Tính chất Việt và nguồn gốc
triều Trần trong lịch sử Việt Nam
Có các ý kiến cho rằng tổ các vua Trần là người Hán đi từ
Nam Trung Quốc, nên các triều thần Trần có khuynh hướng dung hòa và thần phục
với thiên triều. Điển hình là ngay cả trong lúc đất nước đang đối đầu với các
cuộc xâm lăng của nhà Nguyên Mông Cổ, một số tôn thất nhà Trần đã khuyên vua
nên quy hàng với khẩu hiệu "nhập Tống". Nhà Trần đã chia ra hai, một
số theo Trần Ích Tắc về cố hương trong khi đa số còn lại trung thành với vua
chiến đấu chống ngoại xâm.
|
"Nhâm Tý... Lập đền thờ thần ở cửa biển Cần Hải (tức cửa Cờn, chú thích Phan Huy Lê). Trước đây, vua đi đánh Chiêm Thành, đến cửa biển Cần Hải (trước là Càn, tránh tên húy đổi là Cần), đóng quân lại, đêm nằm mơ thấy một thần nữ khóc lóc nói với vua: "Thiếp là cung phi nhà Thiện Tống, bị giặc bức bách, gặp phải sóng gió, trôi giạt về đâỵ Thượng đế đã phong thiếp là Thần biển đã lâu, nay bệ hạ mang quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập công". Tỉnh dậy, vua cho gọi các bô lảo tới hỏi sự thực, cho tế rồi lên đường. Biển vì thế không nổi sóng. Quân nhà vua tiến thẳng tới thành Đồ Bàn (Vijaya, nay thuộc tỉnh Bình Định), bắt được chúa Chiêm đem về. Đến nay, sai hửu ty lập đền, bốn mùa cúng tế". (Quyển 6, Kỷ Nhà Trần, Anh Tông Hoàng Đế)
Vị nữ thần biển đó như tôi đã trình bày ở phần trước có nguồn gốc của các dân tộc và ngư dân vùng biển Malayo-Polynesian từ lâu đời: thần phụ mạng cho ngư dân đi biển, thần cá cứu độ (cá ông voi). Không chỉ đến đời Trần mới có thần để nhân dân thờ phụng. Sự cá nhân hoá của một vài nhân vật thay thế cho thần biển phù mạng cổ xưa qua truyện giấc mơ của vua quan Trần là sự "bác học hóa” của tâm linh và văn hóa dân gian địa phương. Sau đó vua ra sắc lệnh lập đền thờ và phong nữ thần biển là "Quốc gia Nam Hải Đại Càn thánh nương" là biểu hiện của triều đình đáp ứng tín ngưỡng xưa của dân khi chiêu mộ dân đi biển đánh giặc. Nhưng thêm vào đấy là biểu tượng Hán hóa qua thiên triều vừa mất.
Theo trào lưu dân Việt xuống miền Nam, thần Đại Càn thánh nương cũng theo xuống đồng bằng sông Cửu Long cũng như thần Việt cổ Liễu Hạnh vậy. Ngay tại Saigon, trên đường Trần Quang Khải có đền Nam Chơn, thờ thần Đại Càn.
Cũng vậy, đền Chế Thắng phu nhân ở huyện Kỳ Anh. Đây cũng là quan triều nhân vật hóa thần biển nhưng lại dùng nhân vật Việt ở triều đình. Chế Thắng phu nhân là cung nữ của Trần Duệ Tông, tên thật Nguyễn Thị Bích Châu, từng theo vua đi đánh Chiêm Thành. Khi qua cửa biển, sóng gió nổi lên, vua muốn bày lễ tế thần biển: bà phải đứng trên cái mâm to bằng đồng, để cho vua ném bà xuống. Nhờ vậy bớt sóng gió. Biết chuyện ấy, người địa phương lập đền thờ.
(Xem "Sơn Nam - Phạm Xuân Thảo, "Một thoáng Việt Nam", Nxb Trẻ, 1996)
Cuối đời Trần, nho học đã bắt đầu có ảnh hưởng rộng lớn ở quan triều. Hán-Việt hóa các thần thoại, địa danh, danh từ dân gian tiếp diễn mạnh hơn. Nhưng dưới những vỏ Hán-Việt là di tích, truyền thuyết văn hóa của Việt xưa.
Tuy vậy ngôn ngữ dân gian vẫn còn giữ những tên tục của các tên Hán hoá vẫn còn lưu truyền nhiều thế hệ cho đến những thế kỷ gần đây như kẻ chợ (Thang Long), kẻ bưởi... (các thương nhân người Bồ, Hòa Lan dùng "ke cho" để chỉ Thăng Long do tiếp xúc với dân gian buôn bán). Sự Hán-Việt hóa các danh từ dân gian còn tiếp tục cho đến đời Nguyễn ở miền Nam như đổi Sóc Trăng, Bạc Liêu, Sa Đét... ra tên Hán-Việt nhưng không thành công lắm.
Trở lại bản chất Việt của văn hóa và tâm linh dưới đời Trần bắt đầu bị nho học dời chỗ và cho đến đời Lê thì nho học Hán thắng thế hoàn toàn mà đỉnh cao là dưới thời vua Lê Thánh Tông.
Văn hóa làng mạc Việt Nam dưới triều Lê được triều đình nổ lực cố gắng thay thế bằng phương cách Hán nho hoá. Mục đích cuối cùng cũng vẫn là quyền lực của triều đình nhà nước làm sao kiểm soát và làm chủ mọi đời sống nhân dân. Làng xã Việt Nam tuy vậy vẫn còn giữ được một phần tự chủ cũng như tâm linh, văn hóa truyền thống không bị nho hóa hoàn toàn cho đến ngày nay.
"Năm Quang Thuận thứ 8 (1467), ông vua độc tôn Nho Lê Thánh Tông đi bái yết sơn lăng, đường qua bên tả núi Đọi, nên có lên chơi núi, làm bài thơ khắc sau bia Lý, cười vua Lý tin chuyện quái đản (tin Phật). Và vua Lê để mặc chùa, bia đổ nát" (Trần Quốc Vượng, Sông Châu-núi Đọi - họ Trần và những mối quan hệ với cụ kép Trà. Trong Theo dòng lịch sử, Nxb Văn Hóa, 1996))
Để thấy một cái nhìn tiêu biểu của giới nho học đánh giá về đời Trần, gần đây nhà sử học O.W Wolters đã viết một bài nghiên cứu về những chủ ý và động cơ về những lời bàn của Ngô Sĩ Liên trong bài "What else Ngo Si Lien mean? A matter of distinctions in the fifteen century" (trong quyển “Sojourners and settlers, Histories of South East Asia and the Chinese - Edited by Anthony Reid”, 1996)
Trích một vài đoạn của ông Wolters, vì ông nói rõ hơn ý tôi nói:
"Ngô Sĩ Liên là một người Việt lúc nào cũng kính trọng cái học từ Trung Quốc cho đến mực là sự cao tụng cao nhất mà ông dành cho người cầm quyền ở Việt Nam là sự nghiệp thành công của người đó cũng không thể làm hơn được bởi các vị hoàng đế nổi tiếng nhất ở Trung Quốc ngày xưa. Năm 1479, Ngô Sĩ Liên được hoàng đế Lê Thánh Tôn, trao cho nhiệm vụ viết lịch sử biên niên Việt Nam. Cũng ở khoảng giữa cùng thế kỷ ấy, một nhà sử gia khác, Phan Phú Tiên, cũng đã viết sử biên niên của đời Trần (1226-1400), thời kỳ mà tôi chú ý đến. Lời bình của Liên về sử biên niên nhà Trần dựa theo truyền thống sử học Trung hoa và có mục đích dạy các bài học của quá khứ để huấn luyện những người ở thời nay và tương lai; phần lớn những gì ông Liên viết có ý tương phản những gì xảy ra ở Việt Nam với những điển cố hay sự kiện được ghi lại trong văn học lịch sử Trung Quốc - hầu như lúc nào cũng không thuận lợi cho triều đại nhà Trần.
Cái mà ông Liên khi đọc niên biểu lịch sử nhà Trần đã làm ông than vãn quá khứ vừa xảy ra ở nước ông là nước ông đã không xứng đáng đúng là một nước mẫu mực oai vệ "uy nghi", được trị bởi một "thiên tử" và so sánh được trên mọi phương diện với một quốc gia mẫu mực "uy nghi" duy nhất: Trung Quốc. Lời bàn của Liên có ý gì? Những lời bàn này có thể cho ta thấy gì hơn không ngoài việc ông là người giỏi thông thái về cổ văn Trung Quốc và dùng vốn ấy để phê bình gay gắt triều Trần đã qua?..."
Trong 72 lời bàn của sử thần Ngô Sĩ Liên về đời Trần, ta có thể thấy một thầy nho nghiêm khắc phê bình và chỉ trích gắt gỏng những chất không nho học của các dữ kiện, hành động của các vua Trần từ tu hành Phật giáo tới không nghiêm trong cai trị, lỏng lẻo luật pháp, hôn nhân trong họ hàng... Và tương phản những giá trị chung của nhà Trần với những giá trị của các bậc thánh nhân.
"... Ông, như người Việt bao thế kỷ trước đã từng làm, mang những đoạn trong sách vở Trung Quốc để ủng hộ cho những câu nói, ý tưởng của ông; những lời bàn của ông thường kèm theo các dẫn chứng tham khảo về các triều đại, vua của Trung Quốc cổ xưa hay các hiền triết của thế hệ xa xưa”...
Những lời bàn của Liên, công kích cứng rắn và thẳng thừng. Ông là một thầy giáo nghiêm khắc hay nhấn mạnh và thích nói lên những gì ông cho rằng "rất" không hợp hay sai trái. Ông thích viết những câu như kêu la hoảng hốt với dấu chấm than, một kiểu viết mang cảm tưởng là ông đang thét vào tôi để truyền đạt sự giận dữ của ông.
Ngô Sĩ Liên lấy thước đo quân tử, tiểu nhân để so sánh các nhân vật nhà Trần.
"... Người quân tử thì tương phản với nhà sư; nhà sư cho rằng mình có quyền phép tiên đoán, quay lưng lại với xã hội, từ bỏ thế giới và thiền tịnh để đạt yên bình. Người quân tử không chấp nhận những thứ như vậy"...
Ngô Sĩ Liên hầu hư coi tất cả đều phải dựa vào mô hình hán-nho ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt xảy ra dưới đời Trần.
"Có chắc rằng Liên có lý và đúng, thí dụ như than phiền rằng thi hài vua đã bị hoãn chôn cất đến 4 năm khi mà theo phép phải được táng 7 tháng sau khi mất?. Việc như thế có thể đúng ở Trung Quốc nhưng rõ ràng chắc chắn không thể áp dụng khuôn phép y trang được như vậy ở Việt Nam. Có phải là Liên gắn liền thể diện với quyền lực là xác thực không? hay là ông có một ý gì ấy hơn thế nữa.
Liên dĩ nhiên có thể hiểu sai và che đậy tình huống lịch sử trong giai đoạn lúc ấy thời nhà Trần, bởi vì, lúc ấy trong thời ông, một khoảng cách văn hóa đã được tạo ra giữa ông và quá khứ do một nền giáo dục mới và chính phủ mới, hậu quả của sự chiếm đóng của nhà Minh ở đầu thế kỷ thứ 15.
Đối với Ngô Sĩ Liên, triều đình nhà Trần dễ dãi, khoan hồng, lễ nghi xuề xòa và không có một sắc thái nghiêm minh xứng đáng của triều đình một nước.
"Vì thế Liên đỗ lỗi các vua Trần quá "khoan hồng" thay vì "kỷ cương" đúng mực. Phong tục thì "giản dị" mà không "giới hạn" Ông quan sát rằng các vua Trần, cũng như các vua Lý trước đó, "kính nể thờ phụng Đức Phật như là khởi nguồn của tất cả thế sự", một niềm tin đã làm các vua có lòng từ bi trắc ẩn và khuyến khích khuynh hướng rộng lượng ở lòng người"
Trong các vua Trần, chỉ có dưới đời vua Trần Anh Tông là được Ngô Sĩ Liên chấp thuận hơn các đời vua khác trong những quyết định và một số hành động nhưng cũng không tránh khỏi những chỉ trích.
"Vua khéo biết thừa kế, cho nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song tụ họp nhà sư trên núi Yên Tử, làm nhọc sức dân dưng gác Ánh Vân, thì chẳng phải là tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó sao?"
(ĐVSKTT, Kỷ Nhà Trần, Quyển VI)
O. Wolters cho rằng những giá trị truyền thống mà Ngô Sĩ Liên tấn công mãnh liệt ở nhà Trần, đấy có thể là những điều tốt mạnh của xã hội Việt mà sử thần Ngô Sĩ Liên không thấy.
“Tôi vì thế cho rằng những gì Liên đau buồn không phải là những việc xảy ra trệch khác đi với những gì đã được tạo dựng dựa trên tiêu chuẩn Trung Quốc mà là những dấu hiệu che đậy không kỹ của một phong thái, tình trạng văn hoá còn tồn tại qua bao thế kỷ ở Việt Nam mặc dầu đã có liên hệ với Trung Quốc từ bao đời. Những gì Liên, đứng từ góc độ quan điểm “nho giáo” ở cuối thế kỷ 15, cho đó là sự yếu kém thì phải nên nhận thấy thực sự ra đó là những dấu hiệu của một truyền thống chính thể Việt Nam vững chắc”
Sự thật thì giá trị truyền thống Việt Nam uyển chuyển và hòa hợp với công đồng hơn là giá trị cứng ngắt, "ưu tú" của nho giáo. Vì Ngô Sĩ Liên có ảnh hưởng lớn đối với các tầng lớp sĩ phu sau này qua bộ sử quan trọng nhất của nước nhà nên ý kiến cứng và độc tôn nho giáo của ông đã phủ lấp giá trị bản địa và truyền bá cái cứng của giá trị Hán-nho đưa đến những hậu quả lớn lao sau này khi Việt Nam phải đối diện với những thử thách và giá trị của tư tưởng mới lạ ở thế kỷ 19, 20 khi tiếp xúc với nền Tây phương mang đến.
Tôi nhận thấy lời kết của O. Wolters tóm tắt hoàn hảo ý chính tôi muốn nêu lên ở phần này.
"... Và trong bài khảo luận này, tôi đã cố gắng trình bày một nhận thức đã được thay đổi khác đi về cái gì nên được xem là “thể diện” của một nước; nó phải biểu hiện sức mạnh của “một vương quốc thích đáng”, phục vụ bởi các “quân tử” không khi nào quay lưng ra khỏi những vấn đề của xã hội.
Những dấu hiệu đổi khác này phản ảnh thế nào những nhà trí thức Việt Nam đã càng ngày càng nghiêng theo những gì của Trung quốc mà họ tin rằng là những mẫu mực của một chính phủ vững mạnh, từ đó là phơi trần ra một đối trọng: quyền lệ của dân làng được để yên, và cũng là cơ sở bắt đầu để kiểm soát cai trị tuyệt đối trên xã hội. Tôi xin được kết luận có thể vô trách nhiệm, cho rằng một số trong chúng ta có thể hối tiếc rằng Ngô Sĩ Liên đã khuyến khích khuyên giới ưu tú, lãnh đạo Việt Nam từ đi những phong tục cách sống ngày trước. Chúng ta phải hối tiếc như vậy bởi vì cách và lối sống lúc trước có thể bớt căng thẳng, bớt lề lối cứng ngắc, nhiều co giãn linh động, và cởi mở hơn, và để lại cho thế hệ hệ sau một cơ sở tốt khi mà thời điểm cuối cùng cũng phải đến để đối phó với thế giới phương Tây cũng như Trung Quốc sau này.”
Sự thắng thế và ảnh hưởng rộng lớn của nền văn hóa Hán nho sau đời Trần quả thật đã để lại những di sản to lớn trong lịch sử Việt Nam. Lịch sử Việt Nam có thể khác đi nhiều không khi tâm thức Việt đi theo chiều khác?.
(4) Tính Chất Việt đời Trần - Viễn cảnh lịch sử
Một số tư liệu và ý tưởng trong phần này lấy từ sách của Gs Vĩnh Sính nhưng những nét chính của bài là cái nhìn của tôi về toàn cảnh lịch sử của nước nhà dưới góc cạnh tư tưởng và đặc tính tâm thức của con người Việt Nam sau đời Trần.
Ở phần trước tôi có nói về sự thắng thế của nho giáo Hán ở xã hội và tầng lớp quý tộc học thức cuối đời Trần. Phần này tôi nói về giai đoạn sau về nho giáo và ảnh hưởng của nó từ đời Lê, Lê trung hưng tới đời Nguyễn.
Như tôi đã nói, phong cách, tôn giáo và tâm thức đời Trần đã bị chỉ trích và bị dần dần xoá bỏ hoặc lãng quên nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Một vì vua thành công nhất gây dựng lên nền tảng nho giáo và pháp chế trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam mà sau này vua Minh Mạng dưới triều Nguyễn đã coi như là gương mẫu để noi theo.
Để làm nền cho việc bàn luận sau, tôi xin nhắc lại một một vài điểm chính của tư tưởng Việt Nam trong lịch sử:
(a) Thời sơ nguyên và dựng nước: Vật tổ (totem) rồng tiên, thành hoàng thổ thần, thần đồng cổ và tín ngưỡng vật linh như cây, đá... gọi chung là tâm linh Việt cổ cùng cơ bản với các dân tộc khác ở Đông Nam Á.
(b) Thời Bắc thuộc tới Đinh Lê: Tâm linh Việt cổ với Sĩ Nhiếp bắt đầu sáng tạo ý thức hệ Tam giáo Nho Đạo - Thích ảnh hưởng lan rộng. (Thích tức đạo Phật Thích ca)
(c) Thời Lý-Trần: Tín ngưỡng Thần Đồng Cổ (Thần Trống Đồng) được triều đình chính thức áp dụng. Thần hoàng thổ thần cùng với Tam giáo, Phật Nho và Lão với Phật giáo ảnh hưởng chính.
(d) Thời Lê, Mạc: Nho giáo độc tôn (trừ tư tưởng thiền nhân bản Nguyễn Trãi và trong đời Mạc giảm đi sức ảnh hưởng của Nho giáo).
(e) Lê Trung hưng tới Nguyễn: Nho giáo ưu thế và thành độc tôn dưới triều Nguyễn Minh Mạng.
Nho giáo độc tôn ảnh hưởng trong 5 thế kỷ từ Lê đến Nguyễn. Nói đến Nho giáo, chúng ta phải phân biệt ra hai trường phái nho giáo mà sự khác biệt rất là quan trọng và cơ bản: Tống nho và Minh nho.
Minh nho có một cái nhìn khá cởi mở về văn hóa, tín ngưỡng mà không bị giam hãm trong những tín điều của Tống nho. Minh nho mà cốt lỏi là Vương học (Vương Dương Minh) là cái học thực tế, nhân bản hơn cái học Tống nho.
Chu Hy là một đại diện tiêu biểu của Tống Nho chủ trương "Đạo vấn học", đời người ta xem rộng, xét nhiều rồi mới thu vào chỗ yếu ước chủ chốt, cho nên bắt đầu bằng công phu "Cách vật, trí tri" mà phân ra "tri" rồi mới "hành". Chu Hy thuyết cùng lý ở ngoài "tâm". Chu Hy quan niệm lý đứng độc lập với "Tâm". Cái học Tống nho thường nặng về giáo lý, coi trọng thuyết lý hơn hành động thực tế.
Trái lại, Minh nho chủ trương "tâm" tại vật là "lý". "Đạo tâm" là "lương tri". Vương Dương Minh với triết lý "lương tri", hợp nhất tri hành ("Tri Hành Hợp Nhất") đã đặt cơ sở cho một cái học hợp nhất khoa học với đạo đức, trên nhân bản toàn diện "Thiên địa vạn vật nhất thể".
(Đỗ Bang - Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, Tập 1, Nxb Thuận Hóa, 1996)
Tư tưởng ảnh hưởng mạnh đến văn hóa và tạo thành một đặc thù cá tính của dân tộc, của con người Việt Nam. Bắt đầu từ thời cuối Trần văn hóa Hán nho đã chiếm địa vị độc tôn. Một đặc điểm của nho giao (nhất là Tống nho) là không khoan nhượng một tâm linh tôn giáo khác cùng đứng chung.
"Sau Nguyễn Trãi ý thức hệ Thiền Tam Giáo khai phóng thời Lý Trần cũng cáo chung. Nhà Lê độc tôn Nho giáo theo Tống Nho "tịch Thích Đạo" bài Phật Giáo và Lão Giáo, tạo nên ở Việt Nam trong triều đình bè phái tàn sát lẫn nhau gây nên tranh giành, nào Lê Mạc, Lê Trịnh, Trịnh Nguyễn suốt hai trăm năm cho đến ngày mất chủ quyền với thực dân"
(Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Tư tưởng bình dân Việt Nam)
Trái với "tịch Thích Đạo" của Tống Nho, Phật giáo và tín ngưỡng Thổ thần Thành hoàng của người Việt nguyên thủy thu hút và chấp nhận các tư tưởng và tôn giáo khác cùng chung đất dụng võ. Nhưng sự uyển chuyển khoan dung và thực dụng này đã bị Tống nho lần lần tiêu diệt và tạo nên một văn hoá Hán nho cứng, kỷ cương và giáo điều từ chương trong suốt 5 thế kỷ tạo nên một đặc thù cá tính của người Việt mà hiện nay tâm thức chúng ta đang mang.
Bắt đầu từ thế kỷ 20 khi Nho giáo bắt đầu tàn lụi và con người Việt Nam phải đối diện trực tiếp với một thế giới cạnh tranh khắc nghiệt và có lúc tàn nhẫn như dưới thời thực dân, hay thay đổi nhanh chóng và xa lạ như hiện nay, chúng ta đã không còn một hệ thống giá trị nào khác để dựa vào khi Tống nho đã làm tàn lụi hết những giá trị của tôn giáo khác hay tâm linh cơ bản uyển chuyển, thực dụng của người Việt xưa.
Con người Việt Nam phải tìm mọi chủ thuyết hay giá trị mới để thay thế để có một chỗ đứng làm nền. Giá trị văn minh Tây phương với nhiều mô hình, giá trị nền tảng gia đình mà nho giáo và tâm thức cũ vẫn còn ảnh hưởng trộn lẫn để cố gắng đến một văn hóa, con người Việt nam mới hiện nay.
Di sản Tống nho độc tôn đã làm cho con người Việt ngay cả lúc thu nhận vẫn còn đặc thù cứng. Có phải mặc cảm tự ti nhưng cố gắng che đậy không mất sĩ diện và cố chấp, lý thuyết, ít thực dụng, không uyển chuyển là một trong những di sản đó còn tồn tại trong con người cũng như trong các cá tính đặc thù khác của người Việt ngày nay?
Để tìm một khía cạnh cho sự trả lời câu hỏi này, ta có thể so sánh hai hình thức thu nhận của Nhật và Việt Nam về phương diện Hán nho nói riêng và văn minh Hán Trung quốc nói chung.
Theo giáo sư Vĩnh Sính, thì thái độ của Việt Nam là đề kháng xâm lăng quân sự nhưng chấp nhận y như khuôn mẫu văn hoá Trung quốc, điển hình là Tống nho dưới triều Lê. Đây cũng là tính chất "bảo hoàng hơn vua". Ngược lại Nhật Bản với tinh thần sáng tạo và độc lập hơn có thái độ là "kính nể hoặc phủ nhận văn hóa Trung quốc" (15).
"Nay ta thử xem thái độ "kính nể/phủ nhận" của người Nhật đối với Nho giáo. Tokugawa Ieyasu (Đức xuyên Gia khang), người sáng lập chính quyền Tokugawa (1600-1868), đã áp dụng học thuyết Tống nho của Chu Hy để củng cố chính quyền Bakufu (Mạc phủ). Tống học nhờ vậy trên lý thuyết trở thành học phái chính thống. Nhưng trên thực tế, dưới thời Tokugawa có nhiều Nho gia như Yamaga Soko (Sơn lộc Tố hành; 1622-1685) và Yamazaki Ansai (Sơn kỳ Ám tế; 1618-1682) phủ nhận cơ chế Nho giáo của Trung quốc và cho rằng về cả ba mặt nhân, trí, dũng, Nho giáo Nhật Bản hơn hẳn Trung Quốc. Ngay đối với Khổng Tử, cách đặt vấn đề của Ansai cũng khác hẳn các nhà Nho ở Trung Quốc và Việt Nam.
Sách Sensetsu sodan (Tiên triết Tùng đàm) biên soạn cuối thời Tokugawa có ghi lại đoạn vấn đáp sau đây giữa Ansai và các môn đệ... Ansai một hôm vấn nạn các môn đệ:
"Nếu bây giờ Trung Quốc cử Khổng Tử làm đại tướng và Mạnh Tử làm phó tướng dẫn vài vạn kỵ binh sang tấn công nước ta, với tư cách là người Theo học đạo của Khổng Mạnh, các trò thử nghĩ chúng ta phải ứng xử như thế nào?"
Thấy các môn đệ lúng túng, Ansai tự đáp:
"Nếu điều bất hạnh này xảy ra, thì chúng ta chỉ có cách là mặc giáp mang kiếm ra trận bắt sống Khổng Mạnh đặng báo ơn nước. Đây chính là điều Khổng Mạnh dạy chúng ta!".
Chắc hẳn đối với các Nho gia Việt Nam, phản ứng đầu tiên khi nghe đoạn vấn đáp này là: "Đối với các bậc thánh hiền ai lại đặt câu hỏi kỳ cục như thế?". Cách vấn nạn của Ansai chắc hẳn đã lạ lùng, khó nghe, mà câu trả lời của Ansai cũng không kém bất ngờ, đường đột. Phải là một "Nho gia" không bị chi phối bởi thế giới quan Nho giáo của Trung Hoa mới có đủ tính khách quan để đặt vấn đề trực tiếp và tận gốc như vậy.
Vị trí lãnh đạo về văn hóa của Trung Quốc cũng bị các học phái Kokugaku (Quốc học) và Rangaku (Lan học) phủ nhận tận gốc. Motoori Norinaga (Bản cư Tuyên Trường; 1730-1801) và các học giả của học phái Kokugaku khởi đầu nghiên cứu Hán học, nhưng sau đó chủ trương chối bỏ triệt để "đầu óc Trung Hoa" (Karagokoro) thể hiện qua những lý lẽ gò bó và nhân tạo của Nho giáo, sự sai lạc và tính chất quá khích của thuyết "thiên mệnh". Theo Norinaga, trước khi văn minh Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản, tâm hồn người Nhật thuần phác và bộc trực, được thể hiện qua những thơ ca trong tuyển tâ,p thơ đầu tiên của người Nhật là Manyoshu (Vạn diệp tập; biên soạn xong năm 760 sau CN). Học phái Kokugaku đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm sống dậy tinh thần dân tộc của người Nhật vào thế kỷ XIX."
Tại sao tâm hồn người Nhật thuần phát và bộc trực không khác mấy tâm hồn Việt truyền thống của con người Diên Hồng lại sáng tạo thu nhập văn minh Hán nhưng không mù quáng mà chúng ta lại "bảo hoàng hơn vua", sao rập từ chương cứng ngắt trong nô dịch văn hoá để đi đến thảm họa sau này?.
Cũng vậy dân tộc anh em Thái Nam Chiếu uyển chuyển như dòng nước cùng thời điểm lập nước đời cuối Trần đã đi gây dưng một nước với văn hóa hấp thụ các tinh hoa của các nền văn minh mà không độc tôn, tạo thành một văn minh bản sứ thực dụng và mở rộng.
Phải chăng mô hình Tống nho mà Việt Nam theo đuổi trong 5 thế kỷ qua đã đưa Việt Nam tới thái độ cứng ngắc, bảo thủ, một giá trị xa lạ với tâm thức người Việt truyền thống xưa, làm đất nước rơi vào tay thực dân Pháp mà giới trí thức nho sĩ phải chịu trách nhiệm chính?
Nhưng trong khi quốc gia trong nguy kịch hoặc phải đối diện với những khủng hoảng thì người dân thường lại phải gánh chịu nhiều nhất. Sĩ phu thường nói "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách". Sĩ phu chúng ta có trách nhiệm nhiều lắm với lịch sử.
Phải chăng Nguyễn Huy Thiệp gần đây trong những năm cuối thập niên 80 đã có những truyện đả kích dữ dội trí thức sĩ phu là có cơ nguồn gốc này?.
Tham khảo:
Đại Việt Sử Ký toàn thư, Quyển 5 và 6, Kỷ Nhà Trần, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 1993
Trần Quốc Vượng, Theo dòng lịch sử, Nxb Văn Hóa, 1996
Hà Văn Tấn, Văn hóa nguyên thủy Đông Nam Á như một cội nguồn của văn hóa dân gian, Tạp chí Văn Hóa dân gian, 1984, số 3, p.9-12.
Phạm Quốc Quân, Mộ thuyền Châu Sơn và những ngôi mộ thuyền mới phát hiện ở Hà Nam Ninh, Tạp chí Khảo Cổ Học, số 2-1981.
Cao Xuân Phổ, Vietnam in her South East Asian Context - A historical cultural view, Eight Conference International Association of Historians of Asia, 25-29 August 1980, Kuala Lumpur.
Nhiều tác giả, Mỹ thuật đời Trần, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1977
Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn San, Hà Nội nghìn xưa, 1975.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
Nguyễn Duy Hinh "Yên Tử - Vua Trần - Trúc Lâm Suy nghĩ sử học", trong Nghiên Cứu Lịch Sử, 2, 173, 3-4/1977.
G. Coedes, The indianised states of Southeast Asia, 1968, University of Hawaii.
Sơn Nam - Phạm Xuân Thảo, Một thoáng Việt Nam, Nxb Trẻ, 1996.
O.W Wolters, What else Ngo Si Lien mean? A matter of distinctions in the fifteen century, trong sách “Sojourners and settlers, Histories of South East Asia and the Chinese”. Edited by Anthony Reid, 1996.
Đỗ Bang - Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, Tập 1, Nxb Thuận Hóa, 1996.
Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Tư tưởng bình dân Việt Nam.
Vĩnh Sính, Hồn Đại Việt giọng Hàn Thuyên, Vị trí lịch sử của Trung Quốc đối với Việt Nam và Nhật Bản, trong sách "Việt Nam và Nhật Bản trong thế giới Đông Á", Sở VHTT, Khoa sử ĐHSP,Tp.HCM. 1993.
28/2/2007
Nguyễn Đức Hiệp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét