô có lòng thương, chỉ bảo cho như thế, tôi chân thành cảm tạ. Nhưng tôi xin cô nghĩ lại, quả là tôi không dám, vì tôi nghèo khó, lại không có sự nghiệp gì mà cô thì sinh trong một gia đình giàu có, lại có nhan sắc làm cho cây thùy liễu phải hờn giận vì không xanh tốt bằng, hoa hướng dương phải ghen vì không rực rỡ bằng… So hai cảnh ngộ rồi lại so hai con người với nhau, tự hỏi đã thấy chênh lệch quá lắm rồi, tôi xin nói là tôi không có dám chấp nhận lòng ưu ái của cô. Tôi có thể làm một gia nhân dắt ngựa, chăn voi chứ không bao giờ dám làm một người bạn gối chăn của một nàng tiên giáng thế.
Bao nhiêu luận cứ của chàng trai trình bày ở bên tai người con gái đều vô ích. Ý nàng đã quyết rồi: nếu cuộc hôn phối không thành, nàng chỉ còn có cách chết để giữ cho toàn tiết trong, giá sạch.
Thế rồi, ngay khi đó, nàng về đem hết câu chuyện xảy ra kể lại cho bố mẹ nghe. Cả hai ông bà đều chẳng sửng sốt ngạc nhiên gì hết, vì họ cho rằng cuộc tình duyên diễn ra đột ngột như thế không phải sự tình cờ, nhưng chính là do các vị thần linh ở trên trời xếp đặt, mà trái ý các vị thần linh tức là mang họa vào mình, con cháu rồi ra chỉ quét cứt ngựa, cứt voi cho nhà giàu. Hai ông bà liền cho gọi chàng trai kia lại. Hỏi thăm gia thế. Thấy chàng đối đáp thực thà, mặt mũi lại sáng sủa, đi đứng hiên ngang, vẻ ra người hùng mạnh, ông bà chiều ý con gái, chịu liền và ngày hôm sau bỏ tiền bạc ra sắm sanh lễ vật, mở tiệc linh đình làm đám cưới cho con gái.
Bất kỳ người lạ hay người quen đều đến dự đám cưới nàng. Tính ra thì uống tới sáu chum rượu cao lớn, một trăm con gà đẻ trứng đưa ra làm thịt, còn gạo trắng như bông hoa ê pang thổi xôi có tất cả đến hơn hai trăm nồi đại…
Chàng trẻ tuổi ở lại nhà vợ làm lụng từ sáng cho đến tối. Đến chiều nghỉ tay, ngồi trên đồi nhìn xuống, chàng trông thấy đường sá trong trang trại nhà vợ rộng thênh thang, vết chân voi, chân ngựa chằng chịt như sợi thừng đan chéo, còn đầy tớ trai đầy tớ gái, ngực chạm ngực, vú chạm vú, đi lại đông vô số kể. Tự nhiên chàng thấy lòng như nở hoa, đi thong thả về nhà mà tưởng chân mình nhảy múa như con sáo mỏ vàng nhảy múa trên cái sân đầy những sào phơi quần áo nhiều màu bay phất phới trong nắng chiều rắc những tia vàng óng ánh.
Nhưng tất cả những cái gì đẹp quá ở trần đời có bao giờ tồn tại lâu la bao giờ?
Ba tháng sau, có một bọn rợ không biết từ đâu lại liên tiếp đổ bộ lên vùng đất êm ả này. Chúng đông đảo như lá cây rừng và tiến đi thành hàng dài, dài như tiếng ngân của một chiếc cồng. Một lệnh khẩn được ban ra giữa đêm khuya khoắt, bao nhiêu chàng trai lớn bé trẻ già trong tất cả các làng xóm ở đó và ba trăm dặm ở chung quanh đó đều được động viên để đi đắp thành lũy ngăn cản quân giặc, để cho chúng không thể nào vào sâu nội địa cướp của giết người, chiếm cứ đất đai của Trời dành cho họ và làm kinh động các vị thần đã nuôi dưỡng và săn sóc cho muôn loài được tốt đẹp như bây giờ.
Chàng trẻ tuổi cũng phải ra đi xây thành đắp lũy. Truyền rằng nơi đó có nhiều cọp ăn thịt người, rồi bỏ xương ở hai bên bờ suối để rồi năm nọ qua tháng kia, xương ấy chất cao lên thành núi, hóa ra những con tinh tánh dữ tợn, nhiều người kế tiếp nhau trương bụng lên rồi gục xuống trước khi thành lũy đắp xong. Tuy nhiên, bao nhiêu cái chết rùng rợn, thê thảm đó không làm nản chí những người đàn ông làm việc bất phân mộ dạ nơi công trường.
Thế rồi thành lũy cũng xây xong và cản được bọn rợ từ phương xa đến, đồng thời dân chúng mỗi ngày mỗi căm hờn bọn người lạ mặt đến giết người cướp của, quyết tâm chiến đấu nên đẩy lui được chúng ra biển làm cho nước biển đỏ ngầu lên và ứ đọng trong ba ngày liền.
Hòa bình trở lại, trẻ con người lớn hát những bài trường ca uyển chuyển như mây goul pong, và tiếng hát vang âm cả núi rừng làm cho mây tìm gió để ái ân, nước đi tìm non để trút bầu tâm sự, và các cô gái còn son đi kiếm những chàng trai tình tứ thủ thỉ niềm thương nỗi nhớ.
Cô con gái của chúng ta đợi mãi không thấy chồng về, quyết định xin phép cha mẹ đi tìm chồng. Nàng yên trí là chồng nàng sở dĩ chưa về được là vì công việc xây thành đắp lũy chưa hoàn tất, thành lũy cần phải xây thêm nhiều nữa, kiên cố gấp trăm ngàn lần nữa vì bọn rợ ngoan cố rất có thể quay trở lại.
Cha mẹ nàng hết lời ngăn cản nhưng nàng không nghe. Không quản ngại thiên sơn vạn thủy mà cũng chẳng hề sợ hãi những tinh ma độc ác đợi chờ ở đầu bãi cuối sông, chân sim bóng đá, nàng con gái chung tình, cứ đi, đi mãi, đi một thân một mình đến chỗ mà bao nhiêu công dân yêu nước được huy động để làm cái công việc thiêng liêng cứu nước.
Ròng rã ba tháng trời, nàng đến được công trường. Nghe lời người trong vùng kể lại, thì thành lũy xong tự nửa năm rồi, nhưng tính ra thì có hàng vạn người vì lao lực quá, vì dãi nắng dầm sương quá, vì yêu tinh phá phách quá, đã gục xuống ở ngay dưới chân thành. Nhờ có những người đứng trông nom công trường có lương tâm nên xác của những người thiệt mạng không bị nhận chìm xuống dưới sông hay băm ra trộn với vôi vữa để xây tường vách. Tất cả đều được chôn cất tử tế và trên mỗi nấm mộ lại có để một thanh tre ghi tên tuổi người xấu số để làm dấu cho sau này họ hàng thân quyến của những người ấy dễ đến mà nhận xác.
Chàng trẻ tuổi của chúng ta là một trong những người đã bỏ thân trong khi đào lũy xây thành dưới mưa dầu nắng lửa. Người vợ từng vượt ngàn trái núi, qua hàng vạn con sông để tìm chồng, tưởng là gặp được chồng để cùng dắt nhau về sống với nhau như chim liền cánh, như cây liền cành, không bao giờ cách xa nhau nữa, bây giờ đây chỉ còn thấy sè sè trước mặt một ụ đất có vài ngọn cỏ áy rung lên nhè nhẹ dưới gió chiều hiu hắt buồn. Biết làm sao bây giờ? Thôi, chỉ còn cách là gạt nước mắt, bốc cái mả rầu rĩ lên và lượm lấy mớ hài cốt để đưa về mai táng ở quê nhà.
Nhưng trên đường đi thì trắc trở gập ghềnh, rừng núi lại âm u, mưa nắng thất thường, có khi khí núi bốc lên, giơ tay ra trước mặt mà không thấy cả ngay chính tay mình nữa, đi một mình đã gian khổ lưu ly, thế mà còn mang thêm ở tay một cái bọc lớn đựng hài cốt của chồng nữa, e kềnh càng quá. Nàng bèn đi đến một cái khe nọ có người ở lác đác, xin củi hỏa thiêu hài cốt của chồng, theo phương pháp của người sơn cước. Và sau một đêm một ngày, hài cốt ấy biến thành tro than, bới lên chỉ còn vài đốt ngón tay bé nhỏ. Tất cả, nàng cho vào trong một cái lọ sành đậy kín miệng lại rồi cho vào trong khăn gói, xách mang đi trong tiếng ve kêu sầu, vượn hót nỉ non.
Lá vầu và hoa ngải gió rụng xuống phủ kín các con đường rừng đầy vắt báo tin hè đã hết, trời bắt đầu sang thu. Người đàn bà chung thủy ngày đi đêm nghỉ, không một lúc nào than van vất vả, không một lúc nào ngại khó vì ngăn núi cách sông.
Một buổi sáng đìu hiu lạnh, nàng ở trong rừng rậm ra đường đi trong một vùng ánh sáng bạc màu chì, bỗng thấy đường đi bế tắc. Trước mắt nàng là một con suối chảy lờ đờ, còn hai bên bờ thì là hai ngọn núi cao chót vót, khí bốc lên mù mù như sương khói. Cố tìm lấy một đường mòn để đi sang bên kia không có, nàng đành phải lội xuống suối để đi. Nước suối trong văn vắt nhưng lạnh tê băng giá, dúng hai bàn chân xuống nước, buốt lên đến ruột. Nhưng nàng cũng không ngần ngại, cứ xuống để đi. Ở chỗ thật sâu, nước chỉ lên đến đầu gối, nhưng gian nan vất vả không phải là điểm đó, mà chính là vì con suối này dài và rộng, đi từ sáng sớm đến trưa, không biết có sang được bờ bên kia không. Nàng con gái suy nghĩ một giây rồi cứ rảo bước đi như thường.
Có hai con chim lúc ấy vừa tắm xong, đứng rỉa lông rỉa cánh cho nhau, thấy người con gái lặn lội gian nan như thế, rúc đầu xuống hót ríu ran.
Thiếu phụ nhìn đôi chim, cúi đầu tiếp tục lội trên dòng suối, không chút mảy may cảm động. Những cảnh no đôi đủ lứa như thế không hề làm cho nàng cảm động và suy nghĩ vẩn vơ bao giờ. Cách đây ít lâu, có biết bao nhiêu người đàn ông thấy nàng sống cô chích đã đánh tiếng đến xin nàng về làm vợ, viện cớ chồng nàng đi xây thành đắp lũy như thế, một là chết, hai là đi không biết bao giờ về, cứ thủ tiết đợi chờ như thế thì mấy lúc mà tầm non quá lứa thành ra con nhộng.
Người thiếu phụ xa chồng nhất thiết chỉ cười mà không đáp ứng lời cầu xin nào cả. Lòng chung thủy của nàng thấu lên đến Trời khiến cho các thần cũng phải nao nao xúc cảm. Hầu hết đều tin rằng lòng thủy chung và nền tiết hạnh của người đàn bà ấy sẽ sáng như nhật nguyệt và trường tồn cho đến khi đầu bạc răng long. Một số thần khác lại không tin như thế. Không biết phân xử cho bên nào được, bên nào thua, Trời bèn truyền mở một cuộc thử thách cuối cùng để xem lòng kiên trinh, chung thủy của thiếu phụ lên cao đến chừng nào.
Ở trên trái núi bên mặt con suối có một cây bằng lăng sống đã mấy ngàn năm. Người ở vùng đó kêu núi ấy là núi của ông Hoàng Cam, còn con suối thì kêu là suối Bạc. Suối Bạc là một nhánh của con sông Kõm không biết bắt nguồn từ ở đâu, nhưng sông này to lắm và dài lắm - dài đến nỗi có người bảo rằng bắt nguồn từ ở trên trời, cứ đi ở triền sông, đi mãi, đi mãi, từ lúc trẻ cho đến lúc già mà vẫn chẳng thấy đâu là đầu sông, đâu là cuối sông. Đến ngã ba Da Ma, con sông tẽ ra làm hai nhánh: một đi về phía Việt Nam, còn một đi sang Lào hay Miên không rõ.
Chỉ biết rằng đến Da Ma, cái nhánh sông Kõm về phía Việt Nam tự nhiên thắt cổ bồng, thắt lại mãi để rồi chỉ còn hẹp như cái lạch. Thổ dân kêu con suối đó là suối Bạc để chọi với nhánh sông bên kia mà họ kêu là suối Vàng. Suối Vàng lớn hơn suối Bạc nhiều, nhưng nước suối Bạc trong văn vắt, khác hẳn nước suối Vàng quanh năm vàng vọt như màu nghệ.
Cây bằng lăng cổ thụ ở trên núi ông Hoàng Cam hiên ngang mọc chót vót ở gần đỉnh chọc trời. Tàn lá sum suê che mất cả một dặm đường sỏi đá. Nhưng đến gần, ngọn cây tẽ ra y như thể bị sét đánh mất đầu, rồi từ chỗ tẽ ra đó những cành to lớn và dài thòng đâm xiên ngang và rũ mãi ra cho tới tận những cây ô ma mọc ở bên bờ suối Bạc. Những hôm trời gió, lá cây bay rào rào cuồn cuộn y như hòa với nước suối reo để hát một bản hùng ca có nhịp điệu của miền cao nguyên dũng mãnh.
Thì ra Trời Phật, thần thánh đã định thử người ta thì sự thử thách đó quả cũng có khác thường nhiều. Chính giữa lúc thiếu phụ mang cái lọ sành đựng tro than hài cốt của chồng lội con suối Bạc, đến chỗ trông sang núi ông Hoàng Cam thì lá cây bằng lăng rung động dạt dào như thể múa vũ trong một buổi liên hoan hát mừng ánh sáng.
Bao nhiêu lộc non mới chớm, y như thể có một thứ nhựa lạ kỳ thúc đẩy, đột nhiên vươn lên và trổ thành những lá non cũng đu đưa như cùng hòa theo vũ khúc.
Thế rồi thì suối reo vui, chim khúc khích cười, vượn hát ru, cỏ bạc đầu thủ thỉ tâm tình, lau sậy hiu hiu buồn sát lại gần nhau để ấp ủ cho lòng đỡ lạnh…
Ơ kìa, về quá phía dưới kia, lại có tiếng gì nghe như tiếng nhã nhạc từ thiên tiên vọng tới? Đó là tiếng ca bất tận của suối Bạc vỗ vào chân núi đá, lập đi lập lại điệp khúc mê ly nửa như mời người ta tận hưởng những phút giây đương có, mà nửa như chế nhạo người đàn bà cô chích đi một thân một mình trong rừng già:
Non nước hơi sương mờ mịt phủ,
Xóm làng lửa đóm lập lòe soi.
Đường xa nào bạn ai quen thuộc?
Lối cũ riêng mình phận lẻ loi!
Thế rồi tự nhiên ánh sáng lóe ra trong tàn lá sum suê của cây bằng lăng xanh mươn mướt như nhung.
Từ các nhánh lá con, những nụ hoa tự nhiên vụt trỗi lên như nhụy đào của những cô gái tuyết trinh và chỉ trong nháy mắt căng lên một thứ nhựa đa tình để bừng nở như chờ đợi những giọt sương ân ái.
Người thiếu phụ dừng bước lại, lắng tai nghe tiếng nhạc của hoa lá vi vu trong mây trời. Thì đúng giữa lúc đó có một bông hoa bằng lăng màu đỏ cánh sen từ trên cao rụng xuống ở ngay chỗ nàng đang lội, bập bềnh trôi theo dòng suối xanh xanh; thế là nàng bị dụ hoặc liền: tiếng suối reo, tiếng vang âm của rừng, tiếng chim cười, tiếng lá rì rào kể lể tâm tình, tiếng rền rĩ của ánh sáng tách từ những đám mây ra… tất cả, tất cả đều ngừng lại và tự nhiên trời đất bao la im lặng một cách lạ kỳ. Thì ra đóa bằng lăng màu cánh sen đã làm cho nàng mê mẩn tâm hồn, nàng chỉ chan chứa có bông hoa đẹp lạ lùng, ngoài ra, không còn nhận thấy bất cứ cái gì ở chung quanh mình.
Bây giờ, đi về những vùng rừng núi, hay bờ biển, ta vẫn còn thấy những cây bằng lăng to lớn xòe những tàn lá có lông như thách thức sóng to gió lớn, mà lại như kiêu căng với người đời vì những ích lợi vô cùng của vỏ cây chữa được bệnh tiết tả, trái cây và lá cây trị được bệnh đái đường, nhưng hoa bằng lăng bây giờ thật quả không có cách gì mà so sánh được với hoa bằng lăng ngày trước, lúc xảy ra câu chuyện này.
Bông hoa bằng lăng bập bềnh trôi ở trên dòng suối xanh xanh lớn bằng năm bằng bảy hoa bằng lăng bây giờ, mà đặc biệt là hoa nào nở ra cũng phơn phớt màu cánh sen huyền ảo, chớ không bao giờ người ta lại thấy bông trổ ra màu tím lợt như bây giờ.
Bây giờ, hoa bằng lăng sắc tím nở đủ mùa, bất phân thời tiết; ngày xưa, không thế: có nhiều khi cả một đời cây mà không có được một bông hoa. Những cây quý lắm, mươi mười hai năm mới có một bông trổ ra theo đọt nhánh. Truyền rằng hoa nở như thế là điềm an lạc, thái bình, no cơm ấm áo, cũng như giống kỳ, giống lân xuất hiện là điềm lành báo cho dân gian ngày trước biết là có thánh chúa ra đời.
Một bông hoa nở ra như thế thường tươi tốt luôn trong mấy tháng trời không héo úa. Có những người đã được thấy hoa bằng lăng màu cánh sen, thuật lại rằng hoa ấy lớn còn hơn cả mẫu đơn, mà đặc biệt là ban đêm lại tiết ra một thứ ánh sáng huyền ảo như sữa của sông Ngân Hà, mà nếu ai có phúc có phần, thì lại còn có thể nghe thấy rõ ràng tiếng ánh sáng ấy rung động và tiết ra một thứ nhã nhạc vô cùng kỳ ảo. 
Có lẽ người thiếu phụ không biết những đặc điểm ấy của đóa bằng lăng lập lờ trôi gần nàng, nhưng vừa trông thấy, nàng bị bông hoa hấp dẫn liền và cúi liền xuống để vớt bông hoa diễm tuyệt. Nhưng bông hoa cứ bập bềnh trôi, nàng càng với tay ra để vớt thì bông hoa lại càng trôi xa, xa mãi. Mê quá mất rồi, nàng tự nhủ phải vớt bông hoa kỳ cho được mới thôi. Nhưng vô ích: càng cố đuổi, hoa càng trôi xa, xa mãi. Không còn nhận thức được gì nữa, ngoài cái lòng ham lượm được hoa, người thiếu phụ quăng cái khăn gói trong có cái lọ sành đựng tro than hài cốt của chồng xuống dòng suối để cho khỏi vướng tay. Và quả là nàng thấy rảnh tay để vớt bông hoa kia thực nhưng đó chỉ là ảo tưởng trong phút giây thôi, bông hoa vẫn cứ trôi xuôi theo dòng nước xanh còn khăn gói trong có cái lọ sành đựng tro than hài cốt của chồng thì chìm dần vào trong lòng suối, ví có muốn quay lại để vớt cũng không thể nào kịp nữa.
Giữa lúc đó có một con quạ hai cánh xòe ra bằng cả một sải tay, hai mắt tròn vo, lóng la lóng lánh như mắt chim nghiệt, chim gáy, ở đâu sà tới và ngậm lấy cái khăn gói bay lên trời.
Tiếng cánh của con quạ vỗ lúc bay lên làm dạt cả bụi tre, bụi vầu gần đó. Người thiếu phụ ngẩn ra nhìn con quạ một lúc lâu và cảm như vừa nghe thấy một tiếng nhạc cồng vang ngân bay lượn trên dải rừng mênh mông. Mãi đến lúc tiếng cồng chảy xuống nước, chảy trên những tảng đá phẳng lì, rồi bay lên tít tắp trên đỉnh núi chênh vênh có gió hú như thần sầu quỷ khốc, người thiếu phụ mới chợt tỉnh và nhớ ra rằng con quạ vừa tha mất cái khăn gói trong có cái lọ sành đựng tro than hài cốt của chồng mình.
Thủ tiết trong bao nhiêu năm tháng, trèo không biết bao nhiêu núi, lội không biết bao nhiêu sông, dẫm chân lên không biết bao nhiêu hiểm nghèo, để bới được hài cốt của chồng đem về mai táng ở quê hương bản quán… Vậy mà đến bây giờ chỉ còn hai bàn tay không! Lại có thể như thế được sao?
Định thần một giây, người thiếu phụ thấy lòng đau như cắt và ngay khi ấy phát điên phát cuồng lên. Nàng kêu trời khóc đất, nàng cào mặt, ngắt mày, nàng định đập đầu vào những tảng đá ở hai bên bờ suối.
Thế rồi không hiểu sự uất ức căm hờn nó có một động lực phi thường gì thúc đẩy người ta một cách gớm ghê đến thế, người thiếu phụ lội ở trên dòng suối mà như thể chim gáy, chim nghiệt tung cánh bay lên trời. Trong chớp mắt, nàng đã tới chân núi ông Hoàng Cam, nhảy lên lanh lẹ như con sóc và vươn mình cao lên, nâng một hòn đá ném lên con quạ đứng ở chót vót trên ngọn cây bằng lăng cổ thụ, mà mỏ vẫn còn ngậm cái khăn gói trong có chiếc lọ sành đựng tro than hài cốt của người chồng xấu số.
Nàng vừa ném đá vừa nguyền rủa:
- Hỡi con chim quạ mang điềm chết chóc, mày là quỷ báo hại ta. Hãy nhả cái khăn gói xuống đây, nếu không thế suốt đời mày sẽ đui mù, dòng giống chúng mày điếu bái đi đâu cũng bị người ta khinh ghét và giết chóc cho tuyệt nòi mất giống.
Con quạ cúi xuống nhìn người thiếu phụ, lắc đầu không hiểu. Mà nó cũng dường như không hiểu tại sao người thiếu phụ kia lại tức giận ném hòn đá tảng nọ lên cây làm cho cây bằng lăng đương xanh tốt là thế bỗng nhiên bị tảng đá rớt xuống đúng chỗ tẽ ra, chẻ thân cây ra làm hai và từ chỗ bị chẻ ra đó có một thứ nước đỏ như máu chảy ra xối xả.
Những người đi kiếm củi qua đó thấy cây chảy máu bèn lập một cái miếu lên thờ và từ đó gọi cây bằng lăng ấy là cây bằng lăng đôi. Đồng thời đời nọ tiếp đời kia, thổ dân nghiệm thấy rằng kể từ khi đó, cây bằng lăng đôi ấy không còn bao giờ trổ hoa tuyệt mỹ như khi trước nữa. Hơn thế, bao nhiêu cây bằng lăng khác ở khu rừng này cũng như ở tất cả các ven sông, khe suối, ở tất cả đỉnh núi, lòng khe, cũng không bao giờ còn cho thiên hạ được thấy những bông hoa đại đóa màu cánh sen như trước nữa, mà chỉ còn làm duyên với đời bằng những lòng hoa bé nhỏ màu tím lợt trổ dài theo đọt nhánh, trông buồn buồn như những bông hoa sim về chiều.
Lại nói chuyện người thiếu phụ ném hòn đá tảng mưu định giết con chim quạ mà chim chẳng thấy chết đâu, lại làm cho cây bằng lăng bị trọng thương. Sự tức giận, và lòng thương chồng của người thiếu phụ bốc lên cao ngất ngất khiến cho nàng tự nhiên có một sức khỏe phi thường, khiến cho thần Cây cỏ, thần Núi đều khiếp đảm. Đồn rằng, lúc nàng cúi xuống để nhấc tảng đá lên, ném con chim quạ, đồi núi cả một vùng chung quanh đấy đều rung chuyển. Vì thế cho nên đến bây giờ, ai đi qua vùng đó vẫn còn thấy hai vết bàn chân đã nói ở trên kia in hằn lên hai cái núi trông sang núi ông Hoàng Cam: một vệt ở núi Heo là chân trái, còn một vệt ở trái núi khác gần đó là chân bên phải. Người thiếu phụ ấy để chân như thế để ném cho mạnh và trúng đích, nhưng vì núi ông Hoàng Cam cao quá mà con quạ lại đậu cao trên cây bằng lăng nên đá ném không tới chỗ con chim quạ đậu.
Mặt khác, theo một bản trường ca, kể theo điệu khan của vùng này, thì lúc ấy chỗ mà để hai chân lên đứng ném đá lên cây thì lại thấp lắm, chỉ là hai cái đồi nhỏ bé chứ chưa phải là núi như bây giờ. Tại sao thay vì mỗi ngày mỗi lún xuống để thành ra đất phẳng, hai cái đồi ấy mỗi ngày mỗi cao lên? Đó là một điều bí ẩn chưa ai biết nguyên nhân, nhưng tất cả dân chúng miền này cho rằng thổ thần của hai đồi này, tức giận thổ thần núi ông Hoàng Cam đã dung túng con quạ tha cái đẫy, nên ngày ấy sang tháng khác đã làm cho đồi cao lên thành núi với hy vọng hai cái núi này sẽ cao hơn núi ông Hoàng Cam và một ngày kia sẽ lấn át và đè bẹp núi ông Hoàng Cam.
Lối bàn tán đó chỉ là một giả thuyết mà người sơn cước mỗi khi chớp bể mưa nguồn, ngồi đốt lửa và uống rượu với thịt trâu tái vẫn trao đổi với nhau. Thực ra, ai dám quả quyết là con quạ tha cái đẫy kia có tội, mà dung túng cho con quạ tha cái đẫy đứng trên ngọn cây bằng lăng nọ cũng phạm vào cái tội a tòng?
Bằng cớ là ngay khi thiếu phụ đặt một chân lên đồi này và một chân lên đồi kia ném hòn đá tảng lên con quạ không trúng thì có hai ông già râu tóc bạc phơ như tuyết, ngồi đánh cờ gần đó, thấy thế, gọi tiểu đồng và hỏi xem tại sao lại có người bỗng nhiên ném đá lên trên cây như vậy. Tiểu đồng gặp thiếu phụ hỏi đầu đuôi sự tình rồi đem câu chuyện trước sau kể lại cho chủ nhân nghe. Hai ông già râu tóc bạc phơ ngưng tay cờ lại một giây, cười ha hả rồi chống gậy đi đến chỗ thiếu phụ ném hòn đá tảng ngắm nghía giây lâu. Rồi một ông bảo thiếu phụ:
- Thôi con ạ, đừng ném nữa, vì có ném bao nhiêu cũng chẳng tới được quạ đâu, là vì lẽ quạ này chỉ là một cái cớ để thử thách mà thôi, con ạ.
Nói rồi, cả hai ông chống gậy đi vào trong một khe núi Hoàng Cam. Cái cửa hang tự động đậy lại, để cho người đàn bà đứng ngơ ngác một mình. Quay lại thì tên tiểu đồng khi nãy cũng không còn nữa, nhưng tự nhiên ở đồi cây, vách núi, ở dòng suối bạc đưa lên, ở đóa mây xanh trên trời dội xuống, nàng nghe thấy có những tiếng thì thầm:
“Cây bằng lăng không có tội. Núi ông Hoàng Cam không có tội. Mà cả chim quạ cũng không có tội. Chỉ có lòng người có tội mà thôi vì không giữ được cho toàn vẹn, hãy còn ham muốn, chứ chưa thật được hoàn toàn chung thủy”.
Người thiếu phụ nghe thấy tiếng vọng nổi lên ở chung quanh mình như thế, khóc thét lên, và cảm thấy tất cả đá núi, rừng cây chế nhạo mình, khinh khi mình.
Nàng gào lên và tiếng vang của núi rừng lại dội lại tai nàng tiếng kêu gào:
“Lòng ta không có tội! Lòng ta không có tội!”.
Bao nhiêu thần linh ở trên trời lúc đó nghe tiếng kêu gào não nuột của người thiếu phụ, bỗng thấy lòng se lại và thương cảm cho giống người thêm lên. Là vì họ đều thấy rằng, ở đời các cám dỗ mỗi ngày mỗi nhiều hơn, người đàn bà dù có đức hạnh đến đâu, lòng chung thủy có vững chắc đến bao nhiêu đi nữa thì cũng vẫn có thể bị cám dỗ như thường. Đừng kết tội lòng họ có tội; tiền bạc, sắc đẹp và sự nhàn hạ ở bên ngoài bất cứ lúc nào cũng có thể lôi cuốn người đàn bà lầm lỡ, quên cả tình nghĩa lâu dài. Vì thế, chớ nên bao giờ để cho họ bị cám dỗ. Căn bản đạo đức là ở đó. Để cho họ bị cám dỗ, rồi lên án họ, là sai từ căn bản sai đi.
Chỉ tội nghiệp cho con quạ, vốn là một loài chim đã bị người ta ghét sẵn và liệt vào loại đi đến đâu thì gây tang tóc đến đó, ở chỗ nào thì là báo điềm chết chóc, nhân vụ này lại càng bị thiên hạ căm thù thêm, oán ghét thêm. Tất cả tội lỗi thiếu phụ đều quy hết cả vào cho quạ mà thực ra nó chẳng có tội gì, nhưng vì không biết trình giải lòng mình, không biết nói lên nỗi oan truyền kiếp của mình nên hết đời này sang đời khác cứ bị người ta thù ghét.
Thương cho loài quạ, các vị thần linh từ đó mới giúp cho quạ nói được tiếng người để có cơ hội nào thì phơi bầy được gan ruột của mình ra, nhưng đến tận bây giờ, hình như loài người vẫn chưa bỏ được thành kiến khinh khi loài quạ, căm thù loài quạ, nên giống quạ vẫn cứ sống riêng một thế giới với nhau và kêu lên những tiếng buồn ở trong sương một mình, làm một đầu đề thi vị cho nhà thơ cũ: “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên”…
Truyện thứ ba
QUÝ LY, ĐỀN TỘI ĐI!
Câu chuyện huyền thoại của người thứ ba thuộc về một loài chim. Bây giờ tôi không nhớ rõ người kể chuyện này bí danh là gì, nhưng mang máng nhớ chừng là một đồng chí người cao nguyên lúc đó làm trung đoàn phó. Tiếng là người cao nguyên, nhưng anh viết và đọc rất rành tiếng Việt, hơn nữa, mỗi câu chuyện hay tiểu luận anh nói ra đều là bài học thực tế sinh động về nhân sinh quan cách mạng, về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về chủ nghĩa anh hùng mới, về thái độ sống, làm việc và chiến đấu.
Đồng chí Rốc Lai bắt đầu chuyện của anh bằng một câu hỏi: 
- Các đồng chí lặng im. Có nghe thấy gì không?
- Không. Chỉ nghe thấy tiếng gió hú và mưa nguồn buồn thấu đến thịt xương.
- Các đồng chí đều điếc cả. Ở miền rừng núi, có một cái này đặc biệt: là ban đêm, gặp khi có mưa rừng, tất cả chim chóc và thú vật đều im hơi lặng tiếng, duy chỉ có một giống chim vẫn kêu như thường – mà có nhiều đêm mưa rừng càng lớn, gió thổi càng to thì giống chim đó lại càng kêu lớn hơn khi nào hết. Đó, các đồng chí đã nghe thấy tiếng kêu của nó chưa?
Mọi người đập khẽ vào nhau, ra hiệu chớ làm ồn để nghe xem ra thế nào. Thì quả nhiên có tiếng kêu thật, tiếng kêu lẫn vào gió vào mưa, nhưng cao vút hơn một chút, một tiếng kêu không ai oán não nùng nhưng triền miên như thể gói ghém một nỗi niềm oán hận. Ờ phải, đó là tiếng chim gì lạ vậy? Ở rừng, chúng ta chỉ nghe thấy nói đến mấy giống chim “Bắc Quang, Bắc Mục”, “Bóp thì bóp”, “Bìm bịp”, “Tu hú”, “Bắt cô trói cột”, giống chim nào kêu rõ ra thứ tiếng riêng của nó, mà sao đến cái giống này thì nghe lạ hoắc, người mới nghe không hiểu. Nó kêu gì vậy?
- Các đồng chí nghe kỹ một chút mà xem. Nó kêu “Quý Ly, đền tội đi!”. Có phải đúng như thế hay không?
Mọi người lắng tai nghe. Ờ đúng. Nó kêu: “Quý Ly, đền tội đi!” thực thế, không sai. Thế tại sao nó lại kêu như thế nhỉ?
Đồng chí Rốc Lai châm một mồi thuốc hút, nhìn ra mưa đêm mà nói, như thể nói cho chính mình nghe vậy:
- Mỗi một giống chim, mỗi tiếng hót đều có một sự tích. Về mấy giống chim kia, các đồng chí đã rõ sự tích ra sao rồi, lựa là phải nói lại làm gì.
Một anh trào lộng:
- Chúng tôi biết hết, nhưng đồng chí cứ làm như thể là chúng tôi không biết, kể vắn tắt như làm một bài tựa, thiết tưởng không hại gì.
- Ờ được. Tôi xin tóm tắt. Về giống chim “Bắc Quang, Bắc Mục”, truyền rằng ngày xưa có những người đi lính thú trên mạn ngược Bắc Việt chết bỏ xương, nơi đó hóa thành một giống chim ngày đêm than oán giữa núi rừng hoang lạnh: “Bắc Quang, Bắc Mục – Hà Giang nước độc”, ra cái ý nói rằng ai mà đi đến những nơi đó chỉ có chết mà thôi.
Có một người lính thú nọ ngồi cầm súng hỏa mai nghe con chim mạn ngược kêu thương như thế, ngồi tưởng nhớ đến thân mình có lẽ không còn bao giờ được gặp lại vợ con, triết lý:
- Tại sao con chó có răng lại không ăn được lúa?
- Tại sao con gà không có răng lại ăn được lúa?
- Tại sao con ba ba ở dưới nước lại lên đẻ trứng trên mặt đất?
- Tại sao con cóc ở trên mặt đất lại xuống nước đẻ trứng?
- Tại sao cây móc cũng giống với cây cau mà lại trổ hoa giữa thân cây, còn cây cau thì lại có hoa ở ngọn?
Suy nghĩ mãi mà vẫn không tìm ra một chân lý, anh lính thú ngủ quên đi. Chẳng may chính giữa lúc ấy thì quan đi qua đấy, thấy anh lính thú ngủ, bèn kêu về hỏi duyên do. Anh lính thú trình bày:
- Con sống quạnh quẽ, ở giữa núi rừng sâu thẳm, buồn không biết làm gì nên hay để ý đến thú vật, cỏ cây ở chung quanh, và còn thắc mắc về mấy sự việc tưởng như vô lý do Trời sinh ra, như con chó, con gà, ba ba, con cóc, buồng móc, buồng cau. Cứ suy nghĩ triền miên mãi rồi ngủ, ngủ quên đi mất, chớ không phải là con bê trễ việc quan.
Viên quan bèn hạ lịnh giam y vào ngục. Trong khi đó thì chính ông cũng băn khoăn về mấy thứ đó, không hiểu ra thế nào. Gặp ai cũng hỏi, nhưng không ai trả lời được. Thương tình anh lính thú, ông bèn ra lịnh tha y thì anh ta đã chết trong đề lao và xác đem chôn ở bên sông rồi. Từ khi chôn, các đồn canh ở chung quanh đấy thường nghe thấy một giọng chim kêu những tiếng nghe rất rõ: “Con chó, con gà, ba ba, con cóc, buồng móc, buồng cau”. Người ở vùng ấy cho là hồn người lính chết oan hóa kiếp ra làm giống chim kia, bèn xây một ngôi miếu cạnh mồ anh ta ở bên sông Kỳ Cùng.
- Thế còn cái giống gì mà lại kêu “Bóp thì bóp”? Bóp là cái gì?
- Đó là sự tích chim quy. Ngày xưa, có một cô gái ra tắm ở bờ giếng gần nhà với một đứa em trai. Lúc tắm cho thằng em, nó đưa tay ra bóp vào đôi vú chị. Người chị dọa về mách với cha mẹ. Thằng bé sợ, bỏ trốn vào rừng; người chị kêu nó cách mấy nó cũng không quay trở lại. Rồi cả chị lẫn em lạc cả ở trong rừng, rồi chết, thành ra một giống chim, cứ vào lúc mặt trời lặn là kêu lên tiếng gọi nhau, về khuya gần sáng thì tiếng kêu gần gũi nhau nhưng đến khi hửng sáng thì im bặt. Nghe tiếng con chim cái, người ở miền rừng núi cảm thấy rõ là nó kêu “Bóp thì bóp”, nhưng con chim đực trả lời “Không bóp” như để nhắc lại nỗi sợ sệt ngày trước của đứa em. Tiếng kêu trao đi đổi lại nghe buồn héo ruột, người đi rừng có khi nghe tiếng kêu mà xốn xang thương cho đôi chim kêu ảo não trong rừng ban đêm để đến khi trời sáng thì lại im hơi bặt tiếng. Và họ vừa đi vừa hát:
Đôi ta như thể chim quy,
Đêm nghe thấy tiếng, ngày đi phương nào.
- Chuyện buồn quá. Kể tiếp chuyện “Tu hú” đi, xem có vui hơn không?
- Tục truyền ngày xưa có một người nóng tính lắm tên là Bất Nhẫn. Một vị sư già thấy anh ta như vậy khuyên nên tu luyện để thay tâm đổi tính đi. Anh nguyện vào rừng sâu ngồi nhắm mắt, ngồi yên một trăm ngày để cho tâm hồn lắng xuống và tập lấy cái tính nhẫn nại, việc gì cũng cố nhịn chớ không nóng tính như trước nữa, e hỏng việc. Ngồi nhập thiền như thế ít lâu, có một cặp chim đến làm tổ trên đầu Bất Nhẫn, rồi sinh con đẻ cái ỉa bừa bãi lên trên đầu anh ta. Anh vẫn cố chịu đựng như thường. Nhưng rồi có một hôm, anh không thể chịu đựng hơn được nữa, hất cả cái tổ chim xuống đất và chửi rủa ầm ĩ lên. Ấy là vì con chim cái ghen. Con chim đực phân bua:
- Anh xin thề không có bụng dạ nào. Cả đêm anh nằm trông con. Không tin, em cứ hỏi người bị Trời trồng này xem có đúng không.
Vừa hất cái tổ chim ở trên đầu xuống đất, anh vừa chửi lũ chim:
- Chúng mày là đồ khốn kiếp. Ta ngồi đây để cho chúng mày làm tổ và ỉa lên đầu lên cổ vì một lời nguyền với tôn sư, chớ phải đâu bị Trời trồng mà chúng mày nỡ ăn nói một cách tồi tệ với tao như vậy.
Thế là bao nhiêu công tu luyện của Bất Nhẫn thành ra công cốc! Không nản, anh ta tìm cách khác để hy vọng đạt được mong muốn của mình. Nghe thấy nói rằng ai giúp cho người ta qua được sông nước ngặt nghèo thì động đến lòng Trời, Phật, anh bèn đóng một con thuyền chở giúp khách qua sông. Chở như thế được chín mươi tám ngày, đến ngày thứ chín mươi chín, thì có một người đàn bà dắt một đứa con nhỏ xin qua sông nước. Bà này hách dịch, mà đứa con lại xấc láo, coi người chèo thuyền không ra gì; nhưng Bất Nhẫn cắn răng mà chịu. Đến giữa sông, người đàn bà sực nhớ quên mất đồ hành lý, bảo anh quay lại. Anh ta cũng chịu luôn. Nhưng đi sang gần tới bờ bên kia, bà khách lại nhớ quên mất nắm cơm của đứa trẻ, bà lại buộc ông lái quay lại nữa.
Không dằn được lòng tức giận, Bất Nhẫn càu nhàu: “Đàn bà gì mà quên hoài quên hủy. Nếu đôi vú không dính vào người có lẽ cũng quên luôn chắc?”.
Bất Nhẫn vừa nói xong thì người đàn bà nọ hiện thành Phật Bà Quan Âm mà bảo: “Anh nguyện sửa đổi tâm tính mà vẫn nóng nảy như thế mong gì tu được? Tu gì anh? Tu hú!”. Nói rồi bay lên trời. Bất Nhẫn buồn hết sức buồn, về đến nhà nhuốm bịnh rồi chết thành ra một loài chim. Lúc ấy là mùa vải. Loài chim này đậu trên cây vải, buồn rũ ra, vì không lúc nào quên được lời Đức Phật dạy bảo khi còn sống: “Tu gì anh? Tu hú!”.
Từ đó, cứ đến mùa vải thì chim tu hú không biết ở đâu về đậu cả ở trên những cây vải chín, và rải tiếng đau thương “Tu hú! Tu hú!” làm cho trẻ nhỏ buồn không chịu được phải lấy đá liệng và chửi “Tu hú! Chú mày chết!”.
- Thế còn chuyện con chim bìm bịp ra sao?
- Thực ra, ở vùng xuôi, người ta kêu nó là chim bìm bịp mà không ai biết rõ tại sao lại là bìm bịp. Ở miền cao nguyên, người ta kêu nó là con chim “tội nghiệp” do một sự tích mà cả cao nguyên và đồng bằng cùng kể lại giống nhau.
Ngày xưa, có một thiếu nữ xinh đẹp chán cảnh thế tục, thí phát đi tu và lặn lội sang Tây Trúc mong tìm Đức Phật. Phật muốn thử lòng, hóa ra một người ăn mày xin ăn. Ăn thế nào cũng không đủ, y xin luôn cả nắm cơm cuối cùng. Ni cô cũng chịu. Phật động lòng, hiện xuống trong lúc nàng đang thiu thiu ngủ ở dưới một gốc cây bồ đề và dạy cho nàng bốn câu kinh có một thần lực là gặp bất cứ sự hiểm nghèo nào mà đọc bốn câu ấy thì chuyển nguy thành an ngay.
Rồi có một đêm nàng đang đi ở trong rừng thẳm thì trời sập tối. Thấy một ngọn đèn leo lét ở khe núi đá, nàng lần bước tới xin nghỉ nhờ một đêm thì không may, nhà đó lại là nhà một mụ chằn. Thấy thịt người thơm tho, mụ chằn định ăn tươi nuốt sống nhưng ni cô kịp thời đọc bốn câu kinh Phật dạy:
Thiên la thần, địa la thần,
Nhân ly nạn, nạn ly thân,
Nhất thiết tai ương, hóa vị thần
Nam mô A Di Đà Phật!
Tức thì mụ chằn sợ hãi cúi xuống van xin. Đến khi thằng con trai mụ chằn về, nó lại cũng định ăn thịt ni cô nữa. Ni cô lại đọc bốn câu kinh. Con trai của chằn tinh tự nhiên thấy ruột gan bị vò xé, nó bèn lấy dao mổ bụng, lôi chùm ruột và trái tim ra và nhờ dâng lên Đức Phật để xem tại sao nó lại có thể độc ác đến như thế được.
Ni cô cho trái tim và chùm ruột vào trong đẫy xách lên vai đi, nhưng được vài ngày thì mùi hôi thối xông lên nhức óc không thể nào chịu được. Ni cô bèn lấy quăng vào bụi rậm.
Rồi đi mãi, đi mãi đến Tây phương và lạc vào đất Phật. Một vị Bồ Tát ngăn lại, và hứa cho vào sau khi trả lời một câu hỏi của ngài: “Trong khi đi đường có ai cũng tưởng tới Phật và nhờ ni cô đệ trình gì lên Đức Phật không?”.
Ni cô cứ thực tình kể lại câu chuyện con trai mụ chằn gửi chùm ruột và trái tim để dâng lên Phật. Thế trái tim và chùm ruột đâu rồi? Không, cửa Phật không hẹp hòi gì, nhưng Đức Bồ Tát đứng ở trước cửa ngọc cho biết rằng cửa Phật chỉ có thể mở cho ni cô vào một khi ni cô đem đủ chùm ruột và trái tim của con trai mụ chằn đã gửi để dâng lên Đức Phật.
Ni cô ôm mặt khóc nức nở:
- Bây giờ tôi còn hơi sức đâu để trở lại mà tìm kiếm nữa? Mà ví phỏng có tìm kiếm thì hy vọng gì thấy được, vì chắc chắn muông chim cũng đã tha đi mất rồi.
- Việc đó là việc của ni cô, người ở đất Phật không biết tới. Nhưng nếu ni cô ngại đi lại vất vả và khó kiếm chùm ruột và trái tim, ta có thể giúp cho ni cô đôi cánh để bay cho lẹ và do đó có thể nhìn từ trên cao xuống để cho dễ kiếm hơn.
Thế rồi Bồ Tát niệm một câu kinh. Ni cô có một đôi cánh thật và chỉ trong nháy mắt biến thành một con chim. Vì ni cô bịt một cái khăn nâu nên đầu con chim màu nâu, mắt vừa khóc thành mắt con chim đỏ, còn quần áo nâu lấm bụi đường nên lông ở mình con chim hóa ra màu đà.
Con chim đó bay đi tìm chùm ruột và trái tim mãi đến tận bây giờ mà vẫn chưa thấy nên thỉnh thoảng lại kêu lên một tiếng than van thê thiết: “Tội nghiệp! Tội nghiệp!”. Vì thế người cao nguyên gọi nó là con chim “tội nghiệp”, còn ở đồng bằng không hiểu vì phiên âm hay vì một lý do gì khác lại gọi giống chim ấy là chim bìm bịp.
- Còn câu chuyện chim “Bắt cô trói cột” thì sao, kể nốt nghe chơi, đồng chí!
- Các đồng chí nói đùa dai quá. Nhưng đã nói thì nói hết luôn trước khi bước sang chuyện chính là chuyện con chim đương kêu: “Quý Ly, đền tội đi!”. Đó, các đồng chí có thấy tôi nói đúng chưa? Gió hú càng mạnh, mưa rừng càng lớn, có phải là tiếng chim kêu lại càng vang dội mạnh không? Nghe cứ như là tiếng thét, một lệnh truyền sắc nét.
Một người nói:
- Thôi kể nốt chuyện “Bắt cô trói cột” đi rồi bước sang chuyện chính, kẻo đêm khuya ngày rạng rồi!
- Ngày xưa, không biết đích là ở tỉnh Thái Nguyên hay là Vĩnh Yên, có một ông phú hộ có năm con trâu giao cho lực điền trông nom. Chiều về, anh cột năm con trâu vào năm cái cột, nhưng không hiểu vì một cái cột hư hay vì nguyên nhân gì khác, anh lại đóng thêm một cái cột thứ sáu. Chưa dùng tới thì ông phú hộ qua đời. Con gái ông ta thừa kế thấy sáu cái cột, yên trí là nhà có sáu con trâu, hỏi anh ta. Anh ta bảo tất cả có năm con trâu thôi, nhưng cô gái cứ khăng khăng là sáu.
Uất ức không biết bày tỏ oan tình với ai, anh lực điền nói phẫn với con gái chủ: “Bắt cô trói cột mới đủ sáu”. Rồi anh vào rừng treo cổ lên cành cây tự tử. Gặp giờ linh, anh hóa ra một con chim, bay hết rừng này sang rừng khác, miệng kêu ra rả “Bắt cô trói cột” nhắc lên cái ý anh nói phẫn trước khi bỏ đi vào rừng: “Bắt cô trói cột mới đủ sáu”.
Truyền rằng cô con gái ông phú hộ thấy anh lực điền biến mất, cũng bỏ đi tìm, rồi lạc ở trong rừng và hóa thành một giống chim cũng kêu “Năm trâu sáu cột” ra cái ý là tại sao sáu cột mà lại chỉ có năm trâu.
Bây giờ trong rừng rậm Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Yên, Phú Thọ, mỗi khi bóng hoàng hôn rủ xuống rừng cây, người ta lại nghe thấy tiếng chim kêu “Năm trâu sáu cột” và lập tức ngay sau đó có tiếng chim khác đáp “Bắt cô trói cột”. Và người ta bảo nhau rằng hai giống chim này lạ lắm, hễ con chim này kêu ở đầu rừng thì con chim kia lánh sang cuối rừng để suốt đời chúng không gặp nhau bao giờ.
Người anh em Rốc Lai kể chuyện đến đây xem chừng đã khô cuống họng, nhìn chung quanh xem có còn nước uống không. Anh “hừ” một tiếng, hứng nước mưa vào lòng bàn tay uống một ngụm lớn rồi quay trở vào ngồi vê điếu thuốc hút phì phào. Ba bốn người cùng giục một lúc:
- Gớm, chậm quá. Khuya rồi. Kể đến chuyện chính đi.
Hảo không nói gì, nhưng Dung thì nhìn đồng chí Rốc Lai không chớp mắt, nhưng nàng không giục, chỉ cười mà nói khẽ:
- Hẳn là đồng chí quên mất chuyện rồi hay sao mới trì chậm thế? Hay lại còn phải xếp đặt câu chuyện lại cho có lớp lang?
- Tôi sinh ở cao nguyên, biết thế nào thì nói thế, chớ còn biết bố cục, kết cấu một câu chuyện ra thế nào. Tôi chậm chỉ là vì tôi muốn hút hết mồi thuốc này chớ không có gì lạ hết. Nào, bây giờ bắt đầu câu chuyện huyền thoại về giống chim “Quý Ly, đền tội đi!” mà nó đang kêu the thé lên kia kìa!
Ờ, tại sao lại Quý Ly? Mà Quý Ly mắc cái tội gì mà giống chim này theo dõi đòi nợ gay gắt thế?
Truyền rằng từ khi Lê Quý Ly thao túng được vua Trần Thuận Tôn, Ly lấy lại họ Hồ lên làm phụ chánh. Lúc ấy kinh đô đã dời về Tây Giai. Cơ nghiệp nhà Trần hoàn toàn nằm ở trong tay họ Hồ. Bao nhiêu quyền hành của ông vua ba tuổi rút lại chỉ còn một chiếc ngai vàng khập khễnh với dăm ba viên quan sống để chờ chết, một mặt thì lo làm vừa lòng thiếu đế mà mặt khác thì lại sợ Quý Ly phật ý, tống khứ đi khỏi triều chính lúc nào không biết. Dân gian sống trong sự rên xiết của nhà nhiếp chánh độc tài. Vua có cũng như không. Bất cứ ai nói điều gì chống đối cũng có người rình nghe và bắt giữ. Dân sợ hãi như thuở Ngụy Tần giết học trò. Nghe thấy tiếng trống thu không của quân lính gióng lên, nhà nào nhà nấy đóng cửa kín mít, không dám bước ra ngoài, nhưng đêm đêm sợ quá không ngủ được, người người vẫn ngồi bó gối nhìn qua kẽ liếp trông lên ánh lửa chập chờn trên thành Tây Giai để nói với nhau: “Ấy, lính thay canh”, “Ấy, quan phụ chánh vừa ở triều về”, “Ấy, hôm nay ngựa ở trong thành tấp nập lạ thường thế nhỉ!”.
Quả đúng như vậy. Thành Tây Giai hôm đó nhộn nhịp khác thường một phần vì quan phụ chánh ở triều về chậm, mà mặt khác còn do quan thái bảo Trần Nguyên Hãn, một công thần nhà Trần mở tiệc ăn mừng sanh nhật trên một lầu cao ở cửa Đông.
Đến dự bữa tiệc này, người ta thấy một số lớn văn quan võ tướng của triều đại trước, trong số đó có thượng tướng quân Trần Khát Chân.
Tiệc rượu được nửa chừng, quan thái bảo nhìn lên mặt trăng sáng vằng vặc rồi hỏi mọi người:
- Đêm nay, chỉ có thể nói chuyện gió trăng ([1]), nhưng chúng ta sao lại không thể nhân đông đủ anh em tề tựu nói về công việc triều đình một chút? Các vị nghĩ thế nào về quốc tặc Hồ Quý Ly, một tên đại gian đại ác xúi bẩy vua Nghệ Tôn giết hại trung thần, rồi thừa cơ dân chúng bất bình, nhảy ra nắm hết quyền hành trong nước, ngoài mặt tự nhận là phụ chánh mà thực ra thì là cướp ngôi nhà Trần?
Không đợi cho Trần Nguyên Hãn nói hết lời, mọi người có mặt ở đấy nói cùng một lúc:
- Còn nghĩ thế nào nữa? Tất cả chúng tôi đây đều chung một lòng một dạ: tiêu diệt quân phản bội, đập tan chế độ độc tài, tạo một chế độ an lạc và hạnh phúc cho dân chúng. Chỉ hiềm chưa có dịp để hành động mà thôi. Nếu bây giờ có vị nào đứng ra khởi nghĩa, tiêu diệt họ Hồ, chúng tôi nguyện xin theo và thề sẽ trung thành cho đến chết.
Trần Nguyên Hãn gật đầu:
- Các vị nói đúng: chưa có dịp để hành động thật. Nhưng bây giờ cơ hội đã đến rồi, các vị có vui lòng thích huyết tuyên thệ để cùng bắt tay vào đại sự không?
Không có một người nào dùng dằng. Mâm huyết đặt lên bàn thờ, mọi người đều quỳ xuống lễ để cầu xin Trời, Đất phù hộ cho xong việc lớn. Bấy giờ, Phạm Ngưu Tất mới lên tiếng hỏi:
- Vừa rồi quan thái bảo nói rằng cơ hội đã đến rồi, chẳng biết ngài có thể cho chúng tôi biết được ít nhiều chăng?
Trần Nguyên Hãn nói:
- Các vị hẳn còn nhớ từ đời nhà Lý vẫn có hội uống máu ăn thề ở đền Đồng Cổ. Thề rằng: “Làm con không hiếu, làm tôi không trung thần thì Trời tru Đất diệt”.
“Đến đời nhà Trần, các tiên vương ta vẫn theo đúng lệ ấy mỗi năm lại mở hội ăn thề. Hồ Quý Ly cũng không làm trái lệ ấy, nhưng thay vì mở hội ở Đồng Cổ lại làm lễ ăn thề ở Đốn Sơn - một trái núi nhỏ ở làng Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
“Còn hai ngày nữa thì lễ ăn thề ở Đốn Sơn cử hành, Quý Ly thể nào cũng đến dự. Ta sẽ mời Quý Ly lên lầu Vọng Nguyệt của thượng tướng quân Trần Khát Chân để ngắm gương nga đúng tuổi. Và sau đấy… khỏi phải nói dài dòng, các vị cũng thừa biết ta phải xử sự ra sao…
Nói đến đây, Trần Nguyên Hãn cúi đầu thở dài, nói khẽ:
- Đại sự xếp đặt xong xuôi rồi, chỉ tiếc một điều ta thiếu mất một Kinh Kha.
Cùng một lúc có ba người đứng dậy:
- Thiếu một Kinh Kha sang Tần để hành thích Tần Thủy Hoàng, phải chăng quan thái bảo? Xin ngài chớ băn khoăn. Chúng tôi xin được vinh dự đó.
Nhìn ra thì người thứ nhất là Phạm Ngưu Tất, người thứ nhì là Phạm Tổ Thu, nhưng người thứ ba thì Trần Nguyên Hãn không biết là ai cả. Thấy thế, Trần Khát Chân bước ra thưa:
- Đây là cháu chúng tôi tên là Trần Đông Du. Nó còn nhỏ tuổi, nhưng có chí lớn, xin quan Thái bảo vui lòng soi xét…
Trần Nguyên Hãn xoa tay, nói với Đông Du:
- Cháu thật xứng đáng là con dòng cháu giống. - Đoạn, nhìn cả ba dũng sĩ mà nói tiếp - Ngày xưa, Kinh Kha một mình qua sông Dịch để sang nước Tần giết bạo chúa Thủy Hoàng, mà việc không thành. Bây giờ ta có ba dũng sĩ, chắc chắn mười phần là phải may mắn hơn Kinh Kha và việc lớn nhất định thập phần viên mãn.
Đúng ngày hội Đốn Sơn, Hồ Quý Ly ngồi xe bốn lọng vàng, mình mặc áo gấm màu bồ hoàng thêu chín con rồng, rầm rộ tiến về phía chân núi, trong tiếng kèn trống vang rền. Cờ xí bay rợp trời. Dân chúng ở bốn phương gần đó kéo nhau đi xem hội đông như nước chảy.
Đoàn cờ quạt tiến tới trước cửa phủ Lê thì thượng tướng Trần Khát Chân, thái bảo Trần Nguyên Hãn, mũ cao áo chùng đã cúi đầu đứng đón. Quý Ly bước xuống xe, đi vào phủ, hai bên là vệ sĩ theo hầu, gươm tuốt sáng lòa. Chiêng trống, đàn, nhạc vang lên làm rung chuyển cả đồi núi chung quanh. Cờ xí bay rợp cả trời. Trần Nguyên Hãn giơ tay cúi đầu mời quan phụ chánh lên lầu khai lễ.
Tỏ vẻ hài lòng, Quý Ly quay lại bảo các vệ sĩ:
- Cho các người túc trực ở dưới này. Ta là người cứu nước, đem tiến bộ lại cho nhân dân, đâu có phải là Thủy Hoàng khát máu làm cho oán khí bốc cao như cầu vồng, vì thế không thể có chuyện gì đáng tiếc đâu… Các người cứ yên tâm…
Tất cả lỗi lầm bắt đầu từ một hành động vụng về của thượng tướng Trần Khát Chân. Thay vì cùng lên lầu một lúc với Hồ Quý Ly và Trần Nguyên Hãn, Khát Chân lại dùng dằng ở dưới này để chờ đúng lúc ra hiệu cho ba dũng sĩ nhảy lên lầu hành động. Chính lúc ấy, Trần Khát Chân mới nhớ ra là còn thiếu Trần Đông Du. Chân ghé vào tai Tất hỏi nhỏ. Tất trả lời rất khẽ:
- Đông Du ốm nặng, không ngồi dậy được. Có người đến báo trước cho tôi.
Trần Khát Chân hỏi thêm:
- Sao tự nhiên lại ốm một cách đột ngột thế? Thực hay là giả?
Đương nghĩ như thế thì Phạm Ngưu Tất và Phạm Tổ Thu xăm xăm bước lên lầu. Khát Chân chặn lại, không cho lên vội vì chưa kịp nghĩ xem chỉ có hai người thì đã nên hành động hay chưa.
Bất ngờ hành động ấy lọt vào con mắt một vệ sĩ của Hồ Quý Ly tên là Nguyễn Khánh Nguyên. Y nhảy lên lầu trước, nói nhỏ vào tai Hồ. Thấy nét mặt sửng sốt của Nguyên và nghe thấy câu nói nhỏ, Hồ Quý Ly vùng đứng dậy xuống lầu. Gươm của các vệ sĩ lại tuốt lên sáng lòa. Quý Ly ra về thong thả. Trần Nguyên Hãn và Trần Khát Chân tiễn ra tận cửa trong khi ở chân lầu, Phạm Tổ Thu và Phạm Ngưu Tất tức quá ứa nước mắt ra chỉ vì Trần Khát Chân chần chừ ngăn lại không cho họ nhảy lên lầu hạ thủ Hồ Quý Ly.
Ngay đêm hôm đó, Phạm Tổ Thu và Phạm Ngưu Tất bị bọn tay sai của Hồ Quý Ly bắt giữ và tra tấn cực kỳ độc ác. Mặc dầu vậy, cả hai đều nhất định không khai một người nào hết. Tay sai của Hồ Quý Ly dụ dỗ:
- Chúng tao đã biết hết những kẻ chủ mưu trong vụ này rồi. Hai đứa mày chỉ là tay sai. Chúng tao đã trình lên ngài phụ chánh. Ngài truyền rằng nếu chúng mày khai thật tên tuổi mấy đứa chủ mưu, ngài sẽ xét lại và tha bổng cho chúng mày về với vợ con để sống lại cuộc đời lương thiện.
Về phần Quý Ly thì vẫn bình tĩnh, không tỏ vẻ nghi ngờ ai hết. Một hôm, Ly cho mời Trần Nguyên Hãn và Trần Khát Chân đến cung Nhân Thọ uống trà và bàn bạc về quốc sự.
Được nửa tuần trà, Quý Ly cười và hỏi Hãn và Chân:
- Theo ý hai ngài, những công việc sửa đổi về học hành, thi cử, về thuế đinh, thuế điền, có điểm nào làm cho dân chúng oán than không?
- Không.
- Còn nói chung về quốc sự thì sao?
- Bây giờ chúa thượng còn ít tuổi, việc quân quốc ở trong tay ngài phụ chánh, mọi công việc do ngài điều khiển cả, chúng tôi còn biết gì mà nói. Còn dân chúng oán than hay không thì điều đó chúng tôi không biết rõ, nhưng ta phải nhận có cái may là quân Chiêm phản trắc đã bị ta bắn chết. Giặc Chiêm Thành đã chấm dứt rồi. Vì thế chẳng có gì phải băn khoăn.
Quý Ly mỉm cười:
- Hai vị nói, tôi tin hết sức. Nhưng hai vị có nghĩ rằng dù sao tôi cũng cứ băn khoăn mãi về hôm hội ở Đốn Sơn. Ờ, nếu hôm ấy vệ sĩ của tôi không biết kịp thời âm mưu thích khách tôi, có lẽ bây giờ việc quân quốc đã thay đổi hẳn, hai vị nhỉ?
Khát Chân và Nguyên Hãn nhìn nhau không nói, Quý Ly tiếp:
- Hôm nay tôi mời hai vị đến đây là để hai vị cùng tôi nghe chính một người âm mưu sát hại tôi nói về công việc mà bọn họ đứng ra làm.
Vừa nói, Quý Ly vừa ngoắc tay cho vệ sĩ dẫn hai người vào quỳ ở trước cung Nhân Thọ.
Trần Nguyên Hãn đứng dậy:
- Hai người này mắc tội gì mà bị đeo đai sắt ở trên đầu vậy?
- Một người tên là Phạm Ngưu Tất, một người là Phạm Tổ Thu. Họ mắc tội gì ư? Xin hai ngài ráng đợi để nghe họ khai sẽ biết.
Thâm tâm Hồ Quý Ly tin rằng cả hai phạm nhân đó, theo lời dụ dỗ của các tay sai khuyển phệ sẽ nói lên hết cả sự thật và khai tên tuổi những người chủ mưu là Trần Nguyên Hãn và Trần Khát Chân, nhưng Quý Ly đã lầm. Xiết cái vòng đai sắt để cho nhiều đinh nhọn đâm chặt vào chung quanh đầu Phạm Tổ Thu và Phạm Ngưu Tất, vệ sĩ của Hồ Quý Ly vừa lớn tiếng hỏi: “Ai xui chúng mày làm điều bất nghĩa, phản phúc?” thì cả Tất và Thu nghiến răng, trừng mắt gạt bọn võ sĩ ra, xăm xăm chạy đến trước mặt Quý Ly như thể muốn ăn tươi nuốt sống, nhưng bọn vệ sĩ túc trực ở điện Nhân Thọ có mặt kịp thời giữ lại, đạp họ nằm xuống đất. Thu và Tất tự nhiên có một sức khỏe phi thường trỗi dậy nhiều lần và nhiều lần sắp xông được đến gần Quý Ly, nhưng sau bọn vệ sĩ thủ thắng, trói tay chân Thu và Tất lại. Cả hai người trợn mắt muốn đứt đuôi con mắt ra, nghiến răng trèo trẹo, chửi rủa Quý Ly tàn tệ:
- Việc chúng tao làm chí nhân chí nghĩa, quang minh chính đại, sao chúng bay dám bảo là bất nghĩa? Chúng tao giết mày là thể theo ý Trời, ý dân, sao lại dám bảo là phản bội? Dân muốn, trời muốn, cần gì ai xui? Mày cứ giết chúng tao đi, nhưng cái oán này còn lâu, chúng tao dù chết cũng vẫn cứ theo mày mà oán mãi.
Uất hận không để đâu cho hết, Hồ Quý Ly ra lệnh cho vệ sĩ xiết thêm nữa, mạnh hơn nữa vòng đai sắt ở trên đầu Thu, Tất. Máu trào ra, óc phun lênh láng cả cung Nhân Thọ. Cầm lòng không nổi, Trần Nguyên Hãn đứng dậy cầm cả bộ khay chén uống trà ném vào mặt Hồ Quý Ly và nói lớn:
- Tất cả công việc này đều do ta. Mày giết biết bao nhiêu công thần nhà Trần rồi, bây giờ còn sót lại vài dũng sĩ, mày lại tàn sát nốt. Trời nào tha tội mày. Oán hận chất chứa lên đầu mày, muôn ngàn năm không gột được.
Chưa nói hết lời, Trần Nguyên Hãn và cả Trần Khát Chân bị đánh ngã gục xuống đất và trói ghì cánh khỉ. Hai hôm sau, Hãn, Chân, Ngưu, Tất với tất cả những người đã thích huyết ăn thề ở trên lầu cửa Đông đều bị đem ra xử trảm. Tính ra có tới hơn bốn trăm người, cả đàn ông, đàn bà, cả ông già, con trẻ bị rụng đầu chuyến đó dưới lưỡi phạng bén như nước của tên đao phủ.
Quả không có ngờ đâu mấy lời nguyền của Phạm Tổ Thu, Phạm Ngưu Tất, Trần Nguyên Hãn và Trần Khát Chân thốt ra trước khi chết lại có thể linh đến thế: “Mày cứ giết chúng tao đi, nhưng cái oán này còn lâu, chúng tao dù chết cũng vẫn cứ theo mày mà oán mãi”… “Trời nào tha tội mày! Oán hận chất chứa lên đầu mày, muôn ngàn năm không gột được”.
Những người ở Tây Đô vùng Thanh Hóa lúc bấy giờ nhất quyết rằng quả thật là những người bị tàn sát đó chết rồi mà vẫn không ngớt oán hận Hồ Quý Ly. Họ hóa thành một giống chim rừng suốt ngày đêm kêu lên những tiếng thét làm cho người nghe thấy sởn gai ốc cùng mình, y như thể là cái lệnh: “Quý Ly, đền tội đi!”.
Đồn rằng ngay khi còn nắm quyền thế trong tay, thấy nói có giống chim kêu như thế, Quý Ly đã phái từng đoàn người đi thổi và gài bẫy để giết cho tiệt giống, nhưng họa hoằn lắm mới có một con bị hạ, mà lạ một điều là một con bị hạ thì lại có hàng trăm con khác sanh ra, khiến cho núi rừng mỗi ngày mỗi âm vang thêm tiếng chim kêu: “Quý Ly, đền tội đi!”.
Trong một gian nhà cỏ ở cách thành Tây Giai mười dặm, có một chàng trẻ tuổi đầu bịt khăn xanh ngồi giong một ngọn đèn, nghe tiếng chim kêu, thở dài…
Ấy là Trần Đông Du, một trong ba dũng sĩ đứng ra nhận cái sứ mạng hành thích Hồ Quý Ly, nhưng chẳng may mang bệnh trọng bất thần nên không có mặt ở Đốn Sơn vào cái ngày quyết định.
Biết là bọn dê chó của Ly cách gì cũng không tha mình, Đông Du vừa thuyên bệnh liền hóa trang làm một người sơn cước, đội nón tu lờ, mặc áo lá tơi, ngày ngày lên rừng hái củi, vừa đi vừa hát ngao mấy câu nói về “chữ khổ tiết khăng khăng giữ lấy” và “xin Trời Phật phù trì đừng bỏ, để thế gian xem rõ kẻo lầm”. Thổ dân cho rằng người tiều phu ấy điên gàn. Họ đều lầm cả vì dưới cái bề ngoài dở ngây dở dại đó, hàng đêm Đông Du vẫn ra những khe suối mài kiếm ở dưới trăng và uống sương tuyết để nuôi chí cho bền, đợi một ngày “sinh tử” diệt kẻ bạo tàn và rửa cho trắng cái nợ máu của các anh em đồng chí.
Hàng đêm, nghe thấy tiếng chim kêu “Quý Ly, đền tội đi!”. Đông Du cầu Trời khấn Phật cho cái ngày “quyết định” tới mau lẹ, và có nhiều đêm chàng đã mơ thấy chính mình bay lên trời, rồi hạ xuống giẫm nát cung Nhân Thọ, nắm lấy đầu Quý Ly lên như một vị thần cao lớn trượng phu xách một con chuột trên tay, đập đầu nó vào khe núi cho máu trào ra, óc lầy ra, trước sự chứng kiến của bao nhiêu oan hồn không siêu thoát được vì uất hận.
Nhưng ngày quyết định ấy chưa tới thì quân Minh ở phương Bắc, mượn cớ giúp Trần diệt Hồ, cử hai tướng Trương Phụ và Mộc Thanh sang đánh nước ta. Trước cái nạn xâm lăng của ngoại nhân tham tàn và khát máu, Hồ Quý Ly không cần chọn lựa đắn đo gì cả, kêu gọi toàn dân đoàn kết đứng lên chống xâm lăng, nhưng vì dân ta bị rên xiết dưới ách độc tài trong ba bốn năm trời còn mê hoảng chưa tỉnh hẳn nên liên tiếp thua nhiều trận.
Hồ Nguyên Trừng bị thua nhiều trận lớn ở sông Mộc Thâm. Nghe thấy thế trận mỗi ngày một nguy nan, Đông Du không trù trừ nữa, nhất định xuống núi, và gia nhập quân đội của Hồ chống trả oanh liệt quân Minh khát máu tanh lòng, giết hại nhân dân ta một cách cực kỳ mọi rợ. Lưỡi kiếm mài ở dưới trăng trong mấy năm trường quả là sắc bén gớm ghê và từng làm cho nhiều tướng nhà Minh thất điên bát đảo, nhưng con cọp dù mạnh đến chừng nào cũng khó đánh bại được lũ cầy bọn cáo. Da ngựa bọc thây chàng sau một trận đánh ác liệt vào một ngày tàn thu có gió heo may thổi vi vu như khóc ở trên dẫy lau cao.
Thành Đa Bang và Đông Hồ bị thất thủ. Nắm được ưu thế chiến trường, quân Minh tung thêm viện binh và đánh một đòn quyết liệt ở Hàm Tử Quan. Mặc dầu Quý Ly đã xuất toàn thủy lục quân ra quyết chiến, quân Hồ cũng bị đánh tơi bời. Và Quý Ly cùng con cháu đều bị bắt giải sang Tàu, trên con đường chạy về Hà Tĩnh.
Không ai biết Quý Ly bị quân Tàu làm hại cách nào và chết ra sao, nhưng cùng lúc Quý Ly bị bắt thì cái hồn không tiêu tan được của Đông Du cùng đồng chí thân cận của chàng cũng hóa ra một giống chim tựa như loài chim “Quý Ly, đền tội đi!”, nhưng kêu khác hẳn – kêu: “Tội gì? Tội gì cũng xóa!”.
Bây giờ, những người già lão đốt lửa lên sưởi, uống nước vặt ban đêm, nghe thấy tiếng chim đó kêu thét lên trong mông mênh im lặng, bực quá, vẫn hay nguyền rủa, còn con trẻ thì lấy đá ném đuổi chim đi. Là vì các vị già lão cho rằng con chim đó, hậu thân của Đông Du là một giống chim phản phúc. Theo họ, sở dĩ nó cứ kêu sa sả lên như thế là vì nó biết thiên hạ khinh khi nó nên nó tìm cách để than oan cho mình và cố cãi là mình không có tội gì - mà ví có tội chăng nữa thì chết tội gì cũng xóa.
Về sau có một người ngồi nghe tiếng rừng đêm, để ý tiếng chim này, nghiệm thấy rằng nó không đột nhiên kêu “Tội gì? Tội gì cũng xóa!” nhưng bao giờ cũng kêu ở góc rừng này khi nghe thấy ở góc rừng kia có tiếng kêu “Quý Ly, đền tội đi!”. Bèn đem câu chuyện ấy ra kể lại với những người già lão đốt lửa sưởi và uống nước vặt ban đêm, rồi quả quyết như sau:
- Tôi e rằng từ trước chúng ta đã bàn luận sai lầm về giống chim “Tội gì”, thưa các cụ.
- Ông thân oan cho nó? Vậy ông có cảm nghĩ ra sao, còn đợi gì mà chẳng nói?
- Một lời nói là một đọi máu. Ta phải rất thận trọng trong việc suy diễn tiếng kêu của giống chim “Tội gì” mới được. Theo thiển kiến, nó kêu lên như thế không phải là để nói lên việc Đông Du sau khi không làm được việc lớn đã muối mặt đi theo quốc tặc Hồ Quý Ly.
“Không, Đông Du, trong hậu thân của con chim kêu lên “Tội gì? Tội gì cũng xóa!” muốn nói lên một ý nghĩa lớn lao hơn thế: Nếu ở gầm trời này chỉ có nhà Hồ thì ta và họ Hồ đời đời kiếp kiếp không đội trời chung. Nhưng sự đời đâu lại chỉ đơn giản như thế. Bọn rợ phương Bắc, mang chiêu bài nhà Minh và gắn vào mồm danh nghĩa diệt Hồ để phò Trần, đã đổ quân sang tiêu diệt dân ta với ý đồ cướp nước ta để làm một nước chư hầu nô lệ. Hồ Quý Ly đã đứng ra đánh quân rợ phương Bắc xâm lăng để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ, như thế tội gì trước đây mà không xóa được? Giữ nước để cho dân không phải vục mặt cúi đầu trước ngoại nhân, như thế ta phải thờ, chứ sao?. “Tội gì… Tội gì cũng xóa!”, thưa các cụ, “con chim phản phúc” nó kêu lên như thế đấy, các cụ nghĩ thế nào?
Bắt đầu từ đêm ấy, người sơn cước lắng tai nghe thì quả thấy có tiếng kêu: “Quý Ly, đền tội đi!” ở đầu rừng thì liền khi đó ở cuối rừng có tiếng chim khác đáp theo: “Tội gì? Tội gì cũng xóa!”.
Ngoài kia là rừng âm u mịt mù. Có người ngồi đốt lửa sưởi ở trong này nghe rõ hai thứ tiếng chim kêu như thế, tự nhiên thấy chơi vơi, tự nhiên thấy bùi ngùi muốn khóc.
Ở đời, có những cái lạ như thế đấy: buồn khóc, vui cũng khóc, trái khóc, mà thấy phải cũng khóc luôn. “Quý Ly, đền tội đi!” - “Tội gì? Tội gì cũng xóa!”.
Chú thích:
([1]) Thử dạ duy khả đàm phong nguyệt.
Truyện thứ tư
NGƯỜI MẸ CỦA RỪNG
Người kể chuyện đêm thứ tư là một người bạn tôi quen biết từ lúc còn làm chung một tờ báo lậu với nhau ở thành. Ra ngoài kháng chiến, Kiếm - tên anh - vào bộ đội, làm chính trị viên trung đoàn quân Tây Tiến. Đến khi về, không hiểu gặp tai nạn gì ở dọc đường, anh bị sứt mất một nửa cái vành tai bên phải. Sau nửa tháng nghỉ ngơi, anh xung phong vào một đoàn văn nghệ, nhận chức vụ đi theo bộ đội để khích động tinh thần phấn đấu hoặc dưới hình thức học tập, hoặc dưới hình thức độc tấu, hoặc kể chuyện bổ ích cho quân đội nghe giải buồn. Đặc thù của anh là nhớ thơ, nhớ chuyện không chê vào đâu được. Đã có một lần, trước năm sáu ngàn binh sĩ đóng tại chân Đọi, Đệp trên có đường lên Chi Nê, anh đã nói liên chi hồ điệp trong sáu tiếng rưỡi đồng hồ về truyện Tam Quốc, kể từ lúc Quan Ngài cầm rượu của Tào Tháo dâng lên chưa uống, cưỡi ngựa lấy đầu Hoa Hùng mà trở về chén rượu vẫn hãy còn nóng nguyên, cho tới lúc Khổng Minh kết tội Ngụy Diên làm phản…
Nói như thế, hoàn toàn chỉ bằng vào trí nhớ, mà cứ nói vanh vách đâu ra đấy, kể từ lời tả cảnh của La Quán Chi cho đến những câu đối thoại của các nhân vật trong truyện, không sai mấy chút.
Chính Kiếm, nổi tiếng là một tay độc tấu vào cái cỡ của Dung, đã kể câu chuyện thứ tư mà anh kêu là chuyện “Người mẹ của rừng”.
Cho đến bây giờ người ta vẫn không hiểu tại sao giữa đời sống thần tiên đó lại mọc ra một mụ phù thủy xấu xa, nanh ác như Mu Lông, làm cho ai cũng kinh tởm và xa lánh. Có nhiều người đã muốn giết mụ ta đi vì cho rằng mụ đã làm xấu miền cao nguyên đẹp đẽ và yên ổn. Là vì người cao nguyên, hơn cả ai ai, quan niệm rằng giang sơn của họ còn đẹp hơn cả vườn Địa Đàng, đất nước của họ còn oai hùng hơn cả các đất nước trên thế gian gộp lại, còn dân của họ thì anh hùng, can đảm hơn cả các thần linh trên trời. Mỗi khi nhắc đến lịch sử oanh liệt đó, họ rầu rầu kể lại chuyện tổ tiên họ trước đây đã bắt thần Lửa trên trái đất nhốt vào trong hang đá làm cho ông thần này tức giận, liên kết với thần Sấm và thần Sét đốt cháy cả đất và nuốt cả đá làm cho giống người cao nguyên chết hết. Duy chỉ còn một ít người lúc ấy đi đánh cá ở ngoài khơi sống sót, mặc dầu gió dập sóng nhồi kinh khủng.
Những người đó lên được đất liền, đi mãi, đi lang thang mãi qua đèo, qua núi, vượt biển, vượt sông cực kỳ gian khổ. Mãi sau họ mới tới được một miền rừng núi mông mênh, không có người: họ định cư và lập tại vùng cao nguyên mới, đốt nương làm rẫy, khai phá, mở mang. Rồi chẳng bao lâu họ sinh sản đông đúc. Vì được trời đất và núi rừng che chở, lần lần họ chia ra thành nhiều bộ lạc, mỗi bộ lạc có một tù trưởng cầm đầu.
Bộ lạc Xê Đăng, bộ lạc có mụ phù thủy Mu Lông, do một tù trưởng đẹp như mặt trời tên là Bang quản trị. Dân chúng sống yên vui, no ấm, vẫn tự nhận là những người sung sướng nhất trần đời vì họ kết bạn với mặt trời, mặt trăng, với mây, với gió, với núi, với rừng; vì thế họ cho rằng mụ phù thủy Mu Lông đã làm xấu xa cả bộ lạc và bàn nhau giết chết mụ đi. Nhưng tù trưởng Bang cho rằng hành động như thế là trái với lẽ trời, rất có thể các thần linh trên trời sẽ nổi giận như thần Lửa ngày nào đốt chảy cả đất và nuốt cả đá vào họng, tiêu diệt người cao nguyên lần nữa.
Do đó, mặc dầu tất cả mọi người đều ghét bỏ, căm thù, mụ phù thủy Mu Lông vẫn cứ sống như thường. Nhưng không có ai dám ở chung với mụ. Mu Lông phải đánh một túp lều ra ở bên bờ một con suối cạn, làm bạn với ma quỷ và đi nhặt trái cây rừng để ăn.
Một hôm, đi đến một sườn núi cao chót vót, mụ bỗng gặp một cây gổi trĩu trịt những trái chín đỏ, ăn vào cứ ngọt lừ. Ăn cả một buổi mà chưa thấy đã, mụ tính trẩy hết cả trái xuống để đem về nhà ăn dần, nhưng sờ đến gùi ở lưng thì bỏ quên đâu mất rồi. Mụ bèn chặt một ít lau sậy gần đó đánh dấu cây gổi sây trái ấy. Hôm sau, mụ quay trở lại, định trẩy hết cả quả gổi xuống cho vào gùi thì mụ thét lên một tiếng rung chuyển cả núi đồi, cây cối. Thì ra ở trên cây có một con cù lần đang ngồi hái trái ăn thong thả.
Giống cù lần có một điểm đặc biệt mà ai đã đi rừng đều biết: nó hòa sắc lông nó vào với sắc cây, bám hai chân sau vào cành, thả đầu xuống lúc bình thường cũng như khi sanh sản, ngoài ra lúc kiếm ăn thì leo trèo lặng lẽ và ẩn mình rất tài tình vào cây cho nên những người tinh mắt nhất cũng khó mà nhận ra được chúng. Nhưng Mu Lông là một mụ phù thủy, đâu có phải là người thường, cho nên vừa nhìn lên cây thì nhận thấy liền con cù lần. Mụ hét lên:
- Bớ quân cù lần biếng nhác quỷ tha ma bắt không chết kia! Mày không trông thấy lau sậy ta cắm ở dưới gốc này sao? Cây gổi này của ta. Mày không được ăn trộm. Nếu mày không xéo ngay, ta sẽ kêu tất cả rắn chuối, hổ mang, hổ gầm đến cắn chết mày ngay bây giờ.
Ngồi vắt vẻo trên cây, con cù lần thong thả đáp:
- Rắn cắn chết tôi sao được, vì tôi bất tử kia mà!
- À, con ranh con nói bậy. Mày là ma quỷ đến trêu chọc tao, có phải thế không?
- Không đâu.
- Vậy sao mày lại nói được như người?
- Không có gì lạ hết. Là vì tôi là người.
- Mày càng nói, tao càng lạ lùng hết sức. Mày là người mà sao lại là con cù lần?
- Để tôi nói cho mụ nghe: tôi nguyên là một đứa con gái nhỏ sanh trong một gia đình khá giả. Cái tội của tôi là tươi và đẹp. Vì thế có nhiều người định bắt tôi về để nuôi và dùng vào những công việc gì đó mà tôi không biết. Tôi không chịu. Nhiều người ghét tôi. Sau có một mụ thầy mo, thừa lúc tôi đang đi tìm mật ong trên núi, bắt tôi đem về giấu kín ở trong nhà mụ, dụ dỗ tôi và dọa nạt tôi. Dọa nạt, tôi không sợ; mà dụ dỗ, tôi không nghe; mụ thầy mo tức giận bèn giết chết tôi lấy máu để uống và moi lòng để ăn. Tất cả thần linh của suối, của rừng, của núi, của sông, của cây, của cỏ đều nổi giận phừng phừng đập chết mụ. Mụ thầy mo biến thành một con cù lần. Phần tôi vì bị chết tức chết tưởi, hồn không tiêu tan được, cứ vất vưởng ở đầu khe ngọn suối, các vị thần linh thương tình bèn hóa phép cho tôi nhập vào con cù lần. Thành ra bây giờ con cù lần là mụ thầy mo dơ dáy mà cái hồn bên trong thì là tôi – một người con gái bé nhỏ sinh thời có một đôi chút nhan sắc từng làm cho nhiều người mơ ước.
- Vậy ư? Mày không nói ra thì nào tao có biết đâu. Tội nghiệp. Nhưng hỡi hỡi cù lần, không biết thì thôi, chớ đã biết thì khi nào tao lại chịu để cho mày sống cái kiếp khổ ải, đa truân như thế. Mày có biết rằng ta có thể làm sống lại cái thân hình của mày khi trước hay không? Mà tao đoán chắc mày lại còn có thể đẹp đẽ và duyên dáng hơn cả khi trước nữa.
Con cù lần trả lời, qua áng hồn trong trắng của cô gái ngây thơ:
- Nếu mụ cứu được tôi như thế, tôi cảm tạ mụ đời đời kiếp kiếp.
Rồi nó chuyền các cành cây xuống, quỳ trước mặt mụ Mu Lông và sụp lạy.
Từ đó con cù lần cặp kè với mụ phù thủy điêu ngoa, kéo dài ngày tháng buồn hiu trong túp lều cỏ ở bên con suối cạn.
Suốt ngày nó phải vào rừng hái trái đem về cho mụ Mu Lông, rồi làm đầu tắt mặt tối các công việc ở nhà, không có một lúc nào được nghỉ ngơi. Mà nào có được yên: mụ không ngớt miệng rủa xả nó, đánh đập nó, hành hạ nó, khi thì bắt nhịn ăn, khi thì hút máu làm ngải, lúc lại nung những thanh sắt đỏ nướng da thịt nó cháy xèo xèo để thưởng thức mùi thơm của thịt rừng.
Tuy nhiên, con cù lần cũng chẳng làm sao hết. Là vì nó bất tử: muốn hành hạ, đâm chém, thui đốt cách gì nó vẫn cứ trở lại lành mạnh như thường. Duy nó chỉ đau khổ một điểm là có một linh hồn người cho nên biết tủi nhục, đau buồn, tê tái. Song le, đã lỡ hứa với mụ phù thủy theo mụ về nhà hầu hạ, để mong có một ngày mụ làm phép cho mình trở lại hình thù xưa cũ, nên con cù lần cứ nhịn nhục ở hết ngày ấy sang tháng khác và chịu đủ mọi cực hình mà không chút rên la.
Nhưng tất cả mọi người ở trong bộ lạc đều biết chuyện con cù lần nô lệ bị mụ phù thủy Mu Lông dằn vặt và hành hạ. Họ bàn bạc với nhau các cách để cứu con cù lần. Một bữa kia, rình mụ Mu Lông đi rừng một mình, họ gài một cái bẫy trên con đường mụ đi qua và bắt sống mụ, trói lại bằng dây thừng ngũ sắc rồi đem đi bỏ ở một thung lũng rất xa xôi. Đoạn, họ trở về cái chòi của mụ vây kín chung quanh. Thì lạ chưa, mụ ở nhà này có một mình với con cù lần mà sao lại có tiếng chầy giã gạo? Họ bèn kêu:
- Bớ ai ở trong nhà ra mở cửa, nghe!
Quả là dân bộ lạc này chưa bao giờ lại có thể ngạc nhiên đến thế: con cù lần, giống in hệt tất cả các con cù lần khác trong rừng mà sao lại nói được tiếng người? Bởi vì nó nói như người thực:
- Có tôi đây, các người muốn hỏi gì?
- Ủa! Sao cù lần mà lại nói được tiếng người? Mày là người hay là ma quỷ?
- Sao tôi lại là ma quỷ? Tôi là người đây mà. Tôi là người như các người. Nhưng tôi mang cái hình thức cù lần, bởi số kiếp bắt phải như vậy và các thần linh muốn tôi như vậy.
- Mày nói, chúng tao tin phần nào. Nhưng hỡi hỡi cù lần, nếu mày muốn chúng ta hoàn toàn tin nơi mày, mày phải trả lời rành rọt, tại sao mày là người như chúng ta mà lại đi hầu hạ mụ Mu Lông là một mụ phù thủy làm bạn với tà ma, quỷ quái?
- Không có gì lạ hết: tôi là một đứa con gái phải mang hình xác một con cù lần. Mụ Mu Lông hứa với tôi sẽ làm phép cho tôi trở lại hình người ngày trước và tôi tin mụ nên tôi làm tôi tớ mụ.
- Mày có biết mụ là một con đàn bà dối trá, tráo trở và chỉ làm những điều ác đức không?
- Sao tôi lại không biết? Cứ trông những vết sẹo và những mảng lông bị cháy xém đây đủ biết. Nhưng tôi cứ phải ở với mụ vì nếu tôi bỏ đi thì không bao giờ trở lại làm người như trước được. Các thần linh ở trên trời dưới đất, ở đỉnh núi, lòng khe đều nghe thấy lời mụ nói với tôi.
Tất cả mọi người trong bộ lạc đều cười hô hố:
- Sao mày cả tin đến thế? Sao mày biết là thần linh nghe thấy những lời của mụ nói với mày?
Giữa lúc đó, bao nhiêu cây cối trong rừng rung chuyển ầm ầm, đá chạy cát bay lầm cả đồi cả núi, muông ngưng kêu, chim ngưng hót, hoa ngưng cười, suối ngưng reo. Và giữa thinh không có tiếng nói như truyền lịnh, như dỗ dành, như thủ thỉ mà lại như giận dữ của cái cây lớn nhất ở trên một ngọn đồi trông xuống rừng cây:
- Hỡi hỡi cù lần, khá lắng nghe lời truyền dạy: ngay giờ phút này đây, con phải rời bỏ cái lều của mụ phù thủy Mu Lông để về sinh sống ở bản với những người lương thiện. Còn các dân làng đương tề tựu ở nơi đây! Các con phải đối xử với cù lần cho phải đạo đồng bào - vì cù lần nó là người cùng giống với các con - các con không được nghe bất cứ ngoại nhân nào khác máu tanh lòng xúc xiểm nó và coi nó như thù nghịch. Một ngày rất gần đây cù lần sẽ được trở lại hình người xưa cũ, nó sẽ làm vinh dự cho các con và các con sẽ tôn thờ nó làm mẹ của rừng.
Con cù lần mà là mẹ của rừng! Ấy mới là một điều khó tin. Ấy mới là một điều vô lý, không có cách gì nghe được! Nhưng bởi vì thần linh đã truyền dạy như thế, toàn bộ lạc nhất nhất phải vâng lời, đem cù lần về sinh sống chung với họ. Thì ra con cù lần này nói như người, làm việc như người và cảm nghĩ như người thực, nhưng tại sao chung sống với họ bao nhiêu tuần trăng, bao nhiêu mùa thu, mà nó không hóa ra người? Bên cạnh đa số người vẫn mạnh lòng tin tưởng thần linh, có một bọn tung ra một luận cứ thấp kém và thiển cận: “Chúng ta đều bị lừa dối luôn. Con cù lần này không bao giờ có thể làm người được bởi vì nó có phải là cốt người đâu, mà chính cốt nó là cốt ma cốt quỷ. Không thế, sao từ khi nó về ở đây với chúng ta, thiên tai xảy ra liền liền, người chết nhiều gấp bội khi trước, đàn ông không còn hạ được ác thú dễ dàng, đàn bà chậm sanh đẻ mà thầy mo thì không được người ta mời đón như trước nữa?”.
Một số người nghe thấy thế cho là có lý, nổi xung, hùa lại bắt con cù lần trói bằng dây thừng ngũ sắc và đánh nó, bắt phải thú nhận nó là loài ma quỷ. Cù lần khăng khăng không chịu. Họ tra tấn ác liệt nữa, và bắt nó phải nhảy với một con chó đực để cho bao nhiêu tà thuật của nó mất thiêng. Nhưng giữa lúc đó, cây cối trong rừng lại chuyển mình răng rắc, sông núi lại gào thét lên ầm ầm, rồi từ thân cây lớn nhứt rừng vọng ra những lời rùng rợn, đầy một vẻ căm hờn giận dữ:
- Hỡi hỡi cù lần được thần linh che chở! Đồng bào của con đối xử với con tàn tệ như thế thì ở mãi với họ không được đâu. Con hãy tạm lánh mình đi nơi khác, thần linh sẽ chỉ đường cho con. Một ngày kia, những kẻ đối xử với con tàn tệ sẽ cảnh giác những hành động mà họ làm, họ sẽ hối hận về cái tình cốt nhục mà họ đã tạo thành ra tương tàn, đẫm máu.
Lập tức, bao nhiêu người gây ra tội lỗi đều sụp xuống đất và rập đầu lạy tiếng nói giữa thinh không, xin tha thứ, nhưng tiếng nói của thần đã im bặt từ bao giờ, không đáp lại lời van xin của họ. Họ òa lên khóc và nước mắt của họ rơi xuống thành một vũng, đến bây giờ hóa ra một con suối kêu là suối Đi Ong: “Thôi rồi, chúng ta không được thần linh tha thứ. Đời đời kiếp kiếp chúng ta sẽ mang lấy hậu quả không hay”. Những người không dính líu đến vụ hành hạ con cù lần uất giận những kẻ gây ra tội không để đâu cho hết, rập đầu lễ bốn phương trời và khẩn khoản xin con cù lần thương họ mà ở lại. Nhưng con cù lần nói:
- Tôi không nuôi một ý thù hận nào đối với các người, kể cả những người hành hạ tôi - vì các người là ruột thịt của tôi - mà ai lại thù ruột thịt để mong sống với ngoại nhân phù thủy bao giờ? Nhưng bởi vì các thần linh đã phán bảo tôi phải tạm lánh đi nơi khác ít lâu, tôi phải vâng lời không dám trái.
Nói đoạn, nó nhảy vào bóng tối và biến mất trong nháy mắt. Chim đêm vỗ cánh hát những bản ca khác ngày thường; suối róc rách một điệu nhạc êm êm kỳ lạ mà chưa ai nghe thấy, còn sao hôm thì sáng ngời như kim cương và con cù lần cứ theo ánh sáng của nó nhấp nháy ở trên cao mà tiến.
Buổi sáng hôm ấy, mặt trời mọc muộn hơn ngày thường. Cây đứng lặng yên, cỏ không xanh rợn, chim nhìn mây không hót, mây không tìm núi chuyện trò mà núi thì cũng chẳng nói với sông những lời hò hẹn. Trông ra phía chân trời, người ta thấy những đốm đỏ như những trái lửa sắp rơi xuống mặt đất hệ lụy này. Không ai bảo ai, người dân nào cũng sững sờ, như lo ngại điều gì và họ nhìn nhau không ai dám nói với ai một lời. Chính giữa lúc ấy, từ phía chân trời có một ông cụ già râu tóc bạc phơ như tuyết, mặc một áo dài đỏ, quần đỏ, đi đôi hài đỏ, chống một cây gậy “bồ nâu” đi như bay trên trời đến gặp Bang, người tù trưởng đẹp trai của bộ lạc Sê Đăng vỗ vào vai một cái. Liền khi đó, người tù trưởng cảm thấy nửa mê nửa tỉnh mà tai thì nghe thấy nửa hư nửa thực mấy lời của ông cụ nói rõ ràng:
- Một cô gái tuyết trinh từ trên cành rơi xuống, từ sương tuyết tạo nên, từ một bông hoa đẹp nhất và thơm tho nhất nở ra đang đi nhởn nha về phía nhà tù trưởng. Tù trưởng đi đón ngay người đẹp rước về làm vợ, sau này sẽ gặp hạnh phúc đề đa. Nhưng lão khuyên tù trưởng nên hành động kín đáo đừng để cho ai biết vì bông hoa sinh ra cô gái tuyết trinh đó vốn khiêm nhường, không thích sự ồn ào mà cũng không ưa sự phù hoa, rực rỡ.
Lập tức, tù trưởng Bang giả làm một người dân nghèo đội nón lá đi vào rừng săn bắn một mình. Mặt trời mọc chậm nhưng có vẻ sáng hơn mọi ngày và đi chào các bông hoa niềm nở hơn, lá lại reo và suối lại chảy, chim lại hót và gió vuốt ve cỏ thơm mọc ở chân đồi trìu mến hơn, tình tứ hơn. Giữa khi đó, con cù lần vượt vách đá, vượt rừng cây đến một trái đồi xanh biêng biếc có những giống chim từa tựa như loài sếu đang vùng vẫy trên một dòng suối bạc lượn ở bên trái đồi. Cù lần nhìn lên trời thấy sao hôm đã biến, mặt trời đỏ rực như một hòn ngọc lưu ly, bèn ngừng lại một giây nhìn xuống suối. Nước suối xanh như trái đào và cảm thấy thơm ngào ngạt. Cù lần mon men lại gần định uống nước rồi đi nữa, nhưng vừa cúi xuống để vốc nước lên miệng thì nó trông thấy hiện lên hình bóng dữ dằn của con mụ phù thủy Mu Lông. Ủa, tại sao Mu Lông lại ở đây? Thì ra cái suối này là giang sơn cẩm tú của Sét Sa, chúa tể của loài rắn, thần linh của các hang, động, sông ngòi. Sét Sa nằm trong một hốc đá, ít khi ra ngoài, nhưng không một người nào xâm phạm được đến giang sơn của nó vì từ ngọn suối nó có không biết bao nhiêu là ma quỷ chằn tinh phụ trách trông nom, bảo vệ. Những ma quỷ chằn tinh đó hầu hết đã làm nhiều tội ác bị thần linh đày đọa đến đây đền tội, bây giờ nếu còn làm điều ác trở lại thì Sét Sa có bổn phận nghiêm trị vì con rắn chúa đó nổi tiếng là mạnh và có nhiều phép lạ khả dĩ chống lại được tất cả các tà thuật của chằn tinh, ma quỷ. Vì suối của nó được canh phòng cẩn mật như thế, Sét Sa yên trí ở trong hốc đá để rửa châu báu vàng bạc hàng ngày theo dòng nước trôi đến đấy. Đêm có trăng, nó ngồi gọt ngọc biếc để tiếp thu khí âm, đêm mưa bão nó mài kim cương trên những hòn đá phẳng lì mà thác nước chảy ào ào xuống ngày đêm không nghỉ, còn những đêm nóng nực có gió nam thổi về thì nó nhìn lên mây nhuộm các thứ đá quý theo đúng màu thay đổi của mây lúc xanh, lúc đỏ, lúc vàng, lúc tím… Hình như các báu vật đó, Sét Sa dâng lên Trời để chia cho các thần linh dưới đất và trên sóng nước.
Khi ấy, Sét Sa đương ngắm nghía một viên ngọc biếc vừa mới mài xong lúc đêm khuya, thì bỗng nghe thấy một tiếng kêu thảm thiết, làm ầm ĩ cả một hốc đá thường là êm ả. Thì ra con mụ phù thủy Mu Lông bị dân bộ lạc Sê Đăng bắt mang đi bị đày ra canh suối và tình cờ hôm ấy nó bắt được cù lần giữa lúc cù lần cúi đầu xuống vốc nước lên tay để uống. Vì giận quá mà quên mất hết cả nghiêm lệnh của rắn chúa Sét Sa, mụ Mu Lông nắm lấy gáy con cù lần, giơ cao lên trời, la lớn:
- Ha ha, con cù lần nô lệ! Mày có nhớ đã hứa làm tôi tớ cho ta không? Mà tại sao mày dám trốn nhà đến đây làm gì? Mày thoát khỏi tay ta sao được?
Nói đoạn, mụ Mu Lông bẻ đầu nó, lấy gậy có mấu nhọn đánh vào mình nó. Con cù lần kêu khóc thảm thiết và hết lời van xin:
- Mẹ ơi, con có bao giờ dám có ý định trốn đâu. Đấy là các thần linh dạy bảo con như thế, chớ quả thực không phải tự con muốn vậy.
Mụ Mu Lông đập hai chân xuống đất kêu đành đạch mà cái mõm nhọn thì rít lên như tiếng còi:
- Thần linh! Thần linh bảo với mày như thế?
Mụ nhổ một bãi quết trầu đỏ lòm xuống nước suối trong veo và tiếp:
- Mày thấy chưa? Thần linh của mày tao coi như là bãi cốt trầu tao nhổ! Mày mở mắt ra mà nhìn!
Vừa nói đến đó, mụ Mu Lông bỗng thấy chớp lóe ra trước mặt mụ, xanh lè lè và tiếng sấm nổ ầm ầm bên tai như muôn vạn tiếng đồng, tiếng sắt. Thì ra mụ Mu Lông trong lúc nghe tiếng nói của tức giận và độc ác đã quên khuấy luôn luật lệ của núi rừng cấm bất cứ người nào làm nhơ bẩn những dòng nước trong. Cùng lúc sấm chớp nổi lên, mưa đổ xuống ào ào như thác lũ, nước ở các dòng sông dòng suối cuồn cuộn bốc lên cao, vút lên trời rồi đổ xuống mặt đất như muốn cuốn hết cả cây cối và người vật ra biển cả. Rồi rắn chúa hiện ra giữa trận hồng thủy đó, gớm ghê, rùng rợn và ác liệt không bút nào tả xiết. Miệng nó đỏ lòm phóng ra và tiết nên những tiếng ầm ầm như trống trận, hai mắt nó xanh lè động đậy như hai hạt minh châu khổng lồ, lưỡi nó thè ra còn đuôi thì vẫy sang trái, vẫy sang phải mà mỗi khi vẫy như thế thì lại nổi lên một làn gió lạnh tê xuống rủn ốc. Mụ Mu Lông ngã lăn ra chết giấc bên bờ suối, còn con cù lần thì nằm trốn vào trong một hốc cây gần đó, không dám thở.
Văng vẳng bên tai nó bỗng nghe thấy những lời quát tháo ở trên thinh không vọng tới:
- Hỡi hỡi cù lần được thần linh che chở, mụ phù thủy độc ác không thể làm hại con được đâu. Con đừng sợ… Hôm nay, mụ đã tới số rồi, mụ phải đền các tội ác mụ đã làm từ trước tới nay. Rắn chúa Sét Sa! Khá nghe lời ta, dìm mụ xuống đáy vực sâu để cho ức ức triệu triệu rắn giun rút ruột mụ, ức ức triệu triệu con đỉa hút máu mụ, ức ức triệu triệu con giòi rỉa da thịt mụ.
Tức thì Sét Sa há cái miệng đỏ lòm tiết ra những tiếng ầm ầm như trống trận, ngoạm lấy mụ Mu Lông và nuốt một hơi vào bụng.
Thần Núi bảo Sét Sa:
- Nhớ trả hồn cho mụ ta.
Thần Cây cũng lên tiếng:
- Còn mụ thầy mo đã hút máu moi lòng cô gái tuyết trinh bị thần linh bắt hóa ra con cù lần cũng nhớ trả hồn cho mụ ta nghe.
- Nhưng hiện mụ thầy mo bây giờ ở đâu?
- Mụ mang hình xác con cù lần nằm kia kìa. Hãy nuốt nó đi nhưng nhớ phải trả hồn cho cô gái tuyết trinh, đừng để mất đi mà mang tội.
Sét Sa vâng lời nuốt xong mụ phù thủy, nuốt nốt con cù lần. Thần Núi lấy hồn của mụ phù thủy và mụ thầy mo biến thành hai con kên kên độc ác suốt đời đi gieo rắc tang tóc cho khắp nơi, gây chiến với tất cả các loài chim nhỏ bé và chuyên sống bằng xác chết ở các bãi tha ma, chiến trường.
Còn lại hồn của cô gái tuyết trinh thì thần Cây nhận lấy mang đi trong trời hồng hồng sáng trong trong, mang đi qua không biết bao nhiêu sông, bao nhiêu núi, mang đi trên không biết bao nhiêu gió, bao nhiêu mây để rồi một sáng mờ sương kia ngừng lại và cho nhập vào một loài cây đẹp nhất trong các loài cây, có hoa thơm nhất trong các loài hoa.
Hoa ấy nguyên thủy được kêu là Ri A Đa. Bông hoa Ri A Đa đầu tiên nở ra lưng chừng trời, tiết ra một hương thơm ngào ngạt xuống tận dưới đất, làm cho tất cả thần linh ở cả trên trời dưới đất đều sửng sốt hỏi nhau sao lại có một hương gì ngát thế, ngạt ngào đến thế.
Chư thần chắp tay lại vái van Trời, Phật đã ban cho núi rừng có một thứ kỳ hoa dị thảo, rồi tất cả cùng đem phép thuật rừng của họ biến Ri A Đa thành ra một vị thần diễm kiều nhất trần đời. Chư thần lấy nhụy cái hoa của Ri A Đa nở ở lưng chừng trời biến ra hình một cô gái đẹp như sao băng, lấy hai giọt sương long lanh ở sông Ngân Hà làm thành hai mắt, lấy tiếng nước suối Ôn Tuyền như thủ thỉ, như chuyện trò làm giọng nói, lấy hai nụ hoa mẫu đơn tiên làm thành đôi vú, lấy một bông tiễn xuân la hàm tiếu làm thành miệng và lấy cỏ sương bồ mọc ở vườn hoa của nhà trời làm thành tóc dài và đen mướt như nhung.
Từ hư không, chư thần đã dùng ánh sáng, hoa lá, sương tuyết và cây cỏ đẹp nhất trần đời tạo cho hoa Ri A Đa thành một cô gái kiều diễm nhất trần đời và đặt tên cho nàng là Phong Lan.
Phong Lan hé mắt nhìn ra rừng xanh và mỉm cười như nghe thấy lảnh lót tiếng đàn sáo của chư thần đánh dấu ngày nàng bước vào đời. Nàng bước vào đời như một cánh lá rơi, đi trên cỏ nhẹ như một con nai vô tội, thỉnh thoảng dừng lại soi bóng mình dưới nước trong trong.
Cỏ ở dưới chân nàng thì thào bảo nhau: “Sao gót nàng tiên đẹp thế?”. Con chim thước hỏi cây thanh tùng: “Người mới bước qua đây sao ngào ngạt một mùi hương quyến rũ thế?”. Và mây nói với núi: “Không ghen sao được hở mình, bởi vì tóc nàng ấy óng ả, mươn mướt và đẹp trội hơn em nhiều quá”.
Giữa lúc chim chóc, cây cỏ, hoa lá, mây núi đang thì thào ca ngợi sắc đẹp não nùng của Phong Lan thì một chàng trai trẻ, mang cung nỏ, đội nón lá, đi thong dong đến trước mặt nàng:
- Hỡi cô gái đẹp kia, nàng là ai mà đi một mình trên dải đất của ta?
- Tôi là Phong Lan, con gái của Ri A Đa, đi tới đây là do các thần linh chỉ bảo, chứ không phải tự ý tôi. Còn người là ai mà cũng đi một mình như vậy?
- Tôi là Bang, tù trưởng ở đất này.
- Thật vậy ư? Trong lúc tôi từ hoa nở ra, tôi có nghe thấy nói văng vẳng sẽ gặp một người tù trưởng trẻ tuổi và đẹp trai.
- Tôi cũng được một ông thần đến truyền cho đi ngay để đón một cô gái tuyết trinh từ trên cành cây rơi xuống, từ sương tuyết tạo nên, từ một bông hoa đẹp nhất và thơm nhất thụ hưởng ánh sáng mặt trời nở ra.
Đến xế chiều hôm ấy, đôi trai gái về đến nhà tù trưởng. Và họ chung sống với nhau như một loài chim cùng cánh, chiều chiều nhìn xuống giang sơn cẩm tú của mình có những cánh đồng cày bừa bằng phẳng, có những cái gò đen những trâu dê, có những ngôi làng xanh đỏ ở ven đồi, đi từ trên xuống dưới lần lần từng bậc như nấc thang, có những dòng suối nước chuyền qua ống tre dài có buộc dây đồng, dây bạc, có cả những bãi cỏ xanh mướt như tơ đầy những con bò đỏ như những quả cà dái dê chín tới…
Họ sinh rất nhiều con cái. Các bộ lạc cao nguyên sau này tôn tù trưởng Bang làm tổ, còn Phong Lan thì được thờ làm “Mẹ của dân miền núi”. Và cũng vì thế, bây giờ, hoa phong lan được coi là mẹ của các loài hoa, đẹp thanh khiết, đẹp não nùng, đẹp tê mê, đẹp hơn cả hoa Ka u là thứ hoa mà dân cao nguyên dòng sang trọng vẫn thêu vào cái áo tổ truyền của Ai Ê Đê từ trên trời thả xuống đất cho con cháu.
Chú thích:
([1]) Theo bản dịch của Ngô Tất Tố.
Nguồn: Bảy đêm huyền thoại. Truyện Ký. Văn học, Sài Gòn, in lần đầu 1972. Rút từ Vũ Bằng Toàn tập, tập 2. Nhà văn Triệu Xuân sưu tầm, biên soạn, giới thiệu. NXB Văn học, 2006.
Bắt đầu viết tháng Giêng năm Nhâm Tý
Xong ngày rằm tháng Bảy cùng năm
Vũ Bằng
Theo https://trieuxuan.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Phạm Duy Nghĩa trong bản đồ truyện ngắn Việt Với tìm tòi bứt phá ở mạch truyện luận đề xã hội và tâm linh kỳ ảo, bằng lối viết gai ...