Thứ Tư, 13 tháng 4, 2022

Mạch thư hương

Mạch thư hương

1. Chỉ hai tiếng phụ lũy đủ vẽ nên bức tranh Thành Diên Khánh thuở bấy giờ, ấy là vào những năm cuối thế kỷ 18 khi vùng đất này trở thành nơi tranh chấp giằng co quyết liệt giữa hai họ Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu. Sử chép: “Diệu và Dõng thường ghẹo đánh, ông Tánh đóng cửa Thành, không cho quân ra. Diệu đắp lũy chung quanh Thành để vây bọc Nguyễn Văn Tánh và giữ gìn cho lâu”. Nhân sự kiện này mà có tên phụ lũy. Các làng chung quanh Thành đều là phụ lũy. Chẳng những làng Phú Mỹ nơi đã cắt một phần diện tích để xây Thành, mà về hướng tây các làng Trường Thạnh, Trường Lạc, hướng đông làng Phước Thạnh và cả bên kia hướng bắc, cách một con sông Cái, làng Phú Lộc cũng gọi là phụ lũy. 
Thành Diên Khánh hùng cứ trên một khu vực còn rất hoang sơ. Ông Huỳnh Tấn Sào, 84 tuổi, còn nhớ cụ cao sơ của mình kể lại rằng lúc vào lập nghiệp ở làng Phú Lộc, làng chưa có đến 20 nóc nhà. Khỏi cửa tiền môn hai cây số, chưa đến bến Cầu Lùng, cọp vẫn kéo về đợi mồi ở các mô đất cao miễu đất Thổ Sơn ngã lên Gò Đình làng Phú Khánh (tức Phú Mỹ cũ). Đội quân Tượng của tỉnh (lúc này còn gọi là trấn) trong khung cảnh gần như giang sơn riêng của chúng, hằng ngày vẫn dẫn nhau, vừa tuần phòng, vừa nhởn nhơ tập tiến thoái ở đầm voi tập trận - một bãi lầy sông Đồng Đen trước miễu Cây Me, hoặc lội qua sông tập ở khu đất mả voi làng Phú Lộc. 
Trên khoảng đất mênh mông bên ngoài của ngôi thành, các ngã đường vào Thành đã quanh co lại có nhiều ao hồ um tùm tre gai, rất thuận tiện cho quân giữ Thành ra ngoài mai phục. Hào Thành rất sâu, khi cần, người ta xắn ngang con đường phòng thành ở hướng tây, dẫn nước sông Hà Dừa vào cho ngập hào, dưới hào lại cắm dày những chông nhọn chìm trong nước. Tường Thành cao bốn mét đắp bằng đất, mặt ngoài đắp hơi thẳng đứng, mặt trong đắp thoai thoải gồm hai bậc thang dùng làm đường đi. Trên mặt Thành trồng dày khít tre gai, là vật chướng ngại rất hiệu quả. Riêng ở đoạn tường Thành phía bắc, vào mùa lũ nước sông Cái dâng cao làm xói tường Thành, quan trấn thủ đã phải cho người lên tận vùng thượng du nhờ người dân tộc thu gom những cây sao non mọc hoang trong rừng xuống trồng để giữ đất, lâu ngày trở thành một bãi sao. Mỗi góc Thành đều có đắp ụ để đặt súng thần công. Để vào Thành có một cửa ván kéo lên hạ xuống, sự kiểm soát rất nghiêm. Lúc mới xây dựng, Thành có sáu cửa Đông, Tây, Tiền, Hậu, Tả, Hữu, sau chỉ còn bốn. Khi có sự cố xảy ra, sáu cửa Thành đều được kéo lên, cách biệt với bên ngoài bằng hào nước. Sự đi lại của dân chúng chỉ diễn ra ở hai cửa Đông và Tây, còn các cửa khác chỉ dùng cho quan quân khi có việc binh. 
Kể từ khi được xây dựng vào năm 1793, Thành Diên Khánh đã là chỗ tiến thoái lợi hại của Nguyễn Phúc Ánh và là “khúc xương ba lần khó nuốt” của danh tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu. Cái cứ điểm tiền tiêu rất quan trọng cho sự phục nghiệp của chúa Nguyễn này đã từng xảy ra những trận giao tranh đẫm máu trong việc đánh chiếm và tái chiếm Thành, những trận chiến còn để lại dấu tích đến tận bây giờ. Thật đáng ngạc nhiên khi những lớp tường đất và vòng hào bao bọc như vậy lại có thể ngăn chặn hữu hiệu bất cứ đợt tấn công nào.
Năm 1908, bà Gabrielle M.Vassal, một trí thức người Anh có chồng làm việc tại bệnh viện ở Nha Trang, đã cùng phu quân lên thăm quan Bố Chánh trong Thành Diên Khánh. Nhờ thế giờ đây ta có được những dòng ghi chép còn nóng hổi cảm xúc của bà về ngôi thành lỵ sở của Nam triều vào thời điểm hai mươi năm sau khi Khánh Hòa trải qua những sự biến Cần Vương: 
“Bức tường thành sau trận tấn công cuối cùng đã bị sụp vài chỗ, vẫn không được đắp lại. Hào nước năm xưa giờ đã phủ rêu xanh, lác đác đôi chỗ sen mọc che khuất cây cỏ luộm thuộm trong hào. Đứng trên cây cầu hẹp bắc qua hào nước, chúng tôi buộc phải ngừng lại vì cánh cổng thành nặng nề đang khép kín .Vài thanh niên đứng bên đường nghe tiếng vó ngựa chúng tôi vội chạy đến ân cần xin được giúp đỡ chúng tôi. Khi cánh cổng nặng nề có bánh xe lăn được đẩy ra, chúng tội mới vỡ lẽ rằng cổng chỉ đủ rộng cho một cổ xe con. Nó gợi cho tôi nhớ đến các pháo đài thời Trung Cổ. Khi cánh cổng khép lại sau lưng, tôi có cảm giác mình như con ruồi đang mắc vào mạng nhện. Bên trên cái cổng xây bằng gạch là một tháp canh có sức chứa độ hai ba chục người. Bức tường thành rộng đến năm người sánh vai cùng đi cũng được. Trong thành, bốn con đường rải đá gập ghềnh dẫn đến bốn cổng thành đối xứng nhau. Một ngôi nhà dùng làm kho chứa thóc trong những ngày bị vây hãm. Một khám lớn đồ sộ đập ngay vào mắt, ngoài ra chẳng còn gì thu hút sự chú ý. Nhìn đâu cũng chỉ là những bờ ao ẩm ướt, đám cỏ dại, bụi gai, cây cối và những ngôi nhà nhỏ có vườn không ngay hàng thẳng lối. Nhìn chung, tuy điêu tàn và dơ bẩn, Thành vẫn đẹp.” 
Mấy trăm năm của quê hương Diên Khánh tuy chưa lâu mà biết bao là tao loạn, biến động. Những con người sống trong khoảng lịch sử không phẳng lì mà gai góc đó cứ mãi kích thích trí tò mò của kẻ đến sau.
2. So về tuổi tác, tấm bia dựng ở Văn miếu phủ Diên Khánh vào năm 1858 này chỉ kém bia tự sự ở tháp Pô Na-ga của tiến sĩ Phan Thanh Giản có hai năm. Cả hai, có lẽ là những bia xưa nhất dưới triều Nguyễn còn lại tại Khánh Hòa. Bia cao phủ đầu người, là một mặt đá dày hình chữ nhật đứng trên một chân đá tạc hình án thư. Chữ khắc có chỗ vỡ nét, nhất là mặt sau hứng chịu nhiều mưa gió. Đầu thế kỷ 20, người đọc chữ Hán hãy còn nhiều nên có lẽ chẳng có mấy nhu cầu phải phiên âm dịch nghĩa. Sau đó đến thời cái học gọi là để “tiến thân” trong xã hội chỉ còn cần đến chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Công trình của ông cha để lại kia, dù không muốn mà con cháu cứ quay lưng, dần dần trở nên những ký hiệu khó hiểu. Hơn 50 năm trước, cụ học sanh Nguyễn Tấn, ý chừng nóng ruột sợ rồi những thông tin kia mai một đi, đã bỏ công dịch nghĩa phần tự sự. Bia ghi chuyện người trong hạt đóng góp tài lực xây dựng một văn miếu riêng cho học giới phủ Diên Khánh. Lần đầu tiên, danh tính của một lớp người địa phương chúng ta ở thế kỷ trước hiện ra trước đám hậu sinh, sau giấc ngủ yên 150 năm trên bia đá. 
Đọc những tên người - mà tuyệt đại đa số đều kèm theo một chức vụ, một vị thế nào đó trong xã hội, cái ấn tượng cho ta thật rõ nét là sự ổn định của một chế độ, có vua trị vì, có quan lại cai trị và nhất là có một lớp nho sĩ đông đảo sống chan hòa trong nhân dân. Trong cái trật tự đó, con người có cao, thấp, mức độ khác nhau, nhưng ai cũng như ráng chứng minh sự hiện diện của mình, chứng minh mình đang gắn bó với xã hội, có liên hệ đến đạo lý chữ nghĩa, hiểu theo thời đó là phép tắc tiến đến cái giá trị được sùng kính bậc nhất là giá trị đạo đức. 
Là con cháu đến sau, chúng tôi chợt nghiệm ra rằng cái cơ sở để các cụ đặt lòng tin vào một con người, chẳng mấy khi làm các cụ nhầm lẫn, ân hận. Văn bia có những lời lẽ đặc biệt kính mến vị tiến sĩ Đỗ Thúc Tỉnh, nguyên Tri phủ Diên Khánh. Sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” (tỉnh Quảng Nam) chép rằng ông Đỗ Thúc Tỉnh có công lớn trong việc bồi thực danh giáo và chấn hưng Nho học tỉnh Khánh Hòa. Hơn 5 năm sau khi dựng bia đá, lúc tuổi đã khá cao, khi Nam kỳ bị Pháp chiếm, cụ đã lãnh mật dụ của triều đình, cải trang len lỏi vào tỉnh Vĩnh Long, đem hết sức già chiêu quân đánh Pháp. Dũng khí chiến sĩ vốn đã sẵn nằm trong tiết tháo người nho sĩ, mức thành đạt đích thực của học vấn Nho giáo.
Danh sách những người quyên góp được sắp đặt thật nghiêm túc. Đứng đầu là các vị cử nhân mà trước tiên là cụ cử khai khoa Kiều Khắc Hài, sau mới đến thủ khoa Nguyễn Xuân Ý, bởi, dù là thủ khoa nhưng cụ Ý đỗ sau. Vẫn một mực tôn ti, trên hết là các quan đang thụ nhiệm ở tỉnh và phủ, tiếp theo là một xã hội dân, quân, chính thật phong phú. Đông đảo nhất là các ông tổng lý, thứ đến các thông lại, lại mục, rồi các đề lại, các cai, đội trưởng. Ta cũng biết vị thế cùng lương bổng của người lính thời trước vốn rất bạc bẽo, nhưng ở đây, lòng người lính gần gũi với đạo học: một cơ biền binh của tỉnh có đủ nhân số năm trăm người chăng mà góp cúng đến trên trăm quan? Và thật là thú vị, rải rác còn thấy những ban ngành chuyên môn, nhiệm vụ có lẽ cũng gần như ngày nay, nhưng tên gọi mang đậm màu sắc lịch sử. Ví như Chiêm hậu ty là cơ quan lo việc dự báo nắng mưa bão lụt cho nghề nông; Cù huân hải tấn là cơ quan vừa phòng vệ vừa thu thuế đường thủy ở cửa sông Nha Trang; Hòa Thạnh trạm là cái trạm bưu chính cực kỳ đồ sộ đứng trên chục mẫu đất phía đông nam cửa  tiền Thành Diên Khánh. Các làng quanh trạm có những gia đình nuôi ngựa bầy để làm dịch vụ cho trạm. Quanh trạm có những ngôi mả vôi to chôn cất những quan lại chẳng may bệnh chết trên đường công vụ. Còn trừu hộ? Đây là một ngành tiểu thủ công nghiệp do triều đình tổ chức quản lý. Trừu là loại lụa mỏng có hoa nam tức hình hoa là chữ “Thọ”, chữ “Hỷ” v.v... vẽ theo lối triện, dùng trang trí cho áo đàn ông chứ không phải loại “hoa lá cành” làm đẹp cho trang phục nữ. Tháng 4 năm 1999, tôi được cụ Huỳnh Tấn Sào 84 tuổi, người làng Phú Lộc, cho phép đọc gia phả họ Huỳnh. Đời ông cao sơ Huỳnh Tấn Lễ rồi đến đời ông cao tổ Huỳnh Tấn Vạn kế nhau làm nam trừu hộ trưởng. Đất trồng dâu là bãi soi dài ngút ngàn sau cửa hậu Thành Diên Khánh. Có xưởng dệt gọi là nhà tằm - một sở nhà cột kèo vĩ đại, mái lợp tranh thật dày, hiên rộng có treo rèm tre đan che nắng, cất trên khu đất rộng, phía tây của cột cờ trong Thành. Trừu hộ có chừng 30 hộ viên, mỗi năm phải nộp thuế cho nhà nước một sản phẩm lụa trừu theo kích thước quy định. Mãi đến đời tổ khảo (ông nội) cụ Sào, nhà tằm bị cháy, việc dệt lụa trừu mới chuyển sang làm lẻ tẻ trong dân gian. Thật bất ngờ tôi còn thấy có tên đài ngư phường tức là những người làm nghề gánh cá, góp cúng 5 quan. Cá tươi trên ghe về đến cửa Cù Huân, lập tức có đội ngũ những người chuyên gánh chạy, thay nhau từng chặng chuyển cá đến chợ Thành, nơi có lỵ sở của Tỉnh là chỗ trung tâm tiêu thụ. Đám rỗi cá mà người ta thường e dè tránh phải va chạm vì lối ăn nói dữ dội, dung tục lại chung góp những đồng tiền mồ hôi nặng nhọc của mình trong công việc “thờ thánh Khổng”. Đạo lý ngày xưa của các cụ phổ cập trọn vẹn trên mọi tầng lớp. 
Xem văn bia mới thấy tiền bạc trong nhân dân có vẻ phong phú dễ dàng hơn trong lớp quan lại và chức việc, hay ít ra là sự giàu có đã rải rác đây đó trong địa phương. Một vị bố chánh sứ, chánh tam phẩm góp vào 30 quan là gần 3 tháng lương hay một vị án sát sứ, chánh tứ phẩm góp vào 20 quan, hơn 3 tháng lương, trong khi con số mỗi cá nhân góp từ hai, ba đến bốn chục quan là rất đông trong dân chúng, cá biệt có vài ba người góp đến cả trăm quan. Miệt trên của Phủ Diên Khánh khá giàu. Riêng một xã Nghiệp Thành góp vào hai trăm quan. Bà Nguyễn Thị Lai ở Thanh Minh, bà Lê Thị Nghĩa ở Quang Thạnh, mỗi bà góp một trăm quan. Tên các bà đứng độc lập, chẳng thấy ghi thêm là con của ai hay vợ của ai. Chỉ một tên làng kèm theo là đủ cho người ta biết, bởi chắc chắn một xã đâu có thể có đến hai bà như thế. Dường như ở đây chẳng có chút gì phân biệt gọi là “nam tôn, nữ ti” cả. 
Nhiệt tâm đóng góp của cả cái xã hội ta vừa phác họa kia, không bằng tiền thì bằng đất, có người cúng tư điền ngũ cao (5 sào) có người thổ cơ nhất cao (1 sào nền đất thổ). Như vậy, ngoài bốn sở ruộng đất, văn bia đã tổng kết cái công lao xây dựng Văn miếu buổi đầu của ông bà ta trị giá hơn bốn nghìn quan tiền giữa thế kỷ 19! 
Đọc văn bia càng cảm phục người xưa, trong một công trình văn hóa, đã huy động được lòng tự nguyện rộng khắp mọi tầng lớp và thành phần dân cư trên địa bàn, chứng tỏ sức mạnh tinh thần chung của xã hội hướng về cùng một đạo lý. Chúng ta xúc động vì các cụ đã chỉ có thể lấy lao động chân tay mà làm ra của cải, mỗi quan tiền góp vào đều là kết quả của sự chắt chiu dè sẻn. Nhưng nói về cái bia, không khỏi vừa đau lòng, vừa cảm thấy có lỗi lớn với tiền nhân. Công trình các cụ để lại, con cháu có người vô ý thức, sẵn đá cứ mài rìu, mài rựa, khiến cho nơi chân bia, nhiều chỗ  đã khuyết vào đến nét chạm hoa văn. Đến bao giờ sự trân trọng di tích mới thành một tình cảm chung của xã hội?
Từ 1840 đến 1847 là tám năm cực thịnh mà ngắn ngủi của khoa cử Khánh Hòa. Tám năm này lại nằm đúng trong thời điểm thịnh đạt của 120 năm Nho học triều Nguyễn. Sự thịnh đạt khiến các cụ gởi vào lời tự sự của bia niềm tràn trề hy vọng tiến xa. Nhưng nguy cơ ngoại xâm đang tới dần, đó là hồi kết của một giai đoạn đẹp đẽ. Tháng 2 năm 1858, các cụ hoàn thành bia đá ở Khánh Hòa thì tháng 8 liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã nổ súng đánh chiếm bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng. Những ngày gian nan chống ngoại xâm của dân tộc, tuy đang còn lẻ tẻ nhưng đã bắt đầu. 1112 vị khoa bảng toàn quốc, trong đó có các cụ cử ở Khánh Hòa, tất cả bắt đầu cái sự nghiệp rường cột quốc gia mà Nho giáo đã rèn đúc các cụ. Tấm bia đá Văn miếu phủ Diên Khánh vốn ra đời để ghi lại nỗ lực thực hiện một công trình văn hoá, nói rộng thêm là ghi nét đo mức trí tuệ học vấn và sự hướng về đạo lý của một thời. Hoàn cảnh lịch sử đã khiến nó không chủ ý mà ghi danh một số người về sau tuẫn tiết với non sông. Cái hồn của khối đá kia vừa là tri thức đạo lý, vừa là yêu nước. Nó đứng đó làm chứng cho biết chúng ta đã thừa hưởng của ông cha những gì.
3. Khi tiếp quan Kinh lược sứ Phan Thanh Giản từ kinh đô vào thanh tra năm 1850, Diên Khánh đã có một bề thế tập thể người khoa cử tương xứng với một đất văn học đang vươn lên cùng với hoài bão sẽ còn đi xa. Hoài bão đó về sau không còn cơ hội thể hiện. Chỉ mươi năm sau khi lập bia đá Văn miếu Phủ (1858-1868), việc “nấu sử xôi kinh” đã bị tác động ngăn trở bởi tình thế hiểm nghèo của đất nước. Những năm đầu còn là tin tức xa xôi, những năm sau là thực tế đến với sự huy động gian khổ, rồi cuối cùng là lửa và máu của ba năm Cần Vương. Tin thực dân Pháp xâm chiếm miền Nam đang còn đốt sôi lửa căm hờn trong lòng dân thì sự yếu kém của triều đình đã bộc lộ một cách nhanh chóng đến phải ngỡ ngàng. Đất Khánh Hòa, nhất là vùng biển, tiếp đón ghe thuyền người tị địa từ Nam bộ chạy về Trung  châu nương náu kèm theo bao chuyện thuật lại việc thua binh mất đất. Từ đường trạm phía Bắc liên tiếp truyền vào những  lệnh mộ binh, chẳng bao lâu lại đến chuyện vua bị nhục, triều đình bất lực, cùng những lệnh gấp rút gom góp tiền bạc đền chiến phí cho quân thù.
Tuy từ năm Tự Đức thứ 3 (1850) sĩ tử Khánh Hòa được ra thi ở trường Bình Định, không phải khó nhọc vào Gia Định xa xôi, nhưng sự thuận tiện này không còn nung nấu chí tiến thủ của số đông người đi học, nhất là khi biết được những âm mưu áp lực của kẻ thù muốn sáp nhập luôn cả hai tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận vào “Nam Kỳ thuộc địa” của chúng. 
Khánh Hòa cũng như trong toàn quốc đã sôi nổi tiếp nhận lời kêu gọi của quan phụ chính Tôn Thất Thuyết: “Người giàu đóng góp tiền của, người có sức mạnh đóng góp sức lực, người can đảm đóng góp cánh tay để giành lại đất nước trong tay quân xâm lăng...”. Các nhà nho ở Khánh Hoà,  dù là lớp quan lại hay kẻ sĩ trong dân gian, tất cả biết rõ phải làm gì. Hai tòa Văn miếu (của tỉnh và của phủ) bên Bắc và bên Nam sông Cái thời đó hẳn là nơi tập họp chuẩn bị lực lượng đề kháng. Nhân dân nhất loạt nghe theo vì cảm biết những sĩ phu kia đang thừa kế sự lãnh đạo đất nước qua bao thế kỷ.
Thử nhìn vào cách xuất xử của một gia thế nho học có tiếng tăm ở làng Võ Cạnh trong giai đoạn này mà suy gẫm. Ba người con trai cụ Nguyễn Điều (1796 - 1868) đều là bậc đỗ đạt. Cụ Tử Kỳ Nguyễn Dị, người anh giữa, sinh năm 1843, hai mươi tuổi đỗ học sanh giữa thời học phong đang mạnh. Là người có chí khí, ông cùng anh và em trai tham gia Cần Vương, giữ chức tham tán, bị giặc bắt đày vào Cam Ranh, sau được tha về rồi mất. Người anh cả Nguyễn Khanh, sanh năm 1834, miệt mài đến bốn mươi tuổi mới đỗ tú tài khi giông tố ngoại xâm đang bùng nổ (1873). Mười hai năm sau ông là một trong những người lãnh đạo của phong trào yêu nước chống Pháp ở Khánh Hòa. Khi quân Pháp đánh chiếm được Thành Diên Khánh, ông bị bắt và bị xử tử hình. Người em út Nguyễn Lương, tự Minh Khê, sinh năm 1852, từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, hay chữ. Cùng với hai anh ứng nghĩa Cần Vương, giữ chức kiểm biện. Bị giặc bắt đày vào Ba Ngòi, Cam Ranh. Sau được tha về, ông thi đỗ cử nhân khoa Đinh Dậu (1897) khi đã 46 tuổi. Đây là vị cử nhân nối lại cái dòng chảy “đỗ trung khoa” của nho học Diên Khánh sau 50 năm đứt đoạn. Cụ được bổ dụng giáo thọ Ninh Hòa trong thời gian dài, thăng tri huyện Hòa Đa rồi tri huyện Thanh Chương (Nghệ An). Sắp thăng tri phủ, cụ dâng đơn thiết tha xin hưu trí.
Một gia đình riêng lẻ tiêu biểu được chăng cho một giai đoạn? Lớp người đó sinh ra dìu dắt nhau ăn học công phu lâu dài để thi cử. Việc lớn chợt đến, họ chết vì nước. Số ít còn lại ra làm quan trong cái thế lệ thuộc cay đắng, rồi lui về ráng giữ cái sót lại của đạo lý nhà nho. Một trong những dấu chấm hết rất tiêu biểu của nho học khoa cử, chính là con cụ cử Nguyễn Lương: cụ Nguyễn Tấn. Cụ ra đời ba năm sau sự kiện Cần Vương (1888), lớn lên học rộng nhưng chỉ có học vị học sanh từ năm 21 tuổi (1908). Năm cụ 31, khoa cử bãi bỏ. Tánh tình rất hồn hậu, cụ được tập thể người nho học ở Diên Khánh công cử làm phó văn trưởng, giúp cụ tú Phan Duy Tuần từ năm Bảo Đại 16 (1941) tận tụy với văn hội suốt 22 năm, tạ thế năm 1963. Cái học của một gia đình mà như cái học của một giai đoạn!
4. Vào lúc Nguyễn  Phúc Ánh lên ngôi Hoàng Đế, đất phụ luỹ này đã là nơi ẩn náu cho Nguyễn Công Lang, một nhân vật quan trọng của phong trào Tây Sơn. Một điều  lạ là ông đã che giấu được tung tích của mình trong cái thời truy tầm ráo riết ấy. Xem “Thế phổ Nguyễn gia” ở từ đường nhà họ Nguyễn làng Phú Lộc mới biết ông quê quán làng An Nhơn tổng Hạ, huyện Đồng Xuân phủ Phú Yên. Vốn người cương chính, trung hậu, nghĩa khí, ông tham gia Hưng Quốc Hội cùng Võ Văn Cao, Lưu Quốc Hưng, Nguyễn Quang Huy ở Đồng Xuân, huấn luyện nghĩa quân kinh thổ, phối hợp chúa Thủy ở Ma Thiên Động xây dựng căn cứ La Thiên Lãnh (dãy núi La Thiên) gọi là Tây Sơn hữu đạo để chuẩn bị cho Tây Sơn dấy lên vào tháng giêng năm Quý Tỵ (1773). Sau khởi nghĩa Tây Sơn thắng lợi, ông được cử làm Phòng phủ sứ (tri huyện) Đồng Xuân, rồi An phủ sứ (tuần vũ) phủ Phú Yên. Dưới triều vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, ông làm Thượng thư bộ Hộ, tước phong Kiến Quốc Công. Còn theo sách “Tây Sơn bí lục” của Trương Đăng Quế, cụ Nguyễn Công Lang vào lánh nạn ở làng phụ lũy Phú Lộc lúc Tây Sơn tan rã. Tiếng là “lánh nạn” nhưng thật ra ông đã tham gia tích cực xây dựng Bảo Nghĩa Kiến Nghiệp Hội tỉnh Khánh Hòa và chỉ đạo chống quân nhà Nguyễn tảo phạt vào căn cứ Tây Sơn trung đạo, Tây Sơn nam đạo cho đến khi mất. Hậu duệ của ông, cụ tú tài Nguyễn Trung Mưu, là một trong số người cầm đầu phong trào yêu nước chống Pháp sau này của tỉnh Khánh Hòa.
Tháng 4 năm 1999, chúng tôi đến thăm nhà thờ cụ Tú Mưu ở làng Phú Lộc. Ông Nguyễn Đức Tuyên, 72 tuổi, hậu duệ nhà họ Nguyễn, đã sốt sắng cho chúng tôi xem gia phả và một bản dịch quốc ngữ tập di cảo “Khánh Thuận Bình Tây Lược Ký” của cụ Nguyễn Trung Mưu. Tập lược ký này có thể được viết vào thời điểm 17 năm sau sự kiện Cần Vương (1887 - 1904), dưới triều vua Thành Thái - là vị vua chống Pháp, tuy phải cảnh giác với mật thám Pháp nhưng chắc không có sự đe dọa tức thời. Đọc lại những trang viết đầy máu và nước mắt của người xưa mới thấm thía vóc dáng hiển hách của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Khánh Hòa do Bình Tây đại tướng Trịnh Phong lãnh đạo đã nằm trong một phong trào có tính liên kết chặt chẽ và tầm ảnh hưởng sâu rộng cả khu vực. Các vị chỉ huy đã chủ trương chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. 
Sau cuộc phản công kinh thành Huế thất bại (tháng 7 năm Ất Dậu 1885), quan Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi xuất bôn ra Tân Sở (Quảng Trị) xuống chiếu Cần Vương kêu gọi toàn dân Việt Nam đứng dậy chống thực dân Pháp. Ở Khánh Hòa, cụ Đề Phong tức Trịnh Phong (người làng Phú Vinh, huyện Vĩnh Xương) cùng với các thân hào trong hạt như các ông Tú Mưu, Tú Khanh, Tú Học, Lê Nghị, Lê Thiện Kế… chiêu tập lực lượng, dựng cờ Nghĩa hội bình Tây, nêu khẩu hiệu: “Tiểu tặc trừ gian bình quốc loạn, hưng binh ứng nghĩa phục giang san”. Trịnh Phong được toàn thể nghĩa quân tôn làm Bình Tây đại tướng lãnh đạo phong trào kháng chiến.
Khánh Hòa chia làm hai quân khu: quân khu Bắc do Tổng trấn Trần Đường (người làng Hiền Lương, nay là xã Vạn Lương, huyện Vạn Ninh) chỉ huy, đóng tại núi Bồ Đà; quân khu Nam do Tổng trấn Lê Nghị (người làng Phú An Nam, nay là xã Diên An, huyện Diên Khánh) lãnh đạo, đóng ở Thành Diên Khánh. Lễ tế cờ ra mắt Bộ chỉ huy tại núi Xuân Sơn Cửu Khúc.
Lực lượng nghĩa quân phần lớn là nông dân và một số binh lính triều đình yêu nước tự nguyện ứng nghĩa. Vũ khí trang bị là giáo mác, gươm đao, cung tên cùng với dăm chục cây súng hoả mai cũ của số cơ binh. Tại làng Phú Lộc (Diên Khánh), Võ Bá Thời, người đã từng tham gia rèn đúc vũ khí cho nghĩa quân Trương Định, bắt tay điều hành việc sản xuất vũ khí cho nghĩa quân Khánh Thuận. Ông đã có công cải tiến, chế tạo nhiều loại vũ khí lợi hại như địa lôi phục, hỏa hổ, thần phong, phi kim tiễn... làm cho quân Pháp phải kinh hồn.
Tại Khánh Hòa, quân Pháp đổ bộ lên nhiều nơi: xóm Cồn, Trại Thủy, Suối Dầu, Bá Hà, Tu Bông, Vạn Giã, nơi nào cũng bị nghĩa quân giáng trả quyết liệt. Địch tập trung lực lượng đóng đồn tại Hòn Khói, dùng tàu chiến đậu quanh để hộ vệ. Nghĩa quân bao vây tập kích, chúng bị tổn thất nặng nhiều lần, phải rút chạy vào năm sau.
Nhưng giặc đi  rồi giặc lại đến, ác liệt hơn, tàn nhẫn hơn. Tháng 6 năm Bính Tuất (1886), đạo quân tàn ác do tên Việt gian Trần Bá Lộc từ xứ Nam Kỳ thuộc địa kéo ra. Chúng tới đâu là ép giáo dân a tùng cướp của, đốt nhà, giết người với chúng. Người nào, nhà thờ nào không theo, kể cả ông già, bà lão, trẻ nít, là chúng giết sạch, phá sạch, cướp sạch rồi phao tin ầm lên rằng “loạn quân văn thân sát tả để bình Tây”. Tuy vậy, đội quân chó săn vẫn bị đón đánh nhiều trận. Sau khi chiếm được Thành Diên Khánh, chúng tiếp tục tiến ra Tân Định, liền bị quân của Bình Tây đại tướng Trịnh Phong xung sát một trận kinh hồn dưới chân núi Đá Lố, thừa thắng nghĩa quân dùng hoả công diệt gọn cả đám giặc Pháp trên cánh rừng sim gần chân núi Hòn Hèo, sau này dân chúng quen gọi là cánh đồng cháy. Đòn hiểm độc sau cùng của y là vây bắt được một số người già làm con tin (vì tiếc của mà trở về nhà thăm chừng mặc dù đã có lệnh phân tán đi hết để “vườn không nhà trống”), dọa triệt hạ tất cả xóm làng trù phú trên đường từ bến Cù Huân (cửa sông Nha Trang) lên Thành Diên Khánh, giống như chúng đã thiêu hủy làng mạc trên đường từ Bình Thuận ra Phan Rang, nếu các thủ lĩnh nghĩa quân không hạ khí giới ra nạp mình. Mùa thu năm 1886, thực dân Pháp bắt được Trịnh Phong. Không thể buộc ông khuất phục đầu hàng, giặc đem ông ra hành hình tại gò Chết Chém bên cầu Sông Cạn. Các tướng lĩnh khác, lớp bị tử trận, lớp chịu tù đày do thế mạng cứu dân, tránh cho họ hàng và làng xóm khỏi bị khủng bố. Bởi vậy, Tán tương quân vụ Nguyễn Khanh đã cùng một số nghĩa quân quay về trước Thành gọi là để quy thuận rồi xuất kỳ bất ý tả xung hữu đột trước khi bị chém đầu ở Bến Đá. Tổng trấn Trần Đường chỉ huy một đạo binh đánh nhau với quân Pháp tại đèo Dốc Thị, bị thua, ông bèn rút tàn quân lên Đầm Thụ. Giặc đến làng Hiền Lương quê ông, đốt phá nhà cửa, bắt bớ và chém giết cả thân tộc của ông, đòi cho được ông ra đầu thú. Thương xót tình máu mủ gia đình, ông bèn về nạp mình, nhưng thà chết chứ không nghe lời khuyến dụ nhận chức trọng quyền cao của giặc. Cha con ông Phạm Chánh, Phạm Luông và ông Nguyễn Sum người huyện Quảng Phước được giao chỉ huy nghĩa quân trấn giữ đạo Tu Bông. Sau khi tổng hành dinh quân khu Bắc của Trần Đường bị thất thủ, giặc Pháp thừa thắng tấn công đốt sạch kho lương Đồng Đồn khiến ba ông cùng nghĩa quân phải rút lên núi cao. Trong một lần về làng kiếm lương thực, chẳng may Phạm Chánh bị giặc bắt. Nghe tin dữ, các ông Phạm Luông và Nguyễn Sum khẳng khái nạp mình để trọn nghĩa sống chết có nhau. Ba ông cùng tuẫn quốc một ngày tại Gò Đồn, Hội Khánh.   
Địa phận bên Bắc sông Cái, dân sự ít thiệt hại hơn. Bình Tây phó tướng Nguyễn Trung Mưu cùng các ông Lê Kế, Lê Sách đi đến các xứ đạo Đồng Dưa, Cây Vông và cả ở Hà Dừa khuyến dụ cha cố, giáo dân cùng bên lương phân tán vào núi Hòn Ngang, Hòn Dữ, Ba Cụm nên Trần Bá Lộc chẳng lừa ép được ai. Các cụ thu thập quân lực chờ đánh một trận mới. Phương lược đánh giặc, các cụ nêu rõ: “Nhà nhà là nghĩa hội, người người là nghĩa quân, nghiêm cấm tà gian, không tham của cải, tránh thảm hại dân lành cả lương lẫn giáo, ai vi lệnh xử trảm”, cho nên gần hai năm trời ác chiến với quân thù vẫn bảo tồn thực lực, dân tình được hòa hợp sướng vui. 
Quân Trần Bá Lộc tiếp tục kéo ra Phú Yên để đàn áp Cần Vương. Tuần Vũ Khánh Thuận là Trịnh Hữu Thể, Tả quân đô thống Đào Trí phải hồi hương quản thúc rồi mất. Cụ Tú Mưu cùng Lê Thiện Thuật, Bùi Đồng lẩn quất ở vùng núi Ba Cụm, Hòn Bà, Hòn Mẫu Tử, hợp với nghĩa quân người Thượng ở Thác Hòm, Thác Trại, Gia Lê, Gia Lắc (thượng nguồn sông Cái) và buôn Kim, buôn Bác đầu con sông Dinh ở Tân Định để điều khiển mọi việc. Phạm Sương, Đặng Công, Nguyễn Trực ở vùng Hòn Khói, Tu Bông lo trao đổi vật phẩm giữa trung châu với miền núi, khuyến dụ nhân dân làm nhiều mắm muối cung đốn cho nghĩa quân. 
Ở Khánh Hòa nhân dân đã suy tôn Ngũ Bá gồm Bá Thời (phụ trách quân giới), Bá Long (làm tán lý cho Bình Tây phó tướng Nguyễn Trung Mưu), Bá Trinh (làm tán lý cho Bình Tây đại tướng Trịnh Phong), Bá Hùng (làm tán lý cho Tổng trấn quân khu Bắc Trần Đường), Bá Cang (làm tán lý cho Tổng quản khu Nam Lê Nghị). Qua hai năm chiến đấu, Nguyễn Bá Trinh bị thương rồi mất. Phan Bá Hùng bị thương nặng đổi tên thành Phan Hoằng Phú lánh vào ẩn ở Long Hương (Tuy Phong) rồi sau qua đời ở đó. Các ông Võ Bá Thời, Phạm Bá Long, Trần Bá Cang đã cùng với Bùi Đồng, Trần Đạt rút quân lên miền Khánh Dương hợp sức với nghĩa quân do cha con Trần Văn Nghiệp lãnh đạo tiếp tục chiến đấu ở miền núi phía tây. 
Bà Nguyễn Thị Hàn Liên là vợ Nguyễn Bá Trinh gởi đứa con trai độc nhất cho hội “Nam Trung nghĩa sĩ” lên đánh giặc trên chiến trường Tây Sơn rồi tử trận. Con bà Nguyễn Thị Hàn Mai là Trịnh Tuyết Anh (cha là Tuần vũ Trịnh Hữu Thể) cải nam trang lấy tên là Nguyễn Khánh Lâm ra tham chiến với Nguyễn Bá Loan ở Quảng Ngãi rồi cũng hy sinh. Bà Hàn Mai trở lại Khánh Hòa cùng chiến đấu với nghĩa quân cho đến lúc tử vong. Ở Bình Thuận, các ông Nguyễn Xương, đề đốc Trần Tuấn (tức Phan Trung), Nguyễn Nghị Phong (trong hội Nam Trung nghĩa sĩ ở Phan Rang), Trần Văn Trung, Nguyễn Hữu Cảng kéo quân lên họp cùng quân thượng du do tù trưởng ở Đông Ý là Lâm Vi Năng cầm đầu. Ở Phan Rí có Trà Quý Bình, Lữ Minh Việt (hậu duệ vị tướng Chiêm Thành “Môn”, phụ tá thời Tây Sơn) cùng Lê Duy Dương, Nguyễn Trúc... cũng làm như vậy. Các bộ phận này tự đặt mình dưới sự chỉ huy thống nhất  của Bình tây đại nguyên soái Võ Đính và nhị vị phó nguyên soái là chúa Hỏa Y Tòng, chúa Thủy Ma Kham hợp sức đánh phá quân Pháp suốt nhiều năm liền. 
Chỉ đến khi quân Pháp tập trung binh lực bao vây kinh tế, triệt hạ buôn làng, thiêu hủy rẫy rừng và chận đường tiếp tế Trung châu thì nghĩa quân đành chịu kiệt quệ vì đói và bệnh. Nghe nói cụ Tú Mưu sống thọ, đến trên 90 tuổi. Những dòng cuối của bản lược ký đầy xa xót, ngậm ngùi: “Còn ta, cũng như nhiều bạn đồng môn khác, tuy ở Trung châu nhưng thực sự là núi rừng, cũng bị sơn lam chướng khí huỷ hoại thân thể, sau phải lẻn về nhà an dưỡng, rồi cũng đành ôm hận xuống mồ theo quán vận sau này mà thôi... Trước khi nhắm mắt lìa đời, ta nằm mọp trên giường bệnh trong buồng tối mờ với đĩa đèn dầu phụng, gắng gượng ghi lại những dòng thô thiển để lớp người kế tục sự nghiệp hiển hách của ông cha có dịp tường tri bao vị nghĩa liệt đã xả thân cho nòi giống Lạc Hồng đời đời bất khuất”.
5. Cụ Phạm Phú Viết, 73 tuổi ở Diên Toàn, còn nhớ bà nội kể lại rằng vào lúc  bà còn là cô bé gái hơn mười tuổi, ngày ngày bưng mẹt bánh đúc bán cho các bác lính canh cửa dinh quan lớn, cuộc sống bỗng dưng khác lạ. Có tiếng đồn, tiếng rao truyền cứu nước giúp vua. Ban đêm, trống mõ nổi dậy, đuốc lửa rầm rập kéo đi, nhà cháy bốn phía, lửa đỏ rực trời. Ban ngày Tây với lính đạo từ Cửa kéo lên. Chúng bắn giết, chặt đầu, đốt nhà, bắt người đi đạo bước qua thánh giá. Khói đen bốc lên che nắng trời thành màu vàng úa. Chó cụp đuôi chạy trốn trong bụi. Người bỏ làm bỏ ăn, sợ lo mà chẳng biết kéo nhau chạy về phương nào. Nhưng khi Tây rút về Cửa, thì trống lại đánh, kiệu võng cờ xí bên mình lại kéo đi, người lớn lại nhóm họp, hô hào. 
Sự trớ trêu của lịch sử khiến cho sự nghiệp Cần Vương bị xuyên tạc theo câu chuyện “bình Tây sát tả”. Từ lâu trong khi hỏi han các cụ về việc này, chúng tôi được kể cho biết có hàng trăm con người theo đạo dắt dìu nhau đói khát trốn trong khu rừng bên kia sông chạy qua phía nam làng Lương Phước. Xa hơn về phía đông, tại làng Phước Trạch, tôi cũng được chỉ cho biết khu rừng giáp núi Chín Khúc là nơi có đến hai trăm dân đạo trốn trận sát tả. Sự ngờ vực trong tôi thật khó luận giải : sát tả thì quân Cần Vương mới sát tả còn núi rừng vốn là địa bàn căn cứ của nghĩa quân Cần Vương. Trốn sát tả mà không chạy theo Tây lại dắt nhau vào rừng, như thế khác nào đi nạp mạng? Nay đọc di cảo cụ Tú Mưu mới sáng tỏ là chính quân Cần Vương đã bảo vệ cho đồng bào Công giáo. Ông Nguyễn Đức Tuyên còn kể rõ dưới nền nhà cụ Tú Mưu xưa là một gian hầm rộng. Dân đạo bị quân Trần Bá Lộc truy nã trốn ở đấy. Hàng ngày phải nấu cơm nắm đưa xuống hầm để sống tạm qua ngày. Ơn nghĩa tình đồng bào sâu đậm, hiện nay đã trăm năm qua, nhưng thường lệ, đến ngày giỗ cụ Tú Mưu, các thế hệ phụ lão trong họ đạo ở Đồng Dưa vẫn biện lễ đến nhà thờ họ Nguyễn tưởng nhớ Cụ. Con dâu cụ Nguyễn Tấn, bà Nguyễn Thị Vi Hà ở Nha Trang, cũng kể lại tương tự: “Gia đình chồng tôi là người Võ Cạnh mà ngụ tại Võ Dõng. Từ năm 1941 về làm dâu, tôi đã lắm lúc vừa khó hiểu vừa xúc động, thấy cứ “mồng năm ngày tết”, các gia đình đạo Thiên chúa ở Võ Cạnh lại lễ mể đem biếu gia đình chúng tôi những món quà dân dã mà nặng sức cần lao, những “khoai bắp để ông ăn lấy thảo của tụi con” và “gánh củi để ông nấu nước cúng cụ”. Cha chồng tôi giải thích: “Các nhà đó đều mang ơn sâu nặng với ông nội các con (cụ Nguyễn Lương). Chánh quyền đô hộ Pháp trước đây đã có lúc âm mưu bắt giết con chiên ngoan đạo để lấy cớ đổ tội sát tả mà phế bỏ các quan liêm chính của triều đình lúc bấy giờ. Ông nội biết được, tìm cách che chở cho các gia đình đó, ơn nghĩa kéo dài đến tận ngày nay…”. Cũng từ việc này mà vào dịp kỷ niệm 250 năm thành lập giáo xứ Bình Cang (10-1990), người con cụ cố Tám Bường nay là linh mục Nguyễn Hữu Phú, đã mời các di duệ cụ Nguyễn Lương về dự lễ ở nhà thờ họ đạo. Linh mục đã có những lời cảm ơn họ Nguyễn làng Võ Cạnh rất trân trọng và cảm động.
6. Tháng 6 năm 1908, án tử hình cụ đại khoa Trần Quý Cáp rúng động toàn quốc và trực tiếp đập vào trái tim người dân Khánh Hòa, Diên Khánh. Lâu nay, tiếng tăm tri thức cùng tinh thần cách tân của cụ, nho sĩ sở cậy rất nhiều. Cái tâm lý chung đang là ta thua người Pháp quá xa. Nay, trong hàng ngũ cao học của ta, có người từ trong những hiểu biết như ta hiểu biết, mà lại nhận định rành mạch ta thua những gì, cần phải làm những gì, khác nào thắp lên được bó đuốc rọi sáng bước đi trên con đường mới. Tập luận “Sĩ phu tự trị” của cụ nói ý nghĩa, giá trị, mục đích thực dụng của sự học là khai trí trị sinh, mở mang học vấn cao rộng, để giàu dân, ích nước, chắc chắn nhiều sĩ phu Diên Khánh đã đọc và tâm đắc. Khi còn làm giáo thụ Thăng Bình tại Quảng Nam, cụ đã mời thầy về dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, mở mang cách giáo dục mới, tổ chức học sinh đi cắm trại luân chuyển từ trường này sang trường khác để gây tình hữu nghị, trao đổi kiến thức. Còn khi vào Khánh Hoà, ngay lúc mới đến, cụ đã đề xuất ngay với An sát Nguyễn Văn Mại, một mặt mua tân thư để giảng dạy, một mặt cho phép sĩ phu cúp tóc, một mặt xin đi các hạt diễn thuyết cải lương. Cụ đã bị chính quyền thực dân từ chối không cho làm những việc này. Sau đó, một vài chữ viết vắn tắt trong một lá thư riêng để lộ thái độ cụ tán thành dân chúng đòi giảm sưu thuế đã là duyên cớ cho bản án giết cụ. 
Người dân Diên Khánh còn nhớ rõ đoạn đường cụ đi thọ hình, từ cửa đông Thành đi ra một đoạn, rẽ sang trái phía đông đất trường quan Đốc (nay là Bưu điện huyện) rồi đâm thẳng ra chỗ nay là hẻm nhỏ khoảng giữa đường Trần Quý Cáp để xuống gò Chết Chém cầu Sông Cạn (nơi nay là miếu thờ cụ). Ký ức các vị bô lão kể rằng trời đang nắng bỗng sực tối âm u, vô số con người đứng vòng trong vòng ngoài quanh gò cố nén tiếng khóc uất nghẹn. 
Chứng kiến cảnh cụ Trần thọ hình năm ấy có một cậu bé 11 tuổi tên là Phùng. Đang nắm tay cha, cậu chợt thấy tay cha xiết chặt. Ngước mắt nhìn lên, chưa bao giờ cậu thấy cha khóc thảm như thế. Hai dòng nước mắt nho sĩ Huỳnh Liên chảy mãi, ròng rã, lặng lẽ. Cậu bé Phùng cảm biết sâu sắc lòng cha tôn kính cái ông đang bị chém đầu kia đến chừng nào. An tượng xót xa ấy giữ  kín trong lòng cậu bé, sau này trở thành động cơ cho một ông Huỳnh Kỳ Phùng lúc 33 tuổi tích cực tham gia cuộc vận động cách mạng năm 1930. Ông làm tài xế chạy xe tuyến đường Huế - Nha Trang,  bí mật chuyển tin tức và chỉ thị từ Huế vào Ninh Hòa trong đợt biểu tình. Ông làm tròn nhiệm vụ, nhưng khi phong trào tại chỗ bị vỡ, do có người khai ra, ông Phùng bị bắt cùng với một đồng chí khác là ông Thái Lâm (cả hai đều người làng Phú Lộc). Người hoạt động chính trị bí mật thuở ấy rất hiếm, việc hai ông bị bắt làm chấn động đất Diên Khánh. 
Đến phiên một thế hệ con trẻ kế tiếp chịu một ấn tựợng đau xót khác. Anh em hai cậu bé Ngộ và Tân dắt nhau thăm cha. Cha hai cậu, tức ông Phùng, chân bị xích, vai vác đá nặng đắp đường Mã Vòng dưới sự thôi thúc của roi vọt. Ông chỉ vắn tắt dặn con một câu: “Về nhà ráng học, chuyện cha làm là chuyện nước, lớn lên lần lần sẽ hiểu”. Hai cậu bé hiểu điều cha dặn rất kỹ. Mười bảy năm sau, 1946, đến phiên anh Tân lại làm chuyện nước như cha đã làm. Bị giặc Pháp tra tấn hết sức dã man, anh cắn răng không chịu tiết lộ. Lần cuối gia đình tìm thăm còn thấy mặt anh, chứng kiến chúng đạp cái thân xác tả tơi của anh gục xuống nền nhà, rồi vất anh lên xe chở đi. Bạn  tù kể lại chúng treo anh lên cây cho đến lúc chết vào ngày 16 tháng 5 âm lịch. Người chiến sĩ Huỳnh Kỳ Tân không có mộ. Xác anh hòa vào đâu đó với cỏ cây của đất nước. 
Cụ Huỳnh Kỳ Ngộ trầm ngâm kết thúc câu chuyện kể với tôi: “Nhiều khi nhớ chuyện ông, cha và em, tôi cứ nghĩ đến một dòng chảy. Giọt máu cụ Trần Quý Cáp thấm sâu vào đất cầu Sông Cạn, còn cái thần của cụ thì nhập vào người học trò là ông nội tôi rồi cứ truyền tiếp xuống con cháu”.
7. Những ngày chót của phong trào yêu nước chống Pháp tại tỉnh lỵ Khánh Hòa đã kết thúc như thế nào? Nhớ lại câu hỏi tò mò của tôi lúc nhỏ cứ thúc bách “rồi sau ra sao?”. Nhưng trí nhớ của bà tôi, là một trẻ nít của thời ấy lại chỉ có thể cung cấp cho tôi chuyện voi Thanh. Chuyện kể rằng, tên sứ Tây với lính của nó lên đến tỉnh đường và ra xem tàu tượng. Đàn voi của tỉnh dùng “giãy bộ hổ” (chuyên săn bắt những con cọp về làng ban đêm, ban ngày thường núp lại ở các gò bụi hay ruộng mía) lúc đó còn voi Kỳ, voi Chản, voi Bồ Cốc mà dẫn đầu là thớt voi Thanh. Viên quản tượng theo lệnh tên Pháp hét voi Thanh quỳ xuống cho sứ Tây cỡi. Ba lần Tây leo lên, ba lần voi Thanh dùng vòi quấn chân níu xuống. Hoảng sợ, nài Năm đứng trước đầu nhìn voi Thanh, giọng thổn thức khuyên nho nhỏ: “Nước đã mất rồi, quyền là ở người ta, phải chịu nhẫn nhục, không nghe thì nó giết”. Voi Thanh, bấy giờ đứng im rũ vòi, hai dòng nước mắt của nó chảy dài. Sau đó nó bỏ ăn, đứng tựa vào trụ tàu. Mấy ngày sau, da nó nhăn nheo, thân nó gầy rốc lại. Người ta vuốt ve dỗ dành nó, nó không đổi ý, rồi nó chết… 
Cái mẫu chuyện nhỏ trong một cuộc thất bại to lớn đè nặng mãi lên quả tim kia, hôm nay tôi lại có dịp tìm hỏi thêm. Tháng 3 năm 1996, tôi đến thăm ông Nguyễn Chum ở xã Diên Toàn. Ông cụ 73 tuổi này khỏe mạnh và minh mẫn. Tôi hỏi làm thế nào mà nội tổ của cụ - cụ Nguyễn Thi - 150 năm trước đây hành nghề đông y lại có được voi Thanh dâng cho Nhà nước và được triều đình ban thưởng hàm bá hộ? Hóa ra cụ Thi có người cháu gọi bằng dượng rể vốn là người kinh doanh lâm sản rất giỏi. Ong thông thạo các buôn làng ở thượng du, đã thay cụ mua về con voi rất khôn này. Chuyện xưa nghe bà tôi kể, nay quả có minh chứng rõ ràng. 
Tháng 6 năm 1996, chúng tôi có đến nhà “cố Trần Tiên Tấn” ở thị trấn Diên Khánh hỏi thêm các cháu ông để biết thêm về cụ Trần Tấn Đạt. Lớp người xưa gọi cụ là ông “Tổng Trần”. Hưởng ứng Cần Vương và sẵn có uy tín trong quần chúng, ông Đạt là thủ lĩnh một nhóm nghĩa sĩ giao tranh với giặc. Thất trận, ông bị bắt. Chúng buộc gia đình ông phải chuộc mạng bằng ruộng đất. Vợ con ông đã đem giấy tờ sở hữu đủ số ruộng đất nạp cho chúng, nhưng chúng chê là ruộng nằm riêng lẻ ở mỗi nơi một ít chứ không liên địa. Chúng bắn ông ở cửa hậu Thành Diên Khánh. 
Tôi lại được cụ Nguyễn Tri Khánh, 78 tuổi ở làng Trường Thạnh kể chuyện hai anh em của nội tổ. Ông anh tên là Nguyễn Duy Trận bàn với em bỏ tất cả để đi cứu nước. Ông em là Nguyễn Duy Đồ đang làm chức giám thủ kho lương tiền Khánh Hòa cảm thấy trách nhiệm của mình quá nặng, không dám quyết định. Thế rồi sau các trận đánh Cần Vương, ông anh thua trận chạy vào rừng sâu. Gia đình mãi mãi không tin tức. 
Chúng tôi lại được tiếp chuyện cụ Nguyễn Xuân Nghĩ, 79 tuổi người làng Quang Thạnh. Năm lên 10 tuổi, cụ hỏi bà ngoại: - Ông ngoại đâu? Bà ngoại kể chuyện ông ngoại thương tâm biết bao. Chồng bà là ông họ Phan, thống lãnh một số nghĩa sĩ Cần Vương. Thua trận, giặc bắt trói ông để vào cối đạp giã cho nát chết, nhà cửa giặc đốt. Cha cụ Nghĩ đã đem mẹ vợ về phụng dưỡng. Lúc còn nhỏ, cụ Nghĩ vẫn theo cha thường xuyên chăm sóc ngôi mộ đất của ông ngoại họ Phan chôn kề bên núi Hòn Thị làng Cây Me (Bình Khánh) thuộc xã Diên Hòa ngày nay. 
Được xem qua những trang bản thảo đang viết dở này, ký ức chợt quay lại với nhiều người. Ông Trần Văn Tha 68 tuổi, kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện kín đáo truyền lại trong gia đình ông suốt thời Pháp thuộc. Cha ông, cụ Trần Ngọc Phát, tục gọi ông xã Chín Bộc làng Phú Lộc, lúc sanh tiền mỗi năm đều nhắc  lại cho anh em ông về một ngôi mộ. Người dưới mộ là em trai ông nội cụ Phát - đời ông Tha gọi là ông nội cố em - thi đỗ tú tài tức tú tài Trần Văn Học. Ngày giặc Pháp cướp nước, ông Tú Học lãnh đạo một nhóm chiến sĩ Cần Vương. Trận đánh sau cùng bị giặc vây trong một lùm bụi. Giặc gọi hàng, ông Tú mắng trả, bị giặc bắn chết. Gia đình sau đó đem xác về chôn, nơi chôn là giữa bụi tre gai kín đáo bên bờ sông Phú Lộc. Lời cụ Phát dặn con : “Đây không chỉ là một cái tang lớn mà còn là một vinh dự lớn làm chứng dòng họ mình có người ăn học giỏi hy sinh cho nước. Thế lực của Tây còn mạnh, các con không để lộ chuyện, nhưng phải luôn nhớ chăm sóc mộ, vừa là máu mủ dòng họ vừa là nghĩa nước”. 
Ông Lê Viết Thấu, 80 tuổi, nhớ chuyện ông nội là cụ giáo Lê Viết Tạo kể chi tiết về việc toàn dân ở khu vực nay là xã Vĩnh Phương đã cùng nhau xeo núi đá xuống lòng sông Cái để ngăn tàu Tây tải quân lên đánh Thành Diên Khánh. 
Có bao nhiêu chuyện ông cha ta làm mà vì thất bại mất quyền nước đã phải chìm theo ký ức bao con người “sống giấu kín, chết đem đi”? Tiếc cho vài câu chuyện kể rời rạc của từng người trên đây đã bổ sung quá ít chi tiết cho sự  phác họa bức tranh toàn cảnh bản lược ký của cụ Tú Mưu. 
Thương ông cha ta khi đương đầu với thực dân xâm lược chỉ có trong tay gươm giáo thô sơ. Đem một tấm lòng ra thi gan với vũ khí hiện đại, trứng chọi với đá rồi “thung dung tựu nghĩa” như cách nói của Nho giáo. Các cụ tuy thất bại vẫn cứu vãn được danh dự cái học vấn đã rèn đúc các cụ.
Còn voi Thanh? Lan man câu chuyện Cần Vương, ngẫm lại thấy có một chi tiết phi lý trong lời kể của bà tôi. Đó là chuyện voi Thanh “khóc”. Không thể nào có chuyện voi Thanh “chảy nước mắt”. Những giọt nước mắt cũng như tiếng cười, tạo hóa chỉ phú riêng cho giống người. Chỉ vì cái tang mất nước kia quá lớn. Đau đớn bao trùm hết mọi người, nỗi tuyệt vọng gởi vào nước mắt uất hận của con vật tinh khôn, rồi đinh ninh cứ thế mà truyền lại. Cái cách nó tự kết thúc sự sống há chẳng không xa với nết trung nghĩa của con người?. 
16/4/2007
Phạm Phú Viết
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Về Nhà văn Khái Hưng

Về Nhà văn Khái Hưng Khái Hưng tên thật là Trần Giư, nhưng ông thêm chữ Khánh thành Trần Khánh Giư để giống vị tướng Trần Khánh Dư đời Trầ...