J.W.Gớt, G.W.PH. Hêghen, C.Mác: Bàn
về tính dân tộc trong
văn nghệ
Gớt, Hêghen, Mác là những nhà tư tưởng lớn của nhân loại. Cả
ba ông đều là người Đức và đều dùng phương pháp biện chứng khi nghiên cứu các
hiện tượng nghệ thuật. Những quan điểm mỹ học của họ có ảnh hưởng lớn đến nền
lý luận, phê bình và sáng tác nghệ thuật của nhiều nước trên thế giới. Một
trong những luận điểm quan trọng của họ là khẳng định vai trò to lớn của tính
dân tộc trong văn nghệ.
J.W.Gớt (1749 - 1832), là một nhà thơ nổi tiếng người Đức,
tác giả của các kiệt tác Fauxt, Nỗi đau chàng Vecte. Tể tướng Gớt còn là một
nhà bác học am hiểu nhiều ngành khoa học tự nhiên và xã hội. Các quan điểm mỹ học
của ông được thể hiện một phần qua các sáng tác thơ văn, một phần qua các công
trình lý luận như: Laocôôn (1798). Về sự thật và dường như thật của tác phẩm
nghệ thuật (1797-1798), về đối tượng của nghệ thuật tạo hình (1797), Nghiên cứu
của Điđôrô về hội họa (1799) và các thư từ trao đổi với bạn bè,… Ông đề cập khá
nhiều vấn đề nghệ thuật trong đó có vai trò của tính dân tộc. Gớt cho rằng, đặc
tính của mỗi dân tộc chi phối đặc điểm nghệ thuật của dân tộc đó. Nói cách
khác, dân tộc thế nào thì văn nghệ thế đó. “Không một nghệ sĩ nào lẫn trường
phái nào được quan sát một cách biệt lập, nó liên quan tới vùng đất nơi anh ta
sống, với công chúng của dân tộc mình, với thế kỷ này” [4,tr 167]. Đó cũng là
quan điểm chủ đạo của các nhà nghiên cứu, lý luận văn nghệ theo trường phái văn
hóa - lịch sử sau này. Dùng phương pháp xã hội học văn học, ta có thể lý giải được
nguyên nhân của nhiều hiện tượng nghệ thuật. Chẳng hạn, dân tộc Anh có sở trường
về kịch nên đã chắp cánh cho Sếcxpia thành công rực rỡ. “Sự sáng tạo thơ ca của
Sếcxpia là hội chợ hằng năm lớn, trường sinh, và ông phải cảm ơn tổ quốc ông về
sự giàu có này” [4,tr 185]. Nhưng không phải dân tộc nào cũng có sở trường về
kịch. “Văn học Irăn không có kịch. Liệu có thể xuất hiện một nhà thơ viết kịch
chăng khi mà toàn bộ nền văn học của họ phải thích nghi với cái nhìn khác?” [4,
tr108]. Theo ông, chế độ quân chủ độc tài của Irăn thời đó không khuyến khích
trao đổi ngôn luận, mọi người đều thích sự yên ổn và “cũng không lắm điều về
chính mình”. Cho nên thể loại kịch không có mà chỉ phổ biến những thể loại cần
có sự hư cấu “bịa đặt” nhiều như các bài thơ dài và truyện cổ tích. Gớt cho rằng
văn học dân gian có ảnh hưởng lớn đến văn học viết, là nền tảng vững chắc để
xây dựng nền văn chương bác học. “Nó xuất hiện càng tươi mới, càng có tính tự
nhiên thì các thời đại tiếp theo sau nó phát triển càng thuận lợi hơn” [4, tr
131]. Ngay cả bản thân Gớt cũng ảnh hưởng khá nhiều văn học dân gian. Hêghen nhận
xét rằng, những tác phẩm đầu tay của Gớt đạt đến vẻ đẹp tươi tắn nhờ được khơi
nguồn từ dân ca: “Các tác phẩm thâm trầm và hồn nhiên nhất của ông vẫn là những
ca khúc đầu tiên” (thời còn chịu nhiều ảnh hưởng của thơ ca dân gian). Gớt đã từng
nêu lên câu hỏi: “Bao giờ và ở đâu sẽ xuất hiện một tác gia dân tộc cổ điển?”
Từ thực tế sáng tác của mình và sự đúc kết kinh nghiệm của nhiều nhà tư tưởng,
Gớt đưa ra kết luận: một nghệ sĩ chỉ trở thành thiên tài dân tộc
“khi tác giả đó tìm thấy trong lịch sử dân tộc mình những sự kiện lớn lao (…)
khi anh ta không làm mất cá tính lớn lao trong tư tưởng của đồng bào mình và
cái sâu sắc trong tình cảm của họ (…) khi anh ta tìm thấy dân tộc của mình ở
trình độ cao của văn hóa” [4.tr 149]. Anh ta phải biết tiếp thu những thành quả
và kinh nghiệm của những người đi trước, là học trò của họ nhưng “anh ta không
cần trả tiền thầy giáo nặng nề rằng anh ta có khả năng để nhìn thấy trước, để sắp
đặt và để hoàn thành một tác phẩm lớn trong những năm tháng tốt nhất của cuộc đời
mình” [4, tr 150]. Như vậy, một thiên tài nghệ thuật không chỉ có năng khiếu bẩm
sinh mà còn nhờ sự hỗ trợ của dân tộc mình. “Thiên tài được quy định
một phần nhờ ở tài năng bên trong và niềm tin riêng, một phần nhờ vào dân tộc
và thời đại (…) Tác phẩm đã mang lại cho anh ta danh dự, làm cho đồng bào của
anh ta vui mừng và đồng thời khuyến khích cho anh ta đi xa hơn” [4, tr 166]. Gớt
rất đề cao vai trò của công chúng đối với nghệ thuật. “Công chúng
có ảnh hưởng rất lớn đến nghệ thuật (…) chính nghệ sĩ là một bộ phận của công
chúng (…) Nghệ sĩ tự phản ánh mình trong dân tộc và thời đại của
anh ta” [4,tr 98]. Quan điểm ấy còn được phát biểu gián tiếp qua vở kịch thơ
Fauxt. Trong màn “Giáo đầu ở nhà hát”, nhân vật giám đốc nhà hát đề nghị nhà
thơ phải viết những tác phẩm bình thường, dễ hiểu để đáp ứng thị hiếu nhất thời
của đông đảo khán giả. Nhà thơ phản đối và cho rằng, cần phải viết những tác phẩm
cao siêu dành cho tương lai. Còn diễn viên thì về cơ bản đồng tình với nhà thơ
nhưng cũng băn khoăn cùng với ông giám đốc “ai lo giải trí cho khán giả đương
thời”. Qua cuộc tranh luận đó, Gớt bộc lộ quan điểm: nhà thơ phải sáng tác để
phục vụ đông đảo công chúng, đó là những khán giả chân chính và say mê nghệ thuật
chứ không phải chỉ phục vụ cho một số ít người thuộc giai cấp quý tộc. “Viết
bi kịch Fauxt, Gớt hướng về nguồn cảm hứng dân tộc” (Phùng Văn Tửu) [1, tr
394]. Nhà phân tâm học C.G.Jung (1875-1961) xuất phát từ lý thuyết “siêu
mẫu”, “vô thức tập thể” để giải thích ngọn nguồn dân tộc trong sáng tác của Gớt
“Không phải Gớt tạo ra Fauxt mà là Fauxt tạo ra Gớt… Ở đây có một cái gì đó sống
trong tâm hồn mỗi người Đức và Gớt đã giúp cho cái đó ra đời”. Nhưng quan điểm
của Gớt không siêu hình như vậy, ông có cái nhìn biện chứng hơn. Sở dĩ một tác
giả có được sự thành công là do biết bám vào gốc rễ dân tộc, được sự hỗ trợ của
đồng nghiệp và công chúng ngay trong thời tác giả đang sống. “Thi ca Pháp cũng
như văn học Pháp không khi nào tách khỏi cuộc sống và nhiệt huyết của
toàn bộ tính cách dân tộc” (Đôi điều xa xôi về văn học thế giới-1829) [4,tr
171]. Trong khi khẳng định vai trò của dân tộc đối với tác phẩm, Gớt cũng thừa
nhận sự ảnh hưởng của các dân tộc khác trong quá trình giao lưu văn hoá. Hêghen
cho rằng, Gớt đã đưa những yếu tố phương Đông vào các tác phẩm “Thơ đi-van Đông
phương-Tây phương”, “Iphigiêni”. Nhưng ông chỉ mượn các yếu tố nước ngoài “làm
cái khung cho các hình tượng”. Gớt cũng chủ trương một nền văn học thế giới. “Ở
thời đại chúng ta, văn học dân tộc không còn ý nghĩa gì nhiều, bây giờ là thời
đại của văn học thế giới và mỗi chúng ta còn phải góp phần làm cho thời đại đó
hình thành càng sớm càng tốt”. Nói như vậy không có nghĩa là ông kêu gọi xoá bỏ
bản sắc văn học dân tộc. Thực ra là ông ngầm kêu gọi xoá bỏ tình trạng cát cứ của
các lãnh chúa quý tộc Đức thời bấy giờ, đề nghị mở rộng giao lưu giữa các công
quốc và thống nhất đất nước. Suy rộng ra cũng có nghĩa là ông kêu gọi giao lưu
văn hóa toàn thế giới. Chủ trương đó có ảnh hưởng tốt đến xu hướng hội nhập văn
hóa thế giới hiện nay. Không phải ngẫu nhiên mà nhân dịp tổ chức Hội nghị thượng
đỉnh ASEM 5 năm 2004, chính phủ Việt Nam đã khánh thành Viện Gớt học tại Hà Nội.
Đây cũng là một sự kiện ghi nhận những đóng góp lớn lao của Gớt đối với văn hoá
các dân tộc trên thế giới.
G.W.Ph.Hêghen (1770-1831) là một triết gia lỗi lạc người Đức.
Ông rất đam mê nghiên cứu nghệ thuật và để lại cho đời bộ “Mỹ học” được coi là
bộ sách đồ sộ nhất thế giới về chuyên ngành này. Trong đó, ông đề cập khá nhiều
đến tính dân tộc trong văn nghệ. So với Gớt, ông có điều kiện nghiên cứu toàn
diện và sâu sắc hơn về vấn đề này. Ông khẳng định, nghệ thuật có vai trò rất
quan trọng trong đời sống tinh thần của dân tộc. “Nghệ thuật thực sự đã trở
thành vị thầy cao nhất của các dân tộc”, “Các dân tộc đã ký thác vào sáng tác
nghệ thuật những chiêm ngưỡng nội tâm và những biểu tượng của mình. Nghệ thuật
là cái chìa khoá để hiểu sự khôn ngoan sáng suốt và tôn giáo của họ”. Tác phẩm
nghệ thuật là sản phẩm của tinh thần dân tộc nên nhìn vào đó là biết được “cách các dân tộc nhìn thế giới, nhìn cuộc đời”. Cũng như Gớt, ông cho rằng văn
học dân gian thể hiện rõ nét nhất bản sắc văn hoá dân tộc. “Các bài hát dân
gian là những bài có tính chất dân tộc nhất và gắn liền với những đặc điểm bẩm
sinh dân tộc” [5, T1, tr 460] ông gọi sử thi là “thánh thư của dân tộc” vì nó
là bộ bách khoa toàn thư về đời sống dân tộc. Nó phản ánh những sự kiện lịch sử
trọng đại của dân tộc đó và sức mạnh của họ qua các nhân vật được
coi là tinh hoa của cộng đồng. Sử thi thể hiện cách cảm, cách nghĩ của một dân
tộc về thế giới, là tiếng nói của toàn thể cộng đồng, là niềm tự hào của cả dân
tộc “Danh dự của mỗi dân tộc cần phải có Hômerơ của riêng mình”. Như vậy, hạt
nhân cơ bản để làm nên giá trị sử thi là tính dân tộc “Chính cái mặt dân tộc
đã làm thành cốt lõi vững chắc trong nội dung thơ sử thi của người Ấn Độ, Hy Lạp,…”
[5, T2,Tr657]. Nhưng bên cạnh bản sắc dân tộc, sử thi cần phải chứa đựng những
yếu tố chung cho cả loài người. “Muốn cho một thơ sử thi dân tộc có thể làm
cho tất cả các dân tộc và các thời đại cùng chú ý đến nó thì cái thế giới mà nó
miêu tả không được chỉ là cái thế giới của một dân tộc riêng biệt”. Sử thi
Hômerơ đã có được tiếng nói chung ở tất cả mọi dân tộc và thời đại, nhưng sử
thi Ấn Độ không được phổ biến rộng rãi bằng vì nó quá loại biệt. "Không ai
có thể chối cãi rằng Ramayana biểu hiện sinh động nhất tinh thần dân
tộc của người Ấn Độ, đặc biệt là về mặt tôn giáo, nhưng tính cách của nhân dân Ấn
Độ nói chung là hết sức loại biệt đến nỗi cái nhân tính thực sự và
chân chính không sao phá vỡ được cái hàng rào của tính đặc thù này" [5,
T2, tr 592]. Theo Hêghen, không phải dân tộc nào cũng sinh ra sử thi
(hiểu theo nghĩa chính thức của từ này). "Người Trung Hoa không có sử thi
dân tộc. Đó là vì tính chất của các quan niệm khái quát về vũ trụ và về nhân
sinh, cũng như các ý niệm tôn giáo của họ là nôm na" [5,T2, tr 643]. Bởi
vì ngay từ buổi đầu, triết học của họ "sinh ra không phải để mang một
cách biểu hiện nghệ thuật". Cái tư duy của họ là nôm na, tức là tư lợi, đầy
tính toán, mưu mẹo, cộng với những ràng buộc lễ giáo chặt chẽ… Điều đó chỉ
thích hợp cho những thể loại mang "chất văn xuôi" phức tạp của đời
thường như truyện kể ngắn, tiểu thuyết,… Ông cũng cho rằng, đất và người La Mã
không thích hợp cho sử thi, mặc dù "người ta tìm mọi cách để biến lịch sử
La Mã thành những sử thi dân tộc, người ta vẫn không sao tìm thấy ở trong thơ
La Mã có một thánh thi sử thi giống như các trường ca của Hômerơ vậy” . Điều
này làm cho chúng ta nhớ đến câu nói của Horace: “Trước kia, người Hy Lạp chỉ
toàn tâm toàn ý theo đuổi danh dự, nên các vị thần của thơ ca mới thưởng tặng
cho họ thiên tài và năng lực biểu đạt hoàn mỹ. Còn người La Mã chúng ta từ bé
đã mải miết học gảy bàn tính, học giỏi cân, đo, đong, đếm,... con tim đã nhuốm đầy
lòng hám lợi như thế, làm sao chúng ta có thể ước mong viết ra thơ hay cho được”
(Thi học). Như vậy là từ thời cổ đại, người ta đã thấy rõ sự ảnh hưởng của môi
trường dân tộc đến tác phẩm nghệ thuật. Đóng góp của Hêghen là ông đã dày công
so sánh rất tỉ mỉ sự giống và khác nhau của nhiều nền văn học trên thế giới để
chứng minh rằng đất nào sinh cây ấy “Các thơ phương Đông, Italia, Tây Ban
Nha, Anh, La Mã, Hy Lạp, Đức,… khác nhau về tinh thần, tình cảm, cách nhìn thế
giới, cách biểu hiện,…”. Không chỉ dừng lại trong việc so sánh các nước của
cùng một châu lục mà ông còn mở rộng so sánh đặc trưng của phương Đông và
phương Tây. “Ý thức phương Đông thấm nhuần chất thơ hơn ý thức phương Tây, trừ
trường hợp người Hy Lạp”, “Ở các dân tộc phương Đông, thơ có tính chất cổ xưa
hơn, bởi vì nó còn gần cái trực giác bản chất hơn và cái ý thức cá nhân bị hút
nhiều hơn vào cái duy nhất và cái toàn thể” (Nếu hiểu thơ phương Đông bao gồm cả
Trung Quốc thì ta sẽ thấy sự không nhất quán của Hêghen. Có lúc ông nói tư duy
của người Trung Quốc cổ xưa là “nôm na”, nhưng có
khi lại nói “thấm đẫm chất thơ”). Ta hiểu ý của Hêghen là, ở phương Đông, ý thức
cộng đồng rất đậm nét và tương đối ổn định qua thời gian, cộng với tư duy tổng
hợp đã làm cho ý thức thơ ca phát triển. Còn ở phương Tây chỉ thấy cái cá biệt,
phân tán, cô lập, thiếu sức mạnh chung. Nói cách khác là phương Tây đề cao cái
tôi cá nhân hơn là ý thức cộng đồng, làm cho tính dân tộc trong văn học bị lu mờ
hơn so với phương Đông. Không chỉ so sánh trong phạm vi văn học mà Hêghen còn
so sánh nhiều thể loại khác nhau. “Các hình thức nghệ thuật khác nhau ít nhiều
đều mang tính chất dân tộc gắn liền với mặt bẩm sinh của một dân tộc. Những người
Italia chẳng hạn, có biệt tài về mặt ca khúc và âm nhạc gần như bẩm
sinh. Trái lại, các dân tộc phương Bắc mặc dù đã có những thành tựu to lớn về mặt
trau dồi âm nhạc và nhạc kịch nhưng ca khúc âm nhạc vẫn không thể hoàn toàn
thích nghi với người phương Bắc cũng như đất Bắc không hợp với cây cam. Những
người Hy Lạp có biệt tài lỗi lạc trong lĩnh vực sử thi và trước hết trong lĩnh
vực điêu khắc. Trái lại, người La Mã không có nghệ thuật thực sự độc lập và cần
phải chuyển cái nghệ thuật ấy từ Hy Lạp sang đất nước mình” [5, T1, tr 460].
Hêghen cũng cho rằng, sự giao lưu văn hóa và ảnh hưởng qua lại
giữa các nền văn học nghệ thuật là hiện tượng phổ biến và cần thiết cho sự phát
triển chung của nhân loại: “Nghệ thuật không thể chỉ bó hẹp vào những cốt truyện
có tính chất dân tộc. Các dân tộc khác nhau càng tiếp xúc với nhau nhiều thì
nghệ thuật càng lấy những đối tượng miêu tả mọi dân tộc và các thế kỷ”. Nghệ sĩ
có thể vay mượn cốt truyện từ các dân tộc khác nhưng phải biết tiếp thu một
cách sáng tạo. “Khi trình diễn trên sân khấu những tác phẩm kịch nước ngoài,
dân tộc nào cũng có quyền đòi hỏi một sự cải biên nhất định”. Mục đích của sự cải
biên là để thỏa mãn nhu cầu của công chúng nước mình. “Mọi dân tộc đều đòi hỏi
tác phẩm nghệ thuật phải bộc lộ những nét dân tộc của mình vì họ muốn được nhìn
thấy những bóng hình của họ trong tác phẩm và muốn được đắm mình trong bầu
không khí quê hương”. Nhiều dân tộc ở châu Âu đã khai thác các đề tài trong thần
thoại Hy Lạp nhưng phần lớn là không thành công vì “cái bản sắc dân tộc không
được thể hiện nổi bật và đầy đủ”. Đó là bài học cho những ai sao chép nguyên xi
nền văn hoá nước ngoài mà không tính đến thị hiếu của dân tộc mình. Một điểm
đáng lưu ý nữa trong phương pháp luận của Hêghen là ông xem bản sắc dân tộc
trong văn nghệ không phải là cái gì bất biến mà có thể thay đổi phần nào trong
quá trình giao lưu và quá trình lịch sử. “Thơ còn khác về tính chất tùy theo những
thời kỳ khác nhau (…) trong tính cách dân tộc này, cách tư duy cũng thay đổi
theo thời đại” [5, T2, tr 491]. Có những thể loại được coi trọng trong suốt chiều
dài lịch sử như thơ ca nhưng cũng có những thể loại thăng trầm theo thời gian
do quan niệm thẩm mỹ mỗi thời khác nhau: “Điêu khắc chỉ đạt đến đỉnh điểm ở
các dân tộc thế giới cổ đại, ở người Hy Lạp và La Mã. Còn nhạc và họa thì đạt đến
đỉnh điểm ở các dân tộc Thiên chúa giáo trong thế giới hiện đại” [5,T2,tr
490]. Bởi vậy khi nói một dân tộc có sở trường hay không về một lĩnh
vực nào đó, ta hiểu rằng điều đó chỉ đúng trong quá khứ và hiện tại, còn tương
lai có thể thay đổi. Bàn về vai trò của công chúng nghệ thuật, Hêghen cũng như
Gớt và về sau nữa là C.Mác, đều cho rằng công chúng có vai trò quan trọng đối với
việc định hướng sáng tác. “Trước hết nghệ sĩ phải sáng tác cho nhân dân mình
và cho thời đại mình. Nhân dân và thời đại có quyền đòi hỏi tác phẩm nghệ thuật
phải gần gũi và dễ hiểu đối với nó”. [5, T1, tr 431]. Văn nghệ cần phải hướng tới
đại chúng nhân dân lao động chứ không phải dành riêng cho tầng lớp quý tộc.
“Nghệ thuật không phải cho một tập đoàn nhỏ bé sống thầm kín (…) mà nói chung
là để cho toàn thể nhân dân” [6, tr 91]. Tuy nhiên, bên cạnh đề cao vai trò của
công chúng, Hêghen cũng nhắc nhở rằng, các nhà văn cần phải có cá tính độc đáo
“các tác phẩm thơ với những đặc thù về dân tộc và thời đại, đồng thời không
quên rằng, sau các tác phẩm này còn có cá tính sáng tạo của nhà thơ”. Nhà văn
có nhiệm vụ định hướng những giá trị văn hoá tốt đẹp cho nhân dân và sáng tạo
ra các giá trị văn hóa mới để tác động sâu sắc tới đời sống tâm linh
của dân tộc. “Các tác phẩm biểu hiện thế giới ấy vẫn cứ là một sản phẩm tự do của
cá nhân. Về điểm này, một lần nữa, ta có thể lặp lại cái luân lý vĩ đại mà
Hêrôđốt đã phát biểu: Chính Hômerơ và Hêriôđơ đã cấp cho người Hy Lạp các thần
linh của họ” [5, T2, tr 578]. Qua toàn bộ các luận điểm trên, ta thấy Hêghen có
cái nhìn khá toàn diện về tính dân tộc trong văn nghệ.
C.Mác (1818-1883) là một nhà triết học duy vật biện
chứng lỗi lạc, có ảnh hưởng to lớn đến cục diện chính trị thế giới hơn một thế
kỷ qua. Cũng như nhiều nhà triết học khác, ông rất quan tâm nghiên cứu văn học
nghệ thuật để làm phong phú thêm kho tàng lý luận của mình. Mác yêu thích thơ của
Gớt (cùng với thơ Esin, Sếcxpia). Ông cũng tán thành nhiều quan điểm văn nghệ của
Gớt. Lúc còn thanh niên Mác rất ngưỡng mộ Hêghen và gia nhập nhóm “Hêghen trẻ”
nhưng sau đó đi theo con đường riêng. Ông đã kế thừa xuất sắc phương pháp biện
chứng của Hêghen. Mác cho rằng, nghệ sĩ không phải là một con người đứng lên
trên dân tộc hoặc đứng ngoài hoàn cảnh lịch sử. “Bản chất con người không phải
là một cái gì trừu tượng vốn có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa tất cả các mối quan hệ xã hội” [2, tr
79]. Quá khứ dân tộc đã tạo nên những truyền thống bền vững và thấm đượm vào mỗi
con người. Là một thành viên của dân tộc, nghệ sĩ phải có trách nhiệm phản ánh
những bản sắc và sức mạnh của dân tộc và thời đại vào trong tác phẩm. Cũng như
Gớt và Hêghen, Mác rất yêu thích dân ca và đánh giá cao văn nghệ dân gian. Vì
nó được quần chúng tạo nên và thể hiện rõ nét nhất tâm hồn dân tộc. Mác ca ngợi
hết lời sử thi Iliát và Ôđixê “Trên một vài phương diện nào đó, vẫn được coi
là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt chước được”. Đó là hai kiệt tác
ra đời vào thời kỳ chưa có sự phân chia giai cấp. Nó phản ánh lịch sử dân tộc
và đánh giá mọi sự việc theo nhãn quan của cả dân tộc. Tiền đề cho hai tác phẩm
này là những truyện kể dân gian được nhân dân ưa thích và phổ biến rộng rãi.
Còn Hômerơ là nghệ nhân xuất sắc nhất trong các nghệ nhân, là người đại diện ưu
tú của tinh thần dân tộc. Mác có ý chê các nhà văn tư sản bắt chước cách viết
Hômerơ, vì cảm hứng anh hùng ca không thể phát huy được trong cái xã hội thiếu
tính đoàn kết cộng đồng và quan hệ giữa người với người theo kiểu tiền trao
cháo múc. Mác thừa nhận rằng, sự ảnh hưởng qua lại giữa các nền văn học là chuyện
bình thường nhưng khi tiếp thu các di sản nước ngoài, phải tính đến những điều
kiện kinh tế xã hội của từng nước. Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, Mác và
Ăngghen đã chỉ ra những bất hợp lý trong việc giới trí thức văn nghệ sĩ nước Đức
tiếp nhận ồ ạt các sản phẩm văn hoá Pháp theo kiểu ăn tươi nuốt sống mà không để
ý tới tình trạng khác nhau về cơ sở hạ tầng của hai nước: “Các nhà triết học nửa
mùa và những kẻ tài hoa ở Đức hăm hở đổ xô vào thứ văn học ấy, nhưng có điều, họ
quên rằng, văn học Pháp được nhập khẩu vào Đức, song những điều kiện sinh hoạt
của nước Pháp lại không đồng thời được đưa vào nước Đức” [2, tr 120]. Cũng như
Gớt, Mác dự đoán sẽ có một nền văn học chung của toàn thế giới: “Những thành quả
hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân
tộc, tính chất hẹp hòi và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa,
và từ những nền văn học dân tộc và địa phương muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở một
nền văn học chung của toàn thế giới” (Tuyên ngôn Đảng cộng sản) [2, tr
121-122]. Dự báo đó đã và đang trở thành hiện thực. Từ sau Cách mạng tháng Mười,
đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ II, lý luận nghệ thuật Mác-xít cùng với
nền văn học sử thi trở nên phổ biến khắp thế giới và chiếm địa vị chủ đạo ở các
nước xã hội chủ nghĩa. Và trong tương lai cũng vậy, khi xu thế hội nhập là tất
yếu cùng với sự bùng nổ thông tin sẽ làm cho các nền văn hoá xích lại gần nhau
hơn nữa. Tuy nhiên, trong văn hoá nhân loại, bên cạnh cái chung, sẽ còn có cái
riêng “muôn màu muôn vẻ” của các địa phương và dân tộc.
Nước Đức đã đóng góp cho văn hóa nhân loại nhiều nhà tư tưởng
vĩ đại, trong đó có Gớt, Hêghen và Mác. Cả ba người đều là những nhà mỹ học biện
chứng, đều coi trọng vai trò của dân tộc đối với văn nghệ và chủ trương một nền
văn nghệ hướng tới phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân. Gớt thể hiện các quan
điểm đó qua các sáng tác thơ văn và một số bài tiểu luận. Hêghen là người triển
khai vấn đề này một cách toàn diện và sâu sắc trong một công trình lý luận nghệ
thuật đồ sộ. Nhưng sở dĩ những lý thuyết về tính dân tộc trong văn nghệ của Gớt,
Hêghen và một số nhà mỹ học khác được biến thành thực tiễn sinh động và phổ biến
rộng khắp là nhờ ở công lao to lớn của Mác.
Tài liệu tham khảo:
1. Đặng Anh Đào (Chủ biên) - Văn học phương Tây - NXB Giáo dục
1997
2. Hà Minh Đức - C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I. Lênin
và một số vấn đề lý luận văn nghệ - NXB Chính trị quốc gia - 1995
3. S.Freud… Phân tâm học và văn hoá nghệ thuât - NXB Văn hóa thông tin - 2000.
4. J.W. Goethe - Về nghệ thuật và văn học, tuyển tập - NXB
Văn học và Rice - 1995.
5. G.W.Hêghen - Mỹ học (2 tập) - NXB Văn học - 1999.
6. Phương Lựu (Chủ biên) - Lý luận văn học -
NXB Giáo dục - 1997.
15/4/2009 Phạm Ngọc Hiền
15/4/2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét