Trong thơ có họa và trong thơ có nhạc
Tôi đưa bài thơ 'Mưa phố vào tranh' tôi viết cách đây hơn 30
năm trong giờ giảng về tính hội họa (với ấn tượng thị giác) và tính âm nhạc (với
ấn tượng thính giác) trong thơ cho các em sinh viên năm thứ 3 khoa viết văn trường
ĐH Văn Hóa. Điều thú vị, sinh viên Hà Hương Sơn đã có bài bình khá tốt về bài
thơ này, xin giới thiệu với các bạn.Nguyễn Việt Chiến
MƯA PHỐ VÀO TRANH
Chiếc ô đỏ trong màu lam ướt
Một chiều mưa ngược phố em về
Trời sẫm tối vòm cây đẫm nước
Bóng đổ dài theo vệt ô kia
Những dáng nhà ướt chảy nhòe đi
Màu lam phố miết từng mảng tối
Như có mùi ẩm mốc bay ra
Từ ô cửa căn buồng rất tối
Mưa bay chéo mặt tranh mờ xóa
Cả vòm trời loang chảy màu sơn
Những ngôi nhà như đang trượt ngã
Gọi dìu nhau ở phía bên đường
Phố trong mưa khuấy động màu sơn
Giai điệu trắng cầm ca giữ nhịp
Đây bè trầm giọng ngói xô rung
Cùng tiếng gió bè cao xoáy rít
Rất có thể em là nhạc trưởng
Với chiếc ô màu đỏ trên tay
Cả thành phố trong mưa giao hưởng
Màu lam kia cuốn tít gót giày.
(Bài thơ đoạt giải nhì cuộc thi thơ toàn
quốc của báo Văn Nghệ năm 1989-1990)
MƯA PHỐ VÀO TRANH: MỘT BÀI THƠ VỪA BUỒN VỪA ĐẸP
Hà Hương Sơn
Nguyễn Việt Chiến là một trong những nhà thơ đáng chú ý trong
nền thơ ca đương đại Việt Nam. Trước đây, nhiều người biết đến ông qua bài thơ
lục bát 'Cát đợi'; sau này, ông lại nổi lên với bài thơ 'Tổ quốc nhìn từ biển'
như một hiện tượng trong đời sống văn chương nước nhà. Trong thơ của ông, yếu tố
trực cảm gần như đóng vai trò chủ đạo. Đọc thơ ông, người đọc dễ bị mê hoặc bởi
những ngôn từ đầy chất hội họa, những vần thơ đầy tính nhạc điệu. Và bài thơ
'Mưa phố vào tranh' là một tác phẩm mang đậm dấu ấn đó.
Chiếc ô đỏ trong màu lam ướt
Một chiều mưa ngược phố em về
Trời sắp tối vòm cây đẫm nước
Bóng đổ dài theo vệt ô kia
Mở đầu bài thơ là một khổ thơ đầy hình ảnh rất gợi, như “chiếc
ô đỏ”, “màu lam ướt”, “vòm cây đẫm nước”, “bóng đổ dài”, “vệt ô”. Hàng loạt những
ngôn từ gợi lên cho người đọc một hình dung vừa mơ vừa thực về một bức tranh một
chiều mưa trên một khu phố. Ở đó, có cô gái, có chiếc ô, hòa vào gam màu đường
phố, như nhà thơ cố vẽ lại cơn mưa bằng ngôn ngữ thơ. Sự phối màu có chủ ý giữa
màu đỏ của chiếc ô và màu lam của cơn mưa như là nét chấm phá trong hội họa về
hai chủ thể màu đối cực là tối và sáng.
Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa”, thì riêng ở khổ
thơ đầu tiên của bài thơ này, nhà thơ đã cho ta thấy rõ điều đó. Sự vận dụng
khéo léo thi pháp “trong thơ có họa”, nhà thơ đã đưa người đọc cùng chìm vào một
cảnh tượng chiều mưa đầy sinh động.
Những dáng nhà ướt chảy nhòe đi
Màu lam phố miết từng mảng tối
Như có mùi ẩm mốc bay ra
Từ ô cửa căn buồng rất tối
Đến khổ thơ hai, người đọc bắt gặp một sự chuyển động về thời
gian, từ “chiều mưa” bước sang “mảng tối”, nghĩa là bóng chiều đã ngã sang màu
tối. Trong hội họa, phải là một họa sĩ rất tài hoa thì mới có thể vẽ lên được sự
chuyển động về thời gian trong bức tranh. Ở đây, nhà thơ với góc nhìn của một
người họa sĩ, đã khắc tạc vào tâm tưởng người đọc sự chuyển động về thời gian bằng
những gam màu biến đổi, thì kể cũng là tài hoa vậy.
Câu thơ đầu tiên của khổ thơ gợi lên trong suy tưởng của người
đọc một hình ảnh thật khó quên về những căn nhà trong lòng phố. Những dáng nhà
ướt chảy nhòe đi, thực ra, đây là một bức tranh hoàn chỉnh về những căn nhà
trong cơn mưa, dưới đôi mắt của nhà thơ. Những căn nhà đó chứa đầy khúc xạ!
Và điểm đặc biệt, là ở câu thơ trong cùng khổ thơ, nhà thơ lại
để cho người đọc “ngửi” được cái vị của những căn nhà đó. Đó là mùi ẩm mốc. Sự
xuất hiện của khứu giác làm cho ta có cảm tưởng khung cảnh một chiều tối mưa giữa
lòng phố như cô đặc lại, quánh lại, tối càng thêm tối. Câu thơ tạo nên cảm giác
bất ngờ đầy thi vị. Không thi vị sao được, khi ta vừa ngắm cảnh vừa thưởng thức
cái mùi toát ra từ khung cảnh ấy. Nhưng cái thi vị ấy là màu sắc của “tối” và
mùi của “ấm mốc”, nên là cái thi vị của nỗi buồn. Có chăng, đây còn là cái thi
vị của niềm đau nữa! Hay chăng, lúc này nhà thơ đang đứng ở một khu phố cổ? Mùi
ẩm mốc là mùi của quá vãng, mùi của dĩ vãng xa xưa, mùa của những gì đã cũ. Từ
“tối” được lặp lại ở cuối câu thơ thứ hai và thứ tư, như là một nỗi ám ảnh về
bóng đêm, những điều “tăm tối”.
Mưa bay chéo mặt tranh mờ xóa
Cả vòm trời loang chảy màu sơm
Những ngôi nhà như đang trượt ngã
Gọi dìu nhau ở phía bên đường
Khổ thơ này là sự chuyển động trong thi ảnh, thi hình mang
tính dự báo cao. Từng cơn mưa đang chéo vào nhau, như phận người đan chéo vào
nhau, xối thẳng vào đôi mắt nhà thơ, làm cho nhà thơ không nhìn rõ được đâu là
thực đâu là mơ, như tồn tại một dạng thức cảm mơ hồ về chính cái hiện thực, điều
mà nhà thơ đang chứng kiến. Ở đó, nhà thơ nhìn thấy bức tranh đã mờ, màu sơn bị
mưa làm trôi đi (loang ra ngoài khoảng không), những ngôi nhà như không đứng vững.
Hay là những thân phận người không đứng vững? Có chăng, nhà thơ đang nhân cách
hóa những ngôi nhà? Những ngôi nhà là đại diện những số phận đáng thương bị
hoàn cảnh xã hội làm cho trượt ngã?
Và đột nhiên, trong cõi mơ hồ đó, nhà thơ lại nghe vọng lên một
âm thanh quen thuộc, là tiếng gọi. Tiếng gọi cùng dìu nhau để cho khỏi ngã! Tiếng
gọi chính là tiếng nói của con người! Tiếng gọi chính là âm thanh, là một dự
báo về sự xuất hiện của âm thanh. Và trong mường tượng của tôi, có lẽ lúc này
nhà thơ đang dần dần khép mắt lại, lặng nghe để lắng nghe một âm điệu nào đó
đang tràn về. Đó có chăng là tín hiệu của niềm vui?
Phố trong mưa khuấy động màu sơn
Giai điệu trắng cầm ca giữ nhịp
Đây bè trầm giọng nói xô rung
Cùng tiếng gió bè cao xoáy tít
Rất có thể em là nhạc trưởng
Với chiếc ô màu đỏ trên tay
Cả thành phố trong mưa giao hưởng
Màu lam kia cuốn tít gót giày.
Khép lại một bức tranh đẫm màu sắc hội họa, thì ta bắt gặp những
thanh âm. Hai khổ thơ còn lại, nhà thơ chuyên đặc tả âm thanh. Cái âm thanh được
nhà thơ cố công khắc họa làm cho người đọc có cảm giác như chính những câu thơ
chứa đầy âm nhạc. Những ngôn từ đủ đầy để ta hình dung về âm thanh tuyệt diệu của
một cơn mưa, như “giai điệu trắng”, “bè trầm”, “bè cao”, “nhạc trưởng”, “giao
hưởng”. Nhà thơ đã vận dụng những ngôn từ mang tính chuyên ngành trong âm nhạc
để diễn tả một cơn mưa, làm cho người đọc như chìm vào từng tiếng mưa, đắm vào
một bản nhạc giao hưởng. Mỗi giọt mưa rơi vào một vật khác nhau sẽ tạo nên những
âm thanh khác nhau, như là bản nhạc giao hưởng được tạo nên từ những nhạc cụ
khác nhau.
Đặc biệt, câu thơ đầu tiên của khổ thơ cuối, Rất có thể em là
nhạc trưởng, nhà thơ đã đặt nhân vật “em” vào thế chủ động. Vậy là, “bức tranh
mưa” hay là “bản giao hưởng” trong trí tưởng của nhà thơ là do “em” tạo ra?
Chính “em” mới là đối tượng trực tiếp tạo nên những rung động trong tâm hồn nhà
thơ? Hay cơn mưa là cái sắp đặt của số phận, còn “em” là người chủ động nắm lấy
số phận? “Em” là đại diện cho sự hiện diện của con người trong bức tranh thiên
nhiên mưa đó. “Em” là đại diện cho sức mạnh của con người, sức mạnh để chiến thắng
sự buồn bã đến ẩm mốc, thối rửa, của thực tại?
Câu cuối trong khổ thơ cuối, “màu lam” được tác giả lặp lại.
Nhưng cái “màu lam” ấy, cái màu chứa đầy nỗi buồn ấy, cái màu của sự u tối ấy
(dù cái u tối đó có hoặc không hoàn toàn là bóng tối) đã không trở thành màu chủ
đạo nữa. Chính cái bản nhạc tuyệt vời do cơn mưa tạo ra đã làm cho nhà thơ (hay
người đọc) quên đi những gì u tối của một cơn mưa vào buổi chiều tối. Vậy là,
dù không dùng ngôn ngữ hội họa nữa, nhưng nhà thơ đã vẽ lên một gam màu sáng
trong tâm hồn mình. Khi người ta đắm chìm vào cái đẹp, thì những gì u buồn sẽ tự
cuốn trôi đi cùng với điệu nhảy. Chính màu sắc làm ta cảm tưởng về nỗi buồn,
nhưng những giai điệu lại cho ta tìm thấy những vẽ đẹp lấp lánh. Con người,
trong hoàn cảnh bi cảm nhất, cũng sẽ tìm thấy được lẽ sống để vươn lên, nếu biết
hướng đến cái đẹp. Như một câu nói rất nổi tiếng đại ý thế này, cái đẹp cứu rỗi
thế giới. Và nhà thơ, với tâm hồn đẹp của mình, đã cứu vớt nỗi buồn tráng lệ do
hoàn cảnh tạo nên!.
22/9/2020
Nguyễn Việt Chiến - Hà Hương Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét