Ảnh hưởng của Phật giáo
trong cách đón tết của người Việt
Mỗi dân tộc, dù lớn hay nhỏ, đều có
những phong tục tập quán khác nhau. Trong đó, Tết, tức là năm mới tùy theo lịch
của mỗi dân tộc, có thể nói là lễ quan trọng nhất của bất cứ dân tộc nào. Đối với
người Việt Nam nói chung, Tết cổ truyền, tức năm mới theo lịch
âm, được xem là quan trọng nhất.
Tết ở Việt Nam được cung đón theo các hình thức lễ nghi rất
đa dạng tùy theo phong tục địa phương và sức ảnh hưởng của tôn
giáo. Với người Việt có niềm tin Phật giáo và đa thần nói chung
và người Phật tử nói riêng, hình thức đón Tết của họ thường phản
ảnh nét văn hóa cả dân gian và Phật giáo. Bài viết sẽ tìm
hiểu về ảnh hưởng của tín ngưỡng Phật giáo trong
cách đón Tết của người Phật tử Việt Nam. Bài viết sẽ thảo luận bốn
ý chính như đề cập bên dưới.
Tết cổ truyền của người Việt
Tết cổ truyền của người Việt được cho là có nguồn gốc
từ Trung Quốc vào khoảng năm 2852 đến 2205 TTL1. Tuy nhiên,
vào thời Hùng Vương, khoảng năm 2879 đến 258 TTL2, ở Việt Nam cũng có
Tết. Nó được biết qua truyền thuyết bánh chưng bánh dày, vật biểu
trưng cho ngày Tết xưa nay ở Việt Nam. Sách Lĩnh Nam chích
quái ghi lại câu chuyện nói về nguồn gốc bánh chưng bánh dày và
nói rằng: “Đến ngày Tết vua lấy bánh này dâng cúng cha mẹ. Thiên hạ bắt
chước…”3
Căn cứ vào thời gian vừa nêu thì cả Việt Nam và Trung
Quốc đều có Tết riêng. Nghĩa là, Tết của người Việt lúc đó không theo Tết
của Trung Quốc. Lý do suy luận là Việt Nam lúc ấy là
nước độc lập chứ không phải là thuộc địa của Trung Quốc (bị
đô hộ) như sau này.
Tuy nhiên, các chi tiết nói về Tết ở Trung Quốc rõ
hơn Tết ở Việt Nam. Trong khi Tết ở Trung Quốc được ghi
chép tương đối rõ ràng về sự thay đổi của nó từ thời Tam
Hoàng Ngũ Đế đến đời Hán, thời điểm không còn thay đổi nữa,4 thì
Tết ở Việt Nam chỉ được biết thông qua truyền thuyết bánh
chưng, bánh dày.
Sau khi Việt Nam bị đô hộ mười thế kỷ, Tết của người
Việt có lẽ đã bị ảnh hưởng nhiều bởi Tết của người Trung Quốc.
Dù vậy, cách tính ngày Tết giữa người Việt và người Trung Quốc vẫn có lúc
chênh nhau một ngày như năm 2007, do cách tính múi giờ khác nhau.
Cách đón Tết của người Việt
Như đã nói ở trên, Tết cổ truyền là lễ hội quan
trọng nhất của người Việt vì Tết này được chuẩn bị chu đáo nhất, đầy đủ nhất, phổ
biến rộng rãi nhất và thời gian dài nhất. Theo phong tục ở Việt
Nam, khi thời gian bước qua tháng Chạp (tháng 12 âm lịch) thì
không khí chuẩn bị Tết đã bắt đầu. Sự chuẩn bị Tết được biểu hiện qua các gian
hàng, chợ búa, nơi các hàng hóa chuẩn bị cho ngày Tết được bày biện để buôn
bán. Các cơ quan, tổ chức xã hội bắt đầu lên lịch mua sắm quà Tết
để biếu tặng cho nhau. Ở thôn quê, các gia đình cũng chuẩn bị may hay
mua sắm quần áo mới cho con trẻ để chúng vui chơi trong dịp Tết.
Các gia đình, tùy theo điều kiện và sở thích, trang
trí lại làm cho nhà cửa mới mẻ và sáng đẹp để đón chào năm mới với mong mỏi có
nhiều điều may mắn mới.
Không khí Tết biểu hiện càng lúc càng rõ khi thời gian năm
cũ ngắn dần và các phong tục trước Tết được thực hiện. Trước hết là phong
tục “chạp mả”. Phong tục này thường được thực hiện trong tháng Chạp
và một số ít sau Tết. Thông qua phong tục “chạp mả”, con cháu được giáo dục,
nhắc nhở về mồ mả ông bà tổ tiên, hay nói cách khác là giáo
dục về nguồn cội của mình. Không khí Tết biểu hiện rõ ràng hơn
là từ ngày 23 tháng Chạp, khi phong tục “đưa tiễn ông Táo, hay cúng “ông Táo”
được thực hiện. Một số nơi còn giữ phong tục dựng “cây nêu” với niềm
tin rằng việc làm này sẽ trừ quỷ dữ và điềm xấu trong
khi ông Táo đi vắng và xa hơn là để giữ nét văn hóa. Từ thời điểm
này, mọi hoạt động mua sắm, tiệc tất niên, chuẩn bị Tết… trở nên nhộn
nhịp và làm cho mọi người bắt đầu sống trong không khí Tết.
Đối với những người đi làm xa quê hương, “về quê ăn Tết” là một
cuộc hành hương về cội nguồn với nhiều tâm trạng vui buồn khác
nhau. Những chuyến xe hay phương tiện vận chuyển dịp cận Tết luôn
đông đảo, thậm chí quá tải chiều về làm cho hành khách về quê nhiều khi gặp khó
khăn và không thoải mái. Tuy nhiên, với tâm lý được đoàn
tụ gia đình sau một năm vất vả, nhiều người vẫn cố gắng vượt
qua “ám ảnh” để thỏa mãn tâm nguyện của mình.
Vào ngày cuối năm và lúc giao thời giữa
năm cũ và năm mới, một nghi lễ không thể thiếu đối với các gia
đình người Việt là cúng “gia tiên” hay cúng “ông bà tổ tiên”. Mọi
nhà, tùy theo khả năng và phong tục vùng miền, đều sắm hoa quả và
phẩm vật để dâng cúng tổ tiên và mời họ về dự vui trong ba ngày Tết
thông qua lễ cúng gọi là “cúng rước ông bà”. Khi cúng giao thừa, có gia
đình chỉ cúng “gia tiên” nhưng cũng có gia đình cúng thêm “thiên
địa” ở ngoài trời. Cúng bên ngoài có khi chỉ là thắp nhang van
vái, có khi bao gồm lễ vật tùy theo niềm tin của mỗi gia
đình.
Đón Tết của người Việt, theo phong tục, là ba ngày
nhưng thực tế thì nhiều hơn. “Ba ngày Tết” được gắn liền với câu tục
ngữ “mùng một Tết cha, mùng hai Tết mẹ, mùng ba Tết thầy”. Câu tục ngữ có ý
nghĩa nhắc đến ba nhân vật quan trọng mà một người phải kính trọng và biết
ơn là cha, mẹ và thầy. Mục đích câu tục ngữ nhằm nhắc
nhở mỗi người phải nhớ và thể hiện sự quan tâm đối với họ,
nhất là dịp đầu năm. Thực tế, ít có gia đình nào thực hiện thăm
viếng ba ngày theo trình tự đúng như câu tục ngữ mà thường tùy
theo sự sắp xếp sao cho hợp lý và miễn sao đừng quên đạo hiếu
nghĩa này. Sau ba ngày, lễ “cúng đưa ông bà” được thực hiện để kết
thúc lễ Tết. Tuy nhiên, nhiều người tiếp tục đón Tết đến hết
ngày mùng bảy theo tục “hạ nêu”5. Đối với công chức thì họ phải tuân
theo quy định của nhà nước tùy mỗi năm. Còn với nhiều Phật tử,
đón Tết có khi đến qua rằm tháng Giêng sau khi họ cúng cầu an đầu năm
xong.
Ngoài ra, còn có một số phong tục phổ biến trong dịp
Tết như chúc Tết, mừng tuổi, lì xì (tức cho tiền mừng năm mới), xông đất, xuất
hành, hái lộc, xin xăm… Tất cả tạo nên nét văn hóa “ăn Tết” của người Việt
Nam.
Phật giáo trong cách đón Tết của người Phật tử
Bên cạnh các phong tục vừa nêu trên, cách đón Tết của người Phật
tử nói riêng và những người có niềm tin đạo Phật nói chung
thường phản ảnh nét văn hóa, tín ngưỡng Phật giáo.
Trước hết, sau thời khắc giao thừa, các Phật tử thường lựa
chọn chùa làm nơi đầu tiên để đến cầu nguyện. Một số đi lễ Phật đầu
năm để cầu phước báu và những điều may mắn cho bản thân và gia
đình. Họ nghĩ rằng Phật và các Bồ-tát là những bậc siêu phàm, luôn
luôn từ bi thương xót chúng sanh và sẽ phù hộ họ
khi họ cầu nguyện. Thiết thực hơn, người Phật tử thấy
rằng lễ chùa đầu năm là cơ hội quý báu để trải nghiệm tâm linh và
hòa mình vào không khí thiêng liêng đầu năm nơi chốn thiền môn thanh
tịnh. Sự trải nghiệm đó có thể làm cho tâm họ nhẹ nhàng và thư thái. Mặt
khác, các Phật tử cũng nhân dịp này đến các thầy trong chùa
để mừng tuổi và chúc Tết đầu năm.
Từ chùa trở về nhà, các Phật tử thường có tâm
lý xin “lộc chùa” mang về gọi là lộc đầu năm may mắn. Tập tục “hái lộc”,
trước đây, diễn ra ở đình và chùa nhưng hiện nay tục này hầu như chỉ ở chùa.
Các chùa ngày xưa thường có nhiều cây lớn với nhiều cành lá sum
suê nên việc hái lộc ít ảnh hưởng đến sức khỏe của cây và
ít ảnh hưởng đến mỹ quan cây cảnh. Ngày nay, các chùa, nhất là ở đô
thị không gian nhỏ hẹp, thường trồng những cây cảnh nhỏ nên việc hái
lộc sẽ ảnh hưởng đến cây cảnh và mỹ quan sân chùa. Ý thức được
điều này, người Phật tử đã thay đổi thói quen bằng
cách hoan hỷ nhận những “lộc chùa” khác (được các chùa chuẩn bị) mang
tính biểu tượng như cành hoa, tấm thiệp ghi câu Phật dạy, bao lì xì
nhỏ tượng trưng…Dù hình thức đã thay đổi nhưng ý nghĩa của
nó vẫn là bày tỏ niềm hy vọng có được phúc lộc và may
mắn trong một năm mới.
Ảnh hưởng nổi bật nhất của tín ngưỡng Phật
giáo trong cách đón Tết của người Phật tử Việt Nam là sự cầu
nguyện, hay cụ thể hơn là cầu an đầu năm và thậm chí còn
cúng sao, giải hạn. Rất nhiều Phật tử, bên cạnh việc lễ Phật đầu
năm và tự cầu nguyện, còn ghi tên tuổi của các thành viên
trong gia đình để gởi các chùa đọc tên cầu an. Có người còn tin
vào “sự ảnh hưởng tốt - xấu” của các sao, hạn nên ghi đầy đủ tên các
sao, hạn để thưa các thầy cúng gọi là cúng “nhương tinh giải hạn”. Đáp ứng nhu
cầu tín ngưỡng của quý Phật tử, hầu như các chùa đều thực
hiện nghi thức cầu an, dâng sớ đọc tên cho các Phật tử dịp
đầu năm. Một số chùa còn có các hình thức “cúng sao giải hạn” nhằm
thu hút tín đồ. Phong tục này thường diễn ra từ mùng bốn đến rằm tháng
Giêng nhưng đa số tập trung cúng vào ngày mùng tám và ngày rằm. Do
đó, vào hai ngày này các chùa thường có đông đảo tín đồ Phật
tử.
Một phong tục khác được các Phật tử hưởng ứng những
năm gần đây là “hành hương thập tự”. Qua ngày mùng một Tết, một số
chùa bắt đầu tổ chức cho các Phật tử đi thăm viếng, lễ Phật và cúng
dường các chùa. Mục đích là nhằm tạo cơ hội cho Phật tử gieo
duyên, làm phước đầu năm. Nếu mong muốn cầu an thì đây là cách cầu
an đúng tinh thần nhân quả.
Ngoài ra, một số ít các chùa và các thiền viện, nhân
dịp đầu xuân cũng mở các khóa tu đầu năm cho những ai tận dụng kỳ nghỉ để tu
học Phật pháp. Tu tập đúng pháp cũng là cách cầu an hữu
hiệu nhất.
Sự hài hòa trong cách đón Tết
Có thể nói cách đón Tết của người Việt phong phú và
chịu ảnh hưởng văn hóa tôn giáo. Đối với người Phật tử và
những người có niềm tin vào đạo Phật, sự ảnh hưởng của văn
hóa Phật giáo trong cách đón Tết của họ rất rõ ràng như đã
nêu trên. Điều khiến nhiều người Phật tử thuần thành quan tâm là
vẫn còn những phong tục không phải của đạo Phật nhưng được thực
hiện nơi cửa Phật. Làm sao để có thể vừa đáp ứng được nhu cầu tín
ngưỡng của quần chúng Phật tử, vừa hướng họ tin và thực
hành theo Chánh pháp là một vấn đề rất khó từ bấy lâu
nay.
Phật giáo đồng hành cùng dân tộc là điều không
thể phủ nhận. Phật giáo khi truyền vào Việt Nam đã tiếp biến
văn hóa bản địa và dung hòa với các loại tín
ngưỡng khác. Do đó, không lạ khi chúng ta nhìn thấy các
chùa vẫn có thực hiện các loại tín ngưỡng không phải đạo
Phật, nhất là vào dịp Tết, nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của quần
chúng. Tuy nhiên, sự hài hòa trong chiều hướng đi về Chánh pháp vẫn
là vấn đề cần phải thực hiện.
Hầu hết các chùa đều thực hiện nghi thức cầu
an đầu năm để đáp ứng nhu cầu chính đáng của các Phật
tử. Tuy nhiên, nhiều Phật tử chưa đủ lòng tin vào Chánh
pháp nên vẫn yêu cầu các chùa thực hiện nghi thức cầu
an mang tính pha trộn. Bên cạnh nghi thức đọc tên cầu an mang
tính phổ biến và có thể chấp nhận được, rất nhiều chùa chìu
lòng Phật tử nên còn đọc thêm tên các sao hạn vốn không có trong đạo
Phật. Để các chùa thực hiện nghi thức thuần Phật giáo,
ba điều kiện cần phải có. Một là, nhu cầu của tín đồ thuần tín
ngưỡng Phật giáo hơn. Hai là, ý thức tự giác từ các vị trụ
trì các chùa. Ba là có sự hướng dẫn cụ thể của cơ quan có thẩm
quyền của Phật giáo.
Chú thích:
(1) https://vi.wikipedia.org/wiki, truy cập ngày
5-10-2016.
(2) Giáo sư Mạnh Thát cho rằng đời Hùng Vương từ 2879
TTL đến 43 TL.
(3) Huỳnh Ngọc Trảng, Bánh chưng, bánh tét, bánh
dày, xôi và cốm, Văn Hóa Phật Giáo.
(4) Sự thay đổi về cách gọi tháng Giêng là tháng Dần hay
Tý…https://vi.wikipedia.org/wiki, truy cập ngày 5-10-2016.
(5) Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng Chạp gọi
là “thượng nêu” và hạ xuống vào ngày 7 tháng Giêng gọi là “hạ nêu”.
Hạnh Chơn
Hạnh Chơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét