Thứ Ba, 13 tháng 4, 2021

Chế Lan Viên và quan niệm về thơ

Chế Lan Viên và quan niệm về thơ

Phần I. Con đường thơ Chế Lan Viên.
Chế Lan Viên là người có năng khiếu thơ từ nhỏ, 17 tuổi, ông đã xuất bản tập Điêu tàn, xuyên suốt tập thơ là nỗi buồn không dứt về thân phận mất nước. Nỗi buồn ấy dù mơ hồ nhưng có những nét đáng quý và có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ sáng tác của nhà thơ, đó là cơ sở để Chế Lan Viên nhận thấy ánh sáng của cách mạng, nhận đúng con đường phải đi cho đời mình khi xảy ra sự lựa chọn quyết định. Ông có nhiều phát biểu mang chất tuyên ngôn nghệ thuật đưa ra nhiều định nghĩa về thơ, diễn biến theo hành trình sáng tác hơn 50 năm. Cả cuộc đời cầm bút, con đường thơ của Chế Lan Viên trải qua nhiều giai đoạn với những biến đổi trong tư tưởng và nghệ thuật nhưng hành trình thơ thơ ấy vẫn thống nhất trong một con người - con người Chế Lan Viên.
I. Trước cách mạng tháng Tám:
Chế Lan Viên là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ ca lãng mạn với xu hướng thoát ly hiện thực nhưng ở ông ta cũng thấy có quan điểm thẩm mỹ riêng. Ông đã viết trong lời tựa tập Điêu tàn “ Làm thơ là làm sự phi thường. Thi sĩ không phải là người. Nó là người Mơ, người Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại, nó xáo trộn dĩ vãng, nó ôm trùm tương lai. Người ta không thể hiểu được vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lý”. Quả là Chế Lan Viên cùng với trường thơ Loạn “muốn xác lập một thế giới mới trong thi ca khác với quan hệ của đời thường” (Hà Minh Đức). Đó là một thế giới dị thường với bóng tối, mồ hoang, sọ người, xương khô, máu tủy và hồn ma vất vưởng:
Nhắm mắt lại cho cả bầu bóng tối
Mênh mang lên bát ngát tựa đêm sầu
Cho hồn phách say sưa trong giả dối
Về cõi âm chờ đợi đã bao lâu
Cách nhìn thế giới như vậy chịu ảnh hưởng khá rõ ở quan điểm mỹ học của thơ tượng trưng Pháp. Chế Lan Viên say mê cái phi thường, ông đã tìm thấy cái ”thiêng liêng” ở các nền tôn giáo và sau này ông bắt gặp cái “cao cả phi thường“ trong hiện thực cách mạng của dân tộc. Về phương diện nghệ thuật “cái phi thường“ chính là sự độc đáo. Và đây chính là nét nhất quán trong phong cách thơ ông.
II. Sau cách mạng tháng Tám:
Chế Lan Viên từ bỏ thế giới quan siêu hình với quan điểm mỹ học có phần cực đoan “kinh dị“ và từng bước hoàn thiện thế giới quan cộng sản hiện thực cách mạng, khơi nguồn sáng tạo đưa ông từ lầu thơ với thế giới quan của “trăng, mây“ về với cuộc sống thực tại của nhân dân. Ông nói về “kinh nghiệm tổ chức sáng tác“ Trước hết chúng ta làm văn nghệ là để tả sự thật. Vả chăng sau này muốn truyền cảm cho người đọc, cố nhiên không chỉ nói cái cảm xúc của ta mà nói cả sự việc”, ông nhìn lại thơ mình và ”Bỗng hối tiếc nghìn câu thơ nước chảy - Chửa vì người bằng một bữa cơm ăn“. Ông dứt khoát lựa chọn nhiệm vụ mới cho thơ: “Thơ xưa chỉ hay than mà ít hỏi - Đảng dạy ta thơ phải trả lời”, “Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói - Chỉ nói thôi mới nói hết được lời” Ông đem thơ phục vụ lợi ích cách mạng, xem thơ là vũ khí để cải tạo tư tưởng, xung trận chiến đấu:
Đây là quan niệm phù hợp với thời đại. Niềm say mê, sự độc đáo phi thường vẫn còn nhưng nhà thơ không để thơ rơi vào cõi siêu hình huyền bí mà để nó giữa hiện thực hào hùng của nhân dân.
III. Những năm cuối đời:
Quan điểm sáng tác văn học phục vụ sự nghiệp cách mạng, phản ánh hiện thực xã hội vẫn tiếp tục được phát huy. Nhưng càng về sau, Chế Lan Viên càng bộc lộ những băn khoăn trăn trở. Chưa bao giờ là dễ dãi trong nhận thức, ông không chấp nhận những lối chạy theo thời thượng, học đòi khi đất nước đang trong bước chuyển mình mạnh mẽ, ông hiểu rõ mình cần làm gì để văn chương phù hợp với bước đi của lịch sử, ông sẵn sàng chấp nhận câu thơ mình không còn “nguyên sắc đỏ“ với cuộc đời mà:
Anh chỉ mong câu thơ anh sống khỏi một đêm, có ích quá một ngày
Đúng cái đêm bà mẹ chết con cần một câu thơ đỡ khổ
Đúng cái ngày người chiến sĩ trên chiến hào ôm xác bạn ngã vào tay.
(Thơ bình phương - đời lập phương)
Nhưng bản chất của nghệ thuật luôn không thay đổi nên ông rơi vào mâu thuẫn. Khi chiêm nghiệm về thơ:
Ở đất nước ta ba tuổi đã rời nôi lên ngựa sắt
Tuổi trẻ chơi lau đã chơi trò đánh giặc
Kiếm làm cho con rùa không thể yên thân trong cuộc sống thường...
Thơ chỉ sống một phần cho mình còn ba phần cho nhiệm vụ
Nghĩ mà thương!                                                                                      (Sử)
Những kinh nghiệm từng trải và quỹ thời gian còn lại quá ít ỏi khiến nhà thơ không ham mê “làm sự phi thường“ nữa. Ông mong muốn “Vực sự sống ba chiều - lên trang thơ hai mặt phẳng“ nhưng không thể, ông chới với hoang mang ngay những vấn đề cá nhân ông chọn lựa. Ông muốn tìm về cái bản ngã, đúng với yêu cầu của nghệ thuật “Tất cả phải lấy mình ra che chở - Tự sâu thẳm đời mình, sâu thẳm tận cùng sâu“.
Nhưng rồi bệnh tật lấy đi mong ước cuối đời ấy; những Di cảo là sự bổ sung đầy ý nghĩa cho hành trình tự nhận thức và sáng tạo của ông. Ở giai đoạn này, ông cố gắng tìm đến sự dung hòa các quan điểm về thơ, các hình thức tư duy thơ vốn tách bạch dẫn đến trái ngược ở hai giai đoạn trước:
Người dệt thảm mặc áo rách và cuộc đời xám xịt
Ấy thế nhưng cái nghề dệt mà, ta cứ dệt thảm hoa
Lật trái trang thơ may ra anh đọc được trên kia đời tôi một ít
Thơ không phản ảnh đời mình thì nó cũng phản ảnh những mùa hoa
(Dệt thảm)
Chế Lan Viên là nhà thơ luôn có sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Ông luôn biết kế thừa, phát huy những tinh hoa của nền văn chương và nhân loại để mang lại cho tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng. Ông có sự nhận thức sâu sắc về chức năng của văn chương và sứ mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ  đối với cuộc sống.
Thành tựu nghệ thuật Chế Lan Viên đã đạt được trong quá trình sáng tạo chính là những đóng góp lớn lao đối với sự phát triển của thơ ca Việt Nam  nói riêng và văn chương Việt Nam nói chung.
Phần II. Quan niệm về thơ, sự luận bàn về thơ của Chế Lan Viên.
Cũng như một số nhà thơ khác, Chế Lan Viên đã bàn luận khá nhiều về thơ qua văn xuôi chính luận và sau này được tập hợp lại trong những cuốn tiểu luận phê bình như: “Suy nghĩ và bình luận”, “Phê bình văn học”, “Bay theo đường dân tộc đang bay”, “Từ gác Khuê văn đến quán Trung Tân”, “Nghĩ cạnh dòng thơ”, “Ngoại vi thơ”, “Nói chuyện thơ văn”, “Vào nghề” ... Ông cũng bộc lộ quan niệm của mình về thơ qua các bài giới thiệu, các bài “tựa” và “bạt” cho một số tác giả mà ông am hiểu và quý trọng như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Yến Lan, Tế Hanh. Bằng vốn sống và vốn văn hóa uyên bác, bằng trí tuệ sắc sảo và trực cảm nghệ thuật tinh tế, những trang tiểu luận - phê bình thơ của Chế Lan Viên đã đem đến nhiều thú vị bất ngờ cho độc giả.
Phát biểu, bàn luận về thơ qua hàng loạt những bài văn chính luận kể trên, dường như Chế Lan Viên vẫn cảm thấy mình chưa nói được nhiều về thơ. Sự suy nghĩ, trăn trở của ông còn được tiếp nối liên tục qua một loạt các bài thơ viết về thơ. Đó chính là những quan niệm, những nung nấu, kiếm tìm của Chế Lan Viên về thơ nhưng đã được hóa thân thành các hình tượng lung linh lắm sắc màu. Ở những bài thơ ấy, những nguyên lý trừu tượng khô khan đã được ông nâng lên thành cảm xúc, hình ảnh, âm điệu... nên dễ đi vào lòng người và để lại ấn tượng lâu bền. Từ mấy chục năm qua, Chế Lan Viên đã được nhiều người thừa nhận là “nhà vô địch” về các tuyên ngôn thơ cả trong lý luận và trong sáng tác. Và khi cần đến những dẫn chứng làm sán tỏ lý luận về thơ, mọi người thường nghĩ ngay đến Chế Lan Viên. Nhìn tổng quát, chúng ta có thể thấy những quan niệm về thơ của Chế Lan Viên phát triển, biến đổi song hành cùng các chặng đường tư tưởng và sáng tác của ông. Nếu xét theo chiều lịch đại, quan niệm về thơ của Chế Lan Viên vận động qua ba thời kỳ: trước năm 1945, sau năm 1945 đến hết thập niên 70 và những năm 80 được thể hiện tập trung qua ba tập Di cảo thơ.
1. Trước cách mạng, cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên là chủ tướng của nhóm thơ Bình Định với cái tên khá rùng rợn Trường thơ loạn. Thay mặt cho nhóm thơ này, Chế Lan Viên đã có một tuyên ngôn về thơ nổi tiếng trong lời tựa tập Điêu tàn: “Hàn Mặc Tử nói: làm thơ tức là điên. Tôi nói thêm: làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là người. Nó là người Mơ, người Say, người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát hiện tại, nó xối trộn dĩ vãng. Nó ôm trùm tương lai”. Chính cái quan niệm độc đáo khác người này đã hướng hồn thơ Chế Lan Viên đến một thế giới đầy “Kinh dị, lẻ loi và bí mật” như Hoài Thanh đã nhận xét về Điêu tàn.
Tuy không có bài thơ nào viết riêng về thơ, nhưng rải rác đây đó trong tập Điêu tàn, chúng ta có thể thấy có một số câu đã thể hiện khá đậm quan niệm của Chế Lan Viên về thơ.
* Đối với ông, thi sĩ phải là người thoát ly triệt để thực tại để tìm giải thoát ở cõi siêu hình bất tận:
Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo.
(Những sợi tơ lòng)
Đối với ông, cảm xúc thẩm mỹ lẫn đối tượng thẩm mỹ của thơ chính là nỗi đau khổ khôn cùng của thi nhân trên cõi trần gian.
- Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết
Những sắc màu hình ảnh của trần gian
(Tạo lập)
- Vì u buồn là những đóa hoa tươi
Và đau khổ là chiến công rực rỡ
(Đừng quên lãng)
Với một quan niệm về thơ như vậy lại gặp điều kiện mảnh đất Bình Định với gợi mở là thành cổ Đồ Bàn cùng những ngọn tháp Chàm chứng tích của một dĩ vãng đau thương, uất hận đã hướng thơ Chế Lan Viên càng ngày lạc sâu vào cõi siêu hình, mờ ảo để đến mức ông phải hoảng loạn thốt lên “Có ai không nắm giùm tay ta lại! Hãy bẻ giùm cán bút của ta đi! Lời thơ ta đầy những điệu sầu bi. Đầy hơi thịt, yêu ma cùng sắp chết” (Tiết trinh). Và ông nghi ngờ chính sự tồn tại, hiện hữu của mình “Ai bảo giùm: Ta có, có ta không?”.
Cũng chính quan niệm “làm thơ là làm sự phi thường”, quyết không đi lại những con đường của các nhà Thơ Mới thời ấy, đã khiến cho Điêu tàn trở thành hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử thơ ca dân tộc. Ngay từ lúc ấy, chính Chế Lan Viên đã ý thức được sự cô đơn trên nẻo đường riêng của thơ mình:
Đường về thu trước xa lắm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi.
2. Sau Cách mạng. Trong lúc Chế Lan Viên đang lạc vào cõi hư vô, siêu hình và ngày càng bi quan; bế tắc vì chưa tìm được hướng đi cho đời, cho thơ mình, thì cách mạng Tháng Tám bùng nổ. Chính cách mạng đã làm “Thay đổi đời tôi, thay đổi đời tôi” như sau này ông từng khẳng định. Từ một người mộng mơ, suy tưởng về thế giới huyền ảo, ông trở thành một người hành động. Ông chân thành tham gia vào hoạt động cách mạng cùng quần chúng nhân dân. Ông sung sướng “được quên thơ đi” như quên một cái già không thiết thực với cuộc sống sôi động trước mắt. Tuy tư tưởng chính trị và tình cảm của ông rất gần với cách mạng, với nhân dân, nhưng tư tưởng nghệ thuật và tư duy nghệ thuật của ông vẫn còn một khoảng cách khá xa. Do đó, phải mất hơn 10 năm trăn trở trong cuộc “nhận đường”, Chế Lan Viên mới có được sự thay đổi căn bản về quan niệm nghệ thuật và tư duy thơ. Tập thơ Ánh sáng và phù sa ra đời vào năm 1960 đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp thơ của Chế Lan Viên. Ánh sáng của Đảng và phù sa của cuộc đời đã giúp ông chiến thắng được nỗi đau riêng để vương tới niềm vui chung của dân tộc. Và từ đây, những bài thơ hay nhất của ông lần lượt xuất hiện. Và cũng từ đây, thơ ca cách mạng có được một loạt bài thơ viết về thơ mang dấu ấn phong cách rất đậm nét của Chế Lan Viên.
Qua thơ viết về thơ của Chế Lan Viên, chúng tá có thể thấy rõ quá trình chuyển hướng thơ của ông hoàn toàn không dễ dàng, đơn giản.
Xưa phù du mà nay đã phù sa
Xưa bay đi mà nay không trôi mất
Cho đến được lúa vàng đất mật
Phải trên lòng bao trận gió mưa qua.
(Thư gửi Tế Hanh)
Và cũng chính là nhờ “bao trận gió mưa qua” ấy trong cuộc đấu tranh, phấn đấu để tự vượt lên mình đã giúp Chế Lan Viên “sáng mắt sáng lòng” trên con đường thơ cách mạng, để ông càng thêm tin tưởng, tự hào thực hiện sứ mạng vinh quang của một nhà thơ chiến sĩ.
* Trước hết, Chế Lan Viên đặc biệt quan tâm đến những vấn đề cơ bản nhất của thơ. Đó là mục đích của thơ, đối tượng và mạch nguồn sức sống của thơ, là nhiệm vụ của nhà thơ trong sự nghiệp cách mạng. Và để giải đáp được các vấn đề trên, Chế Lan Viên đã trả lời dứt khoát được câu hỏi về bản thể từ lâu đã làm ông suy tư, trăn trở:
“Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
“Ta vì ai?” Khẽ xoay chiều ngọn bấc,
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh.
(Hai câu hỏi)
Từ “Ta là ai?” đến “Ta vì ai?” là cả hai chân trời khác nhau trong sáng tạo thơ ca, là cả hai hướng đối lập nhau trong quan niệm nghệ thuật. Mục đích của thơ ông giờ đây đã khác xưa: thơ phải vì cách mạng, vì nhân dân mà phục vụ, mà hướng tới. Mục đích đã thay đổi thì đối tượng thơ cũng thay đổi. “Tôi viết cho ai? Cho tất cả mọi người... Cho ai cũ thơ tôi làm ướt áo. Nay họ về sưởi ấm giữa thơ tôi” (Nghĩ về thơ).
Sống gắn bó với nhân dân, với thực tiễn cuộc đời, Chế Lan Viên đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa thơ và đời, đời và thơ. Cũng là một nguyên lý quen thuộc của quan niệm Mác xít về văn nghệ: cuộc đời là cội nguồn, là sức sống của nghệ thuật, nhưng vào thơ Chế Lan Viên, chân lý ấy trở nên cụ thể hơn, sinh động hơn, dễ đi vào lòng người hơn nhờ những cách diễn đạt lung linh hình ảnh đa dạng của thơ ông:
- Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép.
- Cuộc sống đánh vào thơ trăm nghìn lớp sóng.
Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi!
- Sau câu thơ hồi hộp những tâm tình
Những vui buồn đời ký thác cho anh.
Từ tháp ngà của nghệ thuật, của cái tôi cá nhân quẩn quanh bế tắc trước đây, Chế Lan Viên đã từng xót xa và thấm hiểu thứ thơ “vô ích” “cách xa” “đối lập” với cuộc đời thực: “Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”, từ đó ông càng thấm thía thơ hôm nay cần có ích. Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi. Và để thơ hoàn thành sứ mệnh cao cả, nhà thơ cần hòa mình vào cuộc sống của nhân dân, phải đi đến “Trăm miền đất nước”, để lắng nghe và rung động với âm thanh ríu rít, tràn đầy sức sống của cuộc đời.
Đi ra, lấy cuộc đời dân làm cuộc đời mình
Cơn nắng, cơn mưa làm điều suy nghĩ
Một tiếng chim gù cũng đến nơi rừng lạ để mà nghe.
(Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ...)
Một lần khác, quan niệm “nhà thơ phải bám sát cuộc sống hiện thực” lại được Chế Lan viên hình tượng hóa thành hình ảnh con tằm ăn trăm vạn lá dâu xanh, con ong cần mẫn hút nhụy của những vườn hoa trăm miền để tạo ra thứ tơ óng ả, tạo nên chất mật ngọt cho đời.
- Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật
Mỗi giọt mật thành đòi vạn chuyến ong bay
Nay rừng nhãn non Đoài mai rừng cam xứ Bắc
Ngọt mật đồng bằng mà hút nhụy tận miền Tây.
(Ong và mật)
- Dù ong phải bay ngàn cánh bay mới giọt mật
Hay tằm giam mình tại chỗ nhả ra tơ,
Trong sáng tạo chúng ở hai đầu cực
Nào con nào đã được nhởn nhơ.
(Thơ bình phương - Đời lập phương)
Như vậy hiện thực cuộc sống chính là cội nguồn, bầu sữa mẹ nuôi dưỡng mọi hồn thơ chân chính. Song, đến cuộc sống như thế nào lại là điều Chế Lan Viên luôn nghĩ suy để tìm câu trả lời đúng nhất. Đối với ông, thu thập vốn sống mới chỉ là bước khởi đầu, bởi sáng tạo thơ không phải là sự sao chép một cách thụ động những gì trông thấy, nghe thấy, mà là một quá trình lao tâm khổ trí, là sự nghiền ngẫm về hiện thực, là ấp ủ nung nấu sáng tạo lại vốn sống, vốn thực tiễn để tạo nên chất thơ tinh lọc, đẹp đẽ bởi trí tuệ, tài năng và tâm hồn của nhà thơ. Đó là thứ “muối thơ” kết tinh từ đại dương bao la của hiện thực.
Cái kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể
Muối lắng ở ô nề và thơ đọng ở bề sâu.
(Nghĩ về thơ)
Hiện thực cuộc đời phải biến thành câu chữ, hình ảnh, âm điệu trên mỗi trang thơ và từ đấy sức mạnh, sức nặng của sự sáng tạo nghệ thuật mà nhà thơ tác động trở lại với cuộc đời, và tô điểm thêm cho bao sắc đẹp của sự sống.
Mỗi câu thơ là một lần lặn vào trang giấy.
Lặng vào đời rồi lại ngoi lên.
(Nghĩ về đời, nghĩ về thơ, nghĩ...)
Chế Lan Viên là người trở đi trở lại nhiều lần bàn luận và khẳng định con mắt nhìn đời của nghệ sĩ. Đó không phải là cách nhìn một chiều, xuôi chiều đơn giản về hiện thực, mà là cái nhìn đầy sức phát hiện ở “cái bề sâu, ở cái bề sau và ở cái bề xa”.
Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh Không chỉ “ơi hời” mà con đập bàn quát tháo lo toan,....
Trong xu hướng thơ của ta trong những năm 60,70 đang còn quá thiên về việc làm say mê người đọc hơn là tác động vào trí tuệ của họ thì hướng thơ có tác dụng thức tỉnh con người trên đây của Chế Lan Viên là một khuynh hướng thơ có nhiều ý nghĩa đổi mới. Muốn làm được điều này, Chế Lan Viên quan niệm nhà thơ phải “chịu suy nghĩ”, phải đào sâu, lật đi lật lại các vấn đề để phát hiện ra cái mới trong mạch ngầm của hiện thực, để có cách nói mới, tác động sâu sắc vào trí tuệ người đọc. Do đó chúng ta hiểu vì sao ngay từ cách đặt tiêu đề các tập thơ và cách đặt tiêu đề các tập thơ và các bài thơ như: Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường chim báo bão, Hoa trên đá, Người đi tìm hình của nước, Đối thoại mới về câu chuyện cổ v.v... và hàng loạt bài thơ có tiêu đề “nghĩ” (Nghĩ suy 68, Nghĩ về thơ, nghĩ...) đã là sự biểu hiện cho những nghĩ suy, trăn trở thường trực trong tư duy thơ của Chế Lan Viên. Ta hiểu vì sao phẩm chất trí tuệ trong thơ ông lại trở thành một hạt nhân tỏa sáng lấp lánh bao sắc màu trên mỗi trang thơ, trở thành một nét phong cách tiêu biểu nhất của thơ ông.
Không chỉ quan tâm và bộc lộ quan niệm của mình về các vấn đề cốt lõi của nội dung thơ, Chế Lan Viên còn hết sức chú ý đến các vấn đề của hình thức thơ. Ông đã công khai tuyên ngôn rất hàm súc, rất ấn tượng về sức mạnh và vai trò của hình thức trong thơ:
Hình thức cũng là vũ khí
Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lý
(Nghĩ về thơ)
Bây giờ đọc lại những câu thơ này có lẽ mọi người chẳng thấy điều gì mới mẻ. Nhưng nếu ta đặc nó vào thời điểm những năm 60, khi ý thức nghệ thuật của toàn xã hội (từ sáng tác, nghiên cứu đến phê bình, tiếp nhận nghệ thuật) trong một hoàn cảnh chiến tranh ác liệt đã đặc biệt đề cao mặt nội dung tư tưởng của tác phẩm, đề cao chức năng giáo dục của văn nghệ thì dĩ nhiên rất nhiều người sợ bị quy cái mũ “duy mỹ”, “vị nghệ thuật”, nếu đề cao vấn đề cái đẹp, đề cao hình thức của nghệ thuật. Do vậy, quan niệm trên đây của Chế Lan Viên trở nên khá táo bạo. Trong tiểu luận, phê bình, ông cũng khẳng định: “Đi tìm cái thiện, cái chân nhưng phải biểu hiện ra bằng hình thức đẹp” (Nghĩ cạnh dòng thơ - tr.136). Ở một bài thơ khác, Chế Lan Viên lại nhắc quan niệm trên bằng hình ảnh khác:
Đời một thi sĩ là thơ, như đời một nông dân là lúa
Nhan sắc của viên ngọc ư? Có khi là nhiệm vụ nó đấy rồi!
(Sổ tay thơ)
Xét cho cùng, cái cốt tử làm cho tên tuổi nhà thơ, cái cốt tử khiến cho thơ sống mãi không chỉ là ở tư tưởng, ở nội dung hay câu chữ. Tất cả là sẽ vô nghĩa nếu nó nằm trong bài thơ dở. Thơ hay, đó là mục đích tối hậu, là cái duyên chinh phục của thơ. Chế Lan Viên đã nhận thức rất rõ điều ấy:
Câu thơ hay như người con gái đẹp
Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng.
(Sổ tay thơ)
Và muốn trở thành cô gái đẹp ấy, nhà thơ phải luôn tìm tòi, đổi mới, sáng tạo về hình thức (“Cuộc đời cần đẻ ra nhiều hình thức/ Dù là ngọc thì cũng nhiều viên ngọc/ Chứ phải đâu cứ xanh xanh vĩnh viễn một màu”). Nhiều khi nhà thơ phải biết vượt qua văn phạm cứng nhắc, vượt qua những “xác chữ” để vương tới vẻ đẹp “phi lý” của thơ:
Đừng làm những câu thơ khuôn mình theo văn phạm
Như những cây quá thẳng chim không về.
(Sổ tay thơ)
Cũng có khi nhà thơ phải là người “làm xiếc với ngôn từ” để sáng tạo ra những hình ảnh, những ý tứ mới lạ trong thơ:
Căng cái dây hình ảnh ngữ ngôn ngang qua
Vực tâm hồn sâu thẳm
Không bao giờ anh ở độ chùng dây.
(Nghĩ về thơ)
Hình thức thể loại đối với Chế Lan Viên là phải hợp lý, cái gì đáng viết dài, cái gì đáng ngắn gọn là nội dung quy định. Ông khuyên người và cũng tự nhắc mình:
Đừng bóp cây đa thành củ thủy tiên
Cô đúc bản trường ca thành bài tứ tuyệt
(Sổ tay thơ)
Chế Lan Viên cũng là người sớm nhận ra một điều rất quan trọng của thơ: cần phải có giọng điệu thơ thích hợp với thời đại mới:
Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời
Bao giờ thuộc hết tiếng của đời, ta xin hát lại
Khúc hát hay đâu có lắm lời
(Sổ tay thơ)
Nói đúng ra, xưa, ông có giọng thơ ảo não, đau thương, rên rỉ. Ông khóc than cho một dân tộc đã bị tiêu vong, ông gào thét một nỗi chán chường, uất hận trước thực tại. Nay, thơ ông cần phải là tiếng nói khỏe khoắn về cuộc đời, là tiếng thét căm thù quân xâm lược, là khúc ca hùng tráng ngợi ca Tổ quốc, là tiếng thủ thỉ tâm tình với người thân và bè bạn... Và như vậy, tựu trung lại khi bàn luận, phát biểu quan niệm của mình về hình thức thơ, Chế Lan Viên sớm nhận ra từ kinh nghiệm từng trải của mình cái lý của hình thức. Đó không chỉ giản đơn là các biện pháp nghệ thuật, mà sâu xa hơn, đó là bản chất của sự thống nhất giữa nội dung và hình thức để tạo nên một bài thơ hay. Đó cũng chính là một đóng góp của Chế Lan Viên vào lý thuyết thi pháp học hiện đại.
3. Khi viết bài thơ đề tựa cho tập thơ “Hoa trên đá”, xuất bản năm 1984, Chế Lan Viên thổ lộ:
Đời ngoài tuổi năm mươi
Mong gì hương sắc lạ
Mọc chùm hoa trên đá
Mùa xuân đâu chịu lùi.
Không phải. Bạn đọc nào cũng nhận ra rằng mùa xuân trong thơ ông vẫn bừng nở những hương sắc mới lạ, lại quyến rũ bao người, ngay cả khi ông ngoài sáu mươi, thậm chí cận kề cái chết. Với ba tập Di cảo thơ, mà phần lớn những bài thơ này được viết ở cuối đời, ông vẫn tiếp tục làm ngạc nhiên độc giả. Hàng loạt những bài thơ trong di cảo vẫn tiếp nối những suy nghĩ không ngừng, không nghỉ của Chế Lan Viên trong quan niệm về thơ ở một hoàn cảnh xã hội mới.
Nếu nhìn khái quát cả ba tập di cảo, chúng ta có thể nhận ra khá rõ điều này: quan niệm về thơ ông có nhiều thay đổi, thậm chí đối lập với các thời kỳ trước.
Chẳng hạn, nếu ở giai đoạn thơ chống Mỹ, Chế Lan Viên sung sướng tự hào biết bao khi nhà thơ có sứ mạng vinh quang của một nhà thơ - chiến sĩ: “Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy/ Bên những chiến sĩ ngoài đồng và hạ trực thăng rơi”, thì nay trở lại đời thường, vị trí của nhà thơ trở nên thật khiêm tốn:
“Tôi chỉ là một nhà thơ cưỡi trâu
Đánh giặc cờ lau...
Đã lâu ta không còn nghe hồn lau gọi nữa
Chỉ nghe danh vọng ầm ào
Vinh quang xí xố...”
(Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh)
Và trong một hoàn cảnh xã hội đầy biến động phức tạp, các thang giá trị thay đổi đến bất ngờ, có lúc ông đã phẫn uất thốt lên:
“Giờ là thế giới của xe cúp, tivi, phim màu ngũ sắc
Của quyền lực tuổi tên đốp chát
Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng”
(Thời Thượng)
Nếu trước đây, ông đề cao, khẳng định và ước mong thơ mình thành “Tiếng sáo thổi lòng thời đại/ Thành giao liên dẫn dắt đưa đường”, thì nay ở những năm tháng cuối đời, ông thật sự xót xa, cay đắng nhận ra
“Tôi chưa có câu thơ nào
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười”
“Ôi văn chương có lỗi với bao người”,
“Nghìn lẻ câu viết ra
Người ta quên cả một nghìn”
“Chữ nghĩa thơ anh, nước ốc nhạt phèo”...
Chế Lan Viên cũng viết nhiều bài thơ có tính chất tổng kết về đời thơ mình. Nhưng khác với một số bài thơ “nhìn lại” thời “Ánh sáng và phù sa” trước đây (nhìn lại là để tự kiểm điểm, nhằm dứt khoát dứt bỏ một giai đoạn thơ lạc hướng trước cách mạng, để thêm tin tưởng vào hiện tại), những bài thơ sau này như đem toàn bộ thơ ông lên bàn cân để chính ông ngồi trầm tư cân đong thành những còn - mất, được - thua, để nhận ra những khiếm khuyết của thơ mình mà một thời khó có thể nói ra. Tổng kết lại thơ mình không phải để phủ nhận, quay lưng, chối bỏ quá khứ mà là sự phản tỉnh, tự vấn đầy ý thức trách nhiệm với thơ của mình hôm nay. Nhờ cái bất ổn, cái xôn xao, xáo động của tư tưởng và tâm hồn ấy mà Chế Lan Viên đã gợi mở biết bao điều thú vị, bất ngờ qua các trang di cảo:
Câu thơ phải luôn luôn bất ổn và xôn xao
Không thể nằm yên mà ngủ được nào.
(Bất hoàn toàn)
Góc nhìn, tầm nhìn của thơ ông giờ đây không còn ở tư thế cao vòi vọi - tư thế của cái ta cộng đồng đứng ở đỉnh cao của thời đại để phát ngôn cho toàn dân tộc mà chính từ đời thường, từ chính cuộc sống cá nhân với bao đa đoan, phức tạp của kiếp người. Trước đây, dù ông luôn tâm niệm nhà thơ “phải đào, phải xới, phải chắt, phải lọc” các chất liệu của đời sống, phải nhìn vào ba chiều của hiện thực để đưa vào trang thơ “hai mặt phẳng”, thì vẫn chỉ để đi đến một mục đích: tìm ra chất thơ cao đẹp của cuộc đời. Giờ đây, cuộc sống vào các trang thơ từ nhiều phía, nhiều góc độ: mặt phải và mặt trái, bề nổi và chiều sâu, niềm vui và nỗi đau, thế giới hữu hình và vô hình... Do đó, nhiều mặt còn khuất lấp của hiện thực và tâm trạng như được phơi trần trên các trang thơ di cảo. Đó cũng chính là hành trình đi tìm lại chính mình của Chế Lan Viên
“Con rồng ôm hạt châu
Rồi nhả ra
Rồi tìm lại
Ta là ta mà luôn bối rối?
Tìm lại ta...”
(Bất hoàn toàn).
Để tiếp tục sáng tạo ở tâm thế mới của đời thướng, Chế Lan Viên đã chủ động thay đổi giọng điệu trang nghiêm xen vào giọng điệu cười cợt, giọng xót xa phẫn uất, xen lẫn giọng tự trào hóm hỉnh, giọng độc thoại đan vào giọng đối thoại, giọng trữ tình thấm đẫm cảm xúc bên cạnh giọng tự sự khách quan lạnh lùng, v.v... Nhưng nổi bật hơn cả vẫn là cái giọng trầm buồn của một thi nhân đang trầm tư, chiêm nghiệm, triết luận về thế sự và con người.
Ba tập di cảo thơ của Chế Lan Viên ngổn ngang bao ý tưởng, quan niệm về thơ còn đang ở dạng phác thảo: từ những vấn đề cốt thiết của bản chất thơ đến bao chuyện thuộc về kỹ thuật của công việc làm thơ. Ông đã ra đi nhưng còn bao dự định chưa thành, bao câu hỏi còn vương vấn chưa đủ lời giải đáp. Và những câu trả lời của Chế Lan Viên không phải không còn những điều bất cập. Song có một điều mà không ai có thể phủ nhận được - Đó là ý thức trách nhiệm rất cao của ông về thơ trong suốt cả cuộc đời. 
Phần III. Quan niệm về thơ và bạn đọc
2. Nhà thơ và bạn đọc là tri âm.
Theo Chế Lan Viên, “giữa tác giả và độc giả có mối quan hệ tri âm tri kỷ, nghe một chữ cũng hiểu nhau, có khi chỉ cần hiểu ngầm” (2). Ông còn chỉ rõ: đây mà mối quan hệ biện chứng. Người đọc là niềm khắc khoải tri âm của nhà thơ: “Tuổi tên là phù vân/Ông chỉ mong ta bền một chữ tâm/ Nhỏ một giọt sương người trên khóe mắt/ Cái Nguyễn chờ là giọt lệ hồi âm”. (Lệ hồi âm). Và ngược lại, nhà thơ cũng chính là niềm khắc khoải tri âm của người đọc:
Bạn đọc cần những bài thơ như tâm hồn thứ hai của họ.
Ngoài tâm hồn họ ra, họ cần thêm một tâm hồn.
Sao anh tả cảnh, tả nhà, tả ao, tả phố...
Để thêm anh vào họ rồi, cho họ trăm thứ rồi, họ vẫn cô đơn.
(Thơ và bạn đọc) 
Riêng về mối quan hệ giữa người đọc với nhà thơ, Chế Lan Viên còn chỉ rõ: “Người đọc tìm đến nhà thơ, là để đòi hỏi một cách sống, không phải chỉ hỏi lý tưởng như với một nhà triết học, mà hỏi cách cảm xúc, cách thương, cách nhớ, cách giận, cách ghét như với một người yêu” (3). Bởi lẽ nói đến sáng tạo và tiếp nhận là nói đến cuộc đối thoại giữa tác giả và người đọc thông qua tác phẩm. Cuộc đối thoại ấy là cuộc đối thoại của những kẻ tri âm, của những tâm hồn đồng điệu tìm đến những tâm hồn đồng điệu. Quan niệm này của Chế Lan Viên cũng tương đồng với quan niệm của Tố Hữu: “Thơ là chuyện đồng điệu. Nó là tiếng nói của người nào đó đến với những người nào đó có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình” (4) và rất gần với quan niệm: “bài thơ là sợi dây truyền tình cảm cho người đọc” của Nguyễn Đình Thi (5). Thật ra quan niệm về mối quan hệ tri âm của Chế Lan Viên cũng như của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi đều bắt nguồn từ quan niệm tri âm của lý luận tiếp nhận truyền thống phương đông: “Tri âm thực là khó thay, cái âm thực là khó biết, người biết thực là khó gặp. Gặp được người tri âm nghìn năm mới có một lần” (Lưu Hiệp) (6). Song điều đặc biệt của Chế Lan Viên ở đây là ông đã tiếp nhận nó một cách linh hoạt trên cơ sở kết hợp với quan niệm tiếp nhận hiện đại. Với Chế Lan Viên, tri âm là chuyện để suy tư, để suy tưởng, để đối thoại giữa nhà thơ và người đọc. Và mỗi độc giả có một cách đọc khác nhau tuỳ vào tuổi tác, tâm lý, vị thế xã hội,... của mình:
“Đọc thơ, có người như nhà thực vật/ Đọc mùa quả, hoa chói mắt/ Có người như nhà địa chất/ Đọc ngầm cái gì ở sâu trong đất,/ Cái mạch ngầm văn bản phía sau văn./ Kẻ đọc dương, người lại nghe cái âm âm./ Cái nhạc trưởng chỉ huy trong tiềm thức” (Đọc thơ mạch ngầm văn bản). Tuy không đề cập đến “tầm đón đợi của người đọc”, một phát hiện có tính chất hạt nhân của mỹ học tiếp nhận, nhưng quan niệm của Chế Lan Viên rất gần với quan điểm của lý luận tiếp nhận hiện đại phương Tây.
Và cũng xuất phát từ quan niệm mới về người đọc, mà quan niệm về mối quan hệ tri âm giữa nhà thơ với người đọc của Chế Lan Viên là quan niệm mở, chứ không khép như quan niệm truyền thống. Với Chế Lan Viên, muốn có tri âm nhà thơ phải chủ động hướng đến các loại người đọc:
Làm thơ có lúc như lấy người điếc lác ù tai làm bạn tri âm,
Cứ phải hét vào tai những tiếng nói thầm.
Làm thơ có lúc là thi sĩ câm
Ra hiệu bằng tay, bằng mắt, bằng toàn thân,
Đóng kịch để nói điều rất thật
(Tri âm)
Và cái gốc của tri âm theo ông chính là ở tấm lòng, là sự cảm thông, độ lượng, đồng cảm: “Người đọc người, thương nhau/ Ta cần chi giữ kẽ/ Ai tri âm tri kỷ/ Xin mở lòng trời bể/ Gặp mỗi dòng mỗi ý/ Tìm lòng ta phía sau” (Đề từ).
2. Nhà thơ - Người đọc: Sự đồng hành trong sáng tạo thơ ca
Lý thuyết tiếp nhận hiện đại đã chỉ ra rằng: người đọc không chỉ là người tiếp nhận tác phẩm một cách thụ động mà là người lấp đầy khoảng trống trong tác phẩm, là người đồng sáng tạo với nhà thơ bởi “Mỗi tác phẩm văn học là một tiếng gọi” (J.P.Sartre) (7). Đây chính là tính chất mở của văn bản nghệ thuật, là “điều kiện của mọi sự thưởng thức thẩm mỹ, và tất cả mọi hình thức thưởng thức, nếu mang giá trị thẩm mỹ đều mở” (Umberto Eco) (8). Không biết Chế Lan Viên đã tiếp cận lý thuyết tiếp nhận hiện đại ở thời điểm nào hay là sự gặp gỡ của những tư tưởng lớn? Chỉ biết rằng những câu thơ ông viết về người đọc như là sự chuyển hóa ngôn ngữ lý luận sang ngôn ngữ hình tượng và biểu cảm của thơ:
“Rồi tác phẩm rời anh như con thuyền rời bến/ Sống cuộc đời riêng anh không dự kiến/ Nó trôi đến các thời gian xa, những năm tháng mơ hồ/ Với ngọn gió anh thổi vào buồm trang giấy lúc xa bờ./ (...)/ Nhưng từ đấy bổ sung anh, đối lập anh, tác phẩm sống riêng mình/May ra người ta tìm ở đáy thuyền, hạt gạo, đó là anh” (Con thuyền).
Như vậy, trong quan niệm của Chế Lan Viên, người đọc hiển nhiên trở thành người đồng sáng tạo với nhà thơ. Và sự sáng tạo của người đọc nhiều khi tạo ra cho tác phẩm những ý nghĩa mới mà chính tác giả, người sáng tạo ra tác phẩm cũng không ngờ đến. Điều này cũng rất gần với quan niệm của nhóm Xuân Thu Nhã Tập: “Làm xong một bài thơ, người thi sĩ chưa thể gọi đã hoàn tất sáng tác của mình mà phải chờ đợi một tác giả thứ hai, tức là độc giả” (9). Việc đồng sáng tạo của người đọc cũng là một quy luật tất yếu trong tiếp nhận thơ ca. Bởi vì “không nên quan niệm tác phẩm như một cái gì đó cố định, bất biến, trái lại về hình thức cũng như về nội dung, nó mang ý nghĩa của một cuộc đối thoại” (Huỳnh Như Phương) (10). Và cuộc đối thoại trong tác phẩm thơ chính là cuộc đối thoại giữa tác giả và người đọc mà trong đó người đọc là người đồng sáng tạo, là người viết tiếp những trang thơ, là đối tượng mà nhà thơ luôn hướng đến. Điều này đối với Chế Lan Viên không chỉ là quan niệm mà còn là một tâm niệm, một ý thức trách nhiệm của người cầm bút: “Tôi viết cho ai? Cho cả mọi người” (Nghĩ về thơ).
Chế Lan Viên trong quan niệm của mình đã tự nguyện lấy người đọc làm động lực sáng tạo. Vì thế đối với ông, nhà thơ cần phải quan tâm đến người đọc, phải xem những nhu cầu của người đọc là mục đích sáng tạo của thơ ca: “Tả một môi son, có khi anh chỉ nói sắc sen hồ/ Phải giấu tình cảm của anh đi như ém quân trong rừng vắng/ Chỉ vì anh nghĩ đến người độc giả mai sau có cái thú đi tìm vàng trên trang giấy/ Đang bơi thuyền giữa sen hồ bỗng bắt gặp môi son” (Tín hiệu).
Văn Cao khi bàn đến vai trò của người đọc đã viết: “họ không muốn nghe lại những lời đã cũ như không muốn mua lại những đồ cũ mà họ thải đi từ lâu rồi” (11). Như vậy, cả Văn Cao và Chế Lan Viên cũng đều nhận ra rằng: những đòi hỏi của người đọc chính là động lực để nhà thơ phát huy cá tính sáng tạo của mình. Và bởi người đọc là người đồng hành trong sáng tạo, là động lực sáng tạo của nhà thơ nên chính người đọc cũng là người quyết định số phận của thơ ca.
3. Người đọc, “vị quan tòa” quyết định số phận của thơ ca
Khi bàn đến vai trò của người đọc trong việc thẩm định giá trị của thơ, Chế Lan Viên đã chỉ ra rằng: “Và những giọt lệ rưng rưng trên mi người đọc/ Ngọc của người còn trong gấp mấy/ Ngọc thơ anh” (Lệ ngọc). Và khi người đọc trở thành nhân tố quyết định sự sáng tạo của nhà thơ, thì theo ông, họ có quyền tiếp nhận hoặc không tiếp nhận thơ nếu thơ ấy không phải là thứ tinh hoa được kết tinh từ tài năng và lao động nghệ thuật của nhà thơ, nghĩa là họ có quyền quyết định sự tồn tại của nhà thơ và xác quyết giá trị của thơ:
Ôi! chỉ cần một độc giả dù vô tâm đến mấy
Là cũng đủ cho nhà thơ thoát khỏi vạc dầu
Và bay lên chín tầng cao.
(Sợ nhất)
Chính vì nhận thức sâu sắc điều này nên Chế Lan Viên luôn trăn trở khi nghĩ về mối quan hệ giữa nhà thơ và người đọc: “Nghìn lẻ một câu thơ viết ra, người ta quên cả một nghìn/ May lẻ một có người còn nhớ đời nhớ mãi/ Nếu lẻ hai, lẻ ba, lẻ tư nữa thì hay quá/ Ấy thế mà đã được nghìn câu đâu, mong lẻ nỗi gì?” (Nghìn lẻ). Không những thế, trong quan niệm về mối quan hệ Nhà thơ - Người đọc, Chế Lan Viên còn đề cập đến một loại người đọc đặc biệt đó là nhà phê bình. Ông cho rằng quan hệ giữa nhà thơ với nhà phê bình như quan hệ vợ chồng: “Nàng yêu chồng, hẳn thế rồi, nhưng đôi khi thường e ngại ông ta và nàng thích đi dạo một mình... Nhưng làm sao nàng ta có thể sống không có anh ta được chứ, anh ta với tất cả khuyết điểm đáng yêu đáng ghét của mình” (Thơ và phê bình) (12), như là quan hệ bè bạn: “Thơ và phê bình, phê bình và thơ, chỉ có hai bạn trên đường ấy thôi mà. Trái tim và khối óc, cái cá nhân và cái xã hội, ý thức và vô thức, thơ và phê bình, đấy chỉ là hồng cầu và bạch cầu của một sức khỏe chung” (13). Chế Lan Viên cũng đã phân định rõ các loại nhà phê bình: “Nhà phê bình đại diện cho lý trí, không phải thứ lý trí hách dịch, ba hoa, thứ lý giết chết cả thơ lẫn lý “càng luận vào càng đuối lý ra” mà đó là “một thứ lý biết điều, có lý có tình, nhân hậu, nó là người tâm sự của chính tác giả” (14). Ông cho rằng nhà phê bình thơ vừa phải có “tâm” nhưng cũng cần phải có “tầm”, phải có năng lực cảm thụ thơ để “phê bình có thể thấy xa, chỉ vì nó đã được hứng cảm bởi hồn thơ không có thơ trong hồn, anh chỉ có thể thốt lên những lời càu nhàu, chửi rủa, chứ đâu có phải phê bình” (15). Chính vì thế, điều ông sợ nhất là kiểu phê bình xoi mói, thiếu thiện chí, sẵn sàng ném nhà thơ vào vạc dầu của quỉ: “Sợ nhất khi xuống địa phủ, bên vạc dầu của quỷ/ Lại thi nhân cùng thi nhân chạm trán, va đầu./ Nếu bên vạc dầu có nhà phê bình cầm roi càng nguy hơn nữa/ Dẫu nhà thơ có chạy trốn đi thì phê bình gia cũng tóm cổ ném vào!” (Sợ nhất). Quan niệm về nhà phê bình như một đối tượng tiếp nhận của Chế Lan Viên cũng là một điểm nhìn rất gần với lý thuyết tiếp nhận hiện đại. Và đây chính là những nét độc đáo trong quan niệm của Chế Lan Viên về quan hệ giữa thơ với người đọc
Mặt khác, ở bình diện quan niệm của Chế Lan Viên về quan hệ Nhà thơ và Người đọc cũng có sự vận động. Nếu trước kia trong Điêu tàn, người đọc trong quan niệm của Chế Lan Viên cũng phải khác thường, nghĩa là: “Đọc tập Điêu tàn này xong (...) mà cái Buồn, cái Chán, cái Hãi hùng cùng ùa nhau đến bọc lấy hồn anh làm cho anh phải cười, phải gào, phải khóc, thì xin anh chớ hẹp hòi gì mà cười cho mênh mang, gào cho vỡ cổ, khóc cho hả hê rồi gửi cái cười, cái gào, cái khóc ấy cho không trung” (16) thì về sau này, đặc biệt là từ khi đi theo cách mạng và kháng chiến, quan niệm về Nhà thơ-Người đọc của Chế Lan Viên đã có sự thay đổi. Nhà thơ bây giờ không còn là Tinh, là Ma...mà là con người trần thế gắn số phận mình với số phận nhân dân, và người đọc trong thơ ông lúc này là những người bình thường gần gũi, nhà thơ sáng tác là để hướng về họ, dành cho họ:
Những phong thư anh gửi cho hư vô đều bị trả về
Dù tem vẽ các vĩ nhân, thần thánh.
Chi bằng anh đưa cho cô hàng xóm ở hàng rào bên cạnh
Viết cho người độc giả bình thường gần gụi đọc thơ anh
(Thơ cao cả)
Tóm lại: Cũng như Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu, Văn Cao...Chế Lan Viên đã thấy được vai trò của người đọc trong việc tiếp nhận thơ ca. Nhưng nếu các nhà thơ khác chú trọng đến sự tác động của nhà thơ đối với người đọc: “Người làm thơ biết thành lập cho mình một cá tính trong suy nghĩ, trong tình cảm, trong cảm giác những điều mới lạ bao nhiêu là làm phong phú thêm cho người đọc về mặt tư tưởng cảm xúc hay cảm giác. Người đọc bị cuốn sau cùng vào cái khuynh hướng của nhà thơ” (Văn Cao) (17) thì Chế Lan Viên lại chú trọng đến sự tác động của người đọc đối với quá trình sáng tạo của nhà thơ. Người đọc trong quan niệm của ông là người quyết định sự tồn tại của thơ ca và ảnh hưởng đến tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ. Và điều sợ nhất với ông là “không có độc giả”, không có người đồng cảm với nhà thơ nghĩa là không có người nối dài cuộc sống cho những câu thơ: “Chả có gì sủi tăm ở cái hồ lãng quên anh ném câu thơ vào đó/ May ra thế kỷ sau, từ viên sỏi thơ anh sủi lên giọt máu như máu con bông bống/ ”Bống bống bang bang!”... Sẽ có người đến bên hồ mà gọi thơ anh/ Câu thơ trồi lên, đáp lại tiếng gọi mình” (Sủi tăm). Và chính điều này tạo nên sự độc đáo trong quan niệm về thơ của Chế Lan Viên, chi phối mạnh mẽ đến quan niệm thơ của ông không những ở bình diện thơ với người đọc mà còn ở nhiều bình diện khác của thơ.
Phần IV. Yêu cầu đặt ra cho thơ và cho nhà thơ khi sáng tác.
Thơ, là gây ra một đám cháy trong hồn
1. Chế Lan Viên nói về việc chọn đề tài:
Thấy vạn sông hồ, thấy vạn trời mây/ Rồi lui về chạm một cánh chim trên gác nhỏ/ Đấy là cái trọng điểm giữa đất, trời mà anh chốt giữ/ Chớ làm sao anh bao quát vạn đề tài. Từ vạn sông hồ, vạn trời mây của cuộc đời, nhà thơ chọn cho mình một đề tài. Nhà thơ không nên ôm đồm khi chọn đề tài. Không phải đề tài rộng rãi to lớn thì thơ hay. Có khi cái bé nhỏ như một cánh chim trên gác nhỏ lại hóa diệu kỳ. Hãy chốt giữ một cái trọng điểm nhỏ, nhẹ thôi, nhưng hãy biết gọi về trùng lớp trùng lớp suy tưởng, ý nghĩa của đề tài, làm cho mọi người thấy được những chân trời, đến được những chân trời. Và Chế Lan Viên gọi cái trọng điểm giữa đất, trời là muốn nói: đề tài mang cái tinh, chắt lọc, đồng thời mang cái bao la, phong phú của đời. Thơ đứng giữa hai chiều biện chứng đó:
Lấy tinh binh thắng đa binh
Lấy hạt muối có khối hình, 
thắng mặt bể to, không kết tụ kết tinh
… Nhưng cũng đừng tham một hạt muối con mà vứt bể
Vứt cả cái sóng gió xôn xao rất đỗi bể trời
Câu thơ nằm giữa bể sóng không yên và hạt muối chói ngời
Giữa hai mặt đối lập và thống nhất kia, 
chếnh choáng câu thơ ở giữa.
2. Chế Lan Viên nói về tính hàm súc của thơ:
Nhân loại đi xa chớ có vẽ bày/ Từ ngữ kềnh càng, văn chương vô lối/ Cả đời anh, anh thu nhỏ lại/ Chỉ còn cái lõi/ Cho nhân loại mang cùng, nhân loại cầm tay. Với thơ, nhân loại thường tránh dùng nhiều lời truyền đạt ít ý, mà cố gắng thâu tóm được nhiều ý trong ít lời. Tứ tuyệt Đường thi chẳng hạn. Thơ cần phải hàm súc. Nhưng không phải vì thế mà lược bỏ từ ngữ của thơ một cách giản đơn, máy móc. Không nên gạt bỏ cái đáng lẽ mang lại ánh sáng trên toàn thể câu thơ. Thơ không phải hàm súc, cô đặc đến mức thành một câu đố hóc búa. Chính sự phong phú và sức mạnh của tư tưởng khiến cho thơ được biểu lộ một cách gãy gọn và nhiều ý nghĩa. Còn lối diễn đạt cồng kềnh, dông dài thường đi liền với một sự tối tăm mơ hồ của tư tưởng. Cái sâu trong thơ không đồng nhất với từ ngữ đao to búa lớn, những lối diễn tả lạ thường, những câu thơ dài, khoa trương, chải chuốt:
Chỗ này sâu ư? Không - chỉ là nước đục ngầu
Chỗ này cạn ư? Không - chính nhờ nước trong 
nên ta nhìn thấy đáy
Cái sâu cạn trong thơ là thế đấy.
3. Chế Lan Viên nói về ngôn ngữ thơ.
Ai cũng biết ngôn ngữ bao la trước hết là của cuộc đời. Người làm thơ lặn vào trong bể ngôn ngữ đó để chọn nhặt cho mình những a, những b cần thiết. Rồi từ đó qua cảm xúc, ý tưởng riêng và cách trình bày riêng, ngôn ngữ của đời trở thành ngôn ngữ thơ, của nhà thơ, trở thành ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là thứ ngôn ngữ của cảm xúc, của ẩn dụ, của một tầng nghĩa khác không còn là lớp nghĩa thông thường. Mà vẫn phải là thứ ngôn ngữ đong đầy cuộc đời. Chế Lan Viên viết mỗi câu thơ là một lần lặn vào trang giấy/ Lặn vào cuộc đời. Rồi lại ngoi lên, là một lần nữa nhắc lại cái lao động nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ.
4. Yêu cầu với nhà thơ.
a. Quá trình sáng tạo trong thơ.
Nhiều người đến với thơ như một cuộc chơi. Thế nhưng, không thể phủ nhận tính lao động sáng tạo một cách nghiêm túc trong thơ. Tài năng trời phú chưa đủ, còn phải lao động say mê nữa mới mong có thơ cho đời. Thi hứng về rồi, nhà thơ đã nghe thấy tiếng thơ dâng lên rồi; trước trang giấy, hãy viết đi, viết và cứ viết. Câu thơ thứ nhất chưa thành, hãy còn câu thứ hai, câu thứ ba… Thơ vẫn chờ ở phía trước, chờ lúc ta chạm vào, lóe sáng lên.
Một đêm ư? Phù du bay đến có muôn nghìn
Có phải con nào đến chết trước trang thơ đều đem thi tứ cả
… Trăm câu thơ xóa đi cho một câu khỏi ném vào trong gió
… Chữ được mùa; chữ ủ chua; chữ phóng xạ; chữ mùa trăng 
và chữ đêm rằm;
chữ lên men; chữ thành “gien”, mật mã; chữ đu bay, voi lồng…;
chữ hừng đông và chữ chớp đông; chữ ra đồng;
chữ hồng huyết cầu, tế bào vỏ não; 
chữ thụ phấn, thụ tinh sáng tạo…
Dù trăm thứ chữ kia để được gì nào
Số phận chữ à? Là tan biến vào câu
Câu hay ư? Là câu không còn chữ nữa
Lửa cháy lên rồi, chỉ còn có lửa.
Người làm thơ như chàng Prométe đi tìm lửa, thật gian khó mới đến lúc gây ra một đám cháy trong hồn - mới tìm ra thơ.
b. Phải mang con mắt thời đại anh để nhìn trời mưa cũ
Thơ vốn là tiếng vọng thẳm sâu từ tâm hồn con người, nên có đôi khi tưởng như thơ là ở một cõi nào vời xa cuộc sống. Đâu biết rằng, tâm hồn chính là “trái tinh thần” được nuôi lớn trong mỗi con người qua năm tháng cuộc đời.
Cuộc sống vỗ vào thơ anh muôn nghìn lớp sóng
Đừng ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi
Tâm hồn anh là của đời một nửa
Một nửa kia lại cũng của đời.
Không có hồn thơ trên mây, không có hồn thơ trong mộng. Phải sống giữa cuộc đời, đó mới chính là cội nguồn của mọi cảm hứng, cho thơ bay lên. Làm thơ, là vực sự sống ba chiều lên trang thơ hai mặt phẳng. Nhà thơ như con tằm xe sợi tơ, như con ong lấy khách thể hoa làm bản ngã mật của mình. Mỗi bài thơ là tơ, là mật, là hoa quả cuối cùng của một vụ mùa lao động cần mẫn, bền bỉ, sáng tạo.
Đời cho anh nắm đất
Anh làm nên cái bình
Đời cho anh nhành hoa
Anh vẽ lên mùi sứ.
Và mỗi bài thơ, khi thoát thai đều mang một giá trị thẩm mỹ, bước ra và đem đến cho đời; mỗi câu thơ đều muốn hóa tin lành, đều sửa soạn một nắng mai lên.
Thơ, trước hết là nhu cầu tự thân, là cách tỏ bày cá nhân mình. Nhưng thơ, từ nói lên tình cảm của mỗi con người nghệ sĩ qua đó nói tâm tư nhân loại quanh mình. Tiếng hát của nhà thơ là tiếng hát tiêu biểu cho một tập thể; nhà thơ tiêu biểu cho một hoàn cảnh, một dân tộc.
Này ai viết nên Nguyễn để Nguyễn viết nên câu Kiều thế hở?
Sông Tiền Đường chăng? Cỏ Đạm Tiên chăng?
Hay mái tóc hoa râm? Hay cuộc đời đi sứ?
Hay vầng trăng chia đôi giữa cô gái Long Thành 
và Trường Lưu nhị nữ?
Hay cỏ áy bóng tà, tà huy lịch sử?
Có phải mỗi trang Kiều đều có mưa phùn thời đại 
nhuốm vào chăng?
Thơ dựng lại những khoảnh khắc của thời đại, để cho mọi người nghe được năm tháng mình đang sống, hiểu được những tâm tình, trước hết là những tâm tình nhà thơ tự giải tỏa, sau đó sẻ chia với mọi người.
Hoạt động sáng tạo của nhà thơ gắn liền với thời đại, điều đó thể hiện ở chất liệu nghệ thuật lấy từ cuộc sống, ở xu hướng thi pháp chung của từng thời kỳ nhất định, ở quan điểm tư tưởng nhân sinh quan, lý tưởng nghệ thuật… Nhà thơ phải đặt mình trong mối quan hệ thẩm mỹ với cuộc sống thời đại, phản ánh đúng những giá trị thẩm mỹ của thời đại. Vẫn là cơn mưa cũ, cơn mưa của muôn đời, nhưng nhà thơ phải mang con mắt thời đại mình để nhìn trời mưa cũ ấy:
Vô vàn thi nhân trước anh đã viết về thơ
Mắt anh chả còn hồn nhiên đâu sau nhiều từ ngữ
Khéo cơn mưa anh viết bây giờ là cơn mưa của họ.
Thơ in dấu ấn của thời đại nhà thơ đang sống, đồng thời thơ vẫn âm ỉ mang theo trong nó những giá trị truyền thống. Ta nối liền ta trong bề dọc thời gian, câu thơ thế kỷ XX liền hơi với hồn cha ông trong truyện Kiều, Chinh Phụ… Chế Lan Viên thường hay nhắc đến Lý Bạch, Mozart, Rimbaud, Holderlin, Nguyễn Du, Tú Xương, Ôn Như Hầu, Yên Đỗ… là muốn nhắc đến mối quan hệ giữa xưa và nay, quá khứ và bây giờ, truyền thống và hiện đại… Thơ ca nhân loại không phải là một dàn đồng ca, mà là một đa âm; chính truyền thống là cái đem lại tính thống nhất cho tất cả mọi giọng điệu và các khuynh hướng. Thời đại hôm nay nối tiếp trong lòng thời đại hôm qua; thơ hôm nay mang dòng của thơ hôm qua chảy tiếp qua những bến, bờ bãi khác. Bao đời nay, dòng thơ nhân loại vẫn chảy qua từng thời đại, mang tiếng hồn người đi đến muôn đời, đến muôn cùng.
Như sân khấu mở rộng rinh ra bốn phía
Câu thơ Ức Trai viết đâu chỉ cho một mình dân tộc ta xem
Ngoài trời còn trời. Hết trời có bể
Đâu chẳng trái tim người. Đâu chẳng xót oan khiên?
Mỗi nhà thơ tự làm một cuộc hành trình cho mình. Họ bước lang thang giữa cuộc đời bên bờ thời gian thăm thẳm. Họ đi qua cuộc đời không như chúng ta đã đi một cách vô tư. Trên những chặng đường của cuộc hành trình vốn ngắn ngủi nhà thơ biết dừng lại bên một lối mòn, một canh khuya, hay một buổi mai nào đó và lắng nghe tiếng thời gian xuôi chảy. Có thể nói nhà thơ là những con người ý thức về thời gian một cách da diết, bởi đối với họ thời gian đi ngược lại với cái khát khao vươn tới, đạt tới sự hoàn thiện trong sáng tạo nghệ thuật.
Với Chế Lan Viên, cảm giác về sự qua đi của thời gian dâng ngập những trang thơ, nhất là những trang thơ cuối đời của ông. Chế Lan Viên nghe mùi hoa bưởi giữa đêm vắng lặng, nghe giọt sương rơi, một tiếng gà, hay tiếng sông trôi… đều cảm thấy như nghe tiếng thời gian đang cạn vơi đi. Chống chọi lại với thời gian nước xiết, chống chọi với bệnh tật buồn đau cuối đời, là viết. Lao vào mà viết. Viết, để ngăn con đê thời gian ùa vỡ. Viết, để không đồng lõa với thời gian hủy diệt chính mình. Viết, đồng nghĩa với còn tồn tại:
Số ngày còn lại cho anh trên trái đất
Đếm rồi
Như thóc giống đếm từng hạt một
Chỉ còn chừng ấy hạt thôi anh phải tạo ra mùa
Chỉ chừng ấy ngày! Chừng ấy tháng! Chừng ấy năm
Chưa kể bất thình lình đổ ập
Cày đi! Bừa đi! Gieo đi!
Sao còn phải chần chừ? 
Nhưng dù có hì hục, cần mẫn đến thế nào nhà thơ vẫn thấy mình tài năng chưa đầy nửa giọt/ Có hộc tốc chạy đến hết chân trời cũng là đồ bất lực. Nhà thơ nhìn trang giấy biết mình hữu hạn, có chạy ngút hơi về trang giấy/ Về đến nơi/ Nó đã hóa chân trời. Chạy tiếp ư? Nhà thơ không ngần ngại, dẫu trang giấy trắng vẫn như con đường hun hút về vô tận. Cái trò đuổi bắt này như nhà thơ suốt đời xâu sợi chỉ vào cây kim ngay trước mặt/ Chỉ sắp lọt rồi/ Kim bỗng lùi xa, nhà thơ bước lên một bước/ Kim lùi thêm một bước. Nhà thơ chạy một đời không ngừng nghỉ, vắt kiệt sức lực, mà vẫn toi công. Nhà thơ có hóa thành chim gõ kiến gõ vào thời gian/ Gõ vào số phận…/ Gõ vào trang giấy/ Vào câu thơ gầy guộc…/ Chả ra được con kiến thơ nào, hay có làm chim bói cá tìm đến hồ, cái mặt hồ phẳng lặng/ Từng soi bóng muôn đời thi sĩ ấy/ Khi anh đến/ Thì hồ biến thành ra bể/ Ầm ầm/ Ĩ ĩ/ Anh chỉ bói ra bèo bọt quanh bờ. Hỡi ôi! Đời người, đời thơ có hạn, mà đỉnh cao của nghệ thuật cứ lửng lơ phía vô cùng, mà thời gian không đợi, mà tài năng không gặp:
Tài năng ở đâu? Tài năng ở đâu?
Cho tôi với!
Trên trời cao hay dưới bể sâu?
Chỉ cho tôi để tôi tiến tới
Khốn nỗi
Nó ở bên kia bể thời gian không ai chờ đợi. 
Cảm giác lực bất tòng tâm của tài năng hữu hạn trước chân trời nghệ thuật không cùng, của đời người ngắn ngủi trước vô tận thời gian lại là cảm giác mang ý nghĩa tích cực. Nó không làm cho nhà thơ bỏ bút giữa chừng chán nản, mà ngược lại thôi thúc nhà thơ sáng tạo, sáng tạo mãnh liệt hơn. Nhà thơ vẫn khát khao vươn tới hoàn thiện, khát khao vô cùng, và Chế Lan Viên gọi đó là nỗi đau và hạnh phúc:
Mỗi con trai nhả ngọc một lần thôi
Viên ngọc đầu tiên cũng là viên sau chót
Không như ta sau viên ngọc sau cùng làm viên thứ nhất
Đây là nỗi đau và hạnh phúc của con người.
Tóm lại. Một nhà nghiên cứu đã nói đó là niềm khao khát không bao giờ nguôi của một hồn thơ không bao giờ tự thỏa mãn mà luôn luôn tự đòi hỏi, để đi tìm một tầm cao mới, tiến gần hơn đến sự viên mãn, sự tuyệt đối, tuy không bao giờ có thể đạt tới, nhưng nếu không có nó thì cũng sẽ không bao giờ có sự sáng tạo thật sự. Chế Lan Viên cho đó là ngôi sao xa khuya khoắt định hướng cho thơ, là con sông Ngân Hà mà nhà thơ phải đi dọc theo mãi để tìm thơ, chứ không phải như Ngưu Lang chỉ cần sang ngang là tìm ra Chức Nữ:
Ngưu Lang chỉ cần một cái bến con, anh cần có dải Ngân Hà
Anh đi dọc nó tìm thơ chứ không phải bơi ngang tìm Chức Nữ’
Thời hạn đi tìm của anh hết rồi, mà bờ bến tít mù xa
Song dừng lại, anh đâu còn anh nữa…
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1) Edward Hirsh “Thơ và độc giả”, Báo thơ số (7,8 tháng 1+2/2004) tr. 30
(2,12,13,14,15) Chế Lan Viên, Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nxb Tác phẩm Mới, Hà Nội, 1981 tr. 96,113,115,116.
(3) Chế Lan Viên, Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1981 tr. 81.
(4) Tố Hữu, Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 441.
(5) Nguyễn Đình Thi “Mấy ý nghĩ về thơ”, Báo thơ số (2, quý II/2003) tr. 24.
(6) Lưu Hiệp, Văn Tâm Điêu Long, Nxb Văn học Hà Nội, 1999 tr. 270.
(7) J.P.Sartre, Văn học là gì? Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1999,tr. 63.
(8) Trương Đăng Dung, Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr. 12.
(9) Nguyễn Tấn Long, Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển thượng), Sống Mới xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr. 449.
(10) Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 139,140.
(11,17) Tuyển tập Văn Cao thơ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1994, tr. 152, 154.
(16)Võ Gia Trị, Văn chương và nghệ sĩ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 9.
2. Bài viết của Lê Quốc Sinh (Q. Gò Vấp, TP.HCM) Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 376
3. Chuyên đề có sự tổng hợp nội dung từ một số bài viết trên mạng Internet.
 21/11/2018
Lê Thị La
Theo https://www.laocai.gov.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Nghiên cứu và giảng dạy văn học Nhật Bản ở Việt Nam trong hai mươi năm đầu thế kỷ XXI Trong 20 năm đầu thế kỷ XXI, văn học Nhật Bản vẫn ...