Bàn thêm về cách hiểu chữ
"Ngưu" trong một câu thơ
cổ
(Bài "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão)
Phạm Ngũ Lão [范五老] (1255 - 1320) quê ở làng Phù Ủng,
huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi), tỉnh Hưng Yên, thuộc tầng lớp bình
dân. Năm ông ngoài hai mươi tuổi, Hưng Đạo Vương thấy ông là người có tài,
tin dùng trong nhà và đem con gái nuôi gả cho. Sau Phạm Ngũ Lão làm đến chức Điện
suý thượng tướng quân, được phong tước Quan nội hầu. ông có nhiều công lớn
trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Bên cạnh tư cách một vị
tướng tài ba "Không chỉ chuyên về võ mà dụng binh thì khéo léo thần
diệu, đánh là thắng, người xưa không hơn được" ([1]), Phạm Ngũ Lão còn là một thi nhân mặc dù
thơ ông hiện nay chỉ còn lưu lại vẻn vẹn hai bài: Vãn Hưng Đạo đại vương và Thuật
hoài. Thế nhưng với số lượng hai bài ít ỏi ấy, Thuật hoài [述懷] lại
là tuyệt phẩm của dòng thi ca yêu nước được nhiều người truyền tụng.
Nguyên tác chữ Hán
橫槊江山恰幾秋
三軍貔虎氣吞牛
男兒未了功名債
羞聽人間說武侯
Phiên âm
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hồ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
Dịch nghĩa
Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu.
Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh,
Thì luống thẹn thùng khi nghe chuyện Vũ Hầu.
(Bản dịch nghĩa trong Ngữ văn 10, NXB GD, 2006)
Đây là bài thơ đã được đưa vào chương trình Văn phổ thông từ
rất sớm. Tuy nhiên theo từng thời điểm thì cách hiểu về câu thơ: Tam quân
tì hổ khí thôn Ngưu [三軍貔虎氣吞牛] lại không phải lúc nào cũng đồng
nhất bởi từ ngưu 牛 trong câu thơ ấy có hai
nghĩa: con trâu và sao Ngưu (Một vì sao trong Nhị thập bát tú [二十八秀]).
Cách hiểu thứ nhất: Ba quân mạnh như hổ báo hào khí xung
thiên làm mờ cả sao Ngưu. Cách hiểu này được nhiều nhà nghiên cứu như: Trần
Trọng Kim, Trần Đình Sử, Phan Hữu Nghệ…tán thành. Cách hiểu này có căn cứ của
nó, bởi trong Hán Ngữ có thành ngữ Khí thôn Ngưu Đẩu 氣吞牛斗 -
hùng khí có thể át cả sao Khiên Ngưu và sao Bắc Đẩu. Sau này trong bài thơ chữ
Hán của Hồ Chủ Tịch, bài Đăng Sơn 登山cũng đã viết:
義兵壯氣吞牛斗
誓滅侵凌豺狼軍
Nghĩa binh tráng khí thôn Ngưu Đẩu
Thệ diệt xâm lăng sài lang quân
(Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy) ([2])
Và cách hiểu này cũng đã từng được thể hiện trong bản dịch
sách Văn học 10 (NXB Giáo dục, 1998):
Vung giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh át sao Ngưu
Công danh trai trẻ còn vương nợ
Luống thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu
Sau này khi chỉnh lý hợp nhất thì ở sách Văn học 10 (NXB
Giáo dục, 2000) các soạn giả vẫn giữ lại cách hiểu trên.
Từ trước đó rất lâu thì trong bộ Việt Nam sử
lược nổi tiếng, học giả Trần Trọng Kim cũng đã dịch:
Múa giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân hùng khí át sao Ngưu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu
Cách hiểu thứ hai: Ba quân mạnh như hổ báo khí thế nuốt trôi
trâu. Với cách hiểu này, các dịch giả đã dựa vào các điển phạm được ghi
trong các sách như Từ nguyên,Thi Tử, thơ Đỗ Phủ. Từ nguyên giải
thích: Thôn ngưu, nguyên khí chi thịnh dã 吞牛元氣之盛也.Ý
nói rằng khí thế rất hào hùng thể thể hiện ở động tác nuốt trâu. Sách Thi
Tử có câu: Hổ báo chi tử, nhi vị thành văn, hữu thực ngưu chi khí 虎豹之子而未成文有食牛之氣. Nghĩa là: Con nhỏ của hổ báo tuy bộ lông chưa thành vằn rõ rệt
nhưng cũng đã được cái khí thế nuốt trôi trâu. Rõ ràng ở đây, không thể hiểu mấy
con hổ báo nhỏ này nuốt sao Ngưu được rồi. Bên cạnh đó, trong thơ Đỗ Phủ có
câu: Tiểu nhi ngũ tuế khí thôn Ngưu 小而五歲氣吞牛(Đứa trẻ mới năm tuổi đã có khí thế
nuốt trâu). Nhà thơ Nguyễn Trung Ngạn đã dùng điển cố này nhằm tự hào về bản
thân trong câu thơ sau:
Giới Hiên tiên sinh lang miêu khí
Diệu linh dĩ hữu thôn ngưu chí
(Giới Hiên tiên sinh tài lang miếu
Có chí nuốt trôi trâu từ niên thiếu) ([3])
Trong bài Thập giới cô hồn quốc ngữ văn [十界孤魂國語文] của
Lê Thánh Tông [黎聖宗] (phần nói về tướng sĩ ) có
câu:
"Lảu hay ba kế, gồm lọn năm tài
Miệng thèm lèm giương dạ nuốt trâu ([4]) "
Trong một bài phú Nôm thời Tự Đức cũng có câu:
"Xếp bút Á kẹp gương Âu
Dạ cần cù gối giáo, chí hăng hái nuốt trâu"
Hiện tại thì sách Ngữ văn 10 (NXB Giáo dục, 2006)
hiểu theo nghĩa này, thế nên các soạn giả đã chọn bản dịch của Bùi Văn Nguyên:
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
(Theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập II – Văn học
thế kỷ X - Thế kỷ XVII, NXB Văn học, Hà Nội, 1976)
Mặc dầu nhận thấy mức độ "tầm nguyên" khá thuyết phục
của cách hiểu thứ hai nhưng chúng tôi vẫn thiên về cách hiểu thứ nhất vì xét về
đặc trưng nghệ thuật văn học trung đại: tính trang nhã ([5]) thì hình ảnh ba quân khí thế át cả
sao Ngưu có vẽ "nhã" hơn và giàu chất thơ hơn. Nó tương hợp với hình ảnh
k2 vĩ của người võ tướng ở câu thơ trên. Người võ tướng với tư thế cầm ngang ngọn
giáo, mà ngọn giáo ấy được đo bằng chiều kích của giang sơn thì ắt hẳn khí thế
của ba quân phải xung thiên làm mờ cả sao Ngưu chứ không nên hiểu một cách quá
cụ thể: ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu sẽ làm giảm đi vẻ đẹp của câu thơ. Đây
cũng chính là điều khiến cho văn thơ thời trung đại cho đến bây giờ vẫn còn sức
thu hút bởi sự đa nghĩa ngay trong chính từng con chữ được chắc lọc bằng cả một
quá trình "thôi xao" hết sức kỳ công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tài Cẩn, Ảnh hưởng Hán văn Lý Trần qua
thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn, NXB Giáo dục, 1998
2. Thiều Chửu , Hán Việt tự điển, NXB Thanh niên,
Hà Nội, 2002.
3. Mai Xuân Hải (chủ biên biên dịch), Thơ văn Lê
Thánh Tông (NXB khoa học xã hội, 1986).
4. Trần Văn Khoái, Hán văn Lý Trần, NXB Đại học quốc
gia Hà Nội, 2001
5. Phan Trọng Luận (chủ biên), Ngữ văn 10, NXB Giáo
dục, 2006
6. Hoàng Như Mai (Tổng chủ biên), Văn học 10, NXB
Giáo dục, 1998
7. Phan Hữu Nghệ, Phân tích văn bản một số tác phẩm
Hán Nôm tiêu biểu, NXB Đại học sư phạm, 2002
8. Trần Đình Sử, Đọc Văn, Học Văn, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2003.
Chú thích:
([1]) Đại Việt sử ký toàn
thư [大越史記全書], Ngô sĩ Liên
([2]) Xuân Diệu dịch
([3]) Nguyễn Tài Cẩn dịch, Ảnh
hưởng Hán văn Lý Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn, NXB Giáo dục,
1998
([4]) Cũng một điều đáng lưu ý
khi chú câu này thì người biên soạn lại hiểu: Nuốt trâu: nuốt cả sao
Ngưu (Xem trong Thơ văn Lê Thánh Tông - NXB khoa học xã hội,
1986).
([5]) Giáo sư Lê Trí Viễn dùng
chữ "cao nhã" để định danh đặc điểm nghệ thuật này
12/6/2011
Trầm Thanh Tuấn
Theo https://vanchuongviet.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét