Đền rùa vàng
Nụ mang ra cho tôi dĩa bánh cuốn còn bốc khói, đặt lên bàn, cất
giọng thanh tao:
"Mời anh"
Tôi nhoẻn cười thay cho lời cám ơn. Cặp mắt mí lót của Nụ liếc
nhìn tôi, nghịch ngợm:
"Bữa nay thua nhiều há!"
"Bị quê cơ", tôi than thở.
"Tại Nụ mà anh quê cơ chứ gì?", Nụ tinh quái.
Tôi nhớ có lần đang chơi bi-da, Nụ từ phòng trong bước ra
xem. Từ lúc đó tôi không chú tâm được nữa. Không "sơn mỏng" được
"giò gà". "Mắt kiếng" lại thụt quá mạnh, không giữ được bi.
Tôi bông đùa, đổ thừa cho Nụ đứng xem khiến tôi bị phân trí.
Nụ không đẹp, nhưng miệng cười có duyên và nói chuyện hiền
lành, không kiểu cách. Tôi không để ý nhiều đến Nụ, nhưng khoé mắt Nụ nhìn tôi
mỗi khi tính tiền và thỉnh thoảng nàng còn nhân nhượng bớt cho tôi vài đồng bạc
lẻ, khiến tôi bối rối không ít. Bạn bè bảo tôi là thằng nhát gái. Tử vi tôi có
sao Đào Hoa và Hồng Loan chiếu mệnh, gái bám phủi không hết, một thằng bạn lý
giải như vậy. Tôi chỉ cười. Tôi nào để tâm tới mấy chuyện này, vì tôi vẫn chưa
quên hình bóng Đoan, người bạn thời hoa niên. Chúng tôi mất liên lạc với nhau
đã nhiều năm nay. Những lá thư tôi gởi đi đều không được hồi âm. Chuyện gì đã xảy
ra cho Đoan? Lấy chồng, vượt biên mất tích hay không còn yêu tôi nữa? Tôi đã khổ
sở với những nghi vấn ấy một thời gian dài. Rồi tôi tự tìm quên bằng cách học
thiền. "Hít vào tâm tĩnh lặng. Thở ra miệng mỉm cười". Nếu trong
chuyện tình cảm, tôi là một kẻ bất hạnh, thì trong chuyện tĩnh tâm, tôi là một
thằng mê muội. Lúc nào cũng vậy, tôi chỉ kiểm soát được hơi thở mình đến lần thứ
hai mươi lăm là đứt phim, những phiền muộn lớn bé lại chập chờn hiện ra trong
trí. Quá khứ cũng như tương lai, thời gian nào cũng có mặt Đoan. Từ quê nhà
sang đến đây, không gian nào Đoan cũng hiện hữu. Và rõ nét không kém là cảnh hồ
nuôi rùa trong một ngôi đền Trung hoa ở Đa kao. Chiều nào xa xưa, tôi và Đoan
sát vai nghiêng xuống ngắm bầy rùa rị mọ chậm chạp trong hồ nước cạn, rêu phủ
xanh rì. Bóng mát cổ thụ toả đằm đằm. Cảm giác bình an, bầu không khí đạo vị ấy
đã hằn vết trong tâm tưởng tôi.
Nhiều năm trôi qua, vết tích ấy vẫn ri rỉ máu.
»Trình, có chơi nữa không?«, một người bạn lớn tiếng gọi.
Tôi gác đũa ngang miệng dĩa, uể oải:
»Không, chán rồi.«
Thế là cả bọn ồn ào chia cặp, cá độ. Tự dưng tôi cảm thấy cô
đơn, nỗi cô đơn của mười hai con giáp không giống con nào. Tôi móc một điếu thuốc,
châm lửa. Ý nghĩ tôi theo làn khói bay lang thang.
»Bánh cuốn hôm nay em làm có được không anh?«
Tôi ngẩng lên. Nụ đứng bên tôi từ lúc nào, mặt tươi rói. Tôi
gật đầu:
»Nụ nấu ăn khéo.«
»Món Bắc, món Nam em đều nấu được, chỉ có món Trung là dở.«
»Anh không biết làm bếp.«
»Xạo! Ở đây lâu như anh, người nào nấu nướng cũng giỏi.«
»Anh là trường hợp ngoại lệ, bất tài vô tướng«, tôi cù cưa.
Môt đứa đang chơi bi-da, chỏ miệng vào:
»Thằng Trình một vợ hai con rồi đó, cô Nụ coi chừng!«
Tôi đứng lên, vỗ nhẹ vai Nụ:
»Nụ vào trong tính tiền cho anh!«
Chuỗi cười chọc ghẹo của lũ bạn bám theo tôi và Nụ vào tới
phòng trong. Quầy rượu lèo tèo vài chai lưng. Hai cái ly ám bụi. Tượng ông thần
tài mập phệ, miệng cười hoài không mỏi. Giàn máy đang chạy một băng nhạc thời
thượng. "Mười năm không giặt tưởng chừng như đã..." Góc bếp
chật hắt thoảng mùi nước mắm. Nụ mở hộp thiếc, lấy ra xấp giấy con xốc xếch.
Tôi ngồi trên ghế cao, nghếch mặt đợi như phạm nhân chờ nghe án lệnh. Nụ lẩm nhẩm
tính:
»Giấy ký sổ của anh từ tháng trước tổng cộng 95 đồng 25 xu.
Tiền bàn bữa nay là... là... để xem... à, 16 đồng 20 xu, cộng với tiền thuốc
lá, bia, cà-phê, nước ngọt và một dĩa bánh cuốn, cả thảy là 24 đồng. Như vậy,
anh thiếu Nụ 135 đồng 45 xu. Anh trả Nụ bây giờ, Nụ bớt cho anh 45 xu.«
»Bớt 5 đồng 45 xu đi!«, tôi kỳ kèo.
Nụ ngước mặt, nhếch môi:
»Bớt cho anh, mấy người khác biết được, họ tị nạnh, khó xử
cho em.«
»Ừ, thôi«, tôi làm mặt tiu nghỉu.
Tôi trả tiền, không khỏi nghĩ tới cái trương mục ốm đói của
mình. Gần năm nay, tôi thất nghiệp. Tôi muốn rên rỉ một ca khúc cũ: "Lòng
buồn dạt dào nhớ hôm nào không tiền tiêu, lái Hông-đa tôi chạy rong...",
nhưng không thốt nên lời, chỉ bật cười khan. Nụ ngẩn ngơ nhìn tôi. Bỗng dưng
tôi thấy Nụ đáng ghét. Khi không bày chuyện mở ra cái hội quán bi-da bi-thịt
này, làm tôi tốn tiền không ít.
Tuy nói không bớt, nhưng khi thối lại tiền, Nụ cũng tính tròn
thành 130 đồng.
»Anh không lấy đâu, anh không muốn vì anh mà em khó xử«, tôi
đẩy đưa.
Chắc lúc đó bản mặt tôi láu cá lắm, vì Nụ bắt tẩy được ngay:
»Thôi đi ông, làm bộ hoài. «
Tôi nhoẻn cười theo kiểu "hít vào tâm tĩnh lặng...":
»Cám ơn Nụ đã phát tâm làm phước, kiếp sau... «
»Ở đây không phải là chùa chiền hay nhà thờ, không có kiếp
trước kiếp sau gì hết«, Nụ ngắt lời.
»Tu chợ mới khó, chớ tu chùa, dễ ợt«, tôi ba hoa.
»Hôm nay anh làm sao ấy. Hến mở miệng«, Nụ nhíu mày.
Tôi kêu thầm, Nụ ơi, tâm sinh lý anh đang xáo trộn, anh đang
cô đơn như một con cọp tuyết, một con đom đóm đực. Cho anh gầm lên một tiếng
rung chuyển cả không gian. Cho anh phát quang một lần rực cả đêm thâu, rồi chết
cũng đành. Và tôi lên tiếng:
»Đêm nay anh đưa Nụ về.«
»Anh nói nghe như hát«, Nụ cười giòn.
Hai má tôi nóng bừng, không hiểu vì men bia còn lại hay vì lời
đề nghị táo bạo của mình. Tôi nói lảng:
»Ừ, hình như có bài hát... «
Rồi tôi ngân nga:
»Đêm nay anh đưa em về. Đường khuya sao trời lấp lánh. Đêm
nay anh đưa em về. Mắt em sao chiếu long lanh... [1] «
Nụ bối rối quay mặt, giấu nụ cười e thẹn. Một lần nữa tôi khẳng
định, không có người con gái nào xấu. Dẫu nhan sắc ai dưới điểm trung bình, vẫn
có đôi lúc thẹn thùng trông duyên dáng lạ.
»Anh uống gì nữa không? Em mời«, Nụ hỏi.
Tôi gật:
»Cho anh một tách cà-phê, uống để giã rượu.«
»Uống nước chanh mới giã rượu.«
»Vậy cho anh một ly nước chanh.«
»Làm biếng lắm, Nụ pha cà-phê vậy.«
»Cà giựt quá!«, tôi buột miệng.
Nụ tỉnh queo:
»Không những cà giựt, Nụ còn cà chua nữa đó anh.«
»Anh thích canh cà chua với trứng.«
»Canh nhà nghèo.«
»Anh đang nghèo kinh khủng.«
»Nghèo mà ham.«
»Ừ, anh có tính ham hố quá độ, chẳng hạn như ham trúng số.«
Nụ cất giọng cười trong trẻo:
»Nếu trúng số, anh sẽ làm gì?«
»Phải làm nữa sao? Nghỉ làm, chỉ chơi thôi.«
Nụ đặt tách cà-phê xuống mặt quầy. Tôi chậm rãi cho đường,
rót sữa, khuấy trầm ngâm. Trí óc tôi bật ra những mộng tưởng. Tôi vẽ vời:
»Nếu anh trúng số, anh sẽ trở thành một trọc phú bần tiện, suốt
ngày đếm tiền mệt nghỉ.«
Nụ xoe mắt:
»Ủa, Nụ tưởng anh có tiền, chỉ lo chơi.«
»Chơi hoài cũng chán, hoang phí riết cũng nhàm, phải keo kiệt
một lần cho thiên hạ biết tay.«
»Anh không thể là một người bần tiện được.«
»Tại sao?«
»Vì anh sẽ không bao giờ trúng số.«
»Chờ xem hồi sau sẽ rõ.« Và tôi đổi giọng triết lý: »Nghèo
hay giàu đều khổ. Nhưng cái khổ của người có tiền dù sao cũng thoải mái hơn, trọc
phú Hoa kỳ Roosevelt đã tuyên bố như vậy.«
»Em không ham nhiều tiền«, Nụ nhún nhường.
Tôi chọc ghẹo:
»Vậy là em thuộc loại "một túp lều tranh với hai quả tim
vàng".«
»Phải nuôi thêm gà«, Nụ thêm vào.
»Chi vậy?«, tôi ngớ mặt.
»Để giống như cô Ba-bé.«
»Lại thêm một tâm hồn cô độc«, tôi thở ra.
Vừa lúc đó, khách chơi bi-da từ phòng ngoài ồn ào kéo vào,
kêu Nụ tính tiền. Những ánh mắt nhìn tôi và Nụ, nửa dò xét nửa nhạo báng. Tôi
đóng vai "trai tơ vô tội", tỉnh bơ châm thuốc, nhả khói mù mịt. Nụ chỉ
tôi tấm bảng "cấm hút thuốc" treo trên vách. Tôi nhún vai, hớp
cạn tách cà-phê, lững thững bước ra hiên ngoài.
Thời tiết đầu hè dịu mát. Hương hoa đêm bên vườn hàng xóm toả
nhẹ. Cảm giác thời gian là bàn tay khổng lồ ve vuốt thịt da phủ lấy người tôi,
ngất ngây choáng váng. Cùng lúc là cảm xúc đổ vỡ. Những nhịp cầu không gian gẫy
đôi, trầm mình dưới dòng sông mất trí nhớ. Người tôi run lên. Tôi tự vỗ về, đừng,
đừng để lòng mềm yếu như vậy chứ Trình! Tôi vừa lầm bẩm như một kẻ quẩn trí, vừa
lần tay mở nút áo sơ-mi trên cùng. Hơi đêm khoả mát ngực trống. Tôi mân mê sợi
dây chuyền móc đồng tiền khắc chữ phúc bằng tiếng Hán đeo quanh cổ. Kỷ niệm
ngày xưa giữa tôi và Đoan long lanh hiện về. Buổi trưa trốn nắng trong đền rùa
vàng. Sắc nắng nhiệt đới êm ả toả mát hồn tôi, gợi nhớ ray rứt. Tôi ngước mắt
tìm những vì sao quen thuộc cũ. Trời đêm tha hương cao vợi. Sao tha hương xa
tít tắp, không đủ tầm tay vói.
Tiếng ồn của đám bạn lục tục kéo nhau ra cửa xô tôi về với thực
tại. Một đứa đập vai tôi, nói như hạch sách:
»Làm gì đứng một mình trong bóng tối vậy mày?«
»Đang đêm đốt đèn đứng đái đường«, tôi xẳng giọng.
Đứa khác được dịp, xổ một hơi:
»Thằng Trình thất tình treo tường tự tử, thân thể trần truồng,
trứng thòng tòn teng teo tái trông thấy tởm!«
Cả lũ ngoác miệng cười đủ kiểu. Có đứa lên tiếng hỏi:
»Sao chưa về, mày?«
»Còn chờ đưa Nụ về«, tôi thật thà khai báo.
»Thằng này coi vậy mà có hiếu.«
»Coi chừng ăn dao, nghe mày!«
»Nụ hoa nào gặp phải tay thằng Trình, sau vài hôm là toè loe
toét loét ra.«
Tôi gắt:
»Tụi mày bựa vừa vừa thôi, cô Nụ nghe được, kỳ chết.«
Nụ cũng vừa tắt đèn, bước ra khom lưng khoá cửa. Thấy Nụ, cả
bọn im bặt, miệng như dính keo. Tôi đi trước, Nụ ngoan ngoãn theo sau. Tôi mở cửa
xe cho Nụ, phì cười nhái nheo mấy câu thơ tiền chiến. "Tôi đi, Nụ
theo sau. Tôi không dám đi mau. Sợ nàng chê hấp tấp. Số con rệp không
giàu".
»Anh cười chuyện gì?«, Nụ cài dây an toàn, hỏi khẽ.
Tôi đáp lửng lơ:
»Cười bâng quơ cho đỡ buồn. «
»Anh buồn chuyện gì?«, Nụ không tha.
»Buồn vu vơ cho vui«, tôi cù nhầy.
»Anh sống nhiều với nội tâm, chỉ khổ.«
Tôi mở máy, đạp ga, cho xe lăn chậm vào lòng phố đêm. Im lặng
một lát, tôi mới lên tiếng:
»Nội tâm anh phức tạp như cái tổ ong, Nụ đừng để ý.«
»Ong góp mật cho đời thêm ngọt«, Nụ ví con.
»Bị ong chích một lần, nhớ đời!«, tôi cảnh cáo.
Nói xong, tôi không dám quay nhìn Nụ, và thấy mình sỗ sàng
như hàng tôm, hàng cá. Tôi nhớ tới câu ca dao có kim, có thịt chích nhau, nhếch
môi cười lén. Nụ biết được, chắc bóp cổ tôi chết. Không khí bỗng dưng ngột ngạt,
khó thở. Tôi mở máy phát thanh. Nhạc kích động vang lên chói tai. Tôi đổi đề
tài:
»Ban đêm đài phát thanh thường cho nghe nhạc giựt gân, để tài
xế khỏi ngủ gục.«
»Nụ chỉ thích nghe nhạc Việt Nam.«
»Nhạc Việt buồn đứt ruột, thành ra nước mình không phát triển
nổi.«
»Buồn mới thấm.«
»Ừ, nhưng đừng uỷ mị.«
»Em thích người đa cảm, vui thì cười, buồn thì khóc.«
»Anh đa đủ thứ.«
»Vì vậy mà anh trẻ hoài.«
»Ối, anh chưa già mà Nụ!«, tôi kêu lên.
»Tóc anh muối tiêu rồi, còn bảo chưa già!«, Nụ cười lí nhí.
Tối cố vớt vát:
»Có người xúi anh nhuộm tóc, nhưng nhà anh nghèo, còn phải gởi
tiền về Việt nam nuôi mẹ già đang bệnh nặng, nên không để ý tới chuyện sửa sang
nhan sắc.«
»Hôm nào sinh nhật anh, Nụ sẽ tặng anh mười lọ thuốc nhuộm
tóc.«
»Anh không cho ai biết ngày sinh bao giờ, sợ bị mắng, nghèo
còn ham nhận quà.«
»Được quà, ai lại không ham?«
»Đã bảo, anh là trường hợp ngoại lệ, là một động từ bất qui tắc,
khó thuộc khó nhớ.«
»Anh phức tạp thật đó!«
Tôi chắt lưỡi:
»Nói rồi mà không tin.«
»Nụ tin chứ... Anh bỏ Nụ ở đầu đường, Nụ đi bộ vào được rồi.«
Tôi từ từ tắp xe vào lề. Chào tôi xong, Nụ còn chêm thêm:
»Anh nói chuyện có duyên lắm!«
Tôi tưởng tượng ra nét mặt mình khi được khen, chắc hí hửng
đáng ghét lắm, và nhủ lòng, cố đừng để Nụ hiểu lầm. Tôi trông theo dáng Nụ lầm
lũi dọc theo lề đường. Nụ có thân hình đẹp. Áo thun bó eo thon. Quần jeans khít
khao cặp mông tròn. Tôi chờ cho Nụ rẽ vào ngõ mới nhấn ga chạy tiếp.
Tôi cho xe trườn chậm giữa phố khuya rộng thênh. Tôi chợt thấy
mình mệt mỏi, già cỗi và đơn độc như con cá trê vùi mình trong đất chờ mưa tới.
Ông Từ Thức thuở xưa lạc chốn bồng lai một khoảng thời gian, trở lại trần thế
thì đã mấy trăm năm trôi qua. Như thế, thời gian chẳng nghĩa lý gì. Tất cả chỉ
là một giao ước giữa loài người với nhau. Ngày, tháng, năm và thế kỷ. Lịch
dương và lịch âm. Cả thái dương hệ cũng chẳng là cái thớ gì trong vũ trụ mênh
mông này. Biết vậy, đã nhận ra điều vô nghĩa ấy, cớ sao tôi vẫn dằn vặt khổ đau
với những tiểu tiết không đâu? Cứ mò mẫm đi cho hết một đêm hoang vu trên
mật đất [2]? Tôi là nhà sư Thích đủ thứ, tu hoài, vẫn
không đắc đạo. Tôi mải miết đi tìm cái mất trong quá khứ và cái không cho tương
lai. Tôi vẫn còn nguyên cảm tính của một sinh vật, tìm cách thoả mãn những khát
vọng sinh tồn. Tôi kêu thầm, Đoan ơi, tại sao vậy? Tại sao anh không thể quên
em? Ngần ấy năm quen nhau nào thấm thía gì với tuổi đời của địa cầu, của vũ trụ,
mà sao anh vẫn chưa quên?
Đến nhà, tôi tắt máy, gục đầu xuống tay lái, rấm rứt.
Chỗ trọ của tôi nằm trong một ngõ cụt đầy bóng tối. Đêm im vắng
trần trụi ôm choàng lấy tôi. Một nỗi khiếp sợ vô cớ bủa vây tâm hồn tôi, như
con thú rúm thân quy phục trong tấm lưới vô hình. Tôi không muốn vào nhà lúc
này. Tôi sợ tiếng chìa khoá lạnh lẽo, khô khốc tra vào ổ. Tôi sợ những âm dội
đuổi theo bước chân mình. Tôi chán ngán mớ chăn nệm quen hơi như hơi hướm ẩm gắt
của một người tình già. Tôi ngại phải mơ lại những giấc mộng không đoạn cuối.
Trời ơi, những con rùa đền vàng cứ đeo ám lấy tôi, cả bầy chục, trăm, ngàn con.
Những mai rùa khắc chữ phúc lừ đừ chuyển động, chậm mà chắc, xấn tới, trườn lên
người tôi, cưỡng đoạt ý thức tôi. Những cái đầu rùa nhú dài, ngúc ngắt, tựa như
những dương vật với đầy đủ mắt, mũi, miệng... Một tiếng động vang lên. Tôi lạnh
người, ngẩng đầu. Con mèo nhà hàng xóm ngang nhiên nhảy lên ngồi trước kính xe,
giương mắt nhìn tôi trân tráo. Người và vật sửng mắt đối diện giây lát. Rồi,
con thú duỗi chân ném mình xuống đất, lủi vào hàng rào mất dạng. Tôi mở cửa xe,
bước ra. Căn nhà mọc thêm những cánh tay, chờ ôm tôi vào lòng.
Đoan và tôi nghiêng vai nhìn xuống hồ nước cạn. Nắng xuyên
tàn cổ thụ, soi đốm xuống mặt nước xanh rêu. Bầy rùa buổi trưa đang tĩnh tâm
thiền định. Không gian phẳng phiu, không một vết gấp. Lũ chim sẻ thành phố trốn
nắng nơi nào, không nghe tiếng ríu rít.
»Rùa sống lâu không anh?«, Đoan cất tiếng.
»Như người, có khi lâu hơn.«
»Em không thích giống rùa, trông chúng bò chậm chạp mệt nhọc,
bực mình quá.«
»Anh lại thấy rùa là một sinh vật đầy bí ẩn. Chúng là loài
thú độc nhất có thật trong tứ linh. Anh còn thích huyền thoại rùa hoàn kiếm
trong lịch sử.«
»Em không tin chuyện đó có thật«, Đoan lắc đầu.
»Đã bảo là huyền thoại mà... Còn em thích giống thú nào? «
»Em thương chó con, gà con, mèo con, nai con. Nói chung, thú
vật còn nhỏ, con nào cũng dễ thương cả.«
Tôi
kêu:
»Sao không thú nhận, em thích chơi bầu cua cá cọp cho rồi!«
»Đừng nhắc, em lại nhớ Tết ở nhà«, Đoan nói như than.
Quê Đoan ở ngã ba Trung lương. Nàng lên Sài gòn trọ học nhà
dì dượng đã hai năm nay. Lần nào chúng tôi gặp nhau, Đoan đều than nhớ nhà. Tôi
bảo, nhớ thì về thăm, Sài gòn và Trung lương đâu xa xôi gì. Hằng năm, Đoan về
nhà hai lần, bãi trường và Tết. Từ khi quen tôi, Đoan xẻ đôi những dịp
nghỉ, một nửa dành để đi chơi với tôi. Chúng tôi chưa hề nói thương nhau. Tình
cảm giữa hai đứa chỉ giới hạn ở bàn tay nắm và những lần ôm nhau trong mấy buổi
nhảy đầm lậu. Không hiểu Đoan nghĩ sao, vì tôi chưa hỏi, riêng tôi vẫn chưa định
rõ lòng mình. Có đôi lúc tôi nhớ Đoan ghê gớm, thèm có nàng ngay bên cạnh, ước
được áp mặt vào vai nàng. Cũng có những khi tôi tự vấn lòng, thấy hoang mang những
hoài nghi. Má tôi thường nói: "Thằng Trình ít nói, nhu mì nhủ mỉ như con
gái, lại nhiều tưởng tượng, sau này sẽ khổ." Thuở ấy tôi nào để ý gì tới
chuyện "sướng" hay "khổ". Hai cảm tính trừu tượng ấy chỉ
đơn thuần là những nhu cầu vật chất, như "có, không" hay "được,
mất". Lớn dần, tôi bắt đầu nghĩ tới chuyện "cho" và "nhận".
Tất cả những đối tính ấy dường như không còn minh bạch nữa. Vùng xám ngăn chia
trắng, đen càng lúc càng lớn. Sẽ có lúc chúng hoà vào nhau.
»Anh đang nghĩ gì?«, Đoan hỏi giọng đầy thắc mắc.
Tôi cúi đầu sát vai nàng:
»Lan man, không bờ bến.«
»Còn em đang nghĩ gì, anh biết không?«
»Làm sao biết được.«
»Em nghĩ tới chuyện tương lai.«
Tôi xoay người, tựa lưng vào thành hồ, đối mặt Đoan. Hai mắt
nàng chớp nhẹ. Tôi đăm đăm nhìn vào nốt ruồi tham ăn gần môi trên của Đoan, thấy
nàng duyên dáng kỳ lạ. Tôi muốn áp môi mình lên đó, để thử lại định luật từ
tính âm dương hút nhau.
Đoan tần ngần giây lát, rồi nói:
»Không biết chuyện học vấn của em rồi sẽ tới đâu.«
Nàng làm tôi cụt hứng. Mọi qui luật vật lý bỗng trở nên vô
duyên. Tôi cúi đầu nhìn những ngón chân nhú ra mũi dép xăng-đan, thấy chúng kỳ
cục hết sức. Ông trời sinh ra mười móng chân và hai đầu vú đàn ông để làm gì?
Tôi lên tiếng hỏi Đoan. Nàng trợn mắt:
»Hỏi gì kỳ.«
Tôi không dám cười lớn, không phải vì sợ Đoan giận mà e làm
kinh động bầu không khí yên tĩnh ban trưa. Tôi chuyển đề tài:
»Em có mê tín dị đoan không?«
»Hình như có«, Đoan tủm tỉm.
»Mình vào đền xin xâm nghe Đoan!«, tôi đề nghị.
»Em sợ biết trước chuyện mai sau«, Đoan lưỡng lự.
Tôi nắm tay Đoan kéo tới:
»Khấn vái thôi cũng được.«
Đoan ngoan ngoãn sánh vai tôi, bước vào. Chúng tôi tháo dép bỏ
ngoài ngạch cửa. Không hiểu từ đâu, hơi mát hắt ra khiến tôi tỉnh táo hẳn.
Hương trầm lan dịu. Những chân nến không thắp, hai bình hoa vạn thọ, lư hương
tàn lạnh, hai pho tượng ông Thiện và ông Ác đứng trên điện thờ chăm chăm nhìn
xuống. Đôi chụp đèn dầu nhỏ ngọn hắt ánh sáng tù mù.
Đoan tìm tay tôi, siết lại. Chúng tôi đứng trước hai cột gỗ lớn
dán cặp liễn đỏ. Hàng chữ Hán thảo mực kim nhũ sáng lờ mờ như lời gởi gắm mòn mỏi.
Bây giờ tôi mới nhận ra những hình dơi ngậm đồng tiền kẽ chữ phúc khắc đầy sà
ngang. Cả điện thờ là một bức tranh đầy sắc ấm. Tôi và Đoan đồng loạt quì xuống.
Tôi khum tay trước ngực, ngước mặt. Đôi mắt ông Thiện và ông Ác long lên sáng
quắt. Con dơi há miệng nhả đồng tiền chữ phúc cột chỉ đỏ xuống chiếu hoa. Ngọn
đèn dầu rực lên. Lửa tràn ra, liếm vào tấm nhiễu đỏ, phực cháy. Khói tuôn mù mịt.
Tiếng lửa lách tách, tiếng gỗ cựa mình răng rắc như lời thú tội sau
cùng... Tôi buông tay chắp, đặt lên ngực trái. Tim tôi đập loạn. Trán tôi vã mồ
hôi. Tôi nhắm mắt định thần, hình dung ra cảnh bầy hạc tuyết quạt cánh khoan
thai tìm về tổ lúc hoàng hôn. Tim tôi từ từ trở lại nhịp thường.
Khi tôi mở mắt ra, không còn thấy lửa táp. Bầy dơi vẫn câm lặng
xếp hàng trên sà ngang. Chợt, từ khung cửa bên trái, một dáng người vẹt màn bước
ra. Từ nãy giờ, Đoan bất động như hoá thạch, lúc này mới thốt khẽ:
»Có người kìa anh.«
Cụ ông mặc áo thụng đen, đầu đội mũ con kiểu Trung hoa, khuôn
mặt ẩn trong bóng tối nhá nhem. Cụ bước lại điện thờ, vói tay lấy xuống chân nến,
móc trong túi ra hộp diêm. Ánh lửa xoè lên soi một bên mặt ông. Đường chân mày
trắng như cước, rậm rì vắt ngang vầng trán rộng. Gương mặt đầy những vết nhăn.
Hoa mồi hiện rõ trên gò má nhô.
Tự dưng tôi rùng mình một cái. Dáng dấp và diện mạo người đàn
ông toát một hấp lực huyền bí, cuốn lấy thần trí tôi. Đoan vẫn nín lặng
theo dõi động tác của cụ ông. Ông đặt hai chân đèn trở lại chỗ cũ, mọp ngồi xếp
bằng đối diện chúng tôi, giơ tay trải vạt áo phủ hai đầu gối, nụ cười điểm trên
môi. Tôi và Đoan bối rối xá chào ông.
»Có lẽ cô cậu tới đây lần đầu?«, ông cất giọng điềm đạm.
Tôi "dạ" nhỏ. Người đàn ông tiếp giọng:
»Tôi là người Minh Hương. Dòng họ tôi qua đây sinh sống đã
lâu. Ngôi đền này là công trình xây cất của một nhóm Hoa kiều đầu tiên tới lập
nghiệp tại đất Gia định này. Mới đầu chỉ là một cái am nhỏ thờ cúng tiền nhân,
và cũng là chỗ nương tựa cho vong linh người khuất mặt. Rồi am phát triển dần.
Chiến tranh chống Pháp kết thúc năm 1954. Dân chúng được yên ổn làm ăn. Người
Hoa từ khắp nơi đổ về đây sinh sống càng lúc càng đông. Vùng này, hồi xưa toàn
bùn lầy nước đọng, dần dần trở nên khang trang phồn thịnh. Đền rùa này cũng vậy.«
Nói tới đó, ánh mắt cụ ông nhíu lại đăm chiêu. Bên ngoài nắng
lệch, chiếu qua ô cửa, soi thành luồng sáng đầy bụi. Không biết Đoan nghĩ gì
trong khoảnh khắc này, riêng lòng tôi vừa dấy lên điều mầu nhiệm khó tả. Khung
cảnh này, cụ già Minh Hương và câu chuyện vừa kể khơi dậy trong tôi một chút
bâng khuâng. Tôi nghĩ tới những thăng trầm lịch sử. Tôi ái ngại giùm số phận của
những di dân. Tôi đặt nghi vấn về sự có mặt của chính tôi tại đất nước này, vào
thời điểm này, và buổi hội ngộ kỳ lạ trưa nay với ông cụ tại đây.
Thần trí tôi còn đang phân vân thì đền chủ đã khoan thai tra
tay vào túi áo, xoè ra trước mắt tôi và Đoan hai đồng tiền kẽm. Chúng tôi xoe mắt
ngắm. Cụ ông cố ý đưa tay vào chỗ nắng rọi. Hai đồng tiền đúc theo kiểu xưa, giữa
khắc nổi một chữ Hán, viền quanh một bầy dơi nối cánh.
Cụ ông giải thích:
»Lúc chúng tôi cho thợ đào đất xây hồ nuôi rùa, tình cờ tìm
thấy mấy đồng tiền cổ. Chắc không phải tiền xu đâu, vì không thấy ghi giá và
triều đại gì hết, mà chỉ khắc hình dơi và một chữ phúc. Đoán là điềm lành, nên
tôi đặt làm thêm một mớ y như vậy đề biếu khách vãng lai. Bữa nay thấy cô cậu tới
viếng đền, ngó qua cử chỉ, tôi nhận ra lòng thành, nên xin tặng cô cậu mỗi người
một đồng tiền, coi như lời chúc đại phúc.«
Nói xong, cụ ông nở nụ cười nhẹ. Chúng tôi đón lấy món quà đẹp.
Đoan cám ơn lí nhí. Tôi xá ba cái cảm tạ lòng tốt của vị chủ đền. Người đàn
ông đứng lên, vuốt lại sống áo, rồi quay lưng bước vào trong. Nội đền trở lại
tĩnh lặng. Tôi và Đoan đưa mắt ngó nhau. Có lẽ Đoan cũng đang hồ nghi giống như
tôi. Không biết mọi việc vừa xảy ra có thật hay chỉ là ảo giác? Hai ngọn nến vẫn
cháy leo lét. Đồng tiền chữ phúc nằm rành rành trong lòng tay nắm. Tôi kéo tay
Đoan đứng dậy, cất tiếng:
"Thôi, mình đi!"
(Trích tập truyện "Ngôn Ngữ Tuyết", Quyên
Book, 2006, USA. Nhuận sắc, 3.2018)
Chú thích:
[1] Đêm nay ai đưa em về?, Nguyễn
Ánh 9.
[2] Một tựa sách của Phạm Công Thiện.Kỷ niệm trưa nào với Đoan trở về cùng tôi khuya nay, khi tôi
dừng xe lại đầu ngõ nhà Nụ, chờ nghe lời từ giã. Nhưng không, Nụ đã nhỏ giọng hỏi:
"Nụ mời anh vào nhà uống với Nụ một tách cà-phê"
Tôi muốn hỏi, Nụ có biết, rủ rê như vậy là lộ liễu lắm không?
Nhưng tôi không dám lên tiếng, sợ nàng chê tôi làm bộ làm tịch. Tôi không đáp,
chỉ tắt máy, mở cửa bước ra. Chúng tôi sánh đôi bên nhau như hai con mèo giữa
mùa tình ái. Như thế, cảm tình của Nụ dành cho tôi đã rõ. Còn tôi vẫn chưa xác
định được vai trò mình trong đời sống nàng. Những tối ra hội quán chơi bi-da, tới
giờ đóng cửa tôi vẫn sắm vai tài xế đưa Nụ về, không một dụng ý. Để đến tối
nay, khi nghe Nụ ngỏ lời, tôi chợt thấy mình ngô nghê, loắt choắt như một con
nhện đực thận trọng men theo sợi tơ tìm tới nhện cái. Xong xuôi phải nhớ dọt lẹ,
cà rịch cà tang là có nước bị xơi tái.
Nhà Nụ ở tầng trên cùng trong một chung cư cũ. Thang máy chuyển
động lịch xịch như được kéo bằng tay thời nô lệ. Từ nãy tới giờ, nhện đực ngậm
tăm, nhện cái cũng tịnh khẩu. Chúng tôi là không gian và thời gian yên tĩnh tuyệt
đối trước cơn địa chấn cấp chín. Thời tiết đang chuyển mùa rối loạn trong tôi.
Tuyết chưa tan mà đã sang hè. Lá vừa rụng, ấy mà những nụ linh lan đả xởn xơ
đâm chồi. Niết bàn nội tâm tôi chợt bốc lửa thành hoả ngục, đủ bộ tham sân si
và lục dục thất tình. Ai muốn thành thánh, bồ tát gì, kệ họ, còn tôi trong giây
phút này chỉ muốn mình là một con ngạ quỉ. Tôi thầm kêu, thượng đế ơi, xin ban
cho con đủ can đảm đóng trọn vai trò một con quỉ đêm nay.
Nụ đẩy tách cà-phê tới trước mặt tôi, vói tay bật máy
cát-sét. Nhạc đang tới đoạn: "...Nhưng ai bạc bẽo mình vẫn không đành
lòng quên. [3]" Người
nữ ca sĩ láy đi láy lại lời than não nuột rồi chấm dứt bài hát. Tôi chặc lưỡi:
»Nhạc Việt nam nghe sao đoạn trường«, rồi quay đầu nhìn
quanh, hỏi: »Nụ có cho phép anh hút thuốc?«
»Người khác thì không, nhưng anh thì được.«
Nói xong, Nụ đi lấy cho tôi cái dĩa con làm gạt tàn. Nhạc
chuyển sang bài khác. "Mưa khuya hắt hiu xuyên qua mành, tình đơn giá
lạnh... [4]" Lại
một khúc đoạn trường khác. Tôi rít một hơi sâu, thong thả nhả khói. Gương mặt Nụ
mờ nhoà. Nhất định là Nụ không đẹp. Còn tôi không phải là một gã háo sắc. Nhưng
khuya nay, không biết chất xúc tác nào đã đẩy đưa tôi và Nụ phản ứng cùng nhau.
Và động cơ nào đã bắt tôi hoài nghi về sự có mặt của thượng đế. Đáng yêu vô
cùng bàn tay của đấng tạo hoá đã phân cảnh vở tuồng cho tôi gặp Nụ. Đào thương
và kép đẹp gân cổ song ca vọng cổ thì phải biết, mùi rệu. Tôi bật cười khan khi
nghĩ tới cảnh mình sắp tử nạn sa trường, còn ngóc cổ nghêu ngao bài vọng cổ.
Xong sáu câu mới tắt thở.
»Anh cười gì?«, Nụ hỏi.
Tôi không biết nói láo:
»Anh vừa nghĩ tới thượng đế và mấy tuồng cải lương.«
»Kỳ cục«, Nụ trợn mắt.
»Thượng đế bày chi những tấn tuồng thảm thương quá vậy«, tôi
thều thào.
»Diểu dở.«
»Đã có người khen anh nói chuyện có duyên«, tôi trơ trẽn.
Nụ trúng đạn, á khẩu. Tôi giả giọng khiêm tốn:
»Riêng anh thấy mình vô duyên như ngỗng đực.«
Nụ được dịp:
»Vô duyên cái túi không tiền, cái môi xám xịt, cái lưỡng
quyền nhô cao.«
»Lưỡng quyền cao là tướng sát phu, không phải tướng vô duyên.
Vô duyên chưa nói đã cười, chưa đàn đã hát, chưa mời đã ăn.«
»Như vậy là Nụ cũng không phải tuýp người kém duyên. Còn thượng
đế?«, Nụ khẳng định.
Tôi ngớ mặt:
»Ông trời tháng mười chưa cười đã tối, cũng khá vô duyên.«
»Nụ muốn hỏi, anh nghĩ gì về thượng đế?«, Nụ cười khúc khích.
Tôi dụi tắt điếu thuốc, hớp ngụm nhỏ cà-phê, nhìn lên tấm ảnh
Đức Mẹ ẵm Chúa hài đồng lộng kính treo trên tường. Nét mặt Đức Mẹ thuần hậu.
Nét mặt Chúa hài đồng rạng rỡ, ấm áp giao cảm. Nhưng mà thượng đế trong tôi lại
vô tướng, nên tôi không biết phải hình dung như thế nào để thượng đế của mình
có một chân diện thật sắc sảo. Tôi thật thà trỏ tay vào tim rồi lên đầu mình:
»Thượng đế ở trong tâm và trí anh.«
»Người bình thường không thể hiểu nổi.«
»Đâu có gì khó hiểu. Dùng tình và lý để làm lành tránh dữ, đạt
tới trạng thái an nhiên tuyệt đối«, tôi phát biểu ẩu tả.
»Như vậy là thượng đế đó hả?«, Nụ vặn vẹo.
Tôi khẳng định:
»Thượng đế là một trạng thái ý thức, không có hình tướng.«
»Ý nghĩ anh cao siêu quá, vượt bức tường âm thanh, Nụ không
hiểu«, Nụ lắc đầu.
»Làm sao giải thích được lý lẽ của trái tim.«
»Anh lắm lời«, Nụ cười trào nước mắt sống.
Rồi nàng đứng dậy dọn tách dĩa. Nhạc chuyển sang một khúc đoạn
trường khác: "Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn... [5]" Nụ vừa xả nước rửa tách,
vừa rỉ rả hát theo: "Đôi khi nhầm lỡ, đánh mất ân tình
cũ..." Tôi sà tới sau lưng Nụ, nhẹ tay đặt lên hai bên thắt
lưng nàng. Người Nụ nẩy nhẹ. Đầu Nụ khẽ xoay nghiêng, cho tôi thoáng thấy màu mặt
ửng hồng. Thừa thắng xông lên, tôi khép tay lại trước bụng Nụ, từ từ lấn lên.
Ngực Nụ vừa tầm, mềm ấm kỳ lạ.
»Anh Trình... Coi chừng bể!«, Nụ thở hắt.
Tôi vội vàng rút tay về, ngơ ngác:
»Cái gì bể?«
»Mấy cái tách.«
Tôi cười nhẹ nhõm, ngả đầu xuống vai Nụ. Môi tôi cạ kề ngấn cổ
thon. Mồ hôi Nụ có màu mơ chín. Hương tóc Nụ có màu nắng hoang dã. Cảm xúc tôi
là những đợt sóng sủi bọt, nhấp nhô khua bãi. Từng đợt lại đừng đợt bền bỉ. Bờ
cát Nụ trải ra, chờ đợi. Cát và sóng không nói với nhau lời nào, cứ lặng lẽ như
thế, lúc dịu dàng lúc vồ vập. Những mảnh gương ký ức loé sáng trong tôi. Khuôn
mặt Đoan lung linh ẩn trong khuôn mặt Nụ. Bàn tay Nụ là bầy rùa di động trên
thân thể tôi. Những chiếc qui đầu vươn ra, sù sì, gân guốc. Những con mắt lừ đừ
vô cảm ngó tôi chằm chằm. Những rãnh miệng mở hé, để lại những đường nhớt mê
hoan trên ngực tôi. Thịt da tôi mở ra một thửa đất rộng, đón nhận tất cả. Tôi
trăn trở như lòng đất trước cơn động kinh. Qua khe mắt, tôi lờ mờ nhìn ra khuôn
mặt Nụ chập chờn như một bóng ma quá khứ.
Có phải Đoan đó không? Đoan đang trở về qua hiện thân Nụ. Tôi
vùng dậy, gập người cắm cúi trên thân Nụ. Sợi dây chuyền móc đồng tiền chữ phúc
rơi thõng trên ngực người con gái. Tôi dúi mặt vào tóc Nụ. Hai nhịp thở gấp
rút. Tay Nụ bấu lấy vai tôi. Tôi hình dung ra những chiếc cầu vắt vẻo treo
ngang những dòng sông đã trôi qua tiềm thức. Tôi muốn lấp kín những dòng cuồng
lưu. Tôi muốn phá gẫy những nhịp cầu nối kết. Tôi muốn mình mất trí nhớ, bình thản
như một giọt sương chờ khô héo.
Nụ mân mê sợi dây chuyền quanh cổ tôi, run giọng:
»Anh có khinh Nụ không?«
Tôi nghiêng mặt nhìn Nụ. Đèn đêm viền nửa mặt nàng, nhoà nét
như tấm ảnh chụp run tay. Tôi hỏi lại:
»Tại sao?«
»Vì Nụ và anh chưa là gì của nhau.«
»Nụ là người tình, là bạn, là em gái của anh«, tôi nói loanh
quanh.
»Đại huynh ơi, dù mai này có ra sao, cũng đừng quên tiểu muội!«,
Nụ tha thiết.
Tôi xúc động, rúc mặt vào cổ Nụ, kêu tới tấp:
»Tình nương ơi, hiền muội ơi, xí-muội ơi...«
Nụ nâng mặt tôi, ngắm nghía một chặp rồi vặn mũi tôi một cái:
»Hiền cái gì, dữ lắm đó!«
»Không cắn là được rồi.«
»Cắn chớ sao không.«
Để chứng minh, Nụ vít đầu tôi xuống, ngoạm chặt vành tai tôi.
Tôi phân bua:
»Tại sao không đeo bảng "coi chừng người dữ", để
khách phương xa đề phòng?«
Nụ nhả tai tôi ra, cười lí nhí. Tay nàng lại tìm xuống cổ
tôi, sờ soạng đồng tiền chữ phúc.
»Kỷ vật gia đình, phải không anh?«, giọng Nụ nhẹ tênh.
»Của má«, tôi đáp cho xong.
»Chạm hình gì vậy? Tối quá, Nụ không thấy.«
»Chữ phúc và mấy con dơi.«
»Sao lại có hình dơi trong đó?«
»Đối với người Tàu, dơi là biểu tượng của phúc, hai chữ đọc
giống nhau.«
»Anh là Tàu lai à?«
»Không.«
»Tại sao lại đeo mấy thứ này?«
Tôi ngửa người ra giường, thở ra:
»Đã bảo là của má. Má cho gì, đeo nấy.«
Và đột nhiên, tôi cảm thấy mệt mỏi như quàng phải ngàn cánh
dơi quanh cổ. Tôi xoay lưng, quấn chăn, tìm giấc ngủ. Nụ đặt tay lên vai tôi.
Hơi thở nàng khoả ấm gáy tôi. Tôi vói tay tắt chụp đèn cạnh giường. Bóng tối ôm
lấy thân thể tôi. Đêm trầm tư thiền tịnh. Hai vòm mắt khép chợt mở ra cho tôi
thấy lại cõi hồi ức lê thê trải ra một con đường sắt. Trí nhớ tôi là đoàn xe lửa
sầm sập chạy hoài không mỏi, thỉnh thoảng ghé lại ga nhỏ, rồi rít còi, xậm xịt
nhả khói, lầm lì tách bến, lao mình vào chuyến phiêu lưu không một lời hứa
hẹn. Đã lần nào tôi hứa với ai lời gì? Không, tất cả chỉ là những câu nói
suông. Đừng tin vào lời hứa của quỷ. Tôi cứ thắc mắc tại sao mình không thể là
một con rùa đền vàng vô tư, miệt mài nghe trộm kinh mà thành Phật?
Đám bạn bi-da của tôi thường bàn với nhau, hội quán này xem
chừng không thọ, vì tiền nhà cao, lại thưa khách. Một đứa đề nghị, đáng lẽ phải
có thêm máy bấm tiền và trò bài bạc cho đỡ nhạt. Đứa khác táo bạo hơn, mướn thêm
mấy em từ Ba-lan, Tiệp-khắc làm thành quán bia ôm cho rồi. Đa số độc thân ủng hộ
ý kiến này. Tôi thì... sao cũng đưọc.
Sau đó tôi kể lại cho Nụ nghe, nàng bĩu môi:
»Đàn ông các anh là một bầy dê.«
»Cả anh?«, tôi ngây thơ.
Mắt Nụ rời quyển sách, giọng hóm hỉnh:
»Anh là một con dê ngầm. Ánh mắt, nụ cười, điệu bộ, giọng nói
và luôn cả ý nghĩ của anh sặc mùi... dương tính.«
Tôi pha trò:
»Cà-ri dê là món ăn tăng cường sinh lực. Còn ngọc dương dê hầm
thuốc bắc là một món độc đáo. Nhất dạ lục giao, sinh ngũ tử đó em! Nước Ấn-độ
đông dân vì vậy.«
»Không ham. Nhất định chỗ này không thể trở thành quán bia
ôm.«
»Anh chỉ nói lên ý kiến của người khác.«
»Còn ý anh?«
»Miễn bàn.«
»Anh là một người bốn phải.«
»Hơi ít. Năm, sáu phải gì đó.«
»Anh nói chuyện nghe chán phèo«, Nụ nguýt.
»Lâu lâu em cũng nên cho các bạn anh thả dê, cho đỡ buồn«,
tôi mỉm cười lạc lõng.
Nụ gấp sách lại, thẹn thùng:
»Ai cấm. Nhưng anh nói, nghe kỳ.«
»Chuyện tự nhiên, đâu có gì kỳ.«
Tôi giằng lấy quyển sách trên tay Nụ, ngắm nghía. "Xóm
vắng" của Quỳnh Dao. Tôi kêu thầm, trời ạ, lại thêm một hố thẳm
tư tưởng giữa tôi và Nụ.
»Hay không?«, tôi nhỏ nhẹ hỏi.
»Cảm động dễ sợ«, Nụ chớp mắt.
»Em nên đọc "Anh em nhà Karamasow" của
Dostojewski và "Ngàn cánh hạc" của Kawabata«, tôi bàn tới.
»Nghe như trùm điệp viên KGB và hiệu bán giày dép«, Nụ thẳng
thừng.
Tôi cảm thấy như chính mình bị xúc phạm:
»Hai văn hào của văn học quốc tế đó, đừng nói bậy!«
»Còn Quỳnh Dao? Sách của bà ta được hàng triệu người đọc, bà
nổi tiếng khắp châu Á, cũng là văn hào chớ bộ.«
Tôi ghét hai chữ "chớ bộ" không biết học lóm ở đâu
của Nụ, gân cổ lên:
»Tiểu thuyết của bả không có tư tưởng gì ráo.«
»Có chứ, tư tưởng của đám đông.«
»Ý anh muốn nói, tư tưởng là quan niệm riêng về đời sống, chẳng
hạn như hoài nghi của Dostojewski về thượng đế và thiện, ác. Đám đông làm gì có
tư tưởng«, tôi giải thích vòng vo.
»Viết để làm đẹp cuộc đời. Ai ở hiền sẽ gặp lành. Kẻ nào gieo
gió sẽ gặt bão. Không là tư tưởng chứ là gì?«, Nụ cãi.
»Tư tưởng có nhiều loại, giống như hạng ghế trong rạp hát«,
tôi đuối hơi.
Nụ giật lại quyển sách, cất vào hộc, hất mặt:
»Anh đọc cái gì, kệ anh. Còn Nụ đọc những thứ Nụ thích. Thượng
đế của anh ở đâu, kệ anh. Còn thượng đế của Nụ ở trên trời. Đừng có lộn xộn!«
Tay tôi nâng cằm, mắt tôi nhìn Nụ ngoe nguẩy thu dọn trong xó
bếp, không nói tiếp lời nào. Cứ mỗi lần nhắc tới thượng đế là tôi lại thấy một
lằn ranh cắt chia giữa tôi và Nụ. Tôi đâu phải là người cố chấp. Quan niệm của
tôi về đức tin phóng khoáng, cởi mở và đơn giản lắm mà. Thượng đế của tôi vô
hình tướng. Chỉ vì mê chấp mà loài người thấy ra những thượng đế và tôn giáo
khác nhau.
Đã có lần tôi giảng đạo cho Nụ: "Cũng một vật, tại sao lại
có nhiều tên gọi không giống nhau? Tôn giáo cũng vậy. Ông Phật, ông Chúa,
ông Allah, ông Schiwa thật ra chỉ là một mà thôi." Nụ không đồng ý:
"Là một sao được? Ông Phật là người Ấn-độ, Chúa xuống thế ở Do thái, còn
ông Allah ra đời ở Trung đông. Họ hoàn toàn không có bà con gì với nhau. Nói tầm
bậy." Tôi cố vớt vát: "Họ là biểu tượng cho mỗi giáo phái, mà biểu tượng
là do con người đặt ra, còn cứu cánh cuối cùng đâu có gì khác. Thiên Chúa ngự
trong lòng mình. Phật tánh tại tâm. Đừng tìm đâu xa, thêm mệt." Nụ ngoan cố:
"Ông Phật và ông Chúa là hai người. Một ông Ấn-độ da ngâm, một ông Do thái
da trắng, là một chỗ nào?" Tôi kêu lên: "Em bị bệnh nặng, hết thuốc
chữa." Nụ không vừa: "Còn anh cứng đầu cứng cổ, ba hoa chích chòe, sẽ
có ngày đền tội"... Lần đó chúng tôi giận nhau hết một tuần. Tối thứ sáu,
thấy vắng mặt tôi tại hội quán, có người gọi điện về nhà hỏi han. Tôi viện cớ
phải tiếp bạn từ xa đến chơi, không đi được. Nhưng tôi chỉ nằm nhà chịu đựng được
một tuần. Đời sống nơi đây buồn chán quá. Đêm tới, ngày đi, lặng lẽ thay phiên.
Phần tôi cứ mãi tưởng nhớ tới những bóng ma quá khứ. Và tôi nhất định quên
Đoan, cũng như cố gắng xua đuổi hình ảnh lũ rùa gớm ghiếc dấy loạn tâm tôi bấy
lâu.
Một hôm, tôi tháo đồng tiền chữ phúc, cất vào hộp. Tôi cảm thấy
nhẹ nhõm như có luồng khói huyền thoại vừa tuôn ra từ những khe hở ký ức. Tôi
run rẩy nhận diện tội phạm. Chính tôi, chính là tôi chứ không ai khác. Bao lâu
nay, tôi đã đánh mất hiện tại mà không hay biết.
Giọng hát ai khàn khàn cất lên, nhại theo bài "Trên
bốn vùng chiến thuật":
»Tôi thường đi đái đêm, một đêm ba bốn bận, ghèn đầy hai con
mắt ứ...«
Nụ bụm miệng cười. Tôi run đùi đắc chí.
»Vô duyên«, Nụ lẩm bẩm.
Tôi chống chế giùm người đang ca Karaoke:
»Có duyên đó chứ.«
»Sao anh ưa cãi ngược quá vậy?«, Nụ cau có.
»Đâu có«, tôi hạ giọng.
»Lại cãi.«
»Đàn bà con gái, người nào cũng dữ hết. Kẻ dữ ra mặt, người dữ
ngầm. Dữ quá xá quà xa«, tôi phân trần.
Nụ nghinh mặt, định nói điều gì nhưng ngăn lại kịp. Lát sau
nàng nới nhỏ nhẻ:
»Đàn bà con gái chúng em là những con rắn.«
»Con rắn trong thánh kinh, chứ không phải con rắn trong lý
thuyết của Freud.«
»Ai vậy? Lý thuyết gì vậy?«
»Bạn học, chết rồi. Lý thuyết tâm thần nhảm nhí«, tôi xẳng giọng.
Nói giỡn chút xíu, vậy mà lúc tôi đưa Nụ về nhà, nàng rụt rè
lên tiếng:
»Tội nghiệp cho người bạn của anh, tại sao chết vậy?«
»Hả? Bạn nào chết?«, tôi ngẩn ngơ.
»Thì cái người với lý thuyết con rắn đó«, Nụ hầm hè.
Tôi suýt phì cười, thở khì:
»Ờ, ông Freud. Thì tới tuổi, già chết chớ sao.«
»Anh cũng có bạn già nữa à?«
»Bạn vong niên«, tôi gật gù.
Nụ xoắn lấy cổ tay tôi, mềm giọng:
»Còn anh là bạn đời của Nụ.«
Người tôi xúc động nổi gai. Tôi im lặng dành một phút mặc niệm
về những liên hệ đã được tôi an táng xong xuôi. Cảm giác ấm áp của Nụ truyền
sang tay tôi, bắt tôi bất chợt rưng rưng nước mắt. Cuộc tử biệt nào cũng đau
lòng. Bứt lìa nào cũng xót xa. Tôi giơ tay bật máy cát-sét. Giọng hát cất lên
ray rứt: "Còn gì nữa, tuổi vàng qua mất rồi... [6]" Tôi phân vân tự hỏi, không lẽ
Nụ là trạm dừng chân của đời tôi?
Một hôm tới thăm Nụ, tôi thấy nàng ngồi rưng rưng nước mắt
bên bàn ăn, tay cầm lá thư. Tôi tới cạnh, mềm giọng hỏi:
»Nhận được tin buồn, hả Nụ?«
Nụ gật đầu, lặng lẽ lau nước mắt.
»Đời người, ai cũng một lần, cho anh chia buồn cùng em. Ai chết
vậy?«, tôi chân thành.
Nụ sửng mắt, ngó tôi gườm gườm:
»Có ai chết đâu!«
»Vậy sao khóc?«, tôi chưng hửng.
Nụ đưa cho tôi lá thư. Tôi liếc mắt, thấy chữ chi chít, không
muốn đọc.
»Thư ai vậy? Chuyện gì, kể anh nghe!«
»Thư chị Hạnh, chị em bà con với em. Chị biên thư báo,
sẽ bị về nước vào tháng tới«, Nụ thảm não.
»Hết hợp đồng làm việc, phải về nước là đúng rồi, sao em
khóc?«
»Chị không thích về, muốn được ở lại, đi làm giúp gia đình. Đọc
thư chị than thở, em mủi lòng.«
»Chị không xin gia hạn hợp đồng được à?«
»Nếu được, đã không có chuyện để nói. Hãng chị bị sập tiệm,
sa thải toàn thể nhân công. Chỉ còn một cách để được ở lại, nhanh và bảo đảm,
là có người lưu trú hợp pháp tại đây kết hôn cùng chị.«
Tôi nhún vai nhủ thầm, sức người có hạn, không giúp gì được.
Vậy mà đêm đó, nằm cạnh nhau, Nụ thủ thỉ:
»Em có đề nghị này, nghe xong anh đừng mắng, em mới nói.«
Tôi xoay người, quàng tay ôm Nụ, không nói. Im lặng là đồng
ý. Nụ cũng lặng lẽ đỗi lâu. Tôi cảm nhận nhịp tim nàng đập nhẹ dưới lòng tay
úp. Thịt da Nụ ấm mịn như lá non ngậm nắng mới. Tôi nghe tiếng thời gian cựa
mình theo mạch máu luân lưu trong thân thể chúng tôi. Có những hình bóng đã qua
đời cũng như vừa được khai sinh trong tôi. Dù thế nào đi nữa, cũng là những mất
mát. Chiến sĩ xông pha trận mạc tình ái về lại quê quán, ngỡ ngàng như Từ Thức
hồi hương. Tất cả đã khác. Cả lòng mình cũng bầm dập thương tích.
Nụ thở ra, nói mau như sợ đổi ý:
»Anh làm giấy hôn thú với chị Hạnh được không?«
Tay tôi chết trơ trên ngực Nụ. Tôi rút vội tay về, cứng lưỡi
hồi lâu mới lắp bắp:
»Đừng... đừng giỡn... chứ em!«
»Em thật lòng, không giỡn.«
»Anh không phải là món đồ chơi của mấy bà«, tôi bắt đầu văn
hoa tiểu thuyết.
»Ai nói vậy bao giờ?«, Nụ chặc lưỡi.
»Chuyện tình cảm không giống trò bài bạc mà em đòi "bán
cái".«
Nụ cười rinh rích. Tôi ca thêm:
»Em không sợ anh "có đó quên đăng, có trăng quên
đèn" sao? Đàn ông ai lại chẳng ham chuyện "hoa thơm ngắt cả
cụm"?«
Nụ ngồi dậy, vói tay bật chụp đèn đêm, thắt mười ngón quanh cổ
tôi, rít:
»Chuyện sống chết của chị Hạnh và của... em, không được đùa!«
»Đừng bóp cổ chứ em!«, tôi ấm ứ.
Nụ nới tay. Nàng dạng chân ngồi lên người tôi. Đèn đêm soi mờ
gương mặt không điểm trang, vàng tái như tấm bột bánh chưa nướng. Khoảng cách
giữa tôi và Nụ thật gần mà cũng thật xa. Bỗng dưng tôi mơ hồ cảm nhận, sờ mó được
cái chết. Nụ cúi mặt, thì thầm lời thương yêu vào tai tôi. Mắt tôi chói
lòa vòng sáng kỳ lạ. Tai tôi bắt được những ngôn ngữ gẫy vụn. Quanh tôi lúc
này, tất cả hoá thành tàn tật. Tôi là gã phế binh độc nhất sống sót sau trận
chiến tanh máu với bầy nữ yêu tình ái. Họ cứ đeo bám dằn vặt tôi, lâu lâu còn
đem quân lấn sang cứ địa độc thân có tôi miệt mài trấn thủ. Từ ngày thất trận với
Đoan, tôi treo gươm lên vách, thề thốt với bóng mình, sẽ không bao giờ dại dột
"rơi vào tình yêu" lần nữa. Con ong đã rụt vòi, quyết tâm tu tĩnh, chỉ
uống sương chứ không thèm hút nhụy. Vậy mà trời đất dun rủi khiến tôi gặp Nụ.
Nàng đã khuấy động dòng nước tình cảm lênh láng trong tôi. Nàng xách nhiễu dục
tính tôi, và gôm sạch bóng Đoan trong tâm tưởng tôi. Hôm nay, nàng còn vọc nước
giỡn trăng, đề nghị tôi làm chuyện táo bạo.
»Anh chịu«, tôi gật đầu lia lịa.
»Chịu cái gì?«, Nụ nhíu mày.
»Chịu làm hôn thú giả với chị Hạnh«, tôi cố làm mặt tỉnh.
Nét mặt Nụ trở nên khờ khạo khó tả. Giọng nàng hơi lạc:
»Chịu thật à?«
»Thật! Ứ, không phải, chịu... giả.«
Nụ không cười, lầm bầm:
»Mới nói chút xíu, đã chịu rồi sao?«
»Anh là người dễ dạy.«
Nụ ngả người nằm xuống, tắt đèn. Tôi bụm miệng cười lén. Nụ
trăn trở một lát, rồi xoay lưng, úp đầu vào vai tôi. Tôi phà hơi thở vào tóc
nàng. Hương thuốc gội hòa với mùi mồ hôi ngọt sắc.
»Kể chuyện chị Hạnh cho anh nghe đi!«, tôi thều thào.
Tôi nghe tiếng Nụ thở dài. Nỗi sầu nào không tên hé vội cánh
cửa cho tôi lách vào, đứng đấy một mình trong cõi thênh thang của không gian
xanh khói. Tôi muốn ám thích quá khứ. Chính hắn, kẻ đã theo dõi tôi bao nhiêu
năm nay, như rình bắt gian phi. Tôi đã phạm tội, đã hãm hại ai, khi nào
và tại sao? Tôi khép lại những niềm vui tạm, vội trở về cùng những hoang mang
không thể giải thích. Tôi thấy mình tầm thường như một kẻ ngoại tình, dối vợ vụng
trộm với một người không xứng đáng. Nụ có "môn đăng hộ đối" với tôi
không? Trời, cái gì nàng cũng khác tôi, từ tôn giáo, giai cấp cho tới những sở
thích vụn vặt. Chúng tôi, như mặt trăng và địa cầu vô tình "giao
thoa" trong hành trình thái dương hệ, nhưng suốt đời vẫn xoay quanh quỹ đạo
riêng mình. Tôi rưng rưng chạnh nghĩ tới cánh dơi ngậm đồng tiền chữ phúc ngày
xa xưa ấy. Tay tôi ngập ngừng luồn vào tóc Nụ.
Giọng Nụ trầm trầm:
»Gia đình Nụ di cư vào Nam năm 1954. Nụ được sinh ra ở Sài
gòn, nên chỉ biết về Hà Nội qua chuyện kể của bố mẹ, và nhiều hơn hết, của chị
Hạnh. Chị là con cả của bác gái Nụ, chị của mẹ. Chị thương Nụ lắm, mỗi lần tới
thăm thường dắt Nụ đi vườn thú, ăn kem hay chơi phố. Chị kể chuyện quê Bắc nghe
hay lắm. Chị bảo nhớ mùa thu Hà nội, nhớ ánh trăng rọi trên đường Cổ Ngư, nhớ
hương hoa sữa ngất ngây bên hồ Thiền Quang, nhớ cốm vòng, nhớ chuối trứng cuốc,
nhớ hồng ngâm ngày Tết, nhớ na. Nhớ ơi là nhớ. Cho tới bây giờ trí Nụ vẫn đậm
nét cảnh hồ Hoàn kiếm và tháp rùa trong mưa qua chuyện kể của chị. Thỉnh thoảng
trong mơ, Nụ thấy lại tượng rùa ngậm bảo kiếm nhạt nhòa trong mưa phùn xứ Bắc,
thơ mộng và cổ kính ghê!«
Tôi nẩy người, những ngón tay khựng lại bối rối trong tóc Nụ.
Điềm gì đây? Tại sao có chuyện trùng hợp kỳ lạ này? Chưa lần nào tôi kể Nụ nghe
về Đoan cũng như về những ám ảnh quái quắc kia. Tôi tự cho mình đã tới bến, vất
vũ khí xuống dòng sông cũ, thẳng lưng bước một mạch, không ngó lại. Kinh Kha hề,
đầu đội trời, chân đạp...
»Tội nghiệp, nhà chị nghèo«, Nụ ngậm ngùi buông tiếng.
Tôi hít một hơi sâu, chép miệng:
»Anh không làm chuyện đó được.«
»Nụ đùa đó mà«, Nụ áp má lên ngực tôi.
»Đúng là con cháu bà Triệu Ẩu, chuyên môn nói... ẩu.«
»Nụ muốn nói thật với anh vỏn vẹn ba tiếng« Nụ tha thiết.
Tôi phì cười, cao giọng:
»Ngộ ái nị?«
Nụ cạp cằm tôi, rít:
»Anh ranh mãnh như một con sóc.«
»Ngộ ái nị mà nị không ái ngộ, ngộ ái đại, không ái ngại.«
»Có bao giờ anh nói với Nụ ba tiếng đó, dù chỉ là tiếng Tàu«.
Nụ trách.
Người tôi mềm nhũn. Tôi quay mặt, soi mắt vào bóng tối bủa
quanh. Tiểu thuyết gọi đó là "bóng đêm đồng lõa", tiếp tay cho tội ác
và tình yêu vụng trộm. Tôi mang tội tày trời vì đã lạm dụng bừa bãi thứ tình
yêu... xí được. Chưa lần nào tôi nói lời yêu thương với Nụ. Tôi nhận mười, chỉ
cho một, hai. Lẽ bất công này, trời hỡi, tôi nào muốn. Nếu có một ngày Nụ thưa
tôi ra tòa vì tội lường gạt ái tình, tôi sẽ quỳ xuống biện hộ rằng, tôi hoàn
toàn vô tội, tôi chỉ là nạn nhân của định mệnh oái oăm.
»Đôi lúc Nụ có cảm tưởng, anh là kẻ sở khanh«, Nụ nói như kết
án.
»Sở khanh là người dụ dỗ rồi bỏ, còn anh là người bị dụ và
chưa bỏ ai«, tôi lý luận.
Nụ nghiến răng vào bả vai tôi. Tôi kêu "ái", xô Nụ
ra. Nụ cười khúc khích trên lưng tôi. "Tôi mang cho em một bó quần,
quần thơm hay môi em thơm. Tôi mang cho em một chút tình, miệng cười khúc khích
trên lưng."
»Chúa xui khiến cho anh gặp em.«
Nụ phán một một câu làm tôi cụt hứng. Tôi hầm hừ:
»Chúa không có thì giờ làm mấy chuyện bá láp này. Em đem Chúa
ra nói trong phòng the, tội lỗi ngập đầu.«
Nụ im re. Tôi giảng giáo lý thêm vài câu, rồi quấn chăn dỗ giấc.
Nụ lẩm bẩm mắng tôi "kỳ thị tín ngưỡng", "vô thần",
"chờ tới ngày phán xét sẽ đền tội"... rồi quay lưng, im tiếng. Tôi nằm
nhắm mắt để đó. Hai mắt tôi trân tráo trong đêm đen không đáy. Hoài niệm tôi
toang hoác miệng vực, sâu hoắm một lỗ xuyên ngang địa cầu. Trí tưởng tôi là chiếc
siêu vệ tinh bay vèo từ vũ trụ này sang vũ trụ khác, dễ như chơi. Tôi bứt lìa
thời gian và không gian, thoát ra ngoài những ràng buộc vật lý. Hấp lực nhân
sinh trở thành vô nghĩa. Luân lý chỉ là những mảnh vụn bánh mì, phủi một cái,
cho vào thùng rác. Còn đạo đức được nhắc tới như những giọt sương lấm bụi môi
sinh, bốc hơi và để lại vết nhơ trên lá. Còn tôi là cái gì? Tôi tự cho mình là
một hạt cát vô danh như muôn trùng hạt cát khác ngoài bãi rộng. Hạt cát
tôi tình cờ sa vào guồng máy trơn mỡ của Nụ, cản trở chút chơi.
Chú thích:
[3] Sầu
lẻ bóng, Anh Bằng.
[4] Phố
vắng em rồi, Mạnh Phát và Nguyễn Đan Thanh..
[5] Buồn trong kỷ niệm, Trúc
Phương.
[6] Sao đêm, Lê Trọng Nguyễn.
Sầu Lẻ Bóng - Lệ Quyên - Nhac.vn
Phố Vắng Em Rồi -
Cẩm Ly - Nhac.vn
Buồn Trong Kỷ Niệm - Diễm Thùy (Quán Quân Tình
Khúc Xưa Và
Sao Đêm - Quỳnh Giao - chiasenhac.vn
Hội quán bi-da chỗ tôi thường lui tới, có nhiều quái tăng. Có
người bộ dáng như con gà nuốt dây thun, tới ngồi một đống, lâu lâu ghi tên hát
Karaoke một bài nhạc tình nhểu nhão, uống vài chai bia rồi chuệnh choạng bỏ về.
Có người tới để cá độ bi-da, chuyên môn thua, vẫn không chừa. Có người tới chỉ
để tâm sự. Có người sở trường tọc mạch đời tư thiên hạ.
Tối nay, hội quán tiếp đón thêm một quái tăng. Tôi thấy mặt
anh ta lần đầu. Anh nhếch cười chào mọi người, tới ngồi gần chỗ chúng tôi. Tôi
bắt được mùi xào nấu toát ra từ người đàn ông. Lại thêm một đầu bếp nhà hàng,
tôi nhủ thầm, lén đưa mắt ngắm. Người anh ta mỏng như cá khô, tóc húi ngắn gần
như trọc, râu cằm thưa chòm, tay chân lêu khêu. Mấy nhân vật cái bang trong
truyện chưởng Kim Dung chắc không hơn người này. Không biết anh ta tu tập võ
công ở đâu, môn phái nào, bao lâu mà khô đét thế kia? Bàn tay năm ngón xương xẩu
ấy, lúc tung chưởng, chắc có nước dập ngực, hộc máu. Tôi phì cười vì những tưởng
tượng tầm xàm.
»Trình, gọi Nụ ra đây cho tụi mình đặt nước cá độ!«, một đứa
ra lệnh.
»Tại sao cứ phải tao?«, tôi gắt.
»Chỉ có mày gọi, Nụ mới ra. Chỉ có mày dí củ cà-rốt vào cửa
hang, thỏ mới lộ diện«, đứa khác nham nhở.
Cả lũ bật cười khoái trá.
»Bằng trái ớt chỉ thiên đã là may«, một đứa lớn giọng.
Tôi nhún vai, phớt tỉnh. Chỉ có thế mới thoát nạn. Tôi lên tiếng
hỏi lũ bạn uống gì để vào gọi. Còn đang nhấp nhổm vì sắp sửa tới lượt chơi thì
người đàn ông cá khô đã nhỏ nhẹ cất lời:
»Khi nào anh vào trong, cho tôi nhờ một việc.«
»Anh muốn uống gì?«, tôi mau mắn.
»Không, không phải để gọi nước, tôi nhờ anh nhắn với Nụ đôi lời.«
Tôi chau mày nhìn thẳng vào mặt người lạ. Cả bọn đang lếu láo
bông đùa, cũng im lặng đưa mắt nhìn nhau dò hỏi. Người đàn ông nhếch cười:
»Tôi muốn dành cho Nụ một ngạc nhiên đó mà. Anh nói với Nụ,
có người tên Đăng gởi lời hỏi thăm.«
Nói xong, anh ta đứng dậy, gật đầu chào mọi người, bỏ đi một
mạch. Cả bọn ngơ ngác nhìn nhau, lao xao bàn tán:
»Đúng là quái chiêu.«
»Ma cà rồng đội mồ sống dậy, tìm Nụ xin tí huyết.«
»May là hắn chưa biết chuyện nghêu sò ốc hến giữa Nụ và thằng
Trình nhà mình.«
»Nếu không, chắc chắn có màn đánh ghen, xé quần áo vũ xếch-xy,
coi không tốn tiền.«
»Tụi mày nhiều lời, lát nữa tao đếch kể lại cho nghe!«, tôi tố.
Cả lũ nín khe. Nói rồi, tôi hiên ngang đi vào phòng trong. Chỉ
có vài người ngồi trong góc quán đèn mờ, rên rỉ khúc hát
Karaoke: "Tôi xin người cứ gian dối, nhưng xin người đừng lìa xa
tôi... [7]". Nụ ngồi sau quầy, tươi tắn ngước lên. Gọi nước xong, tôi buông câu thòng:
»Có người tên Đăng tới hỏi thăm em.«
Nụ sửng mặt, toan chạy ra thì tôi đã cản lại:
»Đi rồi.«
»Lâu chưa? Sao không cho em biết ngay?«, Nụ chặn tay lên ngực,
vồ dập.
»Anh ta có vẻ chưa muốn gặp em. Ai vậy?«, tôi điềm nhiên.
»Nụ sẽ kể anh nghe sau. Trời ơi, sao Đăng biết em ở
đây? Không muốn gặp, tới làm gì?«, Nụ thở dài.
Tôi đặt tay lên vai Nụ:
»Bình tĩnh lại, anh ta đâu còn ở đây mà em rối lên như vậy.«
Vài người khách quay lại nhìn chúng tôi. Nhạc đã dứt từ lâu.
Có người lên tiếng nhắc đổi bài. Nụ loay hoay thay đĩa. Tôi trở ra với đám bạn,
tiếp tục cuộc chơi dở dang mà tâm trí váng vất nơi đâu. Chuyện tôi và Nụ không
đơn giản như tôi nghĩ. Dĩ vãng Nụ hình như cũng có vài gút mắc.
Khi Nụ mang nước ra cho chúng tôi, tôi để ý thấy màu mặt nàng
hơi tái. Hay vì tôi tưởng tượng quá đà? Nụ không nhìn tôi, chỉ đối đáp nhát gừng
trước vài lời chọc ghẹo vu vơ.
Tới giờ đóng cửa, tôi chở Nụ về như thường lệ. Đến nhà, tôi hỏi:
»Nụ có muốn anh ở lại đêm nay?«
Nụ lưỡng lự vài giây rồi khẽ lắc đầu, nhưng không xuống xe.
Tôi xin phép Nụ châm một điếu thuốc, kéo kính xuống. Hương đêm trong lành
hòa cùng hơi thuốc lá ngọt nồng. Mặt đất hốt nhiên hoang vu tĩnh lặng như phút
giây trước cơn biến thiên kinh hồn. Giờ phán xét đã điểm. Tôi là kẻ đứng ngoài
trận nội chiến tanh hôi trong lòng Nụ, bình thản phì phèo thuốc lá, chờ nghe địch
thú tội.
Nụ bắt đầu tự khai:
»Không ngờ Đăng tìm tới đây... Nụ hoàn toàn có lỗi trong chuyện
này. Em là con đàn bà vô luân, anh biết không? Em và Đăng sống với nhau không
hôn thú một khoảng thời gian dài. Lúc đầu em yêu Đăng lắm chứ, nhưng càng lúc
em càng thấy anh ấy có những bản tính không thích hợp. Tâm lý Đăng yếu đuối, ù
lì, thụ động quá. Em không thích mẫu đàn ông khép mình trước hoàn cảnh. Thất
nghiệp thì đi tìm. Không làm được việc này thì việc khác. Đăng không vậy. Anh
tuyệt vọng rồi đâm nghiện rượu và cờ bạc. Khó xử nhất là tính ít nói của anh ấy.
Hỏi thì trả lời lừng khừng. Hạch sách thì bỏ đi. Cuối cùng chỉ mình em giải quyết
những khó khăn vật chất. Cho tới lúc... lúc... em lỡ... mang thai.«
Tới đó, Nụ khựng lời, mở xắc tay lấy khăn chặm nước mắt. Tôi
dụi điếu thuốc sắp tàn. Cả tối tôi hút hơi nhiều, cổ họng nhám rát. Nụ chậm rãi
tiếp lời:
»Nụ không... không muốn giữ đứa bé, nhất là khi bác sĩ cho
hay nó sẽ bị chứng si ngốc. Nhưng bỏ không đành, Đăng cũng không muốn. Có lẽ vì
vậy mà giữa em và đứa con chào đời sau này có một ngăn cách tâm sinh lý. Em
khép mình vào hoàn cảnh cho tới khi thằng bé lên bốn, mới bỏ đi...«
Nụ nấc lên, mắt mũi ràn rụa. Tôi tìm tay nàng, siết chặt.
»Em là một người mẹ tồi tệ, đáng bị ném đá, lăng trì, anh biết
không?«, Nụ than van.
Tôi không biết phải an ủi Nụ thế nào. Nụ tệ thật. Nhưng nàng
đáng trách và đáng thương cùng lúc. Cả gã quái tăng tên Đăng và đứa trẻ với chứng
bệnh si ngốc kia nữa. Tôi than thầm, trời ơi, cuộc đời là bể khổ, con người ngụp
lặn trong vô lượng trầm luân mà không hay. Cái ngã của chính tôi và của những
tha nhân chỉ là muôn trùng bụi bặm lang thang trong vòng nhân sinh vô biên. Tôi
lẩm nhẩm so sánh tội lỗi của Nụ và của mình. Tôi mang tội bất hiếu, xa nhà,
không báo đáp ơn sinh dưỡng của mẹ cha. Tôi mang tội vô ơn, xa tổ quốc, không
làm nên tích sự gì cho đất nước. Tôi còn có tội với nhiều người, vì không thể
đáp ứng những tình cảm lớn nhỏ mà họ đã dành cho tôi. Tội của tôi đong đầy
thúng, Chúa hay Phật biết được, chắc phải lắc đầu ngao ngán. Thế nên, trong khoảnh
khắc này, tôi cảm thấy đồng điệu với Nụ hơn bao giờ hết.
»Nếu em muốn, anh sẽ chở em đi thăm con«, tôi ngọt giọng.
Nụ vẫn nghẹn ngào:
»Không biết Đăng có còn ở chỗ cũ.«
»Thế nào anh ấy cũng trở lại tìm em.«
»Em có linh cảm, Đăng tới để báo tin chẳng lành.« Rồi Nụ rú
khẽ: »Chúa ơi, không lẽ...«
»Không đâu, chắc không có gì đâu. Đừng nghĩ nhảm!«, tôi vuốt
vai nàng, ngắt lời.
Nụ nghiêng người, ngả đầu vào tay tôi, bờ vai run run. Tôi áp
mặt xuống tóc Nụ. Vẫn hương thơm gần gũi. Tôi khép mắt, thấy ra cánh đồng lúa
mì vàng rợp trong nắng gió. Có người con gái đạp xe trên đường đất, một tay vịn
vành nón rơm. Tóc vàng phất phới. Tôi ngồi trong chuyến xe đò liên tỉnh có máy
điều hoà không khí, cửa kính im ỉm, trông ra, tưởng như đang xem một cảnh phim.
Bóng tối lập lờ theo luồng sáng phát ra từ phòng chiếu. Máy lạnh khiến chúng
tôi càng nép sát nhau hơn. Tôi tìm tay nàng, đan lại, nghe hơi thở mình hao hụt
đứt quãng. Tôi là người thợ lặn mò tìm trân châu. Thịt da bào ngư mềm mại dưới
ngón tay tôi mọ mẫm. Hàm răng san hô sáng ngời, hé đợi môi kề. Tôi thấy mình
tan biến vào đại dương cảm xúc bao la. Nắng soi mảnh nhấp nhô theo sóng. Người
con gái tóc vàng vẫn một tay vịn vành nón rơm, đạp thong thả trên lối hẹp giữa
cánh đồng lúa vàng ngút ngàn. Con đường như vết dao rạch ngọt, không kịp tươm
máu. Dòng sông nào đã hút hết tinh tuý địa cầu, để mặt đất bị thương, chẻ thành
ngàn lối vô hướng.
Nụ ngẩng đầu, vuốt lại nếp áo nhăn vì tay tôi tham lam. Người
thợ lặn trồi lên mặt nước. Đôi tay trống không. Chẳng bào ngư, cũng không san
hô hay ngọc trai ngọc gái gì ráo, chỉ một mớ thực tại rối nùi như những bài
tình ca không tên. Tôi ngân nga:
»"Nòng" người như chiếc "ná", xoáy
xoay trong hồn, nhiều cơn "nốc" cuốn…«
»Người ta đang rầu rĩ gần chết, còn đùa«, Nụ gắt.
»Chuyện đâu còn đó, em có khóc tới khô nước, cũng không giải
quyết được gì.«
»Ít ra cũng được... cái buồn.«
»Trời đất.«
»Buồn để ngẫm lại những gì mình đã làm, để hồi hướng chuộc tội.«
»Thôi, cho anh xin, đừng giảng đạo trong lúc này«, tôi xuýt
xoa.
»Ai thèm«, Nụ hứ.
»Không thèm thì thôi, về đây!«, tôi cười khì.
Nói xong, tôi chờ nghe câu hỏi ngơ ngẩn của Nụ: "Về thật
à?", để làm nũng. Ngờ đâu, Nụ không nói lời nào, lẳng lặng cắp xắc tay, mở
cửa bước ra, đóng xập lại. Nụ và bóng nghiêng lệch bên hè phố chênh vênh sáng tối.
Thần trí tôi cũng lao chao, lẫn lộn giữa ngày và đêm. Tôi biết, khuya nay tôi lại
co mình rã rượi trong dòng hồi tưởng lũ lụt vào mùa nước lớn.
Tôi là một người bất hạnh trong chuyện tình cảm, lại mang nhiều
bản tính mâu thuẫn. Trong khi Nụ tự nhận nàng là người "cà giựt", thì
tôi ngấm ngầm cho mình vướng phải "hội chứng Peter Pan". Thuật cho Nụ
nghe, nàng cười cợt, bảo tôi: "Già mà còn dê, người ta gọi là già dịch".
Oan thay, tôi chưa thả dê tán tỉnh ai bao giờ. Ngược lại thì có, thành ra tôi
kênh kiệu như một mụ thứ phi có nhan sắc giữa đám cung nữ quê mùa thô kệch. Đã
có lần Nụ tự xưng là bà vua, gọi tôi là "cung nam" của nàng. Tôi chịu
liền, bèn thỏ thẻ:
»Đời nay ai gọi là bà vua, mà là vua gái.«
»Chữ gái gần với cái, nói lộn nghe mất giá«, Nụ phì cười.
»Vua cái, cung đực và một bầy thái giám, có sao đâu?«, tôi
bênh vực.
»Đừng hỗn, mang tội khi quân, mất đầu bây giờ!«, Nụ phán.
»Muôn tâu bà vua, bà tha cho... em«, tôi xì xụp.
»Không được xưng em, mà phải xưng là ái nam«, Nụ sửa.
»Trời đất, nghe như người đồng bóng. Bà vua ơi, đừng gọi thế,
mất hứng!«, tôi kêu lên.
»Ái, sao dám hứng với vua?«
»Chớ nói làm sao? Vua gì khó quá, người ta chịu gì nỗi«, cung
nam nũng nịu.
Nụ cười ngặt nghẽo, vít đầu cung nam xuống, hăm he hài tội.
Cung nam không sợ, nhõng nhẽo:
»Bà vua muốn để cho người ta tìm... chấm G không?«
»Chấm gì?«, bà vua ngơ ngác.
Tôi kéo đầu Nụ, thì thầm vào tai, như sợ các tĩnh vật nghe được.
Nụ đấm tới tấp vào ba sườn tôi, nghiến răng:
»Láo thật! Hay để ta tìm cho ngươi!«
»Ái nam chỉ có chấm D, vạch ra, thấy liền, khỏi tìm.«
Đó là chuyện cũ, giờ đây tôi và Nụ đang ở trong tình huống
khó xử. Nụ và quái tăng Đăng. Tôi và những uẩn khúc nội tâm của quá khứ chưa
lành và của hoàn cảnh chung quanh. Rồi, vào một tối, chuyện gì tới phải tới.
Quái tăng tên Đăng trở lại tìm Nụ. Không biết hai người nói gì với nhau mà tôi,
đang lơ đễnh thụt bi-da phòng ngoài, chợt nghe tiếng Nụ hét thất thanh. Tiếp
theo là âm thanh vỡ vụn của thuỷ tinh va vào tường. Cả lũ ùa vào. Tôi thấy Nụ đứng
run lẩy bẩy bên quầy nước, mặt thất thần. Vài người vây quanh, ngơ ngác
nhìn nhau. Có người giúp nàng, lo thu dọn những mảnh ly vỡ trên thảm. Đăng vẫn
bình tĩnh ngồi hút thuốc bên bàn con. Tôi tới cạnh Nụ, giơ tay toan vuốt vai
nàng, tìm lời trấn an thì nàng đã hất mạnh tay tôi ra, mắt long lên như hai hòn
than đỏ, kèm theo tiếng gầm gừ:
»Đừng tới gần tôi!«
»Có gì thì nói, không nên đập phá!«, tôi nhỏ nhẹ.
»Ai khiến anh xía vào?«, Nụ hung hữ như chó cái nằm ổ.
»Em có nóng giận cũng không giải quyết được gì«, tôi nhẫn nại.
Rồi tôi kéo Nụ vào bếp, kéo màn che những ánh mắt tò mò.
Nụ gục đầu vào ngực tôi, rấm rứt:
»Nó... nó… chết thật rồi.«
Tôi hiểu ra. Đúng như lời Nụ tiên đoán, hôm nay Đăng đến để
báo tin con mất. Tôi không biết phải dùng lời lẽ nào để an ủi Nụ, đứng vuốt tóc
nàng riết. Tóc nàng sợi vắn sợi vài. Lệ nàng cũng vắn dài truân chuyên. Tôi khẽ
cất giọng:
»Thuở ấy em vừa thôi kẹp tóc, thuở ấy anh vừa thôi học xong.
Yêu anh yêu anh, em làm thơ. Yêu em yêu em, anh soạn nhạc... Tóc mai sợi
ngắn sợi dài, lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm... [8]«
Tiếng nấc Nụ nguôi dần.
»Mọi chuyện, coi như xong. Em cũng nên cám ơn Đăng!«, tôi
chép miệng.
»Tất cả do lỗi của em«, Nụ ngẩng mặt.
»Không ai có lỗi cả, số mệnh đã an bài như vậy, cãi cũng
không được«, tôi bắt đầu đóng tuồng.
Nụ thuộc lòng "tuồng tích" của tôi, không nói, sụt
sịt hỉ mũi rồi mở màn, bước ra. Tôi tới kéo ghế ngồi đối diện người tên Đăng.
Anh ta mời tôi điếu thuốc. Bàn tay anh run nhẹ khi mồi lửa.
»Tôi tên Trình, bạn của Nụ«, tôi tự giới thiệu.
»Còn lý lịch tôi, chắc anh biết hết rồi?«, Đăng nhướng mắt.
»Nụ có kể sơ.«
Giọng Đăng chùng xuống:
»Cũng lạ... Sau khi Nụ bỏ đi, thằng bé cứ khóc đòi mẹ, vậy mà
lúc bệnh trở nặng, sắp chết, nó không nhắc lấy một tiếng.«
Tôi trầm ngâm nhìn người đàn ông qua làn khói xám. Anh tiếp
giọng kể, tự buộc tội mình. Bỗng dưng tôi thấy ra chân lý đời sống. Tất cả chỉ
là một trò trốn tìm với đông đảo người tham dự. Tôi đang ẩn mình trong chiếc vỏ
yên lành. Con còng nhỏ co thân trong vỏ ốc vay mượn, không ngó ngàng gì tới bão
tố bên ngoài. Nó an phận như thế, cho tới lúc tự cảm thấy cuồng chân, mới đi
tìm. Điều gì? Cũng chỉ là chiếc vỏ khác. Tại một nơi và thời điểm khác. Nó tự
đánh lừa nó. Tôi tự đánh lừa tôi bấy lâu nay bằng những ảo ảnh quá khứ. Mọi
chuyện đã xong, sao tôi cứ mãi bám víu như hồn ma còn vương vấn cõi âm, chưa chịu
đầu thai. Như một trưa chủ nhật nọ, tôi vui chân dạo chợ bán đồ cũ, dừng bên sạp
tạp hoá của một người Tàu già. Tôi và ông gật đầu chào nhau. Tôi nhận ra nhiều
nét thân quen trên gương mặt ông. Đôi chân mày bạc rậm. Cặp mắt sáng. Nếp da
nhăn ngang dọc... Phải rồi, tôi kêu thầm, run tay nâng lên từ rổ mây khoen tiền
kẽm rỉ mòn. Tôi nhận ra lập lờ bóng dơi quấn quanh chữ phúc của ngày xưa nơi đền
rùa vàng. Tôi lắp bắp hỏi cụ già gốc gác đồng tiền. Cụ cười xòa, bảo loại tiền
xu ấy, ở Trung hoa thời xưa thiếu gì. Tôi định hỏi thêm, có bao giờ cụ sống ở
Việt Nam, đã từng cai quản một ngôi đền có hồ nuôi hàng trăm con rùa, nhưng chợt
thấy ra quai hàm cụ có một nốt ruồi lơ thơ vài sợi lông bạc, mới thật sự tin rằng,
không phải cụ chủ đền năm xưa. Tôi từ giã cụ già, thẫn thờ lách giữa đám đông
như người hành tinh lạc xuống địa cầu. Vẫn còn một chiếc bóng lẽo đẽo bên tôi.
Mãi mãi. Suốt đời.
Những ngày sau đó, Nụ bệnh liệt giường. Chiều nào tôi cũng
ghé ngang, lo chuyện cơm nước cho nàng. Bị bệnh, lạt miệng, Nụ thèm ăn toàn những
nón độc đáo như cá kho tiêu, thịt kho quẹt hay hột vịt muối. Cá hay thịt kho,
tôi còn trổ tài được, chứ món trứng vịt muối, tôi chịu. Tôi vỗ về, bên này
không có hột vịt, anh sẽ ngâm hột gà trong nước muối một tháng, tha hồ cho em
ăn. Nụ nhõng nhẽo, tới lúc đó em đã hết bệnh, không thèm nữa. Dù vậy tôi vẫn
mua một chục hột gà, quậy nước cho "no" muối, ngâm để dành. Nụ cảm động
ra mặt, không gọi tôi là "cung nam" nữa, mà là "đường",
xưng "sữa". Tôi đùa, chỉ còn thiếu cà-phê là đủ bộ... tam sên.
Cũng đã lâu rồi, tôi và Nụ không còn tranh cãi nhau về chuyện
thần thánh. Không biết Nụ coi chuyện tín ngưỡng quan trọng tới đâu, phần
tôi, điều đó thuộc hàng thứ yếu. Tôi không tin vào phép lạ. Những lúc nghe Nụ
mê man giảng đạo, tôi hay buột miệng, trông em giống một bà già Bắc kỳ nhà quê
ngoan đạo quá à! Nụ ngớ mặt, nhìn tôi nháng lửa. Rồi nàng nhấn giọng, một, em
không phải là Bắc kỳ mà là "tùm lum kỳ"; hai, em là kẻ có đức tin,
không phải vô thần như… người ta. Tôi đã quen với luận cứ cũ rích này,
nên im lặng để tránh tai ương, dù lòng vẫn đề quyết rằng ý nghĩ của Nụ còn ấu
trĩ lắm. Nhưng Nụ không ấu trĩ, mà tinh ranh như cáo.
Hôm bệnh giảm, Nụ đi chợ làm cơm, gọi điện mời tôi tới ăn.
Nàng nấu một món Bắc, một món Nam: súp bóng và bánh xèo. Nụ vừa tráng bánh vừa
ba hoa:
"Bột đổ bánh xèo phải có nước cốt dừa mới béo, mới thơm.
Ngoài hành lá, hành củ, tép, thịt ba chỉ và giá ra, cũng đừng quên thêm chút đậu
xanh cho bùi. Nhưng quan trọng nhất vẫn là nước mắm đúng điệu Nam kỳ quốc. Mằn
mặn, ngòn ngọt, chua chua, cay cay. Anh coi, em đổ bánh xèo có giống một con mẹ
Nam kỳ quấn khăn rằn không?«
"Em là một mụ tùm lum kỳ dễ thương nhất nước«, tôi xuề xòa.
"Lâu lắm mới nghe anh nịnh trở lại.«
"Đàn ông nịnh trực tiếp, đàn bà gián tiếp. Họ suốt đời chạy
bên lề cuộc suống.«
Nụ quay mặt, mím môi ngó tôi:
»Lại văn chương ba xu.«
»Nếu không vì hoàn cảnh, anh đã trở thành văn sĩ«, tôi khề
khà nhấp một ngụm bia.
»Ủa, em tưởng anh thích làm ca sĩ«, Nụ ngạc nhiên.
»Mười bốn tuổi, anh bị bể tiếng, trổ giọng vịt đực, mộng làm
ca sĩ tan tành.«
Nụ trút bánh ra dĩa, mùi thơm làm tôi chảy nước miếng.
»Cho anh ăn thử, coi bột có vừa chưa!«, tôi đổi đề tài.
»Dạ, coi nước mắm em pha có hợp khẩu vị anh không!«, Nụ ngoan
ngoãn.
Tôi cặm cụi quấn bánh với xà-lách và rau sống, nhấm nháp ngon
lành. Tuyệt vời. Không còn nghi ngờ gì nữa, thượng đế vừa ban phép lạ đem Nụ đến
cho tôi. Xin tạ ơn Chúa, Phật, A-la, Bà-hai và hết thảy đấng giáo chủ, kể cả
ông đạo Dừa và bà vô thượng sư Thanh Hải. Nhất là tạ ơn em. "Ơn em
khuya sớm hai lần, giấu quanh giấu quẩn áo quần một nơi..." Tạ ơn các
loại rau thơm. Tía tô, dấp cá, kinh giới, ngò gai, ngò rí, húng quế, húng lủi.
Tạ ơn nước mắm hiệu ba con cá cơm. Không có những thứ này, chắc tôi đã xa đời
nơi xứ lạ từ lâu. Thân phận tôi, ôi, nổi trôi như vận mệnh Thúy Kiều. Buồn thảm
lắm. Ấy mà khi tôi nhấm bánh xèo với bia lạnh, tôi quên tuốt. Không còn những
hoài nghi về bản ngã. Những đại triết gia của nhân loại cỡ Nietzsche, Hegel hay
nửa mùa như Sartre, Schopenhauer đều được tôi mời đi chỗ khác chơi. Những tâm
sinh lý gia xuất chúng như Freud, Jung lần lượt trở thành người đi qua đời tôi.
Còn văn hào và thi bá ư? Dẹp hết. Tất cả đều không bằng một miếng bánh xèo trôi
qua cổ.
Nụ ngồi vào bàn, ăn lấy lệ. Tôi ngừng tay gắp, hỏi:
"Mệt à?"
"Dạ"
»Tỷ như anh là triệu phú, chúng mình sẽ đi biển nghỉ mát.«
»Đừng nhắc, làm em nhớ«, Nụ rên rỉ.
»Nhớ gì?«, tôi ngớ ngẩn.
»Nhớ nhà, nhớ đất, nhớ quê hương, nhớ đủ thứ.«
Tôi buông đũa. Nỗi nhớ của Nụ làm tôi hết đói. Nụ chậm chạp
khều đũa vào dĩa bánh nguội tanh, gắp uể oải. Không khí nặng trịch như đựng
toàn những phân tử nhớ không tên, chưa được khoa học gia nào khám phá. Trời đất,
ngoảnh lại, mới hay tôi xa nhà đã hơn hai mươi năm. Thời gian xa quê dài hơn thời
gian tôi sống ở đất nước. Tôi lẩn thẩn tự ví mình như một con đại thử bê-by.
Lúc sơ sinh, nó nhỏ bằng ngón tay cái, từ bụng dưới men vào bầu túi mẹ, tìm núm
vú, bú ròng rã tháng ngày. Nó lớn lên an lành hồn nhiên trong thể tích chật chội
nhưng ấm áp ấy. Để lúc trưởng thành, nó bỏ mẹ, lưng tưng phóng đi, quên tuốt thời
ấu thơ trong tù giam hạnh phúc. Loài đại thử có bao giờ hồi tưởng? Chắc không.
Còn con đại thử giả hiệu nhưng nhiều cảm xúc trong tôi thỉnh thoảng lại nhớ về.
Lúc ngả bệnh, khi không gian chuyển mùa. Lúc thất tình, khi chuếnh choáng hơi
men, nỗi nhớ lại dấy đau âm ỉ. Tro than hoài niệm còn tươm khói. Hoả sơn vẫn
sôi sụt niềm đau sinh quán.
Tâm trạng này, tôi biết, nên tôi thông cảm Nụ trăm phần trăm.
Hai nỗi đau riêng hợp thành niềm đau chung. Tối vào giường, Nụ ôm tôi, khóc tỉ
tê. Tôi cũng ứa nước mắt, nhưng cố giữ, vì... nam nhi hề, quay lưng thề không
trở lại. Nam tính ngu muội trong tôi, loài đại thử vô bản tính hồi cố quận ấy
đã lấp mất biết bao dòng sông chờ đưa người về.
Tôi ve vuốt sống lưng Nụ, không dám sàm sỡ thêm, sợ vấy bẩn
phút giây tưởng niệm thiêng liêng này. Tôi thều thào lạc đề:
"Đất nước mình kỳ cục nhất thế giới, buổi tổ chức nào cũng bắt
đầu bằng một phút mặc niệm. Lúc nào cũng có kẻ phải hy sinh, bao giờ mới khá?". Rồi tôi lả lơi bông đùa: "Đừng bao giờ bắt anh nghiêm chỉnh mặc niệm, hát quốc
ca, chào quốc khi trước khi mình yêu nhau!«
»Người ta đang buồn nhểu nhão, còn giễu cợt«, Nụ dúi mặt vào
cổ tôi, càu nhàu.
»Con tim trân tráo không bao giờ biết đến nói dối«, tôi hát
hò.
»Vậy cho Nụ hỏi anh câu này!«, Nụ thầm thì.
»Cứ tự nhiên.«
Nụ ngập ngừng khiến tôi linh cảm chuyện chẳng lành, toan ngăn
lời, nhưng đã muộn.
»Có khi nào anh... anh nghĩ tới chuyện tổ chức một
buổi tiệc chính thức hóa...«
Nụ bỏ lửng câu nói, hé môi nhằn cổ tôi. Người tôi xốn xang,
tim tôi bồi hồi. Tôi đang ngửa cổ hiến dâng máu thịt mình cho một con ma cà rồng
cái. Rồi tôi bị nhiễm trùng ma dơi, sẽ ngủ ngày, đêm bay lang thang tìm hút máu
người.
»Đừng cắn anh!«, tôi phản công yếu ớt.
Địch tràn tới, hãm thành bằng "mỹ nhân kế".
»Đừng bắt anh thành ma giống em!«, tôi ngọ nguậy.
Địch dừng tay, giọng ngơ ngác:
"Cái gì?"
Tôi bật cười thành tiếng.
»Khùng điên gì đâu không. Anh còn nợ em câu trả lời«, Nụ lẩm
bẩm.
Tôi dùng kế hoãn binh:
"Cho anh thời gian suy nghĩ. Chuyện này quan trọng, liên quan
tới thời cuộc quốc tế, tình hình Cu-ba đang căng thẳng, không nên nôn nóng".
"Anh khùng thật rồi".
"Người ta lấy người khùng làm chồng, chớ không ai lấy chồng rồi
làm cho khùng!", tôi láp dáp.
"Hả? Nói cái gì kỳ cục vậy, hả, hả?", Nụ đấm thùm thụp lên ngực
tôi.
Tôi giữ chặt hai tay Nụ. Trong vũng sáng lòa nhòa ngọn đèn
đêm, Nụ và tôi đối mặt nhau. Hai mắt nàng long lanh. Tự dưng tôi mệt mỏi như kẻ
hoang đàng sa đọa lâu ngày vừa trở lại nhà. Không chừng Nụ đã truyền vi khuẩn
cúm sang tôi. Ừ, lâu lâu cũng nên lâm bệnh một lần để làm nũng với... người ta.
Dường như có vì sao nào vừa rơi lạc vào đáy mắt Nụ làm tôi xúc động bâng
khuâng. Tôi bắt chước giọng Bắc kỳ di cư của Nụ, nhủ thầm: "Chao ôi, sao mấy
chuyện trăng sao cứ dây dưa theo mãi tôi, suốt đời thế này?"
Chú thích:
[7] Kiếp
đam mê, Duy Quang.
[8] Tóc
mai sợi vắn sợi dài, Phạm Duy.
11/3/2018 Ngô Nguyên Dũng
11/3/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét