Thứ Năm, 15 tháng 4, 2021

Tản Đà ký ức thiên truyện - Vầng sao Khuê trên bầu trời văn chương đất Việt

Tản Đà ký ức thiên truyện
Vầng sao Khuê trên bầu trời văn chương đất Việt

Trong văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một vầng sao Khuê. Dù rằng cuộc đời của ông vừa tới tuổi “tri thiên mệnh” đã ra đi; dù rằng thời gian để ông say sưa với rượu, thù tạc với bạn bè, giang hồ phiêu lãng trong Nam ngoài Bắc nhiều hơn bên bàn viết; thế nhưng, cùng với cá tính vô cùng đặc biệt, ông đã kịp để lại một sự nghiệp khá phong phú, đa dạng cả về số lượng lẫn chất lượng tác phẩm. Thi sĩ tài năng ấy là Tản Đà.
I. Ngôi sao Khuê ấy đã vạch một đường bay, để rồi lốm đóm, và rồi cả một giải Ngân Hà sao cháy rực lấp lánh. Nhà thi sĩ, nhà văn hóa tiền đạo ấy thực sự là người có công đầu tiên khai mở một thời đại cho thơ ca Việt Nam, một thời đại văn học Việt Nam chuyển hướng mạnh mẽ.
Trăm năm thơ túi, rượu vò
Nghìn năm thi sĩ, tửu đồ là ai?
Con người ấy đã bao lần tự giới thiệu mình, khi thì tách mình ra, mình gọi mình và bắt người ta gọi mình là “bác”.
Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hương thời có, cửa nhà thời không
Nửa đời nam, bắc, tây, đông
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi sông biển, thiếu gì gió trăng.
Trời sinh ra bác Tản Đà. 
Quê hương thời có, cửa nhà thời không.   
(Ảnh: Pinterest.com)
Vị Khuê tinh bị đày xuống hạ giới?
Trong “Giấc mộng con II” của Tản Đà, Đông Phương Sóc - một vị tiên bị đày xuống hạ giới và là nhân vật trong truyện - đã giới thiệu Tản Đà là “vị Khuê tinh” vì “dám làm thơ liệng sang cung Quảng hàn bị Cuội bắt đem trình Thượng Đế. Ngài giận mới đày ông xuống hạ giới”. Vậy mà vẫn thơ phú có tình ý với Hằng Nga nên Thượng Đế “tặng thêm cái hạn đày ông hai năm nữa”.
Nhưng, Trời đã giải thích trong niềm tin yêu độ lượng cha con:
Trời rằng: “Không phải là Trời đày
Trời định sai con một việc này
Là việc “Thiên lương” của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay”
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Sửu (tức 25/5/1889) quê ở làng Khuê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là Sơn Đà, Ba Vì, Hà Tây). Quê hương núi Tản Viên, sông Đà Giang này đã để lại trong thơ Tản Đà nhiều vần hay:
Mạch nước sông Đà tim róc rách
Ngàn năm non Tản mắt lơ mơ
(Ngày xuân thơ với rượu)
Nước rợn sông Đà con cá nhảy
Mây trùm non Tản cái diều bay.
(Còn chơi)
Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình
Dòng dõi thế phiệt trâm anh
Gia đình Tản Đà là dòng dõi thế phiệt trâm anh. Ông tổ sáu đời làm quan to; Phương Đình Nguyễn Văn Siêu là người cùng họ; nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế là anh rể và là người mở đường cho Tản Đà vào nghiệp văn chương:
Phụ thân Tản Đà là Nguyễn Danh Kế, đậu cử nhân, làm quan triều Huế. Tản Đà là con bà vợ ba và con trai út trong 11 người con trai của gia đình.
Phụ mẫu nhà thơ là Nhữ Thị Nhiêm, vốn là cô đào hát nổi tiếng ở Nam Định có hồn thơ rất mực tài hoa.
Phụ mẫu ông vốn là cô đào hát tài hoa có tiếng. 
(Ảnh minh họa: Wikipedia.org)
Tản Đà ba tuổi để tang cha; lên bốn mẹ bất hòa với gia đình bỏ nhà trở lại nghề đào hát. Tản Đà ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Tài Tích - đã đậu phó bảng, từng làm tri huyện Vụ Bản (Nam Định), làm đốc học Hà Nội.
Thuở nhỏ Tản Đà học chữ Nho, theo văn chương cử nghiệp. Năm 1907 Tản Đà học trường Quy Thức, nơi dạy quốc ngữ, Pháp văn và những tri thức văn hóa u Tây.
Những ngày tiếp xúc với “tân thư”
Từ năm 1911, Tản Đà tiếp xúc được với “tân thư” và làm quen với các nhà tư tưởng lớn phương Tây qua sách dịch của Trung Quốc. Từ 1916 đến 1920 Tản Đà lần lượt xuất bản:
– Khối tình con I (1916)
– Khối tình con II (1918)
– Khối tình con bản chính, Khối tình con bản phụ (1918)
– Đài gương, Đàn bà Tàu, Thần tiền, Lên sáu (1919)
– Lên tám (1920)
– Tuồng “Tây Thi”, “Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai”
Năm 1920, nhà thơ đi chơi Huế, Đà Nẵng. Lúc về ông viết “Thề non nước”. Năm 1912, Tản Đà làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh. Báo ra được 12 số thì Tản Đà từ chức về Sơn Tây. Năm 1922, ông thành lập Tản Đà thư điểm sau hợp với Nghiêm Hàm thành Tản Đà tu thư cục. Từ năm 1921 đến năm 1925, Tản Đà xuất bản:
– Còn chơi (1921)
– Tản Đà tùng văn (1922)
– Chuyện thế gian I và II (1923)
– Trần ai tri kỷ, Quốc sử huấn mông (1924)
– Nhuận sắc tuồng “Truyện tỳ bà” của Đoàn Tư Thuật và dịch sách Đại học (1922), Kinh thi (1924).
Năm 1925 có phong trào ân xá Phan Bội Châu; 1926 có phong trào để tang Phan Châu Trinh, Tản Đà đã “đầu đơn chính phủ Tạp chí An Nam”, để viết báo mong lập sự nghiệp “có bóng mây hơi nước đến dân xã”. Từ ngày ra đời (1-7-1926) cho đến năm 1933, An Nam tạp chí èo uột, dở khóc dở cười, đứt thôi lại nối đến bốn lần và chết hẳn. Tờ báo ấy cũng phong vận như chủ báo. Sau khi thất bại ở Hà Nội, Nam Định, Vinh, Tản Đà có ý đưa An Nam tạp chí vào Sài Gòn nhưng không xin được phép nên ở lại cùng Ngô Tất Tố viết phụ trương cho Đông Pháp thời báo của Diệp Văn Kỳ.
Từ năm 1926 đến năm 1933 Tản Đà xuất bản:
Giấc mộng con II (1932)
Giấc mộng lớn (1932)
Khối tình con III (1932)
Năm 1934, “Tản Đà xuân sắc” đã không còn là một tin xuân cho độc giả đang hướng sự chú ý sang Thơ mới và Tự lực văn đoàn. Vì miếng cơm, Tản Đà phải quảng cáo chữa văn, quảng cáo cái nghề xem bói:
Còn như tiền đặt quẻ
Nhiều: năm, ít: có ba
Ít nhiều tùy ở khách
Hậu bạc kể chi mà!
Dịch thơ Đường
Nhà nguyên súy trên thi đàn một thời giờ đây dịch thơ Đường cho báo “Ngày nay”, dịch Liêu trai chí dị, chú giải Truyền Kiều… để mưu sinh thường nhật. Vì nợ tiền nhà, bị chủ đuổi, Tản Đà cùng “đoàn thê tử yếu và đuối”, về sống ở phố Cầu Mới (Ngã Tư Sở - Hà Nội).
Sau mấy ngày “ăn nhờ ở đậu” nhà bạn ở Phủ Quốc, Tản Đà ngất ngưởng trên chiếc xe kéo về Hà Nội. Giữa trưa hè bức sốt, tửu đồ đã nhảy xuống đầm lội bơi thích thú. Về nhà, Tản Đà ngã bệnh, không có tiền mời “đốc tờ”, ngày thứ năm ông trút linh hồn “môi mím khít lại … có nét mặt răn rúm của người chết khó khăn… Ở đầu giường bệnh vẫn cái chồng sách cũ nát trên cái ghế mọt thay làm án thư bên cái chồng sách bừa bãi đây đó mấy trang bản thảo… Và lẻ loi ở góc bàn vẫn cái hũ rượu cáp giới ngày nọ”.
Tản Đà ngồi xe kéo để trở về 
Hà Nội. (Ảnh: Loicaviet.com)
Trong bài “Bây giờ đây, khi cái nắp quan tài đã đậy lại” Lưu Trọng Lư kể: “… một buổi sáng (năm 1932) tôi xin vào “yết kiến” nhà thi sĩ mà bấy giờ tôi coi như một vị sứ giời sai xuống, hay bị đày xuống cõi trần gian để làm một anh nhà Nho ngông, một thi sĩ nghèo, một ông chủ bút phiêu bạt (…).
Tôi đến lần thứ nhất vào khoảng tám giờ sáng. Tên “tiểu đồng” cho tôi biết rằng: ông chủ nhiệm đương ngủ. Mười giờ tôi đã trở lại (…): thi sĩ vẫn chưa dậy. Mười một giờ, tôi lại đến: nhà Nho vẫn còn giấc. Tôi đành tự hẹn mình đến chiều. Hai giờ rưỡi tôi đến: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đã dậy và mới bắt đầu ngồi vào chiếu rượu. Một giờ sau, tôi trở lại nghĩ rằng bữa cơm của một kẻ “trần gian” lâu lắm cũng đến một giờ là cùng.
Bốn giờ tôi bước vào thì hình như tiên sinh vừa hạ… đũa. Tôi có cảm giác rằng tôi bây giờ là kẻ sứ giả của nhà Hán, đã vượt qua sáu châu ba đảo mới tìm thấy người tình của nhà vua. Chốc nữa, Dương Quý Phi sẽ phất tay áo bước ra nơi mái tây để tiếp tôi.
(…) Hình như thi nhân vẫn còn giữ cái vẻ cách biệt của một Tiên ông đối với kẻ phàm trần… (….) Tiên sinh là hạng người làm cho đời trở nên cầu kỳ, trở nên phiền toái trong những cái sự phát triển hằng ngày của nó (…).
Họ Lưu đã nhận xét: (…) Con người Nguyễn Khắc Hiếu chính là cái tác phẩm tuyệt xảo, một bài thơ hay nhất trong sự nghiệp của Tản Đà. Một người (…) có quyền trao cái tên mình lại cho hậu thế”.
Đọc những kỷ niệm về Tản Đà của các nhà văn và những người đương thời, ta có thể hình dung về một con người có cá tính rất lạ lùng, vì thế mà nền văn học Việt Nam có một nhà văn phong cách không giống ai. Trong cái xã hội hiện đại mà tốc độ, nhịp điệu cuộc sống đang quay nhanh đến chóng mặt thì Tản Đà vẫn sống thích thảng như những ẩn cư ngao du sơn thủy: muốn ăn, ngủ; muốn đi chơi hay làm việc đều tùy hứng, tùy thích.
Ăn uống thì rất cầu kỳ. Tản Đà thường tự làm lấy để cùng bạn bè nhâm nhi. Ông cho rằng để có một bữa ăn nó còn khó hơn công việc bếp núc văn chương. Đọc “Tôi và Tản Đà” của Nguyễn Văn Phúc, ta như nghe tiếng ngâm sang sảng:
Nghề ăn cũng lắm công phu
Làng ăn ta phải biết cho đủ mùi.
Và Tản Đà giảng giải: “Ăn uống tinh vi và khó khăn… ngoài những nhà tửu đồ có cốt cách, đã mấy ai là người biết thưởng thức cách ăn uống cho có nghệ thuật. Tôi cho nghệ thuật ăn uống cũng khó như nghệ thuật viết văn. Mà lại có khi còn hơn nữa” (…) “Tôi cần phải làm một quyển sách nhỏ nói rõ về sự ăn và đặt tên sách là: “Nghề ăn”. (…) Muốn ăn ngon đồ ăn phải ngon, giờ ăn phải ngon, chỗ ngồi phải ngon, người cùng ăn phải ngon…”
Đinh Hùng kể lại câu chuyện về lũ môn sinh chữ Hán làm cá cho thầy Tản Đà nhắm rượu mà thiếu mất bộ lòng. Suốt đêm thầy trò đã đốt đuốc đề tìm cho kỳ được bộ lòng cá trên bãi cỏ bờ sông vắng cho món “dấm cá có hồn”, để bữa cá không “thất niêm, thất luật”.
Còn về rượu thì Tản Đà là một tửu đồ. Ông cho rằng “Cái lệ của tạo nhân mặc khách, đã ăn tất phải uống, mà uống tất nhiên phải uống rượu, không có rượu thì thực là… “cầm thú chi tình”. Cái hồi in “An Nam tạp chí” ở Vinh, mới lên tàu ở Hàng Cỏ, Tản Đà đã say. Có lúc, tàu đưa ông vào tận Quảng Nam ông mới biết cần quay trở lại. Con ma men Tản Đà đã làm cho những người soát vé xe lửa phải biết tiếng. Họ không đánh thức và cũng chẳng kiểm vé ông bởi biết đó là Nguyễn Khắc Hiếu.
Khái Hưng rất khâm phục tài nói chuyện của Tản Đà. Ông phát hiện ra cái bình để trước mặt nhà thơ khi diễn thuyết “đựng đầy rượu ngang” và cho rằng: “Tản Đà chỉ có duyên trong khi say; không hơi men, Tản Đà buồn rầu, lạnh lẽo và chua chát”.
Có lần Tản Đà làm khách một nhà giàu ở Hòn Gai. Nhân mọi người đi vắng, ông hì hục đào nền gỡ gạch bông ra. Về nhà thấy vậy, chủ nhà hốt hoảng thì ông hồn nhiên: “Hôm nay trời mát, cuốc tí đất rồi nhắn người đưa húng Láng đến trồng”.
II. Nghiệp giai nhân
Tản Đà tự nhận mình là người vướng nợ giai nhân từ lúc lên năm!
Có lẽ cũng bởi ông chính là vị Khuê tinh đã tạo tội nghiệp “dám làm thơ liệng sang cung Quảng hàn bị chú Cuội bắt đem trình Thượng Đế. Ngài giận mới đày ông xuống hạ giới”.
Ông có ít nhất 4 mối tình. Tuyệt vọng với cô gái họ Đỗ, Tản Đà lên núi Tiêu Sơn (Hương Tích) làm thơ tế Chiêu Quân, tịch cốc chỉ ăn hoa quả rồi mấy tháng ăn thịt. Vừa về Nam Định với anh, chàng trai 24 tuổi đã say đắm một cô gái 13 tuổi. Sau đó về Vĩnh Yên, chàng lại yêu cô con gái tri phủ Vĩnh Tường. Tham gia dàn dựng vở “Tây Thi”, Tản Đà phải lòng cô đào Liên theo kiểu tính yêu nghệ sĩ dưới ánh đèn sân khấu….
Thực ra, những mối tình của Tản Đà cho cảm giác những đường nét nhẹ nhàng của một áng mây một làn gió thu khẽ lay động mặt hồ. Một kiểu tài tử giai nhân, một kiểu thoáng thơm của bông lài bông lý. Nó trong khiết như một khúc Thư Cưu trong Kinh Thi đã được Khổng Tử san định!.
(Ảnh: Pinterest.com)
Nghiệp văn chương
Còn tại sao Tản Đà vướng vào nghiệp văn chương? Cứ như là một sự ngẫu nhiên bất chợt. Cứ như một phút giây gặp gỡ mà thành trăm năm của câu chuyện vợ chồng?
Nếu đúng như những gì Tản Đà kể thì đây không đơn giản là ngẫu nhiên. Trên đời này không có gì ngẫu nhiên. Ông Cao Xanh đã an bài cho nhân vật này một sứ mệnh.
Không hiểu tự lúc nào, người Việt chúng ta có một suy nghĩ mặc định: Những vĩ nhân, những anh hùng cái thế như Lý Thường Kiệt ,Trần Hưng Đạo ,Quang Trung… mới xứng được đời sau tôn trọng. Những người tin vào số mệnh thì nghĩ rằng, đó là những người được lịch sử an bài. Và những nhân vật góp mặt vào diện mạo văn hóa của dân tộc hoặc nhân loại cũng đều là có an bài.
Hãy nghe Tản Đà kể việc ông sáng tác văn chương và vướng vào cái nghiệp này:
“Nguyên đã ba hôm không ăn, trong bụng hư không, lại một phen say rượu mê ly, thành ra từ đấy về sau, khác hẳn từ đấy về trước”. Và cũng từ đấy “sinh ra làm nhiều thơ văn quốc văn”.
Vâng, Tản Đà như một cái đập chứa ở cuối nguồn của thi văn và văn hóa dân tộc. Hình như ông được an bài để tích lũy những giá trị truyền thống đã một thời vang bóng. Những giá trị ấy như một hồ nước trong tinh khiết. Rồi nó ẩn trong rừng sâu đại ngàn xa lánh sinh hoạt của con người phồn hoa đô thị mang văn hóa mới của phương Tây.
Để đến một lúc nào đó, khi cái hồ nước mới nhiều uế tạp, bao nhiêu người cần “Ta về ta tắm ao ta”. Lúc ấy ta về với Tản Đà, về với truyền thông ông cha..
Trên cơ bản, thơ văn Tản Đà vẫn là thơ văn truyền thống của dân gian, của những Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến… và ông cũng gần hơn với Nguyễn Công Trứ…
Tản Đà có phải là “ngông”?
Nói đến Tản Đà là người ta nghĩ ngay tới chữ “Ngông” - Cái phong cách này còn ảnh hưởng tới một nhà văn vốn tâm giao với Tản Đà là Nguyễn Tuân sau này.
Thực ra, cái “ngông” của Tản Đà hiểu trong chiều sâu xa là thái độ không chịu nhập cuộc, là sự dị ứng với xã hội kim tiền để tự hào với cái nghèo vật chất và giàu có về tinh thần. “Những nỗi chật vật của đời sống hằng ngày, những cảnh đời éo le thường phô bày ra trước mắt không từng làm bợn được linh hồn cao khiết của tiên sinh”.
(Ảnh: Pinterest.com)
Khi gặp đám dân đói rách trên tàu thủy, Tản Đà bỏ tiền chu cấp về Hải Phòng còn mời họ chụp ảnh lưu niệm; khi thăm Cửa Sót (Hà Tĩnh) ông bỏ tiền nhờ người dựng lều cho đám trẻ bơ vơ có chỗ che nắng mưa.
Ông khảng khái trả lời sứ giả viên quan họ Vi nếu muốn đòi tên dân đen Nguyễn Khắc Hiếu lên tỉnh có trát sẽ đi ngay, còn nếu muốn mời nhà thơ Tản Đà do có bụng liên tài thì phải đến túp lều cỏ của thi sĩ. Ngô Tất Tố đã kể lại buổi tiệc rượu ở Nam Kỳ, trong cơn say, Tản Đà đuổi bắt bạn như đứa trẻ thơ khiến Trần Quỳ phải cau mày: “Làm cái gì thế? Người ta coi như cinema kia kìa”.
Tản Đà trả lời: “Ông phải biết cái thằng trong cinema nó không biết người ngoài là ai”. Chính họ Ngô đã kết thúc bài viết của mình: “Nhất sinh tư tưởng của ông Tản Đà có thể thu vào câu chuyện đó. Chính ông tự coi ông là một người bóng trong phim. Quốc dân, xã hội, mà đến cả thế giới nữa, đều là những người ngoài. Như thế, đối với ông, sự yêu ghét chê khen chỉ là sự thừa”.
Tản Đà, nhà văn của hai thế kỷ, gạch nối giữa nhà Nho tài tử và nhà thơ lãng mạn
Tản Đà là con người, là nhà văn của hai thế kỷ. Đó là gạch nối giữa nhà Nho tài tử và nhà thơ lãng mạn. Nhà Nho ấy vẫn ăn vận áo the đen, quần cháo lòng, uống rượu quê, vẫn giữ lối sống ung dung nhàn hạ, vẫn thường lui về ngôi nhà quê hương núi Tản sông Đà. Thế nhưng phần lớn cuộc đời ông thuê nhà ở thành thị, hì hục viết văn, viết báo để sinh nhai, tất bật chạy vào Nam ra Bắc để lo chuyện viết lách.
Tản Đà muốn mình là “Á đông Khổng phu tử chi đồ đệ” nhưng cũng rất kính trọng và muốn học Mạnh Đức Thư Cưu, Lư Thoa (Montesquieu; Rouseau) để xây dựng một sự nghiệp triết học An Nam có ích cho đời.
Tản Đà có gia đình, có cá tính rất riêng. Nhưng cơ bản để có một Tản Đà cho dòng văn học Việt Nam thì ông chính là con đẻ của buổi giao thời.
Thơ văn Tản Đà ra đời “giữa sự mong đợi của cả một thế hệ. Những bản đàn du dương như “khối tình” được đặc biệt hoan nghênh. Người ta mong đợi một người có thế tả được những nỗi chán nản, những điều ước vọng của mình, có thể ru mình trong giấc mộng triền miên - Thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu ra đời”. (Lê Thanh - Thi sĩ Tản Đà, 1939).
Sung mãn văn chương và vị trí quan trọng trên thi đàn
Đặt trong tình hình nền văn học nói chung và thơ văn quốc ngữ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX nói riêng, ta thấy Tản Đà là một hiện tượng độc đáo. Giữa cái lác đác, thưa thớt của những tác phẩm và tác giả mờ nhạt, Tản Đà thật lực lưỡng và vạm vỡ. Ông cho ra đời trên dưới 30 tác phẩm với tư cách một nhà văn hóa phong phú và đa dạng. Ông quan tâm tới triết học, sử học, đạo đức, báo chí, ông viết văn xuôi (với tùy bút, tiểu thuyết, kịch, chú giải, bình chú…) ông dạo những cung đàn réo rắt báo hiệu trào lưu lãng mạn bằng những vần thơ bất hủ.
Tản đà. (Ảnh: Blogspot.com)
Vâng! Nói đến Tản Đà là người ta nghĩ ngay tới chân giá trị của một thi sĩ lớn. Ông làm tổ được trong lòng người đọc đương thời và cho đến hôm nay là nhờ ở những áng thơ trác tuyệt. “Dù viết văn gì, bao giờ Tản Đà cũng là một thi sĩ. Chỉ riêng thơ của ông là có thể làm cho ông có một địa vị quan trọng trên thi đàn”. (Vũ Ngọc Phan - Nhà văn hiện đại - Quyển II) “Giá trị chính xác của Tản Đà (…) phải tìm trong thơ của ông vì ông có cốt cách của thi sĩ, ưa cảm xúc, ưa mơ mộng hơn là lý luận”. Tuy “Văn tài của Tản Đà phát tiết nhiều nhất trong thơ ông; nhưng bản lĩnh Tản Đà thì văn xuôi của ông mới nói được hết”. Xuân Diệu đã lưu ý chúng ta như vậy.
Nói đến Tản Đà là nói tới sứ mạng tiên phong của người giải quyết nhu cầu canh tân văn học đầu thế kỷ. Tản Đà đã đưa cái “tôi” thành thực, không xấu hổ đặt giữa trang văn để nói lên tiên hầu trời hay chu du vào các xứ sở xa lạ trong quả địa cầu hay trên thiên đình. Tản Đà công khai tự thú về mình với những lo toan mưu sinh, với những tình yêu mây gió… Thơ Tản Đà tạo nên cuộc đối thoại đầy thân tình giữa nhà thơ và độc giả, mọi người thuộc thơ ông có lẽ là vì học đến được với tri kỷ, tri âm, đến được với chính mình. Cái tôi của Tản Đà nó ngông mà đáng yêu là bởi vì nó được quyền thành thực và mở cho người đọc nhiều đam mê khát vọng. Công chúng số đông thời Tản Đà đang có nhu cầu bức bách đòi giải phóng cá nhân như là một nhu cầu phát triển, họ đang chờ đợi nhà thơ của lòng mình và Tản Đà đã xuất hiện, gánh vác sứ mệnh ấy:
Còn trời còn đất còn non nước
Còn có văn chương bán phố phường
“Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ văn Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái “tôi”.”
Bao nhiêu lần tác giả đã công khai xưng danh mình:
Sông Đà núi Tản đúc nên ai
Trần thế xưa nay được mấy người
Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc
Thanh cao phô trắng một nhành mai
Có khi ông lên thiên đình ngâm thơ cho Trời nghe và xưng cái ngã, cái Tôi của mình. Tuy có bẩm, có thưa nhưng đối thoại thật thân tình:
Dạ bẩm lạy Trời; con xin thưa:
Con tên Khắc Hiếu, họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu, về Địa Cầu
Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt
(Ảnh: Pinterest.com)
Và đây là lời Tản Đà gửi bác Mai Lâm vì làm thơ khóc ông, tưởng ông đã chết. Có thể tìm được dấu đẳng thức giữa Tản Đà - cái Tôi và người tri âm kia:
Đà chưa cạn, Tản chưa mòn
Còn ai thi sĩ, lại còn tri âm
Nực cười cho bác Mai Lâm
Thương nhau chi sớm. Mà lầm khóc nhau
Nếu tính 17 năm cây đại thụ Tản Đà cho ra nhiều hoa quả ngọt ngào nhất (1916-1932) thì tác phẩm gây tiếng vang đầu tiên là “Giấc mộng I” (1917), để rồi sau bao nhiêu mộng nữa ông xuất bản “Giấc mộng lớn” (1932). Tản Đà đã coi mộng là cái mộng con, đời người mới là cái mộng lớn - “Xử thế nhược đại mộng”. Mộng chỉ khác nhau dài ngắn mà thôi.
Hai tập du ký “Giấc mộng con” của Tản Đà say sưa kể chuyện đi khắp thế gian, gặp hết người này xứ nọ; Để rồi sau đó ông lên thiên đình tri âm với những danh nhân, mỹ nữ từng vang bóng một thời trên trần gian, trong quá khứ như Nguyễn Trãi, Quý Phi, Tây Thi…
Những giấc mộng của Tản Đà đều là phản ứng của ông với cuộc đời, với văn chương; là để cho tâm hồn lãng mạn đưa ông thoát ly khỏi thế giới ô trọc, cũng là những cuộc gặp gỡ có thật ở một không gian khác.
Những gì Tản Đà viết vẫn là những giá trị vĩnh hằng bất biến của văn hóa xưa. Ngày ấy người ta cho nó là lạc hậu, mê tín, không phát triển.
Phật Gia, Đạo Gia từ ngàn năm nay chẳng nói tới thế giới sắc không? Vì thế Tam Giới này con người sống trong Mê lầm cứ dùng Danh, Lợi, Tình để mang ách vào cổ mình. Gánh càng nặng, con đường thiên lý dằng dặc của sinh mệnh càng mệt mỏi, cuộc luân hồi hay giải thoát càng khó đi.
Phật Gia, Đạo Gia từ ngàn năm nay chẳng 
nói tới thế giới sắc không? (Ảnh: Pinterest.com)
Tản Đà chính là sống hai thế giới, thế giới trần gian và thế giới của Phật Đạo Thần
Trên cơ bản Tản Đà đang sống với Lão Trang, với Phật Gia.
Vì thế, Tản Đà cho rằng “đời là một chỗ bắt người ta phải ở”. Đến những thế giới khác, những con người tầm cỡ, để sống để đối thoại là sự thực ở một không gian khác kia, là nửa kia cuộc sống của ông.
Người ta nói, thế giới thơ văn của ông là lãng mạn, là hoàn toàn tưởng tượng, song, thực ra đó là một thế giới mà ông có được những trải nghiệm qua nhiều con đường, nên ông tin rất thật.
Vì thế, ông mới tìm được “cái tự do trong sạch, cái độc lập thanh nhàn”, mới thấy “cảnh bao la bát ngát” của núi tuyết, sông Ngân… ông mới có tài văn chương để ngao du “một giải nước trong không đáy, hai thuyền con nhè nhẹ cùng bơi”.
Chỉ trong thế giới mộng (nhưng thực ra lại là thế giới thực ở một chiều không gian khác), Tản Đà mới thấy người ta tôn trọng cái thiên tài của mình: Thiên tài của những vần thơ “quỷ khốc thần kinh”, thiên tài của nhà văn kiêm triết học, luôn lo toan gánh vác quả địa cầu, luôn mong thực hiện cái sứ mạng gieo rắc đạo Thiên Lương mà trời trao cho.
Ở báo “Nam Phong” (1918), Phạm Quỳnh đã mỉa mai “… như chim bằng trong sách Trang Tử. Vùn vụt lại vùn vụt, mà chẳng biết đầu đuôi xuôi ngược cớ ra làm sao. Nhưng lạ thay! Đã đi thế sao không quá bước lên cung mây hỏi thăm chú Cuội!”.
Thực ra, cái điều Phạm Quỳnh bực tức lại chính là cái đóng góp của Tản Đà. Ông đã dám thành thực, dám trình bày khát vọng và cảm xúc thực của mình không che giấu; chia sẻ những điều mà người ta cho là chỉ cõi mộng mơ.
Họ Phạm sẽ rất ngạc nhiên nếu như đọc “Giấc mộng con II” Tản Đà đã giữ lời hứa. Lần này ông lên thiên đình thật! Ông gặp chú Cuội, ông cùng Đông Phương Sóc đi thăm cung Quảng Hàn.
Và có một lần, lúc canh ba, dậy đun nước uống, đi tung tăng ra sân gặp tiên mời về trời để đọc thơ cho Trời nghe:
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè tươi nhấp giọng càng tốt hơi.
“Văn đã giàu thay lại lắm lối”
khiến cho:
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
Anh gánh lên đây bán chợ Trời.
(Ảnh: Pinterest.com)
Và chính Trời cũng phê:
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển
Êm như gió thoảng, tinh như sương
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết”
Chỉ có trong mộng nhà thơ Hầu Trời trích tiên ấy mới có được vần thơ tiên cách. Sự lưu đày nhà thơ tiên cách ấy dưới cõi thế là cốt đem cho đời cái đạo Thiên Lương. Với mộng, Tản Đà “đi qua cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX với tấm lòng bình thản”.

III. Chỉ có trong mộng nhà thơ Hầu Trời trích tiên ấy mới có được vần thơ tiên cách. Sự lưu đày nhà thơ tiên cách ấy dưới cõi thế là cốt đem cho đời cái đạo Thiên Lương. Với mộng, Tản Đà “đi qua cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX với tấm lòng bình thản”.
Với mộng, ông làm nên những câu thơ tuyệt xướng. Trong bức thư gửi cho Chu Kiều Oanh hay nhất vẫn là bài thơ man mác:
Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi,
Tỉnh rồi, lại muốn mộng mà chơi.
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng,
Tiếc mộng bao nhiêu dễ ngán đời.
Những lúc canh gà ba cốc rượu,
Nào khi cánh điệp bốn phương giời?
Tìm đâu cho thấy người trong mộng!
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai!
(Giấc mộng con, trang 168, Hà Nội 1941)
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng. 
Tiếc mộng bao nhiêu dễ ngán đời. (Ảnh: Pinterest.com)
Nói đến Tản Đà, người ta nghĩ ngay tới chữ ngông. Ông ngông trong cuộc đời và ngông trong thơ văn mình. Tản Đà ngông nhưng không ngông nghênh gàn quái. Cũng như mộng, Tản Đà dùng cái ngông của mình để vỗ mặt cái xã hội nhố nhăng mà ông sống. Kẻ trích tiên, phường Trang Tử ấy sống trong xã hội tư bản pha phong kiến đầy “nước đục bụi trong” muốn giữ được nhân cách, muốn có bản lĩnh của cái Tôi ắt phải phản ứng đối kháng. Tản Đà thoát khỏi khuôn sáo công thức của xã hội Mê bằng “ngông”. Và những sáng tạo độc đáo của ông cũng được gọi là ngông.
Hai tập du ký “Giấc mộng con I” và II đã kể lại hai cuộc đi chơi ở không gian khác. Lần chơi thứ nhất, Phạm Quỳnh - vốn là người đọc nhiều văn Pháp u đã “cảnh báo” Tản Đà. Và nhà văn đã “cảnh cáo” lại bằng cuộc chơi thứ hai: lên thiên đình gặp giai nhân tài tử lừng danh quá khứ. Tản Đà “đem cái thân thể mình làm chuyện cho người đời xem”. (Phạm Quỳnh) trong thời ấy như vậy đã là ngông, đã là sự thách thức những khuôn mẫu cũ.
Trong bài “Hầu Trời”, Tản Đà thẳng thắn nói tội mình dõng dạc không ấp úng:
Thiên Tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình Thượng Đế trông
“Bẩm quả, có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới về tội ngông”
Tản Đà viết thư cầu hôn con gái Trời:
Xem thơ Trời cũng bật cười
Cười cho hạ giới có người oái ăm!
Khách hà nhân giả?
Cớ làm sao suồng sã dám đưa thơ?
Và rồi Trời từ chối, kẻ thích tên vẫn bị lưu đày:
Mở then mây giăng giã bức hồng tiên
Mời khách hãy ngồi yên trong đời tục
Không đỗ, người yêu lên xe hoa “Cử, tú không mà rể cũng không”. Tản Đà “Dạm bán áo đoạn”:
Thơ lung chất nặng, tay buồn rỗi
Bán áo mà mua giấy viết ngông.
Ấy vậy mà ở cái tuổi 49, viết thơ Tết “Tiễn ông Công lên chầu trời”, con người của những bi kịch và dang dở ấy đã làm ta ứa nước mắt:
Khi làm chủ bút, lúc viết mướn,
Hai chục năm dư cảnh khốn cùng.
Ngày xanh như ngựa, đầu xanh bạc,
Chán cả giang hồ, hết cả ngông.
Những năm cuối đời, Tản Đà cũng rất thành thực quảng cáo trên báo là mình sẽ lấy số Hà Lạc cho ai cần. Tú Mỡ cũng có những bài viết về “các tài” này của Tản Đà:
Nào hãy đến Tản Đà Cốc Tử (…)
Dù thầy có tán giăng tán cuội
Nghe nhà thơ lời nói hoa văn
Nhất khi rượu đã khề khà
Tán đâu ra đấy đậm đà có duyên
Thời khách mất đồng tiền đặt quẻ
Cũng vui tai và sẽ vừa lòng
Nhưng xin thầy chớ “nói ngông”
Tản Đà viết thơ đáp lại với câu kết chua chát:
Tuổi già nay tớ không ngông
Nhất khi rượu đã khề khà. Tán đâu ra đấy 
đậm đà có duyên. (Ảnh: Pinterest.com)
Xuân Diệu bình: “Có những thứ hương hoa rừng hãy còn đăng đắng giữa mùi hương, đặc sắc ở cái đắng ấy; bây giò hương mất cái đắng ấy rồi”, Tản Đà không ngông không còn là cá tính, bản lĩnh của nhà thơ núi Tản sông Đà nữa.
Có lẽ cái mộng và cái ngông kia cần có say để biểu hiện thành cá tính, phong cách. Tản Đà tuyên bố một lẽ sống không thể thiếu rượu và thơ:
Trời đất sinh ta rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
Tản Đà nhìn thấy thánh hiền trong mình, khi say:
Được lúc gần say, say hẳn lấy
Say thời, say vậy để mà điên
Tửu trung tự hữu thánh hiền
Nếu ngông có bộ, có lối thì say:
Say lắm vẻ: say mê, say mệt, say nhừ, say tít
Trong làng say ai biết nhất ai say?
(Say)
Chỉ có như vậy mới đáng là thần tiên: “Tửu trung ưng thị thần tiên”.
Thực ra, có lúc Tản Đà hiểu: “Say sưa nghĩ cũng hư đời”. Nhưng đã say là phải đi hết cuộc chơi, phải sống thật trọn vẹn trong say. Tản Đà đã tạo nên một lối say ngạo mạn thách thức:
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười?
(Lại say)
Say để nhìn thấy đất trời cũng say, quả là Tản Đà muốn hoàn tất một cuộc rong chơi ngất ngưởng trong vũ trụ.
Dù là say, mộng hay ngông, Tản Đà đều dùng nó để tiêu sầu bởi:
Cảnh đời gió gió mưa mưa
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say, thơ lại khơi buồn
Nên thơ, rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình
Khi say quên cả cái hình phù du.
(Thơ rượu)
Xuân Diệu cho rằng “Chính cái sầu trong thơ Tản Đà là đầu mối quỷ thuật chính yếu dụ người ta (…) Tản Đà đưa ra lừng lững hiện diện một cái sầu, đặt lên trang sách, tức là trước xã hội. “Diễn tả cái tình man mác là sở trường của Tản Đà (…) Tản Đà đã đưa đến một điệu tâm tình, một giọng tâm hông mới mẻ.
Trong văn xuôi: “Từ độ sầu đến nay. Ngày cũng có lúc sầu, đêm cũng có lúc sầu, mưa dầm lá rụng mà sầu trăng trong gió mát mà càng sầu; một mình tịch mịch mà sầu; nằm vắt tay lên trán mà sầu, đem thơ văn ngâm vịnh mà càng sầu. Sầu không có mối, chém sao cho đứt; sầu không có khối, đập sao cho tan”. (Giải sầu, 1918)
Bốn phương mây nước, người đôi ngả. 
Hai chữ tương tư, một gánh sầu. (Ảnh: Pinterest.com)
Người ta cho rằng “Tản Đà cũng là người bật thức ra cái mầm của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam thế kỷ XX”.
Con người cá nhân phương Đông bị ước thúc bởi Đạo Đức, nó thuần khiết. Chẳng phải Lý Bạch, Đỗ Phủ là khác nhau? Nguyễn Trãi, Nguyễn Du là khác nhau? Tản Đà lại là một nhân vật khác với những người khác. Cái cá nhân của ông độc đáo nhưng vẫn nằm trong hệ thống của Đạo Đức. Hẳn nhiên, ảnh hưởng của thời đại có tác động nhất định. Cái Tôi của ông đậm đặc chất phong tình, ông công nhiên nói về tình yêu của mình một cách đắm say. Nhưng nhất định có khoảng cách với các nhà thơ Mới như Xuân Diệu chẳng hạn. Cái Tình vốn là đặc trưng của Tam Giới. Xấu tốt của con người cũng từ nó mà ra. Cái Tình ở trong Đạo Đức nó duy hộ sự tồn tại của nhân loại. Tản Đà mang cái Tình rất tao nhã của thi nhân tài tử. Đọc thơ ông, có cái say đắm nhưng là cái đắm say của Kim Kiều; có cái tao nhã của thơ Đường trinh bạch cao thượng như hoa mai:
“Tương tư nhất dạ mai hoa nở
Bước tới song tiền, ngỡ là ai…”
Có lẽ tuổi trẻ bây giờ sống gấp, không theo chuẩn mực có Đạo Đức chế ước đọc Thề Non Nước của Tản Đà thấy lan man, nhàm chán, thi liệu không mới mẻ.
Nhưng sẽ có ngày, Đạo Đức được phục sinh, nhịp sống chậm trở lại, ta đọc để thấy Tình Yêu này mới thực sự là tiêu chuẩn của quan hệ lứa đôi:
“Nước non nặng một nhời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ nhời nguyện nước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Xương mai một nắm hao gầy. Tóc mây 
một mái đã đầy tuyết sương. (Ảnh: Pinterest.com)
Giời tây chiếu bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non!
Dẫu rằng sông cạn đá mòn
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non xanh đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi!
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi nhời thề”
Trong “Giấc mộng con I”, Tản Đà đã gặp và yêu Chu Kiều Oanh - một Việt Kiều ở Pháp nhưng lại rất quý văn hóa quê nhà. Ở Giấc mộng con II, ông lại gặp người yêu xưa và rồi Tản Đà đặt bà hát, Chiêu Quân đàn, Quý Phi múa, Tây Thi thì hát… thật là vương đế với yến oanh xưa cũng không bằng.
Tản Đà không chỉ yêu người, thất tình vì người mà còn phải kêu lên quặn lòng:
Vì ai cho tớ phải lênh đênh
Nặng lắm ai ơi, một gánh tình
Tản Đà tế Chiêu Quân với những lời thống thiết:
Trời Nam thằng kiết là tôi
Chùa Tiên đất khách khóc người bên Ngô
Cô với tôi, tôi với cô
Trước sân lễ bạc có mồ nào đây?
(Bản dịch Nguyễn Thiện Kế)
(Ảnh: Pinterest.com)
Tản Đà viết một loạt bài thơ gửi những tình nhân:
Thư gửi tình nhân có quen biết
Thư gửi tình nhân không quen biết
Thư trách người tình nhân không quen biết
Thư lại trách người tình nhân không quen biết
Chỉ cần đọc qua tên những tác phẩm ấy, ta cũng thấy tình yêu của Tàn Đà nó mở rộng biên giới trái tim ông đến mức nào. Cái giọng phân tình ân ái này đã trở thành một nét phong cách cố hữu của Tản Đà.
“Nhớ bạn sông Thương” toàn là những lời đằm thắm tha thiết, khắc khoải nhớ nhung “yêu nhau thì họa chữ thương mấy vần”, cứ y như trai gái bị “chia loan rẽ thúy”. Thực ra đây là thơ Tản Đà gửi bạn thơ, bạn rượu của mình.
Bài “Thề non nước” ở trên là tấm lòng son sắt của nhà thơ với nước non. Thế nhưng hình tượng đôi trai gái thề nguyền làm cho bài thơ vẫn tràn ngập giọng điệu phong tình ân ái. Giọng điệu này nhiều lúc nó bộc lộ cái tươi mát, trẻ trung khỏe khoắn trong tình yêu như của dân gian, hay của Hồ Xuân Hương; Nó đối lập với cái khô khan xơ cứng của những “thi sĩ ba xu” làm thơ yêu, chắp nối vần vè “tám câu ba vần”, hoặc “lục nhạt, bát nhòa”.
IV. Tản Đà - con người của xê dịch và luôn say mê
Tản Đà đã nhìn hoa sen rất say mê:
Mặt nước chân trời thân gái lạ
Đài xanh, cánh trắng, nhị vàng chen
Xôn xao bay rối vài con bướm
Đủng đỉnh bơi xa một chiếc thuyền
(Hoa sen nở trước nhất trong đầm)
Tản Đà là con người của xê dịch. Những vần thơ nói về thiên nhiên của ông, dù là thiên nhiên thực hay ảo đều rất tự nhiên và say đắm. Ông nhìn ở đó những điều độc đáo và luôn hiện diện cái Tôi của mình trong cảnh vật.
Đây là cảnh Hòa Bình:
Non Tượng trời cho bao tuổi lẻ
Sông Đà ai vặn một dòng quanh
Dòng sông Đà cứ phương Bắc mà chảy, nó không giống bao sông suối khác hướng về Đông. Thiên nhiên ấy, con người này:
Vì ai cho tớ phải lênh đênh
Nặng lắm ai ơi một gánh tình
Đến với Hàm Rồng: “Dưới cầu nước biếc in hình thi nhân” Tản Đà mơ ước:
Có ngày xe lửa đi qua
Trong xe lại có Tản Đà đứng trông


Vì ai cho tớ phải lênh đênh. Nặng lắm 
ai ơi một gánh tình. (Ảnh: Youtube.com)
Tản Đà - chữ nghĩa lãng mạn thoát ly mọi khuôn khổ cứng nhắc, nhưng không hề quay lưng lại với đời
Nói đến Tản Đà, người ta nói tới cái chữ nghĩa lãng mạn thoát ly, là nói tới người: “đã tạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa” (Hoài Thanh - Hoài Châu).
Thực ra, Tản Đà khinh đời ngạo thế với những gì ô trọc chứ ông chưa bao giờ muốn quay lưng với đời. Chính ông chủ trương phải hướng nhiệt tình vào văn “vị đời” nghĩa là tập trung viết báo để “dự một phần ngôn trách”, để “bóng mây hơi nước đến dân xã”. Ông đề xướng hai mục trên “An Nam tạp chí” 1930 để kêu gọi ghi chép những biến động của xã hội. “Đệ tử” Nguyễn Công Hoan của ông đã đi rất xa và trở thành nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc sau này cũng bắt đầu từ khởi động ở Tản Đà.
Cái Tôi của Tản Đà đã không tách rời khỏi cộng đồng dân tộc. Tản Đà ca ngợi các anh hùng dân tộc như Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung. Ông bóng gió nói tới các chiến sĩ xuất dương với niềm thương nhớ thiết tha:
Phượng kêu trái núi bên Tê
Rồng bay bốn bể nhạn về nơi nao
Ông đả kích không thương tiếc những thứ họa mi nuôi trong lồng (Ám chỉ Hoàng Cao Khải):
Lồng son cửa đỏ thảnh thơi,
Mi bay mi nhảy sướng đời nhà mi!
Nghĩ cho mi cũng gặp thì
Rừng xanh mi có nhớ gì nữa không?
Với hàng loạt các bài thơ lặp từ “non nước non nước”, các bài gửi tình nhân có quen và không quen, ta thấy được tâm sự nhức nhối của người dân mất nước:
– Ơn nhà nợ nước hai vai
Nước nhà ai dễ riêng ai nặng nề
– Dân hai lăm triệu ai người lớn
Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con
Tản Đà - người luôn hướng con mắt thương cảm tới những cảnh lầm than
Tản Đà hướng cặp mắt thương cảm của mình vào những cơ cực của nhân dân. Ông miêu tả hiện thực cảnh lụt lội “Miếng ăn chẳng có con nhìn bố” đến nỗi:
Năm hào một đứa trẻ lên sáu
Cha còn sống đó con mồ côi.
Ông căm phẫn những đám quan tham ô lại (Vịnh tri phủ họ Đào). Và đặc biệt, ông lấy ông để mô tả cái quẫn bách của người trí thức, của cả xã hội ngột ngạt:
“Trần gian thước đát cũng không có…
Giấy người, mực người, thuê người in.
Mướn cửa hàng người bán phường phố”.
Ở ông có những tính toán khiến ta xót xa:
“Ông chủ nhà in, in đã đắt
Lại ông hàng sách mấy mươi phân”
Dù nhiều lúc không cam thất bại:
Bạc đánh còn tiền, thua cóc sợ
Đời chưa đáng chán chị em ơi.
(Ảnh: Genk)
Nhưng cái quẫn bách:
Con theo cạnh nách méo môi sò
Nợ réo ầm tai câm miệng hến.
Khiến cho Tản Đà chua chát mỉa mai:
Mười mấy năm xưa ngọn bút lông
Xác xơ chẳng bận chút hơi đồng.
Bây giờ anh đổi lông ra sắt,
Cách kiếm ăn đời có nhọn không?
Ở tuổi 50, Tản Đà lại viết thơ Tết nhân “Tiễn ông Công lên trời”:
Qua hết đông này năm chục tuổi
Xuân sang đã nửa giấc mơ mòng
Văn chương quẫn mãi cùng thân thế
Sự nghiệp mong gì với núi sông!
Nhà thơ đâu ngờ được đây là bản di chúc tổng kết cả một đời mình chứ không phải “nửa giấc mơ mòng!”
Thời gian và công chúng không nghĩ như Tản Đà. Sự nghiệp của ông là một giá trị tinh thần vô giá cho nhà văn học Việt Nam bởi trước hết ông là một nhà thơ dân tộc. Ông tiếp nhận những tinh hoa văn hóa dân tộc và bằng cá tính, phong cách độc đáo của mình, ông đã tạo nên những giọt mật thơm thảo cho đời từ muôn vạn đóa hoa thơm ngọt.
Thơ Tản Đà có tính dân tộc và hiện đại; có truyền thống và cách tân: “Tản Đà là tự mình làm cơn gió lạ, nối dài một truyền thống sáng tạo bằng hàng loạt những sáng tác mẫu mực”. (Trần Ngọc Vương ). Tản Đà tự hòa “Văn đã giàu thay lại lắm lối” có lẽ nhờ sự kết hợp tuyệt vời những nguồn học vấn mà ông am hiểu sâu sắc.
Tản Đà là một “thi sĩ rất An Nam, có thể nói là hoàn toàn An Nam” (Xuân Diệu)
“Ông là một thi sĩ có tâm hồn đặc Việt Nam, cái tâm hồn của phần đông người Việt” (Vũ Ngọc Phan). Không chỉ dồi dào nguồn thơ ca dân tộc, Tản Đà còn rành thơ phú từ khúc văn chương chữ Hán; ông thông thạo tuồng chèo và các điệu ca lý dân gian không chỉ ở nông thôn mà ở các đô thị, chợ búa, chốn ăn chơi… Tản Đà chưa kịp thành Nho sinh với văn chương cử tử có nếp thì ông đã rời bến sang bờ bên kia đem văn chương bán phố phường. Vì thế ảnh hưởng của văn học bình dân, của ca dao dân ca giúp ông lên ngôi với tư cách một nhà thơ dân tộc tầm cỡ.
Hãy đọc những câu mà Tản Đà gọi là “phong thi” nói về người phụ nữ:
Đương trưa qua một cánh đồng
Em đi mua rượu cho chồng em xơi
Chồng hư mang tiếng mang tai
Tiếng tai thiếp chịu, hơn ai không chồng!.
(Ảnh: Pinterest.com)
Đó thật là cái chung tình nhẫn nhục thường thấy của người vợ Việt Nam nhưng phảng phất trong lời “ca dao” ấy, hình như có tiếng nói của vợ ông Nguyễn Khắc Hiếu.
Những câu thơ trêu ghẹo mà trinh bạch:
Gió thu thổi lọt song đào
Chồng ai xa vắng, gió vào chi đây!
Không có cái “vốn Lý Bạch” để ngọn gió xuân đi vào phòng the của thiếu phụ thì Tản Đà khó có cái trong trẻo dân dã Việt Nam này.
Và đây là cái tình tứ duyên dáng vốn có ở ca dao:
Anh đi lẽo đẽo đường trường
Công danh chẳng thấy, những thương cùng sầu
Lại đây ăn một miếng trầu
Kẻo mai tuyết nhuốm trên đầu hoa râm.
Trong bản “hòa âm nước mắt” cuối tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao, mấy câu phong thi của Tản Đà được dùng thật đắc địa:
Ai làm cho khói lên trời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt ly.
Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ
Cho hai làng lệ đầm đìa tấm thân.
Đây là cái tinh nghịch từ câu hát xẩm:
“Chúng anh xưa chẳng biết ở nơi nào
Ông trời xô đẩy anh phải vào cái chốn nhân gian
Thẹn vì tình mà ngơ mắt với giang sơn
Công danh chẳng có cũng xẩm xoan cho nó hào
Bấy lâu nay anh nghe tiếng má đào
Mà thề có thấy (một cái) cô nào thì anh cũng đui”
(Ảnh: Pinterest.com)
Chính hồn thơ dân tộc đã khiến cho Tản Đà khi dịch Đường thi cũng mang phong cách riêng ông:
– Trong vòng danh lợi thương ta
Cái thân nhăng nhít cho qua với đời
(Vấn Hoài Thủy)
– Hiểm xưa còn đó ngàn năm
Ai hay trời để chơi khăm đôi người
(Ký Vi Chi - Bạch Cư Dị)
V. Đọc Tản Đà, và thật kỳ diệu có những bài thơ sử dụng ngôn ngữ dân tộc điêu luyện của ông lại cho ta như được thưởng thức những bài thơ Đường trác tuyệt.
Mùa thu thiên thai của Tản Đà
Đề tài mùa thu đã được khai thác để cho ra đời bao nhiêu kiệt tác. Nhưng trong “Cảm thu” Tản Đà vẫn cho ta nhập vào cái dịu buồn diệu vợi của một tâm hồn mênh mang:
“Từ vào thu đến nay
Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Giăng thu bạch
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly
Nhạn về én lại bay đi
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương”.

Lá thu rơi rụng đầu ghềnh. Sông thu đưa lá 
bao ngành biệt ly. (Ảnh: Pinterest.com)

Câu chuyện Lưu Nguyễn lạc vào cõi Tiên nhưng vì nhớ quê trở về mà không có cơ hội thứ hai đến chốn xưa đã thành một nuối tiếc không nguôi, một khát vọng còn dang dở:
“Lá đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!
Đá mòn, rêu nhạt.
Nước chảy, hoa trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...”
(Tống biệt)
Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân
Ngày xuân đến, những ca nương Hà Thành không ai không đắm mình trong điệu hát đầy lạc quan của Tản Đà:
“Gặp xuân ta giữ xuân chơi
Câu thơ chén rượu là nơi đi về
Hết xuân, cạn chén, xuân về
Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân!
Xuân ơi xuân hỡi!
Vắng xuân lâu ta vẫn đợi, chờ, mong
Trải bao nhiêu ngày tháng hạ, thu, đông
Ròng rã nỗi nhớ nhung, xuân có biết?
Khứ tuế xuân qui, sầu cửu biệt
Kim niên xuân đáo, khách tương phùng
Gặp ta nay xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác, trong lòng ta chẳng khác
Kể từ thuở biết xuân bốn chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân nay ta tuổi đã năm mươi
Tính trăm tuổi, đời người ta có nửa
Còn sau nữa lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho, ta chửa hỏi làm chi
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi
Chỗ quen biết kể gì ai chủ khách
Thiên cổ vị văn song Lý Bạch
Nhất niên hà đắc lưỡng Đông quân
Dẫu trăm năm gặp gỡ đủ trăm lần
Thơ với rượu cùng xuân, ta cứ thế
Ngoài trăm tuổi, vắng ta trần thế
Xuân nhớ ta chưa dễ biết đâu tìm!
Cùng nhau nay hãy uống thêm!”
(Gặp Xuân)
(Ảnh: Pinterest.com)
Đọc Tản Đà, chúng ta như gặp lại Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du; như gặp lại Tú Xương, Nguyễn Khuyến… Dĩ nhiên, nồng độ cảm xúc và bản lĩnh nghệ thuật vẫn rất Tản Đà!
Từ trước tới nay, khi nghiên cứu Tản Đà, như một thói quen người ta đều dựa vào thái độ của Hoài Thanh trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”. Hoài Thanh đã đặt vị trí Tản Đà trang trọng ở đầu cuốn sách. Ông cho ta cảm giác Tản Đà là người dạo đầu như chuẩn bị cho ta bước vào một phòng hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa để nghe dàn đại hợp xướng của phong trào Thơ mới làm nên một thời đại thi ca Việt Nam.
Nhận định này cũng chung cái ý thơ Tản Đà là cái cầu nối, là bước quá độ từ văn chương cổ sang hiện đại. Nó “không như thứ rượu quỳnh tương, nấu lâu cất kĩ, rót ra chén ngọc trạm rồng mà như nước suối thiên nhiên chảy ra trong mát nơi khe suối”, thơ ông “mở đường vào thể cách bình dân (…) phong phú lắm vẻ, đủ trang hoàng cho cả một giai đoạn văn học. Nó còn gây dư ba rộng rãi sang cả giai đoạn sau” (Phạm Thế Ngữ).
Tản Đà quả thực vẫn nghiêng về phía văn chương truyền thống.
Tản Đà có địa vị đặc biệt bởi ông tiếp nối dòng chảy của những con người bất hủ
Ông chung dòng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…; gần hơn là Nguyễn Khuyến, Tú Xương… ; xa hơn nữa là Lý Bạch, Thôi Hiệu…
Cái thời chúng ta mới tiếp xúc với văn minh Phương Tây bao nhiêu điều mới lạ, bao nhiêu lợi lộc và những quan điểm phóng khoáng về tự do cá nhân khiến ta thiếu bình tĩnh. Chúng ta phủ nhận cha ông không tiếc lời. Cái đồng hồ Tây không bao giờ sai đã trở thành một mặc định!
Văn minh do khoa học và tư tưởng mang lại từ phương Tây ngày ấy trên mọi phương diện chúng ta coi như đó là những giá trị tuyệt đối để phủ nhận văn minh truyền thống.
Chỉ thời gian chưa lâu so với lịch sử dài đằng đẵng của nhân loại, ta có dịp để cay đắng thấy rằng khoa học và tư tưởng tự do cá nhân đang đưa chúng ta vào tuyệt lộ.
Bài toán Hạnh Phúc của con người thêm nhiều biến số và bất khả thi khi tự do cá nhân đã trở thành những kẻ bất kham không bị chế ước bởi các tiêu chuẩn Đạo Đức. Con người thời hiện đại sống rời rạc hơn, thô lậu hơn. Vì Lợi ích của mình trở thành những kẻ “thập ác bất xá”.
Không hiểu sao, bây giờ thì, muốn tách Tản Đà ra khỏi cuốn “Thi nhân Việt Nam”.
Núi Tản ấy, sông Đà ấy sừng sững đứng riêng.
(Ảnh: Pinterest.com)
Tản Đà vốn có quê hương từ trời cao
Nếu là con người tu luyện sống thật trong những chứng nghiệm của trường phái Đạo Gia thì người ta rất tin Tản Đà là một vị “trích Tiên” bị Trời đày. Cũng như xưa kia, Lý Bạch cũng tâm sự như vậy. Cả hai không phải tưởng tượng ra mà họ có những mách bảo từ Thiên Thượng, hoặc họ có những công năng có thể nhận biết! Chính khoa học ngày nay đã đưa ra rất nhiều những bằng chứng về những người kể chi tiết, mạch lạc về những kiếp chuyển sinh luân hồi của mình.
Tản Đà vốn có quê hương từ trời cao. Ông biết tại sao mình lại bị rớt tầng xuống hạ dưới. Là vì ông đã phạm tội. Ông không oán trách Trời mà chấp nhận hình phạt của Thiên Ý.
Theo ông kể thì ở trên ấy, ông vướng vào chữ Tình. Nhân loại sống trong Tình nên tối khổ bởi chữ Mê. Ông phải xuống nơi có chữ Tình chi phối để phù hợp tầng thứ ấy!
Đạo Gia luôn khẳng định ngôi nhà của mình, quê hương của mình là ở trên kia. Chốn trần gian là cõi mộng. Có lẽ, trong những lần bất chợt thoát Mê, Tản Đà đã coi đời mình từ giấc mộng con, giấc mộng lớn cho đến những khối tình con như một tham chiếu để hiểu mình của hiện tại và mình của quá khứ.
Dùng thuật ngữ “lãng mạn” chỉ là khái niệm của văn chương. Tản Đà chỉ đơn giản là người sống hồn nhiên như nhiên, coi khinh mọi giá trị thế gian từ Danh, Lợi, Tình đã là nhập Đạo.
Nói đến ông là nghĩ tới câu mở đầu trong Tam Tự Kinh: “Nhân chi sơ, tính bản Thiện”. Nói tới ông là nghĩ tới những Anh Nhi, Anh Hài nhảy nhót cười vang lừng trên Kim Thân của Di Lặc Phật.
Ông thuần khiết trong bản tính tiên thiên. Ông sống tới “tri thiên mệnh” nhưng buông bỏ tất cả. Người ta bồi bổ cái phần Hậu Thiên là những kinh nghiệm tranh đấu, lọc lõi. Ông không phải là khước từ mà lại là không có nó.
Ông đúng là trích Tiên. Ông biết mình bị đày nên phải “lập công chuộc tội”. Ông lãnh sứ mệnh truyền Đạo Thiên Lương cho con người. Đọc thơ ông ta như được bơi lội trong dòng sông quê. Đọc ông ta được về một thời vang bóng của nhân cách, khí tiết và Đạo Đức Á Đông.
Không phải ngẫu nhiên mà người đệ tử Nguyễn Tuân của ông luôn nhắc tới Thiên Lương; các nhân vật của Nguyễn đẹp tuyệt vời với nhân cách xưa, đạo đức xưa, ứng xử xưa…
Tin xuân đến ngọn cây đào
Báo cho hoa biết ra chào mùa xuân
Câu thơ xuân cuối cùng của Tản Đà (1939) tràn trề lạc quan. Ông là mùa xuân vĩnh viễn của thơ ca Việt Nam. Dù người ta có nói ông là nhà thơ của hai thế kỷ hoặc ông là người mở đường cho thơ mới, phân lượng hiện thực và lãng mạn là bao nhiêu… Nhưng đơn giản ông chính là ngọn gió xuân đầy vượng khí hạo nhiên.
Khi những cung đàn của buổi hòa nhạc tân kỳ Thơ Mới, rồi Thơ hiện đại với đủ các trường phái biến dị đang rời xa Thiên Lương.
Đọc Tản Đà khiến ta nhìn và quý trọng những giá trị vĩnh cửu. Như qua bao cuộc biến dời dâu bể ta vẫn nhìn được núi Tản kia còn đó; Đà giang đó còn đây. Như ta nhìn thấy Lý Bạch vẫn ngồi kia với núi Kính Đình, nhìn Trường Giang xa khuất dưới chân Hoàng Hạc Lâu.
(Ảnh: Pinterest.com)
Trong lòng ta, Tản Đà luôn là một Tiên Ông. Trong hàng trăm người dịch Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, bản dịch của ông xứng đáng là kiệt tác của một du Tiên:
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ!
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”.

21/3/2018
La Vinh
Nguồn: ĐKN
Theo https://lediemchihue.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Miền cổ tích hoang hư 2

Miền cổ tích hoang hư 2 7 - Ngọ... Chiếc tàu thu mua hải sản ném Phương lên bờ tại cảng cá tanh hôi và ồn ào của Hải Phòng. Lôi thôi lếch ...