Sóc Trăng ngày nay
Đồng bằng sông Cửu Long, là nơi hội tập, nơi đất lành chim đậu,
của các dân di cư đến khẩn hoang lập nghiệp từ đầu thế kỷ 17. Người Việt từ miền
Trung (chủ yếu là vùng ngũ Quảng), miền Bắc cùng với người Hoa Minh hương đến
vùng đồng bằng còn hoang vu, sông ngòi chằng chịt, cây cối um tùm để định cư. Họ
bỏ quê hương vì hoàn cảnh nghèo khó, loạn lạc hay tị nạn chính trị để lập lại một
cuộc sống mới. Họ sống chung với dân bản sứ Khmer và sau bao nhiêu năm chung sống,
môt sắc thái Nam bộ đặc biệt được tạo ra từ ba nguồn văn hóa chủ yếu:
Việt-Hoa-Khmer, trong hoàn cảnh ưu đãi với môi trường thiên nhiên rộng lớn, đất
đai trù phú. Tượng trưng cho sự hòa trộn đó thì không có nơi nào được thể hiện
rõ hơn là ở khu vực bao gồm tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu. Vì thế tôi đã đi đến
Sóc Trăng để học hỏi và tìm hiểu thêm cho một đề tài nghiên cứu về người Minh
hương ở Việt Nam.
Từ Cần Thơ qua Cái Răng trên quốc lộ 1A đi qua các thị xã Ngã
Bảy, Tân Hiệp, Phụng Hiệp thuộc tỉnh Hậu Giang và Đại Hai, Kế Sách, Mỹ Tú, thuộc
tỉnh Sóc Trăng. Sóc Trăng là phiên âm của tiếng Khmer “Srok Khléng“ - nghĩa là
xứ (xóm) kho bạc hay xứ giàu kho tàng, nơi đây xưa kia là ngân khố của tỉnh
Bassac (Ba Thắc) đặt tại đền vua ở Bãi Xàu (nay là chợ Mỹ Xuyên). Người Hoa gọi
Sóc Trăng là “Khốc Lằng“. Sóc Trăng chính thức trở thành lãnh thổ Việt Nam năm
1757 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát.
Ngoài thị xã Sóc Trăng, có rất nhiều cửa hiệu bán bánh pía từ
các cơ sở làm bánh pía An Thành, Tân Hưng, Công Lệ Thành... bánh pía là đặc sản
Sóc Trăng của người Hoa Triều Châu làm ra. Khách sạn Ngọc Sương,
ngoài thị xã Sóc Trăng, mới xây rất đồ sộ với một phần nguồn vốn từ một số người
Việt ở nước ngoài. Khách sạn đẹp, thuộc loại 3 sao nhưng trông rất vắng người
vì vị trí khách sạn không thuận lợi. Vừa đến Sóc Trăng, qua sách hướng dẫn du lịch
“Lonely Planet, Vietnam”, tôi đi thẳng đên khách sạn Phong Lan 2 trên đường
Nguyễn Chí Thanh. Khách sạn gần bến xe cũ, nay đang được phá bỏ để nối liền với
khu Hồ nước ngọt gần đó thành một khu du lịch cây sanh lớn trong thị xã. Khách
sạn Phong Lan vừa mới được khoán cho tư nhân, và nay rất vắng vẽ không như trước
đây là rất đông như đã được mô tả trong quyển sách du lịch. Ở Sóc Trăng không
có chỗ nào tìm được để mướn xe Honda, vì thế để đi thăm quan tôi phải dùng
phương tiện xe ôm hay đi bộ.
Vì thời gian có giới hạn, tôi vội đi viếng chùa Kh'leang, gần
khách sạn, cùng với người bạn ở Sóc Trăng. Trong khuôn viên chùa Kh'leang, học
viện tiếng Pali đang được xây cất thay thế Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp
Nam bộ tọa lạc ở gần đó trên đường Nguyễn Chí Thanh. Học viện cũ sẽ trở thành
thư viện. Có thể nói đây là trường dạy chữ Pali có chất lượng và lớn nhất ở Nam bộ.
Trong chùa Kh'leang hiện có nhiều sinh viên học sinh Khmer nghèo tá túc. Họ từ
các làng, xã khắp nơi trong tỉnh lên thị xã học hành. Báo Thanh Niên có đăng
phóng sự về các học sinh nghèo này trong số ngày 26/1/2007. Đối diện với chùa
Kh'leang là nhà thờ công giáo xây từ thời Pháp với khuôn viên rộng lớn. Nhà thờ
có kiến trúc cổ điển, đẹp nhưng trông rất cũ, có vẽ như không được sữa sang bảo
trì từ nhiều năm qua. Tỉnh Sóc Trăng có công đồng công giáo cũng đáng kể. Ta có
thể thấy là ở Sóc Trăng, các dân tộc và các tín ngưỡng sống đan kẻ với nhau ở mọi
nơi.
Gần chùa Đất Sét, trên đường đi về hướng cồn Mỹ Phước, ở phía
bên trái là chùa Khmer Som Rong. Chùa rất đẹp trong khuôn viên vườn rất rộng.
Chùa được xây vào năm 1961. Tôi được sư họ Sơn còn trẻ tiếp chuyện và dẫn đi
thăm chánh điện và chung quanh chùa. Sư nói về sinh hoạt hàng ngày của các sư
trong chùa và trong những ngày lễ hội. Dưới ánh sáng của buổi sáng sớm, cây cối
chung quanh chùa rất đẹp và quang cảnh thật thanh tịnh. Chùa như ẩn mình trong
yên lặng, tập trung thiền trong cỏi Phật. Cũng như những chùa Khmer khác, nếu
ta để ý thì sẽ thấy là hầu như tất cả các chùa Khmer và viện bảo tàng, trung
tâm văn hóa Khmer đều có trồng cây bông sứ. Tên khoa học của cây hoa sứ là
michelia champacca, hay gọi là hoa champa thường được trồng ở các đền thờ ở Ấn Độ.
Trở về khách sạn nghĩ ngơi, đến chiều tôi đi bộ đến Bảo tàng
văn hóa Khmer ở kế chùa Kh'leang, góc đường Nguyễn Chí Thanh và Mậu Thân 68.
Lúc này đã 4:30 chiều, tòa nhà chính đã đóng. Hơi thất vọng, nhưng tôi nói với
nhân viên trong viện là tôi muốn tìm hiểu về văn hóa Khmer để viết bài cho các
tạp chí trong và ngoài nước. Anh quản thủ viện, tên là Thạch Đông, người Khmer
cao lớn rất vui vẽ mở cửa viện dẫn tôi đi tham quan. Tòa nhà rất đẹp được xây
vào năm 1936, bên ngoài kiến trúc Khmer, bên trong kiến trúc như trong một dinh
thự Pháp. Tòa nhà trần rất cao, kiên cố chắc chắn, chỉ một tầng. Theo anh Thạch
Đông cho biết chi phí xây là 50,000 tiền Đông Dương, một số tiền lớn thời đó.
Trước đây chùa Kh'Leang bên kia đường và Viện bên này đường nằm trong cùng một
khu đất, rất vắng vẽ người thưa. Sau này con đường Nguyễn Chí Thanh được mở ra
cắt chùa Kh'Leang và Viện ra thành hai nơi. Trên tường giữa viện về phía trái của
cổng vào vẫn còn còn ghi tên các nhân vật, sư sãi, cơ quan tặng tiền đóng góp
xây lên Viện văn hóa Khmer. Đứng đầu bảng là ông Sihanouk với số tiền 1000 tiền
Đông Dương, sau đó là tên các người Hoa, Việt, Khmer, Pháp đóng góp xây viện.
Trong số các hiện vật trình bày có mô hình sân khấu Dù Kê, Rô
Băm, các khí cụ, gậy chống chạm chỗ rất đẹp, các đồ gỗ trạm trỗ rất tinh vi của
nghệ nhân Khmer, các tượng Khmer và một linga cổ xưa tìm được trong tỉnh Sóc
Trăng không rõ xuất xứ, một số sách thời Pháp (tự điển Khmer) xưa mà theo anh
Đông thì ngay cả ở Cambodia cũng không có. Các nhà nghiên cứu từ Phnom
Penh đến Sóc Trăng xin được photo hay in lại. Các cuộn sách lá buông được
xếp đặt ngăn nắp trong một tủ gổ tốt có chạm trỗ hình chim thần Kinnari ở chân
tủ. Anh Đông cho biết lúc tiếp quản năm 1975, một số tủ đã bị mất. Các tủ này
mang từ chùa Kh'Leang qua Viện trước kia. Những di tích thuộc văn
hóa Óc Eo trong tỉnh được tìm thấy ở Mỹ Xuyên vào năm 1990, khi dân địa phương
trong lúc đào đìa nuôi cá đã tìm thấy một pho tượng Phật bằng đá với tư thế ngồi,
đầu đầu đội mũ chóp với các nấm xoay nổi. Tại nơi đây cũng tìm được các sành, gốm
vỡ thuộc nền văn hóa này. Đáng kể hơn là di tích Xuân Hòa, huyện Kế Sách ở một
nơi gọi là “Giồng Đá”. Giồng Đá hình tròn, đường kính ở chân nơi gò khoảng 12m.
Trên mặt giồng có nhiều tảng đá lớn, cây cối mọc nhiều. Nơi đây có di tích những
ngôi mộ cổ và gốm Óc Eo. Điều này chứng tỏ xưa kia Sóc Trăng là nơi đã có dân định
cư và có nền văn hóa lâu đời
Trước khi ra về, tôi đã viết vào sổ lưu niệm của bảo tàng văn
hóa Khmer, mong là văn hóa Khmer trong tỉnh Sóc Trăng sẽ được bảo tồn tốt và
phát triễn thêm mãi với những đặc thù riêng biệt trong một xã hội đa văn hóa hiện
nay.
Tôi cũng nói với anh Đông là một trong những mục đích thăm
Sóc trăng là tìm hiểu về người Minh hương và Hoa. Anh Đông nói ở Vĩnh Châu, nơi
có nhiều vườn nhãn, có rất nhiều người Khmer và Hoa cư ngụ, hơn cả người Việt.
Đa số dân ở vùng này nói 3 thứ tiếng Khmer, Triều Châu, Việt. Đây là vùng hội tụ
của 3 văn hóa Việt-Hoa-Miên tạo nên thành một văn hóa đặc thù tượng trưng cho cả
lịch sử khẩn hoang Nam bộ. Như ta biết, những người Hoa đầu tiên đến Nam bộ
theo các tướng nhà Minh: Mạc Cửu, Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch đến Đồng
Nai, Mỹ Tho và Hà Tiên. Lần lần nhóm người Minh Hưong này đi dọc theo sông rạch
đến các tỉnh vùng Ba Thắc như Đại Ngãi, Ba Xuyên, Mỹ Thanh... Họ đã khai hoang
giữa rừng, sông nước lau sậy um tùm, mở làng lập ấp cùng với lưu dân người Việt
và dân bản sứ Khmer. Thương cảng Bãi Xàu gần mé sông xưa kia từ thế kỷ 18 đã là
nơi tấp nập thuyền buôn bán, chuyên chở hàng hóa mà đa số là của người Hoa đến
từ nhiều nơi.
Năm 2006, Hội tương tế người Hoa được thành lập ở Sóc Trăng.
Qua sự tiếp xúc với một số người Việt gốc Hoa ở Saigon thì tôi được
biết Hội tương tế ở Sóc Trăng là lớn và mạnh nhất trong nước, hơn cả các hội
người Hoa ở Saigon-Chợ Lớn hay các nơi khác. Tôi có người quen, anh Trang Dân
Kiệt (sáu Kiệt) người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn, trong thời kháng chiến chống Mỹ,
đã có thời gian trong tù Côn đảo, nay đã về hưu và làm thương mại. Anh Kiệt nói
về Hội tương tế Hoa ở Sóc Trăng lớn mạnh vì nơi đây người Hoa sống lâu đời
chung với 3 sắc dân của 3 nền văn hóa, hòa trộn từ nhiều thế kỷ nên những lãnh
đạo trong chính quyền địa phương vì cũng xuất thân từ các hoàn cảnh như vậy nên
ủng hộ, rất khác với hội người Hoa ở vùng Saigon-Chợ Lớn, không được thuận lợi
và đoàn kết như ở Sóc Trăng.
Gần chùa Kleang là Bửu Sơn Tự (chùa Đất sét), nơi cụ Ngô Kim
Giang năm nay 88 tuổi chăm quản, cụ thuộc đời thứ 4 dòng họ Ngô thành lập chùa.
Dòng họ Ngô là người Triều Châu đã đến nơi hẻo lánh trong khu vực nhiều người
Khmer lập chùa cách đây hơn 200 năm (nay khu vực này đã đông đúc). Cụ Giang nay
đã mắt mờ, từ trong nhà cạnh ngay đền, ra ngồi ghế gần chính điện ngồi giải
thích cho chúng tôi biết về lịch sử chùa. Anh của cụ, ông Ngô Kim Tòng người đã
xây các tượng (Kim Lân, Hổ, Voi, đền thờ với hàng ngàn tượng phật nhỏ ngồi trên
hoa sen...), tất cả bằng đất sét. Cụ Giang nói nhiều người không tin là tất cả
làm bằng đất sét nên sờ mó vào, một số vì thế bị gãy. Đặc biệt là có 8 cây đèn
cầy nặng tổng cộng nặng 1.4 tấn (mỗi cây nặng khoảng 200kg). Hai cây đang đốt,
vẫn còn cháy từ ngày ông Ngô Kim Tòng mất năm 1970, đến nay đã được hơn 36 năm.
Cụ Giang nói con trai cụ năm nay tuổi hơn 40, sẽ tiếp tục nối dõi dòng họ Ngô ở
Bửu Sơn Tự. Chung quanh chùa là các mộ của dòng họ Ngô và tháp 12 tầng với nhiều
tượng phật nhỏ bên trong. Đền lợp bằng mái tôn, nên bên trong nóng vào lúc trưa
nắng. Gần chùa Đất Sét là khu nghĩa trang rất rộng lớn của người Triều Châu,
thiết lập từ năm 1975.
Từ chùa Đất Sét, tôi tiếp tục dùng xe ôm đến chùa Khmer
Mahatup (chùa Dơi) thăm quan. Chùa Dơi đẹp với khuôn viên cây cối um tùm, có
dơi đậu rất nhiều trên các cành cao gần ngọn. Các con dơi này ở đây, mỗi chiều
tối bay đi ăn trái cây khắp nơi trong vùng. Hiện nay số dơi đã giảm nhiều do
người ta bắt ăn khi chúng đi xuống những vườn trái cây kiếm ăn. Đây
là một nguy cơ mà chính quyền địa phương nên lưu ý đến vì tác hại ảnh hưởng đến
môi trường sinh thái và cảnh quan. Ngoài cảnh quan ở chùa, trong thiên nhiên ở
Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới, dơi ăn trái cây có vai trò phát tán gieo hạt
giúp cây cối phát triển sản sinh trong môi trường, giống như vai trò của ong
đươm trái qua nhụy hoa. Xưa kia vùng Sóc Trăng còn có nhiều cá sấu
trên các sông rạch, bò rừng (con din) ở cù lao Din và cả cọp ở cù lao Ông Hổ
(nay là cù lao Dung). Nhưng như ta biết, hiện nay tất cả đều đã biến mất.
Ở Sóc Trăng các di tích lịch sử nằm khắp trong thị xã. Trên
đường Mậu Thân 68, góc đường Lê Lợi là trường Taberd ngày xưa. Nay là nơi lưu
niệm, địa điểm đón các anh hùng cách mạng bị Pháp bắt tù ở Côn Sơn trở về đất
liền vào ngày 23/9/1945, ngay sau cách mạng tháng tám. Trong số những người từ
Côn Sơn về ngày đó có các ông Phạm Hùng và Lê Duẫn. Từ viện văn hóa Khmer, tôi
đi bộ dọc phố đường Hai Bà Trưng, khu chợ Sóc Trăng và đến đường Ngô Quyền ăn tối
ở quán Hiệp Lợi. Phố xá ban đêm rất đông đảo xe cộ, nói chung Sóc Trăng ngày
nay đã trở nên phồn thịnh phát đạt. Đường Hai Bà Trưng gần chợ có nhiều cửa tiệm
người Hoa hoạt động sầm uất, không khác gì đường Trần Hưng Đạo ở Chợ Lớn. Quán
ăn Hiệp Lợi của người Tiều rất ngon và nổi tiếng, như trong sách nói, ở đây có
bán bánh bao làm tại chỗ và bánh pía. Nói đến Sóc Trăng là phải nói đến đặc sản
bánh pía. Bánh pía do một số người Minh hương mang sang khi đến miền Nam.
Đầu thế kỷ 19, ông Đặng Thuận ở Vũng Thơm, huyện Mỹ Tú Sóc Trăng là người đầu
tiên sản xuất bánh pía để kinh doanh và truyền nghề cho con cháu. Hiện nay hầu
hết các lò sản xuất bánh pía tập trung ở Vũng Thơm. Lò bánh Tân Hương là lò lớn
nhất nhưng nổi tiếng hơn là lò của ông Công Lập Thành, nay đã truyền nghề cho
các con và mỗi người có lò riêng của mình.
Sự cộng cư của các dân tộc ở Sóc Trăng dẫn đến sự hội nhập tự
nhiên trên nhiều phương diện như tín ngưỡng, văn hóa là việc tham dự lễ hội
trong vùng, không phân biệt đó là của dân tộc nào. Điều này tạo nên tính tương
trợ được mở rộng và đoàn kết giúp nhau trong cộng đồng được thể hiện rõ rệt.
Khi có ngày Tết Chol Chnam Thmay của người Khmer, thì mọi người rũ nhau đi chùa
Khmer. Người Hoa vào chùa Khmer làm công quả, còn người Khmer một số thờ Quan
Công của người Hoa mà họ gọi là ông “Thao Kông“. Trong ngày lễ hội Ok Om Bok tạ
ơn thần Mặt Trăng, vào ngày 10 tháng 10 âm lịch, có cuộc thi chèo ghe trên
sông, thả đèn giấy lên trời và bè chuối có lễ vật trên sông. Mọi người không
phân biệt Khmer, Việt, Hoa đều vui mừng tham dự như ngày lễ hội chung của tất cả
cộng đồng. Phụ nữ Khmer đã quen dần với y phục của người Việt, để tóc dài kết
thành bím, tựa như phụ nữ Khmer lai Hoa. Có nhiều gia đình Khmer lai Hoa đã lấy
một số tập tục của người Hoa như cách ăn, mặc và thờ cúng. Ngược lại ở xã Vĩnh
Hải, huyện Vĩnh Châu, ở sân nhà nhiều người Tiều có đặt ngôi miếu nhỏ bằng lá
thờ ông Tà (neak Ta) hoặc Thổ địa cùng bàn thờ Thiên Quan. Ông Tà của người
Khmer đã du nhập vào tín ngưỡng thờ Thổ địa của người Hoa. Một số miếu thờ Bà
Mã Châu ở Vĩnh Châu có ngôi miếu nhỏ trong sân thờ ông Tà. Theo Trần Hồng Liên,
trong “Văn hóa người Hoa ở Nam bộ”, qua quá trình cộng cư hiện nay đã
có vài hộ người Tiều áp dụng tục thiêu xác khi chết của người Khmer, nhất là đối
với thân nhân là người chết trẻ, vì không muốn lưu lại dấu vết gợi nhớ.
Trong một số chùa Phật giáo của người Việt, trên trang thờ có
Quan Thánh và bà Thiên Hậu. Tại Vũ Đế Thánh Điện ở thị xã Sóc Trăng trước đây
có miếu thờ Quan Thánh của người Tiều và ngôi đình thờ hai vị đại thần Võ Đình
Sâm và Trần Nhơn Hoa có công chống Pháp. Sau này cả hai nơi thờ xuống cấp, người
Tiều và người Việt sác nhập hai ngôi đền thành một, gọi là Võ Đế Thánh Điện (Tiều)
hay Đình Năm Ông (Việt).
Sáng sớm hôm sau, trước khi trở lại Cần Thơ, tôi đi bộ dọc bờ
sông đến đường Đồng Khởi dạo quanh khu chợ Sóc Trăng và quảng trường gần đường
Nguyễn Huệ. Ở đường Ngô Quyền (song song với đường Hai Bà Trưng) gần quán ăn Hiệp
Lợi và một tòa nhà thời Pháp rất đẹp nay là tòa án nhân dân có chùa Vĩnh Phước
(Minh Nguyệt Cư sĩ Lâm). Minh Nguyệt Cư Sĩ Lâm Phật Học là một tổ chức Phật
giáo, hội Phật học của người Triều châu, thành lập vào năm 1967. Đây là một
trong năm chi nhánh ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ, Sa Đéc và Cà Mau.
Chi nhánh ở Sóc Trăng là đệ nhất hội. Đến đường Trần Minh Phú góc cuối đường
Ngô Quyền là Hội tương tế người Hoa gần bờ sông Sóc Trăng.
Một trong những mục đích tôi đi xuống Sóc Trăng là thu thập
tư liệu về người Minh hương và Hoa ở Nam bộ. Vì thế tôi đến
trụ sở Hội Tương tế người Hoa ở số 18-20 Trần Minh Phú, tiếc là hôm đó tôi không
gặp những người trong hội, chỉ gặp thư ký hội và lấy được tập san đầu tiên của
hội vừa xuất bản và nói chuyện trên điện thoại với ông hội trưởng lúc đó đang ở
Long Xuyên. Dù sao tôi cũng lấy được một số thông tin quý giá trong những ngày ở
Sóc Trăng.
Sóc Trăng quả thật là đất hội tụ văn hóa và tượng trưng cho sự
hài hòa phóng khoáng rất phong phú tạo thành một sắc thái Nam bộ đặc sắc ở đồng
bằng sông Cửu Long, một mô hình lý tưởng cho một xã hội đa văn hóa.
24/2/2007 Nguyễn Đức Hiệp
24/2/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét