Thi ca bình dân Việt Nam quyển 2
Xã hội quan 4
130. «Tai em nghe anh đau đầu chưa khá,
Em băng đồng chi sá đi bẻ nạm lá nọ về xông ».
131. «Ở làm ri đâu cho trọn nghĩa vợ chồng.
Đổ mồ hôi em chặm, ngọn gió lồng em che».
132. «Tay cầm dĩa muối sàng rau,
Thủy chung như nhứt sang giàu mặc ai».
133. « Tay cầm quyển sách bìa vàng,
Sách bao nhiêu chữ thương nàng bấy nhiêu ».
134. « Tay mang khăn gói sang sông,
Mẹ gọi mặc mẹ, theo chồng cứ theo.
- Thuyền bồng trở lại lái về đông,
Con đi theo chồng để mẹ cho ai ?
- Mẹ già đã có con trai,
Con là phận gái dám sai chữ tòng,
Chỉ thề nước biếc non xanh,
Theo nhau cho trọn, tử sanh cũng đành.
Trời cao bể rộng mênh mông,
Ở sao cho trọn tấm tình phu thê ».
135. « Tào khang chi thê bất khả hạ đường,
Bần tiện chi giao mạc khả vong.
Không xong anh đã nói không xong,
Ở cho hết dạ hết lòng cùng anh ».
136. « Tao khang chi thê bất khả hạ đường,
Bần tiện chi giao mặc mạc khả vong,
Đôi ta như chỉ trong vòng.
Phăng chưa đặng mối trong lòng còn ghi.
Nửa mừng nửa lại hồ nghi,
Biết rằng bạn có yêu vì hay không ?
Chim quyên ăn trốc bồ nông
Ta không bỏ bạn mà lòng bạn lo ».
137. « Than rằng gối gấm không êm,
Gối dựa không mềm bằng gối tay anh ».
138. « Than rằng anh nói em nghe
Chẳng phải thuyền bè mạnh chống là hơn » ;
139. « Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
Cao phi viễn tẩu dã nan đào
Anh có hung hoang tang tử.
Em phú dữ ông trời vàng,
Em giữ tròn phu phụ rõ ràng anh coi ».
140. « Thiếp với chàng vô can vô cớ,
Vương lấy chữ tình thêm nhớ thêm thương ».
141. « Thò tay vuốt ngực chung tình,
Nước sôi còn nguội, huống chi mình giận tôi ».
142. « Thuyền ai lơ lửng bên sông ?
Hay thuyền chú lái chở chồng tôi chăng ?
Ngày ngày ra đứng bờ sông,
Hỏi thăm chú lái nào chồng tôi đâu ?
- Chồng em còn ở sông Ngân ».
143. « Thương chồng nên phải gắng công,
Nào ai xương sắt dạ đồng chi đây ».
144. « Thương nàng đã đến tháng sanh,
Ăn ở một mình nương cậy vào ai ? »
145. « Thương ai ví bằng thương con,
Thương ai ví thể gái son nhớ chồng ».
146. « Trái cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân,
Nay anh học gần, mai anh học xa.
Tiền gạo thì của mẹ cha.
Cái nghiên cái bút thực là của em ».
147. « Trăm năm lòng gắng dạ ghi,
Dầu ai đem bạc đổi chì cũng không.
Trăm năm chí quyết một chồng,
Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
Dầu cho đá nát vàng phai,
Trăm năm duyên nợ chẳng sai chút nào.
Trăm năm không bỏ nghĩa chàng,
Quạt tàu rách nát, ngọc vàng còn xinh.
Vải thưa nhuộm lấy màu đen,
Vải thưa mặc vải, màu xinh khen màu ».
148. « Trăm năm trăm tuổi may rủi một chồng,
Dù ai thêu phượng vẽ rồng mặc ai ».
149. « Trăm năm ước bạn chung tình,
Trên trời dưới đất có mình có ta ».
150. « Trăm năm ai chớ bỏ ai,
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim ».
151. « Trăm năm tạc một chữ đồng,
Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai ».
152. « Trên trăng dưới nước thề nguyền,
Khứ lai minh bạch trọn niềm thủy chung ».
153. « Trót đà ngọc ước vàng thề,
Dẫu rằng cách trở sơn khê cũng liều ».
154. « Trời cao bể rộng thinh thinh,
Ở sao cho trọn chút tình phu thê ».
155. « Trời mưa cho lúa chín vàng,
Cho anh đi gặt, cho nàng đem cơm.
Đem thời bát sứ, mâm son,
Chớ đem mâm gỗ anh hờn không ăn ».
156. « Vai mang khăn gói theo chồng,
Mẹ kêu con dạ, trở vào lạy mẹ cùng cha.
Xưa kia con ở nội gia,
Bây giờ con xuất giá tùng phu, nội gia tùng phụ.
Sách có chữ : tam cang thường ngũ,
Ngoài bìa có chữ phu phụ đạo đồng,
Thương cha, nhớ mẹ, đạo thương chồng phải theo ».
157. « Vắng mặt em một bữa chau mày,
Cũng bằng cha mẹ đem đầy biển Đông ».
158. « Vì ai cho thiếp võ vàng,
Vì chàng tư lự hoa tàn nhụy rơi.
Cực lòng thiếp lắm chàng ơi !
Biết rằng lên ngược xuống xuôi đàng nào ! »
159. « Vịt nằm bờ mía rỉa lông,
Cám cảnh thương chồng đi học đường xa ».
160. « Vợ xa chồng cây ngã đá tan,
Chồng mà xa vợ trời âm cang mưa hoài ».
161. « Vợ chồng là nghĩa già đời,
Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn ».
162. « Vợ chồng đầu gồi má kề,
Lòng nào mà bỏ, mà về cho đang.
Hồ về, chân lại đá ngang,
Về sao cho đứt, cho đang mà về ».
163. « Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hòa, vợ thuận mà thường yên vui.
Sinh con mới ra thân người,
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no ».
164. « Xa anh em đau xót vô cùng,
Dựa mai, mai ngã, dựa tùng, tùng xiêu ».
165. « Xin chàng kinh sử học hành,
Để em cày cấy, cửi canh kịp người.
Mai sau xiêm áo thảnh thơi,
Ơn trời lộc nước đời đời hiển vinh ».
k)
Tình thân thuộc
Tình thân thuộc ở đây chúng tôi muốn nói đến tình bà con và tình
luân lý. Bời vì ở Việt-Nam, cũng như các nước nông nghiệp khác, điều kiện định
cư, lập ấp trước tiên do một gia đình di cư đến khai phá đất hoang, rồi lần
lượt cứ từng gia đình tiếp tục đến nương nhau sinh sống. Đất đai phá rộng bao
nhiêu thì con cháu họ sinh sôi nẩy nở bấy nhiêu, và dần dần dựng lên làng mạc.
Cho nên ở các làng quê Việt-Nam, láng giềng luôn luôn là bà con với nhau, mỗi
làng hoặc mỗi xóm có vài ba dòng họ lớn, thờ chung một từ đường.
Tình thân thuộc đã bắt nguồn từ dòng họ, và sống quây quần với
nhau trong một hoàn cảnh sinh hoạt, tất nhiên không thể thiếu tinh thần tương
thân, tương ái được.
Tinh thần tương thân tương ái đã có dịp nói trong mục « Hình
thức tổ chức làng xóm Việt-Nam qua các thời đại » nên chúng tôi
không cần nhắc lại ở đây nữa. Để đi sâu vào tính chất sinh hoạt tạo cho tâm tư
con người một liên hệ về tình cảm, chúng tôi thiết nghĩ không có gì rõ rệt hơn
là chứng minh trong tình luân lý.
Nếu ở tình gia đình, chúng ta thấy tình vợ chồng vì phải chung
lưng đấu cật, chịu đựng gian khổ để tạo lập sự nghiệp chung cho hiện tại, và
cho tương lai con cái, do đó tình gia đình bộc lộ trong ý thức bảo vệ quyền lợi
riêng của mỗi gia đình thì tình luân lý vì tính chất tư hữu gia đình, đáng lẽ
trở thành trạng thái mâu thuẫn trong lẽ sống, nhưng tại sao lại có tình luân lý ?
Đó là điều chúng ta cần phải khám phá trong cảm giới con người.
Thật ra, không ai chối cãi, khi quyền lợi cá nhân được bảo vệ thì
mâu thuẫn phát sinh giữa quyền lợi tập thể, đó là yêu tố tất nhiên trong lẽ
sống con người. Tuy nhiên, trong lãnh vực tình cảm không phải chỉ thuần phương
diện sinh tồn vật chất mà phương diện tinh thần cũng ảnh hưởng không ít. Sự ảnh
hưởng ấy là sợi dây ràng buộc, liên kết giữa con người và con người.
Nếu chúng ta thấy vì tính chất cá biệt, vì quyền lợi cá nhân mà
mỗi người tự bảo vệ lấy mình, thì trái lại cũng vì tính chất cá biệt, vì quyền
lợi cá nhân mà mỗi người đều phải bảo vệ tình thân thuộc, và rộng hơn nữa, tình
dân tộc. Bởi lẽ, khi một cá nhân đối với một cá nhân, chúng ta thấy mỗi cá nhân
có mang tính chất cá biệt, nhưng khi một tập thể này đứng trong một tập thể
khác thì tập thể lại trở thành cá thể. Mỗi cá thể trong tập thể đều phải chung
sức bảo vệ lấy tập thể mình để chống với mọi mâu thuẫn xảy ra giữa những tập
thể khác. Đó là nói về yếu tố quyền lợi vật chất cá biệt.
Ngoài yếu tố quyền lợi vật chất của cá biệt, chúng ta còn phải nói
đến yếu tố tinh thần của cá biệt.
Yếu tố tinh thần của cá biệt là gì ?
Nó là sự gần gũi của dòng họ (huyết thống) và sự gần gũi của trạng
thái sinh hoạt (hoàn cảnh sinh sống). Hai yếu tố ấy là hai sợi dây liên kết về
tinh thần trong cuộc sống con người. Tình cảm đến với con người bắt đầu từ sự
gần gũi (cá biệt) ấy. Cho nên, sự thương ghét trong dòng họ khác với sự thương
ghét đối với người ngoài.
Cùng một giống chim, loại quạ có thiện cảm với loài quạ hơn, loài
én có thiện cảm với loài én hơn. Cùng một loài vật, con trâu ít có thiện cảm
với con bò. Tính chất cá biệt về tinh thần ấy đã làm cho yếu tố mâu thuẫn về
quyền lợi cá nhân trong tình thân thuộc lắng dịu.
Chính người bình dân thời xưa đã cảm thông được yếu tố tương quan
ấy, cho nên họ đã nói :
« Chẳng đủ cho dì, cho o,
Lấy đâu mà cho người ngoài ».
Hoặc họ bảo :
« Thừa trong nhà mới ra ngoài ngõ ».
Ý thức cá nhân trong tập thể bắt nguồn từ yếu tố cá biệt của mỗi
tập thể, mà dòng họ (thân thuộc) được coi như tình huyết thống :
« Máu loãng còn hơn nước lã,
Chín đời họ mẹ còn hơn người dưng ».
Mặt khác, trạng thái gần gũi trong sinh hoạt cũng đem đến con
người những tình cảm, chế ngự tham vọng vật chất cá nhân, mà chúng ta gọi là
tình luân lý.
Hãy gạt bỏ ra ngoài những giáo lý vị tha mà chế độ chính trị phong
kiến đã phổ cập trong cuộc sống, chúng ta chỉ thu nhặt ở đây những cảm giác
thiên nhiên, có ảnh hưởng vào tình cảm con người.
Một dòng sông muôn đời triền miên chảy, một đỉnh núi sừng sững
giữa không gian thay đổi màu sắc qua hai mùa mưa nắng, một cánh đồng mênh mông
kết tụ mọi sinh hoạt của dân quê, hàng ngày đập vào mắt, gợi cho cảm giác chúng
ta như có cái gì quen thuộc.
Rồi, một cụ già hàng xóm, mỗi chiều lặng lẽ đứng trước khung cửa
nhìn trời, một cô gái nhà nghèo mỗi sáng tinh sương xách nón ra đồng, gặp ai
cũng nở nụ cười thân mật, một đứa trẻ ngày ngày trong lúc trời trưa, ngất nghỉu
trên lưng trâu với chiếc nón mê qua trước cổng làng…
Tất cả những hình ảnh ấy diễn biến quanh cuộc sống chúng ta, tuy
trầm lặng, song lại âm thầm gieo vào tâm hồn chúng ta một trạng thái cá biệt về
tình cảm. Chúng ta sẽ cảm thấy mất mát khi cụ già hàng xóm không còn tựa cửa
trông áng mây chiều, cô gái nhà bên cạnh đã đi lấy chồng, mỗi sáng tinh sương không
còn xách nón ra đồng như thuở nào, thằng bé chăn trâu không còn lùa đàn vật qua
cổng làng…
Đó là chúng ta chỉ nói về tình cảm sinh hoạt khách quan. Tùy công
việc sinh sống, mỗi người lại còn phải liên kết với nhau. Một nông phu qua nhà
bên cạnh mua được trái dưa, trái mướp, thì trái dưa, trái mướp ấy không phải
chỉ là thức ăn thông thường như những món mua ngoài chợ. Dù không ai bảo ai,
khi người nông phu kia ăn trái dưa, trái mướp ấy tất liên tưởng đến hình bóng
người hàng xóm mỗi chiều xách nước tưới rau. Hình bóng ấy đọng trên mọi vật,
đưa vào tâm tư con người một cảm giác, và những cảm giác chất chứa từ sự việc
này đến sự việc khác kết lại thành một mối tình : tình cảm sinh hoạt chủ
quan.
Tình cảm sinh hoạt khách quan và chủ quan cứ nối tiếp nhau đi vào
tâm tư con người, và nẩy nở mãi trong lòng quê từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Chúng ta đã nghe trong ca dao bình dân có những câu : « Bà
con xa không bằng láng giềng gần ».
Thì chính tình cảm sinh hoạt đã làm mờ tình cảm huyết thống. Đặt
tình cảm sinh hoạt trên tình cảm huyết thống dĩ nhiên người bình dân nhằm vào
hai sự kiện. Sự kiện gần gũi nhất trong cảm giới họ là yếu tố tương thân tương
trợ. Người dân quê sống trong khổ cực, mọi phương tiện vật chất đều thiếu thốn,
trong nguy biến họ cần có sự giúp đỡ trực tiếp và nhanh chóng, cho nên họ thấy
những kẻ sống gần gũi họ chính là nguồn an ủi, một tin tưởng trong tâm hồn họ
đối với lẽ sống hàng ngày.
Mặt khác, chính họ đã thừa nhận tính chất tương đồng trong sinh
hoạt đem đến cho họ những cảm mến.
Những ai đã ở nơi thành thị đông người, đều phải nhận rằng yếu tố
tương đồng sinh hoạt rất quan trọng trong tình luân lý. Sở dĩ nơi thành thị,
nhiều khi hai nhà ở sát vách nhau vẫn không hề quen biết, hoặc lui tới với
nhau, lắm khi nhà bên cạnh có người chết, nhà kia không hề hay biết, hoặc dửng
dưng xem như chẳng việc gì liên hệ đến họ. Trạng thái ấy nguồn gốc do tính chất
sinh hoạt không tương đồng. Tuy sống bên nhau, song người này thợ máy, người
kia là phu khuân vác, hoặc người này là thầy thuốc, người kia là công chức…
chẳng hạn. Trái lại ở thôn quê dù ai có làm nghề gì đi nữa thì những nghề ấy
cũng chỉ là những nghề phụ thuộc trong lúc rảnh rỗi, mà công việc sinh sống
chính yếu cũng vẫn là nghề nông. Ý thức tương đồng về nghề nghiệp tạo cho tâm
tư con người mối tương đồng giao cảm. Cho nên, chúng ta không lấy làm lạ khi
một cô thôn nữ bỡ ngỡ trước cử chỉ của một cô gái bán « bar » ở thành
thị, và tỏ ra rất quen thuộc với một nông dân, dù người ấy không cùng ở một
miền, và chưa từng quen biết.
Cũng chính vì tình cảm tương đồng về nghề nghiệp mà khi sinh hoạt
chênh lệch, nghĩa là sự giàu nghèo phân định mức sống con người, thì tình cảm
cũng không còn tương thông nữa. Trạng thái sinh hoạt đã thay đổi thì nguồn giao
cảm cũng thay đổi theo.
Bởi vậy, tình thân thuộc, láng giềng, khi đã cùng chung một cảnh
ngộ, thì nguồn giao cảm có thể tương thông như một gia đình, xóa tan những ý
thức cá nhân. Đây, chúng ta nghe một thôn nữ than thân với láng giềng :
« Con cuốc kêu réo rắt trên ngàn,
Gà rừng cục tác gọi con tha mồi.
Lạnh lùng thay, láng giềng ôi !
Láng giềng lạnh ít, sao tôi lạnh nhiều ! »
Tình láng giềng, thân thuộc thường xúc động trên hoàn cảnh sinh
hoạt. Cho nên, trong ca dao Việt-Nam mặc dù chúng ta ít thấy phô diễn trực tiếp
mối giao cảm đó, song chúng ta phải thừa nhận rằng mối tình cảm ấy vẫn là ngọn
lửa âm ỉ mãi trong dòng lịch sử dân tộc, chẳng bao giờ tắt.
Tình cảm láng giềng được người bình dân thời xưa chẳng những ý
thức qua cuộc sống con người, mà còn biểu lộ qua cuộc sống của loài vật nữa. Ví
dụ :
« Con cò mắc giò mà chết,
Con quạ mua nếp làm chay,
Con cu đánh trống ba ngày,
Chóp mào đội mũ làm thầy đọc văn ! »
Tuy câu hát hài hước, song đượm màu sắc tương thân tương trợ của
tình láng giềng, thân thuộc. Một ví dụ nữa :
« Con mèo trèo lên cây cau,
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ đàng xa,
Mua mắm, mua muối giỗ cha chú mèo ».
Tình láng giềng đã làm mất tính chất mâu thuẫn giữa đời sống mèo
và chuột. Như vậy, chứng tỏ ý thức của người thời xưa đã vượt qua giới hạn mâu
thuẫn thường tình trong lẽ sống thực tại. Hoặc như :
« Cóc chết bỏ nhái mồ côi,
Chẩu ngồi, chẩu khóc : « Chàng ôi là chàng ! »
Ễnh ương đánh lệnh đã vang,
Tiền đâu mà trả nợ làng ngoé ơi ! »
Cóc, nhái, ễnh ương là loài khác giống, thế mà người bình dân đã
đem tình luân lý của những con vật làm gương phản chiếu tình cảm sinh hoạt của
con người. Xem thế, cảm giới của họ không phải thiếu tính chất sâu sắc. Hoặc
như :
« Con chim sáo sậu,
Ăn cơm nhà cậu,
Uống nước nhà cô,
Đánh vỡ bát ngô,
Bà cô bắt đền ».
Thì đó cũng chỉ là tình thân thuộc trong cuộc sống người bình dân
được ý thức qua sinh hoạt của loài vật.
Tóm lại, tình thân thuộc cấu tạo trên hai yếu tố huyết thống và
sinh hoạt, nhưng khác với tình gia đình ở chỗ đặt ngoài ảnh hưởng xây dựng cơ
sở tư hữu, cho nên tình thân thuộc có đôi lúc bị mâu thuẫn với tình gia đình.
Tuy nhiên trạng thái mâu thuẫn giữa gia đình và tình thân thuộc
chỉ nẩy nở trong tham vọng vật chất, và nó trở lại điều hòa khi tình cảm sinh
hoạt tinh thần nối liền với cuộc sống vật chất của con người.
(*) Tuyển tập
ca dao tiêu biểu
1. « Cậu chết mợ ra người dung,
Chú tôi có chết, thiếm đừng lấy ai ».
2. « Con cô con cậu thì xa,
Con chú con bác thật là anh em ».
3. « Chồng cô với lại chồng dì,
Tiếng kêu bằng dượng tình thì láng lênh ».
4. « Dù em mặt ủ dầu dầu,
Họ hàng thân thích rủ nhau mà nhìn ».
5. « Không thiêng cũng thể bụt nhà,
Dù khôn dù dại cũng ra anh chồng ».
6. « Muốn rằng tàu lặn, tàu bay,
Nên anh bỏ việc cấy cày anh đi,
Biết mà cu-lít, cu-li,
Thà rằng ở vậy nhà quê với nàng.
Nhà quê có họ có hàng,
Có làng có xóm, nhỡ nhàng có nhau ».
7. « Tiếng ai như tiếng chuông vàng,
Tiếng ai như tiếng họ hàng nhà ta ».
l)
Tình bằng hữu
Ở các mục trước chúng ta đã phân tích nguồn gốc của mọi tình cảm
gia đình, trong đó có tình cha con, chồng vợ, anh em và thân thuộc, mỗi tình
cảm được cấu tạo trên một yếu tố căn bản giống nhau.
Ở mục này, chúng ta nói đến tình bằng hữu thì yếu tố căn bản cũng
không giống với những tình cảm trước kia.
Tình bằng hữu được cấu tạo hoàn toàn do ý thức sinh hoạt giữa hai
cá biệt không cùng một huyết thống. Tình bằng hữu đến với con người bằng tâm
tư, bằng nguồn giao cảm về hoàn cảnh sinh sống có một sắc thái gần giống nhau.
Sự tương đồng về hoàn cảnh sinh sống tạo cho con người một tâm tư, một ý nghĩ,
một mong muốn tương tợ, mà trong xã hội loài người cái gì giống nhau đều tìm
đến chỗ kết hợp.
Hai đứa bé cùng mồ côi, đem thân đi ở mướn, nỗi khổ cực trong việc
sinh nhai, và sự thiếu thốn tình yêu trong tâm hồn đưa đến cho chúng nó một cảm
nghĩ về nhân sinh quan một cách tương tợ.
Hai nông phu cùng ở chung một xóm, bị cường hào bức hiếp, tâm tư
họ lắng đọng những căm hờn, cả hai có một xã hội quan không tách biệt.
Ngược lại một nhà tu hành không thể đem tâm tư mình giãi bày với
một gã si tình, làm cho gã cảm thấy thích thú.
Một anh chàng trong giới Lưu-Linh không thể ngồi nói chuyện với
một nhà mô phạm mà tìm được nguồn tri kỷ.
Những hòa hợp và những mâu thuẫn của tâm tư chính là tính chất cá
biệt trong mỗi cá thể do hoàn cảnh sinh sống tạo nên.
Hoàn cảnh sinh sống đưa con người ta vào đường cá-biệt-hoá chẳng
những về tâm hồn, về ý nghĩ, hay ước vọng, mà cả đến tính tình và cử chỉ bên
ngoài nữa.
Chúng ta có thể tìm thấy nỗi đau khổ trong tâm tư một cô gái giang
hồ, nhưng không thể tìm được ở các nàng ấy những cử chỉ đoan trang, ngôn ngữ thuỳ
mị.
Ngược lại, một cô gái bị chồng ruồng rẫy, chúng ta vẫn tìm thấy
trong tâm tự họ nỗi khổ đau, nhưng không thể tìm ở họ những cử chỉ lả lơi,
nhưng câu nói suồng sã như cô gái giang hồ.
Như vậy, cùng đau khổ chưa hẳn đã giống nhau, vì tính chất đau khổ
của mỗi hoàn cảnh mỗi khác. Cũng như cùng là bạn say sưa rượu chè, nhưng có
người say sưa vì chán đời, có người say sưa vì dục tính. Cho nên trong cái
giống nhau, chúng ta lại thấy có cái khác biệt, và trên tính chất cá biệt,
chúng ta khó có thể tìm thấy sự giống nhau hoàn toàn dù trong tâm tư hay ngoài
thể chất.
Tình bạn bè cấu tạo trên căn bản tương ứng những cá biệt của con
người, mà tính chất cá biệt lại phức tạp như vậy, cho nên đời người thật khó
tìm được tri kỷ.
Ngày xưa, Bá-Nha, Tử-kỳ là hai bạn tâm giao, khi Bá-Nha chết,
Tử-kỳ đập cây đàn, vì cho rằng trong xã hội loài người không còn một ai có thể
nghe hiểu nguồn giao cảm trong tiếng đàn của mình nữa. Ý thức như vậy tức là
người xưa cũng đã thừa nhận những khó khăn trong sự dung hợp mọi cá biệt.
Trước đây ở Việt-Nam, đã có vài sĩ phu đã phô diễn cảm nghĩ của
mình về tính chất cá biệt qua câu đối :
« Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần
ai, ai dễ biết ai ? ; Thế chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời
thế, thế thời phải thế ».
Tại sao trong trần ai lại ít kẻ hiểu nhau ?
Đó cũng chỉ vì tính chất cá biệt của con người mà tâm tư mỗi người
mỗi khác. Khi tâm tư đã không đồng nhất thì không thể nào tạo nên nguồn giao
cảm giữa hai người được.
Trong truyện Kiều, khi Kim-Trọng muốn nghe tiếng đàn của nàng Kiều
đã phải tự xưng mình là tri âm, nghĩa là tỏ cho nàng Kiều biết tâm tư mình
không cách biệt với tâm tư của nàng Kiều. Ý thức ấy đã được Nguyễn-Du diễn tả
trong câu :
« Nước non luống những lắng tai Chung-Kỳ ».
Như vậy Nguyễn-Du cũng thừa nhận sự thông cảm giữa hai người phải
cùng chung một tâm tư.
Trong truyện « Lục Vân Tiên » cũng có câu nói về ý thức tương hợp của tình bè bạn
như :
« Bạn vàng lại gặp bạn vàng,
Long, lân, quy, phụng một đoàn tứ linh ».
Long, lân, qui, phụng là bốn con vật được điển hình có một tính
chất siêu việt, Lấy bốn con vật tượng trung cho sự gần gũi của niềm giao cảm,
tác giả truyện « Lục Vân Tiên » (Đồ Chiểu) cũng đã thừa nhận tính chất cá biệt của
con người. Trong ca dao bình dân cũng có những câu như :
« Bạn bè là nghĩa tương tri,
Sao cho sau trước một bề như nhau ».
Như vậy người bình dân cũng nhận thức được căn bản cấu tạo tình bè
bạn chỉ là nguồn giao cảm trên lãnh vực tâm tư.
Kiểm điểm qua những ý niệm của người thời xưa, từ văn chương bình
dân đến văn chương bác học, chúng ta thấy hầu hết đều thừa nhận nguyên tắc căn
bản của tình bạn là nguồn giao cảm trong tính chất cá biệt.
Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy rằng hoàn cảnh sinh sống của con
người đã biến tâm tư của họ có nhiều trạng thái khác nhau thì hoàn cảnh sinh
sống cũng biến tâm tư con người có nhiều trạng thái giống nhau. Cho nên nếu đặt
vấn đề tình bạn trong tuyệt đối mà người xưa gọi là tri kỷ thì thật rất khó,
song nếu đặt vấn đề tương đối, nghĩa là đặt tính chất giao cảm hoàn toàn ra
ngoài, thì ai cũng có thể trở thành bạn được. Bởi lẽ tâm tư con người diễn biến
rất nhiều khía cạnh, luôn luôn vươn lên, tìm kiếm những khía cạnh tương đồng để
kết hợp.
Nhưng tại sao diễn biến của tâm tư con người lại tìm đến sự kết
hợp ?
Chính vì nguyên lý này mà xã hội loài người mới có tình bằng hữu.
Tâm tư con người phát xuất ở tình cảm. Tình cảm đem đến cho đời
sống con người mọi ước mơ, mà mọi ước mơ chứng tỏ những gì đang thiếu thốn
trong tâm hồn. Khi thiếu thốn, tình cảm con người cần có sự hoà hợp để tạo mức
thăng bằng trong tâm tư, do đó mà tình bạn bè được cấu tạo, và rất cần thiết
trong lẽ sống tinh thần.
Đời sống con người không ai hoàn toàn thoả mãn, dù là bậc vua chúa
hay một kẻ cùng đinh.
Nếu một anh nông phu nghèo khổ, chân lấm tay bùn, dãi nắng dầm mưa
quanh năm suốt tháng để kiếm chén cơm manh áo, thì tâm hồn anh cần những ai
hiểu cảnh khổ cực ấy để cho anh giãi bày nỗi lòng của mình, làm vơi đi sự trĩu
nặng trong tâm hồn.
Nếu là ông vua sống trong nhung gấm, bên tai thích nghe những lời
tâng bốc, thì kẻ ấy cần có những nịnh thần sống bên cạnh để thoả mãn cảm giác
của mình.
Cho nên, những cảm giác ấy luôn luôn đòi hỏi sự cung ứng, tức là
tâm tư con người đang ở trong trạng thái thiếu thốn khi những cảm giác ấy đã cô
đọng, chất chứa trong cảm giới của mình.
Tuy nhiên, khi con người đã đem tâm tư kết hợp với tâm tư tương
ứng tức là đem màu thời gian của tâm tư mình trộn lẫn với màu thời gian của tâm
tư kẻ khác – màu thời gian ở đây, chúng ta phải hiểu như tính chất cá biệt –
thì hai tâm tư vì sự dung hợp ấy mà đổi màu sắc. Sự ảnh hưởng giữa những màu
thời gian có liên hệ đến tính chất cá biệt nguyên trạng của con người. Chúng ta
hãy lấy một ví dụ :
Một cô gái bị người đàn ông phụ bạc, sự đau đớn của cô kết hợp với
cảm giác đau đớn của một cô gái giang hồ trước kia cũng bị tình nhân ruồng rẫy
nên liều mình trong cuộc sống truy hoan. Hai tâm tư tuy tương ứng, nhưng hai
màu sắc tâm tư chưa tương đồng. Nếu hai người đem sự tương ứng ấy kết hợp với
nhau, thì màu thời gian của hai tâm tư dần dần đi từ chỗ tương ứng đến chỗ
tương đồng. Đó là qui luật ảnh hưởng.
Người bình dân thời xưa đã thấy được quy luật ảnh hưởng tương đồng
giữa hai cá biệt, nên đã phô diễn nhiều quan niệm ấy qua ca dao như :
« Đó đây trước lạ sau quen,
Chẳng gần qua lại đôi phen cũng gần ».
Hoặc : « Thói thường gần mực thì đen,
Anh em bạn hữu phải nên chọn người.
Những người lêu lỏng chơi bời,
Cùng là lười biếng ta thời tránh xa ! »
Sở dĩ họ ngăn ngừa những ảnh hưởng tai hại như vậy là vì họ nhận
thức được tình bạn có thể từ chỗ tương ứng đến chỗ tương đồng, làm mất tính
chất cá biệt của nguyên trạng. Cũng như họ đã thừa nhận nguyên lý :
« Ở bầu thì tròn,
Ở ống thì dài ».
Hay : « Gần mực thì đen,
Gần đèn thì sáng ».
Thì cũng là quan niệm đổi thay màu sắc tâm tư của con người trong
lãnh vực giao cảm.
Nhưng nếu yếu tố đổi thay trạng thái tâm tư trong niềm giao cảm
con người đem đến những tai hại (theo quan niệm giáo dục) thì trạng thái đổi
thay ấy cũng đem đến những lợi ích. Nhất là trong tình vợ chồng, nếu không nhờ
ảnh hưởng của trạng thái sinh hoạt, tức là nguồn giao cảm của tâm tư từ chỗ
tương ứng đến tương đồng thì làm gì có việc chung thuỷ đầu bạc răng long ?
Xưa nay, người ta cũng ngăn ngừa và khinh miệt sự phản phúc giữa
tình bạn bè. Thật ra, nếu tình bè bạn đã có sự tương đồng (tri kỷ) tất nhiên
bên trong có một tình cảm. Tình cảm ấy cũng mặn nồng, chung thuỷ đưa đến một
giá trị thanh cao. Nếu có sự phản phúc thì đó chẳng qua tình bạn bị lợi dụng.
người ta dùng tình bạn trong việc mưu sinh, hoặc tình bạn mới đến với nhau
trong trạng thái tương ứng mà không đi đến chỗ tương đồng.
Tóm lại, căn bản của tình bạn là sự tương ứng về tâm tư, mà tâm tư
do hoàn cảnh sinh hoạt tạo thành.
Hoàn cảnh sinh hoạt rất phức tạp, nên tâm tư con người cũng phức
tạp. Do đó, việc giao cảm giữa bạn bè rất dễ gặp nhưng lại rất khó tìm được ý nghĩa
chung thuỷ mà chúng ta gọi là tri kỷ tri âm. 16
*
(*) Tuyển tập
ca dao tiêu biểu
1. « Ai sang đò ấy bây giờ,
Ta còn ở lại ta chờ bạn ta.
Mưa nguồn chớp bể xa xa
Ấy ai là bạn của ta, ta chờ ».
2. « Anh em tứ hải giao tình,
Tuy rằng bốn bể nhưng sinh một nhà ».
3. « Bạn bè là nghĩa tương tri,
Sao cho sau trước một bề mới nên ».
4. « Bạn vàng lại gặp bạn vàng
Long, lân, qui, phụng, một đoàn tứ linh ».
5. « Đó đây trước lạ sau quen
Chẳng gần qua lại, đôi phen cũng gần ».
6. « Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn cũ, hạc là người quen ».
m) Tài liệu đọc thêm
Nói đến tình bạn, từ xưa đến nay, bất kỳ giai cấp nào trong xã hội
đều lấy chuyện « Bá-Nha, Tử-Kỳ » điển hình cho tinh thần tri kỷ. Chuyện « Bá-Nha Tử-Kỳ » được phổ biến tận các làng quê, cho
đến nay vẫn còn được truyền tụng, mặc dù là câu chuyện của người Tàu.
Chúng tôi xin lược trích ra đây để làm tài liệu tham khảo, tưởng
không là vô ích :
*
Thời Xuân-Thu Chiến-Quốc, tại Kinh-đô nước Sở (nay thuộc về phủ
Kinh-Châu, tỉnh Hồ-Quảng) có một danh sĩ họ Du tên Thuỵ, hiện Bá-Nha.
Bá-Nha tuy người nước sở nhưng làm quan nước Tấn đến bậc Thượng
Đại-phu. Tấn và Sở thời đó hai nước giao hảo nhau.
Một hôm, Bá-Nha phụng mệnh vua Tấn sang nước Sở để gắn liền tình
thân hữu giữa hai nước cho bền vững thêm.
Bá-Nha được vua nước Sở trọng đãi, truyền bày yến tiệc đãi đằng
rất hậu. Tuy nhiên, Bá-Nha không lấy thế làm vui, vì đã bao năm xa cách quê
hương đất tổ, nay được trở về, lòng nhớ nhung những kỷ niệm xa xưa lâng lâng và
tâm não. Từ mái gia đình đến những cây tòng, cây bá, mới ngày nào mà nay đã vừa
một người ôm. Cái định luật biến chuyển không ngừng đã phủ một màu tang trên
dòng dõi xa cũ.
Sau các yến tiệc, Bá-Nha đi thăm viếng mộ phần, họ hàng, bạn bè,
tấm lòng quyến luyến quê hương càng thấy thiết tha hơn lúc nào hết.
Nhưng vì nhiệm vụ chưa thành, Bá-Nha không dám vì thế mà lưu lại
nơi đất tổ, đành phải vào triều để từ giã quốc vương trở về nước Tấn.
Vua Sở ban khen rất nhiều vàng bạc, lụa là, gấm vóc, và truyền đem
ra một chiếc thuyền rất lớn để đưa Bá-Nha về nước.
Bá-Nha là khách phong lưu lỗi lạc, tâm hồn chứa đựng một nguồn
tình cảm thanh cao, coi cảnh vật thiên nhiên như món ăn tinh thần bất tận.
Một hôm thuyền đến cửa sông Hán-dương, gặp lúc trăng thu vằng vặc,
trời rộng sao thưa, Bá-Nha truyền cắm thuyền dưới chân núi để vui với cảnh đẹp
hải hồ. Mặt nước sông lúc bấy giờ trong vắt như mặt thuỷ tinh, gió lộng trăng
ngàn, bập bền sóng vỗ. Bá-Nha truyền tên Đồng-tử đốt đỉnh hương trầm, rồi lấy
túi đàn đặt lên trước án.
Đoạn, Bá-Nha mở túi gấm, nâng cây Dao-cầm để ngay ngắn trước mặt
và so dây. Hơi trầm quyện gió, réo rắt đưa tiếng đàn lên vút không trung.
Trong lúc đang hứng thú, bỗng tơ đồng đứt mất một dây, Bá-Nha thất
kinh tự nghĩ : « Dây đàn đứt chắc có người quân tử đang rình nghe
nhạc đâu đây ».
Bèn truyền tả hữu lên bờ xem thử kẻ nào đã nghe đàn mà không ra
mặt ?
Tả hữu vâng lệnh toan bước lên bờ, thì từ trên đã có tiếng người
nói vọng xuống :
- Xin đại nhân chớ lấy làm lạ, vì kẻ tiểu dân kiếm củi
về muộn đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu nên chân bước không đành đó
thôi.
Bá-Nha vừa cười vừa nói :
- Người tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn
trước mặt ta ? Thật là kẻ cuồng vọng. Nhưng thôi, hãy cho hắn đi.
Tiếng nói từ bên trên lại vọng xuống, đáp lời :
- Đại nhân nói như thế là sai ! Chắc đại nhân đã
từng nghe câu : Thập thất chi ấp tất hữu trung tín (trong cái ấp mười nhà
ắt có người trung tín). Trong nhà có người quân tử thì ngoài cửa có quân tử
đến. Vả lại, nếu đại nhân khinh rằng trong chốn núi non quê mùa không có người
biết nghe nhạc, thì tiếng đàn tuyệt diệu của đại nhân cũng không nên gảy ở đây
làm gì.
Nghe câu trả lời ấy, Bá-Nha thấy hơi ngượng, biết mình đã lỡ lời,
liền vội bước ra trước mũi thuyền, hỏi :
- Nếu kẻ trên bờ quả thật biết nghe đàn, thì hãy thử
nói cho ta biết vừa rồi ta gảy khúc gì đó ?
Giọng nói trên bờ bình thản vọng xuống :
- Đó là khúc « Khổng vọng vi » than cái
chết của Nhan-Hồi. Nhưng vì bị đứt dây nên thiếu mất một câu chót. Khúc ấy như
vầy :
« Khả tích Nhan-Hồi mạng yểu vong,
Giáo nhân tư tưởng, mấn như sương.
Chỉ nhân lậu hạng, đan biền lạc ».
(Khá tiếc Nhan-Hồi sớm mạng vong,
Tóc sương rèn đúc lấy nhân tâm,
Đan biền ngõ hẹp vui cùng đạo).
Còn khúc chót như vầy :
« Lưu đắc hiền danh vạn cổ cương ».
(Danh tiếng lưu truyền vạn cổ niên).
Bá-Nha nghe xong, lòng phơi phới, vội vã sai kẻ tùy tùng bắc cầu
lên bờ để triệu thỉnh người lạ xuống thuyền tâm sự.
Bọn đầy tờ tuy tuân lệnh, song là những đứa phàm phu, tục tử,
những con mắt thịt ấy đâu phân biệt được kẻ quí người hèn. Chúng quen thói xu
bợ, hễ thấy người sang trọng thì thưa bẩm. Thấy kẻ nghèo khó thì khinh khi cho
nên khi nghe chủ mình sai đòi một người tiều phu, nón lá, áo vải, tay cầm đòn
gánh, lưng giắt búa cùn, thì chúng lên mặt hống hách, nạt nộ :
- Hãy xuống thuyền ngay và giữ lễ. Hễ thấy lão gia phải
sụp lạy. Lão gia có hỏi gì thì phải lựa lời mà nói kẻo mất đầu, nghe
chưa ?
Người tiều phu vẫn thản nhiên bước xuống thuyền, bỏ đòn gánh và
chiếc búa cùn lên khoang, rồi vào yến kiến Bá-Nha.
Trông thấy Bá-Nha, người tiều phu xá dài mà không lạy.
Bá-Nha thấy thế cũng ngạc nhiên, song vẫn đưa tay chào đón :
- Thôi, xin quý hữu miễn lễ cho.
Rồi muốn thử tài năng người tiều phu xem thực hư thế nào, Bá-Nha
sai Đồng-Tử bắc ghế mời tiều phu ngồi lại bên mình, hỏi :
- Hiền hữu biết nghe đàn chắc biết ai chế ra cây
Dao-cầm, và biết chơi đàn có những thú gì chớ ?
Tiều phu mỉm cười đáp :
- Đại nhân đã hỏi đến chẳng lẽ tiểu dân không nói ra
những cái mình biết. Xưa kia vua Phục-Hy thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm
Ngô-Đồng, và chim phượng hoàng đến đậu nơi đó, nên nhà vua biết ngô đồng là thứ
gỗ quí, hấp thụ tinh hoa của trời đất, có thể dùng chế nhạc khí được, bèn sai
người hạ xuống cắt làm ba đoạn. Đoạn ngọn tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng
đục và nặng, chỉ có đoạn giữa tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được.
Vua bèn ngâm nơi giữa dòng nước chảy đúng bảy mươi hai ngày, đoạn
đem phơi trong mát chờ cho thật khô, lựa tay thợ khéo là Lưu-tử-Kỳ chế thành
cây Dao-cầm.
Dao-cầm dài ba thước sáu tấc, một phân, án theo ba trăm sáu mươi
mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám tấc, án theo tám tiết, mặt sau rộng bốn
tấc, án theo bốn mùa, bề dầy hai tấc, án theo lưỡng nghi.
Đàn ấy gồm mười hai phiếm, tượng trưng mười hai tháng trong một
năm, lại có một phiếm nữa, tượng trưng cho tháng nhuần, trên mắc năm dây án
theo ngũ hành, trong tượng ngũ âm : cung, thương, dốc, vũ, chủy.
Trước kia vua Thuấn gảy đàn ngũ huyền, thiên hạ thái bình. Châu-văn-Vương ở tù Dũ-lý, Bá-áp-Khảo thương
nhớ, thêm một dây oán gọi là dây huyền (dây văn). Lúc Vũ-Vương phạt Trụ, trước
ca sau múa nên thêm một dây phẫn kích để làm phấn khởi gọi là dây vũ huyền (dây
vũ). Như vậy, trước kia có năm dây, sau thêm hai dây gọi là thất-huyền-cầm.
Đàn có sáu « kỵ » và bảy « không ». Sáu kỵ là :
« kỵ rét lớn, nắng lớn, gió lớn, tuyết rơi lớn và sương nặng hột ».
Gặp lúc ấy người ta không dùng. Còn bảy « không » là : không đàn
đám tang, không đàn lúc lòng nhiễu loạn, không đàn trong lúc bận rộn, không đàn
trong lúc thân thể không sạch, không đàn trong lúc y quan không chỉnh tề, không
đàn trong lúc không đốt lò hương, không đàn trong lúc không gặp tri âm.
Lại còn thêm tám « tuyệt » là : thanh, kỳ, u, nhã,
li, tráng, lu, trường. Trong tám tuyệt ấy gợi đủ cả các tình cảm, vì vậy tiếng
đàn có thể đi đến chỗ tuyệt vời.
Bá-Nha nghe nói biết người tiều phu là bậc kỳ tài, đem lòng kính
trọng, hỏi :
- Hiền hữu quả là một người tinh thông nhạc lý. Trước
kia, Khổng-Tử đang gảy đàn, Nhan-Hồi bước vào thoáng nghe có tiếng u trầm, biết
lòng Khổng-Tử có ý tham sát, nên lấy làm lạ, hỏi ra mới biết Khổng-Tử đang đàn
thấy một con mèo bắt chuột, nên ý niệm ấy xuất lộ ra tiếng tơ đồng. Vậy thì
trước kia Nhan-Hồi nghe tiếng đàn mà biết lòng người, còn hiền hữu ngày nay
nghe ta đàn có biết lòng ta đang tư lự gì chăng ?
Người tiều phu đáp :
- Xin đại nhân cứ gảy cho tôi nghe một khúc, nếu may ra
có cảm động được thì đó cũng là điều may mắn.
Bá-Nha nối dây, gảy khúc « ý tại non cao ».
Tiều phu mỉm cười, nói :
- Tuyệt hay ! Ý chí cao vút ! Ý tại non
cao !
Bá-Nha ngừng đàn, lấy lại tâm hồn gảy thêm khúc « ý tại lưu
thủy ».
Tiều phu cũng cười và nói :
- Bao la trời nước ! Thật là một khúc « ý tại
lưu thủy » tuyệt hay.
Thấy tiều phu biết rõ lòng mình, Bá-Nha thất kinh, khâm phục khôn
cùng, mời người tiều phu ngồi lên trên, khiến kẻ tả hữu dâng trà, rồi bày tiệc
rượu, hai người ngồi đối ẩm.
Trong lúc uống rượu, Bá-Nha cung kính, chấp tay hỏi :
- Dám hỏi tiên sinh quí danh và quí quán ?
Tiều phu cũng đứng lên đáp lễ và nói :
- Tiểu dân họ Chung, tên Tử-Kỳ, ngụ tại thôn Thập-hiền,
gần núi Nhã-yên. Còn đại nhân chẳng hay cao danh, quí tánh và hiện trấn nhậm
nơi nào ?
Bá-Nha kính cẩn đáp :
- Tiện quan họ Du, tên Thụy, tự Bá-Nha, nhân vì có việc
công nên đến nơi đây. Xét mình tài hèn sức thiếu không xứng đáng với lộc nước
ơn vua. Còn tiên sinh tài năng xuất chúng, học vấn cao siêu, lẽ ra phải xuất
thân đoạt lấy công danh, phò vua giúp nước, lưu danh muôn thuở, sao tiên sinh
lại cam ẩn dật nơi chốn núi non này làm gì ?
Tử-Kỳ nói :
- Tôi còn cha mẹ già, không có anh em, phận làm con
phải lo đền chữ hiếu, dẫu có công hầu bá tước cũng không thể đổi lấy một ngày
hiếu dưỡng của tôi được.
- À ! Ra tiên sinh là người chí hiếu, trong đời khó có ai
sánh kịp. Chẳng hay năm nay tiên sinh được bao nhiêu tuổi ?
Tử-Kỳ đáp :
- Tiểu dân hai mươi bảy tuổi.
Bá-Nha vồn vã nói :
- Tiện quan hơn tiên sinh một tuần (10 tuổi), nếu tiên
sinh không chê đức mọn tài hèn thì xin kết làm anh em, để khỏi phụ cái nghĩa
tri âm mà đời tôi chưa từng được gặp.
Tử-Kỳ khiêm nhượng :
- Đại nhân là bậc công khanh thượng quốc, còn tôi là kẻ
áo vải quê mùa, tháng năm ra vào nơi sơn lâm cùng cốc, đâu dám cùng đại nhân so
vai, kết nghĩa kim bằng. Xin đại nhân miễn cho.
Bá-Nha nghe Tử-Kỳ nói như vậy, lòng bồi hồi, mặt mày buồn rã rượi, nài nỉ :
- Giá trị con người đâu phải ở chỗ giàu sang, phú quí
mà ở chỗ giao cảm được lòng nhau. Nếu tiên sinh chịu nhận lời kết bạn với nhau
thì người đời sẽ biết chúng ta trên tình nghĩa mà thôi.
Nói xong, Bá-Nha sai đốt lò hương rồi cùng Tử-Kỳ lạy tám lạy, kết
tình bằng hữu.
Bá-Nha lớn tuổi hơn, làm anh. Hai người vui vẻ ngồi kề nhau đối
ẩm. Nỗi lòng tâm sự của một khách phong trần với một người chung đỉnh được hoàn
toàn cởi mở, vượt qua những giả dối đê hèn của cuộc sống loài người, để trở lại
cái thiện chân thuần túy.
Hai người trò chuyện mãi không biết chán, đến khi ánh trăng đã lạt
màu, sao trên trời chỉ còn sót lại một vài đốm trắng, tiếng gà eo óc đầu thôn
giục ánh bình minh, mà họ vẫn còn như đắm say trong giao cảm, quên hẳn cả thời
gian.
Khi tên thủy thủ đến xin lệnh cho thuyền lên đường, Tử-Kỳ mới đứng
dậy cáo biệt.
Bá-Nha giọng run run, nói với Tử-Kỳ :
- Lòng tôi quá cảm mộ, chưa nỡ rời hiền đệ, vậy mời
hiền đệ cùng đi với tôi qua một đoạn đường để du sơn du thủy, và trò chuyện
cùng nhau cho trọn mối tâm tình.
Tử-Kỳ bùi ngùi đáp :
- Lẽ ra tiểu đệ phải đưa hiền huynh vài dặm mới phải,
song vì cha mẹ của tiểu đệ ở nhà đang trông, xin hiền huynh thứ lỗi.
Bá-Nha nói :
- Vậy thì hiền đệ về nhà xin phép song đường sang
Tấn-dương thăm chơi. Chắc bá phụ và bá mẫu cũng không nỡ từ chối.
Tử-Kỳ nói với giọng luyến tiếc :
- Tiểu đệ không dám phụ lời, song việc này không dám
hứa chắc, vì vạn nhất nếu tiểu đệ không xin phép được thung đường thành ra thất
hứa với hiền huynh, tội tiểu đệ lớn lắm.
Cảm lòng hiếu thảo của Tử-Kỳ, Bá-Nha nói :
- Hiền đệ thực là bậc quân tử. Nếu vậy, sau này tôi sẽ
tình cách đến thăm hiền đệ.
Tử-Kỳ nói :
- Bao giờ hiền huynh sẽ ghé lại thăm tiểu đệ ?
Bá-Nha tính đốt tay một lúc rồi nói :
- Sang năm cũng đúng vào ngày này.
Tử-Kỳ nói :
- Nếu vậy, sang năm cũng đúng vào ngày này
tiểu đệ xin đợi hiền huynh nơi gành đá.
Tử-Kỳ nói xong toan cáo biệt, Bá-nha giữ lại và nói :
- Hãy khoan, hiền đệ thư thả một chút đã.
Dứt lời, Bá-Nha lấy ra hai nén vàng, rồi hai tay nâng cao lên
trước mặt nói :
- Đây là món lễ mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ và
bá mẫu. Tấm tình cốt nhục, hiền đệ chớ chối từ.
Cảm tình tri ngộ, Tử-Kỳ không dám từ chối, nghẹn ngào cầm hai nén
vàng, lệ tràn khóe mắt, bùi ngùi trở gót ra đi.
Bá-Nha tiễn đến đầu thuyền, nắm tay Tử-Kỳ không nỡ rời.
Xưa nay, không có cuộc chia ly nào không ngậm ngùi giữa kẻ ở người
đi, huống chi Bá-Nha Tử-Kỳ lại là bạn tâm giao, nỗi long chưa cạn. Bá-Nha cứ
nhìn theo, nhìn mãi cho đến khi bóng Tử-Kỳ khuất giữa ngàn cây, rồi mới truyền
nhổ neo.
Dọc đường lòng Bá-Nha lâng lâng nhớ tiếc, đăm đăm đôi mắt về một
phương trời, nên mặc dù trời trong gió mát, cảnh đẹp thanh kỳ như giàn trải
trước mắt khách nhàn du, mà lòng Bá-Nha lúc bấy giờ lại thờ ơ, lạnh nhạt.
Về đến Kinh-đô, Bá-Nha vào yến kiến vua Tấn rồi lập tức trở lại tư
dinh…
…Thời gian lặng lẽ trôi như một dòng sông êm ả…
Mới ngày nào gió thu rào rạt, tiếng sáo biệt ly còn văng vẳng bên
tai, thế mà thoáng đã một năm qua. Ngọn gió heo may từ Bắc phương thổi về báo
hiệu mùa thu sắp đến…
Bá-Nha nhớ ngày ước hẹn, vội vào triều xin vua Tấn cho nghỉ phép về
nước Sở thăm nhà.
Vua Tấn nhậm lời. Bá-Nha sửa soạn cây đàn, đem theo vài tên
Đồng-Tử rồi lặng lẽ xuống thuyền.
Khi đến Hán-Dương, vừng kim ô đã ngã bóng xuống lòng sông, khói
sóng dâng lên nghi ngút.
Bọn thủy thủ vào báo cho Bá-Nha biết thuyền đã đến chân núi
Nhã-Yên. Bá-Nha lập tức ra đứng trước mũi thuyền nhìn khắp bốn mặt, nhận ra đây
quả là chỗ đã gặp Tử-Kỳ năm trước.
Sau khi đã hạ lệnh cắm thuyền, Bá-Nha vẫn đứng trông về phía núi
Nhã-yên, đỉnh núi cao hun hút, mịt mù trong màn sương xám của hoàng hôn, gợi
lên một niềm xa vắng.
Bá-Nha nghĩ bụng : « Năm ngoái vì tiếng đàn mà gặp được
tri âm, năm nay ta đàn một khúc nhạc nữa hầu Tử-Kỳ nghe tiếng mà lần
đến ».
Tối hôm ấy Bá-Nha sai tiểu đồng lấy cây Dao-cầm ra, đốt lò hương,
vặn phím, đem hết tinh thần nhớ nhung xây thành một khúc nhạc tâm tư. Khi đau
đớn bỗng thấy trong tiếng đàn mình có hơi ai oán nổi lên, Bá-Nha thất kinh,
dừng tay lại, suy nghĩ : « Cung thương có tiếng thê thảm như vậy, hẳn
Tử-Kỳ gặp nạn lớn rồi. Sáng mai ta phải lên bờ dò hỏi mới được ».
Đêm ấy Bá-Nha nằm thổn thức với ngọn đèn mờ, một canh trường không
chợp mắt. Nỗi lòng nhớ nhung bồi hồi rào rạt dâng lên như nhịp sóng trầm trầm
bất tận của mặt tràng giang.
Trời chưa sáng, Bá-Nha đã truyền bọn Đồng-Tử theo mình lên bờ, đem
theo cây đàn và mười thẻ vàng, nhắm chân núi Nhã-yên thẳng tới.
Ra khỏi triền núi, hai bên cây cối um tùm, và có mấy con đường
băng qua rất lớn. Bá-Nha không biết đi con đường nào, bèn ngồi nghỉ chân nơi
một tảng đá, đợi có người nào đi ngang qua sẽ hỏi thăm.
Một lúc sau, có một ông lão tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc xăm
xăm đi tới. Bá-Nha cúi mình thi lễ.
Ông già thấy thế, hỏi :
- Tiên sinh có điều gì cần hỏi han chăng ?
Bá-Nha cung kính đáp :
- Thưa lão trượng, trong mấy con đường này, con đường
nào về Thập-hiền thôn ?
Ông già đáp :
- Có hai con đường, đường nào cũng về Thập-hiền thôn
cả. Con đường bên phải về thôn Thượng Thập-hiền, con đường bên trái về thôn Hạ
Thập-hiền. Tiên sinh muốn về thôn nào ?
Bá-Nha hỏi :
- Thưa lão trượng, nhà Chung-tử-Kỳ ở thôn nào ?
Vừa nghe nhắc đến ba tiếng Chung-tử-Kỳ, ông già bỗng sa sầm nét
mặt, đôi mắt ngấn lệ, thứ lệ đặc và mặn từ từ tràn ra đôi mi nhăn nheo. Ông ta
sụt sùi kể :
- Chung-tử-Kỳ chính là con của lão. Năm ngoái cũng vào
ngày này, tháng này nó đi đốn củi về muộn có gặp một người nước Tấn là Bá-Nha
tiên sinh. Vì chỗ đồng thanh tương ứng, hai người kết nghĩa tri âm. Lúc ra đi,
Bá-Nha tiên sinh có tặng cho con tôi hai nén vàng. Con tôi về nhà dùng tiền ấy
mua sách đọc, bất kể giờ khắc. Vì ban ngày đốn củi mệt nhọc, tối đến lại lo
việc học hành nên chẳng bao lâu bị bệnh lao mà mất.
Chưa kịp nghe hết câu, đôi dòng nước mắt Bá-Nha đầm đìa trào ra
như hai dòng suối, Bá-Nha nghẹn ngào không thốt được nửa lời.
Chung lão thấy thế lấy làm lạ, hỏi tên tiểu đồng :
- Tiên sinh đây là ai vậy ?
Tiểu đồng đáp :
- Thưa lão trượng, đây là quan Thượng Đại-phu nước Tấn,
Du Bá-Nha.
Chung lão thốt ra hai tiếng « ối trời » rồi cũng nghẹn
ngào không nói được nữa. Hai người chỉ nhìn nhau và cảm thông qua dòng lệ. Hai
thứ nước mắt khác nhau, song chảy cùng một nhịp, chung nhau một mối đau thương.
Cuối cùng, Chung lão gắng gượng thi lễ, nói :
- Mong ơn Đại-nhân không chê cảnh bần tiện. Con lão lúc
lâm chung có dặn, vì lúc sống không trọn được đạo làm con, lúc chết xin chôn
nơi chân núi Nhã-yên để trọn nghĩa tâm giao với lời ước hẹn cùng quan Đại-phu
nước Tấn. Vì theo lời trăn trối, lão đã đem chôn nó bên ven đường ở chân núi.
Con đường tiên sinh đi đến, bên mặt có nấm đất, ấy là ngôi mộ của con tôi đó.
Nay vừa đúng một trăm ngày, lão mang vàng hương đến thăm mộ, và gặp tiên sinh ở
đây.
Bá-Nha lau nước mắt nói :
- Sự đời biến đổi, may rủi khó lường, nay đã đến nỗi
này, tôi xin theo lão trượng đến trước mộ phần để lạy vài lạy cho thỏa tình
mong nhớ.
Nói xong Bá-Nha sai tiểu đồng xách giỏ cho Chung lão, rồi cùng
nhau, kẻ trước người sau, trở lại chân núi.
Khi đến nơi, Bá-Nha thấy nấm đất bên đường cỏ xanh chưa kín, lòng
gợn lên một mối thê lương. Bá-Nha vừa khóc vừa lạy, tuy miệng không nói được
nửa lời mà lòng như tràn ra mối hận biệt ly.
Lạy xong, Bá-Nha truyền đem cây đàn đến, rồi ngồi trên một tảng đá
tấu lên một khúc nhạc « thiên thu trường hận ».
Bỗng thấy gió ngàn rít mạnh, ánh sáng u buồn, mấy tiếng chim kêu
uất ẩn vọng lên từ xa như những hồn ma bóng quế dật dờ khi tỉnh khi mê.
Bản nhạc ngưng ! Gió ngừng thổi ! Trời lại sáng
dần !
Bá-Nha nói với Chung lão :
- Có lẽ hồn Tử-Kỳ đã hiện về đó ! Chẳng hay lão bá
có biết cháu vừa đàn khúc gì chăng ?
Chung lão đáp :
- Lúc nhỏ lão cũng biết chút ít về cầm tháo, nhưng nay
tuổi già, tâm thần hỗn loạn không thể phân định được tiếng đàn.
Bá-Nha nói :
- Cháu vừa đàn khúc đoản ca viếng người tri âm, tài hoa
mệnh yểu. Xin đọc thành lời văn để lão bá nghe :
« Ức tích khứ niên xuân,
Giang thượng tằng hội quân.
Kim nhựt trùng lai phỏng,
Bất kiến tri âm nhân !
Đản kiến nhất phần thổ,
Ân nhiên thương ngã tâm !
Bất giác lệ phân phân…
Lai hoan khứ hà khổ ?
Giang bạn khởi sầu vân.
Tử-Kỳ ! Tử Kỳ hề… !
Nhĩ ngã thiên kim nghĩa
Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ.
Thử khúc chung hề bất phục đàn,
Tam xích Dao-cầm vị quân tử ».
Dịch :
« Từ nhớ thuở mùa xuân năm ngoái,
Trên trường giang gặp bạn cố nhân.
Năm nay lại đến giang tân,
Dòng sông lạnh ngắt, cố nhân đâu rồi !
Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi,
Cõi ngàn năm chia cách đau lòng,
Ôi thương tâm ! Ôi thương tâm !
Sụt sùi lai láng bao dòng lệ rơi !
Mây sầu lấp loáng chân trời,
Đêm vui đổi lấy một đời khổ đau.
Tử-Kỳ ! Từ-Kỳ… !
Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm giao.
Thời từ đây, với phím đàn…
Ngàn thu thôi hết mơ màng cố nhân ».
Đọc xong, Bá-Nha hai tay cầm cây đàn đưa lên cao, đập mạnh xuống
tảng đá. Cây đàn vỡ tan từng mảnh, trục ngọc, phím đồng rời rã, tơi bời…
Chung lão kinh hoàng nói :
- Tiên sinh giận gì mà đập cây đàn vậy ?
Bá-Nha đọc luôn bốn câu thơ để đáp lời Chung lão :
« Thốt đoái Dao-cầm phượng vĩ hàn,
Tử-Kỳ bất tại, hướng thùy đàn ?
Xuân phong mãn diện giai bằng hữu,
Dục mịch tri âm, nan thượng nan ! »
Dịch :
« Dao-cầm đập nát đau lòng phượng,
Đã vắng Tử-Kỳ đàn với ai ?
Gió xuân bốn mặt bao bè bạn,
Muốn tìm tri âm thật khó thay ! »
Chung lão thở dài, nói :
- Chỉ vì không có người biết nghe mà kẻ đàn hay phải
đành thất vọng.
Bá-Nha hỏi :
- Lão bá ở thôn Thập-điền nào ?
Chung lão đáp :
- Tệ xá ở thôn Thập-điền Thượng. Vậy mời đại nhân, nếu
không chê nghèo nàn, xin đến đó nghỉ ngơi.
Bá-Nha nói :
- Hạ quan xin cám ơn lão bá. Nay nếu hạ quan có trở về
đó cũng chỉ gợi thêm nỗi nhớ nhung mà thôi. Nhân dịp hạ quan có đem mười nén
vàng, xin dâng cho lão bá một nửa dùng trong việc cung dưỡng tuổi già, còn một
nửa mua mấy mẫu ruộng để làm tự cho Tử-Kỳ. Mai hạ quan trở về triều dâng biểu xin
cáo quan ẩn miền quê cũ, chừng ấy hạ quan sẽ rước bá phụ, bá mẫu về sống chung
để yên hưởng những ngày tàn. Tôi là Tử-Kỳ và Tử-Kỳ cũng tức là tôi vậy.
Nói xong, Bá-Nha hai tay dâng mười nén vàng cho Chung lão, sụp
xuống lạy mấy lạy rồi ra đi. Chung lão cũng đứng nhìn theo lòng bùi ngùi luyến
ái…
III. NHỮNG VUI BUỒN TRONG MƯU SINH
Con người sống không phải chỉ có thân xác, mà còn phải sống về
tinh thần. Nếu thân xác buộc con người phải tìm đủ chất dưỡng sinh, cung ứng
cho nhu cầu thể chất, thì tâm hồn cũng bắt con người phải điều hòa những cảm
nghĩ đối với cuộc đời, nghĩa là cái khoảng thời gian từ lúc sinh ra đến lúc
chết đi.
Bất kỳ giàu nghèo, sang hèn, không một ai đứng ra ngoài cảm nghĩ
trước lẽ sống. Cảm nghĩ ấy chính là sợi dây liên hệ giữa tinh thần và vật chất.
Cho nên nhiều người đem lẽ sống xây đắp cho cuộc đời. Họ sống vì
tinh thần, xem vật chất là hư ảo, chỉ có tinh thần mới để lại trong thời gian
(đời người) những quý giá, và tồn tại mãi trong lịch sử xã hội. Với quan niệm
ấy, trên đường mưu sinh của họ, họ dốc vào ý thức vị tha : « Lo
trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của mọi người ». Họ sống vì
đời, không vì cá nhân.
Ngược lại, nhiều người sống chỉ biết để làm thỏa mãn cá tính, thỏa
mãn những nhu cầu vật chất, cố làm sao thụ hưởng được nhiều dục vọng.
Những người trên, vì quá chú trọng về tinh thần, tách rời ý thức
vật chất, không cải tiến được kỹ thuật nghề nghiệp, làm cho lẽ sống con người
chìm trong yếm thế.
Những người dưới vì xem nhẹ yếu tố tinh thần, đặt dục vọng lên
guồng máy sinh hoạt, tạo cho xã hội loài người thành những lớp sơn bên ngoài,
mà bên trong mục nát, để rồi tự nó tiêu diệt.
Cả hai quan niệm về xã hội trên đây đều là những quan niệm riêng
rẽ, không liên kết được hai yếu tố tinh thần và vật chất.
Tinh thần và vật chất không thể tách rời, cũng như không thể làm
mất thăng bằng mà tồn tại được. Tinh thần cần phải được vật chất nuôi dưỡng,
ngược lại vật chất cần phải được tinh thần bảo vệ giá trị thụ hưởng.
Xét về hai quan niệm này, người bình dân thời xưa không xem nặng bên
nào cả. Họ có những tư tưởng trọng về tinh thần như :
« Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người ».
Và cũng xem trọng vật chất như :
« Có khổ mới có miếng ăn,
Không dưng ai dễ đem phần đến cho ».
Cả hai yếu tố tinh thần và vật chất đều được người bình dân thời
xưa xem trọng, nên quan niệm về lẽ sống của họ là điều hòa giữa con người và
thiên nhiên. Lấy công việc mưu sinh làm nguồn sống của tinh thần, và lấy tinh
thần điều hòa công việc mưu sinh để cho ý thức mưu sinh không vì nhu cầu dục
vọng làm sai lạc lẽ sống. Đó chính là trạng thái dung hợp trong nhất thể, và
chỉ khi nào mọi hoạt động của vạn hữu được dung hợp trong nhất thể (điều hòa và
liên kết) mới đem lại nguồn hạnh phúc được.
Xưa nay, nghiên cứu về thi ca bình dân, các học giả chỉ chú trọng
những mảnh tâm tư phô diễn qua nếp sống. Những mảnh tâm tư ấy rời rạc theo từng
trạng thái thời gian. Như vậy tức là không đúc kết thành một hệ thống tư tưởng,
mà bất luận dân tộc nào sống trên thế giới đã mang một lịch sử xã hội không thể
trống rỗng như thế được. Hơn nữa, mọi hiện tượng đều có liên quan và nối kết.
Chúng ta không thể phối hợp được tính chất liên quan và nối kết ấy tức là chúng
ta đã vô tình tách rời tính chất hiện thực của nó.
Để thấy rõ nguồn sống của người bình dân thời xưa, trong hiện
tượng tương quan và nối kết giữa hai dòng sinh hoạt vật chất và tinh thần,
trong mục này chúng ta sẽ khảo cứu những vui buồn của họ trong việc mưu sinh,
qua bốn ngành sinh hoạt chính : nông nghiệp, chăn nuôi, canh cửi và buôn
bán.
a)
Về nông nghiệp
Từ ngàn xưa, Việt-Nam là một nước nông nghiệp, nguồn sống chính là
việc cày cấy, trồng trọt để mưu sinh. Bởi vậy, chúng ta không lấy làm lạ khi
thấy trong ca dao nguồn tình cảm của dân tộc ứng diễn bàng bạc trong sinh hoạt
hàng ngày. Chúng ta có thể xem đó như nguồn lạc thú về tinh thần mà người xưa
đã bảo là : « An cư lạc nghiệp ».
Người ta vui với cái vui trong yên ổn, người ta thích thú với
những thành quả đạt được trong nghề nghiệp của mình. Như vậy, lẽ sống của họ
chối bỏ những mâu thuẫn vật chất do bản năng dục vọng con người đưa đến.
Nếu ở thành thị, ngày nay, trước mắt chúng ta chỗ nào cũng tràn
ngập những xa xỉ phẩm, những vật dụng dùng để kích thích và làm thỏa mãn nhu
cầu vật chất, thì ở miền quê, thời nào cũng vậy, chúng ta chỉ thấy những bờ đê,
những lũy tre xanh, những thềm giếng nước, những đồng ruộng bát ngát, bao la…
Hiện tượng ấy không cho phép con người sống ở đồng quê có một tinh thần ham
chuộng vật chất. Quang cảnh thiên nhiên chính là món ăn tinh thần, và cũng
chính là yếu tố làm cho cảm giác con người gần gũi với thiên nhiên, tách rời
những dục tính do bản năng con người tạo nên.
Nếu có những kẻ chán đời, những người bất mãn về danh lợi, rời bỏ
thành thị trở vào núi non ẩn dật, thì đó chính là một bằng chứng hùng hồn nói
lên cảnh vật ở đồng quê chứa đựng một cái gì thanh cao về tinh thần mà ở thành
thị không thể có được. Đây, chúng ta thử tìm đến tâm trạng của những kẻ
ấy :
« Văn chương phú lục chẳng hay,
Trở về làng cũ học cày cho xong.
Sáng ngày vác cuốc thăm đồng,
Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên.
Hết mạ ta lại quảy thêm.
Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.
Nữa mai lúa tốt đầy đồng,
Gặt về đập sảy bõ công cấy cày ».
Trên đây là tâm tư của một kẻ chán mùi danh lợi, tìm về thú đồng
ruộng để tiêu dao. Con người bình dân không phải là kẻ chán đời. Họ sống với
đồng quê, vui với đồng quê chỉ vì nghề nghiệp của họ, và cái thú trong nghề
nghiệp ấy đã cung cấp cho họ một nguồn sống về tinh thần.
Nếu người dân ở thành thị khi nhìn một tà áo đẹp trên vỉa hè,
thích thú với những đường cong quyến rũ trên cơ thể của mỹ nhân, thì người dân
quê khi nhìn một cành lúa đơm bông, một rãnh nước chảy vào thửa ruộng, một
luống cày vừa ngâm dưới nước sâu, họ vẫn cảm giác được những thích thú trong
tâm hồn họ. Vậy thì những khoái cảm chỉ là sản phẩm do hoàn cảnh sinh hoạt đưa
đến cho đời sống con người.
Cũng như không chán đời, thì kẻ chán đời không tìm thấy cái đẹp
của núi non vắng vẻ. Và, nếu không là một dân quê thì khó ai có thể thông cảm
được những lạc thú trong công việc cực nhọc của nhà nông.
Từ xưa đến nay, nhiều thi nhân đã ca tụng những lạc thú trong sinh
hoạt nông thôn, nhưng chẳng qua họ cũng đứng bên ngoài, diễn tả những nguồn vui
khách quan do tinh thần họ chán ngán chốn thị thành, trở về đồng quê mượn quang
cảnh ấy để gởi gắm những màu sắc lạ trước cảm giác của họ. Đây, chúng tôi xin
ví dụ một bài thơ của Anh-Thơ với tựa đề « Đại hạn » :
- « Nắng, nắng, suốt trời vàng giãi nắng.
Gió theo mây không biết trốn phương nào.
Vườn chuối rũ héo dần trong im lặng,
Những rau bèo chết cạn cả trong ao ».
- « Ngoài đồng ruộng lúa vàng khô cháy xác.
Nắng chang chang không một bóng râm chừa,
Chó điên dại chạy nhông tìm gió mát,
Trâu buồn rầu nằm đợi vũng tràn mưa ».
- « Rồi chiều đến khi mặt trời lặn đỏ,
Mây phương đoài tắm rực một bên sông.
Các cô gái đưa nhau thăm ruộng nỏ,
Cuộn dây gàu chán nản tát đồng không ».
Và Bàng-bá-Lân trong « Mùa gặt » :
« Trời tang tảng. Sương đào bay lớp lớp,
Cánh đồng quê mờ ngợp khói sương mơ.
Từ cổng làng từng bọn kéo nhau ra,
Tiếng quang cặp, đòn càn va lách cách.
Họ vui vẻ đi nhanh trên đường đất,
Rồi tạt ngang, tản mát khắp đồng quê.
Họ dừng chân bên ruộng ướt sương khuya,
Lúa rạp rạp ngả theo chiều gió thổi.
Thợ đàn ông xắn quần lên quá gối,
Thợ đàn bà cao váy xếch hai bên.
Để lộ ra những cặp bắp chân đen,
Rồi kẻ hái, người liềm xô xuống ruộng.
Lúa thức giấc xạc xào trong hỗn độn,
Lúa run run lìa cuống ngã trên tay… »
Có những nguồn cảm hứng thật đấy, nhưng chỉ là nguồn cảm hứng của
thi nhân đứng trước cảnh sinh hoạt ở đồng quê. Nguồn cảm hứng ấy có một cách
biệt giữa người nông dân và thi sĩ.
Đã có cách biệt như vậy, chúng ta không thể nào giao cảm nguồn vui
của họ. Hay nói cách khác, nguồn vui của họ trong sinh hoạt không phải là nguồn
vui trong cảm nghĩ của chúng ta, của thi nhân.
Nói như thế không có nghĩa là chúng tôi bắt buộc thi nhân phải trở
thành một nông phu, hay buộc tâm hồn thi nhân phải trở thành tâm hồn của nông
phu. Chúng tôi chỉ phân tích để thấy sự khác biệt về tình cảm, và cũng để chứng
minh rằng thi ca bình dân khác với thi ca bác học, thi ca bình dân diễn tả
những tình cảm chân thật của người bình dân, còn thi ca bác học diễn tả tình
cảm của người trong khuôn khổ văn chương bác học, mặc dù muốn nhìn tận tâm hồn
của giới khác, nhưng cũng khó thoát qua khỏi lăng kính của giới mình.Và đây,
chúng ta thử đi vào cảm giới của người bình dân qua ca dao của họ :
« Anh đi anh nhớ cày bừa,
Nhớ cô tát nước ruộng mùa hôm nao.
Năm nay trời ít mưa rào,
Hỏi rằng lúa má thể nào hở cô ? »
Hoặc : « Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao ».
Trên đây là mấy câu ca dao của một nông phu bỏ nghề đi tìm việc
làm khác. Tuy nhiên, tâm hồn họ vẫn là tâm hồn nông phu, cảm giới họ vẫn không
xa rời nguồn sống cỏ hoa đồng nội.
Sự thiết tha của một nông phu đối với nghề nghiệp đã cho chúng ta
thấy đời sống nông thôn tuy khổ cực, song cái khổ ấy chính là nguồn lạc thú mà
họ không thể từ bỏ. Chính họ đã nói lên điều đó :
« Tưởng rằng tàu lặn, tàu bay,
Nên anh bỏ việc cấy cày mà đi.
Biết rằng cu-lít, cu-li,
Thà rằng cứ ở nhà quê với nàng.
Nhà quê có họ, có hàng,
Có làng, có xóm, lỡ làng có nhau ».
Câu nói trên là sự so sánh giữa hai cuộc sống thành thị và thôn
quê. Sự so sánh này không nằm trong phạm vi sướng, khổ, mà nằm trong quan niệm
về lẽ sống giữa vật chất và tinh thần. Chính ý nghĩa về lẽ sống đã cho người
nông dân thấy đâu là nguồn lạc thú mà họ mong ước. Chúng ta hãy nghe họ
nói :
« Công danh theo đuổi mà chi,
Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông.
Sớm khuya có vợ có chồng,
Cày sâu bừa kỹ mà mong được mùa. »
Hoặc : « Mảng vui cơm tấm, ổ rơm,
Tuy rằng cũ kỹ mà thơm sạch lòng.
Hơn ai gạo tám lầu hồng,
Đem thân luồn cúi vào vòng lợi danh ».
Hay : « Em về cắt rạ đánh tranh,
Chặt tre, chẻ lạt cho anh lợp nhà.
Sớm khuya hòa thuận đôi ta,
Hơn ai gác tía lầu hoa một mình ».
Ai dám bảo họ không tìm thấy nguồn lạc thú trong cuộc sống đồng
nội cỏ hoa ? Chính quan niệm xã hội đã đưa tâm hồn họ quyến luyến những gì
ít có tính chất ưu tư, phỉnh phờ, sát phạt, mà chốn thị thành đã làm cho họ
ngao ngán.
Sinh hoạt ở thôn quê, dù phải lo âu, thì cái lo âu ấy mông mênh,
trầm lặng như khung trời bao la của họ. Bởi vậy chúng ta mới được dịp nghe
những giọng hò khoan thỉnh thoảng đong đưa qua một vài thửa ruộng giữa mùa cấy,
như :
« Người ta đi cấy lấy công,
Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời im bể lặng mới yên tấm lòng ».
Tâm trạng lo âu của một thôn nữ hình như thoát ra ngoài tính chất
cơm áo, mà trở thành mối lo của nghĩa vụ làm người, cái nghĩa vụ hòa hợp giữa
cuộc sống vật chất và tinh thần. Với vật chất, họ đem khổ cực làm mục tiêu
chiến đấu ; với tinh thần, họ đã tìm nguồn vui trong khổ cực ấy để định
giá trị cho lao khổ, và hướng lao khổ vào mục đích thanh cao. Đây, chúng ta
nghe họ hát :
« Nhác trông sao đẩu về đông,
Chị em ra sức cấy xong ruộng này.
Tay chân dù nặng bùn lầy,
Hãy trông cây ngọc có ngày đơm hoa ».
Hoặc : « Rủ nhau đi cấy đi cày,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa ».
Thử hỏi, trong xã hội vật chất ngày nay, chúng ta có tìm được cảm
nghĩ thanh cao như thế chăng ? Hay chúng ta cũng chỉ văn minh trên kỹ
thuật, tranh nhau để thụ hưởng, khai thác những cảm khoái cá nhân, và nguồn lạc
thú của chúng ta trở thành lạc thú ích kỷ.
Để kiểm điểm thực trạng ấy, chúng ta thử xét lại một số ca dao mà
chính người bình dân đã cởi mở qua tâm hồn họ trong cái vui hồn nhiên trước
cuộc sống hàng ngày. Cái vui ấy chúng ta chỉ tìm thấy ở đồng quê nơi chứa đựng
đặc tính của nông dân mà thôi :
« Trâu ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây, trâu đấy ai mà quản công,
Bao giờ ngọn lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn ».
Tình cảm không chỉ ở trong lòng người mà lan tràn trong mọi cảnh
vật. Một đám mây chiều, một cơn gió thoảng lúc ban mai cũng chứa đựng những vui
buồn của họ, thì một con trâu đã cùng họ gánh vác nỗi nhọc nhằn trong công việc
đồng áng, làm sao họ không có tình thương, không chia sẻ với nó những buồn vui. Cái vui của họ là
cái vui trong cực nhọc, để rồi hy vọng :
« Bao giờ cho đến tháng mười,
Lúa tốt bời bời nhà đủ, người no.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Thổi nồi cơm nếp vừa cười vừa ăn ».
Hoặc : « Ơn trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.
Công lênh chẳng quản bao lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Ai ơi, đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu ».
Cho nên cảm giác của một nông dân điển hình cho cảm giác chung của
những người sống nơi đồng ruộng, nỗi buồn vui của họ dính liền với ngoại vật,
và cũng là những buồn vui chung trong nghề nghiệp. Còn đối với gia đình thì
cũng chính nhờ việc đồng áng mà những buồn vui được chia sẻ hoặc pha trộn vào nhau, tạo cho tâm tư
mỗi người chứa chan ý sống. Đây, chúng ta nghe họ thân mật bảo nhau :
« Trời đông, nước lã phơi bờ,
Em về nhổ mạ, anh bừa ruộng chiêm.
Anh bừa ruộng cho em đi cấy,
Việc làm ăn trông cậy lẫn nhau.
Trời cho gặp lúc phong thâu,
Của chồng công vợ đi đâu thiệt thòi ».
Hoặc : « Đêm hè con đóm nó soi,
Em đi tát nước, anh ngồi suốt đêm.
Bao giờ cho nước lớn lên,
Cho lúa chóng tốt để em vui lòng ».
Việc làm ăn ở đồng quê có liên hệ với nhau, từ người cày, cấy, đến
những kẻ nhổ cỏ, tát nước. Việc làm đã gắn liền như vậy thì tình cảm của mỗi
người làm sao tách rời ra được. Cho nên anh chàng cày ruộng nghĩ đến cô nàng đi
cấy, và cô nàng đi cấy liên tưởng đến những lúc nắng hạn có kẻ phải tát nước…
Tình cảm của họ vì công việc làm ăn mà chan hòa, cảm thông từ cái khổ đến cái
sướng, và lẽ sống hợp quần được đề cao làm nền tảng cho ý thức xã hội nông
nghiệp.
Niềm giao cảm ấy đã được biểu lộ qua các câu tâm tình, như :
« Gió đưa ngọn lá rung rinh,
Cô kia cấy lúa một mình bên sông.
Sao không rủ bạn đi cùng ?
Vui làm có bạn, vui lòng cô ơi ! »
Hoặc có lúc người vợ nhủ chồng :
« Mặt trời tang tảng rạng đông,
Chàng ơi trở dậy đi đồng kẻo trưa.
Phận hèn bao quản nắng mưa,
Cày sâu bừa kỹ được mùa có phen ».
Hoặc có lúc họ nhủ với nhau :
« Quanh năm cấy hái cày bừa,
Vụ chiêm thì Hạ, vụ mùa thì Đông.
Ai về nhắn chị em cùng,
Muốn cho sung sướng, nghề nông phải cần ».
Qua những vần cao dao trên đây, chúng ta đã hình dung được tâm
giới người dân quê Việt-Nam thuở xưa. Nhưng đó chỉ mới xét qua tinh thần trọng
nông và những lạc thú của họ qua ý thức sinh hoạt nghề nghiệp. Hay nói cách
khác, chúng ta vừa tìm đến tâm tư của họ trong lĩnh vực đạo lý.
Và, như trước đây chúng ta đã phân tích, người bình dân đối với lẽ
sống không phải chỉ chú trọng về mặt tinh thần, nghĩa là chỉ nghĩ đến những lạc
thú của nghề nghiệp, mà còn chú trọng đến việc cải tiến nghề nghiệp nữa.
Ngày nay, khoa học cơ giới tiến bộ, chúng ta nhìn lại lề lối sinh
hoạt của họ có cảm giác như lạc hậu. Tuy nhiên, với thời gian xa xưa ấy, chúng
ta phải thừa nhận rằng lớp người nông phu Việt-Nam đã tiến bộ không ngừng trên
phương diện canh tác.
Trước nhất, chúng ta thấy họ đã biết căn cứ vào thời tiết để chia
việc làm mùa hàng năm :
« Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già,
Ta đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sớm ngày đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta,
Đến khi lên mạ thì ta nhổ về.
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi đầy còn độ một hai.
Ruộng cao đóng một gàu dai,
Ruộng thấp thì phải đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
Lúa gặt ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công ».
Chẳng những họ rút tỉa được kinh nghiệm về thời tiết để gieo thóc
giống cho đúng lúc, phân định việc làm hàng năm cho hợp với thời giờ, mà họ còn
biết tìm cách dùng phân bón để làm cho ruộng nương thêm nhiều hoa màu :
« Nhiều phân tốt lúa, nhiều lụa tốt l… »
Hoặc : « Ruộng không phân như thân không của ».
Vì nhận thấy phân bón là yếu tố duy nhất làm cho lúa tốt, nên từ
ngàn xưa, nông dân đã đúc thành kinh nghiệm, phổ biến trong dân gian :
« Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy.
Năm nong đầy em xay em giã,
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng ».
Chẳng những họ có tinh thần cải tiến về lề lối canh tác, mà họ còn
chú ý đến việc cải tiến dụng cụ nhà nông nữa.Đây, chúng ta nghe họ nói :
« Gỗ nghiến anh để đóng cày,
Gỗ lim, gỗ sến anh nay đóng bừa.
Răng bừa tám cái còn thưa,
Lưỡi cày tám tấc đã vừa luống to.
Muốn cho lúa nẩy bông to,
Cày sâu, bừa kỹ, phân cho thật nhiều ».
Nhưng đó chỉ là những nguyên tắc về đại cương trong công việc cày
cấy, người nông dân Việt-Nam đã trải qua hàng bao thế kỷ trong công tác nông
nghiệp, kinh nghiệm và kỹ thuật của họ còn đi xa hơn nữa trong từng việc
làm.Sau đây, chúng ta khảo sát qua từng chi tiết :
1) Về cày bừa, gieo mạ và cấy lúa
Mỗi kinh nghiệm trong việc làm nghề, người nông dân thường đúc kết
thành một câu hát, hay tục ngữ riêng để lưu lại qua nhiều thế hệ. Đó chính là
lối giáo dục truyền thụ, mà tất cả những ai, dù trong thế hệ nào, khi bắt tay
vào công việc đồng áng đều lấy đó làm phương châm tất yếu để noi theo. Ví dụ về
kinh nghiệm cày ruộng :
« Ăn kỹ no lâu,
Cày sâu lúa tốt ».
Họ đem cây lúa ví với con người. Khi con người ăn được nhiều chất
bổ thì lâu đói, nên cây lúa cũng vậy. Cày sâu tức là làm cho đất có nhiều chất
mầu nổi lên, cây lúa nhờ đó mà hút được nhiều phân.
Mặt khác, đất cũng cần có nước và ánh nắng mặt trời để bồi bổ chất
mầu bị cây cối hút mất đi, cho nên kỹ thuật cày bừa cũng phải làm thế nào cho
đất lấy được ánh sáng mặt trời, hoặc phải dầm nước trong trường hợp cần. Về
kinh nghiệm này, người nông dân đã bảo :
« Ải âm hơn dầm dõ ».
Ải âm tức
là làm thế nào để cho luống cày luôn luôn ngập trong nước. Còn dầm dõ tức
là lúc thì để luống cày ngập nước, lúc lại để luống cày bị khô nước. Sự bất
thường như vậy trong kỹ thuật cày ải làm cho đất bị sượng, không giữ được chất
mầu. Bởi vậy, vào mùa mưa, nhà nông rất chú trọng đến việc cày ải. Họ so
sánh :
« Phân tro không bằng cày mò tháng sáu ».
Phân tro là thứ phân làm cho đất mềm và xốp, nhưng nếu lần cày ải giữ
được luống cày ngấm đều trong nước thì chất mầu còn hơn vãi phân tro. Cũng như
họ bảo :
« Trúng một lứa cày ải
Cũng bằng vãi một lần phân ».
Thì đó cũng chính là kinh nghiệm trong kỹ thuật cày bừa, mà những
ai sống với nghề nông đều phải xem đó là khuôn vàng thước ngọc.
Làm ruộng không những chỉ có đất tốt là đủ, mà còn phải biết chọn
giống tốt. Giống có tốt thì cây mạ mới sởn sơ và đủ sức phát triển trong lúc
cấy lúa còn là « mã con gái ».
Nếu một cô gái đến tuổi dậy thì da dẻ hồng hào, mặt mày tươi sáng,
những đường nét trong người bắt đầu nở nang để gợi tình, thì đối với người nông
dân, họ xem cây lúa cũng vậy. Cây lúa lúc được đều đặn, duyên dáng nhất là lúc
vừa bén rễ, hút chất mầu trong đất. Thật vậy, ai có thể phủ nhận được vẻ đẹp
nhấp nhô của một tấm nhung xanh uốn thành những gợn sóng qua từng cơn gió thổi.
Bởi vậy, người nông dân muốn lúa tốt phải săn sóc từng hạt giống
trong thời kỳ gieo mạ. Họ bảo :
« Tốt giống tốt mạ,
Tốt mạ tốt lúa ».
Chẳng những thế, họ còn chọn thứ giống lúa nào nên gieo vào mùa
nào để hợp với khí hậu. Họ chia ra vụ chiêm và vụ mùa. Vụ chiêm là vụ lúa gieo
ở những tháng trời nắng nhiều mưa ít, vụ mùa gieo ở những tháng nắng ít mưa
nhiều. Tuy nhiên, những kinh nghiệm ấy cũng chỉ dùng ở địa phương, vì thời tiết
mỗi nơi mỗi khác. Ở đây chúng ta chỉ khảo sát qua những kinh nghiệm về đại
cương mà thôi.Việc ngâm thóc để gieo mạ, người nông dân cũng rút tỉa được kinh
nghiệm :
« Mùa nứt nanh, chiêm xanh đầu ».
Giống gieo ở vụ mùa vì thời tiết mát và thường mưa, nên hạt giống
chỉ cần nứt nanh đã đem gieo được rồi. Trái lại, giống gieo vào vụ chiêm vì
thời tiết nóng nực, ít mưa, nên phải đợi cho hạt giống xanh đầu mới dám đem ra
gieo, nếu không, giống sẽ bị chết, không lên mạ nổi.
Họ lại còn phải biết kinh nghiệm về thời gian. Từ lúc đem giống ra
gieo, đến lúc nhổ mạ cấy xuống ruộng phải đúng với ngày tháng. Nếu không, mạ
non mà đem cấy cũng làm cho lúa xấu. Với kinh nghiệm này, họ đã để lại những
câu cao dao như :
« Lúa trổ ngã mạ,
Vàng rạ thời lúa xuống được ».
Muốn nắm vững thời tiết, người ta phải căn cứ vào ruộng lúa của
mùa trước. Hễ thấy ruộng lúa mùa trước đã trổ thì mùa sau có thể bắt đầu ngâm
giống. Đến khi thấy ruộng lúa mùa trước rạ đã vàng, thì mùa sau có thể đem
giống ra gieo xuống rãnh.Họ cũng còn cho những kinh nghiệm nữa về thời tiết
gieo mạ như :
« Mạ chiêm ba tháng không già,
Mạ mùa tháng rưỡi ắt là không non ».
Vụ chiêm mạ gieo về mùa lạnh, cây mọc chậm nên ba tháng vẫn chưa
già. Trái lại, vụ mùa mạ gieo vào mùa hè, cây mọc nhanh nên chỉ mới 45 ngày đã
có thể cấy được.
Đến như việc dâm mạ, để giữ cho mạ khỏi héo trước khi đem cấy
xuống ruộng, họ vẫn có những kinh nghiệm thực tiễn như :
« Đông chết se, hè chết lụt ».
Mùa đông, mặc dù trời mưa dầm dãi, nhưng cây mạ chịu ngâm nước,
thiếu nước, cây mạ héo. Trái lại, mùa hè trời nắng, nhưng cây mạ lại không chịu
ngâm nước, bởi vì cây mạ bị ngâm nước trong mùa hè, mạ sẽ thúi mất, do tính
chất oi bức của khí hậu.
Trên đây, chúng ta đã khảo sát qua một ít kinh nghiệm về cày bừa
và gieo mạ. Đến như việc cấy lúa, người nông dân vẫn cho là quan trọng.
Trước hết, họ đặt vấn đề thời tiết. Nếu công việc làm mùa mà trái
thời tiết thì dù có khổ công đến đâu cũng chẳng thu được kết quả mỹ mãn !
Họ bảo :
« Hơ hải không bằng phải thì ».
Hoặc : « Làm ruộng phải chầu,
Đi câu phải chỗ ».
Để ấn định thời tiết của mùa cấy người ta căn cứ vào sao Tua-rua.
Họ bảo :
« Tua-rua một tháng mười ngày,
Cấy trên luống cày cũng được lúa xơi.
Bao giờ nắng nữa bèo trôi,
Tua-rua quá ngọ thì thôi cấy mùa ».
Sao Tua-rua mọc vào tháng sáu (tức vụ mùa). Cứ tối đến thì sao ấy
xuất hiện ở hướng Đông và khi mọc cao vừa mặt người nhìn thì lặn mất. Nhưng đến
tháng bảy thì sao lại bắt đầu mọc cao hơn, cho đến tháng mười thì tối đến sao
lại mọc ngay ở đỉnh đầu. Người đi cấy chỉ việc làm mùa trong lúc sao Tua-rua
còn mọc dưới thấp, như vậy mới đúng thời tiết :
« Tua-rua bằng mặt, cất bát cơm chăm ».
Ở miền Bắc, người dân quê còn xem sao Mang-hiện. Sao này mọc ở
hướng Đông-Nam vào khoảng tháng sáu âm lịch. Hễ thấy sao Mang-hiện mọc tức là
vào đúng thời tiết gieo mạ :
« Bao giờ Mang-hiện đúng ngày,
Cày bừa cho chín mạ này đem gieo ».
Tuy nhiên, cũng có trường hợp cấy chậm, mạ già, nhưng ruộng sâu
nhiều nước thì cũng không trở ngại đến kỹ thuật :
« Tua-rua thì mặc Tua-rua,
Mạ già ruộng rộc không thua bạn điền ».
Thường thường muốn cho ruộng tốt, vụ cấy mùa phải cấy mò dưới
nước, nghĩa là nước phải ngập luống cày :
« Phân tro không bằng cấy mò tháng sáu ».
Kỹ thuật cấy lúa lại phải chú trọng đến việc dày, thưa và sâu,
cạn. Mùa nào phải cấy dày, mùa nào phải cấy thưa, trường hợp nào phải cấy sâu,
trường hợp nào phải cấy cạn, chúng ta hãy nghe người nông dân đem kinh nghiệm
phân tích qua ca dao :
- « Cấy thưa thừa thóc,
Cấy dày cóc được ăn ».
- « Thừa mạ thì bán,
Chớ có cấy rậm ăn rơm ».
- « Cấy thưa hơn bừa kỹ ».
- « Lúa mùa thì cấy cho sâu,
Lúa chiêm cấy cạn nhảy mau mà về ».
- « Vụ mùa cấy cao,
Vụ chiêm cấy trũng ».
Kinh nghiệm về cày, cấy, gieo mạ chưa đủ, công việc nhà nông còn
lệ thuộc rất nhiều ở thời tiết. Nắng, mưa, gió, bão là những đe dọa thường
xuyên khiến cho nông dân luôn luôn lo âu.
Chính vì sự lo âu ấy mà nhà nông đã đạt được những kinh nghiệm về
thời tiết, khí hậu. Họ không phải là những nhà thiên văn học, nhưng những nhận
xét của họ rất chính xác, đúc thành kinh nghiệm lưu truyền qua ca dao.
2) Kinh nghiệm về thời tiết, khí hậu
Kinh nghiệm về thời tiết, khí hậu, người nông dân không phải căn
cứ vào sách vở nào cả, chỉ vì hàng ngày sống giữa cảnh vật, họ lưu ý đến những
hiện tượng, gió mây, cây cối, thú vật mà đoán được mọi biến chuyển của thiên
nhiên.
Chúng ta có thể chia những ca dao loại này thành ba thứ kinh
nghiệm :
- Loại nói về những hiện tượng trên trời,
- Loại nói về những hiện tượng của cây cối,
- Loại nói về những hiện tượng của loài vật.
(*) Hiện tượng trên
trời
Ở một địa phương nào đó, họ có thể nhìn về phương hướng phát khởi
mây đen để định cơn mưa ấy nhiều hay ít, mau tan hay lâu tan. Ví dụ :
« Cơn mưa đàng Đông, vừa trông vừa chạy,
Cơn mưa đàng Tây, mưa dây bão giật.
Cơn mưa đàng Nam, vừa làm vừa chơi,
Cơn mưa đàng Bắc, đổ thóc ra phơi ».
Tuy nhiên, những kinh nghiệm này cũng chỉ áp dụng đối với từng
thời tiết. Cho nên có chỗ lại bảo :
« Tháng mười ngó ra,
Tháng ba ngó vào ».
Có nghĩa là tháng mười mây đen tụ từ hướng Bắc thì mưa to, còn
tháng ba mây đen tụ vào hướng Nam thì mưa to. Như thế cũng là một kinh nghiệm
căn cứ theo từng tiết gió mùa.
Ngoài việc xem hiện tượng bằng gió mùa, người nông dân còn kinh
nghiệm qua những luồng chớp để đoán thời tiết.Ví dụ :
« Mưa chẳng qua Ngọ,
Gió chẳng qua mùa ».
Đêm mùa hè xem sao trên trời, họ cũng đoán được hiện tượng mưa
nắng :
« Dày sao thì nắng,
Vắng sao thì mưa ».
Mặt khác, người dân quê thường để ý sự thay đổi của ánh sáng mặt
trăng, việc này theo họ rất có ảnh hưởng đến khí hậu :
« Trăng quầng thì hạn,
Trăng tán thì mưa ».
Cũng với kinh nghiệm xem trăng, người nông dân có thể biết được cả
sự được mùa hay mất mùa vào năm tới :
« Muốn ăn lúa tháng năm,
Trông trăng rằm tháng tám.
Muốn ăn lúa tháng mười,
Trông trăng mồng tám tháng tư ».
Hoặc : « Trăng mờ tốt lúa nỏ,
Trăng tỏ tốt lúa sâu ».
Vì cho việc xem ánh trăng quan trọng đến những ước tính về sự thay
đổi của mưa nắng, nên người nhà quê lúc nào cũng chú ý đến mặt trăng. Sự chú ý
ấy đã đem đến cho họ những câu ca dao nhận xét hình dáng và sự lặn mọc của mặt
trăng hàng đêm :
« Mồng một lưỡi trai,
Mồng hai lá lúa,
Mồng ba câu liêm,
Mồng bốn lưỡi liềm,
Mồng năm liềm giật,
Mồng sáu thật trăng,
… … …
Mười rằm trăng ráu,
Mười sáu trăng treo,
Mười bảy sảy giường chiếu,
Mười tám trăng lụn,
Mười chín đụn địn,
Hai mươi giấc tốt,
Hăm mốt nửa đêm,
Hăm hai bằng tay,
Hăm ba bằng đầu,
Hăm bốn ở đâu,
Hăm lăm ở đấy,
Hăm sáu đã vậy,
Hăm bảy làm sao,
Hăm tám thế nào,
Hăm chín thế ấy,
Ba mươi không trăng ».
Ngoài việc trông trăng, trông sao, người nông dân còn trông mây để
đoán sự thay đổi. Ví dụ :
« Vảy trút thì mưa, nhả bừa thì nắng ».
Mây vảy trút là mây có gợn lăn tăn như mặt sóng mùa thu, còn mây
thả bừa là loại mây kết lại từng cụm lớn.
Rồi đến những sắc mây ở chân trời lúc mặt trời lặn mà họ gọi là
« ráng ». Xem những sắc mây ấy, họ cũng đoán được sự thay đổi của
thời tiết :
« Ráng mỡ gà thì gió,
Ráng mỡ chó thì mưa ».
Hoặc : « Ráng vàng thì nắng,
Ráng trắng thì gió,
Ráng đỏ thì mưa ».
Cũng như cầu vồng (có nơi gọi là cái mống) đối với họ là một hiện
tượng đổi thay thời tiết :
« Mống cao gió táp,
Mống rạp mưa rào ».
Hoặc : « Mống bên Đông,
Cầu vồng bên Tây,
Chẳng mưa dây thì bão giật ».
Hoặc : « Mống dài thì lụt
Mống cụt thì mưa ».
Hay : « Vồng rạp mưa rào,
Vồng cao gió táp ».
Khi một đám mây đen ở chân trời bị luồng gió cuốn thành một cái
vòi từ trên cao xuống mặt đất, người nông dân gọi đó là cái vòi của con rồng
đang hút nước để làm mưa. Tuy là huyền thoại, song phát khởi từ kinh nghiệm về
hiện tượng. Họ bảo :
« Rồng đen lấy nước thì nắng,
Rồng trắng lấy nước thì mưa ».
*
(*) Hiện tượng cây cối
Người nông dân xem một vài thứ cây thay hình đổi dạng cũng có thể
dự đoán được thời tiết :
« Cỏ gà màu trắng, điềm nắng đã hết ».
Hoặc : « Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa ».
Cây tre già đến lúc rụng lá, nếu năm ấy lại nẩy lộc non thì tức
năm ấy bị rét to :
« Lá tre nẩy lộc, rét lớn xộc đến ».
Cây si là loại cây có rễ lớn như loại cây đa, loại rễ phụ mọc từ
trên cành cây tua tủa xuống đất, nếu thấy đầu rễ cây si đổi sắc trắng tức là
trời sắp mưa :
« Rễ si đâm ra trắng xóa,
Mưa to gió lớn hẳn là đến nơi ».
*
(*) Hiện tượng về loài
vật
Người dân quê cho loài vật có một linh cảm về thời tiết, khi thời
tiết thay đổi, loài vật cảm biết trước, cho nên họ căn cứ vào một số hiện tượng
của loài vật để rút kinh nghiệm trong nhận xét của mình :
« Cóc kêu trời mưa,
Cóc cưa trời nắng ».
Hoặc : « Cắc kè kêu chẳng mưa thì nắng ».
Cũng như họ bảo :
- « Diều hâu rít lưỡi, lạnh giá tới nơi ».
- « Kiến cánh vỡ tổ bay ra.
Bão táp mưa sa gần tới ».
- « Ếch kêu uôm uôm,
Ao chuôm đầy nước ».
- « Quạ tắm thì ráo (nắng)
Sáo tăm thì mưa ».
- « Gió bấc hiu hiu,
Sếu kêu thì rét ».
- « Tháng bảy heo may,
Chuồn chuồn bay thì bão ».
Trên đây chỉ lược khảo qua một số kinh nghiệm về hiện tượng của
người dân quê. Trong ca dao Việt-Nam bàng bạc những kinh nghiệm như vậy, chúng
tôi tưởng không thể nào tra cứu cho hết. Mỗi địa phương lại có một sắc thái
kinh nghiệm riêng mà nếu sau này với công trình sưu tầm đầy đủ, chúng tôi tưởng
những kinh nghiệm ấy đúc kết thành một quyển sách không phải nhỏ.
Đem kinh nghiệm tìm những hiện tượng để nhận xét về khí hậu, thời
tiết chưa đủ, người nông dân Việt-Nam tiến đến chỗ nghiên cứu xem giống cây
nào, giống ngũ cốc nào hợp với thời tiết nào để áp dụng trong việc canh nông.
Với công trình này, chúng ta không thể phủ nhận ý thức tiến bộ của người nông
dân tự ngàn xưa được.
3) Kinh nghiệm về trồng trọt
Về vụ chiêm, đến mùa gặt, vào tháng tư, tháng năm, nếu gặp khí
trời nóng bức đến nỗi người gặt lúa phải cởi áo ra, thì đó là thuận với khí
hậu. Lúa sẽ được hột. Còn vụ mùa, trái lại, mùa gặt vào tháng mười, tháng mười
một, nếu trời lạnh phải mặc hai ba áo thì mùa gặt mới thuận, lúa mới chắc hột.
Vì vậy họ bảo :
« Chiêm bóc vỏ, mùa xỏ tay ».
Lúa chiêm cấy vào mùa rét, mãi đến tháng ba trời mới bắt đầu ấm
áp. Nhưng mùa lúa ấy cần phải có sấm chớp thì lúa mới xanh tốt. Cho nên họ đã
để lại kinh nghiệm như :
« Lúa chiêm đứng nấp đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm mở cờ mà lên ».
Tùy theo khí hậu mà trồng trọt. Mùa nắng họ trồng thứ cây ưa
nắng ; mùa mưa họ trồng thứ cây ưa mưa :
« Thiếu tháng hai mất mùa cà,
Thiếu tháng ba mất mùa đỗ ».
Hoặc chất mầu trong đất cũng rất có ảnh hưởng đến các giống cây
khác nhau. Ví dụ họ bảo :
« Trồng khoai đất lạ,
Gieo mạ đất quen ».
Đất lạ ở đây là đất mới khai phá. Giống khoai cần ở chỗ đất xốp,
có nhiều chất mầu thì mới lớn củ. Ngược lại, nếu đem mạ gieo ở chỗ đất xốp
nhiều màu, rễ cây mạ đâm sâu xuống đất, nhổ lên sẽ bị đứt rễ. Bởi vậy, theo
kinh nghiệm của họ, mạ phải gieo trên đất thuộc, ít chất mầu.
Ngoài việc lựa từng giống cây cho hợp với thời tiết, đất đai,
người nông dân còn có những kỹ thuật khác nữa. Ví dụ họ bảo :
« Chuối ở sau, cau ở trước ».
Cây chuối mọc um tùm cho nên người ta hay trồng phía sau nhà, còn
cây cau thân cao chót vót, nên thường trồng ở trước nhà để khỏi che khuất ánh
nắng mặt trời, bởi vì ở nhà quê trước sân rất cần ánh nắng để phơi lúa, phơi
rạ.
Tóm lại, về ý thức nông nghiệp, người nông dân đã để lại rất nhiều
kinh nghiệm trong ca dao Việt-Nam mà trong lãnh vực khảo cứu chúng ta không thể
nào thu nhặt hết. Đó là một tài sản của nền nông nghiệp nước ta.
Ngày nay, thế giới khoa học tiến bộ, những kinh nghiệm của ông bà,
tổ tiên chúng ta vẫn còn cần thiết. Bởi vì khoa học cơ giới chỉ chế ra được máy
móc, không thể chế ra được hạt lúa, hạt gạo mà loài người phải nhờ vào hạt lúa,
hạt gạo mới sống được. Nói cách khác, mọi nhu cầu sinh sống, loài người không
thể tách rời khỏi mặt đất. Máy móc có thể thay thế sức người, nhưng không thể
thay thế được những kinh nghiệm về trồng trọt, mà mỗi địa phương đều có một
kinh nghiệm khác nhau, không dễ gì một sớm một chiều mà tìm thấy được.
4) Tuyển tập ca dao tiêu biểu
1. « Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu ».
2. « Ai ơi cùng vợ cùng chồng,
Chồng cày, vợ cấy trong lòng vui thay ».
3. « Ai ơi sao chẳng đi về,
Ruộng ta ta để, cấy thuê sao đành.
Tổ tiên di sản để dành,
Ta không nhìn nhở, vô tình thế chi ? »
4. « Anh ơi uống rượu thì say,
Bỏ ruộng ai cày, bỏ giống ai gieo ».
5. « Anh ơi cố chí canh nông,
Chín phần ta cũng giữ trong tám phần.
Can gì để ruộng mà ngăn,
Làm ruộng lấy lúa, chăn tằm lấy tơ.
Tằm có lứa, ruộng có mùa,
Chăm làm trời cũng đền bù có khi ».
6. « Ba tháng trồng cây,
Chẳng bằng một ngày trồng qua ».
7. « Bao giờ cho đến tháng năm,
Thổi nồi cơm nếp vừa nằm vừa ăn.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Thổi nồi cơm nếp vừa cười vừa ăn ».
8. « Bao giờ cho đến tháng hai,
Con gái làm cỏ, con trai be bờ.
Gái thì kể phú, ngâm thơ,
Trai thì be bờ, kể chuyện bài bây ».
9. « Bao giờ nắng giữa bàng trôi,
Tua-rua quặt lại thì thôi cấy mùa.
Tua-rua thì mặc tua-rua,
Mạ già, ruộng ngấu, không thua bạn điền ».
10. « Bao giờ đồng ruộng thảnh thơi,
Nằm trâu thổi sáo, vui đời Thuấn, Nghiêu.
Nay mừng có chủ Thuấn, Nghiêu,
Mưa nhân, gió huệ thảy đều muôn dân.
Sông Lô một giải trong ngần,
Thảnh thơi, ta rũ bụi trần cũng nên ».
11. « Cái ngủ mày ngủ cho lâu,
Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về.
Cái ngủ mày ngủ cho say,
Mẹ mày vất vả chân tay tối ngày ».
12. « Cấy đồng đương buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày ».
13. « Cấy lúa, lúa trổ ra năn,
Kẻ trộm gặt mất, con ăn bằng gì ?
Con ăn lộc sắn, lộc si,
Con ăn bằng gì cho đến tháng năm ? »
14. « Chiêm cút, mùa gi,
Sống để dạ, chết đem đi ».
15. « Đất màu trồng đậu, trồng ngô,
Đất lầy cấy lúa, đất khô trồng vườn.
Ngày rồi em lại đi buôn,
Quanh năm no ấm, em buồn nỗi chi ? »
16. « Đất đập nhỏ, luống đánh to,
Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào.
Phân tro chăm bón cho nhiều,
Đậu ngô hai gánh một sào không sai ».
17. « Đói thì ăn khế ăn khoai,
Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng.
Kỳ này lúa mới đòng đòng,
Gió vua Thái-tổ, Thái-tông mưa rào ».
18. « Đồn rằng cấy lũ thì vui,
Ta rũ được người, ta bán lợn đi.
Quan năm, quan tám bán đi,
Dù đắt, dù rẻ quản chi đồng tiền.
Nồi đồng đem gởi láng giềng,
Nồi đất để đó, ai chuyên được nào.
Cổng thì rấp chông, rấp rào,
Đêm khuya thanh vắng ai vào chi đây.
Còn một con khuyển nhà này,
Hễ đem đi gởi nó nay lại về.
Hay là làm thịt quách đi,
Gói mo, bỏ bị đem đi ăn đường ».
19. « Được mùa cau, đau mùa lúa ».
20. « Được mùa, cơm những tám xoan,
Đến khi cơ hàn gié cũng như chiêm ».
21. « Em là con gái xứ Nam,
Chăm nghề đi cấy, sang làm xứ Đông.
Đồn rằng xứ Bắc cao công,
Trốn cha, trốn mẹ, trốn chồng mà đi ».
22. « Gié thừa cấy nỏ, chiêm thừa bỏ đi ».
23. « Hoa bí đỏ ngoài,
Hoa bầu trắng xóa.
Muốn được ăn quả,
Xin chớ ngắt hoa.
Ai về nhắn chị em nhà,
Muốn cho hoa tốt liệu mà bón phân ».
24. « Kể việc làm ruộng mọi đường,
Tôi xin kể được rõ ràng hử ai.
Tháng chạp là tiết trồng khoai,
Tháng giêng tưới đậu, tháng hai cấy cà.
Tháng ba cày bửa ruộng ra,
Tháng tư bắc mạ thuận hòa vui thay.
Tháng năm cắt lúa vừa rồi,
Tháng sáu mưa xuống, nước trôi đầy đồng.
Tháng bảy cày cấy đã xong,
Tháng tám thấy lúa tốt lòng vui thay.
Tháng chín tôi lại kể nay,
Bắc mạ xem được mới hay trong lòng.
Tháng mười lúa chín đầy đồng,
Cắt về đổ cót để phòng năm sau.
Tháng mười một là tiết cấy sâu,
Một năm kể cả từ đầu đến đuôi ».
25. « Khó thay công việc nhà quê,
Cùng năm khó nhọc dám hề khoan thai.
Tháng chạp thời mắc trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư bắc mạ thuận hòa mọi nơi.
Tháng năm gặt hái vừa rồi,
Bước sang tháng sáu nước trôi đầy đồng.
Nhà nhà, vợ vợ, chồng chồng,
Đi làm ngoài đồng sá kể sớm trưa.
Tháng sáu, tháng bảy khi vừa,
Vun trồng giống lúa, bỏ chừa cỏ tranh.
Tháng tám lúa rỗ đã đành,
Tháng mười cắt hái cho nhanh kịp người.
Khó khăn làm mấy tháng trời,
Lại còn mưa nắng bất thời khổ trông.
Cắt rồi nộp thuế nhà nông,
Từ rày mới được yên lòng ấm no ».
26. « Lao xao gà gáy rạng ngày,
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu.
Bước chân xuống cánh đồng sâu,
Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cày.
Ai ơi, ăn bát cơm đầy,
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng ? »
27. « Làm trai phải biết đủ nghề,
Hòng khi có lỡ thì về mót khoai.
Mót được củ chạc, củ chài,
Củ giắt lưng khố, củ nhai vào mồm ».
28. « Lạy trời mưa thuận gió hòa,
Để cho chiêm tốt, mùa tươi em mừng.
Ngô khoai chẳng được thì đừng,
Có nếp có tẻ trông chừng có ăn ».
29. « Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống.
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp… »
30. « Lạy ông, nắng lên cho trẻ nó chơi,
Cho già bắt rận, cho tôi đi cày ».
31. « Lúa trổ thập thò,
Vợ chồng đánh nhau lòi con mắt ».
32. « Lúa mùa thì cấy cho sâu,
Lúa chiêm thì gẫy cành dâu mới vừa ».
33. « Mặt trời tang tảng rạng đông,
Chàng ơi ! trở dậy đi đồng kẻo trưa.
Phận hèn bao quản nắng mưa,
Cày sâu bừa kỹ được mùa có phen ».
34. « Một ngày năm bảy trận dông,
Anh đi nằm bãi sao không thấy về ».
35. « Mùa sướng cao, chiêm ao thấp ».
36. « Nay mừng những kẻ nông phu,
Cầu cho hòa cốc phong lưu bình thời.
Vốn xưa nông ở bực hai,
Thuận hòa mưa gió nông thời lên trên.
Quý hồ nhiều lúa là tiên,
Rõ ràng phú túc bình yên cả nhà.
Bốn mùa xuân lại, thu qua,
Muốn cho tiền lúa đầy nhà hán sương.
Bước sang hạ giá, thu tàng,
Thu thu tiễn hoạch giàu ngang Thạch Sùng.
Quý nhân cùng kẻ anh hùng,
Rắp toan muốn hỏi nhà nông ê đề.
Thực thà chăm chỉ thú quê,
Chuyên cần học nghiệp là nghề đoan trang.
Gặp thời là được thọ khang,
Tam đa ngũ phúc rõ ràng trời cho ».
37. « Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa ».
38. « Nơi sâu em để cấy chiêm,
Nơi nào cao ráo thì em cấy mùa.
Chớ tham những ruộng hai mùa,
Chiêm se gié ngập ăn thua nỗi gì ! »
39. « Nuôi tằm cần phải có dâu,
Muốn cho dâu tốt phải mau vun trồng.
Vườn thì cuốc rãnh thong dong,
Cách nhau hai thước đặt thông cho dầy.
Giống dâu ưa nước xưa nay,
Nhưng khi ngập hết thì cây cũng già ».
40. « Ngó lên đám bắp trổ cờ,
Đám dưa trổ nụ, đám cà trổ bông ».
41. « Người ta rượu sớm trà trưa,
Em nay đi nắng về mưa đã nhiều.
Lạy trời mưa thuận gió đều,
Cho đồng lúa tốt, cho chiều lòng em ».
42. « Người ta đi cấy lấy công,
Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông nước, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời trong, bể lặn mới yên tấm lòng.
Chăm be cày cấy cho xong,
Rồi lên sửa việc cung công thể nào.
Thi rằng : « Trú nhĩ vu mao »,
Lại câu : « Tiêu nhĩ sách đào » tương liên.
Kíp sửa nhà cửa được yên,
Mới ra vãi lúa ăn về mùa sau ».
43. « Nhà anh có ruộng năm sào,
Một bờ ở giữa làm sao cho liền.
- Muốn liền thì phá bờ đi,
Mạ non cấy xuống làm chi chẳng liền ».
44. « Nhất nước, nhì phân, ba cần, bốn giống ».
45. « Nhờ trời mưa thuận gió hòa,
Nào cày, nào cấy, trẻ già khuyên nhau.
Chim, gà, cá, lợn, cành cau,
Mùa nào thức ấy giữ màu nhà quê.
Sớm đi thì tối lại về,
Quần hồng áo tía phủ phê trăm chiều.
Ai ơi ! của thế còn nhiều ».
46. « Nhờ trời hạ kế sang đông,
Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi ».
47. « Nhờ trời mưa thuận gió hòa,
Lúa vàng đầy ruộng, lời ca vang đồng ».
48. « Ra đi anh có dặn dò,
Ruộng sâu cấy trước, ruộng gò cấy sau.
Lúa mùa thì cấy cho sâu,
Lúa chiêm thì gẫy cành dâu mới vừa.
Răng bừa tám cái còn thưa,
Lưỡi cày tám tấc mới vừa luống to.
Muốn cho lúa nẩy bông to,
Cày sâu bừa kỹ, phân tro cho nhiều ».
49. « Rủ nhau đi cấy, đi cày,
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ dắt con trâu đi bừa ».
50. « Rủ nhau lên núi hái chè,
Hái năm ba ngọn xuống khe ta ngồi.
Ta ngồi, ta bắt con ốc lặn,
Bắt con ốc lội, ta đem lên bờ,
Ta đập đánh chát, ta hút đến chụt.
Ta lên trên ngàn hái nắm rau mơ,
Ta lên trên bờ hái mớ rau răm ».
51. « Rủ nhau đi cấy đi cày,
Bây giờ khó nhọc mai ngày ấm no ».
52. « Ruộng nương là của đồng lần,
Trời đất xoay vần, kẻ trước người sau.
Chưa ai ba họ cùng giàu,
Chưa ai nghèo khổ đến đâu ba đời.
Sống trên đời cùng nhau cày cấy,
Chết buông tay dẫu mấy cũng thành không.
Hỡi ai độc dạ tham lòng,
Chi bằng để một tiếng trong với đời ».
53. « Ruộng vườn trồng đủ thứ hoa,
Hoa đào, hoa lý, hoa trà, hoa mai.
Nhất thơm hoa huệ, hoa mai,
Hoa lan, hoa cúc, ai mà chẳng ưa.
Cảnh vườn vui vẻ thơm tho,
Mình làm mình hưởng trời cho riêng mình ».
54. « Ruộng ai để cỏ mọc đầy,
Bỏ hoang chả cấy, chả cày uổng chưa ?
Người sao lắm ruộng để thừa,
Mà ai quanh quẩn suốt mùa làm thuê ! »
55. « Ta về ta rủ bạn ta,
Nuôi lợn, nuôi gà, cày cấy ta ăn ».
56. « Ta về ta rủ bạn ta,
Ruộng ta ta cấy, vườn ta ta trồng.
Có làm thì hẳn có trông,
Can chi chầu chực mà mong của người ».
57. « Tốt quá hóa lốp ».
58. « Trăng chưa cho lúa vàng vàng,
Cho anh đi cắt, cho nàng quảy cơm ».
59. « Trăng mờ vì bởi mây che,
Em đây vất vả vì nghề canh nông.
Trăng mờ có lúc lại trong,
Em đây vất vả, đỉnh chung có ngày ».
60. « Trâu anh con cỡi con dòng,
Lại thêm con nghé cực lòng thằng chăn ».
61. « Trẻ trồng na,
Già trồng chuối ».
62. « Trẻ thì dưỡng cây
Già thì cây dưỡng ».
63. « Trên ruộng trồng đỗ,
Dưới lỗ cấy chiêm.
Hai bên cù liềm vơ lại ».
64. « Trong vườn trồng cây,
Ngoài vườn trồng lúa,
Dưới ao thả cá,
Mùa nào thức ấy, vui thậm là vui ».
65. « Trồng trầu đắp nấm cho cao,
Che cho sương nắng khỏi vào gốc cây.
Nửa năm bén rễ bén dây,
Khô dầu, bã đậu, bón tay cho liền.
Một mai trầu tốt bốc lên,
Một sào trầu tốt bằng tiền mẫu ngô ».
66. « Trời mưa, trời gió đùng đùng,
Cha con ông Sùng đi gánh phân trâu.
Đem về trồng bí, trồng bầu,
Trồng hoa, trồng quả, trồng cau, trồng dừa ».
67. « Tháng năm cho chí tháng mười,
Năm, mười hai tháng, em ngồi em suy,
Vụ chiêm em cấy lúa gì,
Vụ mùa lúa gié, sớm thì ba trăng.
Thú quê rau cá đã từng,
Gạo thơm, cơm trắng chi bằng tám soan.
Việc nhà em liệu, em toan,
Khuyên chàng học tập cho ngoan kẻo mà… »
68. « Tháng giêng lúa mới chia vè,
Tháng tư lúa đã đỏ hoe đầy đồng.
Chị em ơi ! sắp gánh, sắp gồng,
Đòn càn, tay hái, ta cùng ra đi.
Khó nghèo cấy mướn, gặt thuê,
Lấy công đổi của chớ hề lụy ai ».
69. « Tháng giêng chân bước đi cày,
Tháng hai vãi lúa ngày ngày siêng năng.
Thuận mưa lúa tốt đằng đằng,
Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà ».
70. « Tháng ba mua nứa đan thuyền,
Tháng năm, tháng sáu, gặt điền ruộng chiêm ».
71. « Tháng ba, tháng tám đi đâu,
Bỏ đê không đắp rồi sau kêu trời.
Chém cha lũ kiến vô loài,
Dám đem đê đó làm mồi kiếm ăn
Một mai nước vỡ đến chân,
Chẳng qua chỉ lũ nông dân thiệt thòi ».
72. « Thiếu tháng hai mất cà,
Thiếu tháng ba mất đỗ,
Thiếu tháng tư mất hoa cốc (lúa),
Thiếu tháng tám mất hoa ngũ ».
73. « Việc cấy lúa phải cần bón tốt,
Các chất mầu tốt nhất là phân ».
74. « Vụ mùa cấy cao, vụ chiêm cấy trũng ».
b)
Về chăn nuôi
Tất cả các nước nông nghiệp đều lưu tâm ít nhiều đến việc
chăn nuôi. Nhưng khác với những nước sống với nghề du mục, chăn nuôi ở đây
không phải là nghề chính, không có trang trại, mà chỉ là nghề phụ trong cơ sở
tự túc gia đình.
Ở nhà quê, thú vật nuôi trong nhà gọi là gia súc như : trâu,
bò, gà,vịt, heo, chó, v.v… Xét về mục đích thì việc nuôi gia súc ban đầu chỉ là việc làm do
nhu cầu nông nghiệp. Nhà nông cần nuôi trâu bò để kéo cày, kéo bừa, nuôi heo để
lấy phân bón ruộng, nuôi chó để giữ nhà, nuôi gà để nghe tiếng gáy lúc rạng
đông. Những con vật ấy đều có liên quan đến công việc đồng áng, cho nên ý thức
người nông dân xem gia súc hàm chứa một tình thương trong tinh thần đồng lao
cộng khổ đối với việc mưu sinh hàng ngày của họ.
Ý thức ấy bộc lộ qua trạng thái yêu thương loài vật mà chúng ta đã
thấy tình cảm họ chan chứa trong ca dao. Ví dụ họ bảo :
« Chó giữ nhà, gà gáy sáng ».
Thì chính họ đã muốn đem công khó của loài vật góp phần vào những
lao khổ của nhà nông.
Chứng minh rõ ràng hơn, chúng tôi xin nhắc lại mấy câu ca dao quen
thuộc sau đây :
- « Trâu ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta ».
- « Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công… »
Đặt giá trị lao động lên trên, người nông dân không còn phân biệt
người và vật nữa. Mặt khác, ý thức chăn nuôi của người nông dân đối với gia súc
còn chứa đựng một tình cảm gia đình, một sợi dây liên hệ trong quan niệm sống
chung giữa người và vật. Ví dụ những câu ca dao sau đây :
« Mẹ gà con vịt chít chiu,
Mấy đời dì ghẻ nâng niu con chồng ».
Khi nhìn thấy cảnh gà ấp vịt, cuộc sống lạnh nhạt như vậy đã gieo
vào cảm giới con người, khiến họ tự thương thân mình mà thương lây đến hoàn
cảnh con vật.
Cũng có lúc niềm giao cảm từ cảnh sống con vật đưa vào tâm hồn họ
những buồn vui trong uẩn khúc. Ví như :
« Chiều chiều quạ nói với diều,
Vườn cau kia rậm lại nhiều gà con.
Gà con bươi rác bươi rơm,
Con anh chèo chẹo đòi cơm tối ngày ».
Tâm hồn người bình dân gắn liền với cảnh vật. Đối với ngoại cảnh
thiên nhiên họ còn giao cảm, huống hồ những gia súc là những con vật hàng ngày
gần gũi họ, tự tay họ chăm sóc, nuôi nấng làm sao họ không có tình thương.
Ý thức chăn nuôi phát khởi từ căn bản ấy cho nên chúng ta có thể
nói rằng trong những nước nông nghiệp, nghề chăn nuôi chỉ là một việc làm liên
hệ với công tác đồng áng mà thôi.
Tuy nhiên, xã hội loài người ngày càng tiến bộ, phương tiện giao
thông càng nhanh chóng, không gian như bị thu hẹp, nhu cầu tiêu thụ được trao
đổi dễ dàng từ vùng này qua vùng nọ, nghề chăn nuôi ở các nước nông nghiệp cũng
do nhu cầu phát triển ấy đem đến cho họ một nguồn lợi gia đình, do đó ý thức
chăn nuôi của họ dần dần cải tiến, và xem đó là một nghề phụ, có thể dùng sinh
sống được.
Khi đã cho là quan hệ trong nguồn sống hàng ngày, người nông dân
bắt đầu chú trọng đến. Họ bảo nhau :
« Ta về, ta rủ bạn ta,
Nuôi lợn, nuôi gà, cày cấy ta ăn ».
Hoặc : « Chẳng nên cơm cháo thì thôi,
Ta về đất bãi trồng dâu nuôi tằm ».
Rồi đến lúc không một gia đình nào không lấy việc chăn nuôi làm
nghề sinh sống phụ thuộc. Người đàn bà nào không chú trọng đến việc chăn nuôi
đều bị xã hội chê là lêu lổng, biếng nhác. Họ bảo :
« Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhát,
Đàn ông không biết chẻ lạt là đàn ông hư ».
Việc nuôi heo đối với người đàn bà rất quan trọng. Nuôi heo chẳng
những để bán thịt mà còn kiếm được phân bón để làm mùa. Đó là nguồn lợi duy
nhất của gia đình nhà nông, cho nên từ xưa đến nay dao quen thuộc sau
đây :
- « Trâu ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta ».
- « Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công… »
Đặt giá trị lao động lên trên, người nông dân không còn phân biệt
người và vật nữa. Mặt khác, ý thức chăn nuôi của người nông dân đối với gia súc
còn chứa đựng một tình cảm gia đình, một sợi dây liên hệ trong quan niệm sống
chung giữa người và vật. Ví dụ những câu ca dao sau đây :
« Mẹ gà con vịt chít chiu,
Mấy đời dì ghẻ nâng niu con chồng ».
Khi nhìn thấy cảnh gà ấp vịt, cuộc sống lạnh nhạt như vậy đã gieo
vào cảm giới con người, khiến họ tự thương thân mình mà thương lây đến hoàn
cảnh con vật.
Cũng có lúc niềm giao cảm từ cảnh sống con vật đưa vào tâm hồn họ
những buồn vui trong uẩn khúc. Ví như :
« Chiều chiều quạ nói với diều,
Vườn cau kia rậm lại nhiều gà con.
Gà con bươi rác bươi rơm,
Con anh chèo chẹo đòi cơm tối ngày ».
Tâm hồn người bình dân gắn liền với cảnh vật. Đối với ngoại cảnh
thiên nhiên họ còn giao cảm, huống hồ những gia súc là những con vật hàng ngày
gần gũi họ, tự tay họ chăm sóc, nuôi nấng làm sao họ không có tình thương.
Ý thức chăn nuôi phát khởi từ căn bản ấy cho nên chúng ta có thể
nói rằng trong những nước nông nghiệp, nghề chăn nuôi chỉ là một việc làm liên
hệ với công tác đồng áng mà thôi.
Tuy nhiên, xã hội loài người ngày càng tiến bộ, phương tiện giao
thông càng nhanh chóng, không gian như bị thu hẹp, nhu cầu tiêu thụ được trao
đổi dễ dàng từ vùng này qua vùng nọ, nghề chăn nuôi ở các nước nông nghiệp cũng
do nhu cầu phát triển ấy đem đến cho họ một nguồn lợi gia đình, do đó ý thức
chăn nuôi của họ dần dần cải tiến, và xem đó là một nghề phụ, có thể dùng sinh
sống được.
Khi đã cho là quan hệ trong nguồn sống hàng ngày, người nông dân
bắt đầu chú trọng đến. Họ bảo nhau :
« Ta về, ta rủ bạn ta,
Nuôi lợn, nuôi gà, cày cấy ta ăn ».
Hoặc : « Chẳng nên cơm cháo thì thôi,
Ta về đất bãi trồng dâu nuôi tằm ».
Rồi đến lúc không một gia đình nào không lấy việc chăn nuôi làm
nghề sinh sống phụ thuộc. Người đàn bà nào không chú trọng đến việc chăn nuôi
đều bị xã hội chê là lêu lổng, biếng nhác. Họ bảo :
« Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhát,
Đàn ông không biết chẻ lạt là đàn ông hư ».
Việc nuôi heo đối với người đàn bà rất quan trọng. Nuôi heo chẳng
những để bán thịt mà còn kiếm được phân bón để làm mùa. Đó là nguồn lợi duy
nhất của gia đình nhà nông, cho nên từ xưa đến nay ít có gia đình nông dân nào
từ chối việc nuôi heo.Với công tác này, người miền quê đã để lại trong ca dao
nhiều câu hát như :
« Trách ai dụm miệng nói dèm,
Cho heo kia trỏ máng chê hèm không ăn ».
Hoặc : « Cám treo để heo nhịn đói ».
Tuy những câu hát trên đây dùng với ý nghĩa bóng bẩy để oán trách
nhân tình, song xuất phát từ hình ảnh thực tế hàng ngày trong lẽ sống của họ.
Nghề nuôi heo cũng như nghề nuôi gà vịt đều đem đến cho gia đình
nông dân một nguồn lợi, đáng lẽ từ xưa đã được tiến triển mạnh mẽ, nhưng ngược
lại, chúng ta thấy không mấy khả quan. Mỗi gia đình chỉ nuôi ba bốn mái gà và
vài con heo mà thôi, tuy việc chăn nuôi vẫn liên tục. Điều này cũng không lấy
gì làm lạ, bởi vì phần nhiều gia súc ở miền quê không chịu nổi với thời tiết,
khí hậu, hay mắc bệnh dịch chết cả bầy, người nông dân không có thuốc men để
chữa trị nên họ không dám nuôi nhiều. Mặt khác giống heo và gà vịt rất khó giữ
mãi trong chuồng, chúng luôn tìm cách thoát ra ngoài để phá phách hoa màu, vườn
tược. Mỗi khi chúng sẩy chuồng rất phiền phức đối với hàng xóm. Đây, chúng ta
nghe phàn nàn :
« Có nói cũng ngặt, không nói cũng
ngặt !
Nuôi heo thì đặt có chuồng,
Ba bốn bữa rày chị thả luôn luôn,
Vườn trên xóm dưới nó chạy tuôn qua rào.
Hại thay ! Gốc bí nó cũng đào,
Vồng khoai cũng ủi, hàng rào cũng banh ».
Những câu hát trên đây đã phản ảnh rõ ràng nỗi bất tiện trong việc
chăn nuôi ở đồng quê, mà cũng là yếu tố chính làm cho nghề chăn nuôi ở thôn quê
không phát triển được.
Cũng vì thiếu phương tiện, người dân quê đặt tinh thần vị tha hơn
vị kỷ, nên đã tự mình hạn chế quyền lợi cá nhân trong gia đình.
Riêng về trâu bò là những gia súc có ích lợi trực tiếp đến công
việc đồng áng, người nông dân rất quý trọng và chăn nuôi rất cẩn thận. Đối với
họ, giá trị một con trâu ngang với giá trị một miếng đất.
Nếu miếng đất là một yếu tố sản xuất, thì con trâu vẫn là một yếu
tố sản xuất. Không có trâu bò để cày bừa thì đất đai cũng vô dụng. Cho nên việc
nuôi trâu bò trong những nước nông nghiệp thuở xưa là điều bắt buộc.
Trâu bò chẳng những dùng trong việc cày bừa, mà còn dùng để lấy
phân bón ruộng. Phân trâu bò là một loại phân thông dụng nhất trong việc trồng
trọt, không có một thứ cây nào được bón phân trâu bò mà không tốt.
Con trâu tuy chậm chạp, nhưng khỏe hơn con bò. Dù vậy, có những
nơi vì đồng ruộng thiếu nước, mà trâu là con vật ưa nước, chịu nóng không bằng
bò, nên họ không thể nuôi trâu được. Kinh nghiệm chăn nuôi người dân quê đã rút
tỉa được tùy từng địa phương, tùy từng khí hậu.
Trâu bò được xem là vật quý giá trong công trình sản xuất nông
nghiệp, cho nên người dân quê đã nói :
« Con trâu là đầu cơ nghiệp ».
Hoặc họ bảo nhau :
« Tậu trâu, lấy vợ, cất nhà,
Trong ba việc ấy thật là khó thay ! »
Họ xem việc chăn nuôi trâu bò quan trọng ngang với việc lựa vợ,
cất nhà. Nếu một người vợ hư có thể làm tan sự nghiệp gia đình, một ngôi nhà
cất sai hướng có thể tai hại trong đời sống họ, thì chính con trâu, nếu nuôi
phải trâu xấu cũng làm cho sự nghiệp họ điêu đứng.
Trước nhất, nói về việc sinh lợi, thì người dân quê thích nuôi
trâu cái, vì trâu cái sinh đẻ. Họ bảo :
« Ruộng sâu, trâu nái ».
Nếu ruộng sâu là mảnh đất tốt nhất để người nông dân sử dụng hai
mùa mà không sợ thiếu nước, đem lại cho họ nhiều lúa hơn, thì trâu cái chẳng
những đã dùng được trong việc cày cấy mà còn mang đến cho họ lợi tức về sinh
sôi nảy nở nữa. Cho nên, trong ca dao có câu :
« Muốn giàu nuôi trâu cái,
Muốn lụn bại nuôi bồ câu ».
Tuy nhiên, dù đực hay cái, đứng về mặt kỹ thuật chăn nuôi, vẫn
phải lựa cho được trâu tốt. Ở nhà quê, bậc già cả thường là những người có đủ
khả năng kinh nghiệm trong việc lựa chọn trâu bò. Họ thích nhất là trâu tơ hay
bò tơ :
« Trâu năm sáu tuổi còn nhanh,
Bò năm sáu tuổi đã tranh cõi già ».
Con trâu trong thời kỳ từ bốn đến tám tuổi là thời kỳ sung sức
nhất nên làm lụng rất dẻo dai. Đến lúc nó già rồi thì chỉ còn có việc ăn thịt.
Ta phải kể vì quyền lợi sinh sống mà người quê phải đau lòng hành động trái
ngược lương tâm khi đối xử với con vật đã đem lại áo cơm cho họ. Nhưng biết làm
gì hơn khi mạng sống con vật thân yêu của họ đến lúc phải chịu định luật đào
thải khắt khe. Bằng chứng là họ đã biểu lộ tình thương loài vật bàng bạc trong
ca dao trên đây. Chúng ta còn phải nói đến nhiều gia đình đã khóc hay buồn rầu
khi chứng kiến con vật mến yêu đã đồng lao cộng khổ với họ trong những năm dài,
giờ đây phải vĩnh viễn từ giã họ.
Trở lại câu chuyện, việc chọn lựa trâu bò không phải chỉ nhằm tuổi
tác già non, mà còn phải chọn đến tài năng và tính nết nó nữa. Theo kinh nghiệm
của nông dân, tài năng và tính nết mỗi con vật đều bộc lộ ra ngoài hình dáng.
Ví dụ trâu chậm chạp thì đầu khô, mắt nặng. Mắt nhỏ nhìn không
được xa, mắt sâu hay đau, mắt đỏ là trâu dữ. Sừng trâu phải đều và cân như cánh
ná thì mới tốt. Đây, chúng ta nghe họ nói :
« Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi,
Mồm gàu dai, tai lá mít, đít lồng bàn ».
Diễn tả trên đây là hình dáng của một con trâu tốt. Nếu ngược lại,
như :
« Xa sừng mắt lại nhỏ con,
Vụng đần, chậm chạp, ai còn nuôi chi ».
Họ thích những con trâu ăn nhiều, vì ăn nhiều mới có sức khỏe, mập
mạp và dễ nuôi :
« Mồm gàu dai nhai hai gánh cỏ ».
Nếu bàn chân trâu to quá, móng hở đuôi dài quá cũng là cái đáng
chê :
« Chân to, bàn nặng kéo cày làm sao ? »
Hoặc : « Lại thêm tiền thấp, hậu cao,
Đuôi chùng quá gối đi nào được đâu ! »
Nếu con trâu đầu nhẹ, mặt gân guốc, chân khô cứng thì lại là trâu
tốt :
« Đầu thanh, cao tiền, thấp hậu thì tậu liền
tay ».
Hoặc : « Khô chân, gân mặt, đắt tiền cũng mua ».
Họ lại còn để ý đến những vết tích trên thân thể con vật, vì họ
cho rằng những dấu tích ấy luôn luôn có liên quan đến sức khỏe con trâu. Ví dụ
trâu nào mõm đen, gọi là « hàm nghiến » thì thuộc vào loại trâu
dữ :
« Trâu hàm nghiến mất tiền bồi thường ».
Đã hàm nghiến mà lại thêm đốm vàng, họ gọi là « nghiến
chẩm » thì lại còn nguy hiểm hơn nữa. Loại trâu này hay húc vặt, khó
nuôi.Trâu nào lưỡi đỏ, chấm tím gọi là lưỡi đốm hoa cà thì không tốt, không lợi
cho chủ :
« Hàm nghiến, lưỡi đốm hoa cà,
Vểnh sừng tóc chóp, cửa nhà không yên ».
Nếu đốm trắng xuất hiện nơi đầu trâu thì trâu mạnh và trung thành,
còn đốm trắng xuất hiện đằng đuôi thì trâu đã yếu mà còn hại chủ. Họ bảo :
« Đốm đầu thì nuôi,
Đốm đuôi ăn thịt ».
Cái xoáy của con trâu cũng được nhà nông rất chú trọng trong lúc
chọn lựa. Nếu xoáy đóng ở giữa trán, ngay với đôi mắt, gọi là xoáy tam tinh,
thì trâu dữ. Trường hợp này, nếu đuôi trâu lại thêm đốm trắng nữa thì trâu ấy chẳng
ai mua. Họ bảo :
« Tam tinh khóa sọ thì chừa,
Đốm đuôi sát chủ thì đưa vào nồi ! »
Những kinh nghiệm về việc chọn lựa trâu bò ở thôn quê rất nhiều,
chúng ta không thể nào nói hết. Ở đây chúng ta chỉ đưa ra một số tiêu biểu để
chứng minh tầm quan trọng trong việc nuôi trâu bò của người nông dân mà thôi.
Ví dụ họ bảo :
« Trâu hoa tai, bò gai sừng,
Trâu tóc chóp, bò mũi mấn,
Trâu nghiến hàm, bò bạch thiệt.
Lang đuôi thì bán, lang trán thì cày ».
Tuy các bậc già cả miền quê đã đúc kết thành những kinh nghiệm để
lại trong ca dao, nhưng thỉnh thoảng họ vẫn bị lầm lạc vì các tay lái buôn xảo
trá. Bởi vậy, họ khuyên nhau :
« Lái trâu, lái lợn, lái bè,
Trong ba anh ấy chớ nghe anh nào ».
Ngoài việc chọn lựa trâu bò, ở miền quê người ta cũng còn chú ý
đến việc chọn lựa giống heo gà… tốt nữa. Ví dụ về gà vịt đã có những câu ca dao
như :
« Vịt răn, gà cúp, chớ nuôi ».
Vịt răn là vịt đẹt, nhỏ hơn những con cùng lứa. Gà cúp là gà nhỏ
trong lứa, mà đuôi lại quặp. Giống này nuôi không lớn. Hoặc :
« Nuôi gà phải chọn giống gà,
Gà ri bé giống nhưng mà đẻ mau.
Nhất to là giống gà nâu,
Lông to thịt béo về sau đẻ nhiều ».
Hay : « Gà nâu chân thấp mình to,
Đẻ nhiều, trứng lớn, con vừa khéo nuôi.
Chả nên nuôi giống pha nòi,
Đẻ không được mấy, con nuôi vụng về ».
Về các giống chó cũng được lựa chọn cẩn thận, như :
« Chó khôn tứ túc huyền đề,
Tai thì hơi cúp, đuôi thì hơi cong.
Giống nào mõm nhọn, đít vồng,
Ăn càn, cắn bậy, ấy không ra gì ».
Trên đây chúng ta vừa khảo sát qua việc chăn nuôi gia súc. Ngoài
việc nuôi trâu bò, các giống khác không quan trọng bằng. Tuy nhiên, nếu kể về
lãnh vực tằm tơ, thì nghề chăn nuôi ở thôn quê Việt-Nam lại được đặt vào hàng
thứ yếu.
Nghề nuôi tằm trước đây được người dân quê đặt gần ngang hàng với
nghề làm ruộng. Nếu nghề làm ruộng đem đến cho họ lúa thóc để khỏi đói, thì
nghề nuôi tằm lại đem đến cho họ những tơ lụa để mặc cho khỏi rét.
Ăn, mặc là hai thứ cần thiết của cuộc sống con người. Hễ có cơm
phải có áo. Danh từ cơm áo bao giờ cũng đi đôi với nhau, thì nghề nuôi tằm đi
chung với nghề làm ruộng tưởng cũng chẳng lạ lùng gì. Một quốc gia nông nghiệp
tượng trưng cho một nền kinh tế tự túc, nghĩa là dân nước ấy phải tự mình sản
xuất đủ mọi nhu cầu mà không cần nhờ vào một nước khác. Người dân Việt-Nam muốn
ấm no phải vừa làm ruộng, vừa nuôi tằm.
Những khổ cực và lo lắng trong nghề nuôi tằm đã được tiền nhân đề
cập đến. Ví dụ :
« Làm ruộng ăn cơm nằm,
Nuôi tằm ăn cơm đứng ».
Cái khổ của hai nghề nghiệp gần tương đương nhau. Nếu người làm
ruộng phải hối hả chưa kịp lăn xuống giường đã phải bưng chén cơm ăn cho kịp
lúc ra đồng, thì người nuôi tằm cũng phải ăn uống vất vả đến nỗi không kịp ngồi
xuống ghế.
Bất kể mưa nắng – mà mưa nắng làm sao cản trở được công việc của
người dân quê – nếu người làm ruộng đã phải :
« Trời mưa thì mặc trời mưa,
Chồng tôi đi bừa đã có áo tơi ».
Thì người nuôi tằm cũng phải :
« Trời mưa lác đác ruộng dâu.
Cái nón đội đầu, cái thúng cầm tay,
Bước chân xuống hái dâu này,
Nuôi tằm cho lớn mong ngày ươm tơ.
Thương em chút phận ngây thơ,
Lầm than đã trải, nắng mưa đã từng ».
Những khổ cực của họ chỉ để đổi lấy niềm hy vọng. Nếu người làm
nông chịu dầm sương dãi nắng để mong ước :
« Bao giờ cho đến tháng mười,
Lúa tốt bời bời, nhà đủ người no ».
Thì người nuôi tằm cũng chỉ chịu khổ cực để hy vọng :
« Một nong tằm là năm nong kén,
Một nong kén là chín nén tơ ».
Với hy vọng ấy họ đã từng thất vọng, vì làm ruộng có lúc mất mùa,
nuôi tằm có lúc thất bại, song cơm áo là hai việc trọng đại trong lẽ sống,
người nông dân chẳng bao giờ dám xao lãng. Nếu gặp rủi ro, họ tự an ủi để nuôi
chí nhẫn nại :
« Làm ruộng có năm,
Để tằm có lứa ».
Tuy nhiên, nghề chăn tằm khác với nghề làm ruộng. Làm ruộng dẫu
mất mùa cũng còn gặt hái chút ít, còn nuôi tằm nếu bị hư hỏng thì mất cả vốn
liếng. Bởi vậy, trong nghề nuôi tằm đã có nhiều người phải than :
« Tằm sao tằm chẳng ăn dâu,
Tằm đòi ăn ruộng, ăn trâu, ăn nhà ? »
Nuôi tằm chỉ có lúc tằm chín là quan trọng. Thời gian ấy chỉ có
năm ngày, những con tằm ăn rất nhiều dâu. Nhiều người phải đem cả gia sản cầm
thế để mua đủ dâu cho tằm ăn. Họ bảo :
« Ăn như tằm ăn lên ».
Nhưng nếu qua thời kỳ « ăn lên » mà rủi ro vì khí hậu,
tằm mắc bệnh, không làm kén, thì bao nhiêu của cải đổ vào lứa tằm đó coi như
mất hết.
Bởi vậy, nuôi tằm phải là những kẻ chuyên nghiệp, có đủ kinh
nghiệm, biết theo dõi tính chất và sự thay đổi hàng ngày của mỗi lứa tằm.
Sự khó khăn ấy đã làm cho nghề nuôi tằm xưa nay không phát triển
mấy. Đến lúc người ta tìm được giống bông vải để kéo sợi thì nghề nuôi tằm ở
thôn quê lại càng giảm thiểu dần dần, mặc dù cho đến nay ai cũng công nhận tơ
tằm là quý.
Tóm lại, nghề chăn nuôi thời xưa ở Việt-Nam chỉ là nghề phụ trong
ngành kinh tế tự túc gia đình. Người ta chỉ chú trọng đến bò trâu là những con
vật cần phải có để cày ruộng làm mùa, còn các ngành chăn nuôi khác vì phương
tiện thiếu thốn, và những khó khăn đã làm cho người dân quê không thể phát
triển được.
*
(*) Tuyển tập
ca dao tiêu biểu
1. « Ai ơi có chí canh nông,
Chín phần ta cũng giữ trong tám phần
Can gì để ruộng mà ngăn,
Làm ruộng lấy lúa, chăn tằm lấy tơ.
Tằm có lứa, ruộng có mùa,
Chăm làm, trời cũng đền bù có khi ».
2. « Chẳng nên cơm cháo gì đâu,
Thôi về cuốc bãi trồng dâu nuôi tằm.
Trồng dâu cho biết trồng dâu,
Thứ dâu ăn quả, thứ dâu chăn tằm.
Một nong tằm là năm nong kén,
Một nong kén là chín nén tơ.
Anh thương em năm đợi tháng chờ ».
3. « Chân to, bàn nặng kéo cày làm sao ?
Lại thêm tiền thấp, hậu cao,
Đuôi chùng quá gối đi nào được đâu ! »
4. « Đầu thanh cao tiền, thấp hậu chẳng tậu thì sao ? »
5. « Hàm nghiến, lưỡi đốm hoa cà,
Vểnh sừng tóc chóp, cửa nhà không yên ».
6. « Mua trâu xem vó,
Lấy vợ xem nòi ».
7. « Lợn bột thì thịt ăn ngon,
Lợn nái thì đẻ lợn con cũng lời ».
8. « Lợn đói một đêm không bằng tằm đói một bữa ».
9. « Muốn giàu nuôi trâu cái,
Muốn lụn bại nuôi chim bồ câu ».
10. « Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi,
Mồm gàu dai, tai lá mít, đít lồng bàn ».
11. « Trâu năm sáu tuổi còn nhanh
Bò năm sáu tuổi đã tranh cõi già.
Đồng chiêm xin chớ nuôi bò,
Mùa đông tháng giá bò rò làm sao ? »
12. « Trâu quá sá (quá tuổi), mạ quá thì ».
13. « Trâu trắng đi đâu, mất mùa đến đấy ».
14. « Trâu he (gầy) cũng bằng bò khỏe ».
c)
Về canh cửi, vá may
Canh cửi vá may là công việc của người đàn bà ở những nước nông
nghiệp mà nền kinh tế tự túc được phát huy.
Thời xưa, ngay ở các nước Trung-Hoa, Nhật-Bản, Ấn-Độ… nghề canh
cửi, vá may chỉ là thủ công nghiệp gia đình. Trong lúc kỹ nghệ cơ giới chưa
hình thành, phương tiện giao thông còn đóng khung người dân địa phương trong
phạm vi chật hẹp, việc vá may, canh cửi tùy thuộc vào tổ chức địa phương, đó là
chuyện dĩ nhiên.
Ở Việt-Nam, ngày nay, nơi các sắc dân miền Thượng, chúng ta thấy
họ còn di lưu nghề canh cửi. Họ đã tự chế biến khung cửi, dệt thành những tấm
vải màu sắc sặc sỡ trông cũng đẹp đẽ và bền bỉ.
Lấy bằng chứng ấy mà luận thì dân tộc Việt-Nam qua bốn ngàn năm
văn hiến, nền kinh tế nông nghiệp được phồn thịnh trong cơ sở tự túc tự cấp,
tất nhiên nghề canh cửi, vá may cũng không phải không tiến bộ. Tuy nhiên, trong
ca dao Việt-Nam chúng ta lại thấy nói rất ít về việc này. Phải chăng nghề vá
may, canh cửi là nghề của đàn bà, khi người đàn bà trong gia đình không được
coi trọng thì nghề nghiệp riêng tây của họ cũng bị xem thường.
Thật ra, vá may, canh cửi là công việc làm có tính cách mỹ thuật.
Người ta phải dùng đến bàn tay khéo léo, tinh xảo của người đàn bà để thực hiện
ngành thẩm mỹ này. Nhưng, đã thừa nhận là công việc làm có tính cách mỹ thuật,
tất nhiên việc ấy phải chứa đựng những tình cảm sâu xa, mà lẽ sống con người
không thể không gắn liền vào đây.
Một bài thơ, thi nhân dùng nghệ thuật diễn tả tâm hồn mình làm cho
nguồn giao cảm của kẻ khác vì đó mà lưu luyến. Một bức tranh, người họa sĩ đã
đem tâm tư mình đúc kết thành đường nét và màu sắc để người đời chiêm ngưỡng.
Nhưng, những sáng tác thẩm mỹ ấy chỉ là việc làm biểu dương nghệ thuật, và nghệ
thuật đó chỉ mới đáp ứng một phần trong giá trị tình cảm, không có giá trị sử
dụng. Ngược lại, một vuông lụa, một tấm áo do bàn tay thẩm mỹ của một cô gái
tạo nên, chẳng những hàm chứa giá trị tình cảm mà còn cả giá trị sử dụng nữa.
Thế thì việc canh cửi, vá may phải coi là một ngành mỹ thuật ưu tú trong cảm
giới con người, nhưng tại sao người xưa lại không để ý đến ? Phải chăng họ
không biết thưởng thức về thẩm mỹ ?
Không ! Nếu bảo rằng người bình dân không biết thưởng thức
thẩm mỹ thì không đúng. Thẩm mỹ là ý thức yêu chuộng cái đẹp, đem tình cảm mình
hòa hợp với sắc thái của sự vật, vậy thẩm mỹ không cần có một trình độ kiến
thức nào cả. Chính người xưa đã trao trọn việc vá may canh cửi vào tay người
đàn bà thì rõ ràng họ đã có ý thức thẩm mỹ rồi :
« Gái thì giữ việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa ».
Tại sao người đàn ông không là thợ dệt, thợ thêu, thợ may… như
ngày nay ? Chỉ vì thời ấy phải làm bằng thủ công, muốn làm cho khéo phải
nhờ vào bàn tay mềm mại mới thực hiện được tính chất mỹ thuật ấy. Người thôn nữ
thời xưa cũng đã cảm thấy như vậy. Họ bảo :
« Uốn tay cho mềm dệt cửi cho ngoan,
Lấy tiền đem đóng việc quan cho chồng ».
Tay người đàn bà đã là mềm mại rồi, thế mà họ còn phải cố gắng uốn
cho mềm thêm nữa, thì thử hỏi người đàn ông với đôi tay to lớn, cứng cát thì
làm sao nhúng tay vào việc canh cửi, vá may khi nghề nghiệp ấy chưa được cơ
giới hóa. Vua Lê-thánh-Tôn đã mượn nghề dệt vải để gợi ý niệm chính trị của
mình khi nhà vua viết :
« Tay ngọc lần đưa thoi nhật nguyệt,
Gót vàng giậm đạp máy âm dương ».
thì đủ biết tầm mức quan trọng của nghệ thuật ấy là dường nào.
Điều chứng minh rõ ràng hơn nữa, ở Trung-Quốc, người đàn bà thời
xưa đã dùng việc canh cửi để gởi gắm tình cảm của mình, xem việc làm ấy như một
công trình sáng tác nghệ thuật. Bởi vậy, khi một cô phụ nhớ chồng đã dùng chiếc
thoi dệt thành những vần thơ trên khung lụa, mà ngày nay các thi nhân khi nói
đến công trình sáng tác thơ đều chịu ảnh hưởng sự tích ấy.
Người con gái dệt thơ trên khung lụa để tả nỗi nhớ nhung của mình
là nàng Tô-Huệ với bài « Chức cẩm hồi văn ».
Đây, chúng tôi xin giới thiệu tài nghệ của người thiếu phụ
ấy :
*
Tô-Huệ là cô gái đời Tần, người Thái-Bình, tự là Nhược-Lan. Tuy là
một nữ sĩ danh tiếng, tài văn chương uyên bác, nhưng chỉ vì nghèo phải làm theo
vợ lẽ chàng Đậu-Thao.
Đậu-Thao là nhà hào phú, ngoài vợ cả, còn có nhiều nàng hầu, nên
chàng không mặn nồng chăn gối với nàng Tô-Huệ. Nghĩ buồn cho số phận, nàng
Tô-Huệ làm một bài thơ gởi cho chồng lời lẽ uyển chuyển, văn tài cực kỳ xúc
động, bi ai, khiến chàng Đậu-Thao trở lại yêu thương nàng như thuở ban đầu.
Vợ chồng đang chăn gối ấm êm, vui bài cầm sắt thì chiếu vua ban
xuống mộ quân ra trấn thủ biên cương, chàng Đậu-Thao phải buồn bã ra đi. Tô-Huệ
tiễn chân chồng mà lòng bồi hồi thương cảm. Những lúc nhớ nhung, nàng thường
đứng nhìn về phía trường thành lệ tràn ướt đẫm đôi mi.
Ước vọng được gần chồng, nàng chỉ còn cái duy nhất là trông nhờ ở
hồng phúc Đức-Kim-Thượng thương tình ly biệt của lứa đôi mà xuống chiếu cho
chàng hồi hương đoàn tụ.
Với niềm hy vọng mãnh liệt ấy, nàng Tô-Huệ liền đem tình cảm nhớ
nhung phổ trên mặt lụa, dệt thành những vần thơ cực kỳ xúc động. Đó là
bài « Chức cẩm hồi văn ».
Dệt xong tấm lụa, nàng Tô-Huệ đem dâng lên vua. Nhà vua thương
tình, chẳng những khen văn hay mà còn mến tài thêu dệt của nàng nữa, nên xuống
chiếu cho chàng Đậu-Thao được mãn quân, trở về sum họp gia đình.
Bài « Chức cẩm hồi văn » của nàng Tô-Huệ được lưu truyền lại như sau :
« Quân thừa hoàng chiếu an biên thú,
Tống quân tống biệt hà kiều lộ ;
Hàm bi yểm lệ tặng quân ngôn,
Mạc vong ân tình tiện trường khứ.
Hà kỳ nhất khứ âm tín đoạn,
Ý thiếp bình vi xuân bất noãn ;
Quỳnh dao giai hạ bích đài không,
San hô trướng lý hồng trần mãn.
Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn,
Tương tâm hà thác cánh phùng quân.
Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt,
Nhất tâm nguyện tác lãnh đầu vân.
Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện,
Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên.
Phi lai phi khứ đáo quân bàng,
Thiên lý vạn lý dao tương kiến.
Thiều thiều lộ viễn quan sơn cách,
Hận quân tái ngoại trường vi khách.
Khứ thời tống biệt lư diệp huỳnh,
Thùy tín kỷ kinh mai huê bạch.
Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,
Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo ;
Thùy dương mãn địa vị quân phan,
Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo.
Đình tiền xuân tảo chính phân phương,
Bão tắc Tần tranh hướng họa đường.
Vị quân đàn đắc Giang-nam khúc,
Phó ký tình thâm đáo sóc phương.
Sóc phương thiền đệ sơn hà việt,
Vạn lý âm thư trường đoạn tuyệt,
Ngân trang chẩm thương lệ tri
Kim lũ la thường hoa giai liệt.
Tam xuân hồng nhạn độ giang thanh,
Thử thị ly nhân đoạn trường tình ;
Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn
Oán kết tiên thành khúc vị thành.
Quân kim ức thiếp trọng như san,
Thiếp diệc tư quân bất tạm nhàn ;
Chức tương nhất bản hiến Thiên-tử,
Nguyện phóng nhi phu cấp tảo hoàn ».
Dịch :
« Chàng vâng chiếu chỉ trấn biên thùy,
Dạo bước bên cầu thiếp tiễn đi.
Nuốt lệ, tận lời xin tưởng nhớ,
Chút tình bé mọn đáng yêu vì.
Ngờ đâu mãi chẳng thấy tin về,
Xuân ấm, quanh mình vẫn lạnh tê.
Đành bỏ ven thềm rêu đóng lớp,
Bụi lan vào trướng chán ê chề.
Kinh hồn nhắc đến chuyện xa chàng,
Tâm sự nhờ đâu gởi mới an
Một lẽ đưa theo cùng chị Nguyệt,
Hay là nhắn với bạn mây ngàn.
May ra mới có gặp chàng chăng,
Tủi vắng đêm thanh bóng chị Hằng,
Tin thiếp mây đưa đâu chẳng đến,
Xa chàng, thấy mặt họa là trăng.
Quan ải buồn trong cách biệt tăm,
Giận chàng làm mãi khách xa xăm,
Lá lau mới nẩy ngày đưa bạn,
Hoa trắng đầu mai đã mấy năm.
Trăm hoa đua nở đón xuân về,
Xuân đến lòng ta thấy ủ ê.
Dương liễu rũ màn ai kẻ đỡ,
Hoa rơi biếng quét khắp tư bề.
Cỏ xuân thơm ngát ngập sau vườn,
Ôm chiếc đàn tranh đến họa đường,
Gảy khúc Giang-nam cho đỡ nhớ,
Gởi sang phương bắc chút tình thương.
Nước non phương sóc cách xa vời,
Muôn dặm chàng nay thất tín rồi,
Tựa gối châu rơi tràn thấm áo,
Nhìn hoa bên gác cũng tơi bời.
Sang sông tiếng nhạn lại kêu sương,
Khéo gợi cho ta nỗi đoạn trường.
Chưa dứt dây tơ lòng đã rối,
Chưa thành khúc nhạc hận thiên vương.
Thương anh tình nặng nghĩa quan san,
Nỗi nhớ lòng em chẳng phút an,
Cố dệt bức hồi văn hiến chúa,
Tha cho chồng thiếp sớm lai hoàn ».
Ngoài bài « Chức cấm hồi văn », trong lúc nhớ chồng, nàng Tô-Huệ còn dệt nhiều bài thơ sầu cảm
khác, như bài :
« Tô-Huệ nhớ chồng »
Đình thảo thành sào liễu hựu ty,
Chinh phu hà nhật thị qui kỳ.
Bán liêm tàn nguyệt thường tàn khách,
Ức chẩm đề khuyên lạc lệ thùy.
Ải bắc vân trường cô nhạn ảnh,
Giang-nam xuân tận lão nga my.
Sạ lai kỳ ngộ tương tư mộng,
Tần đáo quân biên tri bất tri.
Dịch :
Cỏ loáng vào sân, liễu chấm vai,
Chàng đi, ngày lại mãi trông hoài.
Tựa mình trăng ngã đau lòng kẻ,
Gối lệ khuyên ai khóc hận ai.
Bóng nhạn bắc hờn đôi nhạn lẻ,
Mày nga nam tủi nét xuân phai.
Nhớ nhau tìm gặp nhau trong mộng,
Vơ vẩn bên chàng, chàng có hay.
Hoặc những bài nhớ nhung trong bốn mùa mà nàng Tô-Huệ đã dệt thành
thơ để lại trên mặt lụa :
« Xuân »
Ba chi lộng ảnh trạo song sa,
Ảnh trạo song sa ưỡng nhật tà,
Tà nhật ưỡng song sa trạo ảnh,
Sa song trạo ảnh lộng chi hoa.
(Hoa đùa bóng rọi cửa song sa,
Rọi cửa song sa nắng xế qua,
Qua xế nắng sa song cửa rọi,
Sa song rọi cửa bóng đùa hoa).
« Hạ »
Liên trường thanh thủy điểm thanh tiền,
Thủy điểm thanh tiền sổ điểm nhiên.
Nhiên điểm sổ tiền thanh điểm thủy,
Tiền thanh điểm thủy, thủy tiền nhiên.
(Ôi, sen nước nhỉ lá xanh ngời,
Nhỉ lá xanh ngời giọt nước rơi.
Rơi giọt nước ngời xanh lá nhỉ,
Ngời xanh lá nhỉ nước sen rơi).
« Thu »
Du vân bạch nhạn hóa nam lầu,
Nhạn hóa nam lầu nhất sắc thu.
Thu sắc nhất lầu nam hóa nhạn,
Lầu nam hóa nhạn bạch vân du.
(Mây lầu phủ bóng nhạn về đây,
Bóng nhạn về đây đượm sắc thu.
Thu sắc đượm màu bên bóng nhạn,
Về đây bóng nhạn phủ lầu mây).
« Đông »
Mai hoa kỷ điểm tiết hoa khai,
Kỷ điểm hoa khai xuân tiến lai.
Lai tiến xuân khai hoa kỷ điểm,
Khai hoa tiết điểm kỷ hoa mai.
(Cành mai tiết nở thấy vui mừng,
Nhìn thấy vui mừng sắp đến xuân,
Xuân đến thấy mừng mai sắp nở,
Mừng mai sắp nở tiết mai cùng).
Trong lúc xem hoa, thưởng trăng mơ thấy chồng về, nàng Tô-Huệ lại
trở dậy dệt thơ trên lụa :
« Thưởng hoa qui khứ mã như phi,
Khứ mã như phi tửu lực di.
Tửu lực di tùy thời dĩ mộ,
Tùy thời dĩ mộ thưởng hoa qui ».
(Ngắm hoa chơi, thấy ngựa qui hồi,
Thấy ngựa qui hồi rượu hả hơi.
Hơi rượu hả rồi, say đã biết,
Hơi say đã biết, ngắm hoa chơi).
*
Trong bài khảo luận này, chúng ta hãy gạt ra ngoài ý thức văn
chương, mà chỉ chứng minh tình cảm con người có thể diễn đạt qua kỹ thuật canh
cửi, và kỹ thuật canh cửi từ xưa đã đứng vào lãnh vực thẩm mỹ.Trong ca dao bình
dân cũng đã có những câu như :
« Thêu rồng, dệt phượng ».
Hoặc : « Dệt gấm, thêu hoa ».
Chứng tỏ rằng nghề canh cửi thời xưa đạt đến một căn bản mỹ thuật
không nhỏ. Chúng ta cũng được nghe nhiều người hát :
« Ba cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ bùa sư ông.
Sư về sư ốm tương tư… »
Chiếc yếm của thôn nữ làm cho nhà sư phải mang bệnh tương tư không
phải do màu sắc của nó, mà chính là do kỹ thuật cắt may, và giá trị của hàng
lụa. Bởi vậy, chúng ta không thể nào phủ nhận được tính chất thẩm mỹ trong nghề
canh cửi vá may, hoặc bảo rằng người xưa không có óc thẩm mỹ.Ý thức thẩm mỹ của
họ đã có lúc được biểu lộ qua câu ca dao, như :
« Áo em, lụa bạch bên Tàu,
Người cắt cũng khéo, người khâu cũng tài ».
Tuy nhiên, nghệ thuật canh cửi, vá may của người bình dân không
được phô diễn trong ca dao như trong văn chương bác học, chỉ vì quan niệm về
nhân sinh mỗi lớp mỗi khác. Nếu ý thức của cô gái phòng khuê đem nghệ thuật
canh cửi phô diễn những tình cảm riêng rẽ trong tâm tư mình để đòi hỏi những
thỏa mãn của dục vọng, hoặc để cởi mở những ưu tư cá nhân, vị kỷ, như :
« Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi ngại dệt, bướm đôi ngại thùa ».
(Chinh phụ ngâm)
Thì người bình dân không đem nghệ thuật ấy phụng sự cho cá nhân.
Họ không nói lên cái đẹp ở hai bàn tay mềm mại, óng chuốt của một cô gái, mà họ
nói lên cái đẹp của cõi lòng cô gái ấy. Ví dụ :
« Áo anh rách lỗ bằng sàng,
Mẹ anh già yếu cậy nàng vá may ».
Cái khéo của đôi bàn tay chỉ phụng sự cho cảm giác tầm thường của
dục tính. Cái lòng lo lắng trong tình thương (qua địa hạt canh cửi) mới là một
nghệ thuật của tâm hồn. Nghệ thuật ấy đã làm lu mờ nghệ thuật của tay
chân.Chúng ta đừng tưởng người bình dân vì vụng về nên không để ý đến nghệ
thuật chân tay. Họ vẫn thường nói :
« Áo rách khéo vá hơn lành vụng may ».
Họ vẫn biết nghệ thuật không nằm ở chỗ áo mới hay áo cũ, mà ở chỗ
làm sao cho áo vá vẫn thấy đẹp. Như thế chúng ta không thể bảo họ không có óc
thẩm mỹ. Sở dĩ họ không đem óc thẩm mỹ ấy tạo ra những công trình sáng tác như
Tô-Huệ là vì họ không phải là những kẻ ăn không ngồi rồi, chỉ có buồn, vương,
thương, nhớ… mà không cần dấn thân vào cuộc sống thực tại. Cuộc sống thực tại
bắt họ phải :
« Canh một dọn cửa dọn nhà,
Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.
Canh tư bước sang canh năm,
Trình anh dậy học chớ nằm làm chi ».
Việc canh cửi của họ dính liền với mọi công việc khác nữa, mà
chính họ phải đầu tắt mặt tối, không có thì giờ rảnh rang. Ví dụ :
« Xin chàng kinh sử học hành,
Để em cày cấy, cửi canh kịp người ».
Họ vừa làm việc canh cửi vá may, vừa phải cày cấy, vì lẽ đó mà ý
thức nghệ thuật của họ gần gũi với giá trị sử dụng hơn là giá trị thẩm mỹ.
Cho nên, chúng ta không lấy làm lạ khi nói đến nghề canh cửi, vá
may là một nghề chứa đựng nghệ thuật thẩm mỹ mà người bình dân thì thiết tha đến
giá trị sử dụng nhiều hơn.
Bởi vậy, khi người cô phụ trong khuê các đem nhớ thương dệt thành
thơ trên khung lụa, thì người bình dân lại đem nhớ thương phủ lên cuộc sống
hàng ngày :
« Chiều chiều ra bể ba lần,
Thấy anh ở trần trong dạ xót xa
Trở về mua lụa đậu ba,
Cắt áo cổ giữa lại tra nút huyền ».
Hoặc : « Thương trò may áo cho trò,
Thiếu bâu, thiếu vạt, thiếu hò, trò ơi ! »
Nghệ thuật vá may canh cửi của họ không đi tìm cái thẩm mỹ khoe
khoang, mà đi tìm cái rét mướt, cơ hàn để ấp ủ lên đó một tình thương làm thức
dinh dưỡng cho sức sống tâm hồn.
Nàng Tô-Huệ khi nhớ chồng thì ngồi ở nhà dệt tâm tư mình trên
nhung gấm, trái lại, người bình dân, khi nhớ chồng thì :
« Tay cầm cái kéo, cây kim,
Vai mang dải lụa đi tìm người thương ».
Đây chỉ là hai dòng tâm tư chia cách giữa nghệ thuật vị nghệ thuật
và nghệ thuật vị nhân sinh.
Tóm lại, từ xưa đến nay không ai chối cãi nghề canh cửi, vá may là
nghề có liên quan đến nghệ thuật thẩm mỹ, nhưng người bình dân thời xưa vì phải
lao mình trước cuộc sống cam go, khổ sở, nên ý thức thẩm mỹ của họ đã nhường
chỗ cho ý thức nhân sinh ngự trị trên nghề nghiệp của mình.
(*) Tuyển tập ca dao tiêu biểu
1. « Áo rách vai vợ ai không biết,
Áo vá quàng chí quyết vợ anh ».
2. « Áo rách có cách anh thương,
Nón cời có nghĩa, anh thương nón cời ».
3. « Chẳng lo chi áo rách tay,
Trời kia ngó lại vá may mấy hồi ».
4. « Ai kêu veo véo bên sông,
Tôi đang vá áo cho chồng tôi đây ».
5. « Nào nghề bánh trái những là,
Đến khi kỵ chạp trong nhà càng hay.
Bán buôn canh cửi kia thay,
Sanh nhai phải giữ trong tay một nghề ».
6. « Sáng trăng trải chiếu hai hàng,
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.
Quay tơ phải giữ mối tơ,
Dù năm bảy mối cũng chờ mối anh ».
7. « Tay cầm cái chỉ, cây kim,
Tay cầm tấm lụa đi tìm thợ may ».
d)
Về buôn bán
Từ xưa, buôn bán vẫn được xem như một nghề sinh nhai. Tất cả việc
làm đem lại lợi tức đều có thể dùng làm kế sinh sống.
Tuy nhiên, việc buôn bán ngày xưa khác với ngày nay. Nếu ngày nay
trên thương trường chúng ta thấy nghề buôn bán đã trở thành một hệ thống quốc
tế, đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ khắp hoàn cầu, thì ngày xưa việc buôn bán chỉ
là việc di dịch hàng hóa của nhu cầu địa phương để trao đổi những nhu yếu phẩm
trong khả năng sản xuất nông nghiệp.
Nét khác biệt ấy cho chúng ta thấy sự tiến triển của thương mãi là
một tiến trình lịch sử sinh hoạt xã hội.
Xã hội loài người tự ngàn xưa vẫn nằm trong hai hệ thống hoạt
động : sản xuất và tiêu thụ. Khi hệ thống sản xuất còn trong phạm vi thô
sơ của từng địa phương thì hệ thống tiêu thụ cũng chỉ hạn hẹp trong phạm vi địa
phương ấy.
Hệ thống sản xuất và tiêu thụ, chúng ta có thể ví như con sông.
Nước sông nhảy lên tất phải vượt không gian, tìm lối thoát. Nước sông càng to,
dòng nước càng mạnh, và chảy càng xa.
Hệ thống sản xuất và tiêu thụ lại cần phải được thăng bằng, nếu
chênh lệch thì sẽ bị ứ đọng và phát sinh mâu thuẫn lẫn nhau.
Ngày nay khoa học cơ giới tiến triển mạnh mẽ, đem đến cho hệ thống
sản xuất phương tiện dồi dào. Sự phát minh khoa học cơ giới ban đầu chỉ để cung
ứng kịp nhu cầu tiêu thụ của hiện trạng sinh sôi nảy nở của con người, nhưng
dần dần khoa học cơ giới đã vượt qua nhu cầu của nó và lôi loài người vào những
cuộc tranh chấp trên thị trường tiêu thụ.
Dĩ nhiên, trong phạm vi kinh tế còn nhiều yếu tố phức tạp, nhưng
tính chất sản xuất và tiêu thụ vẫn là hai yếu tố chính chi phối sinh hoạt xã
hội loài người. Ở đây không phải chỗ để chúng ta bàn đến.
Trở về với nghề buôn bán thời xưa, người dân quê sống dưới một xã
hội nông nghiệp, phương tiện sản xuất tự túc nằm trong thủ công nghiệp, sản
phẩm thu hoạch được có dư bao nhiêu. Mỗi người đem sức lao động ra làm việc chỉ
đủ nuôi sống lấy mình. Do sự thiếu thốn trong kế hoạch sản xuất ấy mà dân quê
phải vất vả, đa số phải làm nhiều nghề để trám lỗ hổng của thời gian rảnh rỗi
vì nghề nông. Bởi vậy họ mới nghĩ đến nghề làm thợ, đi buôn, hoặc chăn nuôi, và
hầu hết những nghề ấy đều là nghề phụ trong những nước kinh tế nông nghiệp.
Tuy nhiên, nghề làm thợ, chăn nuôi vẫn nằm trong địa hạt sản xuất,
còn đối với nghề buôn bán thì lại nằm trong địa hạt tiêu thụ.
Khi ngành sản xuất đã đóng khung trong phạm vi tự túc thì ngành
tiêu thụ tất nhiên phải lệ thuộc vào đấy. Cho nên, chúng ta không lấy làm lạ,
khi thấy nghề buôn bán của dân quê thời xưa chỉ là phương tiện sơ đẳng mang
tính chất trao đổi nhu yếu phẩm giữa những địa phương. Thị trường của họ là nơi
họp chợ và việc bán buôn của họ chỉ là việc làm theo lối mua gánh bán bưng.
Tiền lời của họ kiếm được chỉ là tiền công khó trong việc xê dịch hàng hóa.
Tính chất buôn bán như vậy đã làm cho người dân quê vụng về trong
lối tính toán. Sự vụng về ấy đã chứng minh qua các câu ca dao sau đây :
« Một quan tiền tốt mang đi,
Nàng mua những gì mà tính chẳng ra.
Thoạt tiên mua ba tiền gà,
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.
Trở lại mua sáu đồng cau,
Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng.
Có gì mà tính chẳng thông,
Tiền rưỡi gạo tẻ, sáu đồng chè tươi.
Ba mươi đồng rượu chàng ơi,
Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng.
Hai chén nước mắm rõ ràng,
Hai bảy mười bốn kẻo chàng hồ nghi.
Hai mươi mốt đồng bạc nấu chè,
Mười đồng nãi chuối chẵn thì một quan ».
Chỉ có một quan tiền đem đi mua thức ăn mà tính toán không ra, thì
với những vốn liếng to lớn làm sao tính nổi. Tuy nhiên, người bình dân thời xưa
không dùng vốn nhiều trong việc đi buôn. Với lối buôn bán phức tạp ấy cần gì
phải nhiều vốn, hoặc nếu có vốn nhiều cũng không thể dùng được trong lối buôn
bán phức tạp này. Người tiêu thụ không cần nhiều nhưng rất cần nhiều thứ. Khách
hàng của nhà buôn là những cô gái mỗi sáng bưng rổ đi chợ ; khi họ mua
xong, trở về, chúng ta thấy trong rổ họ đủ thứ, nhưng mỗi thứ một ít. Sự vụng
về trong lối tính toán của người dân quê ảnh hưởng phần nào do sự khó khăn,
phức tạp trong lối mua bán này.
Đây, chúng ta nghe một câu hát, người dân quê diễn tả thực trạng
của buổi chợ phiên :
« Đi chợ ! Bớ chị em đi chợ !
Không chợ nào đông đảo bằng chợ Gò-Chàm.
Tôm tươi, cá trụy, thịt bò, thịt heo.
Lại thêm những rổ bánh xèo,
Bánh khô, bánh nổ, bánh bèo liên u.
Những con cá chép, cá thu,
Cá ngừ, cá gỏi, cá chù thiệt ngon.
Ngó ra ngoài chợ họ bán bánh hòn,
Nem tươi, chả lụa, tửu, trà, no say.
Ngó ra ngoài chợ họ bán tranh cày,
Roi mây, gáo, giá, giẹp, rày nghinh ngang.
Ngó ra ngoài chợ họ bán giần sàng,
Khoai lang, bắp, đỗ, đục, chàng, kéo, dao.
Xem qua chẳng sót hàng nào,
Quảng-Nam, Quảng-nghĩa cũng ào ào kéo vô.
Những còn những món hàng khô,
Xem đi xét lại nhiều đồ lắm thay.
Những còn hàng dép, hàng giày,
Nón ngựa, nón cúp bán rày liên thiên.
Những còn các món nhiều tiền :
Cà rá, hộp đá,
Gương, cài, dầu chanh, dầu thơm,
Bốp, dao, thùng quẹt máy,
Chỉ xanh, chỉ đỏ
Bún nhỏ, bún to,
Đường phèn, đường cát.
Bát mỏng tai bèo,
Da lươn, da ếch.
Kể hết đồ đồng,
Đồ tam đồ ngũ,
Kể đủ hàng hoa
Cà dê, cà dĩa, cà chình,
Ớt ngà, ớt bị, bớt sừng, ớt bay,
Rau răm, rau húng, bầu thúng, cà tây,
Mua bán bạc cây, mấy người hàng xén,
Mấy chú rón rén, ăn cắp thiệt lanh,
Mấy chú sanh manh là anh trùm chợ,
Mấy chú buôn mọi bán rợ,
Mấy chú An-khê
Ở trên đem về,
Xấp trầu, nài rễ.
Dễ mua, dễ bán,
Bánh trán, kẹo cà,
Xu xoa, đậu hũ,
Mè thuẫn, bánh canh,
Dạo hết xung quanh
Hành ngò cúc cải,
Dây dừa, dầu rái,
Kẹo đỗ, kẹo dừa,
Giỏ đố giỏ thưa,
Mấy chị đi trưa,
Họ quơ trớt lớt ».
Nếu trong văn chương bác học, nhà thơ Đoàn-Văn-Cừ đã đem tình cảm
mình vẽ ra màu sắc của phiên chợ Tết, với những ý tứ dí dỏm của kẻ bàng quan
nhìn vào sinh hoạt của người dân quê, thì bài thơ trên đây trong văn chương
bình dân, chính là hình bóng đích thực của cảm giác họ trước tính chất hỗn độn,
phức tạp trong công việc bán buôn thường ngày.
Người dân quê thời xưa, khi mua bán là đem cái công ra để kiếm
đồng lời chứ không phải đem đồng vốn để kiếm đồng lời. Với tính chất ấy, họ đã
nói lên tâm trạng của họ :
« Vốn tôi chỉ có ba đồng,
Nửa để nuôi chồng, nửa để nuôi tôi.
Còn thừa mua cái bình vôi,
Mua xanh, mua chảo, mua nồi nấu ăn.
Còn thừa mua nhiễu quấn khăn.
Mua năm vuông vóc may chăn cho chồng.
Còn thừa mua chiếc thuyền rồng,
Đem ra cửa bể cho chồng thả chơi.
Còn thừa mua khám thờ trời,
Mua tranh sơn thủy treo chơi đầu thuyền ».
Tuy là câu hát diễu cợt, song cũng ảnh hưởng phần nào tính chất
buôn bán. Cũng như nghề làm nông, người nông phu phải bỏ hết sức lao động của
mình đổi lấy bát cơm, thì nghề buôn bán, người đàn bà con gái cũng phải tảo
tần, đem công khó của mình trong việc thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng
ngoài chợ để kiếm đồng lời. Đồng lời ấy do công phu của họ chứ không phải do
đồng vốn.
Dù vậy, đã đi buôn tất nhiên phải có vốn, dù là chút ít. Mặt khác,
khi đã gọi là buôn bán là một nghề tất nhiên tính chất sinh hoạt cũng có những
nét đặc biệt. Nếu người làm nông lấy việc cày cấy làm vui với con trâu, thửa
ruộng, hy vọng mùa màng đem đến họ những lợi tức đủ ấm no, thì người đi buôn
lấy việc xê dịch đó đây làm thú vị, lấy việc may mắn trong nghề nghiệp làm
nguồn an ủi cho tinh thần. Bởi vậy, họ đã nói :
« Đạo nào bằng đạo đi buôn,
Xuống biển lên nguồn, gạo chợ nước sông ».
Những cảm giác bất thường, những sự gặp gỡ không hẹn, những vui
buồn thoáng qua trong phút chốc đã tạo cho tâm hồn của kẻ sống trong nghề xê
dịch có một cái gì phấn khởi. Tâm hồn ấy chính là trạng thái phát triển không
gian, trạng thái mở rộng bầu vũ trụ nông thôn, xóa bỏ ranh giới đã đóng khung
trong nền móng nông nghiệp và tạo thành một dòng lịch sử biến thiên trong xã
hội loài người. Đây, chúng ta nghe họ diễn đạt tâm tư ấy :
« Dù em buôn chỉ bán tơ,
Buôn ngọn sông Bờ, bán ngọn sông Thao.
Nước sông Thao biết bao giờ cạn,
Núi Ba-vì biết vạn nào cây.
Nào nhà anh Tú đâu đây ».
Tâm hồn mơ mộng những cái gì xa xôi, lạ lùng, hoặc chán ngán những
khung trời cố định chính là trạng thái diễn biến của tâm tư. Khi tầm sinh hoạt
của loài người bắt đầu vươn lên, thì ý thức con người cũng đổi mới, những đường
ranh cố định trong tư tưởng giới con người cũng phải đổi theo.
Cho nên, tự ngàn xưa, những cảm giác phiêu lưu, bồng bềnh cũng bắt
đầu nẩy nở trong cuộc xê dịch của những kẻ buôn bán. Ví dụ họ bảo :
« Ra đường tôi thấy tơ người,
Về nhà tôi thấy chỉ tôi, tôi buồn.
Buồn thì cất gánh đi buôn,
Một vốn bốn lãi, em buồn làm chi ».
Hoặc : « Em rằng em muốn đi buôn,
Anh về kiếm chốn nha môn ngồi tuần
Dù em buôn bán xa gần.
Làm sao tránh khỏi cửa tuần anh đây ».
Hay : « Em là con gái Kẻ Mơ,
Em đi bán rượu tình cờ gặp anh.
Rượu ngon chẳng quản be sành,
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may.
Rượu lạt uống lắm cũng say,
Áo rách có mụn, vá may cũng lành ».
Bất mãn với hiện tại, đi tìm những mới lạ chính là ý thức xê dịch
(đổi đời). Ý thức ấy đã len lỏi trước nhất vào tâm hồn họ chính là môi trường
thuận tiện cho ý thức ấy du nhập. Họ bảo nhau :
« Đi buôn không vốn anh giùm,
Ở nhà chỉ có chú Trùm, chú ve ».
Họ bằng lòng đón nhận những nguy cơ bất ngờ nếu có :
« Thuyền ngược ta bỏ sào ngược,
Nếu chống không được ta bỏ sào xuôi.
Thuyền ngược anh bỏ sào xuôi,
Khúc sông bỏ vắng cho người sầu riêng.
Thuyền ngược ta khấn gió nam,
Thuyền xuôi ta khấn mưa nguồn gió may.
Trận này ta quyết buôn khoai.
Củ cong tôi bán, củ dài tôi ăn ».
Tâm tư của người đi buôn phần nhiều phó mặc cho định mệnh. Họ xem
thân phận họ đã gắn liền với nghề nghiệp mà họ cho là may rủi. Bởi vậy tâm hồn
họ có ít nhiều liều lĩnh đối với cuộc sống. Và cũng vì thế, người đi buôn xa
dần tính chất thuần lương của người quê, cốt làm sao cho thỏa mãn hoàn cảnh
hiện tại, và được việc cấp thời. Tính chất ấy đã làm cho người nông dân mất tin
tưởng. Họ bảo :
« Lái trâu, lái lợn, lái bè,
Ba anh lái ấy chớ nghe anh nào ».
Và họ cũng xem nghề buôn bán là nghề làm cho con người trở thành
gian xảo. Họ bảo :
« Tin nhau buôn bán cùng nhau,
Thiệt hơn, hơn thiệt, trước sau như lời.
Hay gì lừa đảo kiếm lời,
Một nhà ăn uống, tội trời riêng mang.
Theo chi những thói gian tham,
Pha phôi thực giả tìm đàng dối nhau,
Của phi nghĩa có giàu đâu,
Ở cho ngay thật giàu sau mới bền ».
Nếu bảo rằng người buôn bán thì tham lam mà gian xảo thì cũng chỉ
đúng phần nào về tính chất nghề nghiệp mà không đúng về tính chất căn bản.
Tính chất của nghề nghiệp là tính chất của nghệ thuật, phải làm
thế nào cho đắt khách, phải làm thế nào cho khách hàng chú ý đến việc mua bán
của mình, còn tính chất căn bản là tính chất phiêu lưu, liều lĩnh, do tâm hồn
họ nảy sinh. Nó là trạng thái biến động của sinh hoạt xã hội.
Tuy nhiên, nói như thế chỉ để chúng ta khẳng định sự biến chuyển
giữa tâm tư con người trên căn bản sinh hoạt xã hội. Sự buôn bán của người xưa,
theo chúng ta đã nhận định ở trên thì chỉ là một công việc lao động, lấy sức xê
dịch đổi lấy đồng lời, sự cạnh tranh thương trường chưa có bao nhiêu thì tính
chất gian tham, xảo trá cũng chẳng phát hiện là bao.
Vì đem sức lao động làm sức thương mãi, cho nên họ đã cảm thấy
nhiều nhọc nhằn, và phải lo lắng :
« Anh về hái đậu chảy cà,
Để em đi chợ kẻo mà lỡ phiên.
Chợ lỡ phiên, tốn công thiệt của,
Miệng tiếng người cười rõ sao nên.
Lấy chồng phải gánh giang sơn,
Chợ phiên còn lỡ, giang sơn còn gì ».
Hoặc : « Nhà anh chỉ có một gian,
Nửa thì làm bếp, nửa toan làm buồng.
Anh cậy em săn sóc trăm đường,
Để anh buôn bán chảy chương thông hành.
Còn chút mẹ già nuôi lấy cho anh,
Để anh buôn bán thông hành đường xa.
Liệu mà thờ kính mẹ già,
Đừng tiếng nặng nhẹ, người ta chê cười.
Dù no, dù đói cho tươi,
Khoan ăn, bớt ngủ, liệu bài lo toan.
Cho anh đành dạ bán buôn ».
Dù đem sức lao động đổi lấy đồng lời, dù vốn liếng không có bao
nhiêu, nhưng trong nghề buôn bán vẫn có nhiều may rủi, mà người xưa phải nói
lên :
« Bôn ba chẳng qua thời vận ».
Hoặc : « Chẳng qua cái số muộn màng,
Buôn trầu gặp nắng, buôn đàng gặp mưa ».
Hay : « Chưa buôn vốn hãy còn dài,
Buôn rồi vốn đã theo ai đường nào ».
Tóm lại, nghề buôn bán thời xưa chỉ là việc làm có tính cách trao
đổi hàng hóa từng địa phương trong thôn xóm. Người buôn bán phải bỏ sức lao
động để đổi lấy đồng lời. Tuy nhiên, đó cũng là căn bản của tính chất biến dịch
trong trạng thái xã hội loài người. Ý thức con người luôn luôn vươn lên theo
nhịp sống, phá vỡ những khuôn khổ cũ kỹ, để đưa trạng thái tâm hồn con người
đến một lãnh vực mới : mở rộng tầm không gian.
*
(*) Tuyển tập ca dao tiêu biểu
1. « Bà ba đi bán lợn con,
Bán thì chẳng đắt, lon xon chạy về ».
2. « Bà ba đi bán lợn sề,
Bán thì chẳng đắt, chạy về lon xon ».
3. « Của rẻ là của ôi !
Của đầy nồi là của chẳng ngon ».
4. « Chân đi ba bước lại dừng,
Tuổi em còn bé chưa từng đi buôn.
Đi buôn cho đáng đi buôn,
Đi buôn cau héo có buồn hay không ? »
5. « Chửa buôn thì vốn còn dài,
Buôn thì vốn đã theo ai mất rồi ».
6. « Chẳng gì tươi tốt bằng vàng,
Chẳng gì lịch sự nỏ nang bằng tiền ».
7. « Dù ai buôn bán trăm nghề,
Phải ngày con nước trở về tay không ».
8. « Đưa anh ra tới làng Hồ,
Em mua trái mít, em vồ trái thơm.
Anh về, em nọ dám đưa,
Hai hàng châu lệ như mưa tháng mười ».
9. « Được mùa buôn vải buôn vóc,
Mất mùa buôn thóc buôn gạo ».
10. « Gái này là gái chả vừa,
Gái bán vải tấm, gái lừa vải con.
Gái này là gái chả non,
Gái lường chợ Quán, gái buôn chợ Cầu ».
11. « Kỳ này em sắp buôn bè,
Thấy anh áo rách trở về buôn bông.
Kỳ này anh sắp buôn bông,
Thấy em áo rách buôn lồng cối xay ».
12. « Mồng năm, mười bốn, hăm ba,
Đi chơi cũng thiệt, nữa là đi buôn ».
13. « Muốn cho chợ họp đến chiều,
Cho lắm kẻ bán cho nhiều người mua ».
14. « Nào ai cấm chợ ngăn sông,
Ai cấm chú lái thông đồng đi buôn ? »
15. « Nào ai cấm chợ ngăn đò,
Nào ai cấm lái hẹn hò đi buôn ? »
16. « Nước lên cá đuối ăn theo,
Lái buôn hết gạo bỏ neo cầm chừng ».
17. « Tiền ở trong nhà tiền chửa,
Tiền ra khỏi cửa tiền đẻ ».
18. « Thuyền dời, nhưng bến không dời,
Bán buôn là nghĩa muôn đời cùng nhau ».
19. « Trận này tôi quyết buôn khoai,
Củ cong tôi bán, củ dài tôi ăn ».
20. « Trên trời có vẩy tê tê,
Một ông bảy vợ không chê vợ nào.
Một vợ tát nước bờ ao,
Phải trận mưa rào đứng nép bụi tre.
Một vợ thì đi buôn bè,
Cơn sóng, cơn gió, nó đè xuống sông.
Một vợ thì đi buôn bông,
Chẳng may cơn gió táp nó dông lên trời.
Một vợ thì đi buôn vôi,
Khi vôi phải nước nó sôi ầm ầm.
Một vợ thì đi buôn mâm,
Không may mâm thủng, lại nằm ăn tôi.
Một vợ thì đi buôn nồi,
Không may nồi méo, một nồi hai vung
Một vợ thì đi buôn hồng,
Không may hồng bẹp, một đồng ba đôi.
Than rằng đất hỡi trời ôi !
Trời cho bảy vợ như tôi làm gì ».
21. « Vốn em chỉ có thân chầy,
Anh cho tắc lái cho đầy năm quan.
Em buôn trầu đếm cuống bán trăm,
Mưa rầm gió bấc, em nằm em lo ».
IV. BIẾN THÁI CỦA TÌNH CẢM CON NGƯỜI ĐỐI VỚI SINH HOẠT XÃ HỘI
Tại sao tình cảm con người lại biến thái ?
Khi nói biến thái tất nhiên chúng ta đã thừa nhận có một nguyên
trạng. Vậy nguyên trạng của tình cảm con người là gì ? Hình dáng ra
sao ?
Như chúng ta đã phân tích ở phần nhân sinh quan, tình
cảm con người bất kỳ ở không gian, thời gian nào vẫn vươn lên ý sống. Đó là qui
luật tất yếu của vạn hữu, và con người cũng chỉ trong định luật ấy.
Vạn hữu tự bản chất bao giờ cũng đi tìm lẽ sống, và cũng chính lẽ
sống đã đem đến con người những tình cảm. Hay nói khác đi, tình cảm phát sinh
do lẽ sống con người.
Chúng ta vui thích vì sự kiện xảy ra phù hợp với lẽ sống của mình.
Chúng ta buồn chán vì sự kiện đã tương khắc với lẽ sống chúng ta. Dù thuận hay
nghịch, mọi tình cảm con người cũng đều bắt nguồn từ lẽ sống.
Vậy nguyên trạng của tình cảm con người là năng lực nẩy nở của
sinh tồn, của hưởng thụ. Tuy nhiên, năng lực ấy chỉ có trong cảm giới tự thân,
nghĩa là phát xuất từ bản chất nội tại. Khi bản chất nội tại bị ràng buộc trong
năng lực chung của ngoại tại, mà chúng ta gọi là sinh hoạt xã hội, thì bản chất
ấy không còn nguyên vẹn nữa, mà chịu ảnh hưởng theo qui luật chung của vũ trụ.
Chúng ta hãy nghĩ đến một cành hoa, sắc đẹp của hoa bao giờ cũng
phô trương một mầm sống, tô điểm không gian, nhưng sắc hoa khi đã chịu ảnh
hưởng của nắng, mưa, sương, giá thì màu sắc không thể nào giữ được nguyên trạng
nữa, nó nẩy sinh biến thái, nó bị tàn úa, rã rời. Sự biến thái của sắc hoa
chính là trạng thái ảnh hưởng của ngoại vũ. Tình cảm con người cũng thế, sinh
hoạt xã hội không cho phép tình cảm con người giữ mãi nguyên trạng, mà phải uốn
khúc theo dòng lịch sử của xã hội.
Trạng thái ấy chúng ta gọi là sự biến thái của tình cảm con người
đối với sinh hoạt xã hội.
Như vậy, nguyên trạng của tình cảm con người vẫn mang một sắc thái
giống nhau, và tình cảm ấy khi biến thái, tức là hòa vào cuộc sống xã hội thì
trở thành cá biệt. Chúng ta thấy trong xã hội loài người có sự phân chia giai
cấp, có sự giành giựt lẫn nhau đối với quyền sống, quyền làm người… Tình cảm
con người do đó mà khác biệt, mà biến chất.
Người bình dân trước sinh hoạt xã hội là lớp người muôn đời chìm
đắm trong nhọc nhằn, nghèo khổ, mà guồng máy chính trị, bộ mặt của lịch sử loài
người, luôn luôn là đối tượng bất công, là hình thức bắt buộc đời sống tình cảm
của họ xa rời ý thức nguyên trạng của con người. Cho nên sự biến thái của tình
cảm họ đối với sinh hoạt xã hội chính là trạng thái phản ứng để lập lại thế
quân bình của nguyên trạng tình cảm con người. Nói như thế cũng có nghĩa là
những buồn vui của họ luôn luôn hướng về tính chất thăng bằng của guồng máy
sinh hoạt xã hội để tìm trong đó một ý sống nguyên thủy, hợp với mọi khả năng
điều hòa trong cơ cấu vũ trụ.
Trạng thái phản ứng ấy chúng ta tìm thấy có bốn tính chất chính
yếu sau đây mà họ đã bộc lộ qua ca dao :
- Những tâm tư đau khổ vì bất công xã hội.
- Tinh thần tự lực, tự cường,
- Ý thức liều lĩnh và biếng nhác.
- Tâm hồn vô tư trong lẽ sống
Sau đây, chúng ta lần lượt đi sâu vào từng phần một trong mỗi tính
chất ấy.
a)
Những tâm tư đau khổ vì bất công xã hội
Lịch sử xã hội là dòng lịch sử bất công, mà con người luôn luôn
tranh đấu để mưu cầu sự công bằng. Tuy nhiên, tự ngàn xưa cho đến ngày nay,
chúng ta vẫn thấy không thay đổi.
Nếu tự ngàn xưa, loài người đã phân hóa trong xã hội giai cấp, ở
đó, sự giàu nghèo chênh lệch, con người áp bức, bóc lột con người, và con người
đã đau khổ, rên than vì cuộc sống, thì ngày nay, sự phân hóa ấy vẫn tồn tại
trên con đường chênh lệch của lịch sử xã hội. Mặc dù con người tự cho mình đã
góp công tranh đấu, xây dựng những gì gọi là văn minh tiến bộ.
Hỡi loài người ! Trong lúc loài người tự hào đã đem trí óc
khám phá cơ cấu thiên nhiên, tạo cho con người những phương tiện vật chất trong
nhu cầu sinh sống thì chính loài người lẽ ra cũng phải có những ưu tư và tự
thấy tủi nhục khi nhìn mãi dòng lịch sử nhân loại vẫn là dòng lịch sử cướp
giật, chém giết triền miên giữa con người và con người.
Tại sao chúng ta có thể đem trí óc khám phá thiên nhiên, sáng chế
phương tiện vật chất trong đời sống loài người, mà không thể đem trí óc thay
đổi một dòng lịch sử – dòng lịch sử của chém giết, của bất công, của tranh đoạt
– Mà càng văn minh, tiến bộ, cường độ cấu xé lại càng dữ dội hơn ?
Hay chúng ta cho sự xâu xé, cướp đoạt giữa đồng loại là qui luật
tất nhiên không thể tránh được, dù trí óc con người có thông minh, khả năng con
người có siêu việt đến bậc nào cũng chẳng làm gì hơn được ?
Nếu quan niệm như thế thì cuộc sống loài người quả là một hệ lụy,
một bi đát ! Và loài người cũng chẳng còn gì để tự hào trước những ánh
sáng vật chất mà chúng ta đang ca ngợi là văn minh tiến bộ !
Sở dĩ con người phải đấu tranh mãi với thiên nhiên để nâng cuộc
sống theo chiều hướng thượng, tạo cho nhân loại một dòng lịch sử xã hội, chỉ vì
con người có một khối óc, một tâm tư, và khối óc, tâm tư ấy làm nền tảng cho
con người. Khối óc, tâm tư đòi hỏi chúng ta – con người phải tự tìm cho mình
một lẽ sống thế nào cho hợp với nhân đạo.
Chính nhân đạo đã khơi ngòi trong tư tưởng giới chúng ta mỗi người
một nhân sinh quan, một xã hội quan. Và mọi đau khổ trong cuộc sống loài người
cũng chỉ vì nhân đạo – lẽ sống – mà ra cả. Nếu trong mỗi người chúng ta không chứa
đựng một tinh thần nhân đạo, lẽ sống tự nhiên hun đúc trong tâm hồn, thì chúng
ta cũng chẳng cần nghĩ đến, và cảm thấy sự đau khổ trong cuộc sống.
Một kẻ cường hào, ác bá dùng uy quyền bắt nạt một lương dân, tại
sao người lương dân lại cảm thấy đau khổ, tủi hờn ? Phải chăng người lương
dân tự cảm thấy đó là hành động trái với nhân đạo, bản chất tự tồn trong con
người.
Một tên cướp xông vào nhà giết gia chủ, đoạt lấy của cải, tại sao
chúng ta cảm thấy tàn nhẫn ? Phải chăng chính vì trong mỗi người chúng ta
đã tiềm ẩn một ý thức nhân đạo, bản chất tự tồn ?
Vậy nhân đạo là tính chất tự tồn, chứa sẵn trong bản tính con
người mà chúng ta – nhân loại – không có quyền phủ nhận. Sở dĩ từ xưa đến nay,
mọi đau khổ cứ triền miên mãi trong xã hội loài người cũng chỉ vì chúng ta
không phát huy được tiềm năng nhân đạo đó.
Nói thế, không có nghĩa tự cổ chí kim loài người không đi tìm bản
chất thiên nhiên của họ. Nhiều nhà đạo học đã suốt đời hy sinh tận tụy đúc kết
thành những triết thuyết để hướng dẫn tinh thần nhân loại, đưa cuộc sống vào
con đường sinh tồn, loại bỏ những áp chế, bất công xã hội, tuy nhiên, sự tiến
bộ về mặt đạo học vẫn không sao kềm hãm được dục vọng con người. Nói cách khác,
bộ óc loài người càng khôn ngoan thì họ càng đào sâu thêm tham vọng cá nhân,
phát triển những phương tiện hưởng thụ, để rồi sự khôn ngoan ấy lại biến thành
vũ khí tranh đoạt, cướp giật trong hành động ích kỷ, phi nhân.
Chúng ta không thể nhìn thấy nhân đạo khi xã hội loài người lao
mình vào trạng thái cá nhân hưởng thụ. Bởi vì cá nhân hưởng thụ là nguồn gốc
của mâu thuẫn, tạo ra những chênh lệch, bất công trong lẽ sống.
Chúng ta cũng không thể cho rằng trong một xã hội chênh lệch, bất
công, kẻ hưởng thụ là kẻ tìm thấy hạnh phúc trong đời họ. Bởi vì chính họ – kẻ
được hưởng thụ – cũng phải chịu những đau khổ giày vò cả thể xác lẫn tâm hồn,
khi họ đã bỏ hết tâm lực vào cuộc chiến đấu để giành lấy ưu thế, để tước đoạt
cho được quyền lợi của kẻ khác. Trạng thái đấu tranh ấy để lại trong đời họ
những vết tích, mà khi chết đi ít ai không cảm thấy đau xót và hối hận.
Thử hỏi, từ bậc vua chúa đến kẻ bần cùng, có một ai trước khi lìa
đời mà tự mình đã thỏa mãn trong cuộc sống ? Những lời trăn trối khi từ
giã cõi đời có phải chăng là những dục vọng đang bị dở dang, những khát vọng
chưa được thỏa mãn ?
Sự thỏa mãn ấy là gì ? Đó chính là tham vọng cá nhân, trạng
thái đưa đến mọi chênh lệch, bất công trong xã hội loài người.
Trước dòng lịch sử chênh lệch, bất công ấy, kẻ được hưởng thụ tuy
vẫn có những bất mãn và đau khổ về mặt chủ quan, song về mặt khách quan họ đã
có nguồn an ủi là đã chiến thắng được kẻ khác trong lãnh vực tranh đoạt ;
còn đối với kẻ bị cuộc sống tước đoạt thì cả hai mặt chủ quan lẫn khách quan
đều cảm thấy như mất mát toàn diện. Tâm hồn họ càng bị giày vò hơn, và chính họ
là lớp người cần đến nhân đạo, cứu cánh của lẽ sống.
Khi chúng ta đã nhìn thấy dòng lịch sử xã hội là một chuỗi bất
công, chênh lệch triền miên thì chúng ta cũng lại nhận thấy lớp người bị mất
mát nhiều nhất và đau khổ nhất là lớp người bình dân. Và tâm tư đau khổ của họ
là trạng thái phản ứng, nối kết thành dòng lịch sử đấu tranh, tìm về lẽ sống
nhân đạo, lẽ sống thăng bằng mâu thuẫn, lẽ sống điều hòa được dục vọng cá nhân,
đem đến cho xã hội loài người một quan niệm mới mẻ, ngoài động lực thúc đẩy vì
tư lợi, tư kỷ quá tham lam.
Nói như thế có nghĩa chúng tôi muốn chứng minh ở người bình dân
một xã hội quan, và dòng lịch sử tranh đấu của họ nhằm vào xã hội quan ấy.
Xã hội quan của người bình dân không phải cấu tạo trên triết
thuyết do một học giả nào đúc kết, mà chính nó phát nguồn trong tâm tư chung
của giai cấp nghèo hèn, cấu tạo thành một chiều hướng lịch sử đấu tranh. Cho
nên, nếu đi sâu vào tục ngữ, ca dao của họ để lại, chúng ta có thể đúc kết
thành một quan niệm xã hội của giai cấp bình dân mà không sợ sai lạc.
Trước nhất chúng ta phải xác định điều tất yếu trong xã hội loài
người là từ xưa đến nay giai cấp bình dân vẫn là giai cấp chịu thiệt thòi, đau
khổ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội.
Xã hội càng bất công bao nhiêu thì người bình dân càng đau khổ bấy
nhiêu. Giai cấp bình dân từ xưa đến nay vẫn là cái đáy hứng chịu mọi tai ương thảm họa của nhân quần. Nếu trí khôn
của con người mỗi ngày một tăng trưởng, khát vọng cá nhân ngày càng tinh vi
hơn, thì chính xã hội loài người lại cần có lớp người bình dân, lớp người mộc
mạc, chất phác ấy để làm bia sử dụng cho năng lực của họ, trong lúc bộ óc con
người dù khôn ngoan đến đâu cũng chưa thay thế được nguồn sống của họ bằng sức
lao động.
Mặt khác, ý nghĩa nhân quần lúc nào cũng bao gồm những yếu tố đối
kháng. Người khôn hiếp đáp người ngu, khinh rẻ người ngu, nhưng ngược lại người
khôn lại cần phải có người ngu để thực hiện cái khôn của mình, vì nếu không
« nhờ » ở người ngu thì cái khôn con người cũng chẳng còn giá trị gì
cả. Vũ khí sẽ trở thành vô dụng khi chiến trường vắng bóng đối phương. Uy quyền
con người sẽ tan biến khi dưới gót chân không có kẻ để cho họ chà đạp. Tất cả
mọi tác động trong xã hội loài người bao giờ cũng nằm trong tính chất đối
kháng, và trí khôn con người luôn luôn tạo ra tính chất ấy để đưa xã hội loài
người đi trên chiều biến động của lịch sử.
Tóm lại, tác động xã hội là tác động tranh đấu giữa con người và
con người, giữa giai cấp và giai cấp, giữa sự đối kháng của hai cực điểm.
Nếu chúng ta cho rằng khôn dại là hai cực điểm, giàu nghèo là hai
cực điểm thì chúng ta không thể chối bỏ giai cấp thượng lưu và hạ lưu vẫn là
hai cực điểm. Khi hai cực điểm đã nằm trong ảnh hưởng đối kháng thì bao giờ
cũng chứa đựng một căn bản mâu thuẫn và tương ứng.
Tính chất xã hội loài người khi chúng ta đã quan niệm như một
trường tranh đấu, thì lịch sử đấu tranh ấy chính lại là lịch sử đấu tranh của
giai cấp, tức là bản năng đối kháng giữa những nhóm người trong mọi chế độ
chính trị.
Về phần diễn biến của những guồng máy chính trị qua các chế độ từ
xưa đến nay chúng ta đã đề cập ở đoạn đầu tập hai này, ở đây chúng ta không cần
nhắc lại, mà chỉ nêu lên những ý thức đấu tranh đã kết tụ trên dòng lịch sử qua
các khía cạnh tâm tư của lớp người bình dân.
Nỗi đau khổ của người bình dân có phải là những phản ứng, những ý
thức đấu tranh nằm trong hai cực điểm của giai cấp xã hội không ?
Nếu chúng ta quan niệm rằng mọi tác động trong vũ trụ đều không
tách rời khỏi năng lực đối kháng thì những đau khổ, tủi hờn, than oán cũng
chính là những tác động đối kháng cả.
Một luồng gió làm rung cành cây, chúng ta nhìn với con mắt khách
quan, chúng ta cho đó là trạng thái thiên nhiên, nhưng nếu chúng ta phân tích
kỹ thì chính tác động của cành cây đã dùng vào năng lực đối kháng. Cành cây
rung chuyển vì nó chống lại sức mạnh của luồng gió.
Chúng ta rơi một giọt nước mắt, thốt ra một lời than, không phải
chúng ta yếu hèn, mà chính tâm tư chúng ta có một năng lực đối kháng, tạo cho
chúng ta cảm giác buồn đau.
Tiếng rên than của người bình dân cũng nằm trong trạng thái ấy. Nó
là một sức đối kháng, một năng lực phản ứng do tâm tư của họ thúc đẩy khi họ
cảm thấy trạng thái chênh lệch của lẽ sống đè nặng lên tâm hồn. Tiếng rên than
của họ không phải là tiếng rên than nhất thời. Nếu trạng thái sinh hoạt của
người bình dân là một chuỗi thời gian thống khổ, chồng chất bằng nhiều thế kỷ,
thì tiếng rên than ấy cũng là những năng lực phản ứng cấu kết và nối dài thành
chuỗi thời gian trong lịch sử. Cho nên, khi nói đến những tâm tư đau khổ của
người bình dân trong xã hội bất công là chúng ta nói đến lịch sử tranh đấu của
lớp người bị áp bức. Nhiều nhà chính trị đã nói đến việc này. Tuy nhiên, về
phương diện chính trị, người ta chỉ nêu lên những cuộc đấu tranh bằng hành
động, những cuộc chống đối bằng bạo lực. Biện pháp ấy ở đây chúng ta không nói
đến. Trong phạm vi văn học, chúng ta chỉ đề cập những phản ứng bằng tâm tư,
những tác động đầu tiên trong cảm giới con người, mà chính nó là bước đầu tạo
nên những phản ứng bằng hành động.
Trong lãnh vực tâm tư, tuy chúng ta chỉ thấy những lời rên than,
oán trách nhưng thực ra chúng ta nhờ nó mà tìm hiểu được ý nghĩa của trạng thái
đấu tranh, chiều hướng của ước vọng con người trong lẽ sống khi lẽ sống bị tước
đoạt.
Một chế độ xã hội bất công không phải chỉ đem đến cho kẻ yếu hèn
một vài sự mất mát, mà chính họ – kẻ yếu hèn – bị mất mát toàn diện. Điển hình
bằng giai cấp bình dân, giai cấp khốn khổ nhất trong sinh hoạt xã hội loài
người, chúng ta thử đi vào tâm hồn họ qua các tổ chức cai trị từ xưa đến nay.
1) Bất công về kinh tế
Do sự tranh đoạt trong cuộc sống loài người, xã hội tạo ra giai
cấp giàu nghèo. Sự giàu nghèo đem đến cho cuộc sống những bất công, những chênh
lệch mà con người tự cảm thấy không còn bình đẳng nữa. Khi nói đến con người,
tách rời sinh hoạt xã hội thì con người bản chất vẫn ngang nhau. Ai cũng cần
phải ăn uống để sống, ai cũng cần có lúc làm lụng, có lúc nghỉ ngơi, ai cũng
muốn thưởng thức những cảm khoái của dục vọng. Nhưng khi con người đặt vào sinh
hoạt xã hội, phân tích hoàn cảnh giàu nghèo thì giữa người này và người kia tự
nhiên khác biệt. Kẻ không cần làm lụng gì cả mà vẫn hưởng thụ nhiều khoái cảm
của cuộc sống, kẻ vất vả suốt ngày, lao mình vào gian nguy lại phải chịu những
thiếu thốn, khổ cực. Nếu chúng ta quan niệm lao-động tạo ra chén cơm manh áo để nuôi sống con
người thì hẳn trạng thái xã hội như vậy là trạng thái bất công. Vậy thì, sự
phàn nàn, oán trách của người bình dân trong lịch sử xã hội loài người không
phải là chuyện vô lý.
Đây, chúng ta thử đi vào cảm giác khổ đau của họ qua cảnh giàu
nghèo chênh lệch ấy :
« Khó khăn mất thảo mất ngay,
Ơn cha cũng bỏ, nghĩa thầy cũng quên ! »
Nghèo khó đã làm biến đổi tính chất nhân đạo của con người. Giả sử
xã hội loài người trong trạng thái công bằng, nghĩa là mỗi người được hưởng
theo sức làm việc của mình thì chắc chắn không còn ai đau khổ nữa. Cái đau khổ
mà người bình dân cảm thấy là cái đau khổ của bất công. Cũng như mọi từng lớp
trong giai cấp xã hội, người bình dân không phải là kẻ vô ơn, bội nghĩa, tuy
nhiên họ không thể thực hiện ân nghĩa theo ý muốn của họ, chính vì sự nghèo đói
đã buộc họ xa rời những cảm nghĩ tốt đẹp với lẽ sống. Cũng như họ bảo :
« Mẹ già ở chốn lều tranh,
Đói no không biết, rách lành không hay ! »
Họ tự than trách bổn phận làm con của họ không tròn chữ hiếu. Than
trách vì họ quá cơ cực, đầu tắt mặt tối vị tất đủ áo cơm để nuôi sống lấy mình
thì làm sao thăm viếng, nuôi dưỡng được mẹ già. Những đau đớn trong tâm tư của
kẻ nghèo đã bộc lộ qua các câu ca dao trên là hình ảnh của thảm trạng bất công
xã hội mà ngày nay khi đọc lại những dòng rên than ấy chúng ta vẫn còn cảm thấy
chua chát, buồn đau.
Chúng tôi còn nhớ trước đây một viên quan đến trấn nhậm ở địa
phương nọ, nghe câu hát ấy cho là bất hiếu, vô đạo, nên đã sửa lại :
« Mẹ già ở chốn lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con ».
Thật ra, khi viên quan nói trên sửa chữa câu ca dao ấy chỉ nghĩ
đến ý tứ câu văn mà không hề nghĩ đến thảm trạng của kẻ nghèo đói. Ông ta đứng
trên quan điểm của người giàu có báo hiếu mà không thông cảm được lời thiết
tha, thống khổ của kẻ nghèo hèn. Câu hát ấy đâu phải là câu nói của kẻ bất
hiếu. Chính hiếu đọa đã giày vò tâm tư của người dân nghèo khổ, khiến họ phải
thốt ra lời tự thống ấy.
Bởi vậy, trong ca dao bình dân chúng ta thấy nhan nhản những câu
hát chống đối lại sự bất công giữa hai trạng thái giàu nghèo. Ví dụ :
« Họ giàu họ nấu đầy nồi,
Phần tôi nghèo khổ ăn rồi nấu thêm.
Họ giàu họ ngủ bằng đêm,
Phần tôi nghèo khổ ngủ thêm bằng ngày.
Họ giàu chân dép chân giày,
Phần nghèo khổ cùi đày mặc tôi.
Không mắc gì ai trừng ngược háy xuôi,
Khó ăn của khó, giàu nuôi bữa nào ! »
Chúng ta thấy rõ ràng tâm tư họ dằn vặt, mỉa mai, chua chát đó hàm
chứa một cái gì bất mãn với hoàn cảnh xã hội. Những đau khổ ấy, chính bất công
xã hội đã tạo nên. Nhưng nếu việc bất công giữa giàu nghèo chỉ đem đến cho họ
sự thiếu thốn, cơ hàn thì họ cũng cam đành số phận, nhưng trạng thái chênh lệch
trong xã hội không phải đơn thuần như vậy, giàu đã được sung sướng mà còn được
mọi người xu phụ, khiến cho những kẻ nghèo khổ đã đau đớn, cô đơn mà còn chịu
thêm giày vò, chua xót. Cho nên, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy người bình
dân có những mặc cảm với đời. Họ bảo :
« Nghèo ở giữa chợ không ai hỏi han,
Giàu ở lâm san mọi người tìm đến ».
Hoặc : « Không tiền anh em ruột cũng xa,
Có tiền bà con xa cũng gần ».
Hay : « Có của thì có mẹ nàng,
Có bạc có vàng thì có kẻ ưa ».
Và : « Có tiền chán vạn người hầu,
Có bấc, có dầu, chán vạn người khêu ».
Những câu ca dao trên đây tuy chỉ là những câu đầu lưỡi có ý nhạo
đời, song chúng ta không thể phủ nhận những gì đắng cay, đau khổ của kẻ nghèo
hèn khi phải sống trong một trạng thái xã hội mà nhân tình phải nhường chỗ cho
thế lực kim tiền khống chế.
Tuy nhiên, dù dưới hình thái nào con người cũng vẫn tìm cách thăng
bằng hóa tâm tư mình. Nếu kẻ giàu thường hay khinh bỉ người nghèo, thì ngược
lại người nghèo thường tự trọng lấy họ. Đó là nguồn an ủi, một lối nuôi dưỡng
tâm hồn bằng phương pháp tự ái để làm vơi đi những khổ đau. Đây, chúng ta nghe
họ nói :
« Khó mà làm bạn với giàu,
Đứng dậy, ngồi xuống, nó đau cái đì ! »
Tự ái đã bắt họ tự trọng, không vì nghèo mà nịnh dọc, xu phụ. Với
tinh thần ấy, chứng tỏ người bình dân đã tự mình xác định lấy giá trị con
người. Họ đã quan niệm con người không phải do sự giàu sang mà chính là ở phẩm
cách và nhân tính. Những câu ca dao tục ngữ sau đây chứng minh điều đó :
« Nhiều phân tốt lúa,
Nhiều lúa tốt l… »
Hoặc : « Hơn nhau tấm áo manh quần,
Cởi ra bóc trần, ai cũng như ai.
Hoặc nói một cách bóng gió hơn :
Tốt bát tốt dĩa, đồ ăn cũng vậy ».
Rõ ràng người bình dân đã đầy ý thức chống lại sự phô trương giàu
có. Tinh thần chống đối ấy chính là trạng thái bất mãn những chênh lệch trong
đời sống hàng ngày, khiến họ vừa đau khổ vừa bực tức.
Những tâm tư đau khổ và những ý thức chống đối của người bình dân
trong sinh hoạt xã hội qua trạng thái chênh lệch giữa cảnh giàu nghèo chúng ta
không thể nào nói hết được. Ở đây, chúng ta chỉ nêu lên những nét tiêu biểu để
xác định quan niệm xã hội của người bình dân qua từng đề mục đã nêu trên mà
thôi.
2) Bất công về chính trị
Nếu sự chênh lệch giữa giàu nghèo trong cuộc sống đã đem cho người
bình dân đau khổ và bất mãn thì những bất công về chính trị càng dồi dập thêm
vào tâm hồn những dày vò, uất nghẹn của thân phận nghèo hèn.
Nói đến chính trị tức là nói đến chế độ cai trị qua từng thời đại.
Người Việt nam từ ngàn xưa đã sống dưới chế độ phong kiến, guồng máy cai trị
bằng giai cấp đã áp đảo người bình dân, đặt họ vào một vị trí thấp hèn cùng tột
đối với giá trị con người. Trong chế độ phong kiến, khi đã bị sắp hạng là dân
giả thì không còn quyền lợi và giá trị nào nữa đối với ảnh hưởng sinh hoạt xã
hội. Người dân được chế độ quan niệm như lớp người ngu đần, chỉ dùng để sai
khiến, phục vụ cho từng lớp khác có địa vị chính trị.
Nếu chúng ta trở về lãnh vực thiên nhiên, thì con người sinh ra ai
cũng như ai, giá trị con người đều bình đẳng, chỉ có chế độ chính trị tạo cho
con người mọi tranh đoạt trong lẽ sống và biến giá trị con người qua mọi đẳng
cấp. Vậy giá trị đẳng cấp của xã hội loài người chỉ là thứ giá trị nhân tạo do
tính chất tranh đoạt gây nên.
Cùng một loài hoa, thứ hoa nào cũng có một giá trị thiên nhiên, tô
điểm quang cảnh vũ trụ và thực hiện sự truyền giống cho thực vật.
Nhưng trong đời sống loài người, vì ảnh hưởng của cảm giác hưởng
thụ cá nhân, con người đã tự chia các giống hoa ra nhiều đẳng cấp. Sự phân chia
ấy đặt ra ngoài giá trị thiên nhiên mà chỉ ảnh hưởng vào giá trị hưởng thụ mà
thôi.
Chúng ta bảo hoa sen quí hơn hoa lài ? Chúng ta biện minh hoa
sen tinh khiết ? Đó chỉ là quan niệm tôn giáo, quan niệm của cuộc sống xã
hội mà thôi !
Chúng ta bảo hoa lài quí hơn hoa ngâu, vì hoa lài có mùi thơm quí
phái ? Đó cũng chỉ là quan niệm hưởng thụ của cảm giới con người ảnh hưởng
do cuộc sống.
Giá trị các loài hoa đứng về phương diện thiên nhiên là một giá
trị bình đẳng. Chính con người, chính cảm quan của xã hội loài người đã làm
chênh lệch giá trị của muôn hoa.
Loài người cũng thế ? Thông thường người ta cũng chỉ tìm thấy
giá trị con người qua mọi ảnh hưởng của giai cấp, nghĩa là người ta chỉ đánh
giá con người qua các địa vị chính trị trong xã hội mà thôi. Giai cấp chính trị
đã quyết định giá trị con người thì giai cấp chính trị cũng tạo cho cuộc sống
loài người những bất công, gây đau khổ cho con người.
Khác với những loài hoa, nếu con người đem cảm giác hưởng thụ cá
nhân đánh giá muôn loài, bẻ hoa hường, hoa huệ, hoa sen… về cắm ở độc bình để
nâng niu thưởng thức thì những hoa ngâu, hoa sim, hoa súng… tuy bị gạt ra ngoài
tầm thưởng thức của con người, vẫn thênh thang đua nở trong bầu trời bao la với
giá trị thiên nhiên của nó. Còn con người không thể như vậy được. Con người khi
đã bị chế độ chính trị đánh giá thấp hèn thì kẻ ấy phải mang những thảm họa
trong cuộc sống giày vò, vì họ bị guồng máy cai trị quản thúc.
Nhưng thế nào là thấp hèn ? Cái nghĩa thấp hèn trong giai cấp
xã hội chỉ là một sự vụng về, thua sút về năng lực chen lấn, tước đoạt để vươn
lên.
Một nông dân thấp hèn không có nghĩa là kẻ vô dụng, mà trái lại,
kẻ ấy có thể chịu dầm mưa dãi nắng, lam lũ suốt ngày trong công việc đồng áng,
đem mồ hôi, sức lực tạo thành cơm áo cho xã hội loài người.
Khi giá trị con người đã bị qui định bằng mức tranh đoạt thì bản
chất của giá trị bị đổi thay, và biến thành bất công xã hội.
Chúng ta thường nói đến nhân đạo. Các nhà đạo đức thường lấy nhân
đạo làm nền tảng cho cuộc sống loài người, vậy nhân đạo là gì ?
Nói một cách xác thực thì nhân đạo là nguồn gốc của sự thăng bằng
giá trị. Nhân đạo không thể có trong một xã hội tôn thờ đẳng cấp một cách chênh
lệch, bởi vì tôn thờ đẳng cấp tức là hủy hoại tính chất giá trị thiên nhiên của
con người, tức là đưa xã hội con người vào đường tranh đoạt, xâu xé nhau trong
cơ cấu chính trị.
Chúng ta thương yêu người nghèo là có ý thức nhân đạo, giúp đỡ kẻ
yếu là nhân đạo, nhưng người nghèo, kẻ yếu là ai ? Chính họ là lớp người
bình dân mà xã hội đã khinh miệt họ, tước đoạt giá trị của họ. Xã hội làm cho họ
phải bần cùng, hèn yếu rồi lại bảo thương yêu, giúp đỡ họ như vậy mà bảo là
nhân đạo thì còn gì mâu thuẫn và giả tạo cho bằng.
Nhân đạo không thể có trong giáo điều mà phải phát xuất ở tình cảm
chân thật của con người. Nếu chúng ta đã nhìn kẻ giàu sang, địa vị bằng con mắt
kính phục, thì không thể nhìn người nghèo nàn, thấp kém bằng sự thương xót
được. Nếu có thương xót chẳng qua là điều thương hại, mà thương hại chỉ là bản
chất làm người, bản chất ấy sẽ tiêu tan ngay trước dục vọng cá nhân khi đụng chạm
với thực tế trong lẽ sống.
Vậy nhân đạo chỉ có giá trị khi mà giá trị thiên nhiên của con
người được đề cao, giá trị của lẽ sống được thăng bằng.
Khổng-Tử đã cặm cụi suốt đời đi tìm con đường đạo học, và lý
thuyết Khổng-Tử được các triều đại phong kiến áp dụng trong phương sách trị dân
như một giáo điều. Tuy nhiên, càng áp dụng lý thuyết Khổng-Tử để thực hành nhân
đạo, xã hội loài người càng xa dần nhân đạo. Tự ngàn xưa cho đến nay, con người
vẫn chưa tìm thấy một lẽ sống nào hợp với nhân tính. Đó là điều mà thế hệ chúng
ta cần phải xét lại, phải rút tỉa những kinh nghiệm đã qua để phê phán, để tạo
thành một bài học cho đời sau.
Tại sao Khổng-Tử áp dụng con đường đạo học để xử thế mà nhân thế
vẫn chưa đạt được một đời sống đạo đức ?
Nếu chúng ta thừa nhân yếu tố đẳng cấp xã hội tạo cho con người
một giá trị chênh lệch với đời sống vật chất lẫn tinh thần thì giáo lý Khổng
Mạnh quả đã lầm lẫn trên phương diện này. Trong lúc giáo lý Khổng Mạnh tôn thờ
đẳng cấp thì giáo lý Khổng Mạnh cũng lại hô hào thực hiện nhân nghĩa, đó là
chuyện không thể làm được trong cuộc sống thực tế của xã hội phong kiến.
Tôi đem tặng bạn một bình hoa sắc hương toàn vẹn, tập cho bạn đem
dục vọng cá nhân thưởng thức cái đẹp, cái thơm của bình hoa ấy, đồng thời tôi
lại bảo bạn phải quí trọng những cành hoa mọc ngoài bờ bụi mà những hoa ấy
không có hương sắc, vậy bạn có thể nào xem giá trị của bình hoa tôi trao tặng
ngang với những loại hoa mọc ngoài bờ bụi được chăng ?
Khổng-Tử đã làm cái việc chúng
tôi vừa nói.
Chúng ta thử làm trái lại,
không lựa chọn những cành hoa làm thỏa mãn dục vọng cá nhân, không đem dục vọng
cá nhân định giá trị của muôn hoa, bởi vì giá trị thiên nhiên của nó không phải
để phục vụ cho dục vọng cá nhân con người. Chúng ta hãy hòa mình vào vũ trụ,
đưa mắt nhìn khắp cảnh vật, và khi chúng ta không còn là chúng ta nữa, mà chúng
ta đã trở thành một sinh vật trong vũ trụ thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ thấy muôn
cành ngàn sắc của mọi loại hoa đều bình đẳng với giá trị thiên nhiên của nó.
Chỉ có thăng bằng giá trị con
người giữa cuộc sống thì xã hội loài người mới tìm thấy nhân đạo, và cảm giới
con người mới trở về với nhân tính, bản chất thiên nhiên của con người.
Nói như thế không phải chúng
tôi xóa bỏ những dị biệt giữa con người và con người. Mọi vật trong vũ trụ đều
có một tính chất cá biệt. Một rừng cây không thể không có cây cao, cây thấp,
cây to, cây nhỏ, thì xã hội loài người làm sao xóa bỏ những khác biệt. Tuy
nhiên, giai cấp không làm cho xã hội con người chênh lệch, bất công, mà chỉ có chế
độ chính trị đem lại sự bất công giữa giai cấp xã hội loài người.
Ví dụ chế độ phong kiến đã cướp
đoạt quyền sống của người dân trao vào tay giai cấp thống trị. Như vậy tức là
chế độ chính trị đã gây thành trạng thái chênh lệch trong ý sống.
Người bình dân Việt nam trải
qua một lịch sử xã hội phong kiến lâu dài, dĩ nhiên, trạng thái chênh lệch, bất
công đã gieo vào tâm hồn họ những đau khổ không phải ít. Tuy nhiên, những đau
khổ vì bất công chính trị chúng ta chỉ thấy rải rác một phần nhỏ qua ca dao chứng
tỏ sự đau khổ ấy phần nhiều chết lịm trong tâm tư thầm tủi hơn là thổ lộ qua
nền văn học bình dân của họ.
Dù vậy, chúng ta cũng vẫn tìm
thấy những nét tiêu biểu ứ đọng trong dòng lịch sử của thời gian.Đây, chúng ta
nghe tiếng rên tha của họ dưới chế độ phong kiến áp bức :
« Con vua thì được làm vua,
Con sãi ở chùa phải quét lá đa ».
Giá trị con người tạo trên địa vị xã hội mà người dân bao giờ cũng
chỉ là những kẻ bắt buộc phải làm tôi đòi, phụng sự cho dòng quí tộc thống
trị :
Hoặc : « Con vua thì lại làm vua,
Con nhà kẻ khó bắt cua tối ngày ».
Hay : « Con quan thì lại làm quan,
Con nhà kẻ khó đốt than tối ngày ! »
Nếu làm vua, làm quan hay bắt
cua, đốt than mà giá trị con người vẫn được xem trọng tương đối thì loài người
cũng đỡ đau khổ, tủi hờn. Nhưng khi xã hội loài người đã đặt giá trị đẳng cấp
lên trên giá trị nhân vị thì kẻ thống trị bao giờ cũng là chủ nhân ông của kẻ
bị trị. Tính chất ấy đã bộc lộ qua những câu tục ngữ như :
« Quan tha ma bắt ! »
Người dân có cảm giác như số
phận mình hoàn toàn lệ thuộc vào trong tay kẻ có quyền lực, mà quyền sống của
họ không còn là của họ nữa. Chúng ta hãy nghe một câu hát diễu cợt trong làng
mạc :
« Cốc cốc đánh mõ ba hồi,
Bắt mấy bà góa ra ngồi gốc đa.
Bà nào nhỏ bụng thì tha,
Bà nào lớn bụng bắt ra làng chèo ».
Những cảnh hiếp đáp của kẻ có
quyền lực trong chế độ xã hội bất công diễn ra trong làng mạc không sao kể hết.
Dù là một nông phu mộc mạc, hiền lành đến đâu cũng không thể không cảm thấy đau
đớn.
Sự đau đớn ấy có lúc họ thốt ra
bằng máu lệ, có lúc họ lại trả thù bằng những câu hát ranh mãnh, châm biếm. Đó
cũng là trạng thái phản ứng tiêu cực của kẻ cô thế yếu hèn. Đây, chúng ta nghe
họ chống đối bằng tính cách trào phúng :
« Con cu nó đỗ nóc chùa,
Năm nay bà góa được mùa chửa
hoang.
Cái bụng bằng cái nồi rang,
Đi đâu khép nép sợ làng ăn heo.
Làng rằng : « làng
chẳng ăn heo,
« Làng bắt làng chèo, làng hỏi chửa
ai ? »
- Mồng một, tôi lấy ông cai,
Mồng hai ông xã, mồng ba ông trùm ».
… … …
Thật hài hước ! Chính họ
đã dùng lời lẽ châm biếm để bươi móc hành vi xấu xa của những kẻ dựa vào ưu thế
chính trị trong chế độ xã hội bất công của guồng máy phong kiến. Và, cũng để
cho người đời thấy giá trị con người được chế độ xã hội bảo vệ bằng địa vị chứ
không phải bằng đạo đức. Làm bậy cũng chính họ, mà bắt nạt dân lành cũng lại
chính họ.
Ngoài những phản ứng bằng lời
châm biếm để cởi mở tủi hờn trong tâm tư qua mọi bất công của chế độ, người
bình dân còn phải nhẫn nhục trong đau khổ bằng cách than thân, tủi phận nữa.
Nhất là trong việc làm sưu,
đóng thuế, người dân hầu như những tên nô lệ của cả một chế độ. Đây, chúng ta
nghe họ than :
« Năm nay trời bão mất mùa,
Khi thời hạn hán, khi mưa mưa
dầm.
Khi thời gió bão ầm ầm,
Ruộng nương lúa thóc, mười phần
được ba.
Lấy gì nạp thuế nữa mà,
Lấy gì đóng góp cho nha, cho làng ».
Tuy nhiên, những bất công về
sưu cao thuế nặng chưa đau khổ bằng việc phải đem thân hy sinh trước chiến
trường khi xảy ra việc binh đao. Nếu trong lúc thái bình người dân phải đem hết
sức lao động để phụng sự cho giai cấp vua quan thì trong lúc can qua chính
người bình dân lại phải đem thân hy sinh để bảo vệ sự nghiệp của các giai cấp
thống trị. Những bất công ấy đã gieo vào lòng họ nỗi bất mãn như :
« Lính vua, lính chúa, lính làng,
Vì ai bắt lính cho chàng phải đi ? »
Hoặc : « Tiếng ai than khóc nỉ non,
Như vợ chú lính trèo hòn Cù-Mông ? »
Hay : « Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non ».
Và : « Con chuột mắc bẫy,
Vì gốc tre già.
Dẻo ra đòn xóc
Chồng đi lính
Vợ ở nhà khóc hi hi…
Trời ơi sinh giặc làm chi
Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường ! »
Người bình dân không phải
không chịu đựng những hy sinh. Chính họ là lớp người nhiều can đảm
nhất trong cuộc sống. Sở dĩ họ phải đau đớn trước những hy sinh như
vậy là do trạng thái bất công của xã hội gieo vào lòng họ nỗi chán
ngán, tủi hờn.
Dân tộc Việt-nam trải bốn
ngàn năm văn hiến, thử hỏi tầng lớp nào đã hy sinh nhiều nhất trong
sự nghiệp chống ngoại xâm ? Nếu nguời bình dân, khối người khổng
lồ ấy không có tinh thần hy sinh cao cả cho quốc gia dân tộc thì chúng
ta đâu còn được hãnh diện như ngày nay ? Lòng hy sinh, can đảm của
họ không thiếu. Đây, chúng ta nghe họ nói :
« Anh ơi, phải lính thì đi,
Cửa nhà đơn chiếc đã thì
có em !
Chàng ơi ! Trẩy sớm hay
trưa,
Để em gánh gạo tiễn đưa
hành trình.
- Thương nàng đã đến tháng
sinh,
Ăn ở một mình trông cậy
vào ai !
Rồi khi sinh gái sinh trai,
Sớm khuya mưa nắng lấy ai
bạn cùng.
- Sinh gái thì em gả chồng,
Sinh trai lấy vợ mặc lòng thiếp lo ».
Người bình dân đã bộc lộ
đức hy sinh, can đảm như vậy, không thể bảo là lớp người ươn
hèn !
Những đau đớn trong tâm tư họ rõ ràng là vết tích của
chế độ chính trị bất công trong guồng máy xã hội phong kiến gây nên.
3) Bất công về xã hội
Những bất công về kinh tế
và chính trị đưa đến những bất công về xã hội. Đó là chuyện tất
yếu không thể tránh được. Dù vậy, chúng ta cũng không thể bỏ qua
những vết tích đau khổ trong tâm tư người bình dân khi họ phải chịu
đựng cảnh huống trái ngang ấy.
Phân tích về bất công xã
hội đối với người bình dân chúng tôi muốn nói đến ảnh hưởng mâu
thuẫn giữa hai cuộc sống : thượng lưu và hạ tiện.
Thế nào là thượng
lưu ? Thế nào là hạ tiện ?
Thật ra danh từ thượng lưu
và hạ tiện chỉ có trong ý thức đẳng cấp mà không có nghĩa gì trong
ý thức nhân tính. Ý thức đẳng cấp đi từ trạng thái tranh đoạt cá
nhân trong guồng máy chính trị kết thành những riêng rẽ trong hệ
thống sinh hoạt loài người, và dần dần trở thành cá biệt. Nếu giữa
con người và con người vì hoàn cảnh và ý thức sinh hoạt trở nên cá
biệt, thì xã hội loài người cũng vì ý thức sinh hoạt của đẳng cấp
mà chia thành giai cấp. Mỗi giai cấp là một cá biệt trong xã hội
đẳng cấp.
Tính chất cá biệt của giai
cấp tạo thành mâu thuẫn, mà mỗi giai cấp, vì quyền lợi và hoàn
cảnh sinh hoạt, tự bảo vệ lấy mình. Sự bảo vệ ấy là căn bản đối
kháng trong ý thức sinh hoạt. Nếu căn bản đối kháng ấy nằm trong
trạng thái thăng bằng thì không gây tai hại mấy, và cũng chẳng gây đau
khổ cho loài người trong cuộc sống. Nhưng trí khôn con người, vì nhu
cầu dục vọng cá nhân không để cho căn bản đối kháng giữa giai cấp
được thăng bằng mà dùng ưu thế chính trị biến sinh hoạt xã hội phục
vụ cho tính chất giai cấp của mình, vì thế mà sinh ra chênh lệch, mâu
thuẫn.
Người bình dân tuy sống ở
hoàn cảnh nghèo nàn, nhưng trong sinh hoạt họ vẫn có tinh thần bảo
vệ lấy nếp sống của họ. Họ không muốn ăn không ngồi rồi, họ không
muốn đem hình thức phong lưu bên ngoài để che đậy thực trạng của xã
hội. Đó là những khác biệt giữa tinh thần giai cấp. Đây, chúng ta
nghe họ nói :
« Có làm thì mới có ăn,
Không dưng ai dễ đem phần đến cho ».
Hình bóng thướt tha trong
lớp xiêm y của cô gái phòng khuê đẹp thật, nhưng cái đẹp ấy chỉ có
giá trị đối với cuộc sống phong lưu mà không thể trở thành cái đẹp
trong ý thức của cô thôn nữ tay lấm chân bùn.
Một chậu hoa, vài cành liễu trước mái hiên phất phơ trong
gió chiều. Đẹp thật ! Thơ mộng thật ! Nhưng cái đẹp ấy chỉ
là cái đẹp trong ý thức của kẻ nhàn rỗi, phong lưu, còn đối với
người bình dân họ chỉ thấy cái đẹp của luống cà xanh tươi, bụi ớt
sum trái, giàn bí nụ nhiều.
Chính những mâu thuẫn về
quan điểm xã hội khác biệt giữa các giai cấp khiến cho cuộc sống
của tầng lớp người mang một ý thức chống đối nhau.
Nhưng tại sao người bình dân
lại chống đối những trạng thái phong lưu đài các ? Nếu chúng ta
xét cho cùng thì không phải do họ lập dị. Trong cực khổ, ai lại không
muốn nhàn rỗi phong lưu, nhưng đối với họ, nhàn rỗi phong lưu phải do
sức mình tạo nên, chứ không bắt kẻ khác phải mang đến cho mình
hưởng. Tinh thần chống đối của họ là ở chỗ đó. Cho nên, trong ca dao
chúng ta thường nghe họ bảo nhau :
« Giàu sang thì cũng chẳng màng,
Khó khăn ta liệu, ta làm ta ăn ».
Hoặc : « Giàu đâu những kẻ ngủ trưa,
Sang gì những kẻ say sưa tối ngày ».
Giàu sang đối với họ không
là chuyện xấu, nhưng giàu sang phải tự mình tạo lấy, không phải sống
bám vào kẻ khác. Mà giàu sang tự tạo không phải là thứ giàu sang ăn
không ngồi rồi, chỉ biết hưởng lạc và khinh rẻ sức lao động.
Từ quan điểm xã hội chống
lại những bất công trong sinh hoạt, người bình dân đi đến mặc cảm giai
cấp. Họ chống lại tất cả những kẻ bị lôi cuốn xa rời ảnh hưởng
của giai cấp mình.
Đây, chúng tôi xin trích một
đoạn hát đối đáp giữa gái trai để chứng minh tinh thần chống đối
ấy :
GÁI : « Thân em như tấm giường ngà,
Anh như manh chiếu rách quăng ngoài đường ».
TRAI : « Lạy trời cho gió thổi lên,
Cho manh chiếu rách nằm trên giường ngà ! »
Tinh thần hai câu hát trên
bộc lộ ý thức chống đối mãnh liệt giữa hai giai cấp. Cho nên khi xã
hội loài người đem cuộc sống đánh giá con người trên giai cấp thì
chẳng bao giờ xóa bỏ được ý thức chống đối ấy.
4) Bất công về văn hóa
Nếu hình dung trạng thái
vũ trụ là một khối thống nhất trong riêng rẽ thì chúng ta phải thừa
nhận yếu tố cá biệt của vạn hữu. Mỗi dân tộc là một cá biệt, tuy
cùng là loài người, nhưng không dân tộc nào giống dân tộc nào về
tính chất, mà chúng ta gọi là dân tộc tính.
Dân tộc tính bắt nguồn từ
lối sống của dân chúng trong mỗi địa phương kết hợp lại tạo thành
một nền văn hóa. Nền văn hóa ấy dù có tiến bộ đến đâu cũng không
thể hòa đồng với một dân tộc khác khi hoàn cảnh và điều kiện sinh
hoạt không tương đồng.
Cũng trong một nước, khối
người đông đảo nhất là khối người bình dân, khối người đặt sinh hoạt
xã hội dính liền với tính chất địa phương. Họ là linh hồn của địa
phương, của khác biệt với mọi dân tộc khác trong nếp sống. Tất cả
những gì họ có, họ làm, họ suy tư chính là đặc tính của dân tộc.
Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng dân tộc tính là hình bóng sinh
hoạt của lớp người bình dân, và nền văn hóa dân tộc cũng chính là
những cảm nghĩ của họ phô diễn qua nếp sống tạo thành lịch sử văn
hóa dân tộc.
Người bình dân tuy không ai
bảo họ phải giữ gìn nền văn hóa do họ mà có, nhưng họ không thể
nào từ bỏ hoặc tách rời được, bởi lẽ mọi hành động, mọi cảm nghĩ
của họ phát xuất từ đặc tính địa phương mà họ đang sống. Cho nên
người bình dân và địa phương chính là một.
Ngày nay, trên thế giới
loài người sở dĩ tính chất của mỗi dân tộc còn tồn tại là nhờ ở
khối người bình dân của mỗi nước, duy trì những điều kiện sinh sống
của họ qua lịch sử thời gian. Và loài người, khi nói đến quốc gia,
dân tộc, ai cũng lấy làm hãnh diện với đặc tính của mình.
Tuy nhiên, lịch sử loài
người cũng lại chứng minh rằng lớp người quí tộc, lớp người thiểu
số trong quốc gia luôn bị ảnh hưởng ngoại lai, làm mất tính chất dân
tộc, bởi lẽ lớp người ấy chỉ sống dựa trên thế lực chính trị mà
không dựa trên cơ sở sinh hoạt địa phương. Chỉ có cơ sở sinh hoạt địa
phương mới đem lại cho con người một dân tộc tính, và dân tộc tính bao
giờ cũng phát xuất từ cơ sở sinh hoạt địa phương.
Với quan điểm trên, chúng ta
thấy rõ, trên phương diện văn hóa tự nhiên có sự mâu thuẫn giữa lớp
người bình dân và quí tộc.
Người bình dân chống lại nền văn hóa quí tộc tức là họ
chống lại nền văn hóa ngoại lai, duy trì dân tộc tính. Sự chống đối
ấy không phải do họ muốn, cũng như không hiểu tại sao họ chống, mà
họ chỉ biết rằng họ không thích những gì trái với tính chất sinh
hoạt của họ mà thôi.
*
Tóm lại, cuộc sống xã hội
từ xưa đến nay, lớp người chịu nhiều đau khổ nhất trong bất công
chính là lớp người bình dân, mà nguồn gốc là do sự chênh lệch trong
tổ chức điều hành xã hội.
Mọi phản ứng của người
bình dân trong lịch sử xã hội đều hướng đến mức độ điều hòa. Chỉ
có điều hòa mâu thuẫn mới tạo được một xã hội nhân tính. Và mọi
lý thuyết về đạo học cũng chỉ có kết quả trong cuộc sống loài
người khi nào xã hội loài người không bị chênh lệch trong yếu tố mâu
thuẫn giai cấp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét