Chủ Nhật, 18 tháng 4, 2021

Trên đồi cỏ

Trên đồi cỏ

Chương 1
– Mai ơi! Đưa anh xem cái hộp đi?
– Thôi chết! Mai để quên rồi!
– Cái gì Mai cũng quên hết à!
Tuấn càu nhàu khó chịu. Tuấn không hiểu tại sao Mai, em gái nó, có thể quên cái hộp quan trọng đó được. Mọi khi Mai nhớ dai lắm. Mai tinh nhanh và luôn luôn hữu ích bên đứa anh chỉ hơn nó hai tuổi.
Tuấn thắc mắc:
– Thế Mai quên nó ở đâu? Ở trên gác xép hay ở chỗ nào thì nói cho anh biết để anh đi lấy cho.
Mai quay lại khẽ bĩu môi xì một cái tỏ vẻ không tin lời nói của anh. Phải, nếu Tuấn biết cái hộp đó để ở đâu chắc Tuấn đã không dám mạnh miệng như vậy.
Mai nói:
– Cái hộp đó hả? Em để nó ở sân sau nhà, dưới lu nước mưa đó…
Tuấn lẩm bẩm:
– Dưới lu nước mưa! Sân sau nhà…
Mới nghe hai tiếng “sân sau”, Tuấn đã thấy rợn cả người. Trời tối mà phải mò mẫm xuống tới sân sau cái trang trại hẻo lánh giữa vùng núi rừng heo hút này, mới nghĩ đến cũng đủ làm Tuấn sởn gáy rồi. Cậu bé tìm cách lảng:
– Ai bảo em đem tuốt xuống tận dưới ấy làm chi? Sao không để yên trên gác xép cho rồi!
– Ai chẳng muốn vậy. Này nhé, chúng mình vừa tìm thấy cái hộp lạ thì Xuân gọi xuống ăn chuối. Mai đành mang theo chứ biết để đâu lúc bấy giờ? Xuống nhà dưới, Mai lại sợ người lớn thấy rồi hỏi lôi thôi, mới đem giấu tạm dưới lu nước… Thôi, mình chờ cho cô, chú Bảy ngủ đã, chừng đó anh xuống khỏi sợ gì hết.
Tuấn không nói gì. Mai bồi thêm:
– Tuấn nên nhớ là nếu anh Minh và anh Danh biết chúng mình đã tìm thấy cái hộp lạ, mà trong đó không rõ chứa đựng vật gì, họ sẽ kiếm cách tước đoạt của tụi mình ngay.
Tuấn bực mình càu nhàu:
– Tại sao lúc nào cũng Tuấn? Tuấn làm cái này, Tuấn đi chỗ nọ, làm cái kia giùm Mai? Bao giờ Tuấn cũng lãnh đủ… Như trưa nay cũng vậy, lúc ở trên gác xép…
– Thôi, thôi! Thế ai vừa nói “dù ở đâu, trên gác xép hay nơi nào” cũng sẽ đi lấy cho bằng được mới thôi? Ai nói đó? Có phải Mai đâu?… Nhưng thôi, nơi nào đó không phải là gác xép mà là sân sau thì cũng vậy à!
Nghe giọng nói chế riễu, nhìn gương mặt vênh vênh của em gái, Tuấn thấy khó chịu. Nhưng cậu bé không muốn bị chê là nhát sợ không dám xuống sân. Bỗng có tiếng động lạch cạch dưới bếp, giúp Tuấn có cơ hội thoái thác:
– Không được rồi, cô Bảy với chị Tư còn ở dưới bếp kìa, làm sao mà xuống được. Nếu cô Bảy hỏi anh xuống dưới sân làm gì vào giờ này, anh biết trả lời làm sao? Đằng khác, nếu thấy cái hộp, chắc chắn cô sẽ biết là chúng mình lục lọi đồ đạc của ông Bách mất!
Ngẫm nghĩ một lát rồi Mai nói:
– Dễ ợt! Cứ chờ cho mọi người đi ngủ hết là xong! Chừng đó anh tha hồ tung hoành, khỏi sợ chi hết.
Tuấn tìm cách chống chế, vờ ngáp một cái thật dài, nói:
– Thôi, anh buồn ngủ lắm rồi. Không ai đụng đến cái hộp ấy đêm nay đâu! Sáng mai dậy tìm sớm cũng được.
Mai cố gắng thuyết phục anh:
– Anh nên nhớ là cái hộp ấy không phải của riêng ai, mà là của chung hai đứa. Anh muốn biết bên trong đựng gì phải không? Em cũng đâu biết bên trong có gì? Có thể là một vật quý giá không chừng!
Tuấn im lặng đưa mắt nhìn qua cửa sổ. Trăng đã lên cao, ánh trăng chiếu sáng trên những hàng cây xa xa. Giá vào lúc khác, chắc nó sẽ thức thật khuya để ngắm trăng. Nhưng đêm nay, ánh trăng êm dịu tạo thêm những bóng đen ma quái làm cho nó rợn cả người.
Có tiếng động ở chân cầu thang, rồi tiếng lanh lảnh của cô Bảy:
– Tuấn, Mai chưa ngủ hả? Khuya rồi đó!
– Dạ, chúng cháu ngủ ngay đây ạ!
– Đừng quên tắt đèn nghe cháu!
– Vâng, cháu tắt liền đây.
Mai ra tắt đèn. Tiếng chân xa dần, tiếng khép cửa nhè nhẹ. Cảnh vật lại chìm vào yên lặng. Mai chờ một lúc rồi khẽ thì thầm vào tai Tuấn:
– Đến lúc rồi đó, đi đi!
Hai anh em ra phía cửa sổ nhìn xuống sân, cảnh vật như âm u đe dọa. Sân sau vắng lặng. Bóng các lu nước lố nhố như những bóng người ngồi. Căn nhà ngang tối thui. Tuấn quay lại nhìn Mai, thấy nụ cười nửa khiêu khích nửa thách đố của em, nó lần xuống cầu thang.
Tim đập mạnh như muốn nhảy khỏi lồng ngực, miệng khô rang, Tuấn bước nhẹ từng bậc một vì sợ gây tiếng động. Bỗng “binh” Một cái. Tuấn đứng khựng lại. Đầu nó vừa va vào xà ngang một cái mạnh.
– U đầu rồi! Tại Mai hết!
Tuấn phải ý tứ hết sức để khỏi phải va chạm và gây tiếng động. Chân nó vừa đạp xuống nền gạch hoa mát lạnh. Tuấn biết mình đã xuống tới bếp, vội lần ra phía cửa, tìm chiếc chìa khóa. Thu hết can đảm, Tuấn vặn khóa. Cánh cửa xịch mở, Tuấn lách vội ra ngoài. Đứng dựa lưng vào tường, nó đưa mắt nhìn quanh để định hướng. Bốn bề yên lặng như tờ. Tuấn lần mò về phía cuối sân.
Mặt trăng vừa bị bóng mây che khuất làm tối hẳn cảnh vật. Tuấn quờ quạng trong bóng tối. Tay nó như đụng phải cái lu nước. Đúng đây rồi! Tuấn mừng rỡ đưa tay lần quanh lu tìm kiếm. Nhưng nó không thấy gì cả. Tuấn chợt thấy hiện ra trước mắt gương mặt ngạo nghễ với nụ cười chế riễu của Mai. Nó cúi xuống tìm lại một lần nữa cho chắc ăn. Tay nó đụng phải một vật gì cưng cứng. Nhưng đó chỉ là một mảnh gạch vỡ. Bỗng một tiếng kẹt cửa nhè nhẹ vang lên làm Tuấn giật mình quay lại. Cánh cửa nhà ngang đã mở ra tự bao giờ. Bên trong nhà tối đen. Trong khoảnh khắc, Tuấn có cảm tưởng như có ai đang rình mình. Nó vội vàng quay lại chuồn lẹ vào trong bếp và đóng cửa thật mau như sợ bị đuổi theo.
Đứng trong bếp, Tuấn thấy vững tâm hơn, và hít một hơi dài để trấn tĩnh lại. Nó đưa tay lên trán vuốt những giọt mồ hôi lạnh. Chờ cho bớt run, Tuấn lặng lẽ lên lầu. Mai đã đứng ngay đầu cầu thang:
– Sao? Có thấy không?
Tuấn cố gắng lắm mới lắp bắp được mấy câu:
– Không… Nó biến đâu mất rồi!
Mai tròn con mắt ngạc nhiên, giọng ngờ vực:
– Có thật anh đã ra tới lu nước mưa không?
Tuấn quả quyết, sau khi đã lấy lại bình tĩnh:
– Thật mà! Anh còn đụng đầu vào đó u cả trán lên đây nè.
– Đêm sáng trăng như thế này mà anh không trông thấy gì sao? Thế anh có luồn tay tìm quanh phía dưới cái lu không?
– Có chứ!
Biết Tuấn nói thật, Mai chán nản kết luận:
– Nếu vậy chắc có người đã thấy và lấy mất rồi.
– Nhưng ai lấy?
– Có thể là anh Minh, anh Danh, hay cô chú Bảy, chị Tư, anh Mạnh, hay là… ừ, biết đâu chừng…
– Hay ai nữa?
– Anh chứ còn ai vào đây nữa. Anh giấu cái hộp để chọc quê Mai và để coi một mình.
Thấy vẻ thiểu não, không biết biện bạch cách nào của Tuấn, Mai bật cười, nói:
– Đùa chơi vậy thôi, chứ có bao giờ anh giấu Mai điều gì! À mà lúc ra sân, anh có thấy gì lạ không?
– Có…
Tuấn được dịp kể lại cuộc phiêu lưu, không quên phóng đại những chi tiết như cánh cửa vụt mở rộng, rồi như có người bí mật rình rập đâu đây. Nhưng Mai giải thích:
– Người bí mật không ai khác ngoài anh Mạnh. Anh Mạnh ngủ ở đầu nhà ngang. Chắc anh ấy mở cửa đi ra ngoài chứ gì. Thế mà cũng sợ!
Tuấn thấy Mai luôn luôn có lý. Nó vội vã buông màn rồi ngáp vài cái thật dài, cốt ý cho Mai nghe thấy. Tuấn làm bộ như vậy vì sợ Mai lại bắt xuống lần nữa xem có thật anh Mạnh đã mở cửa và cái hộp có thật sự mất rồi hay chưa?
Mai còn đứng tựa bên cửa sổ ra chiều đăm chiêu suy nghĩ. Gió thổi nhè nhẹ, cây cối rì rào. Hình như mỗi lúc gió thổi một mạnh hơn vì bỗng nhiên Mai nghe tiếng cánh cửa mở tung đập vào vách. Mai hốt hoảng quay lại gọi:
– Anh Tuấn, lại đây xem!
Tuấn chạy lại bên cửa sổ, vừa kịp nhìn thấy một bóng đen lủi nhanh về phía nhà ngang. Tuấn chỉ kịp nhận ra bóng một người đàn ông có mái tóc dài, bạc phơ, bay lất phất theo chiều gió.
Mai hồi hộp hỏi nhỏ:
– Anh thấy không?
– Một ông già… chạy thật lẹ.
Mai quả quyết:
– Chắc chắn ông ấy vào trong nhà ngang rồi.
Tuấn chợt rùng mình trước hình bóng ma quái vừa thoáng gặp, lo lắng hỏi:
– Bóng người ấy lủi nhanh vào nhà ngang làm gì nhỉ?
Suy nghĩ giây lát Mai nói:
– Có thể lão già ấy đến đây vì cái hộp…
– Cái hộp của tụi mình?
Mai gật đầu:
– Ừ. Theo Mai nghĩ thì xưa kia ông già Hách - chủ cũ trang trại này - là người hà tiện vì ông chỉ sống có một mình, không muốn giao du, gặp gỡ ai hết. Những người hà tiện thường giấu những của cải họ thu tích được. Vậy cái hộp được giấu kỹ trên gác xép mà chúng ta tìm thấy có thể chứa kho tàng của ông Hách. Còn ông già lúc nãy chắc biết trong hộp có gì nên mới tới đây lấy mất của tụi mình.
Tuấn hỏi vặn:
– Cái hộp nhỏ xíu mà chứa kho tàng gì được?
– Phải rồi. Nhưng Mai muốn nói trong đó chứa vật gì quý giá hay… hay… tấm bản đồ chỉ chỗ giấu kho tàng chưa biết chừng.
Cả hai cùng yên lặng nghĩ đến khám phá quan trọng vừa qua. Thích thú với ý nghĩ kho tàng bí mật với bản đồ tưởng tượng, hai anh em quên hẳn cái hộp đã mất. Tuấn tưởng tượng mình đang lao mình vào một cuộc phiêu lưu kỳ thú và hai anh em sẽ tìm ra một kho tàng giấu kỹ ở một nơi bí mật nào đó. Chắc chắn anh Minh, anh Danh sẽ lé mắt vì hành động của hai em. Chỉ nghĩ đến điều ấy thôi, hai đứa đã tạm thấy hãnh diện lắm rồi.
Lên giường ngủ, Tuấn còn dặn:
– Tụi mình nhớ giữ kín chuyện này nghe Mai!
Mai hăng hái:
– Được rồi. Yên chí đi mà.
Cả hai cùng cười. Mai nói thêm:
– Thật tức cười. Nếu chú Bảy không phạt bọn mình phải dọn cái gác xép, sức mấy mà mình tìm ra cái hộp. Trong cái xui bao giờ cũng có cái hên, phải không anh Tuấn!
Chương 2
Sau một đêm dài, nông trại Bích câu như bừng tỉnh cùng một lúc với ánh bình minh. Tiếng gà vịt om sòm, tiếng lợn ủn ỉn trong chuồng tạo nên một âm thanh hỗn độn. Cô chú Bảy, từ hai tháng nay là những người phải dậy đầu tiên. Cô Bảy vội lo dọn bữa ăn sáng cho cả nhà gồm hai vợ chồng, một đứa con gái, hai người giúp việc và bốn đứa cháu về nghĩ hè. Chú Bảy sửa soạn lên rẫy.
Cô chú Bảy đều là những người khỏe mạnh, chất phác. Họ ưa một cuộc sống yên tĩnh trong sự cần cù làm việc. Vì thế họ mới tìm mua cái nông trại xa xôi giữa vùng Cao Nguyên hẻo lánh này. Tuy vậy, trang trại cũng không xa thành phố Ban Mê Thuột bao nhiêu. Họ rất hài lòng khi mua được trang trại này.
Chú Bảy sửa soạn vừa xong thì cô Bảy cũng dọn lên bữa ăn sáng. Chú với người làm quây quần bên mâm xôi đậu xanh. Một đĩa mè rang với đậu phộng, trộn lẫn muối với đường thơm phức. Vừa ăn, chú Bảy vừa hỏi Mạnh, người giúp việc của chú, xem anh ta ngủ có ngon không.
Anh Mạnh trả lời:
– Dạ ngon. Chỉ có tiếng cửa kêu kèn kẹt làm tức cả mình, chắc tại gió. Lát nữa tôi coi lại xem sao.
Anh Mạnh là người ở vùng này, bản tính chất phác như ngô khoai của ruộng đất. Trông anh vạm vỡ khỏe mạnh lạ.
Còn đang ăn thì Minh và Danh xuống. Cả hai chào mọi người rồi ngồi vào bàn ăn. Minh ăn thấy ngon như chưa từng ăn xôi đậu xanh bao giờ. Ăn xong, Minh, Danh xin chú Bảy cho lên rẫy chơi. Chú Bảy bằng lòng. Hai anh vội vã theo chú Bảy.
Khu rẫy của chú Bảy cách xa trại chừng vài trăm thước, ở lưng triền núi. Trên đó có một bãi cỏ phẳng, rộng, chú Bảy làm rào chung quanh để thả bò. Chú nói với Minh, Danh:
– Trên này đất rất tốt. Cứ nhìn cỏ mọc xanh mơn mởn, bò ăn không hết đủ biết đất màu mỡ chừng nào. Chú thích nhất bãi cỏ đó. Đất vừa rộng, vừa phẳng phiu như cánh đồng lại sẵn cỏ ngon nuôi vài chục con bò là tốt nhất. Tuy nhiên có cái bất tiện là hơi xa trại. Đường lên chỉ có thể đi bộ thôi chứ không mang xe bò lên được.
– Như vậy tới mùa vỡ khoai, sắn hay bắp ở trên rẫy làm sao chú mang ra tỉnh được?
– Chú quên không nói, chỉ có phía từ trại mình lên là khó thôi, còn về phía biệt thự Tùng Lâm có đường xe lên dễ dàng. Mình có thể đi nhờ đường đó ra tỉnh rất tiện.
Vừa đi đến khúc quẹo, một bóng người từ trong lùm cây bước ra. Đó là một người đàn ông dong dõng cao, mặc bộ quần áo nhà binh đã bạc màu, chiếc mũ lính trùm xuống gáy và hai tai trông thật tức cười. Một mớ tóc dài điểm bạc thò ra khỏi mũ. Nước da đen xạm của ông ta tạo cho khuôn mặt rắn rỏi thêm vẻ dữ tợn.
– Chào ông chủ trại, chào các cậu.
Vừa nói ông ta vừa giơ tay ngang mắt chào theo kiểu nhà binh. Giọng nói, cử chỉ lộ vẻ thân mật chứ không có vẻ gì dữ tợn cả.
Chú Bảy chào lại:
– Chào ông cai Bần. Ông đi đâu sớm thế?
Hình như không để ý đến câu hỏi, cai Bần cười tiếp:
– Ông đã biết tên tôi rồi à? Vậy khỏi cần giới thiệu. Hình như ông là chủ mới của trại Bích Câu phải không?
– Không giấu chi ông, tôi mới về đây hai tháng thôi.
Cai Bần cười nhe hai hàm răng vàng khè vì khói thuốc.
– Ông thật can đảm đó. Ông không nghe người ta nói gì về trại Bích Câu của ông già Hách hay sao?
Không đợi chú Bảy trả lời, cai Bần tiếp:
– Lão hách là người kỳ cục. Lão không nói với ai bao giờ. Lão tránh tất cả mọi người. Lỡ gặp ai, lão cúi gầm mặt mau chân lủi mất, dáng điệu y như con chó ăn vụng bột vậy.
Minh, Danh phá lên cười vì lối so sánh của cai Bần. Chú Bảy hình như cũng thích nghe nói về lão Hách nên chú hỏi:
– Chắc ông cai biết rõ lão Hách lắm nhỉ?
Cai Bần mỉm cười:
– Thì cũng như ông thấy tôi hôm nay vậy. Lão Hách chỉ giao tiếp với một người, một loại phù thủy người Thượng, người Nùng gì đó. Không rõ hắn gốc gác ở đâu. Người ta kể rằng hồi còn trẻ hắn bị đuổi khỏi buôn làng vì phạm một lỗi nào đó đối với thần linh. Hắn lang thang đây đó. Sau cùng hắn phiêu bạt đến đây. Hắn cất một cái chòi trên núi để ở và sinh sống bằng nghề gia truyền là nghề phù thủy, thầy thuốc. Đòn phép của hắn không lấy gì làm ghê gớm lắm. Vài đạo bùa, vài thứ lá hái trên núi bỏ gọn trong cái gùi đeo sau lưng.  Bằng ấy thứ cũng đủ làm dân trong vùng kiêng nể hắn. Vì không biết tên, người ta gán cho hắn cái tên Nùng Ô, có lẽ vì nước da đen thui của hắn. Xem chừng hắn cũng bằng lòng với cái tên ấy. Bây giờ hắn cũng già rồi, thấy ít xuống núi lắm.
Chú Bảy tò mò:
– Ông cai nói lão Hách tin vào Nùng Ô lắm phải không?
– Chắc thế. Vì chỉ có Nùng Ô săn sóc cho lão Hách khi lão gần chết. Người ta bảo lão đau đầu, nhưng tôi cho là lão đau vì đàn bò. Đàn bò của lão khoảng hai chục con tự nhiên cứ lăn quay ra chết dần. Nùng Ô săn sóc cho lão không chừng làm cho lão chết sớm hơn vài năm. Thuốc lá cây rừng với bùa ngải mà chữa bệnh gì được. Nùng Ô chỉ làm hại chứ không giúp ích ai được đâu. Từ mười năm nay tôi không hề nói với hắn nửa lời.
Cai Bần ngừng nói, đưa mắt nhìn lên phía núi cao như có ý tìm cái chòi của Nùng Ô ẩn hiện đâu đó sau lùm cây. Đôi mắt cai Bần chiếu ra những tia oán hận. Cai Bần quay lại mỉm cười:
– Ồ, tôi đứng đây nói tràng giang đại hải với ông làm mất thì giờ của ông quá. Thôi lên rẫy cho sớm, lần khác sẽ gặp lại. Chào ông, chào các cháu.
Cai Bần giơ tay chào như lúc mới gặp rồi nhanh nhẹn quay gót.
Chú Bảy nói:
– Cai Bần là người duy nhất ở đây còn nuôi một đàn bò lớn độ vài trăm con. Ông ta sống một mình, tự tay làm lấy mọi việc. Đàn bò của ông cha để lại mỗi ngày mỗi đông thêm. Ở một mình còn biết nói chuyện với ai, nên mỗi khi gặp ai là ông ấy lại nói liên hồi như để bù lại những lúc yên lặng một mình.
– Thưa chú, sao tên ông ta lại là cai Bần?
– À, dân ở đây gọi lão như thế. Nghe đâu ông nội lão tên là Bần. Khi còn trẻ ông ấy đi lính làm tới chức cai đội gì đó. Về hưu đi đâu người ta cũng gọi là cai Bần, mãi rồi thành thói quen. Đến đời con, rồi đời cháu, người ta không biết tên gì khác ngoài cái tên cai để gọi. Cai Bần bây giờ là cháu.
Minh nhận xét:
– Ông cai có vẻ vui tính và tử tế. Mới gặp đã quen ngay.
– Hôm nào rảnh, các cháu sẽ lên thăm ông ta. Chắc các cháu sẽ được nghe nhiều chuyện thú vị.
Danh mơ mộng:
– Dám cháu phải xin chú ở với ông ấy một ngày để nghe chuyện không thôi.
Anh Mạnh lùi lũi đi trước đã bỏ cách xa chú Bảy và anh em Minh, Danh. Anh đang leo lên dốc. Bỗng nhiên anh đứng lại, ngập ngừng rồi làm hiệu cho ba người lên mau vì hình như có chuyện gì lạ xảy đến cho đàn bò của chú Bảy.
Chương 3
Chú Bảy, Minh và Danh vội vã leo lên bãi cỏ. Tới nơi, chú Bảy vừa thở hổn hển vừa hỏi:
– Cái gì vậy Mạnh?
Mạnh ấp úng trả lời, giọng xúc động:
– Mấy con bò… ở đàng kia…
Chú Bảy nóng nảy:
– Mấy con bò làm sao? Nói mau lên.
Thay vì trả lời, Mạnh chỉ tay về phía bãi cỏ. Năm, sáu con bò đang bình tĩnh gặm cỏ, trên cổ lủng lẳng sợi dây thừng chúng kéo lê dưới đất.
– Chó thiệt… chú Bảy vừa càu nhàu vừa chạy về phía mấy con bò, mặt chú càng lúc càng đỏ lên vì tức giận.
– Hình như mấy con bò bị thương sao kìa?
Mạnh, Minh và Danh cũng vừa chạy đến. Họ thấy hai bên sườn mấy con bò bị sướt một vệt dài, máu chảy đọng lại tím bầm. Trên đầu chúng cũng có vài vết thương.
Chú Bảy nhìn đàn vật tức giận bảo Mạnh:
– Thế này là nghĩa lý gì? Lần đầu tiên tao để cho mầy đóng cọc cột bò, thế mà mấy lại quên đóng cọc. Tại sao mầy ngớ quá vậy Mạnh?
Mạnh đỏ bừng mặt, mạnh dạn trả lời:
– Tôi đã đóng cọc hẳn hoi và cột dây thật chắc như mọi khi.
Môi Mạnh run run, hai tay nắm chặt. Minh bỗng thấy có cảm tình với Mạnh và tin chắc anh ta không có lỗi gì.
– Thế tại sao bò có thể ra chỗ này mà ăn cỏ được, một khi mầy đã cột kỹ rồi? Ai đã nhổ cọc?
– Thưa ông chủ, tôi đã đóng cọc, tôi biết chắc chắn là tôi đã đóng cọc. Chính tay tôi đã đóng.
Mạnh như không tìm thấy câu trả lời nào khác để chứng minh sự vô tội của mình. Minh xen vào nói đỡ giùm Mạnh:
– Thưa chú, tại sao mấy con bò này lại bị thương?
Câu hỏi làm chú Bảy suy nghĩ. Chú hít một hơi dài như để lấy lại bình tĩnh.
– Ừ nhỉ, có lẽ chúng bị thương vì quệt vào rào kẽm gai. Như vậy thì…
Chú Bảy ngừng lại đưa mắt nhìn quanh như cố tìm ra nguyên do đã làm mấy con vật bị thương.
– Như vậy chắc có vật gì làm cho chúng sợ rồi chạy cuống lên tìm lối thoát thân.
Một ý tưởng lóe lên trong đầu Danh:
– Thưa chú, cũng có thể là một người nào đó.
Một người nào đó… phải rồi. Nhưng ai đã làm cho đàn bò hoảng sợ? và với mục đích gì? Đầu óc chú Bảy rối bời. Chú đi lại góc sân trống không có cỏ mọc. Dấu vết lỗ cọc còn y nguyên. Chú Bảy quay lại nói với Minh, Danh:
– Chú chưa thấy chuyện lạ như thế này bao giờ? Cháu Minh với Mạnh hãy xuống suối lấy nước lên rửa các vết thương cho mấy con bò đã. Để rồi về nhà mình sẽ tính.
Những vết thương không lấy gì làm nặng lắm. Bốn người còn đang săn sóc cho mấy con vật thì một người từ hướng ngược với trại Bích Câu đi tới. Vừa thấy bóng người đàn ông, chú Bảy lẩm bẩm:
– Hắn đến vừa đúng lúc. Mà hắn đến làm gì đây?
Người đàn ông dáng mập mạp, mình mặc bộ đồ mát, đầu đội mũ cói, hai tay chắp sau lưng, bước chậm rãi như một điền chủ đi thăm ruộng.
Vừa đến gần hàng rào, ông đã lên tiếng:
– Chào ông chủ trại, chào các chú nhỏ.
Ông ta bám tay vào cột rào, một tay từ từ giở mũ xuống khỏi đầu. Minh không có chút cảm tình với cái đầu hói, với khuôn mặt đỏ bầm, và nhất là với cặp mắt ti hí của ông. Minh như bắt gặp vẻ giả dối trong con người ấy.
Minh, Danh ngạc nhiên khi thấy chú bảy làm thinh không đáp, chỉ có Mạnh gượng gạo chào lại.
Làm như không để ý đến thái độ lạnh nhạt của chú Bảy, ông vui vẻ tiếp:
– Trời hôm nay đẹp quá. Tôi muốn đi một vòng rồi ghé thăm trại của ông. Tôi hơi đau đầu, đi dạo như thế này hy vọng sẽ bớt đau.
Chú Bảy vẫn im lặng. Sự lạnh nhạt của chú Bảy làm cho Minh, Danh thắc mắc.
Người đàn ông lại tiếp tục cuộc độc thoại:
– Tôi nghĩ hôm nay cũng là dịp tốt để hỏi xem ông chủ có thay đổi ý kiến… về cái bãi cỏ này không?
Như một trái bom nổ ngay dưới chân, chú Bảy bật dậy như cái lò xo, mặt tức giận.
– Ông Thanh Quí, tôi đã xin ông nhiều lần rồi là đừng bao giờ hỏi tôi về cái bãi cỏ này nữa. Đất này không bán đâu. Bao lâu tôi còn là chủ trại Bích Câu, bấy lâu ông đừng hy vọng mua được mảnh đất này. Ông hiểu rồi chứ?
Mặt người đàn ông có tên gọi Thanh Quí như đỏ hẳn lên. Ông hít một hơi dài như để lấy sức nói tiếp. Nhưng nghĩ sao ông lại thôi. Cặp mắt ti hí bỗng nhiên tròn hẳn lại lộ vẻ ngạc nhiên, vì ông vừa để ý mấy vết thương của đàn bò.
– Ồ, mấy con bò làm sao thế? Chúng bị thương à?
Chú Bảy không trả lời, quay lưng lại ông Thanh Quí.
– À, tôi hiểu rồi. Những con mòng rừng là nguyên nhân của mấy vết thương. Một con mòng rừng đủ làm điên đầu mấy con vật đáng thương này. Xui cho ông rồi đó, ông chủ trại ơi! Thôi chào ông nhé.
Ông Thanh Quí quay trở lại đường cũ, bỏ ý định thăm trại Bích Câu. Chờ cho ông đi khuất, Minh, Danh đến hỏi chú Bảy:
– Ai đó chú Bảy?
– Một thương gia ở Sài Gòn, bây giờ có tuổi để lại cho con cái coi sóc công việc, lão về đây nghỉ ngơi. Lão mua biệt thự Tùng Lâm khuất bên kia dốc núi. Bãi cỏ này đẹp. Lão ngắm nghé muốn mua từ lâu rồi, nhưng lúc bán lão lại không có mặt ở đây. Hai lần lão đến tìm chú, điều đình mua lại, chú không nghe. Lão cứ tưởng có tiền là làm được mọi sự.
Minh ngắm bãi cỏ thoai thoải trải dọc theo triền núi một màu cỏ xanh mơn mởn. Danh từ nãy tới giờ đứng yên, cất tiếng hỏi Mạnh:
– Anh Mạnh có tin chuyện con mòng không?
Mạnh giật mình khi nghe Danh hỏi, mặt anh thộn ra, lẩm bẩm:
– Tôi chỉ biết chính tay tôi đã đóng cọc và cột dây thật chắc.
Danh mỉm cười vì câu trả lời của Mạnh. Xem chừng Mạnh còn “hận” câu chuyện lúc nãy.
Trên đường về, chú Bảy cắt nghĩa cho Minh, Danh biết tại sao phải cột bò lại không cho ăn cỏ ban đêm. Lý do là vì sợ chúng ham ăn cỏ tươi nhiều quá thành bội thực rồi sinh ra chứng đầy hơi. Con vật bị chứng đầy hơi sẽ trương bụng lên và chết ngạt. Cách chữa duy nhất là chọc thủng cạnh sườn bò cho hơi thoát ra.
Chú Bảy tiếp:
– Theo ý chú, đàn bò của lão Hách chết vì bệnh này. Lão già yếu, bệnh tật nên không thể săn sóc canh chừng đàn bò được.
– Vậy sao bò của chú không bị bệnh đó, vì đêm qua chúng có thể ăn cỏ tự do?
Chú Bảy không trả lời ngay. Suy nghĩ giây lâu, chú mới nói:
– Có lẽ vì sợ hãi quá, chúng quên cả việc gặm cỏ.
Câu giải thích có vẻ hữu lý. Mọi người yên lặng đi vì đã gần tới nhà. Minh chợt nhớ tới hai em, quay lại hỏi Danh:
– Không biết hai đứa nhỏ đang làm gì ở nhà? Kể ra bắt chúng ở nhà dọn dẹp cái gác xép, nghĩ cũng tội!
– Hình phạt ấy (bắt Tuấn, Mai ở nhà dọn gác xép) biết đâu lại là một trò vui, một cơ hội để chúng bày đặt ra những trò nghịch ngợm khác!
Tuy nói thế, Minh, Danh không mảy may hay biết chuyện hai đứa nhỏ tìm thấy cái hộp trên gác xép.
Chú bảy không muốn mấy đứa nhỏ phải sợ sệt, dặn các cháu đừng kể cho ai nghe chuyện hồi sáng. Chú kể sơ lược cho cô Bảy biết qua. Trại Bích Câu vẫn giữ vẻ bình thường. Buổi chiều, mọi người đều bắt tay vào việc dọn dẹp sạch sẽ trại.
Đang dọn trên phòng, Tuấn hỏi Mai:
– Chúng mình làm gì bây giờ hả Mai?
– Ra giúp Xuân quét sân.
– Phải rồi, quét sân rồi mình có thể vào phòng anh Mạnh xem xét. Biết đâu anh chàng chẳng lấy cái hộp. Rồi vào nhà ngang nữa, xem chỗ lão già có mái tóc bạc biến mất đêm qua.
Mai mỉm cười thấy Tuấn run run khi nói đến ông già tóc bạc. Xem chừng Tuấn còn sợ dù giữa ban ngày. Mai nghĩ nhà ngang không có cửa nào khác ngoài cái cửa chính và cửa thông sang phòng anh Mạnh, như vậy lão già biến ra lối nào?
Mai đề nghị:
– Ngồi đây bàn tính vô ích. Tụi mình cứ xuống xem tại chỗ mới biết rõ.
Cả hai cùng xuống sân. Hai anh Danh, Minh đang lau cửa sổ nhà bếp, trong khi Xuân đang xếp gọn đống đá nhỏ. Mai kiếm một cái chổi rễ, Tuấn một cái xẻng. Cả hai phụ quét sân và hốt rác.
Chương 4
Mai cầm chổi quét sân, Tuấn theo sau, tay cầm xẻng, tay cầm thùng rác nhỏ. Thỉnh thoảng nó dừng lại nhặt rác rưởi, đá vụn, cục đất bỏ vào thùng. Mải quét, nhặt, hai anh em đã đến bên lu nước mưa lúc nào không hay. Thấy lu nước, Mai lại nhớ tới cái hộp:
– Mất cái hộp uổng thật.
– Phải chi Mai đừng quên!
Mai chép miệng tiếc rẻ. Cô bé muốn tự tay soát lại xem cái hộp có mất thật không, nên cúi mình xuống cố gắng luồn tay dưới đáy lu.
– Thấy không Mai?
Mai ra dấu cho Tuấn canh chừng để khỏi ai thấy:
– Im! Đừng nói gì hết… cái gì như cái hộp đây rồi!
Tuấn ngạc nhiên há miệng không nói nên lời. Mai kéo ra một cái hộp nhỏ rồi đưa cho Tuấn, giục anh giấu vào túi quần. Sợ em nghi ngờ hành động của mình đêm qua, Tuấn ngẩn ngơ nói:
– Thế mà đêm qua…
Tuấn đưa mắt nhìn quanh sân. Một tia sáng vụt lóe lên trong đầu. Nó vừa nhận thấy cái lu ai mới kê gần cửa bếp. Đêm tối, thêm vào đó sự sợ hãi đã làm nó nhận lầm. Tuấn minh oan:
– Đêm qua Tuấn lại tìm ở cái lu kia, hèn chi mà không thấy!
Mai nhún vai, bĩu môi ra vẻ không tin. Hai anh em lại tiếp tục công việc như không có gì xảy ra, để người lớn khỏi để ý. Một lúc sau, Tuấn khẽ hỏi:
– Này Mai, như vậy lão già tóc bạc đến đây làm gì? Vì lão đâu có lấy cái hộp ?
Nhỏ Mai cau mày, mải vui nó quên mất bóng người đàn ông đêm qua.
– Ừ nhỉ! Thế mà Mai quên mất. Nhưng thôi, làm lẹ lên… xong rồi mình sẽ vô nhà ngang ngay.
– Nhất là đừng cho ai thấy hết, cả Xuân nữa.
Tuấn muốn tạo vẻ hồi hộp cho cuộc chơi, để làm tăng vẻ bí mật rùng rợn. Sự tìm thấy cái hộp cũng như hình phạt hai anh em phải chịu là một trò chơi không hơn không kém. Như khi làm một bài toán, Tuấn muốn hưởng cái thú vị tìm ra đáp số mà không cần nhờ ai giúp, chúng nó cũng muốn tìm giải đáp thích hợp cho những điều chúng cho là bí mật trong cuộc chơi này. Vừa quét đến cửa nhà ngang, Tuấn thì thầm vào tai Mai:
– Vào không? Mọi người đều quay đi chỗ khác, không ai để ý đến tụi mình hết.
Thay vì trả lời, Mai kéo tay Tuấn lủi lẹ vào nhà ngang. Đưa mắt nhìn quanh, hai anh em chỉ thấy từng lớp màng nhện giăng đây đó, một vài cái xẻng cuốc để gọn gần cửa. Có lẽ căn nhà ngang nầy lão Hách dùng làm nhà kho chứa lúa thóc, khoai sắn sau mỗi mùa gặt hái. Trừ cửa chính ra, chỉ còn có mỗi một khung cửa sổ vuông ở tuốt trên cao. Mai nhìn cửa sổ rồi nói:
– Chắc lão già đêm qua chui ra bằng lối này.
Nhưng Mai thấy nhận xét ấy không đúng vì cửa sổ có song sắt. Làm sao người có thể chui qua lỗ chui của một con mèo?
Mai quay lại bảo anh:
– Chúng mình đứng đây lâu lỡ ai bắt gặp nghi ngờ thì nguy. Để lát nữa hãy xuống xem lại. Bây giờ nhân lúc mọi người còn đang bận rộn, tụi mình lên gác xép đi…
Khi đi ngang qua chỗ hai anh Minh và anh Danh làm, Mai nghe hai anh nói với nhau:
– Cho tới bây giờ, tớ cho những chuyện đó là những chuyện nhảm nhí, dị đoan. Nhưng tớ cũng bắt đầu tin vào câu nói: “Không có lửa làm sao có khói”. Lạ thật…
Mai cố nhớ câu cuối cùng, rồi vội lên lầu. Tuấn theo sau, vờ dừng lại tìm vật gì trong bếp để nghe. Danh hỏi:
– Cậu muốn ám chỉ đàn bò của lão Hách chết một cách bí mật?
– Bí mật? Chưa chắc đâu cậu ơi. Chú Bảy nói có lẽ chúng chết vì chứng dầy hơi.
– Đầy hơi ông bạn ạ!
– Ừ, thì đầy hơi. Bà bán hàng tạp hóa ở bến xe cũng nói y như cai Bần vậy.
– Về chuyện lão Nùng Ô hả?
– Ừa.
– Bà ta chỉ lập lại những điều cả vùng đều biết.
– Có thể lắm. Nhưng không lẽ cả cai Bần nữa sao? Tớ thấy ông ấy đáng tin cậy lắm chứ. Ông ấy nói như chính mắt thấy mọi việc.
Tuấn sợ em chờ lâu, nó vội leo lên gác xép. Mai ra hiệu cho nó đóng cửa lại.
– Nóng thấy mồ!
– Kệ! Bộ muốn người lớn thấy sao?
– Mai có nghe anh Minh nói cái gì mà khói với lửa không?
– Chuyện các anh ấy nói có ăn nhằm gì tới việc của tụi mình! Anh bỏ cái hộp ra đi, Mai có kéo đây rồi.
– Bộ Mai tính cắt túi vải bọc ngoài hay sao?
– Không, Mai cắt chỉ thôi. Lỡ lúc mở ra có cái gì quan trọng mình đâu có quyền giữ. Chừng đó Mai sẽ may lại, khỏi sợ ai biết mình đã mở.
Tuấn thò tay vào túi quần bên này, lại thò tay qua túi bên kia. Nó muốn lợi dụng cơ hội để ghẹo Mai. Nhỏ Mai cứ “bấn” cả ruột lên mỗi lần thấy anh rút ra nào khăn tay, nào xâu chìa khóa, nào cục phấn. Cuối cùng Tuấn cũng phải lôi “nó” ra. “Nó” chỉ là một gói nhỏ bọc vải đen đã bạc màu. Bụi bặm bám vào các góc cạnh vàng khè. Chắc ông già Hách quên nó lâu rồi.
– Mai biết không, cái hộp này giống như cái hộp xì-gà thỉnh thoảng ba mua đó.
Mai gắt nhẹ:
– Thôi đưa đây mau lên, mở lẹ cho rồi.
Mai cầm lấy cái gói rồi đưa mũi kéo nậy từng mũi chỉ. Tuấn nóng lòng đi qua đi lại, hồi hộp.
– Tốt hơn là Tuấn ra ngoài cửa canh chừng coi có ai lên không.
Tuấn căn dặn:
– Khi nào xong, Mai nhớ gọi anh ngay nghe. Không được xem một mình đâu nghe.
Tuấn hé cửa nhìn xuống, dưới nhà vẫn yên lặng trừ tiếng anh Mạnh bổ củi ở phía sau.
– Rồi anh!
Tuấn khép cửa chạy vào, Mai vừa mở xong lớp vải bên ngoài. Loay hoay thế nào Mai làm rớt xuống sàn, nắp hộp tung ra. Một miếng giấy trắng cũ, gấp vuông vắn rớt ra theo. Tuấn vội nhặt lên mở ra coi.
Mai hồi hộp nhận thấy những nét vẽ thô sơ nguệch ngoạc trên mặt giấy trắng đã ngả màu vàng.
– Trông giống mấy hình học Tuấn hay vẽ nháp ghê.
– Hình gì mà ngoằn ngoèo như rắn như giun thế này? Thế còn những chấm đỏ đỏ với hình chữ nhật nhỏ ở giữa kia là gì vậy Mai nhỉ?
Mai nhìn theo tay Tuấn chỉ. Ở giữa có một hình chữ nhật chấm bằng mực đỏ, nhưng đã nhạt màu. Hình như người vẽ muốn đánh dấu chỗ đó. Tuấn chăm chú nhìn kỹ, như thấy điều gì lạ.
– Có chữ viết ở trong góc này Mai. Để Tuấn đọc cho: S. đ-a-c đ-i-ền. Mực mờ khó đọc quá. K-h-u… khu… BC… Lũ… 26. Thế nghĩa là gì?
Mai coi kỹ lại, lẩm bẩm:
– Sì đac điền, đắc điền hay đặc điền nghĩa là gì? Hay là tên thật của ông Hách? Mai mới nhớ tụi mình đi coi tuồng có nghe tên gì tương tự như vậy. Hình như Sơ Điền Thứ Lanh gì đó.
– Sơn Điền Thứ Lang chứ Mai. Nhưng đó là tên Nhật Bổn dịch ra. Còn đây không lẽ đọc là Sơn Đắc Điền khu BC lũ 26 à!… Ông Hách không phải người Nhật, cũng không phải người Thượng. Chẳng lẽ ông ấy vừa lai Nhật vừa lai Thượng sao? Vô lý!
– Hơn nữa ông ấy viết tên vào góc hình này làm gì? Ngớ ngẩn thật. hay là…
– Muốn biết ngay chỉ có cách hỏi người lớn. Tiếc một điều là không hỏi anh Minh được.
– Im! Nhớ không được hở một tiếng nào nghe. Anh Minh với anh Danh mà biết được là kể như… mình chỉ còn nước đưa cho họ tấm giấy này. Rồi trơ mắt nhìn họ âm mưu lén lút đi đàng này, giả bộ bí mật đi đàng kia. Biết đâu họ chẳng khám phá ra điều gì?
– Dù sao cũng phải tìm hiểu mấy tiếng “S đắc điền”. Không lẽ khi không người ta viết vào đây chơi à? Còn Khu Lủ chắc là tiếng Thượng, mình sẽ tính sau.
– Được rồi, nhưng Tuấn nhớ chép ra giấy, kẻo khi hỏi mà lôi tấm giấy này ra coi lại là lộ ngay.
– Mai này, hay mình vô mượn cô Bảy cuốn Việt Nam Tự Điển tìm thử coi. Như vậy khỏi sợ ai biết.
Chợt nghe có tiếng chân người, Mai ra dấu cho Tuấn nhón gót đến gần vách nhìn qua kẽ hở. Anh Mạnh đang đi vào nhà, vừa đi anh vừa lẩm bẩm những gì nghe không rõ.
Tuấn như nhớ ra điều gì, quay lại hỏi:
– Mình quên không hỏi anh Mạnh xem đêm qua có nghe thấy gì không?
– Phải đó, nhưng bây giờ Tuấn hãy cất kỹ cái hộp này đi đã!
Tuấn giấu vội cái hộp vào một kẽ hở dưới sàn gác.
Cô Bảy bận giặt một chậu đầy quần áo nên không lấy cuốn Tự Điển cho Mai, Tuấn ngay được. Mai nóng lòng muốn biết ngay nên đi tìm Minh.
Minh và danh vẫn còn đang lau cửa. Minh vừa cắt nghĩa cho Danh về bệnh chó dại. Danh thán phục sự hiểu biết của Minh, nửa khen nửa đùa:
– Cậu thật thông minh xuất chúng, Minh ạ!
Mai vừa đi đến đó, nắm lấy cơ hội:
– Anh Minh thông minh của em ơi, anh cắt nghĩa cho em biết “sì đặc điền” là gì đi anh.
Minh không nghe thấy tiếng “sì” quay lại chọc em:
– Đặt điều hả? Đặt điều nghĩa là… như cô đang đặt điều hỏi tôi đó.
Minh, Danh cùng phá lên cười. Mai đỏ mặt ấp úng:
– Không, em hỏi đặc điền cơ!
– À ra thế, nhưng phải sửa lại là “đạc điền” mới đúng. Anh có nghe nói ở đâu rồi, nhưng mà…
Minh ra chiều suy nghĩ, rồi tìm cách nói lảng:
– Mà Mai thấy hai tiếng ấy ở đâu?
Cô bé ngẩn người, không ngờ Minh lại hỏi vặn như vậy. Chưa biết trả lời ra sao thì Danh đã xen vào:
– Anh dám cá là Mai với Tuấn chơi ô chữ chứ gì?
Mai mừng rơn:
– Đúng rồi đó anh Danh, tụi em chơi ô chữ trong tờ báo cũ.
Minh thắc mắc:
– Như vậy phải có giải nghĩa chứ, không có làm sao tìm ra hai tiếng này?
Mai đâm ra lúng túng, câu hỏi này dồn Mai vào thế bí. Cũng may, lần này Danh lại tiếp cứu kịp thời.
– Được chứ sao không? Có thể đó là hai tiếng ở trong ô chữ trước hay ở trong một câu nào đó mà Mai không hiểu.
Mai thở phào một cái, thầm cám ơn anh Danh. Minh để ý đến cử chỉ và nhất là câu trả lời vội vã của Mai.
– Phải rồi, em nghĩ ra rồi, nó ở trong ô chữ trước, thế mà em không biết. Cám ơn anh Minh và nhất là anh Danh nghe.
Mai mừng ra mặt, ba chân bốn cẳng chuồn đi chỗ khác. Minh ngừng tay hỏi Danh:
– Cậu có để ý gì không? Mai cứ bám vào mấy lời giải thích vu vơ của cậu. Xem chừng nó không muốn nói sự thật. Tụi mình phải coi chừng hai đứa mới được!
Danh vừa cười vừa hỏi:
– Thế cậu có hiểu “đạc điền” là gì không?
– Không! Còn cậu?
– Cũng mù tịt nốt.
Tuấn chăm chú lật từng trang cuốn Việt Nam Tự Điển, miệng lẩm nhẩm đọc, rồi Tuấn mừng rỡ la lên:
– Thấy rồi đây. Đạc điền là phép đo ruộng đất.
Mai thắc mắc:
– Không lẽ tấm giấy này ghi chép những phép tắc đo ruộng đất à?
– Để im Tuấn đọc tiếp… Sổ đạc điền là sổ để ghi chép… à, anh nhớ ra rồi. Chữ S viết tắt tức là chữ sổ. Sổ đạc điền. Vậy sổ đạc điền là sổ ghi chép những phép đo ruông đất.
Mai vội nói:
– Vậy là tụi mình biết được một chuyện. Chắc trong sổ đạc điền còn chỉ dẫn gì nữa. Bây giờ cần xem cuốn sổ này ở đâu nữa là xong.
Chương 5
Sau bữa cơm chiều, Mai, Tuấn lén xuống bếp tìm cô Bảy. Thấy không có ai khác, Mai ra hiệu cho Tuấn đến gần cô. Bắt gặp vẻ e dè bí mật của hai cháu, cô Bảy tươi cười hỏi:
– Hai cháu cần gì đó? Lại chuyện gì nữa đây?
– Thưa cô… cháu muốn hỏi…
Tuấn ngập ngừng chưa biết nhập đề cách nào, thì Mai đã cướp lời:
– Dạ, chắc cô biết cuốn sổ đạc điền cất ở đâu phải không?
– Chà, bộ hai cháu muốn đo đất giùm cô chắc!
– Không phải đâu cô, chúng cháu đang chơi ô chữ.
Tuấn nhanh nhẩu giải thích. Rất may cô Bảy không thắc mắc gì, vui vẻ trả lời:
– Sổ đạc điền ở nhà tư làm gì có. Hình như đó là sổ vẽ bản đồ ruộng đất của mỗi vùng. Như nhà mình ở đây thuộc tỉnh Ban Mê Thuột, phải lên tòa hành chánh tỉnh mới có. Muốn gì thì hỏi chú, chú rành mấy chuyện này, còn cô đâu biết gì. Các cháu chơi trò ô chữ tốt lắm, khỏi phá phách ai hết, cô hoan nghênh hết mình.
Tuấn đỏ mặt vì câu nói sau cùng của cô Bảy. Mai lí nhí cám ơn cô rồi lủi ra sau nhà. Thấy không có ai, Mai mới khẽ nói:
– Cô Bảy cho biết cuốn sổ đạc điền ở trong tòa hành chánh tỉnh. Tấm giấy tụi mình đang giữ chính là một tấm bản đồ, có lẽ in từ cuốn sổ đạc điền ra. Mai thấy chuyện khó là làm sao xuống tòa hành chánh tỉnh mà tìm bây giờ.
– Dễ ợt. Chừng nào người lớn có việc xuống tỉnh, tụi mình xin đi theo là xong.
– Hay đó, nhưng Tuấn muốn anh Minh, anh Danh dẫn vô tìm hay sao? Hai ông tướng đó sẽ đặt nghi vấn ngay cho coi. Mình tìm cách đến tòa hành chánh tỉnh không cho ai biết mới được.
Tuấn cho là phải. Hai anh em quyết định chờ cơ hội thực hiện ý định.
Vừa bước vào nhà, hai đứa chợt giật mình vì tiếng kính bể, rồi tiếng Danh vang lên:
– Tại cậu đó, cậu đụng vào tay tớ.
Minh cãi lại:
– Tại cậu chứ, tớ đâu có cầm búa.
Ngay lúc đó, chú Bảy chạy lại coi.
– Sao? Có bị đứt tay đứt chân gì không hai cháu?
– Dạ không.
– Thế thì không sao! Mai hai cháu xuống tỉnh mua cho chú tấm kính khác lắp vào.
Mai kéo Tuấn lên lầu, khẽ bảo:
– Nghe chưa, ngày mai hai “tướng lớn” xuống tỉnh, tụi mình phải xin đi theo mới được.
– Nhưng Mai mới nói là…
– Đúng rồi! Trong khi hai “tướng” mua hàng, tụi mình sẽ lẻn đến tòa hành chánh xem một chút. Như vậy còn khuya “hai tướng” mới để ý.
Tuấn do dự:
– Lỡ chú Bảy còn phạt tụi mình thì sao?
– Cứ yên trí. Việc ấy để Mai lo cho…
Sáng hôm sau, trong khi Minh, Danh đang ghi chép những thứ cần phải mua, Tuấn nóng lòng chờ vẫn không thấy Mai xin phép đi. Ngay lúc đó Xuân ở đâu đi tới, vẻ mặt tươi cười:
– Má em bằng lòng rồi, chị Mai ơi.
Bấy giờ Tuấn mới biết Mai thật khôn, biết lợi dụng cả Xuân.
Mai hớn hở hỏi:
– Chúng mình cùng đi cả hả Xuân?
Cô Bảy bước ra dặn dò:
– Được rồi, cả các cháu cùng đi. Nhưng nhớ một điều là phải coi chừng đừng nghịch ngợm gì hết. Dân vùng này không thích người lạ tới ở đây. Mình mới tới phải gắng giữ gìn, đừng để họ có dịp phê bình mình nghe chưa?
Mai nhanh nhẹn trả lời:
– Dạ, chúng cháu hứa sẽ vâng lời cô.
Trại Bích Câu không xa tỉnh Ban Mê Thuột là bao. Xuống một cái dốc, rồi đi một quãng đường nữa là đã thấy mấy căn nhà đầu tỉnh. Tuy gần, nhưng đường núi quanh co, cũng phải mất cả tiếng đồng hồ mới tới. Minh, Danh dẫn đầu đám trẻ. Vừa đi, hai anh vừa bàn tán về thái độ của dân vùng này đối với người lạ. Minh cắt nghĩa:
– Chú Bảy nói cho mình biết tại sao rồi. Thái độ đó cũng như một truyền thống còn sót lại từ hồi xa xưa. Tuy thế, còn khó gột rửa hơn là phải bỏ một tục lệ kỳ quái.
Danh không chịu:
– Tại sao cùng là người với nhau mà họ lại có thái độ kỳ quặc như vậy?
– Muốn hiểu, mình phải trở lại thời xa xưa. Vào thời kỳ mà rừng núi kể như giang sơn riêng biệt của các sắc dân Thượng. Người Thượng tự do sinh sống trong mỗi vùng dành cho sắc tộc của mình. Nhưng từ ngày có bóng dáng người Kinh lên đây khai khẩn, người Thượng không còn được tự do như xưa nữa., nghĩa là họ mất dần quyền làm chủ núi rừng.
– À tớ hiểu rồi. Người Kinh lên đây chiếm đất khai phá. Quyền lợi của người Thượng bị đe dọa, họ phản ứng lại chứ gì?
– Đúng rồi, vì thế trước kia mình thường được nghe kể những chuyện đụng chạm giữa Kinh Thượng, nhưng ngày nay hết rồi. Thái độ không chấp nhận người lạ biến mất dần nơi người Thượng. Nhưng một điều lạ là thái độ đó lại đâm rễ sang nhóm người Kinh. Nhóm người Kinh thiểu số đó không muốn có người lạ đến tranh giành khai thác với họ. Tóm lại, mọi sự khởi đầu cũng chỉ vì quyền lợi sau này. Nó như bệnh di truyền, truyền lại cho con cháu.
Danh kết luận:
– Tớ vừa nghĩ, biết đâu mấy con bò của chú Bảy bị thương bữa trước cũng vì lý do sâu xa đó. Gia đình chú Bảy mới tới vùng này chưa được bao lâu mà.
– Dám lắm, nhưng đó chỉ là giả thuyết, phần tụi mình là phải tìm ra sự thật.
Mai, Xuân và Tuấn đi sau, lâu lâu ba anh em dừng lại hái hoa rừng. Vừa thấy một cánh hoa đẹp, Xuân chạy lên trước để hái. Chẳng may đạp nhằm phải cái gai, Xuân đứng lại nhăn nhó. Minh, Danh vội chạy đến, thấy chân của Xuân bị đâm chảy máu, ngần ngại chưa biết tính sao. Xuân nói:
– Các anh đi đi, để mặc em về nhà một mình cũng được.
Minh do dự, xem đồng hồ. Nếu leo lên trại Bích Câu, rồi lại xuống tỉnh, chắc khi về trễ mất. Minh hỏi lại Xuân:
– Nhưng Xuân có chắc không cần ai giúp không?
Mai xen vào:
– Thôi để em về trại với Xuân, em không đi nữa.
Bản tính dễ cảm, thương người đã vượt trên quyền lợi riêng. Mai rất muốn ra tỉnh nhưng nhìn gương mặt thiểu não của Xuân, Mai không đành lòng.
– Tuấn cũng về với Xuân cho vui. Mai với Tuấn làm cái kiệu bằng tay rồi khiêng Xuân. Như vậy Xuân bớt đau.
Nói là làm, Mai, Tuấn khiêng Xuân trên tay vừa đi vừa nói chuyện cho Xuân quên chỗ chân đau.
Một lát sau ba em đã về tới trại. Cô Bảy cảm động thấy các cháu tận tình với Xuân. Để bù lại cuộc đi chơi hụt, cô nhờ Mai, Tuấn mang trứng lên chòi của cai Bần. Cô dặn:
– Các cháu cứ thẳng đường mòn ở sau nhà, tới căn nhà nhỏ đầu tiên ở mé tay trái. Đấy là nhà của cai Bần. Nếu ông ta không có nhà các cháu cứ để giỏ trứng ở cửa rồi ngày mai hãy lên lấy tiền.
Mai mừng rỡ xách giỏ trứng ra đi. Tuấn chần chừ hỏi:
– Anh cất cái bản đồ ở nhà nghe, vì mình đâu có ra tỉnh nữa.
– Cứ mang đi, lên núi mình càng tự do coi lại cho kỹ.
– Ừ nhỉ.
Tuấn nhìn em trìu mến. Hai anh em nắm tay nhau tung tăng đi về phía nhà cai Bần.
Chương 6
Mai, Tuấn tìm thấy cái chòi cai Bần một cách dễ dàng. Cai Bần không có trong chòi. Tuấn để giỏ trứng ở trước cửa, rồi cả hai trở lại đường cũ. Thấy còn sớm, Mai bảo anh:
– Tụi mình đi một vòng núi xem sao?
– Còn tấm bản đồ?
– Không bay mất đâu mà sợ, lát nữa coi cũng được mà!
Hai anh em dắt nhau đi dưới những hàng cây lưa thưa mọc bên sườn núi. Mỗi khi gặp hoa rừng, Mai dừng lại hái. Đi mãi, đi mãi, hai anh em chỉ thấy màu xanh của lá rừng, tuyệt nhiên không có một bóng người. Thấy đi đã khá xa, Tuấn giục  Mai trở về.
Đang đi, Mai chợt dừng lại. Từ lùm cây trước mặt, một bóng người xuất hiện. Người đàn ông bước ra thấy hai đứa trẻ cũng lộ vẻ ngạc nhiên. Người đàn ông ấy không ai xa lạ hơn là ông Thanh Quí, chủ biệt thự Tùng Lâm. Mai, Tuấn chưa hề gặp ông bao giờ.
– Chào hai cháu, hai cháu làm gì ở đây? Hai cháu ở bên trại Bích Câu phải không? Còn bác ở biệt thự Tùng Lâm ngay bên trại của các cháu đó.
Tuấn ấp úng trả lời:
– Dạ… phải.
Mai thúc cùi chỏ ra hiệu Tuấn phải coi chừng. Nhưng ông Thanh Quí gật gù tiếp:
– Thật xui cho ông Bảy, đàn bò của ông chẳng hiểu vì sao mà hầu hết đều bị thương.
Tuấn bỡ ngỡ hỏi lại:
– Thưa ông, mấy con bò của chú cháu bị thương à!
Ông Thanh Quí nhíu mày:
– Thế chú Bảy các cháu không nói gì à? Cả mấy anh lớn cũng vậy sao? Kỳ thật!
Mai, Tuấn không hiểu tại sao người lớn lại giấu hai em chuyện này.
– Thôi, chào hai cháu, bác phải về. Khi nào rảnh các cháu qua nhà bác chơi, bác ở có một mình nên hơi buồn.
Ông chợt nhận thấy hai đứa trẻ nhìn nhau như dò hỏi, thắc mắc điều gì. Ông hỏi:
– Các cháu có cần gì không? Muốn gì bác sẽ giúp cho… hay tiện đây các cháu xuống tỉnh chơi với bác cho vui. Đi xe hơi nên mau lắm.
Mai còn do dự:
– Dạ thưa bác, đi bằng xe hơi ạ?
– Chứ sao. Các cháu không biết con đường nhựa từ nhà bác dẫn tới lộ chính ra tỉnh hay sao? Nào, các cháu có đi không?
– Cám ơn bác, bác tốt quá, nhưng…
– Không nhưng gì hết, đi xe hơi đâu có mệt gì! Đây ra tỉnh mất chừng mười phút chứ bao nhiêu.
Tuấn khẽ nói nhỏ vào tai Mai:
– Đi đi, tụi mình xin vào tòa hành chánh không ai biết đâu.
Mai chỉ chờ có thế, vội nói:
– Dạ, chúng cháu sẽ đi với bác. Độ nửa giờ thôi nghe bác!
– Được rồi, chỉ nửa giờ thôi mà.
Mai, Tuấn theo ông Thanh Quí vào biệt thự Tùng Lâm. Bên trong bày biện bàn ghế một cách sơ sài. Hình như chủ nhân không để ý đến cách xếp đặt trong nhà bao nhiêu.
Ông Thanh Quí lái chiếc xe con cóc ra trước nhà. Hai anh em leo lên ngồi ở băng sau. Chiếc xe còn mới nên chạy lẹ, lao đi vùn vụt. Cây hai bên đường cứ lui dần lui dần. Thoắt một chốc, chiếc xe đã ra tới đầu tỉnh. Mai, Tuấn thầm mong đừng gặp hai anh Minh, Danh. Ông Thanh Quí quay lại hỏi:
– Hai cháu muốn đi chơi đâu nào? Vào chợ nghe?
– Dạ, bác cho chúng cháu ghé vào tòa hành chánh tỉnh, chúng cháu muốn xem cuốn sổ đạc điền.
Tuấn thấy mình lỡ lời, nhưng ông Thanh quí không để ý.
– Thế hả? Bác cũng vô đó có chút việc cần.
Chiếc xe vừa ngừng lại, hai đứa nhìn trước nhìn sau quan sát xem có bóng người quen nào không. Yên trí không có ai, hai anh em chạy vội vào trong tòa hành chánh. Ông Thanh Quí ì ạch theo sau.
Thấy hai đứa nhỏ, người nữ nhân viên đứng sau quầy hỏi:
– Hai em muốn hỏi gì?
Mai chỉ ông Thanh Quí:
– Xin bác hỏi trước.
Ông Thanh Quí do dự, thoáng chút bối rối:
– Các cháu hỏi trước đi, bác còn nhiều giờ mà.
Mai đành phải xin xem cuốn sổ đạc điền.
– Cuốn sổ đó to lắm, cô bé ơi.
Ông Thanh Quí nhanh nhẹn đỡ lời:
– Để tôi giúp các cháu. Nào, các cháu muốn xem gì nào?
Người nữ nhân viên quay vào mang ra một cuốn sổ to. Mai đọc lẹ mấy hàng chữ lớn bên ngoài bìa: “Sổ đạc điền tỉnh Ban Mê Thuột và các vùng phụ cận”.
Người giữ sổ lại hỏi:
– Các em muốn tìm khu nào, hay vùng nào?
Mai nhìn Tuấn bối rối. Cả hai vì mải để ý đến mấy chữ “sổ đạc điền” nên quên không nhớ hai tiếng Khu, Lủ mà các em cho là tiếng Thượng.
Cuối cùng Tuấn phải lấy tấm bản đồ ra coi lại. Mai cố nhớ khu BC, Lủ 26. Tuấn cất ngay tấm bản đồ vào túi cố tránh cặp mắt tò mò của ông Thanh Quí.
– Dạ khu BC.
Lô mấy nữa, nói luôn đi em, để chị tìm cho lẹ.
Mai mới vỡ lẽ, chữ mà các em đọc là “Lủ” vì nét mực mờ lại là chữ “lô”. Mai trả lời ngay không chút đắn đo:
– Lô 26.
Cô gái vừa tìm vừa lẩm bẩm:
– Khu BC… Lô 26. Đây rồi. Khu này gần đất của ông phải không ạ?
Ông Thanh Quí gật đầu. Cô gái lại chỉ mấy chỗ đánh dấu đâu là biệt thự Tùng Lâm, đâu là trại Bích Câu. Cô ra vẻ thành thạo:
– Nếu tôi không lầm thì lô 26 này thuộc trại Bích Câu. Chỗ này mấy con bò của ông già Hách đã…
Cô im bặt như ngại ngùng điều gì, không dám nói tiếp. Ông Thanh Quí mỉm cười như không để ý. Ông tiếp lời một cách tự nhiên:
– Chỗ này là chỗ mấy con bò của lão Hách đã chết vì chứng đầy hơi phải không?
Cô gái chớp chớp mắt rồi nhìn đi chỗ khác như tránh nói tiếp câu chuyện. Mai không hiểu tại sao cô có vẻ e ngại đến thế. Mai, Tuấn nhìn kỹ lô 26. Thật đúng y như hình vẽ trong tấm bản đồ hai anh em tìm được. Chỉ thiếu có mỗi hình chữ nhật nho nhỏ. Mai, Tuấn mừng rỡ vì biết thêm tấm bản đồ của hai em vẽ khu bãi cỏ ở gần trại. Hy vọng tràn trề sẽ tìm được điều bí mật một cách dễ dàng.
Mai cám ơn cô gái rồi đi ra gần cửa chờ ông Thanh Quí. Ông này dừng lại hỏi thăm mấy nhân viên về vấn đề mua bán đất. Câu chuyện xem ra không có gì quan trọng lắm. Năm phút sau ông đã quay ra.
Vừa ra tới cửa, Mai kéo Tuấn lùi lại đứng núp sau cánh cửa, thì thầm:
– Anh Minh với anh Danh đang vô tiệm tạp hóa đằng kia! Hú hồn, chút xíu nữa thì lộ rồi.
Ông Thanh Quí như không để ý đến cử chỉ của hai đứa nhỏ. Chờ chúng lên xe rồi ông rồ máy chạy ngay.
– Các cháu thấy chưa, đâu có lâu lắc gì!
Mai mỉm cười nhìn Tuấn lộ vẻ bằng lòng.
– Hai cháu hình như thích chơi bản đồ lắm phải không? Như vậy thật tốt. Đối với lứa tuổi của các cháu, đó là một trò chơi lành mạnh và bổ ích nữa.
Ngừng lại một chút để lấy hơi, ông tiếp:
– Bác có nhiều bản đồ vùng này đẹp lắm. Về nhà bác sẽ cho các cháu coi.
Chiếc xe ngừng lại trong sân biệt thự. Mai ghé vào tai anh khẽ nói:
– Mai nghĩ chắc chú Bảy lầm rồi, ông Thanh Quí tốt lắm đấy chứ?
Ông Thanh Quí dẫn anh em Mai vào căn phòng kê bàn làm việc của ông. Ông lôi ra một lô bàn đồ sặc sỡ nhiều màu. Lựa một tấm thật đẹp, ông vừa chỉ từng điểm một vừa giảng giải:
– Đây là bản đồ vùng Ban Mê Thuột. Các cháu thấy không, toàn là đồi núi. Trại Bích Câu ở chỗ này, còn biệt thự chúng ta đang đứng ở ngay đây này.
Mai, Tuấn say sưa ngắm tấm bản đồ xanh đỏ trông rất đẹp mắt.
– Tấm này đẹp hơn tấm của các cháu nhiều phải không? Nó còn mới nguyên vì ít khi bác dùng tới.
Tuấn đứng sau lưng ông Thanh Quí, lơ đễnh đưa mắt nhìn quanh căn phòng. Cậu giật mình vì chợt thấy cánh cửa ở cuối phòng vụt mở rồi đóng lại ngay. Trong bóng tối sau cánh cửa vừa hé mở, một người có mái tóc bạc dài, bồng bềnh như ông già bí mật đêm nào ở sân sau trại. Tuấn lặng người lẩm bẩm:
– Không lẽ…
Chương 7
Hầu như Mai không để ý đến sự việc vừa xảy ra, trong khi Tuấn sợ toát mồ hôi, lấm lét ngó về phía cửa. Ông Thanh Quí nói chuyện huyên thuyên một lát rồi làm như vô tình hỏi xem tấm bản đồ “lô 26”.
– Chắc đó là tấm bản đồ do các cháu vẽ phải không?
Mai gật đầu. Nhưng cô bé kịp thời nhận ra sự hớ hênh của mình. Màu giấy vàng khè và nét mực đã nhạt màu sẽ tố cáo sự giả dối.
– Dạ không đúng hẳn như vậy, chúng cháu tìm thấy ở trong mớ giấy lộn trên gác xép.
– Thế thì đúng rồi, tấm bản đồ này chẳng có giá trị bao nhiêu. Tuy thế bác cũng muốn coi chơi. Các cháu có thể cho bác mượn đến mai được không? Bác không bận việc nhiều, thành ra thích sưu tầm những gì dính dáng đến vùng này một khi bác biết. Bác cho các cháu tấm bản đồ đẹp này, các cháu cho bác mượn tấm bản đồ của các cháu nhé?
Mai bối rối đưa mắt nhìn Tuấn. Không thấy anh phản ứng gì, Mai đành nói:
– Dạ tùy ý bác… Chúng cháu cho bác mượn thôi. Mai chúng cháu tới xin lại.
Ông Thanh quí có vẻ hớn hở khi cầm trong tay tấm bản đồ cũ. Ông đút ngay tấm bản đồ vào ngăn kéo rồi đóng lại như sợ hai đứa trẻ đổi ý.
Mai, Tuấn xin ông Thanh Quí ra về, không quên cám ơn ông. Ông Thanh Quí gởi lời thăm cô chú Bảy mà ông gọi là những người láng giềng tốt.
Trên đường về, Tuấn kể cho Mai nghe sự lạ nó thấy trong nhà ông Thanh Quí.
– Anh có chắc đúng là ông già đêm nào không?
– Sao không chắc? Mái tóc bạc dài ma quái, anh không thể nào quên được.
– Đáng lẽ anh phải hỏi ông Thanh Quí ngay. Ông ấy không giấu tụi mình đâu. Mà kỳ quá nhỉ, tại sao họ lại quen nhau? Một người tốt như ông Thanh quí sao lại kết thân với lão già có những hành động xấu như đến rình rập ở nhà mình?…
Tuấn không muốn bị ám ảnh vì sự sợ hãi, hướng sang câu chuyện khác:
– Dầu sao tụi mình cũng có một tấm bản đồ đẹp…
Mai cướp lời:
– Đẹp, nhưng mà không “xài” được. Lỡ mang ra người lớn hỏi chúng mình tìm đâu ra thì biết trả lời làm sao?
– Tấm bản đồ này vẽ y hệt tấm bản đồ của tụi mình, chỉ thiếu có một chỗ vẽ hình chữ nhật. Nhưng anh biết nó ở chỗ nào rồi, về phòng anh sẽ vẽ lại.
Một cơn gió làm tung rối mái tóc của Mai. Cô bé đưa tay lên vuốt tóc và chợt kêu lên:
– Thôi chết rồi, Mai để quên cái mũ đâu mất?
Tuấn lo giùm em, vì đó là món quà của Xuân tặng hôm Mai mới đến. Không thấy Mai đội, thế nào Xuân cũng hỏi.
– Hay Mai bỏ quên ở biệt thự Tùng Lâm?
– Không biết nữa… Mai chẳng nhớ gì hết.
Hai anh em gắng quên những việc xảy ra, cố làm ra vẻ tự nhiên khi về đến trại. Nhưng cả hai vẫn cảm thấy chút hối hận vì đã không vâng lời, và tự nhủ sẽ tìm cách chuộc lỗi.
Chiều đến, hai anh Minh, Danh vẫn chưa về, chắc còn chờ lấy hàng. Mai rủ Tuấn xin cô ra vườn tưới rau. Cô Bảy hơi lạ vì đề nghị của hai cháu. Nhưng cô ưng thuận vì cho đó là dấu hiệu tốt, chứng tỏ những đứa trẻ ngoan.
Vì không quen tưới, nên quần áo hai em ướt sũng nước. Tưới xong, hai anh em lên phòng thay quần áo. Đang tính xuống nhà dưới thì cửa phòng vụt mở…
Mai đỏ mặt như người bị bắt quả tang đang ăn vụng, còn Tuấn không giấu được vẻ bối rối. Minh hiện ra ở khung cửa, tay cầm chiếc mũ của Mai. Minh nhíu mày ra vẻ giận, quay về phía Mai hỏi:
– Cái mũ này của Mai phải không? Anh tìm thấy ở trong tòa hành chánh. Chứng cớ rành rành là cô cậu đã ra tỉnh. Anh biết hết rồi.
Mai, Tuấn ngượng nghịu, không biết nói sao. Minh nghiêm nghị nói tiếp:
– Dầu sao, tôi báo cho cô cậu biết lần này tôi tha, nhưng lần sau, một lần nữa thôi, tôi sẽ viết thư cho má lên đón về Sài Gòn ngay lập tức. Một điều nữa là ông Thanh Quí gì đó không tốt lắm đâu. Chú Bảy không ưa, nên không muốn ai giao du thân mật với ông ấy. Hai người hình như giận nhau vì ông Thanh Quí cứ đòi mua cho bằng được bãi cỏ mà chú Bảy nuôi bò. Liệu coi chừng đó!
Mai, Tuấn đứng im như tượng gỗ. Mai chợt hỏi:
– Tại sao anh với anh Danh giấu tụi em chuyện này?
– Chuyện gì?
– Thì chuyện mấy con bò bị thương!
Minh cau mày:
– À, có phải chính lão Thanh Quí đã nói không?… Lão ấy chõ mũi vào chuyện này làm gì kìa? Được rồi, từ nay cấm không được lai vãng đến nhà lão ấy nghe không! Còn chuyện mấy con bò các em khỏi bận tâm, đã có chú Bảy lo.
Minh đi rồi, Mai, Tuấn còn đứng im một lúc. Mai thì thầm:
– May quá, mình chưa nói chuyện bản đồ. Nếu không anh Minh lại cho một bài giảng dài vì đã cho ông Thanh quí mượn.
– Nhưng ông ấy hứa ngày mai sẽ trả. Với lại như ông ấy nói, đâu có gì quan trọng, tấm bản đồ cũng chẳng có gì bí mật hết!
– Xí í í… không quan trọng mà ông ấy lại năn nỉ đòi mượn. Tại tấm bản đồ của mình có đánh dấu khu bãi cỏ, khu gần sát biệt thự của ông ấy.
Mai chợt hiểu:
– Phải rồi, biệt thự của ông ấy đâu có đất rộng. Ông muốn mua để nuôi bò như chú Bảy đó.
Tuấn không nói gì. Mai đề nghị:
– Này Tuấn, ngày mai tụi mình lấy bản đồ lại rồi đem cho chú Bảy coi, chắc chú thích lắm.
Đêm hôm đó cũng như mấy đêm hôm trước, Tuấn và Mai đứng rình bên cửa sổ hy vọng bắt gặp lão già tóc bạc trở lại. Nhưng đêm nay, mây bay nhiều quá che khuất cả bóng trăng, làm hai anh em chẳng thấy gì được. Hai đứa bàn nhau đi ngủ.
Trong khi đó, Minh và Danh lẻn ra khỏi trại, lần mò đi theo đường mòn lên bãi cỏ. Hai người cố gắng mở to đôi mắt quan sát tìm ra nguyên do vì sao mấy con bò bị thương.
Đang đi, Minh bỗng dừng lại bảo bạn:
– Suỵt! Có người đang đi trên kia.
Trong bóng tối, Danh cố gắng nhìn kỹ xem trên kia là chỗ nào. Minh nhắc lại:
– Coi kìa!
Tim Danh đập hồi hộp. Trên đầu dốc, ngay phía trước mặt, một bóng đen lù lù hiện ra. Bóng đen di động chứng tỏ là một người nhưng một người to lớn như người khổng lồ. Bóng đen di chuyển chậm chạp như do dự chưa biết đi về hướng nào. Minh lẩm bẩm:
– Dám “nó” thấy mình rồi.
– “Nó” quay lưng lại mình, làm sao mà thấy được. Chắc “nó” tính vào chọc đàn bò nữa đây. Mình thấy còn phát ớn huống chi đàn bò.
Bóng đen lặng lẽ xa dần. Danh hồi hộp hỏi bạn:
– Làm sao bây giờ? Không lẽ đứng đây mãi sao?
– Thì cứ theo sát xem “nó” giở trò gì!
Hai người bỏ chỗ núp, thận trọng theo dõi bóng đen bí mật càng lúc càng nhỏ dần.
– Gần lên đến bãi cỏ rồi đó.
– Đúng rồi, phải thận trọng hơn nghe cậu. Nhớ quan sát cho kỹ.
Bóng đen vừa khuất sau rặng cây. Trăng đã lên cao, những đám mây trắng đục đã biến mất từ hồi nào, nhưng Minh không sao nhận được nữa vì bên sườn núi gần bãi cỏ nhấp nhô những tảng đá đen không khác gì những bóng người. Minh càu nhàu:
– Phải mình đi lẹ may ra còn kịp. Bây giờ biết hướng nào mà tìm.
– Đừng phàn nàn vô ích. Chắc “nó” chưa kịp mở cửa để vào phá đàn bò đâu. Như vậy “nó” còn quanh quẩn đâu đây. Bây giờ mình chia nhau mỗi người đi một phía dọc theo hàng rào may ra mới gặp.
– Hy vọng thế… Nào chia tay, nhớ cẩn thận nghe.
Đi được vài chục thước, Minh nghe rõ mồn một tiếng lập cập đâu đây như tiếng hai hàm răng đụng vào nhau. Anh ngồi xuống thủ thế rồi phóng tầm mắt nhìn quanh và bật cười khi nhận ra tiếng động phát ra từ con bò đang nhai cỏ cách đây không xa. Minh lại tiếp tục đưa mắt chăm chú nhìn về phía trước. Mấy phút dừng lại vừa rồi có thể là dịp tốt cho “nó” chuồn xa. Có bóng người từ phía trước đi lại. Minh vội lùi lại núp sau một gốc cây. Nhưng tiếng Danh đã vang lên:
– Minh đấy hả? Thấy gì không?
– Thấy con bò trắng răng! Còn cậu?
– Cũng vậy. Không lẽ “nó” bốc hơi bay mất hay có phép tàng hình độn thổ sao? Hay là ma chưa biết chừng. Chốn rừng xanh núi đỏ này không thiếu gì ma quỉ.
– Chưa gì cậu đã tin nhảm. Bây giờ mình thử đảo qua phía biệt thự Tùng Lâm xem sao?
Hai người lại vội vã đi, lần này không e dè gì nữa. Nhưng vô ích. Bóng người bí mật đã biến mất vào bóng đêm. Minh, Danh đành đến gần chỗ nhốt bò chia nhau thay phiên gác, hy vọng gặp lại bóng người bí mật. Danh ngủ trước, anh chui mình trong chiếc bao vải dày đã mang theo bên mình, rồi thiếp đi…
Một giờ sau, Minh đánh thức Danh dậy thay phiên gác. Trăng đã lên cao, trong sáng. Cảnh rừng núi êm đềm. Côn trùng nỉ non hòa tấu một khúc nhạc dịu. Khí trời thanh mát ru anh vào giấc ngủ.
Lúc tỉnh dậy, Minh có cảm tưởng ánh trăng chói quá. Anh vươn vai ngáp dài và nhận ra trời đã hừng sáng. Trí óc anh cũng tỉnh dần. Anh nghĩ:
“Thế là mình đã ngủ quên cho tới sáng. Tại sao Danh không gọi mình dậy thay phiên gác kìa?” Rồi trí Minh quay nhanh ý tưởng này: “Có thể Danh quên, hay là… Danh không thể gọi được”. Lý luận của Minh không dừng lại ở đó, ý tưởng phiêu lưu luôn ám ảnh anh: “Có thể Danh gặp chuyện gì cấp bách phải đuổi theo ngay”.
Nghĩ đến đó, Minh tỉnh hẳn, ngồi bật dậy, chui ra khỏi bao. Đưa mắt nhìn quanh, lòng Minh chợt quặn đau như có muôn ngàn mũi kim đâm vào. Anh hốt hoảng kêu lên:
– Trời ơi! Danh, Danh làm sao thế này?
Nhưng Danh không trả lời. Cách đấy vài bước, Danh nằm im bất động. Anh nằm sấp trên cỏ, đầu gục trên cánh tay, toàn thân còn gọn trong bao vải… Hình như Danh bị đánh gục bất tỉnh. Minh hồi hộp chạy lại gần xem xét. Anh cúi xuống và muốn bật cười thật to. Danh đang còn ngủ! Minh lay bạn:
– Thôi dậy đi ông bạn vàng. Ông cho tôi ngủ một đêm ngoài trời chẳng được ích gì!
Danh tỉnh hẳn. Nhận ra mình ở đâu, anh mỉm cười giảng giải:
– Cậu biết tớ thức khuya không được, lại giữa cảnh trăng thanh gió mát như đêm qua làm sao không ngủ cho được?
Minh chỉ về phía những tảng đá lớn gần biệt thự Tùng Lâm:
– Hôm qua tối quá, mình chưa lại chỗ đó coi, bây giờ đến xem có thấy gì lạ không? Tớ nghi góc đó lắm, hình như “nó” biến mất ở phía đó.
Minh, Danh tìm kiếm một hồi không thấy dấu vết gì khả nghi, thành đá chặn ngang như bít mọi lối lên núi. Thêm vào đó, gai góc mọc đầy một khoảng khá rộng làm hai người không dám tiến thêm nữa, đành thất vọng quay về.
Chương 8
Sáng hôm đó, Mai và Tuấn dậy sớm hơn thường lệ, vì hôm nay có nhiều việc phải làm. Trước tiên là lên chòi của cai Bần để lấy tiền trứng, sau đó phải tìm cách đến xin lại ông Thanh Quí tấm bản đồ cũ nữa. Tuấn giở tấm bản đồ mới ra coi, rồi chỉ cho Mai:
– Đúng chỗ này có vẽ hình chữ nhật bằng mực đỏ trong bản đồ của tụi mình.
– Phải rồi, lô 26 gồm một phần bãi cỏ của chú Bảy với khoảng đất đầy gai góc gần vách đá lởm chởm.
– Khi đi về, mình ghé chỗ vách đá đó coi có gì lạ không? Bãi cỏ ngoài này chỉ có cỏ với mấy con bò, đâu có gì đặc biệt!
Bữa cơm sáng vừa xong, chị Tư đang xếp bát mang ra cửa, Minh lên tiếng hỏi:
– Chị Tư này, chuyện lão Nùng Ô có thật không đó? Chị có biết lão ấy không?
Chị Tư ngừng xếp bát, nét mặt lộ vẻ suy nghĩ:
– Tôi biết Nùng Ô cũng như mọi người trong vùng này biết lão. Lão là người không được tốt…
Danh để ý thấy Mạnh tỏ vẻ lắng tai nghe câu chuyện. Tuấn tò mò:
– Chị tin lão có bùa ngải hay phép tắc gì không?
– Phép tắc làm gì có. Lão có làm vài đạo bùa, một ít thuốc lá để chữa bệnh… Lão có cả thuốc độc nữa.
– Thật không chị Tư? Mai xen vào.
– Thì cũng như tên tôi là Tư vậy đó. Rừng núi này thiếu chi cây trái độc. Lão ở trong rừng lâu năm tất phải biết chứ.
Cô Bảy không muốn các cháu hỏi thêm, giục Minh, Danh:
– Thôi, khi khác hỏi chuyện tiếp. Các cháu liệu đi sớm rồi còn về cho mát. Mai, Tuấn nhớ lấy cái giỏ mà các cháu để lại bữa trước đó. Thế nào ông cai Bần cũng để tiền hoặc thứ gì đó. Các cháu cứ mang về đây cho cô.
Hai đứa vâng dạ rồi ra nhập bọn với các anh và xuân. Cả bọn lục tục lên đường. Minh, Danh hơi uể oải vì cuộc mạo hiểm đêm qua. Hai anh không muốn đi, nhưng sợ cô Bảy để ý. Từ trước tới giờ hễ có dịp đi đâu là hai anh đều đòi đi cho được. Ra khỏi trại chừng vài trăm thước, Xuân dừng lại đề nghị:
– Tụi mình đi chơi xa một chút được không mấy anh?
Minh gạt ngang:
– Thôi đi cô nương! Đi lẹ rồi về. Không nghe cô Bảy dặn sao?
Thấy đề nghị bị gạt bỏ, Xuân dỗi:
– Thôi thì thôi! Em muốn dẫn các anh đi lối xa hơn một chút để xem phong cảnh với căn nhà của Nùng Ô mà anh Minh không muốn thì thôi. Em khỏi mệt.
Câu nói của Xuân làm Minh tỉnh ngộ. Minh nhìn Danh ra hiệu. Hai anh nghe nói đến Nùng Ô là cảm thấy khỏe hẳn lên. Danh đấu dịu:
– Đó là ý kiến của anh Minh, còn anh thì khác. Anh hoàn toàn đồng ý với Xuân. Anh đề nghị Xuân làm người hướng đạo cho bọn anh. Bây giờ Xuân muốn dẫn anh đi đâu, anh cũng sẽ đi ngay.
Xuân không chờ phải năn nỉ thêm, hăng hái đi trước dẫn đường. Cả bọn hăng hái hơn lúc nãy, câu chuyện dòn vang cả núi rừng. Bọn trẻ lên cao, lên cao mãi. Cây cối hai bên đường mòn càng lúc càng rậm rạp. Lối đi dần dần bị cỏ mọc che khuất, có lẽ vì ít người đi qua. Xuân như thuộc hết các ngõ ngách ở trên núi. Cô bé vừa đi vừa kể những chuyện nghe được về ngọn núi này. Khi gần đến nhà Nùng Ô, Xuân ra hiệu cho cả bọn nói nhỏ lại.
Một mái tranh lụp xụp ẩn hiện sau đám lá cây xanh. Đi thêm mấy bước, cả bọn thấy toàn diện căn nhà. Thật không khác chi một căn nhà ổ chuột ở Sài Gòn, trông nó còn tồi tệ gấp bội. Mái tranh trụt từng mảng lớn được đắp thay bằng lá khô đủ loại. Chung quanh nhà đóng bằng cây rừng đã mọt gãy từng chỗ. Một cánh cửa ọp ẹp khép hờ.
Mai khẽ nói:
– Đúng là cái ổ chuột.
Tuấn cải chính:
– Cái ổ nhện thì đúng hơn.
Tuấn chỉ cho Mai thấy từng lớp màng nhện giăng dầy đặc quanh nhà. Trong nhà không có dấu hiệu gì chứng tỏ có người. Đứng ngắm nghía một lát rồi cả bọn rẽ sang bên trái để đến chòi của cai Bần. Mai chợt nắm lấy tay Tuấn, thấy tay anh cũng lạnh toát như tay mình. Vì lúc đó cả hai thấy xuất hiện ở đầu đường bóng người đàn ông đêm nào. Hai đứa sợ hãi dừng lại đợi các anh lớn đến cùng đi. Hai em quan sát người lạ. Đó là một ông già, dò dẫm từng bước chậm chạp, một tay chống gậy, một tay cầm mấy cành củi khô.. Mai, Tuấn để ý nhất là mái tóc bạc chạy dài xuống hai vai.
– Chào ông ạ. Bọn trẻ lễ phép chào khi đi ngang ông già.
– Chào… en. Thanh âm ông già nghe lơ lớ, lạ tai.
Da mặt người đàn ông đen sạm, mặt nhỏ, mũi nhọn, đôi lông mày rậm che khuất cặp mắt gườm gườm như luôn luôn rình rập, âm mưu điều gì. Ông mặc một bộ quần áo không còn mầu sắc, rách tả tơi. Hình như người đàn ông không thèm để ý vá những chỗ rách nữa.
Đi khỏi một quãng, Mai, Tuấn vừa kịp nhận ra, qua kẽ lá, lão già đang vào nhà Nùng Ô, cặp mắt lão còn hướng về phía bọn trẻ.
Xuân chợt nói:
– Té ra đó là Nùng Ô. Em nghe nói nhiều về lão, chứ đã thấy lão bao giờ đâu. Trông dễ sợ thật!
Cũng như lần trước, cai Bần không có nhà. Bọn trẻ lấy cái giỏ treo trước cửa rồi ra về. Đến trại, mỗi người tản mác đi một nẻo. Mai kéo Tuấn lên lầu bàn bạc:
– Tuấn có thấy Nùng Ô đóng kịch hay không? Lão làm như không đi nổi nữa, phải chống gậy mới gượng bước được.
– Thế mà đêm nọ, lão biến nhanh như chớp.
– Nếu Mai không thấy, chắc Mai đã cho là anh mơ ngủ rồi.
– Mai có nhớ, khi ở nhà ông Thanh quí, chính Nùng Ô hé cửa, rồi thấy tụi mình, lão không dám vào.
Mai chợt nhớ là còn phải đến biệt thự Tùng Lâm đòi tấm bản đồ.
– Anh Tuấn này, hay là tụi mình đi ngay đi. Nùng Ô còn ở nhà lão, lão không thể đến nhà ông Thanh Quí trước tụi mình được.
Tuấn e dè:
– Mai có chắc không?
– Nhưng đằng nào tụi mình cũng phải đi, nếu tụi mình muốn cho chú Bảy coi tấm bản đồ. Tụi mình có thể bị la, nhưng Mai tin chắc tấm bản đồ rất quan trọng và chú Bảy sẽ hài lòng.
Tuấn không do dự nữa. Hai anh em chờ lúc mọi người trong trại không để ý, lẻn ra đi.
Hai đứa chạy một mạch tới biệt thự Tùng Lâm. Thấy ông Thanh Quí không đá động tới tấm bản đồ, Mai phải nhắc ông và ngỏ ý xin lại. Ông Thanh Quí bối rối ra mặt, ngượng nghịu nói:
– Bác quên chưa nói với hai cháu chuyện này. Thật bác không ngờ…
Ông lặng lẽ dẫn Mai Tuấn vào căn phòng hôm nọ. Vừa vào, Mai đã để ý nhìn cánh cửa ở cuối phòng.
– Các cháu nhớ là bác đã cất tấm bản đồ ở đây phải không?
– Dạ phải, trong ngăn kéo này. – Tuấn vừa trả lời vừa chỉ ngăn kéo ông Thanh Quí đã cất tấm bản đồ.
Ông Thanh Quí gượng cười:
– Vậy mà khi đưa các cháu ra về, bác quay lại tìm thì lạ thay tấm bản đồ không cánh mà bay đâu mất rồi.
Mai, Tuấn ngạc nhiên, trố mắt nhìn nhau. Mai cho là tấm bản đồ có thể lọt ra phía sau ngăn kéo, nên gặng hỏi:
– Sau đó bác có tìm kỹ không ạ?
– Bác tìm ngay, lục lọi cả các ngăn khác cũng không thấy. Bác vẫn nghĩ tấm bản đồ không có gì quan trọng, nhưng nó thuộc về các cháu, nên bác rất ân hận…
Hai anh em không biết xử trí cách nào, đứng nhìn ông Thanh Quí. Ông tiếp, giọng thành khẩn:
– Bác rất tiếc, rất buồn nữa. Hai cháu có thể dùng tấm bản đồ bác cho hôm nọ thay vào… Bác nghĩ tấm bản đồ của bác còn giá trị hơn tấm kia nhiều.
Mai, Tuấn đành từ giã ra về. Hai anh em đi bên nhau mà không nói một lời nào. Tuấn hối hận vì đã lỡ nói cho ông Thanh Quí biết tấm bản đồ trước tiên.
– Mai có tin câu chuyện của ông ấy không?
– Tin sao được? Ông ấy muốn giữ tấm bản đồ nên bịa chuyện gạt tụi mình. Chỉ có vậy. Tụi mình khờ thật. May mà chưa nói cho ai biết hết. Thôi quên đi, coi như không có là xong.
– Uổng ghê! Đâu có phải ngày nào cũng tìm được một tấm bản đồ bí mật như vậy.
Cả hai đi vòng ra phía vách đá lởm chởm, chỗ đất có gai góc mọc nhiều. Mai vừa đi vừa nhìn đàn bò bị bôi thuốc xanh nom thật tức cười. Tuấn đi lên trước. Nó chợt dừng lại, mặt tái xanh. Thế rồi như người mất hồn, Tuấn quay lại nắm tay Mai chạy như bay về lối cũ. Không để ý, Mai bị kéo đi bất thình lình suýt té. Mai không hiểu tại sao, nhưng đành phải chạy theo anh. Chạy được một quãng, Tuấn mới dừng lại. Mai thở hổn hển hỏi:
– Cái gì vậy anh?
Tuấn lắp bắp không ra tiếng:
– Nùng Ô! Anh vừa thấy lão!
Mai vụt quay lại nhìn theo hướng Tuấn chỉ, vừa kịp nhận ra mái tóc bạc phất phơ giữa mấy bụi gai. Chỉ một thoáng, lão đã biến mất. Mai dụi mắt lẩm bẩm:
– Nùng Ô chạy lẹ như vậy, thì lão có thể đến đây trong khi tụi mình còn ở nhà ông…
Mai ngừng lại suy nghĩ, rồi la lên:
– Đúng rồi, chính lão!
– Chính lão làm sao?
– Chính lão đã ăn cắp tấm bản đồ. Tuấn nhớ không, trong lúc tụi mình ở trong phòng ông Thanh Quí, lão đã rình sau cánh cửa và nghe hết mọi chuyện. Rồi thừa lúc ông Thanh Quí đi ra, lão lẻn vào lấy.
Tuấn gật đầu:
– Hay mình trở lại nói cho ông Thanh Quí biết đi!
– Trễ rồi, phải về trại ngay, không có bị lạ.
Hai đứa nhìn lại chỗ lão Nùng Ô vừa biến mất nhưng không thấy gì ngoài mấy bụi gai.
Hai anh em vội vã quay về. Tuấn khẽ nói:
– Chắc còn nhiều chuyện lạ nữa đây!
Chương 9
Về đến trại, hai anh em vội lên phòng. Bàn tính hồi lâu, Tuấn mới rút được kết luận: Nùng Ô có thể chạy lẹ, nhưng khi biết có người để ý, lão làm ra vẻ như bị tàn tật. Nùng Ô không muốn gặp bọn trẻ. Sự việc xảy ra ở biệt thự Tùng Lâm chứng minh điều đó. Tuấn thêm:
– Lão không muốn gặp vì lão biết tụi mình ở trại Bích Câu. Anh còn nghi lão có dính líu vào chuyện đàn bò của chú Bảy.
– Chắc lão là phù thủy chính cống rồi. Nếu không có phép làm sao lão có thể đi trên gai góc ngon lành như vậy và biến mất một cách mau chóng không ngờ được?
Tuấn lắc đầu, không chấp nhận giả thuyết của em:
– Khó tin quá, chắc phải có lý do tự nhiên nào đó chứ. Anh không tin phép tắc bùa ngải gì hết. Chỉ có người ngớ ngẩn như Mai mới dễ tin những chuyện như thế.
Như không để ý đến câu chế giễu của Tuấn, suy nghĩ một lát, Mai nói:
– Tuấn ơi, em đã có cách biết tại sao rồi.
Thế là hai anh em lại châu đầu vào nhau thầm thì bàn tính.
Buổi chiều, chú Bảy, anh Mạnh cùng với các anh Minh, Danh lên thăm đàn bò. Chờ cho họ đi khuất, Mai, Tuấn mới xin phép cô Bảy cho đi theo. Được phép, hai đứa giả bộ đi về phía bãi cỏ, nhưng vừa khuất bóng trại, Cả hai rẽ sang con đường mòn dẫn tới vách đá. Mai, Tuấn mừng rỡ vì thấy dự định đã thành công được một phần. Tuấn khen em một câu:
– Lần đầu tiên Mai có ý kiến hay. Nhờ Mai mà tụi mình có thể ra đây một cách đàng hoàng. Anh còn thắc mắc điều này: Nếu chính Nùng Ô đã giết đàn bò của ông già Hách, tại sao lão chỉ làm cho đàn bò của chú Bảy sợ thôi?
Suy nghĩ, Tuấn tiếp:
– Có thể vì lão không dám. Lần thứ nhất người ta còn tin là đàn bò bị chứng đầy hơi chết. Hơn nữa ông già Hách có một mình, lại già yếu lẩm cẩm, Nùng Ô muốn làm sao thì làm. Đàng này chú Bảy còn trẻ, nếu lão giết đàn bò chắc chắn chú sẽ xin cảnh sát về điều tra, trước sau gì cũng tìm ra thủ phạm.
– Đúng rồi, Nùng Ô chỉ làm cho đàn bò sợ hãi, vì lão nghĩ chú Bảy sợ bò chết sẽ không nhốt bò ở trên bãi cỏ nữa.
– Đó là cách ép chú Bảy bán bãi cỏ và ông Thanh Quí có cơ hội mua lại. Tuấn nghĩ sự có mặt của Nùng Ô ở nhà ông Thanh Quí chứng tỏ họ đồng lõa trong vụ này.
Cả hai im lặng đi. Tuấn nhận xét:
– Nhưng cũng có thể một con thú rừng nào đó đã làm cho đàn bò sợ… cọp chẳng hạn.
Nghe nói tiếng “cọp” giữa cảnh núi rừng cây cối rậm rạp, Mai cảm thấy run, nhưng trấn tỉnh lại ngay:
– Trước tiên là trên này hết cọp rồi, bạn ơi! Nếu còn cọp sao chú Bảy dám nhốt bò? Hàng rào này nó chỉ nhảy “phóc” một cái là vô ngay có khó khăn gì.
Mải nói chuyện, Mai, tuấn đã tới gần khoảng đất gai góc lúc nào không hay.
– Mình lựa chỗ ít gai rồi đi lần vào.
Mai nhìn quanh rồi nói:
– Nếu có gì, mình có thể gọi người lớn ở đằng kia…
Tuấn tìm được lối có ít gai, rồi lần mò vào sát vách đá. Mai theo sát bên anh. Tuấn chợt ngừng lại:
– Mai coi kìa!
Mai vừa nhận ra giữa vách đá và lùm gai có một lối đi nhỏ. Nếu không vượt đám gai vào gần đây thì không sao nhận được con đường nhỏ này, vì bị gai góc mọc trên cao che khuất.
Tuấn có vẻ thắng thế:
– Mai thấy chưa, không có phép hay bùa ngải gì ráo. Nùng Ô biến mất theo đường này chứ còn đi đâu nữa.
Không chần chờ một phút, hai đứa lần theo con đường nhỏ. Cả hai thoăn thoắt bước qua đám cành cây khô chắn ngang con đường nhỏ dẫn đến trước cửa một cái hang ăn sâu vào trong núi. Cửa hang khá rộng, đủ chỗ cho hai người lớn đi lọt. Bên trong hang tối thui làm cho hai anh em không dám tiến thêm. Mai hỏi:
– Làm gì bây giờ? Vào coi không anh?
– Khoan đã, phải mang theo đèn. Lỡ có hố sâu thì sao?
Mai thử thò cổ vào rồi rụt ra, le lưỡi:
– Bên trong tối thui, không thấy gì hết!
– Về nhà tụi mình sẽ kiếm thêm một sợi dây, một hộp quẹt và một cây đèn cầy phòng khi hết pin.
Sợ trễ, cả hai vôi quay lại đường cũ rồi ra đường mòn, làm như mới ở trại Bích Câu tới.
Sáng hôm sau, chú Bảy với anh Mạnh lên rẫy sớm. Anh Mạnh hình như quên hẳn chuyện bữa trước, vừa đi vừa nói cười vui vẻ:
– Tôi hy vọng lần này mình đi làm rẫy ngay, khỏi phải lo mấy con bò trắng răng nữa, vì hôm qua tôi đã đóng cọc cột kỹ lắm rồi.
Chú Bảy nói:
– Lần trước, mầy không có lỗi gì hết. Tao bực mình không biết cái gì, con gì đã làm cho đàn bò sợ đến thế. Mầy nghĩ thế nào?
Mạnh ngần ngừ một lát rồi mới trả lời:
– Tôi cũng chẳng hiểu ra sao nữa!
Rồi mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng. Khi đến bãi cỏ nuôi bò, cả hai dừng lại sửng sốt: cửa ra vào đã mở tung, trên bãi cỏ không còn một con bò nào. Chú Bảy nhìn Mạnh, mặt anh bỗng tái nhợt.
– Mày nói sao? Mày đã đóng gióng kỹ, cài cẩn thận? Không lẽ bò biết mở cửa đi ra à?
Mạnh vừa sợ vừa tức, không biết nói sao. Anh đi vòng bãi cỏ xem xét, và chợt cúi xuống cầm lên sợi dây thừng một đầu còn buộc vào cọc cắm sâu dưới đất.
– Ông chủ coi đây này, nếu bò biết mở được dây cột cổ nó thì cũng biết mở được cửa!
Chú Bảy hiểu ngay là mình đã lỡ lời… Chú nghĩ ngay đến kẻ thù bí mật:
– Được rồi, lần này chính hắn rồi, không còn ai khác vào đây nữa. Nó sẽ biết tay ta.
Mạnh thấy cặp mắt nẩy lửa của chú Bảy nhìn về phía biệt thự Tùng Lâm.
– Thưa ông chủ, phải đi tìm đàn bò ngay mới được.
– Đi tìm, nhưng tìm ở đâu bây giờ?
– Phải đông người mới được. Ông đi báo cho cai Bần, ông chủ biệt thự đến giúp một tay.
– Tao đi kêu cảnh sát, may ra…
– Vô ích. Họ đến đây thì đàn bò đã đi xa rồi! Bây giờ tôi về nhà kêu bà chủ với mấy cháu lớn của ông. Hai người ít quá làm sao mà tìm cho ra!
– Đi lẹ đi, nhớ bảo thằng Minh tìm ông cai Bần rồi đi vòng qua sườn núi luôn nghe.
Chú Bảy nhìn dấu chân, hy vọng đàn bò đi cùng với nhau. Chú không giấu nổi vẻ tức giận. Nếu chú biết được thủ phạm, chú sẽ cho hắn lãnh đủ.
Mạnh về tới trại vừa thở hổn hển vừa báo tin. Cả trại sôi sục hẳn lên. Cô Bảy với chị Tư vội theo Mạnh đi tìm. Mấy đứa nhỏ phải ở nhà coi nhà. Mai, Tuấn hơi buồn vì không được đi theo. Minh, Danh cũng chạy đi báo cho cai Bần biết. Ra khỏi trại được vài trăm thước, Minh, Danh như hai cái máy tự động, cùng lùi lại núp vào hai gốc cây.
Trước mắt hai người, một bóng người to lớn đang chầm chậm bước đi. Cả hai vừa ngạc nhiên vừa lo sợ khi nhận ra đúng là bóng đen mà hai anh đuổi theo đêm nọ. Cũng cái đầu to dị hình, cũng cái thân to lớn. Thật ra, có lẽ người đó không cao lớn như hai anh thấy. Hình ảnh to lớn dị thường đập vào mắt hai anh là do chiếc áo mưa nhà binh mà người đó mặc. Đêm hôm nọ chắc hắn cũng mặc chiếc áo này, nhưng ban đêm, hai người không nhận ra. Toàn thân từ đầu trở xuống đều trùm kín trong chiếc áo mưa vừa dài lượt thượt, vừa rộng. Đích thị là hắn rồi, không nghi ngờ gì nữa.
Một con chó từ đâu chạy lại ngoe nguẩy cái đuôi mừng rỡ. Người đó cúi xuống vuốt ve con chó, mặt quay lại phía hai người. Cả hai cùng kêu lên:
– Ông cai Bần!
Minh, Danh như quên mọi nỗi lo sợ, bỏ chỗ núp đi ra. Danh hỏi nhỏ:
– Ông ấy đi đâu mà sớm vậy? Hình như từ phía biệt thự đi lên thì phải?
Con chó hướng về phía hai người sủa lên mấy tiếng. Cai Bần quay lại và nhận ra Minh, Danh.
– Kìa hai cháu chạy đi đâu vậy? Bộ có cháy ở trại hay sao?
– Dạ không! Chỉ có đàn bò của chú cháu đi đâu mất hồi đêm.
– Chắc không đóng cửa rồi. Hay lại quên đóng cọc?
– Chúng cháu không được rõ. Chú cháu nói bảo cho ông hay và nhờ ông tiếp tay kiếm giùm.
– Được rồi! Đêm qua bác ngủ ở dưới tỉnh, bác thấy… mà thôi bác đi ngay với các cháu. Quýt, lại đây con! Chắc mấy con bò không xuống núi đâu, chúng quanh quẩn đâu đây thôi!
Ba người đi vòng quanh sườn núi. Khá lâu, họ thấy hai con bò đang ung dung gặm cỏ dưới một đám cây lớn. Con Quýt như quen nghề, vừa thấy bóng hai con bò đã chạy tới đuổi trở lại đường cũ.
Cai Bần nói:
– Con Quýt của bác khôn lắm, gần như người vậy. Các cháu muốn biết bác nghĩ gì về một người nào, như Nùng Ô chằng hạn, các cháu cứ hỏi con Quýt này ắt sẽ biết. Mỗi lần đánh hơi thấy Nùng Ô ở xa xa, nó xù lông ra rồi sủa lên ăng ẳng. Bác tin vào giác quan của nó lắm. Cái gì nó thích thì tốt, cái gì nó ghét, bác cũng ghét. Giống vật không lầm đâu các cháu ạ!
Minh, Danh mỉm cười vì câu nói của cai Bần. Cả hai không biết nghĩ sao về ông. Hai người tin chắc rằng bóng đen đêm nọ chính là cai Bần. Vậy cai Bần đi đâu vào giờ mà đáng lẽ ông phải ở nhà?
Minh đang định hỏi xem cai Bần có hay đi đâu ban đêm không, thì cai Bần đã nói:
– Bác ít ra khỏi nhà ban đêm lắm. Một khi đã đuổi bò vào chuồng cẩn thận rồi, là bác yên tâm đi ngủ ngay cho tới sáng. Nhưng hôm qua, bác hết cả thuốc hút. Đối với bác, thuốc cũng như một người bạn. Thiếu bạn thì buồn. Nhịn ăn được chứ không nhịn hút được. Bác phải ra tỉnh mua ngay buổi chiều. Ngoài đó, bác có một người bạn cũ. Lâu lâu gặp nhau, ông ấy giữ bác ở lại chơi vì trời đã tối rồi. Bác không nỡ từ chối. Sáng ra bác phải về sớm. Nhưng bác lấy làm lạ không hiểu tại sao mấy người đốn củi vẫn thường mang thuốc cho bác biến đi đâu mất cả ba, bốn ngày nay rồi?
Minh, danh chỉ biết lắng nghe, không trả lời.
Ba người về đến bãi cỏ đã thấy cô chú Bảy, anh Mạnh, chị Tư đang đứng bàn tán bên cạnh mấy con bò đã tìm được. Thêm hai con của ba người tìm thấy là đầy đủ.
Cai Bần khôi hài:
– Mấy con bò của ông chủ trại thật tài, biết tháo thừng lại biết cả mở cửa nữa!
Chú Bảy không đáp lại, lẩm bẩm:
– Tôi mà biết đứa nào, thì cứ gọi là…
– Ông có nghi cho ai không?
– Có, mà không chắc lắm. Tôi có xuống biệt thự kêu ông Thanh Quí nữa. Giờ này mà lão còn ngủ say như chết, gọi mãi cũng chẳng thưa.
– Ai ngủ ngày thời hay đi ăn đêm. Ông nên coi chừng đấy. À tôi hỏi ông chủ điều này: Đêm qua ở dưới trại ông có thấy gì lạ không?
Chú Bảy lắc đầu thay cho câu trả lời. Cai Bần tiếp:
– Đêm qua tôi ngủ dưới tỉnh. Nhà lạ thành ra khó ngủ. Khoảng nửa đêm, tôi trở dậy đi ra ngoài, buồn buồn nhìn về phía Bích Câu. Bỗng nhiên tôi thấy hình như ở đầu nhà, một ánh lửa lóe lên hai ba lần rồi tắt hẳn. Một lát chỉ còn thấy một đốm lửa khi đỏ khi mờ. Tưởng trại của ông bị cháy tôi tính gọi người lên chữa, cũng may không có gì xảy ra.
Mọi người đều ngạc nhiên. Chắc cai Bần không lầm được, lão ở vùng này từ khi sinh ra cho đến giờ, lão quen hết mọi đường lối.
Ngừng một lát, cai Bần tiếp:
– Sau tôi mới hiểu có người hút thuốc lá.
Danh thắc mắc:
– Từ dưới tỉnh mà bác thấy đốm lửa ở đầu thuốc lá được sao?
– Đâu có khó khăn gì. Kinh nghiệm nhiều lần bác đã thấy như vậy. Từ đây ra tỉnh, đi bộ thì xa, chứ tính theo đường chim bay chỉ chừng hơn một cây số là cùng. Hơn nữa, trại lại ở trên cao không bị cây cối che khuất. Đêm tối như đêm qua lại càng dễ nhận.
Chú Bảy phân vân. Không lẽ cai Bần đặt chuyện cho vui?
– Tôi báo cho ông chủ trại biết mà đề phòng. Tôi phải về xem đàn bò của tôi coi chúng có giỏi như đàn bò này không?
Lão vừa nói vừa cười rồi quày quả ra về. Cô Bảy cố mời lão xuống trại dùng cơm, nhưng lão nhất định từ chối.
Cai Bần đã đi xa rồi, chú Bảy mới hỏi:
– Đêm qua có ai ra đầu nhà hút thuốc không?
Minh thay mặt cho bọn trẻ trả lời:
– Chúng cháu chưa bao giờ đụng tới điếu thuốc. Ba cháu cấm ngặt không cho hút.
Người trong trại không ai hút thuốc. Đêm qua không có ai ra ngoài. Vậy ai đã đứng rình mò ở đầu nhà?
Minh ghé tai nói nhỏ với Danh điều gì, Danh gật đầu đồng ý rồi quay về phía chú Bảy, anh ngập ngừng:
– Thưa chú, chúng cháu cho chú biết một chuyện…
– Vì muốn giúp chú tìm ra thủ phạm đã phá đàn bò, chúng cháu có lẻn ra khỏi trại lên rình trên bãi cỏ này, nhưng đêm hôm kia chứ không phải đêm qua.
– Và chúng cháu bắt gặp cai Bần đi dạo ngang đây… Vậy tại sao ông ấy nói từ lâu ông không hề ra khỏi nhà ban đêm trừ có đêm qua?
Chú Bảy trầm ngâm suy nghĩ. Chuyện Minh, Danh cho chú biết gây nên nhiều thắc mắc. Một lát sau, chú mới trả lời:
– Đáng lẽ các cháu phải hỏi ông ấy. Theo chú, ông ấy có tuổi nên có thể quên được. Hay là ông ấy hiểu ra khỏi nhà là chỉ khi nào xuống tỉnh, còn đồi núi này là nhà là vườn của ông ấy? Có thể lắm.
Từ hôm gặp cai Bần lần đầu, Minh, Danh có cảm tình nhiều với ông, nhưng bây giờ hai anh chợt nhận thấy trong thái độ của cai Bần có điều gì khó hiểu, bí hiểm làm sao ấy.
Mọi người trở về trại, còn chú Bảy quyết định ra tỉnh báo cho Ty Cảnh sát biết.
Sau khi trình bày tự sự, ông Trưởng Ty trả lời không có cách nào giúp chú được vì số nhân viên ở đây quá ít, không thể đến từng nhà canh chừng giùm được. Chú chịu khó tìm phương tiện riêng để đề phòng. Chỉ khi nào cần lắm, ông mới phái người lên tiếp tay.
Buổi trưa, chú Bảy mang từ trên tỉnh về một cái bẫy của người Thượng chế để bắt thú rừng. Chú mang xuống để dưới nhà ngang. Mai, Tuấn tò mò đứng xem. Chú dặn dò:
– Từ nay trở đi, không ai được đi ra đầu nhà ban đêm nữa. Ai không nghe lời, chết bỏ.
Nghe giọng nói gay gắt của chú Bảy, hai anh em lấm lét nhìn chú rồi đi lên nhà.
Câu chuyện đàn bò lần này ai cũng biết. Từ Xuân cho đến chị Tư đều tỏ vẻ lo lắng. Cô Bảy đứng ngồi không yên, cô cũng chẳng biết phải làm gì nữa. Mai, Tuấn cũng làm ra vẻ lo lắng đi lên đi xuống. Kỳ thực cả hai đang lo kiếm những thứ cần thiết cho cuộc “mạo hiểm sắp tới”. Tuấn tìm được một ít dây nhỏ vứt ở nhà ngang, một mảnh áo mưa đã cũ. Mai tìm thấy dưới gầm bàn thờ một bao diêm ai đánh rơi xuống đó từ bao giờ, với hai cây nến cháy dở. Tuấn soát lại đèn pin, mọi thứ cần thiết đã sẵn, chỉ còn chờ lúc thuận tiện.
Người lớn không ai để ý đến việc làm của Mai, Tuấn. Nhưng trưa hôm nay, chú Bảy bắt hai em phải ngủ. Thế là dự định đành phải bỏ. Nhưng Tuấn nói:
– Thế nào chúng mình cũng sẽ đi...
Đêm hôm đó, khi mọi người trong nhà đã ngủ, Mai, Tuấn theo nhau xuống sân. Sau khi khép cánh cửa, Tuấn quen tay đút chiếc chìa khóa cửa vào túi. Hai anh em ra sau nhà lấy gói vật dụng cần thiết rồi ra đi.
Chương 10
– Đường hầm sâu quá! Vô nữa không anh Tuấn?
Nghe Mai hỏi, Tuấn không đáp, chỉ giơ đèn ra phía trước để soi. Đường hầm sâu hun hút, ánh đèn quá yếu không soi sáng được bao xa. Càng đi, Mai, Tuấn càng có cảm tưởng mỗi lúc mỗi đi sâu vào lòng núi.
Đường hầm dẫn đến một cái hang rộng. Nóc hang cao hơn nóc đường hầm, lòng hang cũng rộng hơn. Tuấn thận trọng chiếu đèn quanh hang một lượt trước khi bước vào: Trong góc có nhiều thùng gỗ vuông, còn mới được xếp thành hàng. Hàng trên cùng hình như không có nắp. Hai anh em hồi hộp đến gần quan sát. Tuấn chiếu đèn pin nhón gót nhìn vào bên trong một cái thùng, thấy rõ những miếng đá đen như mun, hình như bị nung chảy ra. Tuấn mừng rỡ:
– Mai thấy chưa, đây đúng là một cái mỏ. Ông già hách đã đánh dấu trên tấm bản đồ đúng là chỗ này rồi. Hèn chi ông Thanh Quí không lấy mất của tụi mình. Biết có mỏ nên ông ấy đòi mua cho được bãi cỏ gồm cả khu này để khai thác.
– Nếu biết, ông ấy đã không cần tấm bản đồ của tụi mình. Đằng khác, chắc gì đây là một hầm mỏ? Mấy miếng đá đen nầy đâu phải là than đá!
Mai nghĩ: những thùng gỗ này có thể từ nơi khác được đem đến giấu tạm ở đây. Vì nếu là hầm mỏ, người ta phải chống cột, phòng đất khỏi sụp.
Tuấn tò mò khám phá thêm một đường hầm khác cũng nhỏ hẹp như đường hầm trước. Đi được một quãng, đường hầm lại chia ra làm ba lối hẹp hơn. Hai anh em lách theo một đường. Đường này lại dẫn đến một cái hang khác có hàng cột chống đỡ nóc hang.
Mai, Tuấn ngạc nhiên thấy trong hầm có một số bình hơi bằng kim loại. Trên chóp có khóa an toàn và hai ống cao su dẫn hơi. Tuấn như quên mọi nguy hiểm có thể đang chờ đón, vui vẻ bảo:
– Thấy chưa, đúng là hầm mỏ rồi. Có cột chống hẳn hoi nhé. Đây là những bình hơi, Tuấn thấy ở mấy tiệm hàn xì nhiều lần rồi.
Mai không chịu thua:
– Mấy bình hơi để hàn xì, nhưng ở đây thì hàn cái gì?
– Dầu sao đây cũng là một cái mỏ.
Sau lưng Mai, Tuấn bỗng vang lên một giọng nói mai mỉa:
– Giỏi dữ đa. Còn nhỏ mà đã lớn gan dữ vậy! Phách, mày tính sao đây?
Hai đứa trẻ sững người kinh sợ. Thoạt đầu hai đứa còn tưởng các anh đi theo hù chơi, nhưng khi nghe nói đến tên Phách, một tên lạ hoắc, mới cảm thấy sợ hãi vô cùng.
Một ánh đèn sáng chiếu thẳng về phía hai đứa. Trong khoảng lờ mờ, hiện rõ hai bóng người to lớn. Một giọng nói khác, Mai đoán là của người mang tên Phách, vang lên:
– Tụi bây vô đây làm gì? Cái tội tò mò này không tha thứ được! Đáng lẽ ở trường chúng mày phải học thuộc điều đó hơn là biết những bình hơi với đèn xì ở trong xó này. Thôi lại gần đây, hai tay sau lưng mau mau lên.
Mai, Tuấn không dám kháng cự, đành miễn cưỡng nghe lời.
– Phách à, phải nhốt chúng vào một chỗ để mình khỏi vướng cẳng đêm nay và đêm mai. Sau đó thì khỏi cần.
Phách càu nhàu:
– Tùy ý, muốn làm sao thì làm, nhưng phải coi chừng.
Một cánh tay lực lưỡng đẩy mạnh hai anh em ra khỏi hang rồi rẽ vào một đường hầm khác. Đường đi nhấp nhô, Mai, Tuấn thỉnh thoảng lại vấp phải một cục đá đau điếng. Đi một lúc lâu, Mai, Tuấn mới có cảm tưởng ra đến ngoài vì thấy gió thổi mát dịu. Thỉnh thoảng, vài cành lá thấp đập vào mặt Tuấn. Tới trước một cái chòi nhỏ, hai đứa bị đẩy vào trong. Giọng nói của tên Phách đầy vẻ đe dọa:
– Từ giờ trở đi phải câm họng, la lên một tiếng là rồi đời nghe.
Người kia khẽ giục:
– Chúng mày nằm xuống ngủ đi, có chiếu trải trên mấy tấm gỗ rồi đó.
Phách như chợt nhớ ra điều gì, ngăn anh em Tuấn lại:
– Khoan đã! Còn một việc phải làm gấp. Thắp đèn lên một chút.. Có giấy không đưa đây! À tụi mày gọi ông chủ trại bằng gì?
– Bằng chú!
– Còn bà chủ là thím à?
– Không, là cô.
– Được rồi, mau mắn như vậy tốt lắm!
Dưới ánh đèn, Mai, Tuấn thấy rõ một gã thanh niên còn trẻ, đầu đội cái mũ che kín cả tóc. Gã ngồi vào bàn kê ở góc phòng hí hoáy viết.
– Con bé lại đây! Mày biết viết không?
Mai gật đầu rồi đến gần bàn. Mai vừa nhận ra gã là người đốn củi mà hai anh em đã gặp trên rừng.
– Đây, viết lại mấy chữ này cho sạch sẽ. Không có gì phải sợ hết. Nếu ngoan ngoãn không ai làm gì tụi bay, còn ngược lại thì coi chừng.
Cổ họng Mai như thắt lại, hai hàng nước mắt chỉ chực tuôn ra. Mai gật đầu tỏ vẻ hiểu ý, rồi ngồi vào bàn. Vừa đọc qua một lượt, Mai kêu lên:
– Đâu có phải, tụi tôi đâu có đi chơi. Tại sao tụi tôi không về trại ngay hôm nay được? Chú tôi sẽ báo cảnh sát cho coi!
Người đàn ông cau mày:
– Chúng mày sẽ về, nhưng trễ hơn một bữa có sao đâu! Trong khi chờ đợi, để chú mày an tâm, hãy chịu khó viết đi.
Mai còn do dự, tên Phách quát:
– Tao nói lẹ lên. Đừng quên tụi tao có thể đối xử cách khác nhé, chừng đó đừng có hối hận… Đừng hy vọng cảnh sát tìm ra chỗ này.
Gương mặt, cặp mắt lộ vẻ dữ dằn kèm thêm nhưng lời đe dọa của hắn, làm Mai không dám trái lời. Mai hí hoáy viết như cái máy. Cuối thư Mai thêm vào mấy chữ: “Chúng cháu xin cô chú tha lỗi vì đã không xin phép cô chú!” Viết xong, Mai đưa lá thư cho người đàn ông.
– Khá lắm, tao không nghĩ tới câu xin lỗi đó. Thôi bây giờ ngủ đi. Tao sẽ ở đây canh chừng tụi bây. Còn Phách, đi làm việc của mày đi.
Tên Phách đi ra sau khi đã cất lá thư của Mai vào túi áo. Căn chòi chìm hẳn trong bóng tối. Mai, Tuấn nằm sát bên nhau cho đỡ sợ, nhưng vẫn thấy run. Chỉ một lúc sau, hai em đã ngủ say vì những biến cố dồn dập bất ngờ xảy ra làm chúng mệt nhoài.
Sáng hôm sau, tiếng chim ríu rít đánh thức Mai, Tuấn trở dậy. Bên ngoài trời đã sáng hẳn, vài tia nắng chiếu qua kẽ hở của bức vách làm lóa mắt Mai. Người đàn ông đã dậy từ lúc nào, đang lúi húi bên bếp lửa.
Tuấn thì thầm bên Mai:
– Chắc họ nhốt tụi mình ở đây cả ngày?
– Chưa biết được! Giờ này ở trại, chắc cô chú Bảy đã nhận được thư rồi. Thế là chẳng có ai đi tìm tụi mình nữa.
– Lúc về, mình có nói sự thật chưa chắc đã ai tin!
Tuấn tưởng tượng đến những hình phạt khi trở về, mặt nhăn nhó trông thật thảm hại.
Người đàn ông đứng dậy đi về phía hai đứa:
– Thầm thì gì đó? Dậy ăn sáng đi!
Mai, Tuấn uể oải ngồi dậy. Ban ngày nhìn rõ mặt người đàn ông, hắn cũng không có vẻ gì dữ lắm. Hắn xới ra ba bát cơm rồi bày lên bàn. Món ăn duy nhất là đĩa cá khô dim nước mắm.
– Tiếc một điều là lão Thanh quí không có thịt. Thôi có gì mình ăn nấy. Cá cũng còn ngon chán.
Câu nói nhắc Mai, tuấn nhớ đến ông Thanh Quí. Cả hai như vừa khám phá ra một điều: Chủ biệt thự Tùng Lâm đồng lõa với bọn này. Chắc ông biết có hầm mỏ và cũng với bọn họ khai thác.
Ba người ngồi vào bàn ăn. Mới đầu Mai, Tuấn thấy khó nuốt vì cơm khô, nhưng vì đói, ăn thấy ngon miệng, hai anh em ăn rất thật tình…
Bỗng nhiên từ xa vọng lại tiếng máy xe nổ giòn dã, tiếng nổ giống như tiếng máy xe của ông Thanh Quí. Tiếng máy mỗi lúc một nhỏ dần, hình ảnh ông Thanh Quí ngạo nghễ ngồi trên xe thoáng hiện ra trước mắt Mai, Tuấn. Hai em càng cho điều mình nghi ngờ là đúng sự thực.
Ở trại Bích Câu, chú Bảy đã trở dậy. Khi xuống dưới bếp, chú ngạc nhiên vì cửa bếp khép hờ không khóa, còn chiếc chìa khóa mọi khi vẫn treo ở cột biến đâu mất. Cô Bảy không giữ, anh Mạnh, chị Tư không mở cửa vậy chứ còn Minh, Danh? Dám hai cậu này lại lẻn ra ngoài nữa rồi. chú Bảy hé mở cửa phòng. Minh, danh còn đang say sưa ngủ làm chú không muốn đánh thức. Vậy còn Mai, Tuấn? Chú leo lên lầu đẩy cửa bước vào. Chú kinh ngạc khi thấy hai giường trống trơn. Hai đứa nhỏ đã đi đâu mất rồi? Ngay lúc ấy tiếng cô Bảy gọi:
– Mình ơi, có cái thư nè.
Chú vội quay xuống. Bắt gặp gương mặt hốt hoảng của vợ, chú cảm thấy xốn xang cả ruột gan như có chuyện không lành xảy ra. Cô Bảy nghẹn ngào:
– Mấy đứa này quá quắt lắm rồi. Anh coi đây này, thật không chịu nổi nữa.
Chú Bảy cầm lấy tờ giấy rồi đọc lớn tiếng:
“Thưa chú, thưa cô,
Hai đứa chúng cháu sẽ đi chơi cả ngày hôm nay. Chiều tối có khi chúng cháu chưa về kịp. Xin chú cô đừng lo lắng cho chúng cháu. Khi về chúng cháu sẽ kể cho chú cô biết chúng cháu đi đâu.
Chúng cháu xin lỗi cô chú vì đã không xin phép cô chú.
Hai cháu của chú cô,
Mai, Tuấn”.
– Thế này thì quá lắm, không tưởng tượng nổi.
Cô Bảy lo lắng:
– Đi cả ngày, rồi chiều nay không chắc có về không! Trời ơi, đi đâu thế không biết? Mà chúng nó có thể đi đâu được chứ?
Chú Bảy lắc đầu ngao ngán:
– Hai đứa này thật đáng đánh đòn và bắt phạt ăn cơm với muối cả tuần nữa.
Cô Bảy không nghĩ đến hình phạt, cô chỉ lo có sự nguy hiểm xảy đến cho hai cháu nhỏ. Cô đọc đi đọc lại lá thư nhiều lần như cố tìm một điều gì. Nét chữ này đúng là của Mai rồi. Cô không ngờ hai đứa to gan thế. Cô lẩm bẩm:
– Có lẽ phải đi báo cho cảnh sát biết mới được.
Minh và Danh dậy trước khi chú Bảy về. Cô Bảy cho hai anh biết chuyện vừa xảy ra. Minh nghĩ ngay có thể hai em đã trốn lên thăm cai Bần. Nhưng cô Bảy không tin như vậy.
– Cai Bần không giữ chúng nó lại làm gì đâu. Ông ấy phải hiểu mình lo lắng chừng nào nếu không thấy chúng nó về.
– Biết đâu Mai chẳng bày chuyện gạt ông ấy?
– Cai Bần đâu có phải trẻ con.
Cô Bảy mắc bận phải đi làm ngay. Còn lại Minh, Danh tần ngần bên bức thư.
– Cậu có thấy gì lạ trong bức thư không, Danh?
Danh chăm chú đọc lại một lần, rồi lắc đầu:
– Đâu có gì lạ. Đúng là nét chữ của Mai rồi.
– Thế cậu không để ý cách xưng hô đảo lộn lung tung của Mai sao? Này nhé, bọn mình bao giờ cũng nói “cô, chú”, khi thưa gửi điều gì cũng vậy.
– Ừ, đúng rồi.
– Thế mà trong thư này con nhỏ lại viết; “thưa chú, thưa cô”, rồi xin “chú, cô”, sẽ kể cho “chú, cô”! Hoàn toàn trái ngược với lối xưng hô hằng ngày.
Danh vội kết luận:
– Vậy Mai không phải là tác giả lá thư này?
– Chưa hết, hàng cuối cùng Mai lại viết: “xin lỗi cô chú… xin phép cô chú!” Trước khi ký tên còn viết: “hai cháu của chú cô”. Cứ chú cô rồi lại cô chú loạn cả lên.
Minh suy nghĩ một lát rồi nói:
– Ý kiến của cậu có thể đúng phần nào. Ví dụ có người đọc cho Mai viết, họ không quen cách xưng hô của tụi mình, nên đặt lộn xộn. Còn hàng cuối cùng biết đâu không do Mai viết ra. Trường hợp thứ hai là vì gặp chuyện gì cấp bách hay sợ hãi quá, Mai không đủ bình tĩnh nên viết lộn xà ngầu.
– Theo ý tớ, cả hai trường hợp cậu vừa kể đều không hay cho Mai, Tuấn. Tụi mình phải đi tìm hai em ngay mới được.
Chú Bảy từ trên rẫy trở về trại, mặt lộ vẻ lo lắng:
– Thằng Mạnh đã về nhà chưa mình?
Cô Bảy sửng sốt:
– Ủa, thằng Mạnh đi với anh mà!
– Vậy nó biến đâu mất từ khi tôi qua biệt thự Tùng Lâm? Sao lắm chuyện thế này?
Minh hỏi xen vào:
– Chú có gặp ông Thanh Quí không ạ?
– Không, cửa trước cửa sau đóng kín mít, chú gọi mãi chẳng có ai trả lời. Có lẽ lão không có nhà, hay có nhà mà không muốn mở cửa cho chú. Nhưng chú thấy hình như lão mới đi đâu sáng nay vì chiếc xe không có trong nhà sau. Đằng trước sân có mấy vết dầu còn mới.
Minh đưa mắt nhìn Danh, hai anh nhìn nhau như ngầm hiểu chuyện gì sau câu nói của chú Bảy.
Cô Bảy lo lắng:
– Hay anh đi báo cảnh sát?
– Cảnh sát cái gì? Lỡ hai đứa đi chơi, có phải mình quấy rầy người ta vô ích không! Tôi chưa muốn báo cảnh sát, chờ xem sao đã. À chú chưa cho hai cháu biết, ngày mai chú sẽ cho hai đứa nhỏ về Sài Gòn. Chứ ở đây, cứ điệu này chúng nó làm chú điên đầu mất.
Cô Bảy chợt nói:
– Bây giờ nghĩ lại, tôi tự hỏi hay chúng nó lên thăm cai Bần rồi khi về mải chơi đi lạc trên núi chưa biết chừng. Anh lên hỏi cai Bần xem!
– Tôi đi bây giờ. Tiện thể hỏi luôn chuyện đêm nọ cháu Minh với cháu Danh gặp lão. Lão có vẻ mờ ám sao đó. Hình như lão vẫn coi mình là người lạ đến vùng này.
Chú Bảy ra đi. Dọc đường chú gặp anh Mạnh đang vội vã chạy từ phía Tùng Lâm về. Hỏi đi đâu, Mạnh trả lời lấp lửng:
– Tôi thấy có cái gì là lạ bên đường, tôi rẽ vào xem rồi đứng chờ ông về, nhưng ông đã về lúc nào rồi, làm tôi phải đợi mãi.
Chú Bảy có cảm tưởng Mạnh tránh nhìn thẳng vào mắt chú. Hình như Mạnh vừa nói dối.
– Thôi về trại lẹ đi, lát nữa tôi sẽ hỏi lại.
Chương 11
Mọi hoạt động trong trại Bích Câu như ngừng hẳn lại. Chú Bảy đi mãi chưa thấy về. Cô Bảy đứng ngồi không yên. Chị Tư hết đi xuống bếp lại lên nhà, nhìn cửa trước, ngóng cửa sau. Xuân ngồi ủ rũ trong góc nhà. Chỉ có Mạnh bổ củi ở phía sau. Minh, Danh không muốn ngồi im, xuống giúp anh một tay xếp củi vào một đống. Anh Mạnh hôm nay nói ít. Hình như anh đang suy nghĩ điều gì, cặp mắt lúc nào cũng lấm la lấm lét, hễ nghe tiếng động là nhìn trước nhìn sau như sợ sệt điều gì. Minh, Danh thấy anh như vậy cũng không muốn gợi chuyện.
Một lúc sau, chú Bảy cũng về đến trại, vẻ lo lắng lẫn thắc mắc còn hằn trên gương mặt chú.
– Cai Bần không gặp hai đứa nhỏ. Còn chuyện hôm nọ, các cháu có chắc gặp cai Bần đi ban đêm không?
Không do dự, Minh quả quyết:
– Chắc chắn như vậy, cả hai đứa cháu đều thấy mà.
– Thế thì hoặc các cháu nhận lầm, hoặc cai Bần đã nói dối. Lão cũng quả quyết lão không hề đi đâu đêm đó.
– Cái áo đi mưa nhà binh vừa dài vừa rộng đâu có khó nhận lắm. Cả vùng này chắc chỉ có một mình lão có. Không phải lão thì còn ai vào đây nữa.
Chú bảy im lặng, chú không biết ai đúng, ai sai. Đấu óc chú rối như tơ vò. Tới giờ cơm, mọi người gượng ngồi vô bàn ăn. Thật sự không ai muốn ăn vì không thấy đói. Bỗng cánh cửa bếp bật mở, cai Bần hiện ra ở khung cửa, mặt không giấu vẻ bực tức.
– Tôi không sao hiểu được câu chuyện ông nói lúc nãy. Ông không tin tôi. Ông vẫn khư khư với ý kiến của ông mà không chịu tìm ra sự thật. Thế mà ông muốn tôi giải thích à?
Chú Bảy toan nói, nhưng cai Bần đã tiếp:
– Thôi, ông khỏi nói. Cai Bần này không đeo kính cũng biết trong đầu người ta nghĩ gì rồi. Này hai cháu, đêm hôm nọ hai cháu nhận ra bác bằng cách nào?
Như đã dọn sẵn câu trả lời, Minh nói ngay:
– Hôm đó chúng cháu thấy bác mặc chiếc áo mưa nhà binh của bác đó!
Mắt cai Bần chợt sáng lên, lão khẽ nhếch mép cười. Lão đến gần Minh, thân mật vỗ vào vai anh:
– Người ta có thể lầm con la với con ngựa. Trong trường hợp này cũng vậy, các cháu nhìn lộn bác với một người. Người đó cũng có một cái áo mưa như bác. Ở trên núi, có một cái áo mưa như vậy thật tiện lợi. Chỉ cần trùm lên một cái là từ đầu tới chân đã kín ngay, khỏi sợ mưa sợ lạnh nữa. Người cũng có một cái như bác không ai xa lạ hơn là Nùng Ô.
Minh, Danh ngạc nhiên, từ ngạc nhiên đến xấu hổ vì thấy mình bị hố to. Hai anh không ngờ. Chú Bảy như còn thắc mắc:
– Ban đêm Nùng Ô rình mò ở đất của tôi làm chi vậy?
– Từ ngày ông già Hách chết, Nùng Ô có việc gì làm đâu! Chắc lão buồn tình, nhớ ông già Hách, lang thang đi chơi đó thôi. Hay luôn tiện, ông lên hỏi lão cả chuyện mấy con bò nữa. Biết đâu lão ta…
– Tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng không lẽ người ta đi ngang qua đất nhà mình mà cũng tìm cớ để hạch hỏi hay sao? Coi kỳ quá!
– Vậy thì thôi. Tôi là người ngoại cuộc, để trưa nay tôi ghé qua hỏi lão xem. Từ mười năm nay tôi chưa nói với lão một lời. Yên chí đi. Cũng đừng lo cho hai đứa nhỏ nữa, hai đứa khôn lanh lắm. Tôi sẽ đi tìm luôn cho.
Cai Bần quày quả đi ngay, nhanh như khi tới.
Đến trưa, cai Bần giữ lời hứa đi tìm Nùng Ô. Ông bực mình vì hành động của Nùng Ô mà ông bị nghi oan.
Tới trước căn nhà tồi tàn, cai Bần tự nhiên đẩy cửa bước vào. Một mùi ẩm mốc từ đất xông lên. Cai Bần đứng lại ở khung cửa, cảnh tượng phơi bầy trước mắt làm ông kinh ngạc. Ông tưởng nhà Nùng Ô không đến nỗi nào, nhưng sự thật trái ngược hẳn. Trong nhà không khác chi một cái ổ chuột. Nhện giăng kín cả trần. Quần áo rách vứt bừa bãi khắp nhà. Cai Bần thấy giữa đám giẻ rách, một cái khố đã tả tơi. Chắc hẳn đó là cái khố duy nhất Nùng Ô mặc khi lưu lạc tới đây. Căn phòng thật tiêu điều, vắng lạnh vì không có một cái bàn ghế. Có lẽ chẳng bao giờ Nùng Ô tiếp một người khách nào… Nhưng cai Bần kinh ngạc hơn nữa khi thấy ở trong góc nhà, góc có ít ánh sáng chiếu vào nhất, Nùng Ô đang nằm thoi thóp. Nùng Ô nằm dài trên một tấm gỗ kê sát đất, toàn thân trùm kín trong chiếc áo mưa nhà binh. Mái tóc bạc dài thò cả ra bên ngoài. Nùng Ô thấy có người đến, rên lên khe khẽ. Cai Bần như quên hết mọi giận dữ, bước từ từ đến gần. Nùng Ô lắp bắp qua hơi thở đứt quãng những gì nghe không rõ. Cai Bần ghé sát lại hỏi:
– Nùng Ô làm sao đó?
Nùng Ô phải cố gắng lắm mới nói ra tiếng:
– ết… lão ách… lửa cáy da.
Cai Bần cố nghe xem Nùng Ô muốn nói gì.
– ế… lão ách… dì đá đen.
Thanh âm của lão lơ lớ thật khó nghe. Cai Bần chợt hiểu.
– Nùng Ô sắp chết như lão Hách phải không?
Nùng Ô gật đầu. Cai Bần lẩm bẩm:
– Lửa cháy da, dì đá đen… thôi được rồi, để cai Bần xuống kiếm y tá chích cho lão một mũi là khỏi ngay, không chết đâu.
Cai Bần đi giật lùi ra cửa. Ông chạy một mạch xuống tới trại Bích Câu, vẻ mặt hốt hoảng. Chú Bảy thấy vậy vội kéo ghế mới ông ngồi để lấy lại bình tĩnh. Thấy cai Bần đã hoàn hồn, chú mới hỏi:
– Ông có gặp Nùng Ô không?
– Có, tôi thấy lão như thấy ông bây giờ. Nhưng ghê quá. Nùng Ô coi bộ sắp chết rồi. Lão nằm bẹp trong xó nhà như con mèo ốm, hết cả cái vẻ phù thủy đáng sợ rồi. Đứng ở trong nhà lão một lúc mà tôi muốn xỉu luôn.
– Lão đau làm sao?
Cai Bần bóp trán suy nghĩ một phút rồi nói:
– Không biết lão đau ra sao. Trong lúc rên rỉ, lão chỉ lặp đi lặp lại là lão sắp chết như lão Hách. Rồi cái gì này… lửa cháy da vì đá đen. Phải rồi, Nùng Ô sắp chết như lão Hách vì lửa cháy da vì đá đen. Tôi chẳng hiểu gì cả.
Mọi người nhìn cai Bần lo lắng. Người khỏe mạnh, vui vẻ lại bình tĩnh như cai Bần làm sao có thể bị xao động đến thế? Chú Bảy trầm ngâm:
– Lửa cháy da, vì đá đen. Ông có chắc đã nghe rõ như thế không?
– Như tôi nghe ông nói bây giờ đây!
Cai Bần đi rồi, trại Bích Câu trở lại lặng lẽ buồn tanh. Không ai muốn nói với ai một lời. Mọi người như chìm đắm trong nỗi ưu tư. Minh không có gì làm, leo lên phòng Mai, Tuấn. Anh cũng bắt đầu lo cho hai em. Anh mở từng ngăn kéo thấy đủ thứ hai em đã thu tích. Này những viên đá nhỏ nhiều màu ngộ nghĩnh, này những cánh hoa rừng ép đã khô nhưng vẫn giữ được màu sắc rực rỡ. Nhìn ngắm những thứ đó, Minh bất chợt thấy dào dạt trong lòng một niềm rung cảm như nhớ như thương. Hơn lúc nào hết, Minh cảm thấy thương hai em vô cùng. Ước chi Mai, Tuấn đừng gặp gì nguy hiểm, ước chi hai em mau trở về!
Minh vừa rờ trúng một mảnh giấy vội lôi ra. Tò mò, anh mở tung ra coi. Ồ! Thì ra đây là tấm bản đồ, màu sắc còn tươi mới thật vui mắt. Buồn buồn, Minh tìm vị trí của trại Bích Câu. Mắt anh chạm phải hình chữ nhật nhỏ vẽ bằng bút nguyên tử đỏ trên bản đồ. Hình như chỗ này gần biệt thự Tùng Lâm. Minh nhìn tấm bản đồ, suy nghĩ.
Có tiếng Danh gọi, Minh xuống ngay, không quên đút tấm bản đồ vào túi.
– Này Minh, chú Bảy nói tụi mình đi kiếm anh Mạnh, không biết anh ấy lại đi đâu từ lúc cai Bần đến tới giờ. Nhưng cậu phải xuống phòng anh Mạnh coi cái này hay lắm.
Minh, Danh đi ngay. Vừa mở cửa bước vào, Minh đã thấy chiếc mũ rơm của Mai mắc trên đầu giường anh Mạnh.
– Mũ của Mai sao lại nằm đây?
– Hình như anh Mạnh đã tìm được.
– Ở đâu vậy?
– Sao cậu ngớ ngẩn thế? Phải đi tìm anh Mạnh đã rồi hãy hỏi.
Minh nhìn cái mũ, nhưng hình như tâm trí anh để đâu đâu.
– Danh đã nói cho chú Bảy biết chưa?
– Chưa. Nếu anh Mạnh biết điều gì mà không nói chắc phải có lý do… Hoặc anh muốn tránh cho chú Bảy khỏi phải lo lắng thêm… À, hồi nãy Minh muốn nói gì đó?
– Đây, tớ nhìn thấy cái này trong ngăn kéo của tụi nhỏ. Tớ thấy có điểm này kỳ kỳ.
Minh đưa cho Danh tấm bản đồ rồi chỉ chỗ Tuấn vẽ. Danh thắc mắc:
– Mai, Tuấn tìm đâu ra tấm bản đồ này? Ngoài tỉnh đâu có bán?
– Chú Bảy cũng không có một tấm. Minh hỏi chú ngay ngày đầu mới tới đây rồi.
– Hình như thơm mùi ông Thanh Quí. Hay mình thử đi qua biệt thự chơi, biết đâu chẳng có gì lạ?
– Được đó, nhưng tốt hơn phải báo cho chú Bảy. Mình xin đi kiếm anh Mạnh là được ngay. Nhớ mang theo đèn pin, trời chiều rồi, lỡ lúc về tối.
Chú Bảy bằng lòng ngay, nhưng không quên dặn dò Minh, Danh phải cẩn thận. Chú cũng nói nếu chiều nay Mai, Tuấn không về, chú sẽ đi báo cảnh sát.
Minh, Danh hứa sẽ về sớm nếu không có gì. Hai anh đi ngay. Khi đi ngang bãi cỏ, hai anh thấy đàn bò vẫn bình tĩnh gặm cỏ, còn anh Mạnh đâu mất. Vừa đi, hai anh vừa nói chuyện. Minh lưu ý Danh:
– Cậu có để ý cái hình chữ nhật mà tụi nhỏ vẽ trên bản đồ không? Chắc tụi nó không vẽ chơi đâu. Tụi mình thử coi lại coi.
Chiều xuống dần, mặt trời đã khuất sau núi. Minh, Danh xem xét hồi lâu rồi định vị trí trên đất những điểm đặc biệt trên bản đồ. Minh cho rằng hình chữ nhật vẽ đó là chỗ vách đá lởm chởm, ngay bên biệt thự Tùng Lâm. Minh đề nghị:
– Tụi mình đến đó coi một chút đi, rồi sau kiếm Mạnh cũng còn kịp.
– Nhưng chỗ đất phía trước gai góc nhiều quá, làm sao đến gần leo lên được?
– Nếu muốn leo, mình đi lối khác, tìm chỗ để leo lên là được ngay.
Nói là làm. Minh, danh phải đi vòng xa hơn một chút rồi lần mò leo lên vách đá. Leo lên được một quãng, Danh nhìn xuống dưới chân vách đá, bỗng anh la lên:
– Kìa, Minh thấy gì không?
Minh nhận ra một con đường mòn dọc theo vách đá.
– Xuống đó không?
– Xuống mau đi. Con đường này tớ nghi lắm đây.
Thế là cả hai tìm lối xuống, rồi đi theo con đường mòn. Minh đi trước chợt dừng lại:
– Đúng rồi, tớ nghi lắm mà. Đưa đèn pin đây.
Không do dự, cả hai chui vào đường hầm mà Mai, Tuấn đã vô hôm qua. Minh hí hửng hy vọng sẽ tìm được điều gì lạ. Hai anh không ngờ nguy hiểm có thể xảy đến. Hai người đi tới cửa hang, vừa nhận ra mấy thùng gỗ, chưa kịp làm gì, thì một luồng sáng chói lòa đã chiếu thẳng vào mặt. Tiếp theo là một giọng nói đe dọa vang lên nghe rụng rời:
– Chà, đi chơi hả? Đây đâu phải là chỗ để đi chơi! Này hai thằng kia! Chúng mày có biết tò mò là một tính xấu không? Uổng quá, khi biết thì hơi muộn rồi… lại đây… mau lên cho được việc. Nên nhớ chúng tao có súng nghe. Đừng có giở trò gì kẻo toi mạng.
– Này Phách, trại Bích Câu này đúng là chuồng bồ câu. Hai cặp thành bốn chú bồ câu non. Không biết có cặp già nào nữa không hả hai chú chim non?
Minh, Danh không trả lời, cả hai vừa hiểu Mai, Tuấn đang ở trong tay bọn chúng.
– Không trả lời! Được, không sao. Bọn này không thích những đứa tò mò. Bởi vậy, cảm phiền hai chú em ngủ đỡ đêm nay ở đây vậy… Bỏ tay sau lưng. Phách, lo giùm cho quý khách của chúng ta một chút.
Một bóng đen tiến tới, lần lượt trói chặt tay hai anh ra sau lưng.
– Xong rồi!
– Dẫn quý khách vào phòng ngủ ấm áp. Chúc đêm nay ngủ ngon nghe mấy con!
Minh, Danh bị người mang tên Phách đẩy đi dọc theo đường hầm. Bất thình lình hai người bị xô té xuống đất, một cánh cửa gỗ đóng ập lại. Hai anh bàng hoàng vì không để ý đến cánh cửa. Tiếng khóa kêu lách cách. Qua kẽ hở Minh thấy ánh đèn xa dần. Bất giác cả hai cùng buông tiếng thở dài. Tình trạng thật bi đát. Mọi việc xảy đến nhanh quá sức tưởng tượng làm hai anh không có một mảy may phản ứng nào. Nằm yên bên nhau một lát, Danh day qua hỏi:
– Cậu bị trói có chặt không?
– Chặt lắm! Tên Phách này chắc đã học thắt nút. Tớ nhúc nhích một chút cũng không được. Tê cả hai tay rồi.
– Đáng lẽ bọn họ phải để đèn lại đây.
– Cả dao hay một cái kéo cũng được, như vậy đỡ biết mấy. À, cậu có biết bọn họ nhốt Mai, Tuấn ở đâu không?
– Cậu yên chí, chắc cũng như tụi mình chứ gì. Hai đứa tha hồ sợ.
Minh yên lặng, anh cảm thấy hối hận. Lần đầu tiên anh bị đẩy vào cuộc phiêu lưu mà không ngờ. Anh nhớ lại những chuyện mới xảy ra, những hành động nghịch ngợm, không vâng lời của Mai, Tuấn, sự đi lại với ông Thanh Quí. Anh bắt đầu nghi ngờ.
– Tớ chắc tụi nó đã âm mưu chuyện gì từ lâu rồi mà mình không biết. Tức thật, để tụi nó qua mặt còn làm mình bị kẹt nữa… À này, cậu thấy đường hầm này có vẻ “thiên nhiên” không?
– Cậu muốn nói gì?
– Cậu không cảm thấy đường hầm do tay người đào ra hay sao? Nếu là đường hầm tự nhiên, sẽ có chỗ rộng chỗ hẹp, đàng này…
– Như vậy đây có thể là nơi giấu hàng của bọn buôn lậu… nhưng chắc không phải đâu, vì chỗ này xa xôi, đi lại khó khăn. Biên giới cũng còn xa.
– Nếu thế thì đây là một cái mỏ? Người ta vẫn bảo trong dãy Trường Sơn có mỏ mà chưa khai thác được.
– Dám mỏ vàng lắm à…
– Cậu đừng giỡn. Mỏ vàng hay không thì chưa chắc, có điều là bọn Mai, Tuấn không vô cớ đến đây, phải có cái gì.
Cả hai yên lặng. Những giả thuyết đưa ra không đi đến một kết luận nào vững chắc. Minh cố moi để xem còn có lý do nào vững hơn.
– Nếu đây là một cái mỏ, mình có thể giải thích được nhiều vấn đề. Giả như ông Thanh Quí đã biết rồi, mình dễ hiểu tại sao ông ấy cứ nằng nặc đòi mua cho bằng được khu bãi cỏ, để có thể yên chí khai thác mà không sợ ai dòm ngó.
– Giả thuyết ấy cũng cắt nghĩa thái độ kỳ quặc của ông già Hách. Chắc ông Hách cũng khám phá ra hầm mỏ, khi đó ông không dám gặp ai nữa vì sợ lộ bí mật.
- Và già Hách đem theo điều bí mật xuống đáy mồ…
– Chưa, cậu quên Nùng Ô, người đã săn sóc cho già Hách. Già Hách cố ý hoặc vô tình trong cơn mê sảng đã nói ra điều bí mật.
Minh tán đồng ngay:
– Đúng rồi, Nùng Ô đã biết nên đi lại xem xét hầm mỏ luôn luôn. Đêm nọ lão mò xuống đây, làm mình tưởng lão có phép tàng hình biến mất.
Danh chợt nhớ ra điều gì:
– Tuy nhiên, mình quên điều này. Đây không thể là hầm mỏ được. Cậu cứ tưởng tượng sự ồn ào của tiếng cuốc xẻng đào xới. Không những cai Bần chăn bò ở đây nghe thấy, mà bất cứ người nào qua đây cũng nghe nữa. Đó là chưa nói đến chuyện phải chuyên chở các khoáng vật đào được.
– Vậy có thể là chỗ bọn buôn lậu giấu hàng. Không lẽ tên Phách và đồng bọn nhốt mình vô cớ hay sao?
– Thôi, tốt hơn cả là mình nghĩ cách thoát khỏi nơi đây.
Chương 12
Trong lúc đó ở trại Bích Câu, tình trạng càng lúc càng căng thẳng. Chú Bảy đang tính chuyện báo cảnh sát, nhưng không biết sai ai đi bây giờ. Anh Mạnh đi mất hút, không thấy tăm hơi đâu nữa. Minh, Danh cũng chưa thấy về. Ai đi kêu cảnh sát bây giờ? Trong nhà, ngoài chú ra, chỉ còn có cô Bảy với chị Tư. Chú chắc chắn đi không được rồi. May thay, chị Tư là người trong vùng, chị quen thuộc đường lối, chị xin đi kêu cảnh sát.
Chú Bảy hơi do dự, nhưng cuối cùng phải để chị Tư đi. Chú không quên viết vài hàng cho ông Cảnh sát trưởng.
Đồng hồ vừa điểm 7 giờ…
Bữa cơm chiều thật nhạt nhẽo. Ba người ngồi bên nhau yên lặng. Thời gian qua thật chậm. Ba người ăn vội một chén cho xong bữa. Cô Bảy dọn dẹp xong, chú giục:
– Mình với con đi ngủ đi, tắt đèn hết làm như không có gì xảy ra… kẻo lỡ có ai…
Cô Bảy rùng mình vì câu nói bỏ lửng của chồng.
– Ai làm sao?
Chú Bảy làm thinh. Từ lúc Mai, Tuấn mất tích chú suy nghĩ nhiều. Trong trí chú, hình ảnh một kẻ thù luôn ám ảnh chú. Kẻ thù ấy không muốn chú ở đây, vì chú cản trở công việc của hắn… có lẽ cũng như ông già Hách, chủ cũ trại Bích câu này đã cản trở hắn vậy.
Chú thở dài lắc đầu:
– Không, có ai đâu… tôi nghĩ bậy vậy thôi.
Một ý tưởng thoáng qua trong đầu chú. Biết đâu đây không phải là cuộc thử sức của kẻ thù với chú. Nếu thua, chú sẽ phải bán trại, bán cả bãi cỏ màu mỡ. Chú Bảy chợt thấy ông Thanh Quí dễ ghét hiện ra như hiện thân của kẻ thù bí mật. Hình ảnh ông Thanh quí đã âm thầm ám ảnh chú suốt ngày, bây giờ mới hiện ra rõ ràng.
– Đáng lẽ mình phải coi chừng, đề phòng hắn từ lâu… Nhưng trễ mất rồi, bây giờ mới nghĩ tới thật vô ích.
Thời gian chậm chạp trôi theo tiếng gõ buồn nản của quả lắc. Đêm nay không trăng, trên nền trời đen lốm đốm ngàn ánh sao. Chú Bảy ngồi rình sau bức màn, tâm tư xáo trộn vì muôn ngàn ý nghĩ. Chú rình cái gì đây? Biết có gì không? Đầu óc chú rối bời.
Sau mấy lần cựa quậy, Minh, Danh tìm cách để cởi trói, nhưng vô ích. Dây trói quá chặt không hy vọng tự giải thoát được nữa, Minh ấm ức bảo Danh:
– Tức thật, mình không biết một tí gì về mấy tên cầm tù bọn mình.
– Theo tớ, điều đáng tức hơn cả là tụi mình ngố quá, không khác chi mấy đứa con nít. Đáng lẽ tớ vào trước, còn cậu đứng ngoài canh chừng. Cậu có thể báo cho chú Bảy khi cần.
– Coi chừng chú ấy tới kiếm tụi mình, rồi cũng bị vô tròng nữa.
– Tớ cũng sợ như vậy.
Vừa lúc đó có tiếng chân đi tới gần, rồi tia sáng càng lúc càng rõ chiếu qua kẽ hở của cánh cửa. Tiếng chân dừng lại trước cửa, tiếp theo là tiếng mở cửa lách cách. Minh, Danh lo sợ ngồi dậy. Minh thì thầm vào tai Danh:
– Cơ hội để thoát thân đây. Mỗi đứa đứng một bên cửa chờ hắn vô. Nếu hắn đi một mình, rán tấn công ngay cho hắn gục lập tức. Biết đâu trong túi hắn không có một con dao…
Hai anh cố gắng đứng dậy, lần ra đứng hai bên cửa, nín thở chờ đợi. Tiếng chìa khóa đút vào rồi rút ra hai ba lần, chứng tỏ tên này không phải tên lúc nãy… Chốt cửa rít lên nhè nhẹ. Tim hai người như ngừng đập. Một phút sao nghe lâu quá. Tên mới tới không bước vào, đứng ngoài rọi đèn vào… khẽ gọi:
– Minh, Danh đó hả?
Mắt hoa lên, tai như ù hẳn đi, Minh, Danh cố đoán xem ai gọi tên. Định thần lại, Minh nhận thấy qua ánh đèn phản chiếu lại gương mặt mờ ảo của anh Mạnh. Mạnh còn đang do dự. Không cần hỏi lý do, Minh mừng rỡ giục:
– Anh Mạnh, cởi trói cho chúng tôi đi.
Danh khoan khoái nghe tiếng lưỡi dao bật mở. Hai phút sau Minh, Danh đã đứng xoa tay cho máu chạy đều… Hai người thở phào sung sướng.
Mạnh nhìn hai người khẽ giục:
– Không nên ở đây lâu, chúng ta phải đi ngay.
Minh hoàn hồn, quay sang Mạnh hỏi tới tấp:
– Sao anh Mạnh biết mà tới đây? Bộ chú Bảy bảo hay sao? Anh đã về trại chưa?
– Lát nữa hãy hay… theo tôi ra lối này.
Mạnh đóng cửa, cài lại tử tế rối quay đi.
– Bám vào vai tôi. Đứng bật đèn kẻo lộ mất.
Ba người mò mẫm đi. Minh, Danh mừng rỡ khôn tả. Đôi khi vấp phải đá hay đụng phải vách hầm đau điếng, nhưng cả hai đều không để ý gì nữa, cứ để mặc Mạnh dẫn đi. Danh có cảm tưởng đường dài ra hơn lúc vào… Một làn gió chợt thổi nhẹ báo hiệu sắp ra tới bên ngoài. Mạnh đi chầm chậm rồi dừng lại.
– Hai cậu ở yên đây… để tôi ra trước coi có đi được không.
Mạnh lướt nhẹ ra phía trước cửa hầm. Minh, Danh đứng ép mình vào vách đá vôi. Danh hỏi bên tai Minh:
– Sao Mạnh biết mà tới đây nhỉ?
– Làm sao tớ trả lời cậu được! Tớ chỉ biết Mạnh đã cứu mình thôi. Nếu không có anh, ai sẽ biết mà tới đây?
– Đó cũng là điều tớ thắc mắc. Mình đâu có để lại dấu vết gì để anh biết mà đi tìm, trừ phi anh theo sát nút tụi mình.
– Cậu quên anh là người vùng này à? Chắc anh phải biết rõ đường hầm. Trưa nay anh biến mất chắc cũng vì vậy đó. Biết đâu Mai, Tuấn không đi lạc trong này rồi rơi vào tay bọn tên Phách?
Chợt có tiếng chân tiến lại. Mạnh đến gần, nói như ra lệnh:
– Lại đây… đừng đứng đó lâu quá.
Trái với dự đoán của hai anh, Mạnh lại dẫn đi sâu vào trong đường hầm.
– Cai Bần đang theo giúp chúng ta. Có cả con Quýt nữa, con chó này đánh hơi giỏi lắm, các anh cứ yên tâm.
Ra tới đường hầm lớn, thì cai Bần cũng từ ngã khác tới gặp ba người. Tay ông cầm dây xích con Quýt, miệng mỉm cười:
– Thật bất ngờ quá há? Ngọn gió nào đã xui chúng ta gặp nhau nơi đây?
Minh, Danh mỉm cười, không biết nói gì hơn. Mạnh hướng về phía cai Bần đề nghị:
– Phải cắt nghĩa cho hai cậu hiểu câu chuyện.
– Thì mày nói đi, mày bắt đầu trước mà.
Mạnh gãi tai ra vẻ ngại ngùng không muốn nói. Minh sốt ruột hỏi:
– Anh Mạnh có biết hai em của tôi bây giờ ở đâu không?
Cai Bần gạt ngang:
– Bình tĩnh nào cháu Minh, chúng nó không sao đâu… mà chưa tới lúc, giờ nào việc nấy, đừng hỏi lôi thôi.
Mạnh bắt đầu:
– Tôi biết ông già Hách và Nùng Ô cùng bị một chứng bệnh.
Minh, Danh sửng sốt. Danh hấp tấp hỏi:
– Già Hách và Nùng Ô bị bệnh gì?
Cai Bần lại phải ngắt lời:
– Để im cho Mạnh kể, lẹ lên còn phải đi cứu hai đứa nhỏ.
Mạnh tiếp, như quên hẳn câu vừa nói:
– Chúng ta đang ở trong một hầm mỏ.
– Mỏ gì?
– Mỏ ra-đi-om, đi-um gì đó.
Minh sửa lại:
– Mỏ uranium chứ!
– Mỏ gì cũng được, bàn cãi sau.
Cai Bần có vẻ hơi bực mình.
– Đây là một hầm mỏ. Ông già Hách, tên Phách với vài tên nữa tới đào lấy. Sau này thêm Nùng Ô tới giúp. Họ dùng bình hơi với đèn xì, xì chảy ra để lấy. Như vậy họ không gây ra tiếng ồn ào.
Lần đầu tiên Minh nghe nói đến cách khai thác mỏ một cách lạ lùng như vậy. Anh muốn hỏi thêm cho rõ, nhưng nhớ lời cai Bần lại thôi.
– Vì dùng đèn đốt nên ông già Hách bị phỏng… và chết vì bệnh đó. Bây giờ đến lượt Nùng Ô…
Cùng lúc đó có tiếng máy xe nổ rền xa xa. Bốn người yên lặng nhìn nhau. Cai Bần thắc mắc:
– Cái gì kỳ vậy?
Nhưng Mạnh đã la lên:
– Tất cả phải ra ngay, đuổi theo bọn họ.
Không chần chừ, bốn người lao mình về phía có tiếng máy nổ. Một phút sau họ đã ra khỏi hầm, đến một khu rừng. Tiếng máy đã im bặt. Trời tối thui. Con Quýt lôi cai Bần chạy lên trước, cả bọn lục tục theo sau.
Khi ngừng lại ở mé rừng, Minh nhận ra khối đen lù lù trước mặt là biệt thự Tùng Lâm. Minh chợt hiểu, tiếng động cơ phát ra từ chiếc xe của ông Thanh Quí. Hình như chiếc xe mới đi đâu về.
Bên trong biệt thự còn tối om. Cai Bần lẩm bẩm:
– Trễ mất rồi chăng?
Minh Danh không hiểu ông nói gì. Có lẽ ông ám chỉ ông Thanh Quí đã trở về. Hay ông Thanh Quí đã làm xong việc của đồng bọn giao phó và vừa trở về, nên cai Bần nói vậy?
Hai anh thắc mắc mà không dám hỏi. Ngôi biệt thự như còn ngủ say, không một dấu hiệu nào chứng tỏ có người ở trong.
Minh nghĩ thầm: “Hay ông Thanh Quí biết bọn mình theo dõi đã bỏ xe lại chuồn mất rồi?”
Chương 13
Chú Bảy mệt nhọc nhìn qua khung cửa. Chú không hiểu mình còn phải ngồi rình như thế này đến bao giờ. Tiếng đồng hồ tích tắc như kéo dài mãi mãi thời gian chờ đợi. Dù không biết mình chờ đợi ai, chú vẫn áy náy không dám bỏ đi ngủ. Chú hối hận đã để cho Minh, Danh ra đi. Một nỗi buồn nặng trĩu như đè xuống tâm hồn chú. Chú buông tiếng thở dài.
Chú giật mình vì có tiếng động ngoài sân. Nhìn ra bên ngoài chú không thấy có gì lạ. Đó chỉ là tiếng lá khô bị gió thổi xào xạc trên nền xi măng. Chú Bảy chợt hiểu khi mệt nhọc, người ta dễ bén nhậy với bất cứ chuyện gì xảy đến. Có tiếng chó sủa xa xa. Chú Bảy đứng bật dậy, hồi hộp, chờ đợi, không biết tiếng chó sủa từ đâu vọng lại. Chú Bảy nóng lòng chạy ra sân. Chú tưởng chừng như thấy Minh, danh đang bị kẻ thù đuổi theo bén gót. Lòng chú chợt se lại…
Tiếng chó sủa thưa dần, rồi im bặt. Chú đứng nhìn bóng đêm đang bao quanh trại đầy vẻ đe dọa. Chợt chú thấy một tia sáng lóe lên từ đầu nhà, tiếp theo là một tiếng kêu đau đớn, tiếng kêu của người bị thương bất ngờ. Chú Bảy mừng rỡ:
– Cai Bần không lầm!
Cẩn thận, chú vào nhà cầm theo cái đèn và cây gậy rồi chạy ra đầu nhà. Chú vừa kịp nhận ra cặp mắt van lơn của một gã thanh niên. Gã nằm bẹp trên cái bẫy, mái tóc bạc dài lòa xòa chảy dài xuống tận vai. Một chân gã bị kẹp cứng trong cái bẫy, không sao rút ra được. Gã rên rỉ:
– Trời ơi đau quá! Xin ông thương gỡ tôi ra.
Chú Bảy động lòng thương cúi xuống định gỡ, nhưng chú ngừng lại vì chợt nghĩ đến mấy cháu. Chú ra điều kiện:
– Tao sẽ gỡ cho mày khi nào mày chịu nói cho tao biết mày làm gì ở đây và các cháu tao bây giờ ở đâu?
– Vâng, tôi xin thề, xin thề sẽ nói hết. Nhưng xin ông gỡ chân tôi ra, tôi đau quá.
Chỉ kịp nói mấy câu, gã gục xuống bất tỉnh. Chú Bảy không biết làm cách nào, nén giận gỡ chân gã ra rồi đem vào nhà băng bó. Cô Bảy nghe tiếng động, xuống giúp chồng săn sóc gã thanh niên. Dưới ánh đèn, trông gã còn trẻ, dáng người khỏe mạnh. Không biết gã đến đây làm gì lúc này.
Chú Bảy lo lắng, đêm nay còn dành cho chú những bất ngờ nào nữa.
Ở mé rừng, Minh, Danh nôn nóng chờ đợi. Cai Bần với anh Mạnh như không để ý đến hai anh. Họ đang thì thầm bên nhau những gì nghe không rõ. Dầu vậy, hai anh vẫn tin vào hai người bạn tốt, tránh đặt những câu hỏi vô ích vì “giờ nào, việc ấy”.
Bỗng nhiên từ biệt thự Tùng Lâm vọng lại tiếng đóng cửa, rồi có tiếng người càu nhàu. Một tia sáng lóe lên đục thủng màn đêm dày đặc…
Mặt trăng đang từ từ mọc lên từ hướng tây, ánh trăng tuy yếu ớt nhưng cũng đủ để nhận ra bóng người từ biệt thự đi ra. Mạnh nhìn theo bóng người, vừa đếm:
– Một… hai… ba… Có ba tên thôi. Đến giờ hành động rồi đó… Minh, Danh theo tôi.
Hai anh ngạc nhiên thấy Mạnh đi vô rừng, ngược lại phía biệt thự. Mạnh chạy như bay, hai anh theo thật vất vả. Sau một hồi chạy không kể trời đất gì nữa, ba người đi đến một khu cây cối rậm rạp. Dưới ánh trăng mờ nhạt, một căn nhà nhỏ hiện ra. Mạnh cắt nghĩa qua hơi thở dồn dập:
– Đây là cái chòi của mấy người tiều phu đốn củi. Tôi chắc Tuấn và Mai bị nhốt trong này.
Bốn bề yên lặng, không có dấu hiệu của một sinh vật. Mạnh tiến lên đẩy cửa bước vào. Minh, Danh theo sau. Giọng Minh nghẹn ngào khẽ gọi:
– Tuấn ơi, Mai ơi! Hai em có ở đây không?
Chỉ có sự yên lặng với bóng tối rùng rợn trong căn nhà đáp lại tiếng gọi của Minh. Mạnh bật nhẹ một que diêm. Trong nhà không còn ai. Que diêm phụt tắt. Minh vừa nhận thấy cái gì, anh nói với Mạnh:
– Anh bật thêm que nữa, tôi vừa thấy mảnh giấy trên bàn.
Ánh lửa lóe lên, Minh kịp liếc qua mấy hàng chữ:
– Thư này giống hệt thư của con Mai viết hồi hôm. Chắc hai đứa đã ở đây.
Danh phàn nàn:
– Sao anh Mạnh không nói trước cho tụi tôi, anh biết từ lâu chuyện này rồi phải không?
– Lát nữa sẽ biết. Bây giờ phải theo tôi, không được chậm trễ một phút, nếu muốn cứu Mai Tuấn kịp thời. Trở lại Tùng Lâm ngay.
Minh, Danh không hiểu hành động của anh Mạnh, lúc đi cũng như lúc trở lại đều vội vàng hấp tấp. Minh hy vọng gặp lại cai Bần, nhưng Mạnh lại dẫn các anh đi lối khác, vòng ra phía sau biệt tự Tùng Lâm. Minh nghĩ thầm: “Đúng là lão Thanh Quí rồi, không còn sai nữa.” Ba người từ từ bò sát đến bên biệt thự.
– Anh chắc hai đứa nhỏ ở đây không?
– Có thể lắm.
Đến gần một cánh cửa sổ, cửa đóng kín mít. Nhưng may thay có một mảng kính bị bể được thay bằng giấy các tông. Mạnh lấy dao ra rạch một đường, rồi theo chỗ hở, anh luồn tay vào mở cửa. Cánh cửa vừa mở, Mạnh nhanh nhẹn chui vào. Không ai bảo ai, Minh Danh cùng theo vào. Mạnh khẽ nói:
– Đừng bật đèn, im lặng kẻo lỡ tụi nó còn ở đằng trước nghe được.
Lần mò trong bóng tối, ba người đi hết phòng này sang phòng khác, nhưng không thấy một bóng người, cả ông Thanh Quí cũng vậy. Mạnh đánh bạo lẻn vào phòng ngủ của ông, nhưng chỉ thấy giường trống trơn. Mạnh thì thầm:
– Không ở trên nhà thì chỉ còn ở dưới hầm thôi.
Mạnh dẫn hai người đến cửa nhà bếp. May quá cửa không khóa. Ba người đi qua dễ dàng.
– Tụi mình sẽ phải xuống cầu thang, coi chừng té. Tốt hơn, mình bật que diêm coi.
Ánh lửa yếu ớt lập lòe cháy. Cảnh lộn xộn bừa bãi bày ra trước mắt ba người. Lối xuống hầm đã bị bàn ghế lấp đầy, không tài nào xuống được.
– Muốn xuống chỉ có cách dọn hết mấy cái bàn ghế này ra. Nhẹ nhàng một chút; ồn ào ở ngoài người ta biết được thì hỏng việc.
Minh, Danh không hỏi nhưng cũng hiểu “người ta” ở đây ám chỉ ai rồi. Hành động của chủ biệt thự này thật bí mật. Ông Thanh Quí giờ này chắc đang theo đồng bọn đến một nơi nào rồi.
Ít phút sau, ba người đã nối đuôi nhau xuống hầm. Việc đầu tiên là Minh gọi tên hai em. Tuyệt nhiên không một tiếng trả lời. Trong một phút, mồ hôi toát ra ướt đẫm cả người, anh Mạnh đưa tay vuốt những giọt mồ hôi trên trán. Mọi hy vọng của Mạnh như vừa tan theo những giọt mồ hôi. Minh gọi to hơn:
– Mai, Tuấn ơi! Anh đây, Minh đây.
Có tiếng cựa quậy của ai nằm dưới đất. Ba người chạy lại. Manh bật que diêm thứ nhất. Mọi người vừa nhận ra một người bị trói nằm còng queo dưới đất, miệng bị bịt kín… nhìn kỹ, Danh nhận ra gương mặt của ông Thanh Quí.
– Chúng nó đây rồi!
Minh mừng rỡ reo lên vì vừa thấy hai em nằm trên một chiếc giường kê gần đó. Anh Mạnh với Danh lo cởi trói cho ông Thanh Quí. Vừa có thể mở miệng được, ông đã rủa:
– Quân khốn kiếp, quân chó. Chúng nó sẽ biết tay tôi.
Ông run rẩy vịn vai Danh đứng dậy. Bước đi được vài bước loạng choạng suýt ngã, ông đành ngồi xuống bên giường.
– Ông ngồi im đây để tôi kiếm nước ông uống cho tỉnh đã.
Nói xong, anh Mạnh chạy biến lên trên nhà.
Minh đã lay Mai, Tuấn dậy. Hai anh em ngạc nhiên không hiểu tại sao mọi người có thể tìm tới đây. Vừa lúc đó anh Mạnh trở xuống, trên tay cầm cây đèn cầy. Ánh sáng yếu ớt đủ soi rõ gương mặt mọi người. Ông Thanh Quí trố mắt nhìn người nọ sang người kia rồi tới hai đứa trẻ. Mai, Tuấn kinh ngạc không kém khi thấy ông.
Mạnh hỏi ông Thanh Quí:
– Ông đi được chứ?
– Bây giờ thì được rồi.
– Vậy mọi người lên đường, chúng ta còn vài việc phải làm.
Minh huých Danh một cái ra hiệu nhìn Mạnh. Minh vừa nhận ra vẻ oai vệ của anh ta, thật khác hẳn vẻ mặt lầm lì mọi ngày. Sáu người đến chỗ cai Bần chờ.
– Tôi sắp mọc rễ ở đây rồi. À, mọi sự xuôi chảy chứ? Nhưng này, ba tên hút thuốc đứng gần bãi cỏ đàng kia, tụi nó tính chuyện gì vậy?
Ông Thanh Quí hậm hực:
– Chắc bọn này đã đập tôi một gậy ngay đầu khi vừa xuống xe! Còn hai đứa nhỏ vô hầm nhà tôi làm chi vậy?
Cai Bần gạt ngang:
– Chưa phải lúc để hỏi. Này Mạnh, tới giờ rồi đó, đi coi đi… nhất là phải thận trọng kẻo hỏng hết.
Minh đề nghị:
– Cho tôi đi với anh Mạnh.
– Cả tôi nữa. Danh nóng lòng muốn đi theo.
– Thôi, hai người đủ rồi. Cháu Danh ở lại đây, bác cần cháu giúp bác một tay.
Anh Mạnh với Minh đi ngay về phía vách đá.
– Tụi mình chịu khó bò, kẻo bọn nó thấy.
Minh bắt chước bò theo sau Mạnh. Được chừng vài trăm thước, Mạnh ra dấu nằm im nghe ngóng. Có tiếng nói chuyện gần đâu đây. Một giọng nói có vẻ là tay đầu đảng.
– Bỏ đi thì thật thậm ngu. Nhất là vì mấy đứa nhỏ tò mò với lão mập.
– Tôi đã bảo cứ làm như mấy lần trước đi, nhưng Phách không nghe. Để xem ý kiến của hắn đưa mình tới đâu. Cứ cho lão mập uống vài viên là êm chuyện, đằng này…
– Thôi im đi, đừng phàn nàn chi hết… Nùng Ô hiện giờ bị đau, chắc sẽ theo lão Hách. Có lẽ đến lượt mày sử dụng đèn xì.
Minh hơi choáng váng, anh cố hiểu xem họ nói gì.
– Mày có lý, nhưng chắc không đến lượt tao đâu. Vài phút nữa bọn mình sẽ xa chốn này. Biết có trở lại nữa không. Tao bật đèn nghe.
– Chờ chừng nào nghe tiếng động cơ đã… Khi nào bấm đèn là tắt máy ngay… Ngày mai chủ trại Bích Câu lại điên đầu vì mấy con bò.
– Ăn thua gì. Tiếc là không phải chúng lên núi như lần trước. Lão Thanh Quí bất thần trở lại làm mình không có giờ thi hành đầy đủ kế hoạch.
Ngay lúc đó, có tiếng động cơ từ xa vọng lại, mới đầu nhỏ, sau to dần.
– Đúng rồi, bật đèn được chưa?
– Chờ tao ra lệnh đã. Mầy sợ hay sao? Vội vàng làm chi!
Tiếng động cơ tới gần. Minh nhận ra đó là một chiếc trực thăng. Hình như chiếc trực thăng muốn ngừng ngay trên phía bãi cỏ.
– Bật đèn lên. Năm lần nghe chưa.
Năm lần, ánh sáng chói lọi chiếu trên nền trời rồi lại tắt ngay.
– Xong rồi, vô khiêng mấy thùng gỗ ra… lẹ đi.
Trong chiếc trực thăng, viên phi công lo lắng vì mới chỉ thấy có một dấu hiệu. Gã thầm nghĩ: “Cũng may, đây là lần thứ ba mình đáp xuống chỗ này nên cũng quen rồi. Ánh đèn hiệu hình như ở gần biệt thự chiếu lên. Còn dưới trại không thấy gì hết. Hay tên Phách không xuống? Như vậy hơi nguy cho mình”.
Viên phi công quyết định bay một vòng để xem lại cho chắc vị trí để hạ cánh. Nhận ra bóng đen của biệt thự, gã định vị trí của bãi cỏ rồi tắt máy từ từ hạ xuống. Ánh đèn lại lóe lên, gã vừa thấy bóng ba người bạn đang đứng chờ.
Viên phi công bỏ mũ, mở cửa nhảy xuống, đi lại phía ba người bạn.
– Đúng 11 giờ như đã hẹn phải không? Tao lấy làm lạ sao không thấy Phách ra hiệu đấy, hay là nó quên…
Gã chưa nói hết câu, ba tên đồng bọn bất ngờ vây gã vào giữa, dáng điệu đầy vẻ đe dọa… Gã lắp bắp:
– Ơ hay! Cái gì thế này… Chúng mày giỡn sao chứ?
Vật gì cưng cứng đâm thẳng vào lưng gã thay cho câu trả lời… Một giọng nói lạ ra lệnh:
– Đừng ồn ào. Đi về phía hầm mỏ nhanh lên.
Gã chưa hiểu sự gì đã xảy ra, một sợi dây thừng đã siết chặt hai tay gã. Gã đành riu ríu tuân lệnh. Vào trong hang, gã tưởng mình đang mơ ngủ. Ba tên đồng bọn mà gã ngỡ là đang đi sau gã, lại đứng xây mặt vào vách. Một người đàn ông cầm súng đang chĩa về phía ba tên bạn. Bên cạnh là hai đứa nhỏ cầm đèn soi sáng cả hầm.
Họng súng đâm mạnh vào lưng gã, rồi tiếng ông Thanh Quí ra lệnh:
– Tới bên mấy tên kia, mau lên. Minh, Danh cột chân gã lại cho bác, kẻo nó “bay” mất thì toi công!
Mọi người mỉm cười vì câu nói khôi hài của ông. Cai Bần vừa đưa cây súng cho ông Thanh Quí vừa nói:
– Như là ciné vậy. Tất cả đều đóng đúng vai trò của mình, cả mấy ông bạn này nữa.
Ông Thanh Quí như muốn đóng một vai trò mới, ông chia phiên:
– Ai mệt có thể nghỉ được. Chỉ phiền có Mạnh chịu khó tìm cách báo cho cảnh sát tới đây càng sớm càng tốt. Còn Minh, Danh xuống biệt thự kiếm trong chạn có cái gì ăn được thì mang lên đây. Chắc còn phải canh chừng lâu lắm.
Minh chỉ bốn tên tù hỏi:
– Bác không sợ?…
– Khỏi lo. Ông Cai với con Quýt ở đây với bác được rồi.
Ba người biến mất ngay trong đường hầm. Ra tới đường mòn, Minh đề nghị với Danh:
– Để tớ về báo cho chú Bảy biết chứ, để chú khỏi lo lắng quá.
– Phải đó, cậu đi đi.
Chưa kịp chia tay, một luồng sáng từ đâu chiếu thẳng vào ba người, tiếp theo là giọng một người đàn ông:
– Đứng lại ngay. Chạy là tao bắn. Giơ tay lên.
Bất ngờ, ba người không kịp phản ứng, đành phải làm theo.
– Ông lầm rồi, đây là các cháu của tôi.
Chú Bảy và hai người cảnh sát đã chạy lại gần Minh, Danh. Chú Bảy mừng rỡ khi thấy các cháu, chưa ai kịp nói gì, Danh đã mời:
– Xin mời chú và hai bác xuống ngay dưới hầm kẻo nhiều người còn phải chờ lâu quá.
Mọi người cho là phải. Ba người trở lại đường cũ dẫn theo chú Bảy với hai người cảnh sát. Vào tới hang, chú Bảy kinh ngạc khi thấy ông Thanh Quí đang đứng canh chừng bốn tên tội phạm. Bên cạnh ông, Mai, Tuấn bối rối chưa biết phải nói gì với chú Bảy.
Sự ngạc nhiên lúc đầu tan dần. Sau khi đã nghe kể sơ qua hành động phi pháp, phá phách của mấy tên này, hai người cảnh sát móc túi lôi ra hai cặp còng tay. Và họ thi hành phận sự một cách nhanh chóng.
Ông Thanh Quí đề nghị:
– Bây giờ khuya quá rồi, hai ông nhốt tạm mấy tên này trong nhà tôi. Mai rồi sẽ tính.
– Không được. Hình như ông có xe hơi phải không? Cảm phiền ông cho tôi mượn. Còn anh Biên, anh trở về Bích Câu khiêng tên Phách ra xe của mình luôn.
Minh lo lắng hỏi:
– Còn chiếc trực thăng các bác để đó sao?
Người cảnh sát ngạc nhiên:
– Có chiếc trực thăng của bọn chúng nữa hả? Chúng tôi sẽ tính sau. Trong khi chờ đợi, xin ông Cai, cai quản giùm chúng tôi đêm nay được không?
– Được chớ. Lần đầu tiên được lên máy bay không sướng sao. Thôi chào mọi người.
Cai Bần đi rồi, viên cảnh sát ra lệnh cho bốn tên đi về phía biệt thự. Chú Bảy và các cháu từ giã ông Thanh Quí với viên cảnh sát về trại. Trên đường, Mai, Tuấn kể sơ cho chú Bảy nghe câu chuyện vừa qua. Viên cảnh sát mang tên Biên cũng lắng tai nghe. Chú Bảy còn thắc mắc:
– Chú không hiểu vai trò của ông Thanh Quí như thế nào? Đây đâu có phải lần đầu máy bay hạ cánh xuống bãi cỏ. Không hiểu tại sao ông ấy không nghe tiếng máy bay? Chắc ông ấy cũng có dính líu chút ít, mà mình chưa khám phá ra đó thôi. Vì nếu không đồng lõa với bọn này, tại sao ông ấy cứ đòi mua cho được bãi cỏ? Một khi mua được bãi cỏ, đồng bọn di chuyển khoáng chất khai thác được mà không sợ ai dòm ngó gì nữa. Chỉ có thể như vậy thôi.
Chương 14
ĐOẠN KẾT
Bữa điểm tâm sáng hôm sau kéo dài khác thường. Bát cháo gà đã nguội rồi mà Mai Tuấn chưa kể xong. Cả nhà đều lắng tai nghe từng chi tiết. Rồi đến lượt Minh, Danh kể lại cuộc mạo hiểm bất đắc dĩ của hai người.
Chú Bảy kết luận:
– Tóm lại, chỉ nhờ có Mạnh các cháu mới thoát khỏi tay bọn chúng. Này Mạnh, làm sao mầy biết được những chuyện mà cháu Minh vừa kể?
Mạnh đỏ mặt, đưa tay lên gãi tai:
– Dạ, nhờ mấy con bò hết. Ông chủ nghi tôi bê trễ, đãng trí, không đóng cọc, cài cửa, để bò bị thương. Tôi ức lắm. Tôi quyết tìm cho ra tên nào đã tới phá tôi…
Thế là Mạnh để tâm rình quanh bãi cỏ. Mấy ngày tiếp theo không có gì. Nhưng một hôm, anh gặp tên Phách, gã thanh niên có mái tóc dài, từ nhà ông Thanh Quí đi ra. Gã tưởng có một mình nên đi ngay đến đường hầm.
Nhờ cai Bần, Mạnh biết trong vùng có mỏ mica từ thời Pháp thuộc. Chỉ còn vài người già cả là nhớ vết tích của hầm mỏ. Mạnh chờ dịp lẻn vô hầm dò xét. Anh cũng khám phá ra căn nhà nhỏ của bọn Phách dùng làm nơi hội họp. Anh rình nghe biết câu chuyện máy bay đến tải những khoáng chất đào được, đem đi giữa đêm khuya. Thật không khác chi tiểu thuyết. Khi anh không thấy Mai, Tuấn về, anh nghi hai đứa nhỏ có thể vì tò mò đã đến hầm mỏ rồi đi lạc trong đó. Khi Mạnh thấy cái mũ của Mai rớt giữa đám gai góc, anh tin chắc điều mình nghĩ là đúng.
Anh nói tiếp:
– Tôi cũng nghe bọn chúng nói rằng ông Thanh Quí sẽ phải bỏ nhà vì mưu mô của tên Phách. Tôi nghi bọn chúng sẽ dùng biệt thự Tùng Lâm để làm chuyện gì đây. Vì thế, khi khi không thấy Mai Tuấn ở trong căn nhà giữa rừng nữa, tôi nghĩ ngay đến nhà ông Thanh Quí.
– Kỳ thật. Ông Thanh Quí lại vắng nhà ngày hôm qua. Tao nghi lắm! Mấy cháu nghĩ sao?
Mạnh nói thêm:
– Tôi biết tên Phách, tên đạp nhằm bẫy đó, hay đi lại ra vào biệt thự nhiều lần.
Ngay lúc đó, ông Thanh Quí xuất hiện ở khung cửa. Chú Bảy nói ngay:
– Chúng tôi vừa nói đến ông xong.
– Nói xấu hả?
– Nói xấu thì hơi quá. Chúng tôi thành thực nói chuyện thôi. Riêng tôi, tôi ngạc nhiên về chuyện ông không nghe tiếng máy bay lên xuống ngay bên nhà ông.
Mặt ông Thanh Quí thoáng đỏ khi nghe câu hỏi.
– Mọi khi tôi tỉnh lắm, lại hay dậy sớm… Trừ hôm ông tới đập cửa.
– Hôm ấy ông có lẽ mệt! Nhưng hôm qua chắc ông phải đi chơi đâu xa lắm.
– Tôi đâu có đi chơi. Thằng Phách đưa tôi xem bức điện tín của con tôi gởi cho… Tôi có thằng con trai đang đi học ở Nha Trang. Nó báo tin bị đau nặng. Nếu ở trong trường hợp tương tự chắc ông không làm gì khác hơn là lên xe đi thăm con ngay. Nhưng xui cho tôi, xe mới ra đến đầu tỉnh đã bị hư máy. Thế là lại hì hục đẩy xe tới tiệm sửa. Tôi tính chờ sửa xong là lại đi ngay. Cũng may, tôi ra gọi điện thoại xuống hỏi xem bệnh tình con tôi ra sao. Ông biết sao không? Thằng con tôi ở đầu dây trả lời cho tôi: Nó khỏe hơn bao giờ hết. Nó vừa đi tắm biển về nữa. Nó nói chưa bao giờ đánh cho tôi một bức điện tín nào. Thế có lạ không? Tôi bực mình hết chỗ nói. Chờ cho xe sửa xong là tôi dông ngay về dù cho trời đã tối lắm rồi. Vừa xuống xe, tôi bị đập một cái bất tỉnh chẳng còn biết gì nữa.
– Ông vừa nói tên Phách đã đưa ông coi bức điện tín?
– Đúng rồi, thằng đó tốt lắm. Nó thường giúp tôi chẻ củi, làm nhiều việc lặt vặt khác.
Chú Bảy bật cười vì sự cả tin của ông Thanh Quí.
– Gã tốt lắm, vì thế tôi mới nghi ông cũng thuộc bọn hắn. Ông có biết con mồi nào đã đạp trúng bẫy đêm qua ở đầu nhà tôi không?… Chính tên Phách, tên có mái tóc dài bạc trắng.
Chờ cho ông Thanh Quí bớt  ngạc nhiên, chú Bảy mới nói tiếp:
– Sau khi nghe các cháu tôi nói về ông và chính ông giải thích tôi đã hết nghi ngờ thái độ của ông. Từ nay tôi lại hân hạnh nối dây thân tình với ông.
– Cám ơn ông, tôi cũng đang tính bàn với ông một chuyện.
Ngay lúc đó, viên cảnh sát đêm qua cũng vừa đến.
– May quá, có cả ông Thanh Quí ở đây. Tôi khỏi phải qua bên đó nữa.
Ngồi xuống một cái ghế gần hai người, ông mở đầu bằng một câu hỏi đầy vẻ ngờ vực:
– Những đêm có máy bay xuống, hình như ông Thanh Quí ngủ say lắm phải không?
Ông Thanh Quí cười gượng. Mọi người tưởng câu chuyện sẽ đổi sang hướng khác. Nhưng viên cảnh sát đã mỉm cười hỏi thêm câu nữa:
– Mỗi buổi tối ông đều uống một ly nước chanh đường phải không?
– Phải… sao ông biết?
– Mấy lúc gần đây ông uống có thấy gì lạ không?
– Có, hình như nó chát hơn. Tôi còn giữ trong chai một phần nước tôi uống không hết.
– Tôi biết trong ly nước ấy có thuốc ngủ do tên Phách lén bỏ vào mỗi khi cần. Mấy hôm có máy bay đến, ông đã bị uống thuốc ngủ cho ngủ say li bì.
Chú Bảy quay sang hỏi viên cảnh sát:
– Tôi muốn biết tại sao có một tổ chức khai thác mỏ như vậy mà dân vùng này có lẽ cũng như tôi không hề biết một chút gì.
– Tôi đã vào hỏi mấy tên đầu sỏ ngay đêm qua. Tôi biết thêm được nhiều chuyện. Chuyện bắt đầu với ông già Hách, người chủ trại cô độc của trang trại Bích câu này. Một hôm ông đọc được một bài báo nói về những mỏ mica bị bỏ hoang vì mức sản xuất quá kém. Ngày nay người ta khai thác lại những mỏ ấy để tìm những chất khác vì họ nhận thấy rằng một mỏ mica thường kèm thori, một chất có phóng xạ rất quí. Ông Hách mừng rỡ, nghĩ rằng mỏ mica của ông cũng có những tính chất tương tự. Thế là ông định tâm khai thác mỏ. Một hôm, ông ra ngoài tỉnh rồi lỡ lời nói hở cho một người khách lạ biết dự định. Lập tức tên này nắm lấy cơ hội, xin khai thác chung với ông. Vì khôn ngoan, hắn để ông Hách trực tiếp khai thác, còn hắn chỉ cung cấp dụng cụ như bình hơi, máy xì. Hắn liên lạc bán cho một công ty ngoại quốc những quặng khai thác được. Phải sống dưới hầm gần chất phóng xạ nhiều giờ, ông Hách bị chứng lở loét rồi chết.
– À ra thế, Nùng Ô nói lửa cháy da là như vậy.
– Đúng thế. Nùng Ô được gọi tới săn sóc cho ông già Hách. Hắn cũng khám phá ra việc khai thác mỏ. sau khi ông Hách chết, Nùng Ô tiếp tục công việc. Hắn chữa bệnh cho ông Hách mà không hay biết gì về nguồn gốc của căn bệnh. Vì thế, có lẽ hắn cũng bị chứng bệnh ấy. Việc ông Thanh Quí về ở biệt thự Tùng Lâm cũng như việc gia đình ông Bảy dọn đến Bích Câu đã làm cản trở bọn khai thác. Bọn họ phải lén lút cho khỏi bị lộ. Vì thế, tên Phách mới tới làm quen và lừa cho ông Thanh Quí uống thuốc ngủ cho ông khỏi nghe tiếng máy bay đáp xuống. Nhưng bọn họ lại gặp khó khăn vì đàn bò ở trên sân cỏ. Vì thiếu khôn ngoan nên chúng đã gây tai nạn cho đàn bò.
Chú Bảy hỏi một hồi nữa, sau cùng đến chuyện tấm bản đồ giấu trên gác xép.
– Đúng rồi, tôi tìm thấy trong người tên Phách một tấm bản đồ vẽ bằng tay đã cũ. Hình như ông Hách đã vẽ lại sau khi khám phá ra hầm mỏ. Chúng ta không biết ông ấy có chủ đích gì khi vẽ tấm bản đồ đó. Ông nghĩ đến người thừa kế chăng? Chỉ có trời với ông ấy biết mà thôi. Nhưng chuyện đó không quan trọng lắm. Tôi biết thêm là hầm mỏ đã gần cạn. Đêm qua là chuyến cuối cùng của bọn họ thì bị phát giác. Tôi quên một điều, nếu Nùng Ô bị bệnh như ông Hách, vì nhân đạo chúng ta phải đưa lão vào nhà thương điều trị.
Sau khi ghi chép những điều cần thiết, viên cảnh sát ra về. Chú Bảy day lại hỏi ông Thanh Quí:
– Lúc nãy ông định nói gì vậy?
– Tôi bỏ ý định mua lô đất 26 của ông để xây khách sạn rồi.
– À, thì ra ông định mua lô đất của tôi để xây khách sạn? Vậy thì, ông Thanh Quí này, ông nên xây khách sạn trên đó đi. Tôi sẽ nhường lại lô 26 cho ông đó. Đàn bò nhốt ở chỗ nào chẳng được. Tôi hy vọng ông sẽ đổi ý.
– Như vậy tôi sẽ chiều ý ông. Chúng ta sẽ chung nhau xây khách sạn. Hầm mỏ sẽ là nơi thu hút du khách không ít. Họ sẽ đổ xô về đây cho coi. Nếu cần, khi xây xong, tôi về Sài Gòn đăng báo quảng cáo là khỏi sợ thiếu khách… Tôi xin ông một điều này nữa: Khách sạn của chúng ta sẽ mang tên là Khách sạn Bích câu. Nghe hay hơn tên Tùng Lâm nhiều.
Chú Bảy chấp thuận, mỉm cười sung sướng.
Tiếng động cơ nổ rền làm mọi người tò mò chạy ra sân coi. Chiếc máy bay đang bay về phía trại, rồi nhẹ nhàng hạ cánh xuống sân cỏ bên cạnh trại. Mọi người ngạc nhiên khi thấy cai Bần bước xuống, theo sau là con Quýt. Chiếc trực thăng lại bay về phía tỉnh. Cai Bần đứng giơ tay vẫy chào viên phi công.
– Tôi không ngờ có ngày hôm nay, lần đầu tiên được bay trên mây trên gió.
Vẻ mặt cai Bần rạng rỡ, có lẽ chưa bao giờ ông vui thích như vậy.
Đứng trong sân trại, Mai khẽ nói với Tuấn:
– Hồi nãy anh có nghe gì không? Không có chúng ta chắc sẽ không có khách sạn Bích câu. Đáng lẽ họ phải biết ơn mình mới đúng.
Tuấn hít một hơi dài không khí trong lành của núi rừng:
– Mai nói có lý.
Hai anh em cùng nhìn về phía bãi cỏ, tưởng tượng khách sạn Bích Câu xây giữa những lùm cây xanh rậm rạp. Cả hai mỉm cười sung sướng hy vọng một cuộc mạo hiểm khác đang chờ đón hai anh em.
1972
Linh Vũ
Theo https://minhduchoaitrinh.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Bà lão Idecghin 1. Tôi được nghe kể những câu chuyện này ở gần Ackeman, trên bờ biển xứ Betxarabi. Một buổi tối, làm xong công việc ...