Vỡ đê 2
CHƯƠNG IV
Kim Dung rất ngạc nhiên vì không thấy bố ngủ trưa. Xưa nay, thường lệ, ông huyện vẫn nghỉ đúng lối Tây phương, và vào những giờ ấy, ai có việc gì can hệ đến đâu cũng phải chờ cho đến lúc quan thức giấc.
Từ hôm mực nước lên to, tuy việc quan có vất vả hơn thường nhật, ông huyện cũng
vẫn giữ nguyên giờ ngủ mà chỉ thay đổi cách ngủ. Đáng lẽ bỏ áo dài vào nằm giường
tây trong phòng, ngủ hai tiếng đồng hồ, thì ông để nguyên cả quần áo, ngả mình
trên cái sập gụ giữa nhà khách chợp mắt độ nửa giờ... Quả đất có thể không quay
nữa, chứ ông huyện mà không ngủ trưa thì không xong.
Vậy mà, hôm nay, cơm nước đã xong từ lâu, ông cũng vẫn cứ nguyên lễ bộ ngồi đợi
ở phòng khách. Bà huyện lo lắng hết sức, cho rằng trong việc cai trị hẳn có sự
gì lôi thôi. Bà đi ra, đi vào, luôn luôn nói: "Được cái tiếng làm quan thì
lo mất ăn mất ngủ". Dung cũng lây cái nỗi lo sợ về cớ ấy. Nàng ngồi ở ghế
bên cửa sổ, sẵn lòng chờ bố có sai bảo gì không. Nàng đã pha sẵn ấm chè mạn
sen, phòng có khách đến. Đáng lẽ Dung ra chỗ lô cốt nghe ngóng một việc
gì nhưng vì phòng khách trông thẳng ra con đường nhỏ dắt đến tận nhà giam, nên
ông bố không ngủ đi, thì nàng sẽ không được phép ra chỗ cấm ấy. Dung nóng lòng
sốt ruột hết sức, căm tức cái đồng hồ nó cứ muốn kéo dài mấy giờ của buổi trưa
ra... Mãi chẳng đến lúc ông huyện ra công đường!
Sáng hôm ấy, tình cờ lúc ra phố huyện mua thức ăn, Dung đã trông thấy một dân
quê bị giải về lô cốt giữa hai người lính. Dân hàng phố đổ ra xem rất đông, bàn
tán huyên thuyên... Để ý nhìn kỹ anh chàng bị bắt, Dung hoảng hốt thấy rõ ràng
chính đó là người thiếu niên con một cụ Cử, em ruột ông giáo, mà lại đi làm phu
hộ đê, cái người đã được bố mình tỏ vẻ kính trọng, lúc bị đòi hỏi tại điếm, đêm
trước. Trong óc Dung lúc ấy bỗng nảy nở ra một câu hỏi: "Vì lẽ gì?"
Phải, một người như thế mà bị bắt tất nhiên không thể vì đã làm điều phi pháp
nhỏ nhen như những người bị bắt trước được. Thốt nhiên Dung băn khoăn một mối
lo sợ, như lo một việc gì can hệ có dính dáng đến Dung. Nàng đã về, và về nhà rồi
mới biết rằng trong sáu thứ phải mua thì nàng đã quên mất hai thứ thực phẩm. Cảnh
tượng ấy có một sức ám ảnh ghê gớm làm cho một thiếu nữ vô lo, vô lự, sống một
cuộc đời thảnh thơi sung sướng, lương tâm nhẹ lâng lâng, ích kỷ chẳng biết mình
ích kỷ, vì không bao giờ quan tâm đến sự đau khổ của kẻ khác, bỗng đâu hóa ra
như kẻ tha thiết yêu đời.
Chẳng phải lần đầu Dung trông thấy cảnh bắt bớ.
Từ khi mới về huyện, còn đương say sưa tưng bừng ở cái chức tiểu thư con một vị
phụ mẫu, Dung đã thấy bố mình hoặc thân hành đi lùng bắt, hoặc ký trát cho sai
nha đem xiềng xích đi tìm những người nấu rượu lậu giải về huyện; trong số ấy
có khi Dung thấy ông cụ già mù lòa, hoặc bà lão tóc đã bạc phơ, hoặc một người
đàn bà toét mắt có đứa con bụng ỏng đeo sau lưng - những người vừa đi vừa mếu
máo, khóc lóc kêu oan, trông đáng thương vô cùng. Những khi ấy, quả tim của
Dung đã từng thổn thức. Nàng thấy bọn người ấy có lẽ oan thật, mà bố nàng cứ bỏ
tù thì thật là quá đỗi nhẫn tâm. Tự nhiên Dung thấy lương tâm cắn dứt, thấy nghề
làm quan của bố là một nghề xấu, thấy cái nhân loại thật quả đầy dẫy những mối
đau thương đáng bất bình. Đã có lúc Dung thấy xấu hổ là con gái một vị quan phụ
mẫu mà công việc đại khái chỉ là như thế.
Những phút trạnh lòng hiếm có ấy lại bị những lý do khác xóa sạch, mỗi khi, tối
đến, Dung thấy bố phàn nàn với mẹ về việc quan. Nào là quan trên rầy la về
trong huyện có nhiều người nấu rượu lậu quá, đến nỗi rượu tá ế ẩm, như vậy hại
cho quỹ nhà đoan, mà để công quỹ hao hụt thì cái thang công danh kia rất khó
trèo. Bị khiển trách luôn thì có khi mất quan, nếu Dung không phải cam chịu suốt
đời là con gái một ông huyện và chẳng có hy vọng gì sẽ được là con ông phủ, con
ông án. Hai nữa, nếu chẳng "việc quan xin cứ phép công", mà lại xử
nhân đạo với bọn người tuy đáng thương nhưng rất có tội kia, thì ấy là nguy hiểm
ngay cho mình, về manh áo, về miếng cơm. Dung chợt nghĩ đến cái áo tân thời
trong tủ, cái nhẫn kim cương ở ngón tay, con chim xào trên mâm cơm, thì lại thấy
bố là không làm gì đáng trách. Trông thấy một cảnh bắt bớ đến lần thứ hai thì
quả tim của Dung đã không đập mạnh nữa. Lần thứ ba, Dung thản nhiên hẳn, thấy mọi
sự chỉ là thường. Sau cùng thì nàng quen mắt đi, thế thôi.
Nhưng lần này, việc Phú bị giam khiến Dung bất thần lại quay trở về với những mối
xúc động ngây thơ, với những cảm giác thứ nhất... Người đã làm gì nên tội? Sao
con một ông Cử, mà lại phải đi đắp đê? Gia thế người ấy thanh bạch đến nỗi như
thế nào? Liệu người ấy có được tha không? Nếu bị án, sẽ bị độ bao nhiêu tháng tù?
Nếu vào tù, ai nuôi mẹ, ai trông nom vợ?
Những câu hỏi không có câu đáp như thế khiến cho Dung quả quyết tự nhủ; ta phải
săn sóc việc này mới được. Nghĩ thế thì thấy lòng tự ái của nàng được nâng niu
lắm, vì trong đời hiện có một người mà số phận là đương ở trong tay nàng. Là
con gái một ông quan, thì cũng đã đủ là một thứ thế lực. Dung sẽ dò hỏi, sẽ vận
động hộ, nếu người bị bắt là không có tội, nếu cảnh ngộ người ấy đáng thương...
Dung sẽ khôn khéo hành động thế nào để lung lạc ông bố, và lại cần phải giữ cho
bố khỏi biết đến ý nghĩ ấy.
Dung đương nghĩ thế thì ông bố đã bảo:
- Sang phòng bên đi, con!
Đứng thập thò ngoài thềm, đó là một thiếu niên mà Dung thấy quen mặt. Người ấy
mặc áo the, đi giày ta, đội mũ tây, có một cái răng vàng trong hai hàm răng
đen. Dễ thường gặp Dung ngoài phố mấy lần người ấy đều đã có ngả mũ kính cẩn
chào, để Dung cũng phải lễ phép đáp lại, tuy chẳng hiểu người ấy là ai cả. Dung
đứng lên đem khay nước ra bàn, rồi sang phòng bên cạnh, lắng tai nghe. Thì ra
đó là một tay phóng viên nhà báo.
- Bẩm quan lớn, thấy ngài cho gọi là chúng tôi đến ngay...
- Có một tin quan trọng lắm, ông ạ. Nếu ông dùng điện thoại mà đánh về nhà báo
thì tôi chắc ông chủ báo cũng hoan nghênh hết sức... Ông ngồi xuống đây mà chép
luôn đi, tôi đọc cho.
- Bẩm xin phép quan lớn.
Tay nhà báo ngồi xuống ghế, lấy quyển sổ tay để ở bàn, lấy bút chì hý hoáy viết...
Ông huyện khoanh tay ngồi đọc như một ông giáo đọc ám tả cho học trò.
- "Phải chăng là một đảng viên cách mệnh? Ba trăm phu toan làm reo. Người
cầm đầu cho bọn phu hộ đê là một thiếu niên trí thức cũng nhập bọn với dân quê
để tiện việc xui giục họ. Tin riêng của đặc phái viên bản báo.
Viết xong mấy dòng ấy, tay nhà báo ngẩng đầu lên, ngừng tay ngẫm nghĩ một lúc
lâu, rồi hỏi:
- Bẩm, ngài làm ơn thuật qua câu chuyện cho chúng tôi hiểu rõ đầu đuôi đã, thì
có lẽ... tiện hơn.
Nhưng ông huyện cau mặt, xua tay một cái mà rằng:
- Thì ông cứ viết đi có được không? Xưa nay, bao nhiêu tin tức quan trọng tôi vẫn
đọc cho ông viết thì ông có phải chữa lại mấy tí đâu nào!
Thấy thế, nhà báo lại cúi đầu xuống phục tòng để cho ông huyện đọc tiếp:
- Công việc hộ đê vẫn tiến hành rất gấp ở huyện T. thì mới đây xảy ra một vụ bắt
bớ quan trọng. Nhờ sự tận tâm về phận sự của quan huyện sở tại là một người rất
mẫn cán, quãng đê V. mới năm hôm nay đã có thêm được một con chạch cao 50 phân
tây, và do thế, dân mấy phủ huyện đã có hy vọng tránh được thủy tai. Chẳng dè
hôm vừa đây, khi mấy trăm dân phu đương tiến hành công việc thì một người đã đứng
ra xui giục họ đình công, đương đầu lại với quan sở tại. Nguyên do dân phu có tụ
họp nhau lại một chỗ đòi tiền công. Quan huyện đã phải cắt nghĩa rằng còn đợi lệnh
của quan Công sứ đã, Nhà nước tuy có hứa sẽ trả tiền nhưng sự thật là huyện
chưa nhận được tiền. Ngờ đâu đã chẳng biết nghe lời nói, dân phu lại còn dùng đến
khí giới toan đánh lý dịch, chống lại người Nhà nước...
Đến đây, ông huyện ngừng lại ba phút, hỏi ông phóng viên:
- Thế nào? Nghe xuôi đấy chứ? Ông thử đọc qua lại một lần chúng ta nghe xem...
Phóng viên nhà báo ho khạc để dọn cổ họng. Rồi ngoan ngoãn đọc lại những dòng
đã viết. Quan gật gù cái đầu, khoái chí, lại hỏi:
- Có được không? Văn Chương gọn ghẽ, dễ hiểu...
- Bẩm vâng.
- Khúc chiết đâu ra đấy lắm đấy chứ?
- Bẩm vâng.
- Thôi thế ông cứ việc chép đi!
- Bẩm xin quan lớn đọc tiếp...
- "Nếu không có sự điều đình rất khôn khéo của viên tri huyện sở tại thì ắt
đã xảy ra một cuộc bạo động, một vụ đổ máu ghê gớm. Trong khi mấy trăm dân hộ
đê hung hăng vác xẻng cuốc khiêu khích lính tráng và lý dịch đánh đập một người
cai và một người tuần đến nỗi bị thương rất nặng, thì quan huyện đã phải ra lệnh
cho đội lính khố xanh bắn súng chỉ thiên để thị uá nên họ mới chịu giải tán và
lại chăm chỉ làm việc. Xét ra bọn này có người cầm đầu. Sợ nguy hiểm về sau,
ông huyện đã cho bắt giam H.V. Phú, vì tên này quả thực đã diễn thuyết xui dân
phu đình công. Ngay khi xảy ra vụ xung đột này, bản báo đặc phái viên đã tức tốc
đến tận nơi điều tra rất kỹ lưỡng... H.V. Phú vốn là con cái một họ có tiếng
là bướng bỉnh và nguy hiểm. Phụ thân của y, anh ruột y, đã vì chống lại chính
phủ mà bị đày đi Côn Đảo. Đến nay, y lại len lỏi vào đám dân quê, cũng đi làm
phu hộ đê, để nhân cái phong trào đình công này, mà làm rối trật tự. Vậy thì H.
V. Phú là người của V.N.Q.D.Đ. hay là người của Moạcou? Đặc phái viên bản báo
còn đương mở cuộc điều tra, được tin gì sẽ đăng tiếp".
Ấy thế là xong cuộc "điều tra" của ông "đặc phái viên" kia.
Ông chép xong, lại đọc cho ông huyện nghe lần nữa. Ông huyện bảo:
- À, ông viết thêm vào hộ câu này nữa...
- Bẩm, thêm chỗ nào?
- Ấy! ấy... sau câu "giải tán và lại chăm chỉ làm việc" thì ông viết
thêm vào đại khái rằng:
"Lúc giải tán thì dân phu chạy hỗn loạn, có mấy người bị thương là vì xẻng
cuốc của dân phu va phải mà nên nỗi, chứ lính tráng không phải đánh đập ai cả".
Chép xong đâu đấy, báo giới lại kính đọc để quan trường nghe. Thật là ý hợp tâm
đồng. Một mẩu tin vặt thế mà ngài cứ bình văn mãi, như ngâm nga những áng thơ
kiệt tác vậy.
- Bẩm, thế quan lớn lấy cung chưa?
- Dạo này tôi bận việc đê điều, bao nhiêu án từ phải để cụ lục cụ ấy làm hộ cả
đấy chứ. Này, gửi dây thép ngay đi nhé! Có kịp số báo ngày mai không?
- Bẩm, ít ra cũng phải đến ngày kia thì báo mới có đăng cái tin này được.
- Ở chơi đã! Uống nước đi vậy! Thuốc đây!
- Thôi, để quan lớn nghỉ trưa. Cám ơn quan lớn lắm.
Nhà báo xếp dọn giấy má bỏ túi, uống nước, hút thuốc, chào ông huyện, rồi cáo
lui. Thế là Dung lần đầu trong đời nàng, đã được biết rõ những cái ẩn tình của
một vụ bắt bớ, và cái vô lương tâm của một nhà báo.
CHƯƠNG V
Khi thấy đồn người làng đã được "tha phu", cô Tuất vội vàng ẵm con lên lưng, chạy thẳng một mạch ra gốc gạo. Thấy cô Tuất từ đằng xa, ông lý đã vội từ đống người lố nhố đương đi ấy nhảy xổ ra ngoài hàng ngũ, và vẫy tay gọi cô. Tuất không thấy em đâu, đã có ý lo, hỏi dồn:
- Cậu cháu đâu? Thế Phú nó đâu? Hở ông lý?
Trước khi nói, ông lý còn giao hẹn:
- Bác không được nói gì với cụ nhé? Đã nghe ra chưa?
Cô Tuất càng lo sợ hơn nữa, lại hỏi:
- Vâng, thế cậu cháu đâu mà bây giờ...
Ông lý trưởng giậm chân hai ba lần xuống đất, kêu bình bịch, nhăn nhó nói như
gào thét:
- Ấy thế mới khổ cho chứ! Bị quan bắt giam rồi! Chỉ được cái bướng bỉnh hão! Đầu
bò đầu bướu lắm mới chết!
- Chết nỗi, bị bắt ra làm sao?
- Bị ông huyện bắt giam tại huyện lỵ chứ còn sao nữa?
- Chết nỗi! Vì tội gì thế, ông?
- Vì tội xui dân phu biểu tình! Vì tội xui giục dân gian bất tuân thượng lệnh!
Khổ thế. Đã bao nhiêu lần tôi khuyên can cậu ấy, mà cậu ấy không thèm nghe. Khốn
nạn, biết thế thì vay tiền cho cậu ấy có được không? Sao lại để cậu ấy đi phu
đi phen làm gì đến nỗi xảy ra đến thế!
Ông lý trưởng nói đến đấy thì phải ngưng lại. Cô Tuất đã lôi vạt áo lên lau nước
mắt rồi. Những người làng đã vào làng rồi, chỉ còn trơ dưới gốc gạo có ông lý
và cô Tuất với thằng cu Hiền ngây ngô trên lưng mẹ. Cô Tuất sụt sịt:
- Giời ơi! Nông nỗi thế này thì tôi biết nói với đẻ tôi ra làm sao?
Cảm động, ông lý trưởng nhắc lại:
- Ấy đấy! Cho nên tôi đã dặn bác phải giấu cụ. Ấy những người đi phu vừa về đây
kia là tôi cũng đã phải dặn kỹ lưỡng lắm. Cụ hỏi cậu Phú đâu thì bảo không biết,
kẻo tự nhiên họ cũng vào mách cụ thì cụ đến chết mất.
- Liệu có hy vọng được tha không hở ông?
- Cái đó cũng chả biết chừng! Nếu cậu ấy mềm mỏng với quan trên thì tội dẫu nặng
cũng có khi được tha. Còn bướng bỉnh như cậu ấy thì có khi không có lỗi mà cũng
phải tù, phải tội.
Cô Tuất lại khóc nức nở:
- Thật là nó giết bà cụ nhà tôi đây, ông ạ. Nhờ ông tạt qua vào nhà tôi ông kiếm
cớ ông nói dối đẻ tôi hộ tôi! Chứ mà tôi trông thấy đẻ tôi thì nói dối không
thoát, thì lại đến khóc nức nở lên mất.
Ông lý trưởng đứng ngây người ra một lúc rồi nói:
- Hay là tôi nói dối cụ thế này nhé: Tôi bảo rằng cậu ấy còn ham công việc nên ở
lại huyện.
- Liệu thế đẻ tôi có tin không?
- À phải! Để tôi bảo thế này... Rằng vì biết chữ nghĩa nên cậu Phú được quan
trên mượn biên chép công phu phen. Nếu nay mai cậu ấy được tha thì thôi, bằng
mà có lôi thôi gì nữa thì ta lại liệu bài chống chế vậy.
- Vâng, tùy ông đấy. Ông vào ngay cho, cảm ơn ông.
Ông lý trưởng thụt vào trong cổng rồi, cô Tuất để con xuống đất, ngồi phệt xuống
gốc gạo. Thằng cu Hiền cứ ôm cổ mẹ mà giãy hai ống chân, miệng "phun
mưa".
Tuất nghĩ đến Minh. Những ngày Minh được nghĩ mà về thăm nhà thì cả gia đình
sung sướng, hôm Minh bị một chiếc ô tô sở mật thám lôi đi thì bà Cử ngã lăn xuống
đất ngất đi mất nửa tiếng đồng hồ...
Cô thấy rằng dễ thường rồi mà cô phải đến lấy kế ông chánh Mận thì mới mong được
yên thân. Phú bị bắt, rồi thì... sao nữa! Hay lại mấy chục năm tù? Như vậy thì
bà mẹ già kia sẽ ra làm sao? Tuất nghĩ đến gia đình đã chán, đến thân phận lại
đáng chán hơn nữa. Cô ôm con, ứa nước mắt, hậm hực... Trong khi ấy, thằng cu Hiền
vỗ vào má mẹ, hớp hớp mấy cái, đùn vào đấy một sợi nước bọt nó chảy xuống như một
sợi chỉ lòng thòng.
Ôm con vào lòng. Tuất phân vân lại thấy như thế mà đi lấy chồng nữa thì cô sẽ
có tội to. Dù sao nữa, Tuất cũng không thể nào nhẫn tâm dứt tình với con, đem
nó về trả lại nhà chồng, chỉ vì muốn no ấm. Cô tự nhủ: "Không thể nào nữa
thì cũng cứ đành mang tiếng là ăn hại mẹ vậy".
Một con trâu, bất kỳ, từ sau gốc gạo nhô ra với hai cái sừng như sự khiêu
khích, do một thằng bé con vụt đằng sau. Vì lối đi chật hẹp quá, cô Tuất vội
vàng ôm con đứng lên. Do thế, vô tình cô rảo bước về nhà, mặc lòng năm phút trước,
cô đã định tránh mặt bà Cử trong một lúc lâu nữa.
Đương đi được một quãng, thình lình cô gặp ông chánh Mận. Cô vội cúi mặt để khỏi
phải chào, nhưng ông chánh lại đứng chắn đường cô, hớt hơ hớt hải mà rằng:
- Ấy kìa bác! Này, chết chửa, cậu Phú không biết tại sao lại bị quan huyện bắt
bác đã biết chưa?
Tuất kinh hoàng không hiểu vì ai mà ông này lại biết chuyện ấy rồi. Cô run rẩy
nói:
- Xin ông giữ kín chuyện hộ.
Nói thế xong cô mới kịp đỏ mặt, khẽ chào ông Mận và cắm cúi bước đi.
Khi Tuất về đến nhà thì cụ Cử đương lúi húi dọn cơm. Cái mâm gỗ đã long sơn, những
cái đũa tre, bát đàn, và đĩa dưa, bát cà, bát rau khoai lang luộc, đã làm cho
thằng cu Hiền vội vàng nhoai từ trên lưng mẹ xuống giường, lân la ngồi gần mâm
cơm, rút một chiếc đũa đập vào bát lách cách. Một con mèo già lừ lừ lượn chung
quanh thằng cu Hiền mà kêu một cách buồn rầu, thảm đạm. Con vật ấy, cái dấu
tích độc nhất của những ngày vui xưa không trở lại, đã làm cho Tuất phải chợt
nhớ đến những bữa cơm ngon lành khi gia đình còn nguyên vẹn, trong đó anh giáo
Minh vẫn đem cho tất cả mọi người một làn không khí vui vẻ bằng những câu pha
trò có duyên. Hồi ấy, không nói gì đến người, cả con mèo cũng đã sống những
ngày vinh hiển lắm. Ngày nay, đem so sánh với xưa kia, thì bữa cơm của cả một
gia đình cũng không bằng bữa cơm mèo! Tuất thấy mẹ già phải lam lũ suốt ngày để
mà ăn uống mỗi ngày hai bữa những bát cơm hẩm với cà thâm, với dưa gần khú như
thế, thì đau đớn như kim đâm vào ruột. Nhất là việc thằng cu Hiền thường nhật
háo hức đòi ăn cơm và bữa nào cũng ra vẻ được ăn uống rất ngon lành, lại càng
khiến cô xót xa thương thân tủi phận lắm.
Không muốn phải có những ý nghĩ bi phẫn, Tuất bảo mẹ:
- Bà trông cháu một lát để tôi xuống bắc cơm cho.
Cụ Cử ngồi xuống giường lôi cháu về lòng đáp:
- Ừ, nhân thể tay thì đặt nồi nước vối lên bếp nhé!
Tuất chưa kịp ra khỏi thì bà mẹ lại gọi giật lại:
- Này! Quái thật! Đã tha phu rồi mà sao cái thằng ông mãnh ấy còn chưa về như
thế?
Chột dạ, Tuất đứng ngẫm nghĩ một lát, lại hỏi mẹ:
- Thế ông lý không nói chuyện gì với đẻ hay sao?
- Có, ông ấy vừa ở đây ra xong! Nhưng mà ông ấy nói lúng túng thế nào ấy, tao
nghe lõm bõm lắm. Hay là lát nữa, ăn cơm xong thì con sang bên ông ấy hỏi lại đầu
đuôi kỹ lưỡng xem sao. Chứ mà không biết tao cứ thấy máy mắt dữ dội, ruột gan cứ
như bào thế này này.
- Tôi đã gặp ông ấy rồi đẻ ạ. Đẻ cứ yên tâm! Vì Phú nó biết chữ nghĩa cho nên
quan trên lưu lại, ý chừng là để biên công xá cho phu phen gì đó thì phải. Chứ
nếu không thì nó cũng về chiều hôm nay như mọi người rồi chứ còn gì!
Cụ Cử thở dài, chép miệng:
- Nào biết có đích thực thế không! Sao tao thấy nóng ruột lắm?
- Ấy là tại đẻ cứ hay lo xa, cứ hay nghĩ quẩn chứ gì!
Giữa lúc ấy, may sao thằng cu Hiền hết sức nhoai ra, múa cái đũa nghênh ngang định
lăn sả vào chỗ mâm cơm miệng kêu thét lên: "Mơm mơm mơm!". Nhân cơ hội,
Tuất không nói gì nữa, ù té xuống bếp.
Bữa cơm hôm ấy không ngon lành gì. Cụ Cử uể oải ăn hai lưng. Tuất cũng ăn uống
qua loa cho đỡ cồn ruột, và trong khi nhắm mắt nuốt không trôi những thức ăn
kham khổ lại còn phải trông nom cho con đừng rút đũa, đừng đánh đổ đánh vỡ, đừng
ngồi vào mâm. Mỗi khi bị lôi về lòng mẹ, thằng cu Hiền lại phản đối bằng cách
khóc thét lên, và sau khi thấy con quấy khóc, Tuất lại phải thả lỏng nó ra để
mà, ba phút sau, lại lôi nó về lòng mình. Con mèo thì cứ chạy lượn quanh mâm
cơm mà kêu om xòm, thằng cu Hiền thì cứ vừa và cơm vào mồm vừa để rơi vãi thức
ăn tung tóe dưới chiếu.
Lặng lẽ, cái tối màu xám đã úp xuống chỗ những gốc tre xanh. Một vài con dơi đã
bay liệng tứ tung ở sân, có khi bay cả vào trong nhà. Những con ruồi đã bâu
hàng đàn vào các dây thép căng ở sân để cho đàn muỗi bay ra vo vo như tập trận.
Đó là những cảnh hoàng hôn lặng lẽ và buồn tẻ ở thôn quê, những cảnh hoàng hôn
của những đêm không trăng sao nó làm liệt hẳn cuộc đời đi như vào những giờ chết,
và nó làm cho chó cắn ran lên từng hồi như sủa ma vậy.
Bị muỗi mắt đốt, chốc chốc thằng cu Hiền lại khóc thét lên. Cụ Cử phải ru cháu
bằng những câu hát qua cái giọng ê a của một bà cụ già nghe nó buồn thảm lạ
lùng. Sau khi rửa mâm bát, Tuất dọn dẹp bếp nước, rồi lên nhà đốt ngọn đèn dầu
con. Đó là những giờ để ngồi quấn những thoi vàng hồ bán được sáu xu một man.
Chập tối nào cũng vậy, hai mẹ con đều không thoát qua những phút dài dằng dặc,
những phút buồn tẻ ấy nó khiến người ta thấy cuộc đời là không bao giờ thay đổi.
Nếu có Phú ở nhà thì thường Phú cũng ngồi vào quấn vàng.
Chừng như mệt mỏi vì khóc nhiều quá, thằng cu Hiền, trong cánh tay khẳng khiu của
bà lão, được một lúc đã bắt đầu thiu thiu. Ngồi tựa lưng vào cái cột tre, cụ Cử
tuy nhiên vẫn cứ hát ru cháu:
Của đời "Ông mệ" để cho,
Làm không ăn có, của cho cũng rồi!
Của rẻ thật là của ôi,
Lấy phải dâu dại khốn tôi trăm đường!
Củi mục bà để trong rương
Ai mà hỏi đến? Trầm hương của bà!
Cùng giọt máu bác sinh ra,
Khác giọt máu mẹ mà ra khác lòng...
Công việc quấn vàng đã thấy chán, những mảnh hồ tẻ đã đóng lại thành một cái
bao tay cứng nhẵng ở đầu ngón tay, lại phải nghe những câu hát vô tình mà có vẻ
mỉa mai châm chọc ấy, Tuất thấy khó chịu. Thật vậy, những câu phong dao mà cụ Cử
hát để ru ngủ cho đứa cháu ngoại, tình cờ lại làm mếch lòng mẹ nó. Trong những
câu ngây ngô ấy có tất cả những ý vị mầu mè nói về công việc ông chánh Mận hỏi
Tuất, về việc đứa bé chỉ là cháu ngoại, nó khiến Tuất càng phải tủi thân. Muốn
cho mẹ đừng ngâm nga nữa, cô nói:
- Thôi, nó ngủ rồi, đẻ đặt nó xuống giường đi, đẻ ạ.
Vô tình, bà mẹ còn cãi:
- Đã đặt cháu thế nào được. Nó vừa chợp mắt đấy mà...
Rồi lại điềm nhiên khẽ hát:
"Cào cào giã gạo tao xem,
Tao may quần áo tao đem cho cào.
Canh rau cũng thể canh rau,
Để ai cậy thế ỷ giàu mặc ai!"
Hốt nhiên thấy đằng xa có tiếng nước réo ào ào. Cô Tuất ngừng tay lắng tai
nghe. Cụ Cử cũng thôi không hát ru nữa. Tiếng ào ào mỗi lúc một thấy gần, một
thứ tiếng kỳ quái, nhưng nghe mà đáng cho ta phải giật mình, vì tiếng ầm ầm như
gào thét, như trời long đất lở. Cô Tuất vừa kịp hỏi mẹ một câu:
"Quái lạ, cái gì thế hở đẻ?"
thì tự đầu làng, đã thấy tiếng tù và rúc liên thanh. Những tiếng kêu inh ỏi kế
tiếp nhau:
- Ối làng nước ơi! Lụt rồi, lại vỡ đường vỡ sá rồi!
- Ai có của thì mau giữ lấy của! Ai có tính mệnh thì mau giữ lấy tính mệnh!
- Ối ông bà láng giềng hàng xóm! Chạy lụt đi! Nước đã đổ về đến chỗ cầu Tréo rồi!
Mau mau không thì chết cả lũ.
Tuất vùng đứng lên, kinh hãi, thất thanh bảo mẹ:
- Giời ơi! Chết rồi đẻ ơi! Lại lụt mất rồi! Làm thế nào bây giờ! Chết chửa làm
thế nào hở đẻ?
Tiếng kêu của người làng bắt đầu inh ỏi. Tù và của bọn tuần tráng vẫn đổ hồi
dài, nhức óc, đinh tai. Tuy trong lúc cuống cuồng cụ Cử cũng còn đủ trí minh mẫn
phán bảo con gái:
- Thì chạy lụt chứ còn làm thế nào nữa! Cơn ơi! Chết chửa! Ra sân lấy cái chậu
thau đồng, mấy cái nồi, mấy cái xanh, đem vào đây không thì trôi hết cả bây giờ.
Theo ý mẹ, Tuất chạy đâm bổ ra sân. Cụ Cử cũng ẵm cháu đứng lên giường, lại bảo:
- Cái bu gà ở bếp nữa! Thùng khoai bên cạnh bồ trấu dưới bếp nữa! Mau lên, đem
cả vào trong này.
Trong chớp mắt, cô Tuất lễ mễ khiêng những cái ấy vào trong nhà rồi. Hai mẹ con
trợn mắt nhìn nhau lo sợ cuống quít, vì đó chưa phải là phương pháp chạy lụt.
Quả vậy, ở nhà ông Nhiêu bên cạnh, còn tiếng quát tháo huyên thuyên nghe rõ mồn
một:
- Chú hai! Chú ba! Các chú ra cả đây, mau! Lấy thừng buộc cột nhà lại, đóng dăm
cái cọc tre ở bốn đầu nhà, mau lên, không có mà nước vào đến nơi thì trôi mẹ nó
cả nhà cửa đi bây giờ! Thằng Tẹo đâu? Con đĩ Mô đâu? Em chúng mày đâu? Lên cả
nóc hòm mà ngồi! Chết chửa! Thằng Mống đâu? Nó ở ngoài ngõ à? Mau đi gọi nó về
ngay, không mà nước cuốn đi thì chết đuối mẹ nó bây giờ! ạ hay! Đã đứa nào đi
tìm thằng Mống chưa? Con mẹ đĩ nó thì đi tìm gà, chó, bắt cả vào trong buồng
này đi. Vồ đây rồi! Đóng cọc! Hai chú ra đây đóng cọc đã!
Tiếng nước mỗi lúc một gần, tù và vẫn rúc liên thanh, tiếng người vẫn kêu inh ỏi...
Nghe thấy hàng xóm bàn soạn thế, trông về mình thì... một mẹ, một con, mà lại
còn bận ẵm đứa bé. Tuất luống cuống chỉ còn biết luôn miệng kêu trời, vô kế khả
thi. Bị đánh thức một cách bất ngờ, con gà mẹ gù gù ra vẻ bất bình trong khi
đàn gà con nghển cổ nhìn ngọn đèn dầu, kêu liếp nhiếp. Còn con mèo nó đã nhảy
tót lên một chiếc rui nhà, nằm lặng im. Sau một hồi dài những thở dài và chép
miệng, cụ Cử chỉ còn biết nói:
- Thôi, thì mẹ con ta đành liều với giời vậy! Cũng chả còn biết chạy lụt thế
nào nữa! Nếu trôi mất nhà cửa thì âu là mẹ con bà cháu ta trôi theo dòng nước
mà thôi...
Tuất hãy còn tìm cách an ủi mẹ:
- Chả lo đẻ ạ. Vỡ đê cách đây những chục cây số thì con tưởng ngọn nước cũng chả
mạnh là mấy mà sợ trôi mất nhà cửa.
Trông đến cái hòm có bốn chân cao lênh khênh vẫn dùng làm bàn thờ, trong đó cụ
Cử vẫn cất những đồ vật gì có giá trị đôi chút, Tuất lại nói:
- Thôi thì mình không bắc được sàn thì đã có cái mặt hòm đây rồi. Hòm gỗ lim nặng,
lại kê sát vách, con tưởng khó lòng mà trôi theo dòng nước được! May mà tạm bợ
yên thân vì cái hòm cũng nên.
Tuất nói đến đây thì nước đã chảy vào sân ào ào. Cũng vào theo dòng nước đỏ ngầu,
đó là những mảng bèo Nhật Bản, những rác rưởi bẩn thỉu, những miếng củi tre củi
rều nhỏ to đủ hạng, những cái nồi đất đen... Nước xoáy vào đất, xói vào các cột
tre, ào ào phá phách bốn bức vách, làm cho cái giại nứa rung động một lúc rồi đổ
lật ngửa! Nhanh chân, Tuất nhảy lên giường vì nước đã vào trong nhà. Cả hai
gian nhà ấy tròng trành nhưng may sao lại không đổ. Nước dâng lên ngập cái giường
một lúc rồi lại rút xuống, rồi lại dâng lên cao, y như ngọn sóng ngoài bãi biển
vậy. Tuất vội gài cái bu gà vào trong một gióng tre bên trên bàn thờ, bỏ những
cái đồ đồng vào trong hòm khóa chuông.
Cụ Cử đứng mãi đã mỏi chân đành chờ cho Tuất thu dọn xong thì trèo lên bàn thờ,
nghĩa là lên nắp cái hòm chân vậy.
Hốt nhiên một tiếng va mạnh đánh xoảng một cái rất dữ dội, làm cho gian nhà
gianh chuyển động như muốn đổ. Đó là một cái chum nước khổng lồ không biết của
nhà nào trôi đến đấy, vấp phải cái cột gỗ nên vỡ tan tành ra làm mấy mảnh. Sau
cái chum thì lại đến cái chuồng lợn ở sân bị làn nước nhổ lên đẩy ùa vào cho đứng
lấp thành một đống tre to tướng ngay trước cửa ra vào.
Nước dâng lên ngập cái phản.
Trong nhà lúc ấy chỉ còn cái hòm chân là ở trên mặt nước. Bập bà bập bềnh trên
giường trên phản, là những mảng bèo Nhật Bản, các thứ lá khô, những thứ rác rưởi
có bọt, với đủ trăm nghìn những cái lặt vặt như mảnh bát đàn, mảnh nồi đất, lá
tre khô, vân vân... Một thứ mùi hôi tanh khó chịu là ở nước, vì làn nước lụt đã
thấm vào những đống nước ao tù bẩn thỉu, những cống rãnh hôi hám, những phân
gio ở chuồng gà, chuồng lợn của tất cả mọi nhà trong làng, để hỗn hợp thành một
thứ nước có cái mùi lộn mửa, nó xông vào mũi ta, khiến ta choáng váng thấy nhức
đầu. Những tiếng ào ào nước réo, những tiếng kêu la gào thét, cha gọi con, vợ
réo chồng của người làng mỗi lúc càng huyên náo ghê gớm mãi lên, khiến cho thằng
cu Hiền tỉnh ngủ. Nó cũng khóc inh ỏi và làm cho trong nhà có một làn không khí
nặng nề những tính chất bi thương.
Cô Tuất ẵm con khóc lóc, chẳng biết nghĩ rằng trước một cái thiên tai cho cả mọi
người như thế thì cô không nên làm cho mẹ phải loạn mất thần kinh.
Cụ Cử nức nở, vật mình vật mẩy:
- Giời cao đất dày ơi! Phú ơi là Phú ơi! Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì
siêng! Mày chúi mũi mãi vào việc hộ đê để cho đê vỡ thế này! Để cho mẹ mày ở
nhà khổ như thế này!
Nhưng cụ bỗng phải im, vì một vật gì đen sì, hình như tròn tròn, bị nước xô vào
nhà, đẩy vào vách đánh bịch một cái. Rồi một tiếng kêu ủn ủn vang lên. Cô Tuất
kinh hãi mở to mắt ra nhìn...
Đó là một con lợn con độ hai tháng, không biết của nhà ai, không biết từ đâu
trôi đến. Con vật vớ được mặt phản thì ngoi ngóp cố đứng, lại vẫy cái đuôi. Thằng
cu Hiền nín khóc, từ cánh tay mẹ cứ muốn nhoai xuống để bắt con vật.
CHƯƠNG VI
P
hú đương phải trong cảnh đau đớn tự giận mình. Chàng hối hận
lắm, vì từ lúc bị bắt, chàng chỉ nghĩ đến mẹ. Làm như Phú đã làm thì thật là dại
dột vô cùng, vô ý thức vô cùng, nhất là khi anh ruột mình đã bị mười lăm năm biệt
xứ, nhất là khi mẹ già chỉ còn trông cậy vào có một mình mà thôi. Bướng bỉnh mà
làm gì? Xúi giục dân quê thì ích gì? Vì chưng cái sự khốn nạn của dân quê cũng
không thay đổi, mà mình thì lại bị bắt. Trong khi ấy, mẹ già sẽ ra sao? Phú đã
nhiều lúc ứa hai hàng lệ. Nhưng chàng cũng hy vọng rằng nếu quan trên kết án
cho "công bình" thì tội của chàng chẳng lấy gì làm to. Nhưng mãi mà
chưa thấy quan trên lấy khẩu cung! Phú thấy rằng như vậy là ông huyện đã bắt
giam trái phép, vì như trong luật đã nói, một viên tri huyện không được bắt
giam ai trong lô cốt quá hai mươi bốn tiếng đồng hồ.
Nghĩ thế rồi, Phú lại chợt nhớ đến việc hộ đê... Thật thế, khi quan trên bận việc
đê điều thì việc điều tra kia có thể ngừng trệ cũng được lắm. Phú rùng mình lo
lắng cho cái thời hạn tạm giam.
Phú sẽ bị kết vào tội gì, chàng cứ đoán qua cũng đủ biết, Phú bị giam riêng
trong một gian phòng của lô cốt, bị canh phòng một cách khá ráo riết như vậy,
thì nghĩa là người ta đã coi chàng như một chính trị phạm rồi. Một căn phòng chật
hẹp, tường quét hắc ín đen bóng nhễ nhại, chỉ có một ô cửa nhỏ để thông không
khí với bên ngoài, tối om om, đến nỗi nếu không có ba bữa cơm thì chàng không
thể biết lúc nào là ngày, lúc nào là đêm, và đã bị giam trong bao nhiêu lâu. Mỗi
khi đến giờ phát cơm thì cửa sắt vuông bị lòi ra, ba tiếng gõ vào khung cửa, một
cái mặt đầy những vẻ hung ác nhẫn tâm nhìn vào, rồi thì một thùng gỗ vuông
trong có một nắm cơm và mấy con cá mắm ươn bị nhét qua khe cửa. Một tiếng quát:
" ăn!", rồi thì cửa lại sập vào khung chốt, phòng lại tối om...
Bữa cơm tù tội thứ nhất trong đời, Phú thấy không thể nào kham nổi. Cá mắm thì
gần thối nát, cơm thì nồng nặc những mùi vôi. Lần đầu, vì buồn nôn quá, Phú
không ăn được hết nắm cơm, và cũng không thấy đói. Nhưng đến bữa thứ ba thì nắm
cơm không còn mùi vôi, cá mắm cũng hóa ra ngon lành rồi! Rệp và muỗi là những
thứ làm cho Phú thỉnh thoảng quên mất cái êm ả bứt rứt đáng kinh hoàng của cảnh
ngục tù âm u. Đến bấy giờ Phú mới biết cái giá trị của ánh sáng, của không khí,
nghĩa là giá trị của tự do, cái điều mà xưa kia chàng không thấy có chút giá trị
nào.
Đây, đây, tiếng giày nện vang lô- cốt, Phú mừng thầm, chắc hẳn người ta đã vào
lấy khẩu cung... Tiếng khóa trong ổ lách cách, cánh cửa to bị đẩy vào. Phú đứng
lên, nhưng một làn ánh sáng kéo ùa vào phòng đã khiến chàng hoa mắt, quáng
quàng lên, tự hồ đứng không vững nữa. Khi Phú định được tâm thần rồi, thì có
hai người đứng sừng sững trước mặt chàng. Một người trạc độ bốn mươi tuổi, da mặt
đen, cái đen thiết bì, hai con mắt to nhiều lòng trắng và ít lòng đen, dưới đôi
lông mày rậm như hai con sâu róm, và trên mép, một thứ mép có đôi môi mỏng dính
như lúc nào cũng mím miệng vậy, thì có hai cánh râu cong như cái tay lái xe đạp,
nó tiêu biểu cho cả con người, về nhân phẩm cũng như về chức nghiệp. Người ấy mặc
cái áo sa hoa, đội cái khăn lượt ta, đi một đôi giày tây. Còn người kia thì đầu
không khăn, chân giẫm đất, mặc một cái áo tây cũ vải vàng, nét mặt trông lại
hung ác hơn nữa, tay cầm một tập giấy.
Phú đoán người vận áo dài là viên lục sự hay thừa phái chi đó, còn anh kia hẳn
là người loong toong... Nhưng chính người ấy lại quay cổ ra ngoài phán một cách
quyền hành lắm:
- Cho mấy cái ghế vào đây nhé!
Hai phút sau, một viên gác ngục đã đem hai cái ghế nhỏ vào phòng. Rồi người ta
lại đóng cái cửa chính, chỉ còn để ngỏ hẳn cái cửa vòng cánh sắt. Xong đâu đấy,
cả hai ngồi xuống ghế, rồi người vận áo dài khẽ nói một cách rất ôn tồn:
- Anh nên sửa soạn đáp lại những câu hỏi của quan trên.
Nói xong, người ấy mở rộng cái bìa giấy má trên hai đầu gối, lại lôi ở túi ra một
cái bút máy, trong khi người có cái áo tây vàng bắt chân chữ ngũ lên mà rung
đùi một cách đắc chí. Đứng trước hai người, Phú khoanh tay ra ý giữ lễ phép,
nghĩ ngợi một lát rồi đáp:
- Bẩm vâng, chúng tôi cũng chỉ mong có thế. Thưa ngài, chúng tôi bị giam quá một
ngày rồi... Nếu tôi không lầm thì như thế là quá cái quyền hạn bắt giam người của
một ông tri huyện. Đáng lẽ người ta phải giải tôi lên tỉnh tùy quyền quan trên.
Người già cười nhạt mà rằng:
- Anh đã hơi biết luật như thế, sao còn làm điều phi pháp như thế?
Phú cãi:
- Tôi làm gì mà phi pháp?
- Thế sao anh lại xui dân phu hộ đê rằng phải có nhận được tiền rồi đã thì mới
làm việc?
Phú lại cãi:
- Chính tôi, tôi cũng kêu như thế chứ không phải chỉ xui giục người khác kêu mà
thôi. Tôi kêu vì thấy quan huyện hứa rằng Nhà nước có trả tiền cho dân phu
phen...
Người có áo tây vàng đứng lên phân vua:
- Thế là anh nhận hai tội rồi đấy nhé. Cứ biết vậy, chốc nữa thì đừng có chối
cãi.
Người già lại hỏi Phú:
- Anh cho rằng việc đòi tiền công của anh là chính đáng lắm, có phải thế không?
Phú cứng cỏi đáp:
- Phải! Mà tôi đã làm gì thì tôi không chối cãi! Khi tôi đói thì tôi phải muốn
ăn, khi người ta đã hứa gì cho tôi thì tôi có quyền hỏi người ta về lời hứa ấy.
Người già bất bình mà rằng:
- Ừ, thế thì anh cứ biết một mình anh thôi, chứ anh phải bảo người khác mà làm
gì?
- Một mình tôi kêu thì không ăn thua, phải nhiều người kêu thì mới có kết quả
được!
Sau khi đáp thế, Phú tưởng người lấy cung sẽ bắt bẻ chàng một vài điều gì nữa.
Nhưng không! Người ấy lặng lẽ cúi đầu hí hoáy viết trên giấy trắng. Phú không
biết vô tình đã mắc mưu. Viên lục sự già đã chép đúng những lời hỏi của mình
cũng như những câu đáp ngay thật bướng bỉnh của Phú... Thì ra đáp như thế, Phú
đã tự buộc mình vào dây của pháp luật mà không biết.
Về sau người lục sự già lại hỏi:
- Thế anh nghi cho quan huyện sở tại trẩm công xá của dân phu hay sao mà anh lại
phải cổ động rầm rĩ như thế? Anh có biết rằng làm như anh làm, chính là thiếu lễ
phép với quan trên không?
Thấy cái lòng thành thực của mình đối với nhà chức trách mà lại bị ngờ vực như
thế, Phú phát cáu, lại đáp:
- Tôi đâu dám ngờ ông huyện có cái bụng dạ tầm thường ấy, nhưng mà tôi ngờ bọn
lý dịch. Vì rằng điều không ai là không biết, là bọn lý dịch vẫn thường bóp hầu
bóp cổ và nhũng lạm, và biển thủ tiền của đám cùng đinh. Tôi muốn quan trên đề
phòng cho cùng dân cái nạn ấy chứ không có cái ý gì khác!
Viên lục sự nghe xong lại chăm chú ghi những câu hỏi đáp trên mặt giấy. Đoạn lại
ngửng mặt lên hất hàm hỏi:
- Do việc xui giục của anh mà lính phải bắn súng chỉ thiên để thị uy, mà dân
thì phải mấy người bị thương trong khi giải tán. Nhà nước buộc anh phải chịu
trách nhiệm ấy thì anh bảo sao?
- Tôi không chịu trách nhiệm về khoản ấy! Buộc tội như vậy là thậm vô lý.
Viên lục sự lại chép nữa. Sau cùng viên ấy bảo:
- Đây tôi đọc lại anh nghe. Anh đáp thế nào, tôi chép vào biên bản đúng như thế,
không có sai một chữ. Để tôi cho anh biết cái lương tâm về phận sự của tôi,
không có mai sau anh lại kêu là người lấy cung cố tình làm sai sự thực để anh
phải tội.
Rồi viên ấy đọc lại những câu Phú đã đáp.
- Thế nào? Tôi có thuật sai không?
- Không, cám ơn ông, ông làm biên bản đúng lắm.
- Thế thì anh ký nhận vào đây hộ một chữ.
- Vâng, tôi xin ký.
Nói xong, chẳng nghĩ ngợi xa xôi, Phú ký ngay vào giấy. Thế là xong! Chàng chẳng
biết đã mắc mưu viên lục sự già, cái người suốt đời chỉ làm cái việc nham hiểm
là buộc tội mọi người bằng những câu hỏi vặn loanh quanh. Phú không biết rằng
điều cốt yếu của người lấy cung chỉ là làm thế nào buộc Phú phải nhận cái tội
có xui dân phu đình công và biểu tình thôi. Những lời kết án gay gắt khác là để
cho bị cáo không kịp nghĩ đến sự chối cãi cái tội chính.
Phú ký xong một chữ thì người ấy mới dõng dạc nói:
- Tốt lắm! Anh là người cũng hiểu đôi chút pháp luật là lại còn phạm luật. Để rồi
nay mai anh ra tòa mà cãi. Nhưng mà tiện đây thì tôi cũng làm phúc đọc cho anh
rõ anh bị buộc vào tội gì... Nghe đây này!
Cúi xuống tập giấy, viên lục sự tìm tòi rồi đọc:
- "Hoàng Việt Hình Luật, hiện hành trong xứ nào thuộc tòa Nam án. Điều
thứ 128... Những người nào xui giục người ta bãi khóa đình công, hay là không
chịu ứng thí bất cứ là phạm cách nào, thời sẽ bị giam từ 3 tháng đến 2 năm, hay
là phạt tiền từ 30 đồng đến 210 đồng. Nếu sự xui giục ấy thành hiệu, thời sẽ bị
giam từ 2 năm đến 5 năm. Những kẻ tòng phạm thì sẽ bị nghị xử một nửa tội danh
của chính phạm.
"Điều thứ 147 - Người nào dùng sự hành hung, dọa nạt, cổ động mà xui
người ta hay là toan xui người ta rủ nhau đình công cốt để bắt buộc phải tăng
lên hay là hạ tiền công xuống, hoặc là ngăn trở sự tự do của công nghệ và làm
việc làm ăn, thời sẽ bị các tội danh trên này (phạt giam từ 1 tháng đến 1 năm
hay là phạt bạc từ 10 đồng đến 120 đồng, không cứ chính phạm hay tòng phạm; và
lại có thể chiểu theo điều 23 mà giao quản). Nếu tình cờ có xảy ra tội nặng hơn
thì sẽ tùy theo tình trạng sự hành hung và địa vị người bị hại mà nghị xử nặng
hơn!
Đọc xong, viên lục sự khoanh tay, hỏi Phú bằng mấy cái hất hàm. Anh chàng áo
tây thì lại vung chân một cách khả ố hơn nữa. Nhưng Phú không đáp lại chỉ
khoanh tay, đứng dựa lưng vào tường. Viên lục sự nói tiếp:
- Việc xui dân biểu tình anh đã nhận rồi. Thế là tốt lắm. Nhưng mà sự trị an của
các nhà cầm quyền không phải chỉ có thế. Xong việc kia rồi thì bây giờ tôi có bổn
phận phải hỏi cho ra rằng anh là người của một hội kín nào, của một đảng kín
nào...
Phú lắc đầu:
- Tôi chẳng ở hội kín nào cả! Không cứ phải là một đảng viên cách mạng thì mới
biết kêu đói, đòi công!
- Im! Câm mồm!
Người áo tây vàng nói leo vào:
- Ông lại dần xác ra bây giờ chứ hỗn thế à! Bố anh, anh ruột anh đều chống lại
chính phủ. Bây giờ thì đến lượt anh! Mau lên khai ra... Đừng chối cãi vô ích.
Đã bị bắt vào đây thì không ai chối cãi được! Muốn tử tế thì mau khai ra, anh
chịu mệnh lệnh của đảng nào?
- Tôi không vào đảng kín nào cả, oan tôi lắm! Buộc tội tôi đến thế nữa thì quá
lắm!
- Đừng nói thế! Tôi chỉ làm bổn phận của tôi. Anh đừng tưởng quan trên không biết
những hành động của anh trong mấy năm nay, sau khi anh bỏ học. Anh đã cổ động
cho cả làng anh ai cũng có tư tưởng phiến loạn, điều ấy, đừng có che mắt nhà chức
trách...
- Không làm gì có những chuyện ấy!
- Anh là một đảng viên cộng sản, có không? Chi bộ anh có tên chánh Mận, người
làng anh, làm thủ quỹ, có không? Tên chánh Mận muốn che mắt thế gian, định lấy
chị ruột anh để hành động mọi việc cho dễ, có không? Hôm rằm tháng chạp năm
ngoái, lão có triệu tập một phiên họp bí mật tại nhà lão, có không?
Nghe thế, Phú khoanh tay, ưỡn ngực lên. Chàng hiểu ngay cái dã tâm của tụi sai
nha định buộc tội lương dân, những người có máu mặt, để hòng bóp nặn, vơ vét...
Chàng trừng trừng nhìn lão mà nói:
- Thưa ông, ông hỏi ra ngoài đầu đề mất rồi. Tôi có thể đáp lại những câu hỏi vặn
như thế trước mặt ông công sứ, hay ít ra cũng ông huyện.
Tức thì viên lục sự đứng phắt lên, đập vào ngực mình thình thình thình, hết sức
giận dữ mà rằng:
- Nhưng mà tao đây, hiện giờ thay quyền quan huyện hỏi cung mày, mày có biết
không? Mày có biết bố mày đây là ai không? Mày có biết rằng dù ông huyện nào đến
đây thì cũng chỉ một tay bố mày đây, làm án từ và cai trị dân mà thôi hay
không?
Đoạn lão liếc mắt ra hiệu cho anh chàng áo tây ngắn. Tên này đứng lên, lại gần
Phú, tát cho đánh bốp một cái vào hai mắt, Phú loạng choạng.
Nó đấm một cái bằng tay phải, đoạn lại đấm móc lại cái nữa bằng tay trái. Bị
hai quả đấm vào hai má, Phú ngã ngồi xuống đất...
- Muốn chết vì tra tấn hay muốn sự thực tường khai thì bảo tao?
Nói thế rồi, nó lại túm tóc lôi Phú, bắt ngồi xuống cái ghế của nó. Phú khặc khờ,
ho lên mấy tiếng, bưng lấy mặt, choáng váng... Đến khi Phú ngồi xem chừng đã vững
thì một cái thụi vào giữa ngực lại khiến chàng ngã lăn một nơi, cái ghế bắn ra
một nơi...
CHƯƠNG VII
T
ừ lúc vỡ đê, nghĩa là từ buổi chiều hôm trước, tư thất của
ông huyện chưa bao giờ tấp nập rộn ràng đến thế. Những công văn, những lệnh
quan, bay đi tứ phía như mưa. Thoắt một cái, từ đê ông đã về tư thất. Lính cơ,
lính lệ, nha lại, gia nhân, chạy đi tìm ông tới tấp, loạn xạ. Đã có lúc nhà
riêng ông huyện cũng vang ầm những lệnh trên ban xuống, y như ở công đường.
Đã vậy, ông lại còn bận tiếp khách nữa. Người bạn cũ của ông đã về huyện, để
cái xe bình bịch lù lù giữa sân. Bên ngoài cũng có mấy chiếc xe hòm của mấy ông
chủ báo thân hành đi điều tra quãng đê vỡ, và được ông quan sở tại mời về nhà
tiếp đãi. Suốt ngày hôm ấy, ông huyện đã phải lo việc quan công sứ cùng ông
chánh lục lộ Bắc Kỳ về tận nơi. Ông đã bù đầu, trớn mắt, khổ sở, vất vả, lao
tâm lao lực, cũng như những ông quan sở tại khác lúc gặp nạn vỡ đê vậy.
Bởi những lẽ ấy, bà huyện và Kim Dung cũng đã đầu tắt mặt tối như vào lúc nhà
có giỗ tổ. Nào là lo cơm khách, lo nước nôi, tiếp những người có việc cần đương
đi tìm ông huyện mà không được gặp, và nhớ những lời yêu cầu hay mách bảo của họ
nữa. Vì không hiểu rõ, bà huyện đã oán chồng về chỗ đi lưu ngay mấy ông chủ báo
là khách lạ, giữa lúc việc quan đương bận rộn, nhà cửa đương tíu tít... Ba ông
chủ báo, ông nào cũng có phóng viên, thợ ảnh, tài xế kèm theo! Vị chi hơn chục
người, mà lại không ghép cùng ngồi một bàn được, thành thử cơm nước phải tách
riêng ra một mâm cho các ông tài xế. Mà các ông cũng chạy đi chạy về tới tấp,
người này đi tìm người kia, ông kia đợi ông khác nữa, việc tiếp đãi cho khỏi sơ
suất thật là khó nhọc biết bao, nguy hiểm biết bao! Theo cái trí xét đoán của
bà huyện thì "nhà báo" là một bọn người láu lỉnh kiểu cách đáng sợ,
chỉ làm cái nghề đi nói xấu thiên hạ, và "bán nói mà ăn" nên bà lo lắng
hết sức.
Kim Dung cũng nghĩ như thế.
Phải đem tài nữ công ra dùng một cách quá sức, nàng đã - như lời bà mẹ mắng - mặt
sưng mày sỉa mất cả một ngày, Dung đã không cãi nửa lời, vì tuy mắng con thì mắng,
chứ chính bà mẹ cũng thế. Vì lẽ suốt ngày nàng vẫn băn khoăn để tâm đến người bị
bắt, là Phú, nên buổi chiều, khi mọi việc đã vãn, Dung cáo là nhức đầu để về nằm
phòng riêng. Nàng muốn có một cách đặc tiểu thuyết để cứu vớt người ấy mà chưa
nghĩ ra được thì đã chợp mắt ngủ lúc nào không biết.
Đến khi chợt bàng hoàng tỉnh giấc, Dung thấy một thứ mùi thơm khó hiểu man mác
cả gian phòng mà mở mắt nhìn, thì, than ôi! Cái phòng của nàng đã không còn là
phòng riêng! Người ta đã để một chiếc bình phong che cái giường của nàng để mà
bày ở cái sập đối diện một bàn đèn thuốc phiện. Một người đương nằm ngoay ngoáy
tiêm. Dung nghển cổ, vươn tay hé diềm lụa ở bình phong nhìn sang thì đó là bác
Khoát.
Ở phòng bên cạnh, lúc ấy có tiếng nhiều người chuyện trò rất vui vẻ. Dung đoán
chừng đó là những ông nhà báo chưa đi đi cho. Nàng tự hỏi một cách lo sợ:
"Không biết họ đóng đô ở nhà này bao nhiêu lâu nữa? Nếu bố mình cứ ân cần
mời mọc mãi thì đến chết mất thôi!".
Dung đương nghĩ thế thì cánh cửa từ từ mở. Ông huyện rón rén vào phòng một cách
lén lút, lại đóng cửa lại một cách êm ả như phải làm một sự bí mật.
- Mau lên! Nguội cả rồi đây.
- Mày hút liều nào chưa, Khoát?
- Đã.
- Chết! Không có thuốc phiện thì đêm nay tao gục mất!
- Họ sắp ra đi chưa?
- Ýhẳn còn chờ tao điều đình cho rạch ròi thì họ mới ra đi.
- Thôi hút đi đã rồi hãy nói, nguội cả rồi!
- Con bé cháu nó ngủ hay thức thế mày?
- Vẫn ngủ.
Thấy bố hỏi thế, Dung vội lặng lẽ nằm xuống, để cái quạt lên mặt. Nàng càng lắng
tai nghe thì lại càng hiểu những cái ích lợi to tát của báo chí. Bên kia cái
bình phong, hai người vẫn thì thào hỏi, đáp:
- Thế mày đã nói chưa?
- Chưa tiện dịp. Có một tờ đòi đúng một cái đỉnh thì mới chịu đăng cái ảnh của
tao lên trang nhất.
- Ảnh nào? Cái ảnh chụp mày lúc giẫm đất, mặc áo trắng dài ấy à.
- Phải, cái lúc đương nghỉ trưa ở điếm mà đê núng ấy. Còn hai tờ kia không có ảnh
thì chỉ đòi năm chục mỗi tờ một bài tường thuật. Tổng chi họ đòi tất cả hai
trăm, nghĩa là ngót hai chục cái abonnemènts hàng năm.
- Thôi thì cố lo đi cho được công việc vậy.
- Tao cũng nghĩ thế. Nhưng chưa có tiền. Để lát nữa tao ra điều đình bằng cách
ký vào giấy mua năm rồi trả sau vậy. Có thế họ mới chịu làm to chuyện phu hộ đê
định đình công.
- Thế quan trên về xem có nói gì không?
- Có! Thằng xồm cứ chửi mãi tao là sao nhãng thì có ức không hử mày? Mà anh
chánh thì nhất định bắt hàn khẩu ngay ngày mai, trần tình thế nào cũng không
nghe. Kiếp làm quan khổ thật!
- Ừ, thế mày có nhớ cho tao cái khoản bốn nghìn cái bao gai với hai nghìn tấn gạo
sắp mốc đấy không?
- Gớm, thôi mày đừng làm khổ tao nữa! Tao làm gì được cơ chứ? Giữa lúc ông tai
nạn thế này mà bạn hữu cứ như mày thì đểu thật!
- Rõ quân vô ơn chưa! Ông thử hỏi không có ông ở đây hôm nay, ai tiếp khách cho
mày nào?
Đến đây tiếng vo vo của dọc tẩu tạm làm gián đoạn sự xích mích của hai người bạn.
Rồi lại thấy ông huyện nói:
- Bao gai thì mày về sở Công chính Hà Nội mà hỏi! Gạo thì mày lên tòa sứ mà bỏ
thầu! Hiện giờ gạo hẩm chỉ có bốn đồng một tạ, gạo của mày đã sắp mốc thì cứ
năm hào hay một đồng kém dưới thời giá thì còn ai tranh được nữa mà sợ!
- Ừ, thôi được rồi, hút đi!
Sau đó, ông huyện lại ra phòng khách. Độ nửa giờ về sau, Dung thấy những lời
chào hỏi tiễn biệt rất ân cần vang lên. Rồi tiếng động cơ của chiếc máy xe hơi
văng vẳng lần lượt nổ ở ngoài dinh thất. Nàng nghĩ đến những sự bất chính của
các nhà báo mà ông huyện đã cắt nghĩa mập mờ lúc này thì đâm ra nghi ngờ những
cái tin tức và dư luận của họ trên mặt giấy, cho nên khi thấy họ ra đi, Dung lầm
bầm tự nhủ một cách sung sướng: "Thoát nợ!". Dung toan ngồi lên thì
ông huyện đã lại đẩy cửa bước vào.
Sau khi kéo đến điếu thứ bốn, ông huyện ngồi lên bảo bạn:
- Thôi! Tao ra đê đây! Mày có ra xem thì ra, hoặc có muốn bàn soạn gì không, chứ
đêm nay chắc tao không về ngủ được.
- Ngoài ấy chắc đông người lắm đấy nhỉ?
- Đã cố nhiên! Dân phu đương đan rọ nhồi đất vào bao gai để mai thì hàn khẩu sớm.
Lính lệ có năm thằng tao sai ra đấy cả, lính cơ có mười thằng tao cũng sai ra đấy
mất tám! Mày nên ra, tao vẫn có chuyện muốn bàn.
- Ừthì đi, chứ hút vào rồi thì còn ngủ sao được.
Hai người đứng lên, rót nước uống, hút thuốc lào một cách hăm hở như sẽ không
bao giờ được hút nữa, rồi đẩy cửa phòng bước ra.
Chờ độ năm phút, Dung cũng ngồi dậy. Nàng sang phòng khách. Một tên người nhà ủ
rũ ngồi ngủ gật trên một cái ghế tràng kỷ, dưới một ngọn đèn măng sông đã tối một
nửa búp đa, vì cạn dầu. Qua phòng khách, Dung đẩy cửa vào buồng mẹ thì thấy mẹ
đã ngủ kỹ. Nàng khêu nhỏ ngọn đèn dầu ở bàn rồi rón rén quay ra.
Dung tìm bao diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn
dầu xăng. Nhìn ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi áo. Nàng
đứng tựa cột dưới mái hiên ít lâu, lại quay vào phòng riêng thay đôi guốc lẹp kẹp
để đi vào dép dừa, Dung tự bảo: "Đi mất tám anh lính cơ thì có hai. Một
anh đã phải gác cửa dinh, ắt chỉ còn có một gác lô- cốt. Việc trinh thám của ta
như vậy là có giời giúp, ắt không nguy hiểm gì cả". Nghĩ thế rồi nàng bạo
dạn xông pha cái màn đen của đêm tối, trông thẳng lô- cốt mà tiến. Giẫm trên cỏ
ẩm ướt hơi sương, dép của nàng êm ả như đi trên nhung.
Bỗng từ xa đưa lại một tiếng "keng" khá to. Đó là người lính cơ gõ
vào một miếng sắt treo dưới hiên của cái nhà chứa súng đạn ấy, tỏ rằng mình vẫn
đủ phận sự thức đêm để canh gác 10 khẩu súng và 1200 viên đạn của bạn đồng ngũ
thuộc quyền quan huyện.
Sợ bị trông thấy, Dung vội nấp sau một cây cọ, trước khi tiến, hãy nghe ngóng
xem sao đã. Trống ngực nàng bắt đầu đập thình thình. Không thấy gì nữa, Dung lại
có can đảm, bỏ cây cọ mà lần đến một cây bàng cổ thụ cách đấy hai mươi thước.
Lúc ấy, người lính cơ nằm trên ghế vải dưới hiên lô- cốt. Hắn đương kéo một hơi
thuốc ở cái điếu cầy.
Một ngọn đèn dầu treo ở một cột hàng hiên chiếu ra chung quanh một vòng ánh
sáng yếu ớt, nhưng về phía Dung, may sao lại bị dãy cột che lấp.
Trông thấy ánh sáng, Dung vội nghĩ đến quần áo nàng mặc. May sao tình cờ hôm ấy
nàng lại mặc quần thâm và áo dài màu hạt dẻ. Nàng đương mừng rỡ, lại cho sự
tình cờ ấy là cũng "có người giúp" thì chợt một cánh cửa ở lô- cốt bị
đẩy, một ít ánh sáng hiện ra trong khung vuông. Dung vội vàng náu mình sau gốc
bàng.
Có tiếng nói:
- Nó ngất đi hay nó chết đấy?
- Việc gì mà nó chết! Kệ mẹ nó nằm đấy!
- Có cùm chân nó không?
- Thôi, đêm nay tha cho nó.
- Quân này, ôn con mà đã gan hơn tướng cướp!
- Gan bằng cóc tía nữa thì cũng tối mai là phải xong cái khẩu cung.
Ló đầu nhìn, Dung thấy đó là hai người. Một người mặc áo dài, tiếng nói đích là
tiếng ông lục sự. Còn người kia mặc áo tây vàng, thì dễ thường là anh Cạp, một
tên mật thám của ông huyện, sự khủng bố của bọn phạm nhân. Tuy hắn là tay sai của
bố mình, Dung cũng ghét hắn hết sức, vì hắn nổi tiếng là tàn ác. Dung rùng mình
nghĩ đến người thiếu niên nàng định cứu vớt, hẳn đã bị hành hạ bởi con người
không có quả tim kia.
Đến đấy, cả hai cùng bước ra khỏi phòng giam, ông lục sự thì cắp cặp giấy má,
anh Cạp thì tay xách một chiếc ghế mây, tay kia bưng một cái đèn con. Sau khi
ông lục sự lách cách khóa cửa, cả hai đến chỗ anh lính cơ nằm. - Này đây chìa
khóa! Canh gác mà ngủ gật thế! Ông lục sự nói xong bèn đập cái thìa khóa đánh
chát một cái xuống thành ghế vải. Anh lính cơ hoảng hốt đứng phắt lên, mồm kêu:
"Vâng, cụ để đấy con xin!" Rồi anh ta vớ ngay dùi, lại đập vào miếng
sắt treo ngang đầu một tiếng keng, xong anh ta lại hút một mồi thuốc lào. Sau
cùng thì chờ khi ông lục sự và người giúp việc ông đi khuất sau một cái hàng
rào, anh ta lại nằm vật xuống ghế vải, quên khuấy cả chiếc thìa khóa bỏ ở thành
ghế.
Đứng nấp sau gốc bàng, căn cứ vào những điều tai nghe mắt thấy, Dung nhận ra rằng
dễ thường cái việc trinh thám suông của nàng có thể là một việc giúp cho tội phạm
vượt ngục! Ừ, nếu có thể thì sao lại chẳng giúp cho người ta vượt ngục?
Lúc ấy, tâm hồn Dung say sưa trong cái thi vị của sự dự định, nó có vẻ tiểu
thuyết lắm, Dung cứu vớt được một người! Người ấy sẽ suốt đời nhớ ơn Dung, phải
lòng Dung, nhưng mà Dung thề trước là sẽ không yêu đâu. Do một sự đùa nghịch của
nàng, cả một gia đình sẽ thấy hạnh phúc! Thật là một cử chỉ nên thơ! Thốt nhiên
nàng nhớ lại rành mạch một truyện đoản thiên của Guy de Maupasạant trong đó một
vị công chúa Nga la tư, trong một chiếc tàu đắm, đã cứu vớt được người đàn ông,
để cho về sau người này cứ theo đuổi ân nhân của mình bằng một mối tình đau đớn,
kín đáo và ôm hận suốt đời, khi ân nhân chết. Sao Dung lại không như vị công
chúa Nga?
Sao người thiếu niên này lại không có thể nhớ ơn được như người đàn ông tả
trong truyện?
Một sức mạnh huyền bí của tiểu thuyết làm cho Dung bạo dạn rón rén đến gần cái
ghế của người lính cơ. Người ấy đã lại ngủ, Dung khẽ rón lấy cái thìa khóa.
Nàng lần đến cửa phòng giam, nó cách xa chỗ người lính ngủ đến mươi thước. Dung
mở khóa, khẽ đẩy cửa. Nàng đánh diêm...
Ngồi xệp dưới đất, tựa lưng vào tường, Phú đương thở hổn hển bỗng phải trố mắt
kinh ngạc.
Cái diêm tắt. Dung đánh cái diêm thứ hai. Như một cái máy, Phú đứng lên. Dung
trỏ tay ra cửa. Phú bước ra ngoài bậu cửa. Dung ra theo, rồi cánh cửa lại khóa
trái lại.
- Cứ đi theo tôi.
Rồi Dung dẫn Phú đi loanh quanh trong vườn. Đến một cái cổng nhỏ, Dung mở cổng.
Rồi khẽ nói:
- Vỡ đê rồi! Mau về làng mà cứu lấy gia đình. Đi đi!
Phú đứng tần ngần hồi lâu, tưởng mình đang trong mộng. Đoạn run run kính cẩn hỏi:
- Thưa cô, cô là ai?
Dung khẽ cười mà rằng:
- Một nàng tiên xuống cứu người lâm nạn.
- Thưa cô...
- Thôi, không được hỏi gì nữa! Trốn ngay đi cho mau! Nội đêm nay không khỏi
vùng này, ắt chết! Đi!
Phú hấp tấp nói rất cảm động:
- Tôi xin nhớ ơn đến chết.
Rồi đi, đi... không trông thấy người ấy nữa. Dung đến một bờ giếng, vứt cái
chìa khóa xuống giếng. Sau cùng, nàng về phòng riêng với cái sung sướng đã làm
được một việc ghê gớm, cái sung sướng ngây thơ của những thiếu nữ nông nổi
trong một lúc cao hứng muốn chơi đùa.
CHƯƠNG VIII
R
a khỏi huyện lỵ chừng nửa cây số, Phú đương lần mò trên đường
đê, trong cái đêm trường đen mù mịt, tâm thần xúc động rất mạnh vì cái việc vượt
ngục trong một trường hợp phi thường, óc còn rối loạn bởi trăm nghìn mối lo sợ
vu vơ, hai đầu gối nhức nhối như sắp rời ra, thì bỗng nghe thấy ở phía sau lưng
văng vẳng từ xa, có tiếng chân người rộn rịp giẫm trên mặt đất... Tiếng động mỗi
lúc một gần. Phú vội vàng rẽ xuống dốc đê ngồi thụp trên bãi cỏ, tưởng chừng đó
là hàng trăm tuần tráng, binh lính đi lùng bắt mình vậy.
Từ dưới dốc đê nhìn lên, thị quan cố sức chú ý, Phú thấy bên mặt đường, dưới những
vệt đen cong queo là những cây xoan mảnh khảnh, hiện ra bóng dáng một tốp người
lặng lẽ cúi đầu rảo cẳng bước đi. Đến khi tới chỗ Phú nấp, có một tiếng người
thì thào nói:
- Thôi, dừng chân nghỉ tạm đi! Đã được khối đường đất rồi.
Lại có tiếng một người đàn bà the thé:
- Về được đến sáu cột lô mét, cách xa chỗ đê vỡ rồi!
Nhưng lại có tiếng khàn khàn của một ông cụ già:
- Nhưng mà mới khỏi huyện lỵ có một thí đường đất thì cứ phải đi nữa, kẻo không
tuần tráng họ biết mình trốn phu, họ tống cả lại trình quan thì chết cả nút!
Vốn nhanh trí khôn, biết rằng vượt ngục như mình thì thà đi lẫn vào đám phu trốn
đê còn hơn là đi chơ vơ nguy hiểm, Phú lại cố sức đứng lên nối đuôi vào đám
đông ấy.
Đó là số đông các ông già, đàn bà và trẻ con, trong lúc cuống cuồng của quan
trên, đã bị lý dịch cưỡng bách nhất loạt đi hàn khẩu, và đã thừa cơ trốn tránh,
bởi lẽ ruộng vườn nhà cửa của họ đã bị ngọn nước hủy hoại, lôi kéo đi từ bao giờ
mất rồi. Thêm vào cái vấn đề lương tâm phận sự là điều dân quê không có, lại
còn có sự mâu thuẫn của những lệnh quan truyền xuống, buổi sáng mới thế này mà
buổi chiều đã lại thế khác, cho nên họ có gan trốn tránh, yên trí rằng chẳng trốn
đi cho rảnh thì cũng đến được tha về mà thôi.
Phú hỏi ông lão già:
- Thưa cụ, cụ là người vùng nào?
Không thèm nhìn sang bên cạnh, ông lão cứ vừa thất thểu đi vừa đáp:
- Tôi ở tổng Động Lung.
- Thế ra cụ với con là người cùng hàng huyện.
- Phải.
- Bẩm, vỡ đường vỡ sá như thế này, huyện nhà có thiệt hại lắm không?
Ông lão, trước một câu hỏi mà ông cho là ngẩn ngơ đáng lộn ruột, phát bẳn mà gắt:
- Nhà bác ngu lắm! Vỡ đê, ngập lụt mất cả chín tổng, thì ắt là phải thiệt hại,
chớ lại còn phải hỏi gì nữa! Nhà bác mới ở trên giời rơi xuống đấy à?
- Thưa cụ, con làm ở đê đã năm hôm nay, nào con có hiểu gì đâu? Chỉ biết là vỡ
đê thôi, nay gặp cụ ở làng ra, con mới phải hỏi.
- Đấy thì bác trông mà xem. Chỗ nào cũng trên thì giời dưới thì nước, cứ trắng
xóa cả một lượt, thế này thì hàng vạn người đói khát hàng tháng.
Mãi đến lúc này, Phú mới kịp nhìn ra hai bên lối đi.
Quả nhiên, một bên thì là sông, một bên thì là đồng ruộng đã bị nước tràn vào,
quãng đê chạy thẳng băng trông mảnh khảnh như một cái đũa nổi trên mặt nước, mà
bọn người trên đê thì thật chẳng khác một đàn kiến bò trên cái đũa ấy. Nghĩ đến
mẹ, chị, và cháu ở nhà, Phú lại lo lắng và hỏi:
- Thưa cụ, thế hôm mới vỡ thì nước tràn vào có mạnh lắm không? Có trôi nhà trôi
cửa đi không?
- Làng nào gần đê thì trôi, làng nào xa đê thì việc gì mà trôi! Cứ hỏi lẩn thẩn!
Từ đây về sau, Phú lặng lẽ cùng đi như mọi người. Chàng biết đó là một ông lão
khổ sở cũng như đa số các ông lão nhà quê khác cho nên có cái tính nết quái lạ
là thản nhiên về những cái tai họa tày đình mà chỉ cấm cảu hay cáu kỉnh về những
sự chẳng đáng bực tức. Phú rảo cẳng tiến lên hàng đầu.
Thấy một người trạc tuổi với mình, chàng hỏi:
- Bác làm đê đã mấy hôm nay?
- Hai ba hôm. Vỡ đường, sốt ruột quá, không trốn về không được.
Ngừng một lát, người ấy nói tiếp:
- Nhà nước định hàn khẩu ngay để rồi phá một quãng đê nào đấy cho nước trút bớt
sang sông Thương. Nhưng mà liệu có cấy tái giá được nữa không? Bao giờ cạn nước?
Ai có tiền mua mạ? Thôi, chẳng qua chỉ khổ thằng khố rách!
Thấy người ấy có vẻ bộc tuệch dễ dãi, Phú bèn hỏi thăm đường đất, và biết được
rằng chàng phải đi chỉ độ bốn cây số nữa thì sẽ tới chỗ một con đê cũ, và sau
khi lại đi hết con đê ấy, chỉ phải đi độ ba cây nữa thì đã về đến làng. Vị chi
tất cả chỉ còn độ bảy cây số là cùng mà thôi.
Thốt nhiên có tiếng một đứa bé kêu với mẹ:
- Bu ơi, tôi đau chân lắm, cái chỗ giẫm phải gai hôm qua bây giờ lại nhức lắm.
Rồi một người đàn bà lại nói:
- Hãy nghỉ tạm một lát vậy, các cụ, các bà ạ.
Ấy thế là người ta cãi cọ nhau huyên thiên. Người muốn đi nữa. Kẻ kêu phải đi nữa
thì nhọc mà chết mất. Nhất là bọn trẻ con. Chúng đã độ chừng mười lăm tuổi trở
lên cả mà cứ nhai nhải đòi nghỉ khỏe nhất. Những đứa không có mẹ, không có chú
thím cùng đi đám ấy, thì chỉ cắn răng ngậm miệng, không có ý kiến gì cả. Còn những
ông lão già thì lại hăng hái cứ đi.
Phú bèn cổ động:
- Thôi cứ nghỉ chân một lát đã, các cụ ạ. Có gặp tuần tráng thì các cụ kêu
phăng rằng: ấy quan cho rằng ông già, đàn bà, trẻ con ở đấy chỉ tổ quẩn chân
người khác nên đã tha cho về, thế cũng xong! Đêm hôm khuya khoắt thế này, tuần
tráng mọi nơi thì đã dồn cả vào chỗ hàn khẩu, còn thừa người đâu tuần phòng các
điếm khác nữa mà sợ. Trên thì giời, dưới thì nước thế này, còn ai đuổi bắt mình
nữa mà sợ.
Nghe lời nói có lý, cái bọn bốn năm chục người đương lôi thôi lốc thốc cắm đầu
cắm cổ bước đi một cách buồn rầu như một đàn cừu ấy, bỗng bảo nhau đứng dừng cả
lại. Cái đói, cái khát, cái nhọc mệt, những nỗi đau đớn về sản nghiệp bị cuốn
theo làn nước, cái lo sợ về tương lai chỉ để dành cho những ngày đói khát tối
tăm, đã làm cho ngần ấy người chẳng nói chẳng rằng, chẳng một lời than vãn, chỉ
tụm nhau hoặc nằm hoặc ngồi hai bên vệ đê, trên cỏ ướt, một cách im lặng gan
góc, tựa hồ ai cũng là một triết nhân can đảm mà chịu số phận, người này hoặc
là đau đớn không nói được nữa, kẻ kia có lẽ không nói gì cả để mà đau đớn, thế
thôi!
Thấy chung quanh mình có mấy người nằm thẳng cẳng ra, Phú cũng gập tay làm gối,
co ro nằm nghiêng trên cỏ. Chàng phải ngạc nhiên hết sức ở chỗ nhận thấy rằng
lúc đi thì không sao, mà lúc nằm nghỉ thì chưa chi cả chân tay mình mẩy lại bỗng
đau mỏi như dần mà hậu môn chàng thì buốt như bị bỏng nước sôi!
Thế là cách tra tấn dã man trong lô- cốt lúc trước lại hiện ra một cách kinh
hoàng như Phú đương thấy trước mắt...
Đêm ấy, hai chân bị kẹp chặt trong cùm sắt, lưng bị mấy trăm con rệp hút máu cắn
nhoi nhói, mặt thì bị đàn muỗi vo vo khiêu khích, Phú cứ oằn oại, cựa cậy, xua
tay đuổi muỗi, tự mình tát mình cũng đã rát cả mặt, đương bực tức đau khổ một
nghìn nỗi, thì cánh cửa bỗng bị đẩy tung ra. Hai người ban sáng lại vào với một
cái đèn dầu, một cái ghế mây và một cuộn thừng.
- Không, chúng tao đánh đập mày không ích gì cả. Không phải đánh được mày là
chúng tao sướng! Nhưng mà mày phải nói, phải thú nhận hết mọi tội, phải tố cáo
những kẻ đồng đảng, nghĩa là phải cho biết những điều mà chúng tao có quyền được
biết! Nghe không?
Rồi họ lặng lẽ tháo cái cùm nặng nề dưới chân sàn lim để Phú phải đứng lên. ý
nghĩ thứ nhất của chàng là sai nha đã làm trái phép, đương đêm không có mặt
quan trên, lại đi lấy khẩu cung ở lô cốt một cách lẩn lút như thế.
Còn đương ngẫm nghĩ thì một cái đá rất mạnh vào bụng đã khiến Phú ngã lăn
chiêng, lặng người đi, vì đầu chàng va mạnh vào thành sàn lim, Phú khặc khừ
đáp:
- Tôi không có gì cung xưng nữa, các ông đã có quyền tra khảo thì cứ việc mà
tra khảo.
Họ bèn bắt Phú cởi quần ra mà ngồi lên ghế mây. Họ trói giật cánh khuỷu chàng
vào với thành tựa của ghế. Họ lại bắt Phú xoạc chân ra để cho họ trói hai chân
Phú vào hai chân của cái ghế mây.
Sau cùng, họ để cái đèn dầu dưới cái ghế, giữa chỗ ngọn khói đen chạy thẳng lên
hậu môn của Phú. Như vậy, họ đã có cách tra khảo cực kỳ hiểm độc, mà lại không
để thương tích gì ở mình mẩy kẻ bị tra khảo, nghĩa là họ có đủ chứng cớ chối
cãi tội ác của họ trước mặt quan trên, nếu những ngược hình trong một nơi kín
đáo như thế mà lại đến tai chính phủ hay quan trên.
Khi họ mới để cây đèn dưới cái ghế, Phú đã toát mồ hôi như những khi sốt rét nằm
kín mít trong chăn.
- Thế nào? Bao giờ mày mới chịu nhận cái tội làm hội kín? Bao giờ mày mới xưng
những tên đồng đảng?
Phú lắc đầu.
Tên áo tây vàng cúi xuống khêu to ngọn đèn. Hơi nóng và khói đen bốc lên, chạy
thẳng vào hậu môn của Phú theo cái lối "tọng vào ruột". Phú thét to một
tiếng thảm đạm vô cùng thì họ lại vặn nhỏ ngọn lửa. Phú không giữ được nước mắt
nữa, biết mình thế là hèn nhưng không tài nào giữ được cho khỏi hèn, rên rỉ kêu
la:
- Giời ơi! Oan tôi lắm các ông ơi!
- Này gan với ông!
Nói xong vẫn ngồi xổm dưới chân Phú, tên áo ngắn lại đưa tay ra khêu to ngọn lửa.
Lần này Phú không kêu được nữa, bị nó trói chặt vào ghế, mà thân thể run bắn
lên đến nỗi rung cả cái ghế, rồi đầu chàng ngả về một bên như chết.
Họ lại vặn nhỏ ngọn đèn.
Đứng khoanh tay trước mặt Phú, viên lục sự già, cái bút máy gài tai, bình tĩnh
nói:
- Tao chờ mày khai thì tao làm nốt biên bản.
Lúc ấy, mười phần hiểu biết, Phú chỉ còn có một. Nhưng chàng giả vờ làm người
chết ngất xem bọn kia có quay trở lại với lương tâm loài người của họ không.
Cho nên khi được cởi trói, bị một bàn tay phũ phàng lay vào vai, Phú vẫn nằm nhắm
mắt, đành phải để cả mình cùng cái ghế ngã và đổ lăn xuống đất. Cái đau vì ngã
còn hơn cái ghê gớm để lửa và khói hun nấu hậu môn. Trước cái ngã ấy, người lục
sự nói:
- Thôi hoãn vậy. Cứ như thế thì đêm mai nó cứ trông thấy cái đèn cũng đủ cung
xưng hết, tội gì rồi cũng phải nhận.
Rồi họ tháo lui.
Rồi cửa ngục bị khóa trái.
Rồi cửa ngục lại mở...
Sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu, Phú tự nhủ một cách quả quyết: "Được rồi, nếu
ta bị bắt lần nữa thì ta cứ khai là con gái ông huyện mở cửa ngục cho ta ra xem
sao!" Cái tiếng oanh thỏ thẻ ấy chính là tiếng của người con gái đã nũng nịu
nói câu: "Thì cậu để yên cho con quan sát mọi sự thì đã sao!" Lúc bị
ông huyện gắt mắng ở điếm, khi Phú bị lính dẫn đến trước mặt viên tham tá lục lộ
về tội đánh người Nhà nước. Phú cho thế là một cách gỡ mình chính đáng, vì nếu
muốn kết tội Phú, trước hết ông huyện hãy buộc tội con gái ông. Biết đâu chẳng
chỉ vì thế mà thoát tù tội.
Phú nghĩ đến đây, vui vẻ quá, quên cả đau, vươn vai đứng lên giục:
- Thôi đi chứ, các ông, các bà! Ngồi nghỉ đến bao giờ nữa?
CHƯƠNG IX
Cái đồng hồ đánh năm tiếng thong thả. Lúc ấy, trời mới hừng sáng. Ông huyện ở chỗ vỡ đê mới về. Ông đã thức cả đêm. Ông đã gắt mắng cả đêm. Ông nhọc. Bây giờ ông không muốn nói gì nữa. Ông ngồi dựa ghế, nghe lời trình của viên lục sự già, thỉnh thoảng lại lắc đầu, lại xua tay, lúc nào cũng như không muốn để tai nghe.
Người ta đã dùng cái phòng khách của ông huyện để thiết công đường. Sớm quá, vả,
vì lẽ phải giữ kín, nên trong số nha lại họp mặt tại tư thất quan huyện chỉ có
viên lục sự già, anh Cạp, người mật thám riêng của ông huyện, một ông nho, và
anh lính cơ gác lô- cốt đêm qua. Mọi người trình bày công việc của mình để cho
rõ đầu đuôi cái việc bí mật ghê gớm kỳ quặc chưa từng có bao giờ là cái việc vượt
ngục của Phú.
Viên lục sự già chỉ vào anh Cạp ra ý phân bua và kể lể:
- Bẩm quan lớn, ấy đầu đuôi tra khảo là như thế, rồi chúng tôi hoãn việc khẩu
cung là như thế, khóa cửa và giao thìa khóa trả cho lính cơ là như thế.
Anh Cạp cũng sửng sốt:
- Bẩm... nó vượt ngục như thế thì dễ thường nó có phép tiên, chứ cửa con đã
khóa trái kỹ lưỡng, mà lúc anh lính cơ vào khám tù thì phải phá ổ khóa mới vào
được.
Sau khi hai người đã khai rành mạch như vậy rồi thì trăm nghìn tội lỗi đổ nặng
trĩu cả vào đầu bác lính cơ gác đêm.
Đứng trước bàn ông huyện, hai tay bác chắp lại, mắt bác chỉ dám nhìn xuống đất.
Bác hết sức hy vọng rằng quan nên xét đến cái chỗ tài tình của kẻ vượt ngục thì
tội sao nhãng của bác cũng được giảm. Nhưng xem ý quan lại càng ngờ rằng trong
vụ này, ắt có kẻ đồng mưu, chứ một kẻ vượt ngục chẳng khi nào lại có phép tàng
hình mà vượt ngục được như thế!
Sau khi khoan thai kéo một mồi thuốc lào rõ dài, sau khi nhìn vào đám khói xanh
như muốn hỏi một điều gì bí mật, quan huyện từ tốn một cách đáng sợ, bảo tên
lính:
- Bây giờ đến lượt mày. Mày canh gác ra làm sao? Mày ngủ những lúc nào? nói ra
cho rành mạch!
Anh chàng này bỗng cũng đâm ra run sợ, lưỡi ríu lại, thật cũng lúng túng chẳng
kém một người cả đời chưa lần nào ra cửa quan.
- Bẩm quan lớn, con nhận rằng vào khoảng gần một giờ đêm thì ông lục và bác Cạp
quả có từ lô- cốt ra, có đi qua chỗ con nằm và có để vào bên thành ghế của con
cái thìa khóa cửa. Lúc ấy, tuy tay con không cầm đến, nhưng quả có nghe thấy một
tiếng cách hẳn hoi. Bẩm thế rồi... lạy quan lớn trăm lạy, con nhọc mệt quá, lúc
nào cũng ngủ dở thức dở, có lẽ ngủ nhiều hơn thức con không dám chối, nhưng mà
hễ thức là có đánh kẻng làm hiệu ạ. Đêm hôm ấy, con quên khuấy mất cái thìa
khóa! Sáng sớm vùng dậy, không thấy thìa khóa đâu, con mới vội vã sang bên ông
lục sự con trình... Ông lục sự con nghĩ ngay đến tên can phạm, liền gọi cửa nhỏ,
không thấy, và phá cửa lớn mà vào, cũng chẳng thấy nốt! Thật là một việc kỳ dị
như có ma!... Bẩm đầu đuôi là như thế, mong quan lớn soi xét.
Đến đây, quan huyện xua tay một cách rất chán nản, nhăn mặt lại một cách rất phẫn
uất, dằn từng tiếng mà nói:
- Tôi thì công việc đê điều bận rộn là như thế, trông cậy vào có các người ở
nhà... Vậy mà các người thừa hành chức vụ là như thế! Có một tên trọng phạm thì
để cho nó vượt ngục! Có một cái thìa khóa thì mất cả cái thìa khóa! Việc quan
mà các người làm như vậy thì còn ra cái thể thống gì nữa? Trò hề đấy à? Các người
cứ liệu cái thần xác!
Chừng như không chịu nổi lời mắng vơ đũa cả nắm ấy, ông lục sự bèn xích ra đứng
giữa phân giải:
- Bẩm quan lớn, việc đã xảy ra đến như thế này, âu là xin quan lớn cứ việc thẳng
tay cho, đứa nào có lỗi đứa ấy sẽ chịu lỗi. Xin quan lớn tư lên tòa sứ đem một
vài người ở sở Liêm phóng Hà Nội về mà mở cuộc điều tra. Chứ một vụ vượt ngục
như vụ này không phải là sự thường. Khóa vẫn y nguyên mà phạm nhân ra ngoài lúc
nào không ai biết, như vậy, trừ phi có kẻ tòng đảng thì không sao có được một
việc lạ lùng nhất từ cổ chí kim như thế được.
Ông huyện bưng đầu ngẫm nghĩ một lúc lâu rồi chỉ nói:
- Ông lục sự ở lại đây... còn thôi, cho chúng bay lui cả!
Người lính cơ và người mật thám riêng vái dài một cái, đoạn rủ nhau đi về công
đường, cái miệng cứ bình phẩm bô bô mãi về sự quan huyện không quở trách gì cả...
Còn lại một ông lục sự già, ông huyện bèn thở dài ngán ngẩm mà rằng:
- Ông lục ơi, phen này thì chết cả mất thôi!
Cái giọng than vãn của ông huyện có một vẻ rền rĩ, một vẻ ảo não đặc biệt, đến
nỗi bỗng đâu viên lục sự già cảm thấy đủ tất cả sự nghiêm trọng của lời trách cứ.
Đến lúc ấy, lão mới nói thẳng rằng cái trách nhiệm của mình tuy là gián tiếp mà
cũng đủ nặng nề như một vấn đề lương tâm. Ông huyện lại nói:
- Chết thật! Trông đê thì đê vỡ, giữ tù thì tù sổng! Làm quan đến lúc này mà
chưa bị cách thì còn đến bao giờ nữa mới bị cách?
Lúc ấy, Dung bước vào phòng khách, tay cầm một mẩu giấy nhỏ. Nàng trù trừ một
lát rồi nói:
- Thưa cậu, đây là giấy của bác Khoát, lúc ra đi có viết lại mấy chữ và bảo con
đưa cho cậu.
Ông huyện cầm lấy, không đọc vội, lại nhăn nhó, nói với ông lục sự già:
- Như ý ông thì cái việc quái ác này liệu có ai dính vào không? Thằng lính cơ
hay thằng Cạp?
- Tôi có nghi thì tôi nghi nhất cho thằng lính cơ. Vì thằng Cạp thì ngay đêm ấy,
nó đánh tài bàn cả đêm ở nhà tôi...
- Bây giờ ta làm thế nào?
- Theo ý tôi thì trói cổ thằng lính cơ lại mà khảo để cho kỳ bao giờ nó cung
xưng thì thôi.
Nghe thấy thế, Dung hãi hùng vội phải vờ lúi húi tìm tòi một vật gì đó trong tủ
chè. May sao không bị bố để ý đuổi ra. Dung liền tìm được một mẹo để cứ ngồi
trong phòng khách, nghĩa là chuyên chè từ bao này sang bao kia. Nàng lắng tai
nghe chuyện. Người lục sự già tiếp:
- Một mặt nữa thì cho thằng Cạp và một ít lính tráng nữa đi tróc nã phạm nhân,
vì hắn đi tất cũng chưa xa. Cái thẻ thuế thân của nó còn đây, ta cứ việc cho
lính về tận nguyên quán...
Ông huyện ngơ ngác gặng hỏi một lần nữa:
- Ông chỉ nghĩ được có thế thôi à? Không phải trình sứ việc vượt ngục à?
Người lục sự già đáp:
- Việc trình sứ hay không là tùy quan lớn, còn tôi, ngụ ý là như thế đó.
Ông huyện lúc ấy đứng lên, dõng dạc:
- Không! Không và không!
Ông chắp tay sau lưng, đi đi lại lại:
- Nếu để việc vỡ lở to ra thì không những chỉ nguy cho tên lính cơ, hay cho ông
mà thôi, nhưng mà chết lây đến cả tôi nữa! Nếu mình trình sứ ắt tòa sứ phải báo
sở Liêm phóng Hà Nội. Như vậy thì có phải rõ thật bỗng dưng "lạy ông tôi ở
bụi này" không? Phải giải quyết bằng cách khác... Cái gì nhất cử lưỡng tiện
mới được.
Viên lục sự cũng lên tiếng:
- Vâng, nếu vậy thì cũng còn cách khác... Mà cũng chỉ còn có một cách.
Ông huyện cũng nói tiếp một cách mập mờ:
- Có phải thế không hở ông?
- Tuy nhiên cũng phải tra ra cho kỹ cái án này chứ không thì ức lắm.
- Ông nói có lý đấy! Nếu mình không ra oai một bận cho quân khác nó noi gương
thì không xong... Vậy thì ông sửa soạn đi, rồi để tôi ký một chữ.
- Bẩm, thế tôi xin ra lấy hồ sơ ở công đường.
- Phải.
- Bẩm lạy quan lớn, chốc nữa tôi xin đem cả vào đây.
- Phải phải! Thế tốt lắm. Mà ông dặn chúng không được tiết lộ...
Người lại già đã đi khỏi, quan lúc ấy để nguyên áo dài nằm thẳng cẳng trên trường
kỷ, vừa ngáp vừa bảo con gái:
- Quạt cho cậu mấy cái đây, con ơi!
Vâng lời, Dung ngồi phía dưới chân bố, phe phẩy cái quạt lông, ông huyện chập
chờn dở ngủ dở thức, trí não đương vật lộn với trăm nghìn cái dấu hỏi. Ông
đương lo lắng về nỗi vỡ đê. Cứ như những tin ông nhận được thì phủ Thông sứ đã
cho ông là sao nhãng, định đưa ông ra một hội đồng kỷ luật, và trước khi ấy, sẽ
huyền chức ông trong một năm hay là cất chức ông mà gọi tạm về làm bàn giấy ở
tòa sứ... Chưa biết đích xác, ông đã phải hết sức xoay xở, cựa cậy, vận động
thì... chưa chi lại xảy ra cái vụ vượt ngục ghê gớm này! Ông căm tức bọn nha lại
dưới quyền ông đến nỗi cổ ông ắng lại, lưỡi ông đờ ra, không nói gì được nữa,
ông đã tưởng cái chức tri huyện thật là đến lúc "bương". Nhưng phàm
người ta, bao giờ cũng vậy, có gặp lúc nguy nan thì mới thấy nảy ra cái trí
sáng suốt phi thường. Tù vượt ngục, ông có khi nào lại chịu cái trách nhiệm để
tù sổng. Đã thế thì, nào, ông lục già! - Mời ông hủy cái khẩu cung cũ, lập cái
khẩu cung mới trong đó người ta không buộc được kẻ khai cung lấy một tội nhỏ, nếu
đó không là một tội vi cảnh, rồi người ta ký giấy tha bổng cho phạm nhân! Phú
vượt ngục? Không! Phú được tha chứ không phải vượt ngục!
Nghĩ thế, ông huyện cũng thấy lối cai trị ấy là khôn khéo. Nhưng ông không khỏi
lấy làm kinh hoảng mỗi khi ông lại phải nghĩ rằng cửa lô- cốt vẫn khóa mà tên
can phạm lại không biết chui đường nào mà ra.
Tòng đảng? Cái đó đã hẳn, nhưng mà ai? Không lẽ chính là tên lính cơ! Mà nếu
không là tên lính cơ thì ắt hẳn phải một hoặc là nhiều người khác... Ông huyện
rùng mình nghĩ đến những đảng chính trị bí mật... Nghĩ đến những đứa ấy, bụng dạ
ông hình như phấn khởi lại vừa sợ hãi. Ông nghĩ đến cái đột ngột của một vụ Yên
Bái, một vụ Lâm Thao... Ông nghĩ đến ông huyện Hoàng Gia Mô. Phải, trước khi xảy
ra những việc như thế, không bao giờ người đời lại dám ngờ rằng sẽ có khi xảy
ra những việc như thế.
Người ta cứ chờ những việc ấy nó xảy ra rồi thì người ta mới ngơ ngác hoặc là
há hốc mồm ra mà nhìn nhau, thế thôi. Cái khôn ngoan của người quân tử là lo xa
đến những điều ấy, trước khi những người trong thiên hạ kịp để ý đến.
Đã thế thì... "Phải tha! Phải ký giấy tha!" ông huyện nghĩ thế xong lại
thấy cái cần tự mình dặn mình rằng từ rày trở đi, gặp những kẻ có óc chính trị,
ông phải dè dặt lắm mới được. Nếu ông day tay mắm miệng lắm, có khi chỉ thiệt
thân riêng cho ông chớ chẳng ích gì!
Còn đương nghĩ ngợi thế thì viên lục sự già đã vào với một tập bìa trong có
biên bản, hồ sơ, giấy má, công văn... Lão đưa cho ông huyện thì ông này ngồi nhỏm
dậy, lục đến những giấy má dính dáng đến Phú. Ông đưa mắt một lượt so sánh hai
cái khẩu cung, một cái mà lão lại thảo có Phú, một cái mà lão chữa lại khi Phú
đã trốn thoát... Ông mỉm cười, vỗ đùi khen: "Khá lắm! Thật là lý sự đủ giọng..."
Sau cùng thì ông ký tên ông vào chỗ tha bổng cho bị cáo nhân. Chỗ ông ký tên, cố
nhiên người ta đã đóng ấn của huyện đường mà đề ngày trước cái ngày Phú vượt ngục.
Ông quan trẻ và viên lại già, sau một việc như thế, nhìn nhau âu yếm, người thì
hứa sự che chở, kẻ thì hứa sự trung thành. Thu xếp được ổn thỏa một việc vượt
ngục ghê gớm như thế - mà việc ấy chẳng phải là không để một cái mầm tai họa
cho mai sau - người ta thấy cần đem tên lính cơ sao nhãng ra tra khảo cho bõ.
Một lệnh của quan vừa truyền xuống, bọn lính tráng đã dậm dạ inh tai. Mười phút
sau, tên lính cơ đã gác lô- cốt đêm qua bấy giờ bị bạn đồng ngũ của hắn đè sấp
ngay ở phòng khách trong tư thất nhà ông huyện.
- Có một việc canh tù mà lại để sổng tù à? Chúng bay đánh nát đít nó ra cho
ông! Chúng bay đánh cho chí kỳ nó cung xưng cái tội thông lưng với tù, mở cửa
nhà pha thả tù ra, cho ông xem!
Người lính, trước còn kêu, sau mê man đi, không biết trời đất là gì nữa. Bốn
người lính cơ khác thay tay nhau mà cầm côn nện vào đít anh ta. Nằm dài trên kỷ,
ông huyện như không để ý đến cảnh tra khảo trước mắt.
Nhưng mà Dung đã đứng phắt lên rồi! Nàng không nhìn nổi cảnh tượng gớm ghiếc ấy
nữa! Nàng kêu với bố: "Thưa cậu, cậu sang ngay đây lập tức, con hỏi có việc
cần lắm". Biết là có chuyện hệ trọng, ông huyện vội theo con gái sang
phòng bên. Nửa giờ sau, ông ra chỗ "công đường", hoãn lệnh đánh người
lính cơ, ôn tồn hiểu dụ cả bọn lính:
- Đấy, chúng bay xem, có tội thì phải nọc cổ ra đánh. Nhưng mà vì muốn cứu mày,
vì muốn thương mày, tao đã phải chữa lại công văn, ký giấy tha cho phạm nhân để
gỡ cái tội sổng tù của mày! Ngồi lên lạy tạ ông đi!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét