Thi ca bình dân Việt Nam quyển 2
Xã hội quan 3
Nước Việt Nam chúng ta thời xưa đặt ý thức giáo dục nằm trong lãnh
vực đạo học, và chịu ảnh hưởng hệ thống tổ chức giáo dục của Trung-Quốc. Học
đường không truyền bá kinh nghiệm mưu sinh, cải tiến kỹ thuật sản xuất, mà chỉ
nằm gọn trong các giáo điều về đạo lý Nho-học, cốt sửa chữa con người sống cho
hợp với đạo làm người hơn là tạo cho con người trở thành một năng lực biến cải
thiên nhiên. Bởi vậy, nhân tài trong học giới là những trang nho sinh giỏi về
tầm chương trích cú, có năng khiếu về vịnh nguyệt đề thơ, làu thông kinh sử,
ngôn ngữ như lưu, đối đáp lẹ như chớp. Nếu cần bàn đến quốc sự thì họ đem đạo
làm người, đạo trị dân ra ứng đối, chứ không bao giờ nghĩ đến việc rèn vũ khí
tân kỳ giết cho nhiều địch quân. Nền học thuật như vậy, dĩ nhiên đo đạc nhân
tài an bang tế thế bằng văn chương, thi phú và thoát ra ngoài ý thức tiến bộ về
kỹ thuật mưu sinh. Họ tìm cái sống thanh cao của tinh thần hơn là cái sống
phong phú về vật chất, cho nên họ chủ trương thuyết « thanh bần và
trọc phú ».
Đó là nói chung về nền học thuật của quốc gia Việt-Nam thuở xưa.
Còn riêng đối với giai cấp bình dân, lớp người nghèo nàn trong thôn dã, ý thức
giáo dục của họ lại có chỗ khác. Một phần vì bận rộn sinh kế trong cuộc sống
hàng ngày, người bình dân làm sao có đủ thì giờ gần gũi với đèn sách mà các nho
sĩ thường gọi là công trình « thập niên đăng hỏa ». Mặt
khác, khi phải vật lộn với lẽ sống, người bình dân có một ý thức thực tế hơn.
Họ cảm thấy sức làm việc, những chịu đựng nhọc nhằn chính là phương tiện gần
gũi nhất đem lại cơm áo cho họ, cứu vãn họ trong hoàn cảnh đói rét, gian nguy.
Bởi vậy tuy sống trong vùng ảnh hưởng của đạo học, người bình dân vẫn đặt kỹ
thuật lao động ngang hàng với khả năng lý tính, tức là họ vẫn quý trọng khoa
học như đạo học.
Ý thức ấy đã phát lộ qua những câu ca dao như :
« Ai ơi chớ lấy học trò,
Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm ».
Học trò lúc bấy giờ tượng trưng cho kẻ thông làu đạo lý, nhưng học
trò cũng là kẻ vụng về nhất trong công việc làm ăn, trong kỹ thuật mưu sinh.
Chê học trò dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm chính họ muốn nói cái mớ kinh sử
trong nền đạo lý Nho học không đem lại cơm áo thực tiễn, mà đời sống con người
lại phải sống bằng thực tiễn, tức là sống bằng kỹ thuật lao động.
Đã ý thức như vậy, dĩ nhiên người bình dân có một quan niệm giáo
dục khác hơn. Quan niệm của họ là đặt ngang hàng hai giá trị giữa « đạo
làm người » và « đạo sinh sống ».
Nhưng chúng ta tìm đâu để chứng minh ý thức giáo dục của họ, khi
nền học thuật quốc gia dựa trên guồng máy cai trị phong kiến tổ chức hệ thống
học đường, mà đối với người bình dân thì không có gì cả ?
Xét về phương diện này, chúng ta phải thấy ở mỗi dân tộc đều có
hai nền văn học song hành với nhau, đó là nền văn học bác học và nền văn học
bình dân.
Nền văn học bình dân tuy không có một hệ thống học đường, song đơn
vị giáo dục của họ phát xuất từ gia đình, và hệ thống học đường của họ là những
chiếc nôi ru trẻ, những lũy tre làng, những mặt đê, những thềm giếng… ở đấy họ
diễn đạt tâm tư và lưu truyền trong xã hội.
Ý thức giáo dục của người bình dân nằm trong nền văn học bình dân.
Ý thức ấy bắt nguồn từ mỗi gia đình. Bởi vì, mỗi gia đình bình dân tuy phải lam
lũ ngày đêm trong việc mưu sinh, song không phải vì thế mà họ không chú trọng
đến ý nghĩa của cuộc sống. Họ vẫn mong sao cho vợ chồng được hòa thuận, con cái
được khôn ngoan để mai sau lớn lên đủ sức phấn đấu với đời, gánh vác trách
nhiệm gia đình. Do đó mà ý thức giáo dục gia đình của người bình dân phát sinh
trong yếu tố cần thiết.
Từ một đứa bé sơ sinh nằm trong chiếc nôi, chúng ta đã nghe tiếng
bà ru cháu :
« Ru con, con ngủ cho lâu,
Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về.
Cái ngủ mày ngủ cho say,
Mẹ mày vất vả chân tay tối ngày ».
Lời ru không phải để dạy đứa trẻ sơ sinh trong nôi, mà chính là
lời giáo huấn cho cả gia đình, cho những đứa bé đã đủ trí khôn thấy rằng cuộc
sống của loài người, của những kẻ nghèo hèn phải làm lụng vất vả, tay lấm chân
bùn mới đem lại ấm no được.
Đôi khi chúng ta lại nghe một con bé tóc còn để chỏm, nói chưa
tròn tiếng, vẫn ôm em trên chiếc võng, ru :
« Một mai ai chớ bỏ ai,
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim ».
Ý nghĩa câu hát rất sâu xa và thâm thúy đến nỗi người lớn cũng khó
lòng hiểu cho tường tận. Thế mà đứa bé còn tanh mùi sữa mẹ kia lại thuộc làu
làu, và dùng trong việc hát ru em. Tại sao ? Chỉ vì câu hát ấy nó đã được
nghe mẹ nó ru nhiều lần khi nó còn bé, làm cho nó thuộc lòng, mặc dù nó không
hiểu ý nghĩa ra sao cả. Nhưng mẹ nó cũng chưa cần nó hiểu vội, mà chỉ cần câu
hát ấy chìm lắng trong tiềm thức nó, để rồi một ngày nào đó, cũng có thể là lúc
mẹ nó đã từ trần, hoặc không còn gần gũi nó nữa, cuộc sống sẽ đem đến cho nó ý
nghĩa sâu xa trong câu hát mà từ nhỏ đến lớn nó chưa bao giờ cần tìm hiểu.
Lối giáo dục trong gia đình bình dân tuy không đặt hình thức rõ
ràng, song lại là phương pháp rất có hiệu quả. Cũng như các cụ già nhà quê, khi
đến tuổi lão thành, răng long, tóc bạc, thường đem những chuyện cổ tích kể lại
cho con cháu nghe trong những đêm trăng, hoặc quây quần dưới ánh đèn để làm
vui. Những câu chuyện ấy tồn tại mãi trong trí nhớ của trẻ thơ, mà sau này, lúc
lớn lên, dù đứa bé có tiêm nhiễm nếp sống bên ngoài, những tập tục ngoại lai,
thì tính chất dân tộc trong con người nó vận giữ lại được cái gì căn bản.
Rất tiếc ngày nay phong tục tốt đẹp ấy bị các bậc già nua bỏ
rơi ! Gia đình Việt-Nam đoàn tụ mỗi buổi tối không còn là trường sở của
dân tộc nữa ! Trong lúc trẻ em xa rời những hình thức giáo dục của dân tộc
thì chúng ta lại gần gũi với sắc thái của các dân tộc khác. Trước kia chúng
chơi những trò chơi đặc thù của dân tộc thì ngày nay chúng lại chơi những trò
chơi của trẻ con ngoại quốc, chẳng hạn như làm cao bồi bắn súng, nhảy múa theo
mọi Phi-châu. Chỉ vì chúng không còn được nghe ông bà kể chuyện cổ tích trong
những đêm trăng, hoặc quây quần dưới ánh đèn, mà thay vào đấy chúng xem ròng
phim ảnh cao bồi, đọc báo chí phỏng theo hình vẽ các tập tục của ngoại bang.
May thay, đó chỉ ảnh hưởng vào những gia đình ở thành thị. Thôn
quê Việt-Nam, trong giới bình dân vẫn còn di lưu được phương pháp giáo dục dân
tộc. Những chiếc võng còn được dùng ru con, các cụ nhà quê vẫn còn giải buồn
bằng lối kể chuyện, nên ý thức giáo dục bình dân chưa phải đã mai một.
Trên đây chúng ta mới nói qua phương pháp giáo dục, chưa đi sâu
vào ý thức.
Về ý thức giáo dục của người bình dân, chúng ta vẫn thấy họ đã quan
niệm như là một yếu tố quan trọng trong cuộc sống tập đoàn. Họ bảo :
« Sinh con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng ».
Quan niệm trên chứng tỏ người bình dân không chỉ chú trọng đến thể
xác con người, mà còn chú trọng đến cả tinh thần nữa. Họ ví nuôi con không phải
như nuôi lợn, lây lất qua ngày để cho lợn chóng lớn mà bán đi, hoặc ăn thịt. Họ
tự đặt bổn phận làm cha mẹ phải có trách nhiệm gia đình. Đó là trách nhiệm nuôi
con và dạy con.
Ý thức trách nhiệm ấy phát xuất từ quan niệm bảo tồn nòi giống. Dù
trong hoàn cảnh nghèo nàn, khổ cực, người bình dân không vì thế mà không quí
trọng giống nòi của mình. Nòi giống đối với họ không phải ý thức trên giai cấp,
địa vị xã hội, mà ý thức trên tình thương của cá biệt :
« Sinh con ai có sinh lòng,
Sinh con ai chẳng vun trồng cho con ».
Trong xã hội, dù hạng người nào, tính chất cá biệt vẫn là tính
chất tự trọng, tự ái. Sở dĩ tâm hồn và nếp sống mỗi người một khác nhau là do
màu thời gian, tức là hoạt cảnh sinh hoạt đúc kết, cho nên mọi tình thương, mọi
sự tương đồng nếu không cùng chung nhau một màu thời gian thì không thể nào hòa
hợp được ! Người bình dân cố đem những trạng thái sinh hoạt của mình để
vun đắp cho đứa con chính là họ muốn phủ lên đứa con mình một màu thời gian
tương hợp với màu thời gian của gia đình. Khi trạng thái tâm tư đã tương hợp
thì tình thương tất nhiên nảy sinh trong yếu tố bảo tồn tính chất cá biệt của
gia đình.
Ý thức trên đây đã được chứng minh qua các câu ca dao như :
« Có con gầy dựng cho con,
Gọi là nối đức tổ tông dõi truyền ».
Tại sao phải gầy dựng cho con mới làm cho đứa con nối đức tổ
tiên ?
Điều này chúng ta thấy rõ đạo làm cha mẹ không ai muốn con cái
mình không sống theo tính chất cá biệt của nòi giống. Nếu mỗi dân tộc trong thế
giới loài người, dù nền văn minh khoa học cơ giới có tiến bộ đến đâu, họ cũng
muốn giữ lại dân tộc tính của mỗi địa phương, thì đối với mọi gia đình, dù giàu
nghèo, sang hèn họ vẫn muốn di lưu mọi nếp cổ truyền của họ. Do đó, họ ý thức
việc giáo dục gia đình là trọng hệ, và những con cái nào không nghe lời cha mẹ
sống theo tập tục gia đình đều bị coi là hư hỏng. Cho nên, ca dao Việt-Nam có
câu :
« Cá không ăn muối cá ươn,
Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư ».
Cưỡng lại cha mẹ tức là thoát ra ngoài tập tục gia đình, và như
thế tức là phản lại dòng giống.
Ý thức giáo dục gia đình của người bình dân còn rút tỉa những kinh
nghiệm xã hội để áp dụng nữa. Nếu ngoài xã hội, người ta đã thấy :
« Thuốc đắng đả tật,
Lời thật mất lòng ».
Thì ở trong gia đình họ cũng áp dụng đối với việc giáo dục con
cái, như :
« Thương con cho roi cho vọt,
Ghét con cho ngọt cho bùi ».
Trong phạm vi giáo dục, họ cốt sao cho đạt được kết quả, vấn đề
thương ghét không nằm trong tình cảm bề ngoài. Hơn nữa, họ còn có những kinh
nghiệm dạy con qua thời gian tuổi tác. Ví dụ :
« Dạy con dạy thuở nên ba,
Uốn tre uốn thuở măng ra khỏi bèo ».
Mọi cá thể trong vũ trụ đều trưởng thành trên dung lượng và màu
thời gian. Dung lượng và màu thời gian càng tăng trưởng thì tính chất mỗi cá
thể càng cấu kết khó mà uốn nắn theo chiều hướng khác được. Tính chất cá biệt
cũng do trạng thái ấy mà ra. Cho nên, muốn uốn nắn mỗi cá thể cho phù hợp với ý
muốn của mình, người bình dân đã để ý là phải làm ngay trước khi dung lượng và
màu thời gian cấu tạo thành cá biệt của mỗi cá thể.
Một búp măng ngả ngọn về Đông, búp măng ấy còn non vì dung lượng
thời gian chưa làm cho thân măng cứng cáp như tre. Vì vậy cây măng chưa trở
thành cá biệt, chúng ta có thể uốn nắn được.
Với nguyên tắc ấy, ý thức giáo dục gia đình được áp dụng :
« Dạy con từ thuở còn thơ,
Dạy vợ, dạy thuở bơ vơ mới về ».
Thì đó chính là một kinh nghiệm mà đến ngày nay chúng ta vẫn thấy
không sai.
Trên đây chúng ta vừa khảo cứu qua hai phần phương pháp và ý thức
giáo dục gia đình. Còn đường hướng giáo dục gia đình thì sao ?
Quan niệm người bình dân tuy phức tạp, song đường hướng của họ
trên phương diện giáo dục, chúng ta cũng có thể chia thành hai phần căn
bản : phần dạy về lối « làm người » và phần dạy về lối
« làm ăn ».
Phần « làm người » thuộc về đạo học, người bình dân tuy
không phải là kẻ được ưu đãi trong trường học thuật nho giáo, song sống dưới xã
hội phong kiến, họ vẫn chịu ảnh hưởng phần nào. Ví dụ :
« Đã sinh ra kiếp ở đời,
Trai thời trung hiếu đôi vai cho tròn.
Gái thời trinh tiết lòng son,
Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chút sai.
Trai làng gái tốt ra người,
Khuyên con trong bấy nhiêu lời cho chuyên ».
Đạo trai trung hiếu, gái tiết trinh là đạo thờ vua, thờ chồng
trong nho học, nhưng đối với người bình dân quan niệm ấy cũng được phổ biến
trong ý thức giáo dục gia đình thì đó chỉ là ảnh hưởng được truyền đạt qua nền
văn chương bác học. Hoặc giả chúng ta bắt gặp những câu ca dao như :
« Lúc em bước chân ra
Má ở nhà có dặn :
Công sanh thành là nặng,
Điều tình ái là khinh,
Đừng nên tham sắc đắm tình,
Lánh xa tửu điếm trà đình chớ vô ! »
Ý thức giáo dục trên nằm trong lý tính, dùng lý tính tỏa chiết bản
năng dục vọng và tình cảm. Đó cũng là căn bản giáo lý của đạo nho. Tuy nhiên,
đối với người bình dân họ lại có ý hướng chung thủy với ái tình, vì vậy, đôi
khi trong nho học cũng có những cái trùng hợp đối với quan điểm của họ, và du
nhập vào ý thức họ một cách tự nhiên.
Những ảnh hưởng trong quan niệm nho giáo đối với người bình dân
rất nhiều, chúng ta không sao kể xiết, chỉ ghi lại ở đây một số tiêu biểu mà
thôi. Ví dụ :
« Phận gái tứ đức vẹn tuyền,
Công dung ngôn hạnh giữ gìn chớ sai.
Công cha nghĩa mẹ chớ quên,
Ơn vua lộc nước mong đền con ơi.
Như vầy mới gọi rằng trai,
Trên lo nghĩa chúa, dưới đền hai thân.
Thờ cha kính mẹ hết lòng,
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường.
Chữ Đễ nghĩa là nhường,
Nhường anh, nhường chị, lại nhường người trên.
Ghi lòng tạc dạ chớ quên,
Con em phải giữ lấy nền con em ».
Tuy nho giáo dựa trên ý thức phụ quyền, củng cố chế độ phong kiến,
nhưng một mặt lại dựa trên căn bản đạo nghĩa, vì vậy đối với cuộc sống người
bình dân, phần đạo nghĩa vẫn được họ tán thưởng.
Trong quyển « Kinh-Thi Việt-Nam », ông Trương-Tửu đã viện dẫn những ý thức
chống phụ quyền của người bình dân để kết luận rằng người bình dân chống nho
giáo, thực ra đó chỉ là một nhận xét quá khích. Người bình dân Việt-Nam không
chống giáo lý Khổng Mạnh, mà chỉ chống những gì bất công của chế độ phong kiến
mà thôi. Bởi vậy, trong ý thức đạo học, tức là ý thức làm người, người bình dân
vẫn có nhiều chỗ không trái với nho giáo. Ví dụ nho giáo chuộng về nhân đức :
« Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta trồng cây đức để đời về sau ».
Nho giáo phản đối ý thức bản năng, đề cao ý thức vị tha, thì người
bình dân cũng có những câu hát như :
« Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ ».
Những gì vật chất không tồn tại, chỉ có tinh thần di lưu trong cảm
giác con người mới bền vững, và không bao giờ mất. Bởi vậy họ bảo nhau :
« Người đời hữu tử hữu sanh,
Sống lo xứng phận, chết dành tiếng thơm ».
Cùng với ý thức vị tha, người bình dân xem sự giúp đỡ của người
khác là trọng, nên thường dạy con cái trong gia đình :
« Ơn ai một chút chẳng quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng ».
Hoặc : « Ăn trái nhớ kẻ trồng cây,
Nào ai vun quén cho mày, mày ăn.
Ta đừng phụ nghĩa vong ân,
Uống nơi nước lã nhớ chừng nguồn kia ».
Hay : « Ăn trái nhớ kẻ trồng cây,
Ăn gạo nhớ kẻ đâm, xay, giần, sàng ».
Dạy con cái nhớ ơn kẻ khác tức là người bình dân đã tìm thấy ý
nghĩa trong đạo sống hợp quần của con người. Họ đặt ý thức tập đoàn trên ý thức
cá nhân. Bởi vậy, ý thức « làm người » của họ, nếu không phải là hành
động chống đối, phá phách những bất công trong xã hội, họ vẫn dùng lý tính để
trấn áp bản năng của họ để cho những mâu thuẫn giữa cuộc sống loài người không
vì cá nhân mà sinh biến động. Ý thức ấy đã bộc lộ qua các câu ca dao như :
« Làm người mà chẳng biết suy,
Đến khi nghĩ lại còn gì là thân ».
Hoặc : « Làm người phải đắn phải đo,
Phải cân nặng nhẹ, phải dò nông sâu ».
Từ chỗ dùng lý tính điều khiển bản năng, người bình dân còn đi đến
ý thức tự chế lấy mình trong sinh hoạt tập thể mà nho giáo gọi là đạo tu thân.
Ví dụ :
« Vàng sa xuống giếng khôn tìm,
Người sa lời nói như chim sổ lòng ».
Hay : « Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau ».
Hoặc : « Thổi quyển phải biết chuyền hơi,
Khuyên người phải biết lựa lời khôn ngoan ».
Đã có ý thức dùng lý tính tỏa chiết bản năng, tất người bình dân
phải đi đến chỗ nhịn nhục, như :
« Chim khôn tránh bẫy, tránh giò,
Người khôn tránh kẻ hồ đồ mới khôn ».
Và họ tiến đến chỗ khuyên nhau ăn ở thật thà, như :
« Hay gì lừa đảo kiếm lời,
Cả nhà ăn uống, tội trời riêng mang ».
Hoặc khuyên nhau từ bỏ những thói say mê của dục tính :
« Cờ bạc là bác thằng bần,
Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm ».
Hoặc : « Cờ bạc là bác thằng bần,
Cửa nhà bán hết ngồi trần tô hô ».
Nói chung, về ý thức làm người, dù sống trong nghèo nàn, khổ cực,
người bình dân đã chịu ảnh hưởng đạo lý Á-đông, nên tính chất vẫn xây dựng trên
căn bản vị tha, tương thân tương ái.
Qua phần « làm ăn », tức là ý thức giáo dục về kỹ thuật
sinh hoạt, người bình dân cũng cho là quan trọng như ý thức giáo dục làm người.
Họ bảo :
« Làm người chẳng biết lo xa,
Trẻ thơ đã vậy, mai già thì sao ?
Mỗi năm, mỗi tuổi, mỗi già,
Chẳng lo liệu trước ắt là lụy sau.
Nói chín thì làm nên mười,
Nói mười làm chín kẻ cười người chê ».
Vì sống trong cảnh mồ hôi nước mắt để mưu sinh, người bình dân có
một tinh thần thực tế hơn những giai cấp khác trong xã hội. Họ quan niệm nếu
chỉ sống theo đạo làm người mà không nghĩ đến lề lối làm việc thì đạo làm người
cũng chẳng thế nào đạt được. Quan niệm ấy đã biểu lộ trong câu hát hài
hước :
« Nhất sĩ, nhì nông,
Hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ ».
Thật vậy, đạo lý chỉ giúp loài người biết cách sống hòa nhã trong
tính chất tập đoàn, mà không thể giúp con người có đủ phương tiện để nuôi sống
thân xác. Với ý thức ấy, người bình dân đã dạy con cái trong gia đình :
« Vất vả, có lúc thanh nhàn,
Không dưng ai dễ mang tàn che cho ».
Hoặc : « Có khó mới có miếng ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho ».
Khi đặt tầm quan trọng giữa ý thức làm người và ý thức làm ăn
ngang hàng nhau, tất nhiên họ phải khuyên nhủ con cái lo thức khuya dậy
sớm :
« Năm canh thì ngủ lấy ba,
Hai canh lo lắng việc nhà làm ăn ».
Hoặc : « Con ơi muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thời giữ việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.
Trai thời đọc sách ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân ».
Học hành và làm lụng, hai yếu tố ấy đều được người bình dân phối
hợp với nhau như hình với bóng, không thể tách rời. Nhưng, nói đến gia đình thì
người đàn bà được xem như là kẻ nội trợ, nên ý thức giáo dục đàn bà có khác hơn
đôi chút, ví dụ :
« Con ơi, mẹ bảo con này,
Học buôn, học bán cho tày người ta.
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
Dù no dù đói cho tươi,
Khoan ăn bớt ngủ, liệu bài lo toan.
Phòng khi đóng góp việc làng,
Đồng tiền bát gạo sửa sang cho chồng.
Trước là đắc nghĩa cùng chồng,
Sau là họ mạc cũng không chê cười.
Con ơi nhớ bấy nhiêu lời ! »
Chú trọng đến công việc làm ăn, người bình dân chẳng những rèn
luyện con cái tinh thần biết lo lắng, làm lụng mà thôi, họ còn dạy con cái phải
theo đuổi nghề nghiệp để cải tiến kỹ thuật. Ví dụ :
« Nào nghề bánh trái những là
Đến khi kỵ chạp trong nhà càng hay.
Bán buôn canh cửi kia thay,
Sinh nhai phải giữ trong tay một nghề.
Bây giờ chẳng liệu thì quê,
Mai sau cùng túng không nghề làm ăn ».
Nói đến nghề nghiệp tức là nói đến kỹ thuật, bởi vì kỹ thuật là
kết quả của thói quen, của khéo léo, cho nên chúng ta không thể bảo rằng người
bình dân thời xưa không có óc khoa học. Óc khoa học bắt đầu từ ý thức cải tiến
kỹ thuật và đi dần đến chỗ sáng chế, phát minh.
Chú trọng đến nghề nghiệp tức là bước đầu của khoa học rồi. Đây,
chúng ta nghe họ dạy con cái trong tinh thần yêu chuộng nghề nghiệp :
« Con ơi, phải trọng mọi nghề,
Chớ thấy cực nhọc mà chê là hèn.
Chọn nghề hợp với khả năng,
Là thành tinh xảo, tiền trăm bạc ngàn.
Con ơi, yêu lấy nghề cha,
Dù cho vất vả, nghề nhà đã quen.
Nghề tôi, tôi quí, tôi yêu,
Dù cho cực nhọc, dù nhiều khó khăn.
Nghề nhà, ta gắng, ta dồi,
Ngày thêm tinh xảo, ích đời lợi ta ».
Tóm lại, đối với người bình dân, gia đình là cơ sở giáo dục, và ý
thức giáo dục gia đình của họ chia làm hai lãnh vực : lãnh vực làm người
tức là rèn luyện đạo lý, và lãnh vực sinh hoạt tức là tinh thần tự lực cách
sinh, cải tiến kỹ thuật.
3) Tuyển tập ca dao tiêu biểu
1. « Ăn lắm thì hết miếng ngon,
Nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ ».
2. « Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư ».
3. « Cá không ăn muối cá thối.
Người không ăn lời người hư ».
4. « Có cha, có mẹ thì hơn,
Không cha, không mẹ như đờn đứt dây ».
5. « Có tiền thì hậu mới hay,
Có trồng cây đức, mới dầy nên nhân ».
6. « Con tài, lo láo lo kiêu,
Con ngu thì lại lo sao kịp người ».
7. « Con gái mười bảy chớ ngủ với cha,
Con trai mười ba đừng nằm với mẹ ».
8. « Con hư bởi tại cha dong,
Vợ hư bởi tại thằng chồng cả nghe ».
9. « Còn cha gót đỏ như son,
Đến khi cha chết gót con đen sì ».
10. « Còn cha nhiều kẻ yêu vì,
Một mai cha thác ai thì yêu con ? »
11. « Công cha như núi Thái-sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ».
12. « Cơm no, nọ phải quà chi,
Con còn ấm ách mẹ thì không thương ».
13. « Cười người chớ khá cười lâu,
Cười người tháng trước, tháng sau người cười ».
14. « Chồng cô, chồng cậu, chồng dì,
Trong ba người ấy chết thì không tang ».
15. « Chữ rằng hổ tử lưu bì,
Làm người phải để danh gì hậu lai ».
16. « Dạy con, con chẳng nghe lời,
Con nghe ông hểnh đi đời nhà con ».
17. « Dạy con từ thuở thiếu sanh,
Gần thầy, gần bạn tập tành lễ nghi.
Học cho cách vật trí tri,
Văn chương chữ nghĩa nghề gì cũng thông ».
18. « Dốt kia thì phải cậy thầy,
Vụng kia cậy thợ thì mày làm nên ».
19. « Đã có một lượt thì thôi,
Lượt này, lượt khác người đời khinh chê ».
20. « Đàn ông chớ kể Phan-Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy-Vân, Thúy-Kiều ».
21. « Đàn ông học sẩy, học sàng,
Đến cơn vợ đẻ phải làm mà ăn ».
22. « Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn ».
23. « Hễ muốn ra con người tử tế,
Phải dễ dàng, chớ để ai hờn.
Làm ơn, ắt hẳn nên ơn,
Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ ».
24. « Kẻ ăn người ở trong nhà,
Sớm khuya công việc giúp ta nhọc nhằn.
Thương người đày đọa chút thân,
Chớ nên ngược đãi, lòng nhân mới là ».
25. « Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau ».
26. « Khôn ngoan đá đáp người ta,
Anh em trong nhà chớ đá lẫn nhau ».
27. « Làm sao giữ trọn đạo ba,
Sau dầu có thác cũng là thơm danh ».
28. « Làm trai thì ở cho trung,
Chớ ở hai lòng mà hóa dở dang ».
29. « Làm thân con vạc mà chẳng biết lo,
Bán đồng cho cò nên phải ăn đêm ».
30. « Làm trai chí ở cho bền,
Chớ lo muộn vợ, chớ phiền muộn con.
Ai chồng, ai vợ, mặc ai,
Bao giờ ra bảng ra bài sẽ hay ».
31. « Làm thơ mà dán cây chanh,
Em bỏ học hành, một chữ năm roi ».
32. « Làm anh, ăn trước bước đầu,
Vẽ vời em út ngõ hầu thay cha ».
33. « Làm người suy tính xét xa,
Cho tường gốc ngọn, cho ra vắn dài ».
34. « Làm trai cờ bạc thì chừa,
Rượu làng thì uống, rượu mua thì đừng ».
35. « Lấy chồng thì phải theo chồng,
Thôi đừng theo thói cha ông nhà mình ».
36. « Mặc ai ép nghĩa nài tình,
Phận mình là gái, chữ trinh làm đầu ».
37. « Mật ngọt là tổ chết ruồi,
Những nơi cay đắng là nơi thật thà ».
38. « Mẹ cha đã nhủ con rồi,
Con đâu lại dám cãi lời mẹ cha ».
39. « Một lần cho tởn đến già,
Đừng đi nước mặn mà hà ăn chân ».
40. « Muốn may thì phải có kim,
Muốn hay thì ắt phải tìm người xưa ».
41. « Muốn sang thì bắc phù kiều,
Muốn cho hay chữ phải yêu mến thầy ».
42. « Mười năm lưu lạc giang hồ,
Một ngày tu tác cơ đồ lại nên ».
43. « Năm năm, tháng tháng, ngày ngày,
Lần lần, lữa lữa, rày rày, mai mai ».
44. « Ngồi rồi sao chẳng xe gai,
Đến khi có cá, mượn chài ai cho ».
45. « Người khôn chưa đắn đã đo,
Chưa đi đến bể đã dò nông sâu ».
46. « Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê ».
47. « Ở đây gần bạn, gần thầy,
Có công mài sắt có ngày nên kim ».
48. « Quân tử ư hử thì đau,
Tiểu nhân vác đá đánh đầu như không ».
49. « Ru con a hả a hà,
Con nín mẹ hả, con la mẹ buồn ».
50. « Rượu ngon uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm dầu hay cũng nhàm ».
51. « Tại gia tòng phụ,
Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử ».
52. « Tang bồng tích hỡi vân vi,
Bé nghe cha mẹ, lớn thì nghe anh ».
53. « Trời sinh ra để làm người,
Hay ăn, hay nói, hay cười, hay chơi.
Khi ăn thì phải lựa mùi,
Khi nói thì phải lựa lời chớ sai,
Cả vui chớ có vội cười,
Nơi không lễ phép chớ chơi làm gì ».
54. « Vay một thì ta trả mười,
Phòng khi túng lỡ có người cho vay ».
e) Những khắc khoải của tình yêu qua phong tục lễ giáo
Phong tục là gì ? Lễ giáo
là gì ?
Như chúng ta đã biết, phong
tục, lễ giáo là sợi dây ràng buộc con người theo chiều hướng sinh hoạt của một
dân tộc. Khi con người sống chung thành tập đoàn dĩ nhiên phải có những tập
tục. Nó là khuôn khổ bắt buộc cá nhân phải phục tùng đoàn thể để cho cuộc sống
được hòa hợp với nhau. Bởi vậy, không một dân tộc nào, dù văn minh hay lạc hậu
mà không có phong tục, lễ giáo.
Phong tục, lễ giáo phát xuất từ
hoàn cảnh sinh hoạt địa phương nên không giống nhau. Mỗi nước, mỗi dân tộc có
một phong tục, lễ giáo riêng mà không dễ gì đồng hóa được.
Nói như thế không có nghĩa là
phong tục, lễ giáo của một nước, một dân tộc lúc nào, thời gian nào cũng đứng
yên, không thay đổi. Lịch sử xã hội loài người luôn luôn đi tới, trạng thái
sinh hoạt đổi thay thì phong tục, lễ giáo cũng theo đà tiến ấy mà biến đổi. Nó
là sự dung hợp của cuộc sống, từ liên hệ gia đình đến liên hệ quốc gia, nhân
loại. Tuy nhiên, chúng ta đừng tưởng sự hòa hợp của thời gian và không gian sẽ
đi lần đến chỗ đồng hóa nếp sống nhân loại. Không ! Mỗi dân tộc dù mở rộng
phạm vi sinh hoạt đến đâu, dù tiến triển đến mức nào vẫn ảnh hưởng trên con
đường cá biệt để tạo lấy địa phương tính, dân tộc tính. Nói một cách hạn hẹp
thì mỗi dân tộc chia làm nhiều giai cấp, mà mỗi giai cấp, phong tục, lễ giáo
lại cũng không giống nhau, dù lịch sử xã hội có diễn biến đồng loạt đi nữa. Như
vậy, thế giới loài người không thể nào tiến đến chỗ hòa đồng phong tục, lễ giáo
được.
Đã không thể hòa đồng tức không
thể tiêu diệt được mâu thuẫn cá biệt.
Về phong tục, lễ giáo cũng
thế ! Nếu nếp sống của tập thể tạo cho mỗi địa phương có một lề lối tập
đoàn, thì chính cá nhân trong tập thể lại trở thành nạn nhân của lề lối ấy, bởi
vì tính chất đổi mới của mỗi cá thể bao giờ cũng đi trước sự đổi mới của tập
thể. Do đó, tự nghìn xưa tận trời Âu cõi Á, trong xã hội loài người chẳng bao
giờ cuộc sống cá nhân được thỏa mãn trong tập tục, và ngược lại, tập tục vẫn
được duy trì dưới hình thức tập thể trong tính chất địa phương và dân tộc.
Nước Việt-Nam chúng ta, tự
nghìn xưa, giai cấp bình dân vẫn sống trong tập tục cổ truyền. Những tập tục đó
chính là quan điểm xã hội chung cho một giai cấp. Tuy nhiên, không vì thế mà cá
nhân họ không ràng buộc trong yếu tố mâu thuẫn tất yếu giữa cá thể và tập thể.
Cũng như khi lẽ sống tập thể được bảo vệ thì lẽ sống cá nhân phải bị thiệt thòi
trong quan niệm tuyệt đối.
Nói như thế cũng có nghĩa là
chúng ta đề cập bản năng dục vọng và đạo sống của con người. Bản năng dục vọng
phát xuất từ cá nhân mà đạo sống là sự dung hợp giữa con người và con người.
Cho nên, đạo sống bao giờ cũng kềm hãm dục vọng cá nhân làm cho dục vọng cá
nhân luôn luôn tự thấy mình như bị tước đoạt mất cả tự do, và ý nghĩa của nó.
Để minh định ý nghĩa giữa đạo
sống và dục vọng cá nhân, ở đây chúng ta cũng nên đi xa hơn một chút vào lịch
sử diễn biến của hai yếu tố ấy.
Trước nhất, chúng ta quan niệm
đạo sống không phải là tôn giáo, tín ngưỡng. Đạo sống không phát nguồn từ đức
tin của cá nhân, mà khơi mạch trong yếu tố hòa hợp của tập thể. Đạo sống không
phải xây dựng trên một ức thuyết của tôn giáo, mà tác thành một cách khách quan
do yếu tố sinh tồn của loài người đối với vũ trụ, được cuộc sống tập thể của xã
hội đúc kết, khiến mỗi cá nhân trong tập thể dù muốn dù không cũng phải thừa
nhận để bảo vệ cho tập thể.
Từ chỗ ý thức sự liên hệ giữa
cá nhân trong tập thể, đạo sống của loài người hình thành và tạo ra những phong
tục. Vậy phong tục căn cứ vào hoàn cảnh sinh sống của mọi địa phương, và chúng
ta cũng có thể gọi nó là đạo sống của một dân tộc.
Đạo sống ấy được tập thể bảo vệ
và di lưu trong sinh hoạt xã hội hàng ngày với một tính chất thiên nhiên, có
liên hệ đến mọi sinh tồn của vạn hữu.
Như vậy, không một dân tộc nào
sống thành xã hội mà sự sống chung không tạo cho họ một đạo sống, và đạo sống
ấy trở thành phong tục, tập quán.
Loài người vì sống chung mà có
đạo, cũng như vũ trụ vì kết hợp vạn hữu mà có qui luật thiên nhiên trong hệ
thống biến dịch. Đạo của loài người tức là ý thức chung của xã hội khi đặt cá
nhân mình vào tập thể. Như vậy, đạo ở đây không phải là tôn giáo, mà là ý thức
làm người trong lẽ sống tập thể, có liên hệ đến vạn hữu trong vũ trụ.
Mặt khác, đạo sống con người
cũng như qui luật biến dịch của vạn hữu, không phải đứng yên, mà thay đổi theo
đà tiến triển của hoàn cảnh sinh hoạt. Do đó, xã hội loài người lợi dụng sự
biến đổi sinh hoạt ấy, hướng ý thức của đạo làm người đến chỗ mê tín, giáo
điều, tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi cho lẽ sống cá nhân, cho giai cấp, là
làm sai lạc căn bản của đạo, và tạo thành một dòng đạo sử trong xã hội loài
người. Do đó, ý nghĩa của đạo là dung hợp lẽ sống tập thể thì lại trở thành lợi
khí để loài người dùng chinh phục tập thể, tạo thành mâu thuẫn xã hội.
Thực ra, đã là đạo thì không có
hệ phái, không có giáo lý. Đạo không phải do ai dạy mà biết. Đạo phải tự cá
nhân con người cảm thấy trong lẽ sống mà phát xuất ra ngoài. Ví dụ trong mỗi
dân tộc, mỗi bộ lạc, những phong tục, tập quán của họ không phải một cá nhân
nào đặt ra và đem dạy cho ai cả, tuy nhiên mọi người đều cảm ứng và duy trì
mãi.
Ở Trung-Hoa các bậc hiền triết
như Khổng-Tử, Lão-Tử, Trang-Tử đều là những nhà có công với đạo học, ứng cảm
được ý thức trong lẽ sống của tập thể, đúc kết thành những thiên đạo học để phổ
biến trong xã hội loài người, tuy nhiên việc làm của các bậc trí thức ấy đã bị
xã hội loài người lợi dụng, biến đạo học thành công cụ để phục vụ cho cá nhân,
cho giai cấp, và xuyên tạc ý nghĩa của đạo học.
Sở dĩ chúng ta phải nói ở đây
là vì xã hội Việt-Nam thuở xưa chịu ảnh hưởng rất nhiều nền đạo học Khổng Mạnh
đã bị guồng máy phong kiến lợi dụng.
Qua đến dục vọng cá nhân. Nếu
chúng ta thấy Đạo là ý thức dung hợp của tập thể để bảo vệ quyền lợi sống chung
thì dục vọng cá nhân chính là sức phản động để bảo vệ cái riêng rẽ của cá thể.
Mà cá thể với tập thể tuy mâu thuẫn, song vẫn đi đúng theo qui luật biến động
của thiên nhiên. Vì vậy, chúng ta có thể nói cá thể và tập thể là sức mâu thuẫn
thống nhất, nghĩa là có sự xung đột trong trạng thái hòa hợp.
Nhưng, đó là nói với ý nghĩa
chân chính của Đạo. Còn nếu một khi đạo đã bị bóp méo để lợi dụng, thì sự mâu
thuẫn của dục vọng cá nhân không còn nằm trong trạng thái thích hợp nữa, mà trở
thành một phản động lực đập thẳng vào sự méo mó ấy, gây thành xáo trộn xã hội.
Dục vọng cá nhân cũng như đạo
lý, diễn biến thành một dòng lịch sử trong xã hội loài người. Nếu trí khôn con
người biết tìm cách biến chế đạo lý thành công cụ khống trị xã hội, thì dục
vọng cá nhân cũng nhờ vào trí khôn con người cải tiến sinh hoạt, sáng chế những
phương tiện sinh sống, tranh đoạt những hưởng thụ về cho dục vọng cá nhân, và
xóa bỏ những đạo lý méo mó do trí khôn con người ngụy tạo. Đó là con đường tiến
đến khoa học.
Ở đây chúng ta không được phép
đi quá xa. Khuôn khổ bài khảo luận này buộc chúng ta phải trở về với tâm tư
người bình dân thời xưa, cái thời mà phong tục lễ giáo của xã hội phong kiến
đang dùng sức mạnh ngụy tạo trấn áp dục vọng cá nhân, trong lúc dục vọng cá
nhân chưa đủ phương tiện để đập phá, thoát ra ngoài vòng cương tỏa của nó.
Trong phạm vi dục vọng cá nhân,
chúng ta thấy sức phản ứng rõ rệt nhất đối với phong tục, lễ giáo là tình yêu.
Bởi vậy, trong ca dao bình dân, chúng ta không thể nào góp nhặt hết những mảnh
tâm hồn yêu đương bị tan rã vì trở ngại xã hội, không được gần gũi, sống chung
nhau. Dĩ nhiên trở ngại xã hội không ngoài sự ràng buộc của phong tục, lễ giáo.
Tiếng rên than đau đớn càng nhiều trong chia cách, chúng ta càng thấy sức mâu
thuẫn giữa dục vọng cá nhân và tập tục của xã hội càng mãnh liệt.
Ngoài phần lớn ảnh hưởng do
ràng buộc của phong tục, lễ giáo còn có nhiều nguyên nhân khác nữa. Như ngày
nay, giữa thế hệ chúng ta đang sống, đâu phải vì phong tục, lễ giáo ràng buộc,
mà tình yêu giữa gái trai vẫn mang những khắc khoải, đau buồn còn khốc liệt hơn
ngày xưa. Khi đặt vấn đề như thế, chúng ta sẽ có dịp soát xét. Nếu ngày xưa,
dưới thời phong kiến, nền đạo học ngụy tạo đã trở thành một năng lực tuyệt đối,
trấn áp dục vọng cá nhân, làm nẩy ra mầm mâu thuẫn sâu sắc giữa dục vọng cá
nhân và phong tục lễ giáo, thì ngày nay, lịch sử dục vọng cá nhân đã đánh đổ cả
nền móng đạo lý, hình thành một nếp sống trên lãnh vực dục vọng cá nhân, biến
trật tự của xã hội lý tính thành cuộc chạy đua trong xã hội cảm tính, để rồi
lòng tham lam của con người tranh đoạt nhau ở mức hưởng thụ, gây thành một
trạng thái mâu thuẫn mới : mâu thuẫn giữa dục vọng con người.
Như vậy, mọi mâu thuẫn đều khởi
nguồn từ chỗ cực đoan. Trước kia, phong tục lễ giáo đã áp dụng cực đoan về lý
tính, gây thành mâu thuẫn, thì ngày nay bản năng dục vọng lại đi trên con đường
cực đoan về cảm tính, gây thành mâu thuẫn khốc liệt.
Một cô gái thời xưa, bó mình
trong bốn bức tường lễ giáo, đã đau đớn rên than vì khát vọng yêu đương, thì
ngày nay, một cô gái giang hồ, dấn thân trong thế giới nhục dục, tiếp xúc đủ
hạng người, áp dụng mọi hình thái của tình yêu, thế rồi chính nàng cũng lại rên
than vì khát vọng yêu đương.
Lý tính ngăn cản sự bành trướng
dục vọng, nhưng dục vọng lại không thể không nhờ ở lý tính để tạo lấy nguồn cảm
xúc của ái tình. Ngoài ra, nếu đặt dục vọng cá nhân ngự trị trong lẽ sống tập
thể, thì yếu tố tập thể sẽ đưa dục vọng cá nhân vào con đường tranh đoạt, hủy
diệt.
Bằng vào nhận xét trên, chúng
ta thấy tự ngàn xưa cho đến ngày nay, vấn đề luyến ái giữa con người luôn luôn
bị sức cực đoan làm trở ngại, và đi đến một kết quả chung là sống khắc khoải
trong trạng thái bất mãn đau buồn.
Đây chúng ta nghe người xưa
than thở trong trạng thái bất mãn ấy :
« Đũa vàng dộng xuống mâm son,
Đôi ta đứt ruột vì cơn hội nầy.
Đôi ta chẳng đặng sum vầy,
Cho nên nhúm bịnh mình nầy ốm nhom ».
Hoặc : « Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi
chàng.
Đưa nhau một bước lên đàng,
Cỏ xanh hai dãy, mấy hàng châu sa ! »
Còn tâm hồn nào khắc khoải,
buồn vương bằng tâm hồn của những đôi tình nhân không toại nguyện ? Trong
văn chương bác học, chúng ta đã đọc nhiều áng văn mô tả tình si, bất mãn vì
tình, thì đó cũng chỉ là những trạng thái đòi hỏi của dục vọng không được thỏa
mãn. Trong văn chương bình dân, trạng thái ấy không phải thiếu, chỉ vì chúng ta
không để ý đến họ, và cứ tưởng họ là những con người mộc mạc, chất phác, quê
mùa, cảm giác không bén nhạy thì làm gì có những tình cảm rung động trong lúc
cảm xúc. Thật ra, nguồn cảm xúc của con người dù ở giai cấp nào khi đã ăn sâu
vào tâm hồn vẫn dậy lên niềm thiết tha tuyệt đỉnh. Đây, chúng ta nghe họ
hát :
« Kẻ về, người ở trông theo,
Ngựa Hồ, chim Việt, đôi điều ái
ân.
Một mình tựa án tần ngần,
Năm canh khúc ruột như dần cả
năm.
Vắng mình ta vẫn hỏi thăm,
Chốn ăn đã vậy, chốn nằm làm
sao ?
Bấy lâu nay những khát khao,
Mong chưa thấy mặt, lòng nào đã
quên.
Nghĩ rằng cùng bạn thiếu niên,
Vì ai xui giục cho nên nỗi này ?
Trách ông Tơ ra tay hờ hững,
Lúc xe dây sao chẳng lựa ngày.
Bây giờ hai ngã Đông Tây
Trước sao xe mối tơ này làm
chi ?
Chửa biết nhau sao không nói
trước,
Biết nhau rồi kẻ ngược người
xuôi.
Bao giờ cho được đủ đôi,
Như sen Tịnh-đế một chồi hai hoa ».
Hoặc : « Chén tình là chén say sưa,
Nón tình em đội nắng mưa trên
đầu.
Lược tình em chải trên đầu,
Gương tình soi mặt làu làu sáng
trong.
Ngồi buồn nghĩ đến hình dong,
Con dao lá trúc cắt lòng đôi
ta.
Duyên đôi ta thề nguyền từ
trước,
Biết bao giờ ta được cùng nhau.
Tương tư mắc phải mối sầu,
Đây em cũng giữ lấy màu đợi anh ».
Những khắc khoải của tình yêu
được diễn tả trong văn chương bác học, tuy có bóng bẩy song tâm tư chưa chắc đã
sâu sắc hơn văn chương bình dân. Mặt khác, đối với giai cấp thượng lưu quí phái
vì phải giữ lấy tiếng tăm của con nhà có học nên dù bất mãn với những phong tục
lễ giáo ràng buộc, nên ý thức chống đối của họ không dám bộc lộ một cách thẳng
thắn. Trong lúc đó, người bình dân được tự do cởi mở những hằn học, khắc khoải
của mình. Ví dụ họ đem những đau đớn của họ oán trách ông Tơ, bà Nguyệt,
như :
« Căn duyên này ai phá cho rồi,
Ông Tơ ông buộc, ông Trời biểu
không.
Phải gặp ông Tơ hỏi sơ cho biết,
Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho
rành.
Vì đâu hoa nọ lìa cành,
Nợ duyên sớm dứt cho đành dạ
con.
Đồng hồ sai vì bởi dây thiều,
Em xa anh vì bởi chỉ diều xe
lơi.
Trăng lu vì bởi đám mây,
Đôi ta cách trở vì dây tơ hồng ».
Người xưa, sống trong lý tính
nếu gặp hoàn cảnh phải trấn áp bản năng, người ta thường viện một tín ngưỡng để
an ủi, và dùng tín ngưỡng ấy như một năng lực viện trợ cho lý tính. Oán trách
ông Tơ bà Nguyệt trong hoàn cảnh tình duyên ngang trái chính là họ muốn đem lý
tính bóp chết bản năng.
Tuy nhiên, lúc mà bản năng bùng
dậy mãnh liệt, tinh thần tín ngưỡng của họ không còn đủ sức trợ lực cho lý tính
nữa, thì lý tính trở lại kết hợp với bản năng, tạo thành một phản động lực.
Chúng ta hãy lấy những tâm tư sau đây làm tiêu biểu cho phản động lực ấy :
« Bắc thang lên hỏi ông Trời,
Bắt bà Nguyệt lão đánh mười
cẳng tay.
Đánh rồi lại trói vào cây,
Hỏi bà Nguyệt lão đầu dây tơ hồng ».
Dục vọng cá nhân đã tràn ngập
lãnh vực tín ngưỡng thì lý tính còn làm sao kềm hãm được nữa.
Một dòng sông, khi bình thường
chúng ta nhìn mặt nước lờ lững giữa đôi bờ, chúng ta cảm thấy tính chất nhu nhã
chứa đựng cái gì hiền lành, êm dịu, nhưng khi dòng nước ấy tràn bờ, ầm ĩ chảy,
sóng gió nổi lên, chúng ta còn biết phân định đâu là giới hạn. Dục vọng cá nhân
cũng như dòng nước, mà lý tính con người là hai bờ sông. Vũ trụ thỉnh thoảng đã
khiến cho dòng sông tràn bờ thì cuộc sống loài người cũng phải có lúc làm cho
dục vọng cá nhân nổi dậy, vượt khỏi mọi giới hạn. Trời, Đất, Thánh, Thần chỉ là
linh tượng trong phạm vi tín ngưỡng, khi lý tính không còn nữa thì linh tượng không
thể tồn tại trong bản năng dục vọng con người. Ví dụ trong trường hợp sau
đây :
« Tôi Đà-Phật, Nàng A-Men !
Hai tôn giáo cách hai miền xa
xăm.
Bỗng đâu gió bấc mưa cầm,
Để tôi buộc mối đồng tâm với
nàng.
Thế là đeo lấy dở dang,
Bỏ nhau chẳng được, sang ngang
không thuyền.
Biết rằng duyên lỡ làng duyên,
Trăm năm để lại một thiên hận
tình !
Bảo cho những kẻ đầu xanh,
Đến nơi đền Thánh cầu kinh thì
cầu.
Đừng mơ những việc đâu đâu,
Mà vương phải kiếp cú sầu vạn
niên.
Tôi Đà-Phật ! Nàng A-Men ! »
Mặt nước tuy nổi lên những gợn
sóng, nhưng dòng sông vẫn còn được ấp ủ trong đôi bờ ! Chúng ta chỉ nhìn
thấy cái đẹp khi một cơn gió thoảng lay động cành hoa, một áng mây bay ngang
vừng trăng sáng ; nhưng không thể nhìn thấy cái đẹp trong một cơn bão táp
mưa sa, cành hoa tơi tả, những đêm mây xám phủ đầy trời ! Bản năng dục
vọng cũng thế, chúng ta chỉ nhìn thấy cái đẹp của nó khi còn ở mức thăng bằng
với lý tính mà thôi.
Trở lại với những tình yêu khắc
khoải của người bình dân thời xưa, trong phong tục lễ giáo, chúng ta nhìn thấy
nỗi đau buồn của họ phơi bày trong gia đình dưới chế độ phụ hệ. Dù là người
bình dân, không được đọc sách Khổng Mạnh, nhưng nếp sống phong kiến đã ảnh hưởng
rất sâu xa. Quyền cha mẹ định đoạt số phận yêu đương của con cái chính là
nguyên nhân phát sinh những tâm hồn khắc khoải của nam nữ thanh niên thời bấy
giờ. Đây, chúng ta hãy nghe họ than :
- « Anh thấy em, anh cũng muốn chào,
Sợ lòng bác mẹ cây cao lá dài ».
- « Bậu đành, cha mẹ không đành,
Đôi ta trải chiếu ngoài thành lạy vô ».
- « Cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa,
Anh với em tuổi tác cũng vừa,
Tại cha với mẹ kén lừa sui gia ».
- « Con chim bị ná, con cá bị câu,
Anh với em ý hạp tâm đầu,
Đôi bên cha mẹ làm sầu đôi ta ».
Những tâm tư trên đây chỉ là
những dòng nước vừa bị gợn sóng. Mặt nước cau mày chưa hẳn đã làm mất vẻ thùy
mị của thiên nhiên. Bởi vậy, trong tính chất khắc khoải, chúng ta vẫn còn thấy
những nét đẹp long lanh :
« Áo dài năm nút bỏ bâu,
Thung huyên em hiện tại, em dám đâu tư tình ».
Hoặc : « Mình thương tôi, tôi cũng cảm ơn mình,
Không tường phụ mẫu ý tình làm sao ? »
Hay : « Nghĩa nhân nay đã gần thành,
Mình về thưa lại phụ mẫu đành,
tôi ưng !
Hai đứa mình đứng lại kề lưng,
Đôi ta xứng lứa, mình ưng, không mình ? »
Dung lượng dục vọng cá nhân nếu
biến động trong phạm vi chứa đựng của lý tính thì chẳng có gì đáng nói. Nó chỉ
là những nét gợn duyên dáng của một làn gió thoảng qua mặt nước, hoặc lay động
những khóm hoa. Tuy nhiên, dung lượng dục vọng cá nhân không phải lúc nào cũng
ở mức độ thăng bằng. Nếu trời có những cơn dông tố bão bùng thì dục vọng con
người cũng phải có lúc biến động, trào dâng. Và đây, chúng ta tìm thấy dung
lượng của dục vọng cá nhân trong sức gợn động mạnh mẽ hơn :
« Trách cha, trách mẹ nhà chàng,
Cầm cân chằng biết rằng vàng
hay thau.
Thực vàng, chằng phải thau đâu,
Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng ».
Hoặc : « Gá duyên cha mẹ rầy la,
Choàng tay qua cổ con ba, khóc ròng ».
Hay : « Tôi về lòng chẳng đặng vui,
Tôi thương đứt ruột, phụ mẫu
tôi bảo về.
Nước mắt tuôn rỉ rả vội tả thư
đề,
Trông ai lai vãng gởi về thăm em ! »
Khi sóng tình đã dâng cao,
chúng ta cảm thấy bắt đầu bên trong có một năng lực phá phách. Bờ sông tuy chưa
bị tràn ngập, nhưng tiếng sóng vỗ bờ đã đem đến chúng ta cảm giác một viễn
tượng hãi hùng.
Và nếu dung lượng của dục vọng
cá nhân cứ tăng thêm cường độ thì sóng gió càng gào thét như muốn phá vỡ kềm
hãm. Đây, chúng ta hãy nghe âm thanh ấy vọng lại :
- « Không xuống lên, mình nói bạc tình,
Xuống lên phụ mẫu đánh mình, thấy không ? »
- « Ôm lòng sầu khuya sớm ra vào,
Tai nghe trống điểm canh ba nhớ
mình,
Phải chi phụ mẫu thuận tình,
Vào phòng sum hiệp thỏa tình ước mơ ».
- « Thăm em một chút anh về,
Đường đi viễn vọng, sợ bề mẹ
cha.
Về nhà phụ mẫu rầy la,
Mình đừng có đong đi đổ lại ắt là xa nhau ! »
- « Hai đứa mình mà đặng gần kề,
Trăm năm một dạ nguyền thề
không xa.
Nhìn chàng dòng lệ nhỏ sa,
Xa mình cũng bởi mẹ cha la rầy.
Ngày nào chồng vợ sum
vầy ?
Vì ai xui khiến nỗi này, trời ơi ! »
Những tiếng sóng lòng phát xuất
từ dục vọng cá nhân cứ dâng tràn mãi, cho đến một dung lượng nào đó, bờ sông
không còn ngăn chận nổi, và cá tính vượt quá lý tính. Nếu chúng ta đã thấy
những con nước tràn bờ tìm nơi chảy thoát, thì chúng ta cũng không lạ gì khi
thấy dục vọng cá nhân vượt qua bức tường phong tục, lễ giáo :
« Nhà em trên rấp dưới rào,
Phụ mẫu mình nghiệm nhặt biết ngả nào chun vô ».
Nhưng không ! Hàng rào cửa
ngõ chỉ ngăn được dục vọng khi còn chứa đựng trong lý tính. Một khi dục vọng đã
tràn ngập thì :
« Đêm tối tăm anh lén thăm nàng,
Thực là vì chút hường nhan cực
mình !
- Sao anh đi rất thình lình,
Phụ mẫu hay đặng đôi lứa mình
khốn thay !
- Anh vì một đóa trà mi,
Nên liều mình, lén cha mẹ ra đi đêm tàn ».
Hoặc : « Khoác màn loan bước cẳng lên giường,
Thương mình quá độ, quên đường
tử sanh.
Bước vô phòng bạn lạnh tanh,
Nghiêng mình nằm xuống tử sanh nhờ trời ».
Hay : « Gió đưa cành mận, gió lận cành đào,
Vì em, anh phải ra vào tối tăm.
- Tối tăm thì mặc tối tăm,
Chờ cho bác mẹ đi nằm sẽ hay.
Thoạt vào anh nắm cổ tay,
Xin em đừng hô hoán việc này nên to ! »
Những khắc khoải của tình yêu qua phong tục lễ giáo
Phong tục là gì ? Lễ giáo
là gì ?
Như chúng ta đã biết, phong
tục, lễ giáo là sợi dây ràng buộc con người theo chiều hướng sinh hoạt của một
dân tộc. Khi con người sống chung thành tập đoàn dĩ nhiên phải có những tập
tục. Nó là khuôn khổ bắt buộc cá nhân phải phục tùng đoàn thể để cho cuộc sống
được hòa hợp với nhau. Bởi vậy, không một dân tộc nào, dù văn minh hay lạc hậu
mà không có phong tục, lễ giáo.
Phong tục, lễ giáo phát xuất từ
hoàn cảnh sinh hoạt địa phương nên không giống nhau. Mỗi nước, mỗi dân tộc có
một phong tục, lễ giáo riêng mà không dễ gì đồng hóa được.
Nói như thế không có nghĩa là
phong tục, lễ giáo của một nước, một dân tộc lúc nào, thời gian nào cũng đứng
yên, không thay đổi. Lịch sử xã hội loài người luôn luôn đi tới, trạng thái
sinh hoạt đổi thay thì phong tục, lễ giáo cũng theo đà tiến ấy mà biến đổi. Nó
là sự dung hợp của cuộc sống, từ liên hệ gia đình đến liên hệ quốc gia, nhân
loại. Tuy nhiên, chúng ta đừng tưởng sự hòa hợp của thời gian và không gian sẽ
đi lần đến chỗ đồng hóa nếp sống nhân loại. Không ! Mỗi dân tộc dù mở rộng
phạm vi sinh hoạt đến đâu, dù tiến triển đến mức nào vẫn ảnh hưởng trên con
đường cá biệt để tạo lấy địa phương tính, dân tộc tính. Nói một cách hạn hẹp
thì mỗi dân tộc chia làm nhiều giai cấp, mà mỗi giai cấp, phong tục, lễ giáo
lại cũng không giống nhau, dù lịch sử xã hội có diễn biến đồng loạt đi nữa. Như
vậy, thế giới loài người không thể nào tiến đến chỗ hòa đồng phong tục, lễ giáo
được.
Đã không thể hòa đồng tức không
thể tiêu diệt được mâu thuẫn cá biệt.
Về phong tục, lễ giáo cũng
thế ! Nếu nếp sống của tập thể tạo cho mỗi địa phương có một lề lối tập
đoàn, thì chính cá nhân trong tập thể lại trở thành nạn nhân của lề lối ấy, bởi
vì tính chất đổi mới của mỗi cá thể bao giờ cũng đi trước sự đổi mới của tập
thể. Do đó, tự nghìn xưa tận trời Âu cõi Á, trong xã hội loài người chẳng bao
giờ cuộc sống cá nhân được thỏa mãn trong tập tục, và ngược lại, tập tục vẫn
được duy trì dưới hình thức tập thể trong tính chất địa phương và dân tộc.
Nước Việt-Nam chúng ta, tự
nghìn xưa, giai cấp bình dân vẫn sống trong tập tục cổ truyền. Những tập tục đó
chính là quan điểm xã hội chung cho một giai cấp. Tuy nhiên, không vì thế mà cá
nhân họ không ràng buộc trong yếu tố mâu thuẫn tất yếu giữa cá thể và tập thể. Cũng
như khi lẽ sống tập thể được bảo vệ thì lẽ sống cá nhân phải bị thiệt thòi
trong quan niệm tuyệt đối.
Nói như thế cũng có nghĩa là
chúng ta đề cập bản năng dục vọng và đạo sống của con người. Bản năng dục vọng
phát xuất từ cá nhân mà đạo sống là sự dung hợp giữa con người và con người.
Cho nên, đạo sống bao giờ cũng kềm hãm dục vọng cá nhân làm cho dục vọng cá
nhân luôn luôn tự thấy mình như bị tước đoạt mất cả tự do, và ý nghĩa của nó.
Để minh định ý nghĩa giữa đạo
sống và dục vọng cá nhân, ở đây chúng ta cũng nên đi xa hơn một chút vào lịch
sử diễn biến của hai yếu tố ấy.
Trước nhất, chúng ta quan niệm
đạo sống không phải là tôn giáo, tín ngưỡng. Đạo sống không phát nguồn từ đức
tin của cá nhân, mà khơi mạch trong yếu tố hòa hợp của tập thể. Đạo sống không
phải xây dựng trên một ức thuyết của tôn giáo, mà tác thành một cách khách quan
do yếu tố sinh tồn của loài người đối với vũ trụ, được cuộc sống tập thể của xã
hội đúc kết, khiến mỗi cá nhân trong tập thể dù muốn dù không cũng phải thừa
nhận để bảo vệ cho tập thể.
Từ chỗ ý thức sự liên hệ giữa
cá nhân trong tập thể, đạo sống của loài người hình thành và tạo ra những phong
tục. Vậy phong tục căn cứ vào hoàn cảnh sinh sống của mọi địa phương, và chúng
ta cũng có thể gọi nó là đạo sống của một dân tộc.
Đạo sống ấy được tập thể bảo vệ
và di lưu trong sinh hoạt xã hội hàng ngày với một tính chất thiên nhiên, có
liên hệ đến mọi sinh tồn của vạn hữu.
Như vậy, không một dân tộc nào
sống thành xã hội mà sự sống chung không tạo cho họ một đạo sống, và đạo sống ấy
trở thành phong tục, tập quán.
Loài người vì sống chung mà có
đạo, cũng như vũ trụ vì kết hợp vạn hữu mà có qui luật thiên nhiên trong hệ
thống biến dịch. Đạo của loài người tức là ý thức chung của xã hội khi đặt cá
nhân mình vào tập thể. Như vậy, đạo ở đây không phải là tôn giáo, mà là ý thức
làm người trong lẽ sống tập thể, có liên hệ đến vạn hữu trong vũ trụ.
Mặt khác, đạo sống con người
cũng như qui luật biến dịch của vạn hữu, không phải đứng yên, mà thay đổi theo
đà tiến triển của hoàn cảnh sinh hoạt. Do đó, xã hội loài người lợi dụng sự
biến đổi sinh hoạt ấy, hướng ý thức của đạo làm người đến chỗ mê tín, giáo
điều, tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi cho lẽ sống cá nhân, cho giai cấp, là
làm sai lạc căn bản của đạo, và tạo thành một dòng đạo sử trong xã hội loài
người. Do đó, ý nghĩa của đạo là dung hợp lẽ sống tập thể thì lại trở thành lợi
khí để loài người dùng chinh phục tập thể, tạo thành mâu thuẫn xã hội.
Thực ra, đã là đạo thì không có
hệ phái, không có giáo lý. Đạo không phải do ai dạy mà biết. Đạo phải tự cá
nhân con người cảm thấy trong lẽ sống mà phát xuất ra ngoài. Ví dụ trong mỗi
dân tộc, mỗi bộ lạc, những phong tục, tập quán của họ không phải một cá nhân
nào đặt ra và đem dạy cho ai cả, tuy nhiên mọi người đều cảm ứng và duy trì
mãi.
Ở Trung-Hoa các bậc hiền triết
như Khổng-Tử, Lão-Tử, Trang-Tử đều là những nhà có công với đạo học, ứng cảm
được ý thức trong lẽ sống của tập thể, đúc kết thành những thiên đạo học để phổ
biến trong xã hội loài người, tuy nhiên việc làm của các bậc trí thức ấy đã bị
xã hội loài người lợi dụng, biến đạo học thành công cụ để phục vụ cho cá nhân,
cho giai cấp, và xuyên tạc ý nghĩa của đạo học.
Sở dĩ chúng ta phải nói ở đây
là vì xã hội Việt-Nam thuở xưa chịu ảnh hưởng rất nhiều nền đạo học Khổng Mạnh
đã bị guồng máy phong kiến lợi dụng.
Qua đến dục vọng cá nhân. Nếu
chúng ta thấy Đạo là ý thức dung hợp của tập thể để bảo vệ quyền lợi sống chung
thì dục vọng cá nhân chính là sức phản động để bảo vệ cái riêng rẽ của cá thể.
Mà cá thể với tập thể tuy mâu thuẫn, song vẫn đi đúng theo qui luật biến động
của thiên nhiên. Vì vậy, chúng ta có thể nói cá thể và tập thể là sức mâu thuẫn
thống nhất, nghĩa là có sự xung đột trong trạng thái hòa hợp.
Nhưng, đó là nói với ý nghĩa
chân chính của Đạo. Còn nếu một khi đạo đã bị bóp méo để lợi dụng, thì sự mâu
thuẫn của dục vọng cá nhân không còn nằm trong trạng thái thích hợp nữa, mà trở
thành một phản động lực đập thẳng vào sự méo mó ấy, gây thành xáo trộn xã hội.
Dục vọng cá nhân cũng như đạo
lý, diễn biến thành một dòng lịch sử trong xã hội loài người. Nếu trí khôn con
người biết tìm cách biến chế đạo lý thành công cụ khống trị xã hội, thì dục
vọng cá nhân cũng nhờ vào trí khôn con người cải tiến sinh hoạt, sáng chế những
phương tiện sinh sống, tranh đoạt những hưởng thụ về cho dục vọng cá nhân, và
xóa bỏ những đạo lý méo mó do trí khôn con người ngụy tạo. Đó là con đường tiến
đến khoa học.
Ở đây chúng ta không được phép
đi quá xa. Khuôn khổ bài khảo luận này buộc chúng ta phải trở về với tâm tư
người bình dân thời xưa, cái thời mà phong tục lễ giáo của xã hội phong kiến
đang dùng sức mạnh ngụy tạo trấn áp dục vọng cá nhân, trong lúc dục vọng cá
nhân chưa đủ phương tiện để đập phá, thoát ra ngoài vòng cương tỏa của nó.
Trong phạm vi dục vọng cá nhân,
chúng ta thấy sức phản ứng rõ rệt nhất đối với phong tục, lễ giáo là tình yêu.
Bởi vậy, trong ca dao bình dân, chúng ta không thể nào góp nhặt hết những mảnh
tâm hồn yêu đương bị tan rã vì trở ngại xã hội, không được gần gũi, sống chung
nhau. Dĩ nhiên trở ngại xã hội không ngoài sự ràng buộc của phong tục, lễ giáo.
Tiếng rên than đau đớn càng nhiều trong chia cách, chúng ta càng thấy sức mâu
thuẫn giữa dục vọng cá nhân và tập tục của xã hội càng mãnh liệt.
Ngoài phần lớn ảnh hưởng do
ràng buộc của phong tục, lễ giáo còn có nhiều nguyên nhân khác nữa. Như ngày
nay, giữa thế hệ chúng ta đang sống, đâu phải vì phong tục, lễ giáo ràng buộc,
mà tình yêu giữa gái trai vẫn mang những khắc khoải, đau buồn còn khốc liệt hơn
ngày xưa. Khi đặt vấn đề như thế, chúng ta sẽ có dịp soát xét. Nếu ngày xưa,
dưới thời phong kiến, nền đạo học ngụy tạo đã trở thành một năng lực tuyệt đối,
trấn áp dục vọng cá nhân, làm nẩy ra mầm mâu thuẫn sâu sắc giữa dục vọng cá
nhân và phong tục lễ giáo, thì ngày nay, lịch sử dục vọng cá nhân đã đánh đổ cả
nền móng đạo lý, hình thành một nếp sống trên lãnh vực dục vọng cá nhân, biến
trật tự của xã hội lý tính thành cuộc chạy đua trong xã hội cảm tính, để rồi
lòng tham lam của con người tranh đoạt nhau ở mức hưởng thụ, gây thành một
trạng thái mâu thuẫn mới : mâu thuẫn giữa dục vọng con người.
Như vậy, mọi mâu thuẫn đều khởi
nguồn từ chỗ cực đoan. Trước kia, phong tục lễ giáo đã áp dụng cực đoan về lý
tính, gây thành mâu thuẫn, thì ngày nay bản năng dục vọng lại đi trên con đường
cực đoan về cảm tính, gây thành mâu thuẫn khốc liệt.
Một cô gái thời xưa, bó mình trong
bốn bức tường lễ giáo, đã đau đớn rên than vì khát vọng yêu đương, thì ngày
nay, một cô gái giang hồ, dấn thân trong thế giới nhục dục, tiếp xúc đủ hạng
người, áp dụng mọi hình thái của tình yêu, thế rồi chính nàng cũng lại rên than
vì khát vọng yêu đương.
Lý tính ngăn cản sự bành trướng
dục vọng, nhưng dục vọng lại không thể không nhờ ở lý tính để tạo lấy nguồn cảm
xúc của ái tình. Ngoài ra, nếu đặt dục vọng cá nhân ngự trị trong lẽ sống tập
thể, thì yếu tố tập thể sẽ đưa dục vọng cá nhân vào con đường tranh đoạt, hủy
diệt.
Bằng vào nhận xét trên, chúng
ta thấy tự ngàn xưa cho đến ngày nay, vấn đề luyến ái giữa con người luôn luôn
bị sức cực đoan làm trở ngại, và đi đến một kết quả chung là sống khắc khoải
trong trạng thái bất mãn đau buồn.
Đây chúng ta nghe người xưa
than thở trong trạng thái bất mãn ấy :
« Đũa vàng dộng xuống mâm son,
Đôi ta đứt ruột vì cơn hội nầy.
Đôi ta chẳng đặng sum vầy,
Cho nên nhúm bịnh mình nầy ốm nhom ».
Hoặc : « Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi
chàng.
Đưa nhau một bước lên đàng,
Cỏ xanh hai dãy, mấy hàng châu sa ! »
Còn tâm hồn nào khắc khoải,
buồn vương bằng tâm hồn của những đôi tình nhân không toại nguyện ? Trong
văn chương bác học, chúng ta đã đọc nhiều áng văn mô tả tình si, bất mãn vì
tình, thì đó cũng chỉ là những trạng thái đòi hỏi của dục vọng không được thỏa
mãn. Trong văn chương bình dân, trạng thái ấy không phải thiếu, chỉ vì chúng ta
không để ý đến họ, và cứ tưởng họ là những con người mộc mạc, chất phác, quê
mùa, cảm giác không bén nhạy thì làm gì có những tình cảm rung động trong lúc
cảm xúc. Thật ra, nguồn cảm xúc của con người dù ở giai cấp nào khi đã ăn sâu
vào tâm hồn vẫn dậy lên niềm thiết tha tuyệt đỉnh. Đây, chúng ta nghe họ
hát :
« Kẻ về, người ở trông theo,
Ngựa Hồ, chim Việt, đôi điều ái
ân.
Một mình tựa án tần ngần,
Năm canh khúc ruột như dần cả
năm.
Vắng mình ta vẫn hỏi thăm,
Chốn ăn đã vậy, chốn nằm làm
sao ?
Bấy lâu nay những khát khao,
Mong chưa thấy mặt, lòng nào đã
quên.
Nghĩ rằng cùng bạn thiếu niên,
Vì ai xui giục cho nên nỗi
này ?
Trách ông Tơ ra tay hờ hững,
Lúc xe dây sao chẳng lựa ngày.
Bây giờ hai ngã Đông Tây
Trước sao xe mối tơ này làm
chi ?
Chửa biết nhau sao không nói
trước,
Biết nhau rồi kẻ ngược người
xuôi.
Bao giờ cho được đủ đôi,
Như sen Tịnh-đế một chồi hai hoa ».
Hoặc : « Chén tình là chén say sưa,
Nón tình em đội nắng mưa trên
đầu.
Lược tình em chải trên đầu,
Gương tình soi mặt làu làu sáng
trong.
Ngồi buồn nghĩ đến hình dong,
Con dao lá trúc cắt lòng đôi ta.
Duyên đôi ta thề nguyền từ
trước,
Biết bao giờ ta được cùng nhau.
Tương tư mắc phải mối sầu,
Đây em cũng giữ lấy màu đợi anh ».
Những khắc khoải của tình yêu
được diễn tả trong văn chương bác học, tuy có bóng bẩy song tâm tư chưa chắc đã
sâu sắc hơn văn chương bình dân. Mặt khác, đối với giai cấp thượng lưu quí phái
vì phải giữ lấy tiếng tăm của con nhà có học nên dù bất mãn với những phong tục
lễ giáo ràng buộc, nên ý thức chống đối của họ không dám bộc lộ một cách thẳng
thắn. Trong lúc đó, người bình dân được tự do cởi mở những hằn học, khắc khoải
của mình. Ví dụ họ đem những đau đớn của họ oán trách ông Tơ, bà Nguyệt,
như :
« Căn duyên này ai phá cho rồi,
Ông Tơ ông buộc, ông Trời biểu
không.
Phải gặp ông Tơ hỏi sơ cho
biết,
Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho
rành.
Vì đâu hoa nọ lìa cành,
Nợ duyên sớm dứt cho đành dạ
con.
Đồng hồ sai vì bởi dây thiều,
Em xa anh vì bởi chỉ diều xe
lơi.
Trăng lu vì bởi đám mây,
Đôi ta cách trở vì dây tơ hồng ».
Người xưa, sống trong lý tính
nếu gặp hoàn cảnh phải trấn áp bản năng, người ta thường viện một tín ngưỡng để
an ủi, và dùng tín ngưỡng ấy như một năng lực viện trợ cho lý tính. Oán trách
ông Tơ bà Nguyệt trong hoàn cảnh tình duyên ngang trái chính là họ muốn đem lý
tính bóp chết bản năng.
Tuy nhiên, lúc mà bản năng bùng
dậy mãnh liệt, tinh thần tín ngưỡng của họ không còn đủ sức trợ lực cho lý tính
nữa, thì lý tính trở lại kết hợp với bản năng, tạo thành một phản động lực.
Chúng ta hãy lấy những tâm tư sau đây làm tiêu biểu cho phản động lực ấy :
« Bắc thang lên hỏi ông Trời,
Bắt bà Nguyệt lão đánh mười
cẳng tay.
Đánh rồi lại trói vào cây,
Hỏi bà Nguyệt lão đầu dây tơ hồng ».
Dục vọng cá nhân đã tràn ngập
lãnh vực tín ngưỡng thì lý tính còn làm sao kềm hãm được nữa.
Một dòng sông, khi bình thường chúng
ta nhìn mặt nước lờ lững giữa đôi bờ, chúng ta cảm thấy tính chất nhu nhã chứa
đựng cái gì hiền lành, êm dịu, nhưng khi dòng nước ấy tràn bờ, ầm ĩ chảy, sóng
gió nổi lên, chúng ta còn biết phân định đâu là giới hạn. Dục vọng cá nhân cũng
như dòng nước, mà lý tính con người là hai bờ sông. Vũ trụ thỉnh thoảng đã
khiến cho dòng sông tràn bờ thì cuộc sống loài người cũng phải có lúc làm cho
dục vọng cá nhân nổi dậy, vượt khỏi mọi giới hạn. Trời, Đất, Thánh, Thần chỉ là
linh tượng trong phạm vi tín ngưỡng, khi lý tính không còn nữa thì linh tượng
không thể tồn tại trong bản năng dục vọng con người. Ví dụ trong trường hợp sau
đây :
« Tôi Đà-Phật, Nàng A-Men !
Hai tôn giáo cách hai miền xa
xăm.
Bỗng đâu gió bấc mưa cầm,
Để tôi buộc mối đồng tâm với
nàng.
Thế là đeo lấy dở dang,
Bỏ nhau chẳng được, sang ngang
không thuyền.
Biết rằng duyên lỡ làng duyên,
Trăm năm để lại một thiên hận
tình !
Bảo cho những kẻ đầu xanh,
Đến nơi đền Thánh cầu kinh thì
cầu.
Đừng mơ những việc đâu đâu,
Mà vương phải kiếp cú sầu vạn niên.
Tôi Đà-Phật ! Nàng A-Men ! »
Mặt nước tuy nổi lên những gợn
sóng, nhưng dòng sông vẫn còn được ấp ủ trong đôi bờ ! Chúng ta chỉ nhìn
thấy cái đẹp khi một cơn gió thoảng lay động cành hoa, một áng mây bay ngang
vừng trăng sáng ; nhưng không thể nhìn thấy cái đẹp trong một cơn bão táp
mưa sa, cành hoa tơi tả, những đêm mây xám phủ đầy trời ! Bản năng dục
vọng cũng thế, chúng ta chỉ nhìn thấy cái đẹp của nó khi còn ở mức thăng bằng
với lý tính mà thôi.
Trở lại với những tình yêu khắc
khoải của người bình dân thời xưa, trong phong tục lễ giáo, chúng ta nhìn thấy
nỗi đau buồn của họ phơi bày trong gia đình dưới chế độ phụ hệ. Dù là người
bình dân, không được đọc sách Khổng Mạnh, nhưng nếp sống phong kiến đã ảnh
hưởng rất sâu xa. Quyền cha mẹ định đoạt số phận yêu đương của con cái chính là
nguyên nhân phát sinh những tâm hồn khắc khoải của nam nữ thanh niên thời bấy
giờ. Đây, chúng ta hãy nghe họ than :
- « Anh thấy em, anh cũng muốn chào,
Sợ lòng bác mẹ cây cao lá dài ».
- « Bậu đành, cha mẹ không đành,
Đôi ta trải chiếu ngoài thành lạy vô ».
- « Cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa,
Anh với em tuổi tác cũng vừa,
Tại cha với mẹ kén lừa sui gia ».
- « Con chim bị ná, con cá bị câu,
Anh với em ý hạp tâm đầu,
Đôi bên cha mẹ làm sầu đôi ta ».
Những tâm tư trên đây chỉ là
những dòng nước vừa bị gợn sóng. Mặt nước cau mày chưa hẳn đã làm mất vẻ thùy
mị của thiên nhiên. Bởi vậy, trong tính chất khắc khoải, chúng ta vẫn còn thấy
những nét đẹp long lanh :
« Áo dài năm nút bỏ bâu,
Thung huyên em hiện tại, em dám đâu tư tình ».
Hoặc : « Mình thương tôi, tôi cũng cảm ơn mình,
Không tường phụ mẫu ý tình làm sao ? »
Hay : « Nghĩa nhân nay đã gần thành,
Mình về thưa lại phụ mẫu đành,
tôi ưng !
Hai đứa mình đứng lại kề lưng,
Đôi ta xứng lứa, mình ưng, không mình ? »
Dung lượng dục vọng cá nhân nếu
biến động trong phạm vi chứa đựng của lý tính thì chẳng có gì đáng nói. Nó chỉ
là những nét gợn duyên dáng của một làn gió thoảng qua mặt nước, hoặc lay động
những khóm hoa. Tuy nhiên, dung lượng dục vọng cá nhân không phải lúc nào cũng
ở mức độ thăng bằng. Nếu trời có những cơn dông tố bão bùng thì dục vọng con
người cũng phải có lúc biến động, trào dâng. Và đây, chúng ta tìm thấy dung
lượng của dục vọng cá nhân trong sức gợn động mạnh mẽ hơn :
« Trách cha, trách mẹ nhà chàng,
Cầm cân chằng biết rằng vàng
hay thau.
Thực vàng, chằng phải thau đâu,
Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng ».
Hoặc : « Gá duyên cha mẹ rầy la,
Choàng tay qua cổ con ba, khóc ròng ».
Hay : « Tôi về lòng chẳng đặng vui,
Tôi thương đứt ruột, phụ mẫu
tôi bảo về.
Nước mắt tuôn rỉ rả vội tả thư
đề,
Trông ai lai vãng gởi về thăm em ! »
Khi sóng tình đã dâng cao,
chúng ta cảm thấy bắt đầu bên trong có một năng lực phá phách. Bờ sông tuy chưa
bị tràn ngập, nhưng tiếng sóng vỗ bờ đã đem đến chúng ta cảm giác một viễn tượng
hãi hùng.
Và nếu dung lượng của dục vọng
cá nhân cứ tăng thêm cường độ thì sóng gió càng gào thét như muốn phá vỡ kềm
hãm. Đây, chúng ta hãy nghe âm thanh ấy vọng lại :
- « Không xuống lên, mình nói bạc tình,
Xuống lên phụ mẫu đánh mình, thấy không ? »
- « Ôm lòng sầu khuya sớm ra vào,
Tai nghe trống điểm canh ba nhớ
mình,
Phải chi phụ mẫu thuận tình,
Vào phòng sum hiệp thỏa tình ước mơ ».
- « Thăm em một chút anh về,
Đường đi viễn vọng, sợ bề mẹ
cha.
Về nhà phụ mẫu rầy la,
Mình đừng có đong đi đổ lại ắt là xa nhau ! »
- « Hai đứa mình mà đặng gần kề,
Trăm năm một dạ nguyền thề
không xa.
Nhìn chàng dòng lệ nhỏ sa,
Xa mình cũng bởi mẹ cha la rầy.
Ngày nào chồng vợ sum
vầy ?
Vì ai xui khiến nỗi này, trời ơi ! »
Những tiếng sóng lòng phát xuất
từ dục vọng cá nhân cứ dâng tràn mãi, cho đến một dung lượng nào đó, bờ sông
không còn ngăn chận nổi, và cá tính vượt quá lý tính. Nếu chúng ta đã thấy
những con nước tràn bờ tìm nơi chảy thoát, thì chúng ta cũng không lạ gì khi
thấy dục vọng cá nhân vượt qua bức tường phong tục, lễ giáo :
« Nhà em trên rấp dưới rào,
Phụ mẫu mình nghiệm nhặt biết ngả nào chun vô ».
Nhưng không ! Hàng rào cửa
ngõ chỉ ngăn được dục vọng khi còn chứa đựng trong lý tính. Một khi dục vọng đã
tràn ngập thì :
« Đêm tối tăm anh lén thăm nàng,
Thực là vì chút hường nhan cực
mình !
- Sao anh đi rất thình lình,
Phụ mẫu hay đặng đôi lứa mình
khốn thay !
- Anh vì một đóa trà mi,
Nên liều mình, lén cha mẹ ra đi đêm tàn ».
Hoặc : « Khoác màn loan bước cẳng lên giường,
Thương mình quá độ, quên đường
tử sanh.
Bước vô phòng bạn lạnh tanh,
Nghiêng mình nằm xuống tử sanh nhờ trời ».
Hay : « Gió đưa cành mận, gió lận cành đào,
Vì em, anh phải ra vào tối tăm.
- Tối tăm thì mặc tối tăm,
Chờ cho bác mẹ đi nằm sẽ hay.
Thoạt vào anh nắm cổ tay,
Xin em đừng hô hoán việc này nên to ! »
Sức mạnh của dục vọng đôi khi
xóa bỏ bến bờ của lý tính. Phong tục, lễ giáo tượng trưng cho lý tính, nếu
không nhờ chế độ xã hội bảo vệ, và được tập thể duy trì, có lẽ chúng ta không
còn tìm thấy trong xã hội loài người đâu là ranh giới nữa.
Một cánh đồng nước lũ trắng
xóa, tràn ngập cả muôn vạn màu sắc, chúng ta chỉ còn tìm thấy ở đấy những hãi
hùng, hoang dã !
Cho nên, dù khả năng dục vọng
có bành trướng mạnh mẽ đến đâu thì cũng như một dòng nước lũ, mà vũ trụ luôn
luôn hướng đến chỗ thăng bằng giữa bản năng và lý tính để bảo vệ thiên nhiên.
Lịch sử của bản năng không thể thắng nổi lịch sử của lý tính, mặc dù lý tính
chịu ảnh hưởng qua hoàn cảnh sinh hoạt xã hội, mỗi thời một khác.
Sự chèn ép của lý tính thời xưa
đã đẩy bản năng dục vọng vào chỗ tự diệt, mà những cảm nghĩ sau đây là ý tưởng
thoát thai từ sự tiêu diệt của bản năng :
- « Trời xui duyên chẳng thành duyên
Thì em tự ải còn hơn sống sầu ».
- « Chiều nay ra sông cái tự ải cho rồi,
Sống làm chi biệt ly công tử,
Thác xuống cửu tuyền trọn chữ hiếu trung ».
- « Em thương anh trầu hết lá lương,
Cau hết nửa vườn cha mẹ nào
hay.
Dầu mà cha mẹ có hay,
Nhất đánh, nhì đày hai lẽ mà
thôi.
Gươm vàng để đó anh ơi !
Chết thì chịu chết lìa đôi không lìa ».
Tuy nhiên, trên đây chỉ là nhận
xét chung về trạng thái xã hội biến chuyển trước hai dòng lịch sử của lý tính
và cảm tính. Riêng ở Việt-Nam thời xưa, những tâm hồn yêu đương bị khắc khoải
qua phong tục lễ giáo trong giai cấp bình dân có mang tính chất chống đối về
bất công xã hội, khi mà chế độ phong kiến dùng lý tính tỏa chiết bản năng để
làm lợi cho chế độ chính trị ấy. Vậy ý thức chống đối của người bình dân giữa
cảm tính và lý tính chỉ là sự bất mãn trong trạng thái chênh lệch xã hội. Cho
nên, ngoài ý thức chống đối phụ quyền, chúng ta còn thấy ở các mặt khác về
trạng thái kinh tế nữa.
Chính sự chênh lệch về giàu
nghèo cũng trở thành một ảnh hưởng lớn lao trong lãnh vực yêu đương :
« Thấy trăng em hổ với đèn,
Ai cho sang cả khó hèn khác nhau ? »
Mặt khác, phong tục lễ giáo của
người bình dân thời xưa cũng bị chế độ phong kiến lợi dụng, hà khắc, làm sai
lạc ý muốn chung của họ, vì lẽ đó, những tình yêu khắc khoải mang nhiều tính
chất đặc biệt, có lúc như liều lĩnh :
« Phềnh phềnh lớn giữa lớn ra,
Mẹ ơi ! Con chẳng ở nhà
được đâu.
Ở nhà làng bắt mất trâu,
Cho nên con phải đâm đầu ra đi ! »
Hoặc : « Có chồng thì mặc có chồng,
Còn duyên anh ẵm, anh bồng, anh thương ! »
Hay : « Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chồng mà chửa thế gian sự thường ! »
Tâm trạng trên đành rằng một
phần do ảnh hưởng của bản năng dục vọng, nhưng một phần cũng do ảnh hưởng chống
đối chế độ chênh lệch của nền phong kiến. Sự suy luận trên không phải vô căn
cứ. Chính quan niệm nhân sinh của người bình dân đã đặt trên căn bản hòa hợp
giữa lý tính và cảm tính, thì quan niệm xã hội của họ không thể nào chạy theo
dục vọng bản năng chối bỏ lý tính được.
Tóm lại, đối với phong tục lễ
giáo, người bình dân bao giờ cũng cố sức bảo vệ và duy trì. Chính nhờ sự bảo vệ
và duy trì ấy mà ngày nay nước Việt-Nam ta còn được những màu sắc dân tộc.
Tuy nhiên, trong công cuộc bảo
vệ, duy trì những tập tục, người bình dân lại luôn luôn tranh đấu, đánh đổ
những chênh lệch về lý tính do chế độ phong kiến ngụy tạo, và hướng về sự thăng
bằng giữa lý tính và cảm tính.
(*) Tuyển tập ca dao tiêu biểu
1. « Ai bày luật lệ làm chi,
Để đôi con dì chẳng lấy được nhau ».
2. « Ai làm bầu bí đứt dây,
Chàng Nam thiếp Bắc, gió Tây lạnh lùng ».
3. « Ai làm cho đó xa đây,
Cho chim chèo bẽo xa cây măng vòi ».
4. « Anh về, em nõ dám đưa,
Hai hàng châu lệ như mưa tháng mười ».
5. « Anh thấy em, anh cũng muốn thương,
Sợ lòng cha mẹ không tường lòng anh ».
6. « Anh phân nhiều nỗi đoạn trường,
Ai xui nên nỗi, nhiều đường rẽ phân ».
7. « Áo em đang khô không ngờ áo em ướt.
Bởi hiềm vì anh chậm bước
Nên thầy mẹ bán gả em đi ».
8. « Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không ? »
9. « Bát trong sóng nhiều kẻ rung rinh,
Đôi ta gá ngỡi nhân tình,
Dầu ai gièm siểm chúng mình mặc ai ».
10. « Bần cư náo thị vô nhơn vấn,
Phú tại thâm san hữu viễn thân.
Anh với em cũng muốn cho gần,
Tại cha với mẹ buông cần đứt
dây.
- Bởi đứt dây nên gỗ mới chìm,
Tại em ở bạc anh tìm nơi xa ».
11. « Bên này sông có trồng bụi sả,
Bên kia sông ông xã trồng một
bụi tre.
Trách ai làm bụi tre nó ngã,
bụi sả nó sầu.
Phải chi ngoài biển có cầu,
Anh ra đó giải đoạn sầu cho em ».
12. « Biển Đông sóng dợn cát đùa,
Anh sánh đôi không đặng, lên chùa đi tu ».
13. « Bình bồng ở giữa Giang-tân,
Bên tình bên nghĩa biết thân
bên nào ?
Nhứt lê, nhì lựu, tam đào,
Bên tình, bên nghĩa, bên nào cũng đồng thân ».
14. « Bói khoa năm bảy ông thầy,
Tuổi tôi chẳng đặng sum vầy với anh ».
15. « Bông ngâu rụng xuống cội ngâu,
Em còn phụ mẫu dám đâu tư tình ».
16. « Bớ thảm bớ thiết ôi !
Bớ bạn tình nhân ôi !
Thân em như cái quả xoài trên
cây.
Gió đông, gió tây, gió nam, gió
bắc,
Nó đánh lúc la lúc lắc trên
cành,
Một mai vô tình rụng xuống biết
vào tay ai ?
Kìa khóm trúc, nọ khóm mai,
Ông Tơ bà Nguyệt xa hoài chẳng
thương.
Một lần chờ, hai lần chờ,
Sớm lần nhớ, chớ lần thương,
Anh thương em, nhưng bác mẹ họ hàng chẳng thương ».
17. « Bùn xa bèo, bùn khô bùn héo,
Lựu xa đào, lựu ngả đào
nghiêng.
Vàng trên tay rớt xuống không
phiền,
Phiền vì một nỗi nợ duyên cách lìa ».
18. « Bước đi ba bước lại ngừng,
Đôi ta ở vậy cầm chừng đợi
nhau.
Thương mình nên ốm nên đau,
Thuốc uống không mạnh biết làm sao ở đời ».
19. « Cá buồn cá lội tung tăng,
Em buồn em biết đãi đằng cùng ai ? »
20. « Cá lưỡi trâu dầm trong nước mắm,
Qua với nàng duyên thắm mấy
trăng.
Mẹ cha tuy chẳng bằng lòng,
Đôi ta cố gắng chữ đồng trăm năm ».
21. « Cái cốc lặn lội bờ sông,
Muốn lấy vợ đẹp nhưng không có tiền ».
22. « Cành tre ba bảy cành tre,
Phải duyên thì lấy chớ nghe họ
hàng.
Ai ơi đợi với tôi cùng,
Tôi còn gỡ mối tơ hồng chưa ra ».
23. « Căn duyên đây đó dật dờ,
Có thương bậu phải đợi chờ một đôi thu ».
24. « Cây cúc đứng dựa bực sông,
Trời dông cây cúc lật,
Phải chi anh ở gần dầu cực anh cũng ưng ».
25. « Cây không trồng nên lòng không tiếc,
Con không đẻ nên mẹ không
thương.
Trách ai giục ngựa buông cương,
Làm cho em phải vấn vương mối sầu ».
26. « Cây oằn vì bởi trái sai,
Anh xa em vì bởi ông mai ít lời ».
27. « Cất mái chèo lan, em nhìn chàng rơi lụy,
Thổn thức gan vàng, thối dị tấn nan ».
28. « Công anh đắp nấm trồng chanh,
Chẳng đặng ăn quả, vin cành cho
cam.
Xin đừng ra dạ bắc nam,
Nhất nhật bất kiến như tam thu
hề.
Huống tam thu như bất kiến hề,
Đường kia nỗi nọ như chia mối
sầu.
Chắc về đâu đã hẳn về đâu,
Cầu tre vững nhịp hơn cầu
thượng gia.
Bắc thang lên hỏi thử trăng
già,
Phải rằng phận gái hạt mưa sa
giữa trời.
May ra gặp được giếng khơi,
Vừa trong vừa mát lại nơi thanh
nhàn.
Chẳng may số phận gian nan,
Lầm than cũng chịu dễ phàn nàn
cùng ai.
Đã yêu nhau giá thú bất luận tài ».
29. « Củi đậu nấu đậu ra dầu,
Lấy em không đặng cạo đầu đi tu ».
30. « Cùng nhau một bọn đi thi,
Người thì đỗ trạng, kẻ thì về không.
Cùng nhau một bạn má hồng,
Kẻ thì có chồng, người vẫn nằm trơ ».
31. « Cũng vì chỉ vấn tơ vương,
Cho nên lỗi với thung đường mẹ cha ».
32. « Cũng nguyền một tấm lòng son,
Anh dầu có phụ keo sơn có trời.
Sống dương gian hai đứa đôi
nơi,
Thác-xuống âm phủ cũng nhớ lời thề xưa ».
33. « Chàng đành phụ mẫu không đành,
Lá che cây khuất, ngọn ngành trời ơi ! »
34. « Chân đi chẳng tới chân ôi !
Chân đi chẳng tới, chân ngồi
xuống đây.
Ngồi buồn tính đốt ngón tay,
Tính đi, tính lại ngón này hơn
trăm.
Tính tháng, rồi lại tính năm,
Tính tháng, tháng đoạn, tính
năm, năm rồi.
Đôi ta biết thuở nào nguôi ? »
35. « Chỉ tơ đứt nối thình lình,
Vì nghèo nên phải xa mình sanh phương ».
36. « Chỉ tơ đang rối rắm trong cuồn,
Cách xa em phải chịu lòng buồn thiết tha ».
37. « Chỉ tơ quấn ống tre bông,
Gá duyên chẳng đặng, xuống sông trầm mình ».
38. « Chim bay về núi Sơn-trà,
Chồng Nam vợ Bắc, ai mà muốn
xa.
Sự này cũng tại mẹ cha,
Cho nên đũa ngọc mới xa mâm vàng ».
39. « Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội,
Người xa người, tội lắm người
ôi !
Thà rằng chẳng biết thì thôi,
Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn ».
40. « Chim quyên xuống đất tha mồi,
Tôi xa người nghĩa, đứng ngồi không yên ».
41. « Chim thằng chài có ngày mắc bẫy,
Em cho hay rằng anh hãy lánh
xa.
Mẹ cha không thể chịu hòa,
Em đâu dám cãi vậy mà theo anh ».
42. « Chim xanh ăn trái xoài xanh,
Ăn no tắm mát, đậu nhành cây
đa.
Cực tấm lòng em phải nói ra,
Chờ trăng trăng xế, chờ hoa hoa tàn ».
43. « Chim quyên hút mật bông quì,
Ba năm còn đợi huống gì một năm ».
44. « Chọn nơi sang cả,
Tía má gả em nhờ.
Anh đây nghèo khổ biết chờ đặng không ? »
45. « Chừng nào cho sóng bỏ gành,
Cù lao bỏ biển, anh đành bỏ em ».
46. « Chừng nào tàu nọ xa Tây,
Phố lầu xa chợ, anh đây xa nàng ».
47. « Dì thằng cu như cánh hoa nhài,
Ba mươi sáu cánh tiếng tài nở đêm.
Sáng trăng trong sáng cả ngoài
thềm,
Lại đây ta chấp áo mềm đắp
chung.
Đêm đông thắp ngọn đèn lồng,
Mình về có nhớ ta không hỡi
mình ?
Chiếc thuyền na, anh giậm thình
lình.
Anh thì cầm lái, cô mình phách
ba.
Có thương anh bẻ mái chèo ra,
Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng
trời.
Anh thấy, anh cũng ưa đời,
Biết rằng chốn cũ có dời ra chăng ? »
48. « Diều sa xuống đất, con cuốc khóc tu oa,
Nhị nhơn đố khẩu là thiết do
hà.
Đôi lứa ta thương lén cha mẹ già nào hay ».
49. « Dòng nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược,
Dòng nước chảy ngược, ông Nược
rượt theo.
Hai đứa ta chẳng quản giàu
nghèo,
Ngặt vì cha mẹ cứ theo cựu truyền ».
50. « Dù cho cha đánh ngõ đình,
Mẹ ngăn ngõ chợ, đôi đứa mình đừng xa ».
51. « Đèn treo cột đáy,
Nước chảy đèn rung.
Anh thương em thảm thiết vô
cùng,
Biết cha với mẹ có bằng lòng hay không ? »
52. « Đêm qua anh nằm nhà ngoài,
Để em thở ngắn than dài nhà
trong.
Ước gì anh được vô phòng,
Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan ».
53. « Đêm qua nguyệt lặn về tây,
Sự tình kẻ đấy, người đây còn
dài.
Trúc với mai, mai về trúc nhớ,
Trúc trở về, mai nhớ trúc
không ?
Bây giờ kẻ Bắc người Đông,
Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư ».
54. « Đêm nằm thổn thức vào ra,
Chờ cha mẹ ngủ, lén qua thăm
mình.
Tôi than hết sức, tôi dứt hết
tình,
Thiếu điều cắt đứt ruột trao cho mình, mình ôi ! »
55. « Đêm khuya nước mắt ròng ròng,
Vì tôi nhớ chữ lan phòng còn
xa.
Làm sao hiệp mặt đôi ta,
Đặng tôi báo hiếu mẹ với cha bên mình ? »
56. « Đêm đêm ngồi tựa bóng đèn,
Than thân với bóng, giải phiền với hoa ».
57. « Đêm qua hết đứng lại nằm,
Năm thân áo vải ướt dầm như mưa ».
58. « Đêm khuya thắp chút dầu dư,
Tim lan cháy lụn, anh sầu tư một mình ».
59. « Đêm qua mới gọi là đêm,
Ruột xót như muối, dạ mềm như dưa ».
60. « Đêm khuya lặng gió thanh trời,
Ruột dường dao cắt vì lời mình than ».
61. « Đi ngang qua đình lột nón chào thần,
Hạc chầu thần đủ cặp, sao mình lẻ đôi ? »
62. « Đi ngang nhà má, tay tôi xá, chân tôi quì,
Lòng thương con má, sá gì thân tôi ».
63. « Đón ngăn đường tắt, tôi hỏi gắt chung tình,
Điểu xa mai, mai xa điểu, tôi xa mình, tại ai ? »
64. « Đôi cô vác gậy chòi đào,
Cô lớn, cô bé, cô nào với
ai ?
Cô lớn vuốt bụng thở dài !
Trời ơi đất hỡi lấy ai đỡ
buồn ?
Cô bé mặc yếm hở lườn,
Đêm nằm ngó cửa, con lươn bò
vào.
Gió nam đánh tốc yếm đào,
Anh nghĩ oản trắng, anh vào
thắp nhang.
Hai cô bốn oản rõ ràng,
Anh xin một chiếc cô nàng không cho ».
65. « Đôi ta như lọn nhang trần,
Không cha không mẹ muôn phần cậy ai ? »
66. « Đôi ta như ruộng năm sào,
Cách bờ ở giữa làm sao cho liền ? »
67. « Đôi ta như điểu đậu trên nhành,
Tôi với mình chồng vợ, sao bỏ đành đi ra ? »
68. « Đôi ta như đũa đong đong,
Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha ».
69. « Đưa em về cho tới ngoài sân,
Phụ mẫu có hỏi, nói trong thân
đưa về.
Từ khi đưa bạn ra về,
Một năm mười hai tháng không hề vãng lai ».
70. « Đường đi những lách cùng lau,
Cha mẹ ham giàu ép uổng duyên
con.
Duyên sao cắc cớ hỡi
duyên ?
Cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai ».
71. « Em buồn vì đã lỡ duyên,
Anh buồn vì chẳng được yên gia đình ».
72. « Em về thưa mẹ cùng cha,
Bắt lợn đi cưới bắt gà đi cheo.
Đầu lợn lớn hơn đầu mèo,
Làng ăn không hết, làng treo
cột đình.
Ông xã đánh trống thùng thình,
Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo ».
73. « Gặp mình giữa đám ruộng vuông,
Lời phân chưa hết, nước mắt tuôn hai hàng ».
74. « Gió đẩy đưa rau dừa dịu dịu,
Anh thương nàng liệu điệu xuống
lên.
Gió đưa trăng cho muỗi mòng xao
xuyến,
Anh xa nàng vì tiếng thị phi ».
75. « Gió đẩy đưa phơ phất ngọn cờ,
Anh đây lỡ vận tại chờ duyên
em.
Làm thơ nước mắt nhỏ lem,
Tương tư sầu muộn vì em có chồng ».
76. « Giở xem một truyện phong tình,
Cho loan nhớ phượng, cho mình
nhớ ta.
Nhớ nhau, nên thất, nên gia,
Nên cửa, nên nhà, nên vợ, nên
con.
Chim họa mi réo rắt trên non,
Ước gì ta được vợ con như người ».
77. « Hai đứa mình đành, phụ mẫu không đành,
Phụ mẫu đâu nở dứt duyên lành của con ».
78. « Hột gạo trắng tinh,
Mù sương sa nó trổ.
Em không nệ gì trời mưa,
Để cho anh đi kén đi lừa.
Cho đẹp ý mẹ, cho vừa lòng cha.
Phận em đây sa sút sụt sa,
Mấy câu ân nghĩa em phân ra giữa này ».
79. « Hữu bằng tự viễn phương lai,
Lạc hồ quân tử lấy ai bạn cùng.
Chữ Hiếu, chữ Trung là thầy với
mẹ,
Chữ Nhân, chữ Nghĩa là ái với
ân.
Yêu nhau bao quản xa gần ».
80. « Kiểng xa bồn kiểng lại héo queo,
Anh xa người nghĩa như lồng đèn treo hết dầu ».
81. « Không ăn thì ốm thì gầy,
Ăn thì nước mắt chan đầy chén cơm ».
82. « Làm thơ biết cậy ai đem,
Cậy cùng chim nhạn đặng đem cho
mình.
Mình đau tương tư tôi vái tận
tình,
Vái cho mình mạnh, vô đình cúng heo ».
83. « Làm thơ quốc ngữ đề chữ tân trào,
Mười giờ xe lửa lại gởi vào
thăm em.
Khăn lau nước mắt ướt nhem,
Trai như anh chịu thảm, gái như em chịu sầu ».
84. « Lan huệ sầu ai lan huệ héo,
Lan huệ sầu tình trong héo ngoài tươi ».
85. « Lén vô vén sáo hỏi thầm,
Cớ sao em rơi lụy ướt dầm gối loan ».
86. « Lênh đênh chiếc bách giữa dòng,
Thương thân góa bụa, phòng
không lỡ thì.
Gió đưa cây trúc ngã quì,
Ba năm trực tiết còn gì là xuân ».
87. « Liệu bề kết chẳng đặng đôi
Đi ra sông cái thả trôi như bè ».
88. « Linh đinh xứ lạ một mình,
Tìm nam kiếm bắc không thấy
mình ở đâu.
Sụt sùi lụy ứa thâm bầu,
Bấy lâu vắng mặt biết đâu trao
lời.
Điệu phu thê tôi muốn trọn đời,
Nào ai có muốn rã rời làm chi ! »
89. « Lộ bất hành bất đáo,
Chung bất đả bất minh.
Bây giờ anh mới rõ tình,
Tại bà mai ở độc, hai đứa mình xa nhau ».
90. « Lỗi căn duyên như đờn lỗi nhịp,
Biết bao giờ cho hiệp phụng loan ».
91. « Lục bình bát giác cặm các bông hường,
Má anh kén dâu, anh thì kén vợ.
Đạo cang thường rồi sẽ ra sao ? »
92. « Lửa nhen vừa mới bén trầm,
Trách lòng cha mẹ nỡ cầm duyên con ».
93. « Lưỡi câu anh uốn đã vừa,
Sợ lòng cha mẹ kén lừa nơi đâu.
Vực sâu thì mặc vực sâu,
Kìa sâu hay cạn, nỡ đâu lừa hoài ».
94. « Lưu ly nửa nước, nửa dầu,
Nửa thương cha mẹ, nửa sầu căn duyên ».
95. « Mặc dầu cha đánh mẹ treo,
Đứt dây té xuống cũng theo chung tình ».
96. « Mấy khi anh gặp em đây,
Để anh than thở với em vài lời.
Nửa mai anh ngược em xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời với nhau ».
97. « Mẹ cha mà có hành thân,
Tôi nguyền bán tảo buôn tần nuôi anh ».
98. « Mẹ em cấm đoán em chi,
Để em sắm sửa em đi lấy chồng ».
99. « Mình đưa khăn trắng tôi gắn chữ đồng,
Mai sau thác trước mình lén
chồng để tang.
Mình thương tôi chưa mấy mình
than,
Bằng tôi thương lại tàu Nam-Vang chở đầy ».
100. « Mình buồn tôi dễ chẳng buồn,
Cá dưới sông biếng lội, chim trên nguồn biếng bay ».
101. « Một mình đứng giữa trung ương,
Bên tình bên nghĩa biết thương bên nào ».
102. « Muốn theo anh về bển cho liền,
Sợ cha với mẹ nói con dâu không tiền, con dâu hư ».
103. « Muốn ăn cơm trắng cá kho,
Trốn cha trốn mẹ xuống đò cùng anh ».
104. « Nàng về giã gạo ba trăng,
Để anh gánh nước Cao-Bằng về
ngâm.
Nước Cao-Bằng ngâm thì trắng
gạo,
Anh biết em có liệu được
chăng ?
Trần trần như Cuội cung trăng.
Biết rằng cha mẹ có bằng lòng
không ?
Để anh chờ đợi luống công ».
105. « Năm con ngựa bạch sang sông,
Năm gian nhà ngói đèn trong đèn
ngoài.
Đèn yêu ai mà đèn chẳng tắt,
Ta yêu mình nước mắt rỏ ra ».
106. « Nói ra lụy nhỏ ướt dầm,
Hai đứa mình khác thể ngọc trầm biển Đông ».
107. « Nỗi về nỗi ở chưa xong,
Bối rối trong lòng như đánh cờ vây ».
108. « Nội gia ngoại kỷ nhứt vị công khanh,
Cha tôi đành, mẹ tôi không
đành.
Giả như gáo nước lọ tưới lửa thành không tan ».
109. « Núi kia ai đắp mà cao,
Sông kia bể nọ ai đào mà sâu ?
Vì ai cá chẳng bén câu,
Lược chẳng bén đầu, chỉ chẳng
bén kim ?
Muốn ăn mơ nổi, mận chìm…
Anh cũng lặn lội đi tìm về cho.
Thế gian thấy bán thì mua,
Biết rằng mận nhạt chát chua nhường nào ? »
110. « Nước dưới sông lững đững,
Mây đưa gió dật dờ.
Tơ duyên đã buộc sờ sờ,
Qua đây, bậu đó, còn chờ đâu xa ».
111. « Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược,
Nước chảy ngược con cá dược lội
xuôi.
Anh với em xa cách ngậm ngùi,
Mong cho gặp mặt xác vùi cũng ưng ».
112. « Nước trong cá lội thấy vi,
Anh câu không được cũng vì sóng xao ».
113. « Ngày sầu tơ, đêm lại sầu tình,
Anh trách ai gièm siểm đôi đứa mình lôi thôi ».
114. « Ngày nay loan phụng lẻ bầy,
Nam-Vang kia xa xứ, khó vầy yến anh ».
115. « Ngó lên chữ Á, ngó xuống chữ Ư,
Anh đừng thương vội mẫu từ em hay ».
116. « Ngó lên tấm chấn lăng quằng,
Kêu anh cũng ngại, kêu thằng khó kêu ».
117. « Ngó lên mây bạc chín từng,
Thấy đôi chim nhạn nửa mừng nửa lo ».
118. « Ngó lên trăng khuyết lưỡi liềm,
Muốn vô gá nghĩa sợ lỗi niềm mẫu thân ».
119. « Ngọn gió thổi qua lá đào rơi rụng,
Đôi ta không phải vợ chồng, chung đụng nhau chi ! »
120. « Ngồi buồn xe chỉ thắt quang,
Gánh nước sông Hớn đổ sang sông
Hồ,
Ai làm biển cạn sông khô,
Tàu vô không được Hớn với Hồ gặp nhau ».
121. « Người ta đi đôi về đôi,
Thân anh đi lẻ về loi một mình ».
122. « Người ta có vợ có chồng,
Em như con sáo trong lồng kêu mai ».
123. « Nghiêng mình nằm xuống nệm loan,
Ngủ quên một giấc, bạn vàng có đôi ».
124. « Nhơn bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ ?
Anh thương em ruột héo gan khô,
Trách ai phân rẽ Hớn Hồ đôi nơi ».
125. « Những mong lại có bao giờ,
Cho khuây khỏa dạ kẻo mơ mẩn tình ».
126. « Ô hô ! bình tích bể rồi,
Chén chung lỡ bộ, anh đứng ngồi không yên ».
127. « Ới anh ơi, anh có xa thì xa cho mất,
Anh có lại gần thì cho thành
thất thành gia.
Em khuyên anh đừng lại lại qua
qua,
Một mai kia thầy mẹ biết đặng đánh la tụi mình ».
128. « Phải chi mình vợ, tôi chồng,
Biểu tôi đi lấy gan rồng cũng
đi.
Hai đứa mình xứng nút vừa khuy,
Lựa ngày nào tốt dẫn đi cho rồi ».
129. « Phải dè năm bão thả trôi,
Sống làm chi chẳng đặng kết đôi
với mình,
Dọn cơm chống đũa ngồi nhìn,
Mảng sầu người nghĩa thất tình quên ăn ».
130. « Phềnh phồng lớn giữa lớn ra,
Mẹ ơi con chẳng ở nhà được đâu.
Ở nhà làng bắt mâm trầu,
Cho nên con phải đâm đầu ra đi ».
131. « Phụ mẫu dầu có la rầy,
Tôi không có bỏ căn nợ này mình lo ».
132. « Phụ mẫu mình khuôn phép luật hình,
Tôi không từng lai vãng nên mình quên tôi ».
133. « Phụng với loan hai mối mơ màng,
Đứt đi sợ tội, để càng thêm lo ».
134. « Rắn không chưn chạy năm rừng bảy rú,
Con gà không vú nuôi chín mười
con.
Phải chi nhan sắc em còn,
Anh vô chốn đó chiều lòn mẹ cha ».
135. « Rồng nằm chẹt đá, ná nọ chờ chim,
Gỗ trôi sông, gỗ nặng gỗ chìm.
Anh xa em vì bởi nằm điềm chiêm bao ».
136. « Ruột nàng ai cắt mà đau,
Nơi thương không vấn, vấn vơ nơi nào ».
137. « Sao rua đã mọc trên đầu,
Sao em ở mãi làm giàu cho
cha ?
Giàu thì chia bảy chia ba,
Thân em phận gái được là bao nhiêu ? »
138. « Sự bất đắc dĩ, sự bất đắc giã,
Khi xưa thầy mẹ bán gả em cho
anh.
Nay chừ bán gả cho ai,
Anh thở dài ra đứng gốc mai anh
buồn.
Khăn lau không ráo, vạt áo chậm
không khô.
Công anh đổ xuống ao hồ.
Quì thưa bẩm dạ, thuở mô đến chừ ».
139. « Tại mẹ cha dứt tình tơ nguyệt,
Khuyên em đừng trực tiết uổng công ».
140. « Tay đứt tay bao nỡ,
Ruột cắt ruột sao đành.
Mấy khi mà gặp con bạn lành,
Trách trời vội sáng mới tan tành đôi ta ».
141. « Tay cầm một mảnh giấy tây,
Bỏ trên mặt nước nó xây mất
rồi !
Duyên chàng tội lắm chàng ơi,
Kẻ trôi góc bể, người ngồi non cao ».
142. « Tới dây thủ lễ nghiêng mình,
Dầu không đặng vợ cũng tình đệ huynh ».
143. « Từ khi anh phải duyên mình,
Để lòng vò võ một mình sớm
khuya.
Hay là núi nọ, non kia,
Hay là còn bé, duyên kia chửa đành ».
144. « Từ rày người nghĩa hết trông,
Mình có chồng, tôi có vợ, còn trông làm gì ! »
145. « Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay
ai ?
Em ngồi cành trúc, em dựa cành
mai,
Đông đào, Tây liễu lấy ai bạn cùng ? »
146. « Thấy em khôn lớn anh mừng,
Mẹ cha dục dặc, nửa mừng nửa lo ».
147. « Thấy em chiếu tướng một mình,
Muốn vô chiếu tượng sợ đường sĩ ngăn ».
148. « Thấy mình ăn học có công,
Lại đây tôi hỏi khăn lông mấy
đường ?
- Khăn lông lau mặt cũng
thường,
Bên Tàu nó dệt ba bốn đường chỉ
xanh.
Đèn treo trong sáo xanh xanh,
Sầu mình tôi chết một canh ba bốn lần ».
149. « Thôi thôi bớt thảm bớt sầu,
Gối loan chẳng đặng giao đầu thì thôi ».
150. « Thơm không ngon cũng tiếng thơm vườn,
Dầu gá duyên không đặng cũng để đường xuống lên ».
151. « Thương mình, giấu mẹ, giấu cha,
Phụ mẫu hay đặng qua với em
phân lìa.
Rán thế nào như khóa với chìa,
Đừng mê duyên mới mà chia rẽ tình ».
152. « Trách ai đem lửa đốt nguồn,
Cho tro bay xuống cho buồn dạ em ».
153. « Trách mẹ với cha chớ anh đây không trách bậu,
Cha mẹ tham giàu gả bậu đi xa ».
154. « Trách ai vặn khóa bẻ chìa,
Đôi ta mới ngộ lại lìa nhau ra ».
155. « Trách ai đem khóa rẽ chìa,
Vu oan giá họa, mình lìa tôi ra ».
156. « Trăng lu vì bởi đám mây,
Đôi ta cách trở vì dây tơ hồng.
Nguyện cùng nhau quân tử đạo
đồng,
Trai nam nhơn hồ thỉ, gặp gái
tang bồng hồ sơn.
Sách có câu thiên địa tuần
hườn,
Châu nhi phục thủy, thiếp gặp
chàng như chỉ gặp kim.
Ở làm sao ân ái cho trọn niềm,
Đừng ham phú quý, đừng tìm công danh ».
157. « Trên xuân thu, dưới cũng xuân thu,
Có hò thì lựa câu nhu bỏ bình.
Đôi ta gá ngãi thình lình,
Phụ mẫu tôi chưa biết, phụ mẫu mình chưa hay ».
158. « Trời ra điềm lạ khó bàn,
Hay là ông khiến tôi với nàng
cách xa ?
Làm chi tội nghiệp bớ ba !
Cang thường mới ngộ bỏ qua sao
đành.
Rút gươm linh tự ải bờ thành,
Chẳng thà lìa tử, bao đành lìa sanh ».
159. « Trước sau chẳng khỏi lần nào,
Mở cửa anh vào, kẻo muỗi cắn anh ».
160. « Vì anh phụ mẫu hoành hành,
Đói no em chịu vậy, rách lành cam tâm ».
161. « Vì ai nước mắt sụt sùi,
Khăn lau không ráo, vạt chùi không khô ».
162. « Vì ai cho thiếp võ vàng,
Vì chàng tư lự, hoa tàn nhị
rơi.
Cực lòng thiếp lắm chàng ơi,
Biết rằng lên ngược xuống xuôi đàng nào ? »
163. « Vắn tiếng tăm kêu chẳng thấu trời,
Hỏi thăm duyên nợ đổi dời tại ai ? »
164. « Vô duyên xấu phước tôi thác trước chung tình,
Phụ mẫu rằng tôi vắn số, tại tôi sầu mình tôi thác oan ».
165. « Xe vu vi chạy về Câu-hậu,
Bạn lòng son nhất nhật đơn qui.
Chàng ơi, hỡi chàng, thương
thiếp làm chi,
Thiếp về xứ thiếp biệt ly hai hàng ».
166. « Xưa kia anh ở đồng làng,
Bởi anh chậm bước nên nàng đi
xa.
Xa nàng vì bởi ông mai,
Ông mai ít tiếng, bà mai ít lời ».
167. « Xưa kia ai cấm duyên bà,
Bây giờ bà già, bà cấm duyên tôi?».
g) Hiếu đạo với ông bà, cha mẹ
Nhiều người cho rằng quan niệm hiếu trung của người Việt-Nam phát
nguồn từ đạo lý của Khổng Mạnh. Đạo lý ấy du nhập vào Việt-Nam, tạo cho người
Việt-Nam có một tinh thần sùng bái tổ tiên, và chính tinh thần ấy di lưu đến
ngày nay vẫn được coi như tập tục cổ truyền.
Theo chúng tôi, quan niệm như vậy chưa đúng hẳn. Đành rằng đạo lý
của Khổng Mạnh ảnh hưởng vào dân tộc ta phần nào, song không phải đó là nguồn
gốc phát sinh tinh thần hiếu đạo của dân tộc Việt-Nam.
Ngược dòng lịch sử, chúng ta thử hỏi vì đâu đạo lý Khổng Mạnh lại
tạo ra ý thức hiếu đạo ? Ý thức hiếu đạo có phải do Khổng Mạnh sáng chế ra
hay do dân tộc Trung-Hoa đã có trước khi Khổng Mạnh lập nên triết thuyết « Trung
quân vương, hiếu phụ mẫu » ?
Thực ra, thời gian trước Khổng Mạnh, xã hội Trung-Hoa đã sống dưới
chế độ gia đình, tình cha con, chồng vợ đã có trong sử sách, Khổng-Tử chỉ là
người đã đem những trạng thái xã hội hiện hữu áp đặt vào đạo lý để phụng sự chế
độ phong kiến mà thôi. Vậy, quan niệm hiếu đạo của con cái đối với ông bà, cha
mẹ không thể gọi là đạo lý của Khổng Mạnh.
Nhưng do đâu xã hội Trung-Hoa lại phát sinh hiếu đạo ?
Đặt vấn đề như vậy, chúng ta phải xét đến nền tảng sinh hoạt. Dưới
một xã hội nông nghiệp, con người sống tập đoàn trong hệ thống gia đình, cha mẹ
phải có bổn phận nuôi nấng con cái ; việc làm ăn khổ cực, cộng với tảo tần
nuôi con, hoàn cảnh ấy đem lại trong gia đình một tình cảm, mà tình cảm nặng
nhất là sợi dây thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái.
Từ hình thức nông nghiệp, xã hội đặt vào đấy một chế độ chính trị
phong kiến, mà đơn vị sinh hoạt của chế độ phong kiến là gia đình, nên tình gia
đình lại càng gắn chặt hơn nữa.
Mặt khác, lịch sử xã hội Á-đông diễn biến trên tư tưởng đạo học,
chính nguồn tư tưởng ấy là nền tảng của tình thương, của nhân nghĩa, của mọi ý
hướng vị tha, mà tình cảm gia đình lại là tình cảm gần gũi nhất trong lẽ sống,
vì vậy mà tinh thần hiếu đạo được duy trì và phát triển đến tột độ.
Khác với xã hội du mục, nơi mà đời sống gia đình không được ổn
định, ý thức gia đình do đó mà thiếu tình cảm. Đã vậy, xã hội du mục tiến sang
địa hạt lý tính, xa rời cảm tính, nên hiếu đạo trong gia đình không có một mảnh
đất để phát huy, cho nên, chúng ta không lấy làm lạ, khi xã hội khoa học càng
tiến thì tinh thần hiếu đạo trong gia đình càng bị phai mờ dần.
Việt-Nam thời xưa, tổ chức nông nghiệp sớm được hình thành, nền
móng xã hội phong kiến tạo một năng lực bảo vệ ý thức gia đình, dĩ nhiên hiếu
đạo là lẽ sống của dân tộc. Chính tình cảm trong hiếu đạo đã phô diễn bàng bạc
qua ca dao tục ngữ mà ngày nay chúng ta còn cảm thấy chứa đựng một cái gì cao
cả nhất của tâm hồn. Đây, chúng ta thử hòa vào tình cảm của lớp người bình dân
thuở xưa :
« Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con ».
Một đứa bé sơ sinh vừa mở mắt chào đời bên chiếc nôi đã nghe câu
hát ấy. Tiếng hát vang vang trong làng mạc dưới túp lều tranh, giữa cánh đồng
bát ngát, bên ruộng lúa chín vàng. Tại sao họ hát như vậy, họ muốn kể công ơn
với con cái họ chăng ?
Không ! Chính họ muốn đem tình thương gắn liền với công ơn
sinh thành dưỡng dục đối với cha mẹ, ông bà họ. Một đôi vợ chồng khi đã sinh
con cái, bao nhiêu khổ cực vì con phản ảnh trong tâm tư, làm cho họ nhớ đến
công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ họ lúc họ còn là đứa bé sơ sinh. Tình thương của
họ đối với con cái ngày nay cũng là tình thương của ông bà cha mẹ đối với họ
ngày xưa. Họ phải nói lên những gì họ cảm giác được :
« Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ ».
Chính tình thương và công lao của họ đối với con cái đã làm cho họ
cảm giác được công lao của ông bà cha mẹ đối với họ trước kia.
Hỡi loài người ! Còn gì cao đẹp hơn khi tình thương tìm thấy
được tình thương ! Tình thương ấy lại là tình thương thiêng liêng trong
nghĩa vụ. Nó là nguồn sống của con người, một nguồn sống vô biên và bất diệt.
Với cảm giác ấy, người xưa đã ví tình thương cha mẹ như núi, như
non, như sông, như biển, không phải là chuyện quá đáng :
« Ru hời, ru hỡi, ru hời,
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao, biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi ! »
Tình thương không phải bằng vào lời nói mà phải căn cứ vào những
hy sinh cao cả. Người bình dân đã thấy những hy sinh tốt đẹp của cha mẹ họ, khi
họ phải hy sinh cho con cái mình. Bởi vậy họ đã nói lên :
- « Công cha trọng lắm anh ơi !
Nghĩa mẹ bằng trời, mang nặng đẻ đau ! »
- « Có con, nghĩ mẹ thương thay,
Chín tháng mười ngày, mang nặng đẻ đau ! »
- « Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương ».
- « Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,
Năm canh chầy thức đủ năm canh ! »
Không có một tình thương nào trong xã hội loài người mà không chịu
những hy sinh như vậy ! Con người nếu sống bằng lý tính, không bị dục vọng
cá nhân làm mù quáng, tất ai cũng phải thừa nhận đó là một tình thương thiêng
liêng, một nguồn sống vĩnh cửu trong tâm tư con người khi nghĩ đến cha
mẹ :
« Đội ơn chín chữ cù lao,
Sinh thành kể mấy non cao cho bằng.
Trời ơi, có thấu tình chăng ?
Bước sang mười sáu ông Trăng đã già ».
Khi tình thương đã đón nhận được tình thương thì trạng thái con
người không thể hờ hững. Để đáp lại tình thương ấy, loài người nẩy sinh ra hiếu
đạo. Vậy hiếu đạo là hành động đem tình thương đáp lại tình thương. Đó là sự
thờ kính mẹ cha, là bổn phận của con cái đối với ông bà cha mẹ, là nghĩa vụ
thiêng liêng trong cuộc sống, là cái gì cao cả nhất của con người còn đầy đủ
lương tri.
Chính người bình dân thời xưa đã nhận định đúng tầm mức của tinh
thần cao cả ấy nên họ đã phô diễn những cảm nghĩ như :
« Chiều chiều chim vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau ».
Tình thương ông bà cha mẹ không nằm trong bản năng dục vọng. Nó
nằm trong lý tính, trong tâm tư cá biệt. Nếu ở địa hạt văn chương bác học đã có
nhiều văn nhân tài tử dùng cảm giác rung động của mình diễn tả cường độ luyến
ái giữa gái trai, thì trái lại, trong văn chương bình dân, những anh nông phu
mộc mạc, những cô gái quê mùa lại đem tấm lòng thiết tha của mình trong tình
thương cha mẹ, nói lên mọi sự rung động ấy. Chúng ta hãy cảm thông với họ trong
vài câu ca dao :
- « Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con ! »
- « Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con ».
- « Đi đâu mà bỏ mẹ già,
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai dâng ? »
- « Chiều chiều xách giỏ hái rau,
Ngó lên mả mẹ ruột đau như giần ! »
Hiếu đạo của người bình dân đã phổ cập trong thi ca không kể
hết ! Thử hỏi trong văn chương bác học, tinh thần hiếu đạo có được phô
diễn một cách thiết thực như vậy chăng ? Hay những cái thiết tha trong văn
chương bác học chỉ dành riêng cho những mảnh tình vật chất giữa gái trai.
Hỡi những thi nhân trong văn chương bác học ! Dù các người có
khinh bạc hạng bình dân là quê mùa dốt nát, các người cũng không thể phủ nhận
tinh thần hiếu đạo của họ rung cảm mãnh liệt qua các câu ca dao như :
« Gió đưa cây cửu lý hương,
Từ xa cha mẹ thất thường bữa ăn.
Sầu riêng cơm chẳng muốn ăn,
Đã bưng lấy bát lại dằn xuống mâm ».
Hoặc : « Em thì đi cấy ruộng bông,
Anh đi gặt lúa để chung một nhà.
Đem về phụng dưỡng mẹ cha,
Muôn đời tiếng hiếu người ta còn truyền ! »
Hoặc : « Bao giờ cá lý hóa long,
Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa ! »
Hay : « Ba tiền một khứa cá buôi,
Cũng mua cho đặng mà nuôi mẹ già ».
Và : « Tôm càng lột vỏ, bỏ đuôi,
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già ».
Khi đã xem hiếu đạo là nguồn thiêng liêng chảy tràn trong mạch
sống, người bình dân cho những tình thương khác đều là phụ thuộc. Ví dụ tình vợ
chồng đã là cao cả, nhưng khi so với tình thương mẹ cha thì họ bảo :
« Mất mẹ, mất cha thật là khó kiếm,
Chớ điệu vợ chồng không thiếu gì nơi ! »
Họ quan niệm rằng vợ chồng có thể chọn lựa được, không người này
thì người khác, còn mẹ cha mỗi người chỉ có một.
Mất cha mất mẹ là một sự mất mát vĩnh viễn. Như vậy họ đã đặt lý
tính trên cảm tính dục vọng.
Từ chỗ trọng hiếu đạo, mọi ý thức của lẽ sống đều bị hiếu đạo chi
phối. Ví dụ trong ý thức hôn nhân :
« Tay bưng dĩa muối, tay bợ sàng rau,
Thủy chung như nhứt mặc sức anh chờ,
Em nguyện ở vậy để phụ mẫu nhờ đôi năm ».
Bắt tình nhân phải chờ đợi để trả đạo hiếu chứng tỏ ý thức hiếu đạo
của họ đã thắng ý thức dục vọng trong luyến ái. Hoặc :
« Đa đa đậu nhánh cây đa,
Chồng gần không lấy, em lấy chồng xa.
Một mai cha yếu mẹ già,
Bát cơm ai đỡ, chén trà ai nâng ? »
Thì chúng ta cũng thấy lòng hiếu đạo chi phối cả việc lựa chọn lứa
đôi. Đến như :
« Ba mươi anh không đi Tết,
Bước qua mùng một anh chẳng đáo tới nhà thờ.
Hiếu trung chi nữa anh đợi chờ uổng công ».
Rõ ràng họ đã đem ý thức hiếu đạo để đánh giá con người.
Kẻ được trọng vọng không thể là kẻ bất hiếu. Vì vậy, bất kỳ đàn
ông, đàn bà, muốn bảo tồn giá trị của mình đều phải tỏ ra hiếu đạo. Ví
dụ :
« Đi ngang nhà má,
Tay tôi xá, cẳng tôi quì,
Lòng thương em bậu sá gì thân anh ».
Hoặc : « Chim còn mến cội mến cành,
Anh đây cũng biết nghĩa sanh thành công lao ».
Hiếu đạo đã trở thành quan niệm nhân sinh, lôi cuốn mọi ý thức
sinh hoạt phải chu tuần theo quan niệm ấy. Cho đến việc tu hành là việc tín
ngưỡng riêng của mỗi cá nhân mà vẫn không thể tách rời ý nghĩa hiếu đạo. Chúng
ta nghe họ nói :
« Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu ».
Hoặc : « Vô chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ, công phu chưa đành ».
Đối với cá nhân, dù theo dõi đường hướng tư tưởng nào mà tách rời
hiếu đạo, vẫn bị coi là thấp hèn, đáng khinh bỉ. Do đó, tình quốc gia, dân tộc
là trọng, tuy nhiên, nếu nặng tình quốc gia dân tộc mà bỏ hiếu đạo thì vẫn chưa
tròn được bổn phận làm người.
Một thôn nữ đã đem nhiệm vụ quốc gia đặt ngang hàng với bổn phận
hiếu đạo trong câu ca dao sau đây :
« Ngồi buồn nhớ nước, nhớ nhà,
Nhớ anh đi lính bỏ mẹ già ai nuôi ? »
Tình yêu dân tộc không thể thoát ra ngoài tình hiếu đạo gia đình,
bởi vì gia đình là cơ sở của quốc gia, không tròn trách vụ gia đình thì trách
vụ quốc gia cũng không thể chu toàn được. Cũng như ông bà cha mẹ là tình máu
mủ, gần gũi nhất mà không thương yêu thì làm sao lại có thể thương yêu dân
tộc ? Căn cứ trên suy luận ấy, người bình dân đặt hiếu đạo gia đình ngang
hàng với nhiệm vụ quốc gia không phải là vô lý.
Chính vì vậy mà quan niệm giáo dục gia đình cũng bị ý thức hiếu
đạo chi phối. Người con trai trước khi đem vợ về sống chung với gia đình đã
phải dạy dỗ :
- « Mẹ cha là biển là trời,
Nói sao hay vậy, đừng cãi lời mẹ cha ».
- « Cây khô chưa dễ mọc chồi,
Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta.
Non xanh bao tuổi mà già,
Bởi vì sương tuyết hóa ra bạc đầu ».
- « Công sanh dục bằng công tạo hóa,
Có mẹ cha, sau mới có chồng.
Em nhớ khi dìu dắt ẵm bồng,
Nay em lao khổ não nồng đừng than ».
Hoặc có lúc người chồng từ giã nhà ra đi vì nghĩa vụ cũng phải
đặt hiếu đạo gia đình lên trên hết, và dặn vợ :
« Anh đi, em ở lại nhà,
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ ».
Hoặc : « Nhà anh chỉ có một gian,
Nửa thì làm bếp, nửa toan làm buồng.
Anh cậy em chăm sóc trăm đường,
Để anh buôn bán chẩy chương thông hành.
Còn chút mẹ già nuôi lấy cho anh,
Để anh buôn bán thông hành đường xa.
Liệu mà thờ kính mẹ già,
Đừng tiếng nặng nhẹ, người ta chê cười.
Dù no, dù đói cho tươi,
Khoan ăn, bớt ngủ, liệu bài lo toan,
Cho anh đành dạ bán buôn ».
Ngược lại cũng có nhiều người vợ đem ý thức hiếu đạo khuyên nhủ
người chồng trong quan niệm lập thân và xử thế. Ví dụ :
« Công danh hai chữ tờ mờ,
Lấy gì khuya sớm phụng thờ tổ tiên.
Khôn ngoan nhờ đức cha ông,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.
Đạo làm con chớ hững hờ,
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm ».
Ý thức hiếu đạo trong phạm vi giáo dục ảnh hưởng mạnh vào tâm tư
mọi người như vậy, cho nên đối với con cái trong gia đình khi lớn lên đã cảm
thấy có bổn phận thờ kính ông bà cha mẹ.
Đây, chúng ta nghe những lời thỏ thẻ của trẻ thơ khi bị ông bà cha
mẹ rầy la, đánh đập :
« Mẹ ơi đừng đánh con đau,
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ.
Mẹ ơi đừng đánh con đau,
Mai sau khôn lớn têm trầu mẹ xơi ».
Mẹ đánh con ! Tục ngữ Việt-Nam đã có câu :
« Thương con cho roi cho vọt,
Ghét con cho ngọt cho bùi ».
Đánh con không phải vì ghét con, mà muốn răn dạy cho con nên người.
Ai đã làm cha mẹ đều thấy lẽ đó. Không có người mẹ nào không thương con. Người
ta ví lòng thương con của mẹ cha như trời bể. Nhưng trời bể nào bằng :
Trời còn có những cơn dông bão tàn hại, biển còn có khi sóng động làm chết
người, còn lòng cha mẹ thương con không khi nào muốn con phải chịu điều bất
hạnh. Một chim mẹ bị mất con kêu lên thảm thiết. Một người mẹ thấy con đau ốm
đã phải thao thức suốt đêm. Cho nên, tiếng nói của đứa trẻ trên đây không phải
là lời oán trách mẹ, mà chính là tiếng nói ngây thơ bộc lộ chân tình hiếu đạo
của nó.
Sự thương yêu bảo vệ của mẹ cha đối với con cái còn được chứng
minh qua các câu ca dao như :
- « Còn cha gót đỏ như son,
Một mai cha chết, gót con như chì ».
- « Còn cha còn mẹ thì hơn,
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.
Đờn đứt dây còn xây lại nối,
Cha mẹ chết rồi con phải mồ côi ».
- « Bạc bảy đâu sánh vàng mười.
Mồ côi đâu sánh những người có cha ».
- « Mất cha con cũng u ơ,
Mất mẹ con cũng bơ vơ một mình ».
Sự hy sinh và tấm lòng thương yêu của mẹ cha đối với con cái như
vậy làm sao con cái không xem trọng và đền đáp ? Cho nên, nếu trong ca dao
bình dân đầy dẫy những cảm thức hiếu đạo, và có những câu hát thiết tha nói lên
tình thương của con cái đối với mẹ cha thì cũng không phải là chuyện lạ. Ví
dụ :
« Ngó lên nuộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu nuộc lạt em thương mẹ già bấy nhiêu ».
Tình thương cha mẹ không thể tính bằng nuộc lạt, cũng không thể
tính bằng con số. Nhưng tấm lòng hiếu đạo của người bình dân tràn ngập như ánh
sáng đêm trăng. Bất kỳ nơi đâu cũng có thể gởi gắm lòng hiếu đạo của mình được
Tình thương ấy khi thiếu thốn, họ thấy mất cả ý nghĩa trong lẽ
sống, và họ hối tiếc như những kẻ phạm phải điều gì bất hạnh :
« Thân anh chớ hỏi làm chi,
Lo bề gia thất, lỗi nghì mẹ cha ».
Hoặc : « Khó khăn mất thảo, mất ngay,
Ơn cha cũng bỏ, nghĩa thầy cũng quên ».
Tóm lại, lòng hiếu đạo đối với ông bà cha mẹ trong giới bình dân
thuở xưa rất trọng đại. Nếu ở giai cấp thượng lưu quyền quí phải nhờ đến sự
giảng dạy của sách vở mới thông đạt được công ơn sinh thành thì trái lại ở giai
cấp bình dân nhờ sống trong khổ cực, phải đem thân hy sinh và bảo vệ con cái
nên họ không cần học ở sách vở mà tự mình hiểu được một cách sâu xa ý nghĩa
sinh thành. Với ý thức trực tiếp, tình cảm họ dồi dào và phát hiện qua cảm giới
rất tế nhị.
Ngày nay, ở Việt-Nam, nếu đạo thờ cúng tổ tiên còn được duy trì và
tồn tại chính là nhờ ở ý thức hiếu đạo của người bình dân vậy.
*
(*) Tuyển tập
ca dao tiêu biểu
1. « Ai về tôi gởi đôi giày,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi ».
2. « Ai về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy ».
3. « Ai đi xứ Lạng cùng anh,
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em ».
4. « Anh đi ngang nhà thấy cha mẹ em nằm giường,
thấy em nằm đất anh thương,
Anh về đốn một cây huỳnh đường,
Anh đóng giường bịt song bằng bạc, bốn gót bịt vàng.
- Thượng mã đề kim, hạ mã đề ngân,
Anh ơi, anh ở sao cho phải phải, phân phân,
Thì em mới dám trao thân gởi mình ».
5. « Anh về báo nghĩa sinh thành,
Chừng nào bóng xế rủ mành sẽ hay ».
6. « Bao giờ cá lý hóa long,
Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa ».
7. « Biển cạn láng khô, tàu anh vô không đặng,
Gửi thư về nhà thăm mẹ với cha ».
8. « Cau non khéo bửa cũng dầy,
Trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm ».
9. « Con quốc kêu khoắc khoải mùa hè,
Làm thân con gái phải nghe lời chồng.
Sách có chữ rằng : « phu xướng phụ tòng ».
Làm thân con gái lấy chồng xuất gia,
Lấy em về thờ mẹ, kính cha,
Thờ cha, kính mẹ, ấy là người ngoan ».
10. « Con người có bố có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn ».
11. « Công sinh dục bằng công Tạo-hoá,
Có mẹ cha, sau mới có chồng ».
12. « Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày ».
13. « Chết ba năm sống lại một giờ,
Để coi người nghĩa phụng thờ ra sao ?
- Thờ chàng dĩa muối dĩa rau,
Thờ cha cúng mẹ mâm cao cỗ đầy ».
14. « Chiều chiều ra đứng cửa sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều ».
15. « Chim còn mến cội mến nhành,
Anh đây cũng biết nghĩa sinh thành công lao ».
16. « Chữ dâu hiền, con gái,
Câu rể thảo, con trai.
Bậu dầu đôi lứa trúc mai,
Bớ bậu ơi !
Qua kính thờ song nhạc dễ nài công lao ».
17. « Chữ xuất giá tòng phu phải lẽ,
Gái có chồng bỏ mẹ quạnh hiu.
Bớ anh ơi !
Em nhớ khi thơ bé nâng niu,
Ngày nay xuất giá bỏ liều mẹ cha ».
18. « Đèn lưu ly nửa nước nửa dầu,
Nửa thương cha mẹ, nửa sầu nợ duyên ».
19. « Đồi mô cao bằng đồi danh vọng,
Nghĩa mô trọng bằng nghĩa mẹ cha ».
20. « Em thì đi cấy lấy công,
Để anh nhổ mạ, tiền chung một lời.
Đem về cho bác mẹ coi,
Làm con phải thế, em ơi ! »
21. « Gặp mặt em dưới thủy trên thoàn,
Hỏi thăm phụ mẫu song toàn hay không ? »
22. « Gió đưa bụi trúc ngã quì,
Thương cha phải chịu lụy dì, dì ơi ! »
23. « Gươm vàng rớt xuống Hồ-Tây,
Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu ».
24. « Hồn rằng, hồn thác ban ngày,
Thương cha nhớ mẹ hồn rày thác đêm ».
25. « Làm trai nết đủ trăm đường,
Trước tiên điều hiếu, đạo thường xưa nay.
Công cha, đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành, con phải biết thờ hai thân.
Thức khuya dậy sớm cho cần,
Quạt nồng, ấp lạnh giữ phần đạo con ».
26. « Lấy chi trả thảo cho cha,
Đền ơn cho mẹ, con ra lấy chồng ».
27. « Linh đình nửa nước, nửa dầu,
Nửa thương cha mẹ, nửa sầu căn duyên ».
28. « Lòng riêng nhớ mẹ thương cha,
Bóng chim tăm cá biết là tìm đâu.
Trong vòng binh lửa dãi dầu,
Bơ vơ lưu lạc bạn bầu cùng ai ».
29. « Mẹ cha là biển là trời,
Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha ».
30. « Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Thiếp lo một nỗi đường trường xa xôi ».
31. « Mẹ ơi đừng đánh con đau,
Để con hát bội làm đào má coi.
Mẹ ơi đừng đánh con đau,
Để con bắt cá nấu xoài má ăn ».
32. « Mẹ già đã có con trai,
Con là phận gái dám sai chữ tòng ».
33. « Mẹ già ở chốn lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
Lòng son, dạ sắt càng thêm,
Lòng đà trăng gió ai tìm lấy ai ».
34. « Mẹ già bất khả viễn du,
Anh đi chơi cho cách mấy,
Tối công phu anh cũng phải về ».
35. « Mẹ ơi ! đừng đánh con đau,
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ.
Mẹ ơi ! đừng đánh con khờ,
Để con thả lờ bắt cá mẹ ăn ».
36. « Mình về ta chẳng cho về,
Ta nắm lấy áo, ta đề câu thơ.
Câu thơ ba chữ rành rành :
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình, là ba.
Chữ Trung thì để phần cha,
Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta chữ Tình ».
37. « Muốn cho gần mẹ gần cha.
Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền ».
38. « Ngày nào em bé cỏn con.
Bây giờ em đã lớn khôn thế này.
Cơm cha, áo mẹ, công thầy,
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao ».
39. « Ngó lên trời thấy cặp cu đương đá,
Ngó xuống biển thấy cặp cá đương đua,
Anh về lập miếu thờ vua.
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha ».
40. « Ngó lên nhang tắt lờ mờ,
Mẫu thân đâu vắng, bàn thờ lạnh tanh ».
41. « Ơn cha nặng lắm ai ơi,
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang ».
42. « Phụ mẫu sở sinh để cho phụ mẫu định,
Con đâu dám tư tình cãi lịnh mẹ cha ».
43. « Ra đi bỏ mẹ ở nhà,
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai dưng ? »
44. « Thắp nhang cho sáng bàn thờ,
Kẻo cha mẹ quở không nhờ rể con ».
45. « Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa ».
46. « Trên trời có cái cầu vồng,
Kẻ-Chợ cầu Muống, cửa đông cầu Rền.
Vua trên đền, cầu vàng, cầu bạc,
Các lái buôn cầu nước, cầu non.
Đôi ta cầu của, cầu con,
Con đẹp giống mẹ, con dòn giống cha.
Con gái dệt cửi trong nhà,
Con trai đi học đỗ ba khoa liền.
Con lớn thì đỗ Trạng-nguyên,
Hai con Tiến-sĩ đỗ liền cả ba.
Vinh qui bái tổ về nhà,
Bõ công đèn sách mẹ cha nuôi thầy ».
47. « Trời cho cày cấy đầy đồng,
Xứ nào xứ nấy trong lòng vui ghê.
Một mai gặt lúa đem về,
Thờ cha, kính mẹ nhiều bề hiếu trung ».
48. « Trứng rồng lại nở ra rồng,
Hạt thông lại nở cây thông rườm rà.
Có cha sinh mới ra ta,
Làm nên thời bởi mẹ cha vun trồng.
Khôn ngoan nhờ ấm cha ông,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.
Đạo làm con chớ có hững hờ,
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm ».
49. « Vẳng nghe chim vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.
Thương thay chín chữ cù lao,
Tam niên nhủ bộ biết bao nhiêu tình ».
50. « Xin người hiếu tử gắng khuyên,
Kịp thời nuôi nấng cho tuyền đạo con.
Kẻo khi sông cạn, đá mòn,
Phú ngà, phú uất, có còn là chi ».
h)
Tình anh em
Xưa nay loài người đã ca tụng tình anh em là tình ruột thịt, và
mọi ý thức giáo dục cũng đều đề cập đến tính chất liên hệ giữa tình máu mủ. Tuy
nhiên, đi sâu vào thực trạng diễn biến của lịch sử xã hội loài người, chúng ta
không khỏi ngạc nhiên khi thấy mối tình ruột thịt mà người ta hay ca ngợi lại
thường xảy ra những cảnh tranh chấp, giết hại lẫn nhau, mà người xưa gọi là
cảnh « cốt nhục tương tàn ».
Và trong ca dao bình dân Việt-Nam, chúng ta cũng chỉ tìm thấy hiếm
hoi những câu nói về tình anh em, chị em. Hiện tượng này chứng tỏ từ thời xưa,
tuy tình ruột thịt vẫn được quí trọng với tính chất thiêng liêng, song trên
thực tế tình cảm không phát lộ một cách thiết tha, rõ rệt.
Tại sao có chuyện lạ lùng ấy ?
Trước nhất, chúng ta thử tìm hiểu mối tình ruột thịt này.
Khác với tình cha mẹ đối với con cái, tình anh em tuy vẫn là tình
gia đình, song đứng ngoài trách nhiệm bảo vệ và nuôi nấng. Tình anh em chỉ đến
trong cảm giới con người bằng sự sống chung, sự liên hệ mật thiết giữa hoàn
cảnh sinh hoạt gia đình.
Cũng khác với tình vợ chồng, tình anh em không phát hiện trong cảm
giới dục tính, trong bổn phận tạo lập tư hữu gia đình, gầy dựng sự nghiệp
riêng.
Vậy, căn bản của tình anh em là tính chất ruột thịt và tính chất
liên hệ trong hoàn cảnh sinh hoạt gia đình.
1) Tính chất ruột thịt
Gần đây có nhà nghiên cứu về nhân chủng học đã khám phá ra hệ
thống truyền giống, tức là tính chất di lưu và truyền thụ giữa cha mẹ đối với
con cái.
Theo nhà khảo cứu này thì mọi sinh vật trong vũ trụ đều bắt nguồn
từ yếu tố cấu tạo chung của hệ thống âm dương tạo thành cá thể, rồi từ cá thể
đi dần đến cá biệt. Tính chất cá biệt ấy cứ đi dần mãi qua tiến trình của thời
gian để rồi mỗi cá thể không bao giờ còn giống nhau về tính chất nữa.
Họ ví dụ trên rừng có hàng mấy trăm vạn thứ lá cây, nhưng không có
thứ lá nào giống thứ lá nào. Đi sâu hơn nữa, cũng một cành cây có nhiều lá,
nhưng cũng không bao giờ có lá nào giống lá nào. Đó chỉ vì yếu tố cá biệt của
vạn hữu.
Loài người cũng thế. Tuy cơ thể cấu tạo mỗi người đều như nhau,
nhưng hình dáng không ai giống ai, dẫu là cùng một dân tộc, cùng một huyết
thống, hay cùng chung một mẹ cha. Sự khác nhau ấy cũng chỉ vì tính chất cá biệt
trong qui luật vũ trụ.
Nhưng cái gì đã đẩy vạn hữu đi trên con đường cá biệt hóa ?
Nhà khảo cứu cho năng lực cá biệt hóa của vạn hữu là màu thời
gian. Tại sao thời gian lại có màu sắc ? Theo họ, màu sắc đây có nghĩa là
tính chất biến dịch của thiên nhiên. Con người không thể sống ngoài qui luật
biến chuyển của thiên nhiên, cho nên khi hoàn cảnh thiên nhiên thay đổi thì tâm
trạng và bóng dáng con người cũng thay đổi theo.
Chứng minh điều đó, nhà khảo cứu nhân chủng học cho rằng tâm trạng
người thời xưa không thể giống tâm trạng người ngày nay, và tâm trạng người
ngày nay không thể giống tâm trạng người của thế hệ tương lai. Sự khác biệt ấy
là do hoàn cảnh sinh hoạt thay đổi, mà hoàn cảnh sinh hoạt chính là sự chồng
chất của thời gian đẩy trạng thái xã hội biến chuyển.
Ánh nắng mặt trời hôm nay tắt đi, nhường cho bình minh của ngày
mai không có nghĩa là ngày mai cũng chỉ là ngày hôm nay, và màu thời gian của
ngày mai không thể giống như màu thời gian ngày hôm nay được. Vậy sự biến
chuyển của thời gian cũng có nghĩa là dung lượng thời gian mỗi ngày một chồng
chất thêm trên vạn hữu để đưa vạn hữu biến chuyển trên con đường đổi mới – con
đường cá biệt – mỗi lúc một xa thêm.
Con người là một cá thể trong vũ trụ tất nhiên không thể đứng yên
trong khi dung lượng thời gian mỗi lúc một tăng để biến đổi cho màu thời gian
mỗi lúc càng hiện rõ sắc thái khác biệt.
Nếu chúng ta thừa nhận trạng thái đổi thay ấy đưa tâm tư con người
trên đường cá biệt hóa vạn hữu, thì chúng ta có một căn bản nhận xét về tình
thương.
Tại sao con người có tình thương ?
Tình thương là một cảm giác ưa thích phát xuất từ sự gần gũi về
tâm tư. Cho nên, khi hai người sống chung một hoàn cảnh, màu thời gian gần
giống nhau, thì tâm tư họ gần gũi nhau và dễ nẩy sinh cảm mến. Trái lại, khi
hai người sống giữa hai hoàn cảnh khác biệt thì tâm tư họ xa rời nhau, và tình
thương không thể phát hiện được. Vậy màu thời gian là yếu tố liên kết của tâm
tư, của tình thương.
Trở lại lãnh vực gia đình, khi hai vợ chồng sinh một đứa con tức
là di lưu tính chất cá biệt của mình vào đứa con trong thời gian ấy. Sở dĩ đứa
con giống cha mẹ là vì đứa con hiện mang tính chất cá biệt của cha mẹ, và cha
mẹ sở dĩ thương con cũng chỉ vì đứa con hiện mang tính chất cá biệt của mình mà
họ gọi là tình máu mủ.
Rồi cũng với đôi vợ chồng ấy, qua một thời gian khác, họ sinh thêm
một đứa con nữa, đứa con thứ hai cũng giống cha mẹ nó, nhưng không giống đứa
anh nó bao nhiêu. Sự khác biệt ấy do tính chất của người cha và người mẹ đã
tiến thêm trên con đường cá biệt một khoảng thời gian nữa, màu thời gian của
đứa con thứ nhất và thứ hai lúc mới sinh không giống nhau, cho nên vóc dáng và
tâm tư của hai đứa con không thể giống nhau, mặc dù cùng một mẹ cha. Vậy sự
cách biệt giữa hai thời điểm có quan trọng đến tính chất cá biệt của con cái
không ít.
Ngược lại, nếu hai đứa con sinh đôi, chúng ta sẽ thấy hình dáng và
tâm tư giống hệt, chỉ vì hai đứa con cùng sinh ra một thời điểm, tức là cùng
nhuộm chung một màu thời gian của cha mẹ nó.
Theo chứng minh trên, chúng ta đã giải thích được tại sao cha mẹ
lại thương con, và anh em lại yêu thương nhau hơn người dưng.
Tuy nhiên, đó chỉ mới nói đến tính chất cá biệt về huyết thống,
nghĩa là chưa nói đến ảnh hưởng sinh hoạt bên ngoài.
Màu thời gian không đứng yên. Đứa bé mới sinh ra mang màu thời
gian cá biệt của cha mẹ nó, rồi bắt đầu từ đó nó phải mang thêm màu thời gian
cá biệt của cá thể nó bằng cách chịu ảnh hưởng mọi sinh hoạt bên ngoài, để dần
dần xa rời tính chất cá biệt của cha mẹ. Nói cách khác, đứa con từ lúc bào thai
đến lúc sinh ra là chịu sự di lưu truyền giống trong tính chất của cha mẹ nó,
và từ lúc sinh ra đến lúc trưởng thành là giai đoạn của cá thể nó đi trên con
đường cá biệt hóa, do màu thời gian nối tiếp trong hoàn cảnh sinh hoạt.
2) Ảnh hưởng của hoàn cảnh sinh hoạt
Nếu một đứa con sinh ra, tách rời ảnh hưởng hiện hữu của gia đình,
và được nuôi nấng ở một nơi có hoàn cảnh sinh hoạt khác, thì đứa con lớn lên
chỉ còn lại tính chất cá biệt truyền giống mà không còn tính chất cá biệt gia
đình nữa. Màu thời gian đổi khác, trạng thái tâm tư của đứa con cũng đổi khác.
Ngược lại, nếu đứa con sinh ra được nuôi dưỡng chung trong một gia đình thì đứa
con sẽ thu gồm hai trạng thái cá biệt : huyết thống và sinh hoạt.
Nói cách khác, nếu chúng ta tách rời tình huyết thống thì những
người sống chung trong một gia đình sẽ vì nhuộm chung một màu thời gian – hoàn
cảnh sinh hoạt – mà tâm tư sẽ gần gũi, thương mến nhau. Đó là tình gia đình.
Đôi vợ chồng lúc yêu nhau và lấy nhau chỉ có tình cảm nhục dục mà
không có tình huyết thống hoặc tình sinh hoạt. Bởi vậy người xưa lựa vợ gả
chồng tìm chỗ môn đăng hộ đối, hoặc tìm chỗ xứng đôi vừa lứa chính là muốn tìm
trạng thái sinh hoạt – màu thời gian – gần gũi nhau để tâm tư khỏi xa cách, tạo
cho đôi vợ chồng dễ yêu mến nhau. Tuy nhiên, dù đôi vợ chồng không cùng một
hoàn cảnh sinh hoạt, nhưng lúc lấy nhau cùng sống một gia đình, tất nhiên màu
thời gian chung sống ấy sẽ dần dần biến đổi tâm tư, và tạo cho đôi vợ chồng có
một tình thương gia đình, tức là tình thương sinh hoạt.
Như vậy, tình vợ chồng gồm có tình nhục dục và tình sinh hoạt, còn
tình anh em có tình huyết thống và tình sinh hoạt. Hai tình thương có một phần
giống nhau và một phần khác nhau.
Người bình dân Việt-Nam thời xưa xem trọng tình anh em hơn tình vợ
chồng. Họ bảo :
« Anh em cốt nhục đồng bào,
Vợ chồng như áo mặc vào, cởi ra ».
Nói như thế tức là họ xem trọng tình huyết thống hơn tình sinh
hoạt. Nhưng thực tế, tình sinh hoạt và tình huyết thống vẫn quan trọng như
nhau.
Màu thời gian tạo nên tâm tư con người, mà tình cảm con người phát
xuất ở tâm tư, cho nên muốn thương yêu không phải dùng lý trí biện bạch, mà còn
phải nhờ đến cảm giác thúc đẩy nữa. Chính cảm giác thúc đẩy mới là thứ tình cảm
chân thật của lòng mình.
Bởi vậy, tình anh em tuy nặng hơn tình vợ chồng, song tình vợ
chồng lúc đã lấy nhau rồi thì luôn luôn sống chung nhau, gần gũi nhau, chịu
chung một hoàn cảnh sinh hoạt, cùng nhuộm chung một màu thời gian, trong lúc đó
tình anh em lúc nhỏ trong tình huyết thống, nhưng khi lớn lên có vợ con, có gia
đình riêng, hoàn cảnh sinh sống mỗi người mỗi khác, chế độ tư hữu của mỗi gia
đình đã tạo cho mỗi anh em một thời gian, và màu thời gian ấy đưa dần họ đến
chỗ cách biệt. Khi màu thời gian đã cách biệt thì tâm tư cũng cách biệt, trong
mỗi người chỉ còn lại tình huyết thống mà thôi. Cho nên tình vợ chồng từ chỗ
riêng rẽ đi đến hợp nhất, còn tình anh em từ chỗ hợp nhất đi đến cách biệt, đều
do hoàn cảnh sinh hoạt – màu thời gian – tạo ra cả.
Thực trạng diễn biến của tình gia đình như vậy, cho nên chúng ta
thấy tình anh em trong lúc còn sống chung dưới mái gia đình bao giờ cũng mặn
mà, thâm thúy hơn lúc đã lớn khôn, tạo lập gia đình riêng.
Ngoài hai yếu tố huyết thống và sinh hoạt, tình anh em còn bị chế
độ tư hữu của gia đình chi phối không ít. Nếu tình vợ chồng nhờ chế độ tư hữu
gia đình mang lại cho họ một hoàn cảnh kết hợp, chung lo xây dựng, chịu đựng
gian khổ, biến trạng thái sinh hoạt thành trạng thái yêu đương, thì ngược lại
tình anh em lại vì chỗ tranh đấu cho quyền lợi gia đình riêng mà trở nên mâu
thuẫn, xa cách.
Khi màu thời gian đã cách biệt, tham vọng cá nhân trong ý thức tư
hữu nẩy nở thì quan hệ huyết thống không còn đủ sức kềm hãm nữa, đó là nguyên
nhân chính phát sinh mối bất hòa, làm nhạt phai tình anh em.
Hiện tượng này rất phổ cập trong lịch sử xã hội loài người. Từ
những gia đình vua chúa cho đến những gia đình nghèo khổ nhất trong xã hội vẫn
không tránh khỏi.
Trong lịch sử vua chúa, chúng ta thấy qua những thảm trạng như em
giết anh để cướp ngôi, anh giết em để tranh đoạt của cải đầy dẫy cả sử sách.
Việc đáng chú ý nhất xảy ra trong văn học sử Trung-Hoa là việc anh
em Tào-Phi và Tào-Thực. Cả hai đều là con của Tào-Tháo. Tào-Phi sợ em mình
thông minh học giỏi, sau này thừa hưởng sự nghiệp của cha mình, nên muốn hại
Tào-Thực. Tào-Phi bắt Tào-Thực đi mỗi bước mà làm được một câu thơ thì tha
chết. Tào-Thực cay đắng tuân lời, và bước đi bốn bước làm được bốn câu thơ như
sau :
« Chữ đậu nhiên đậu cơ,
Đậu tại phủ trung khấp.
Bản thị đồng căn sinh,
Tương tiên hà thái cấp ? »
(Nấu đậu đun bằng củi đậu,
Đậu trong nồi nghĩ cũng xót xa.
Khóc, cùng một gốc sinh ra,
Đốt chi quá gấp, sao mà chẳng thương).
Lại một câu chuyện tương tợ, ở nước ta, dưới trào vua Tự-Đức. Hồi
đó vua Tự-Đức vừa giết anh là Hoàng-Bảo vì tội muốn cướp ngôi. Trong một buổi
ngự thiện, vua Tự-Đức cắn nhằm lưỡi, rồi ra đề cho các quan làm thơ, nhưng tuyệt
đối không được dùng tiếng « răng cắn lưỡi ». Bài thơ được chấm hay
nhất là của cụ Nguyễn-hàm-Ninh (đỗ giải nguyên năm Tân-hợi (1831) và đang làm
quan trong triều) như sau :
« Ngã sinh chi sơ, nhữ vị sinh,
Nhữ sinh chi hậu, ngã vi huynh.
Bất tư cộng hưởng chân cam vị,
Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình ».
Bản dịch của Thái-Bạch :
« Thuở trước tớ sinh, mày chửa sinh,
Mày sinh sau tớ, tớ là anh.
Ngọt bùi chẳng nghĩ cùng nhau hưởng,
Xương thịt làm sao nỡ dứt tình ».
Bài thơ trên đây được nhà vua khen và thưởng mỗi chữ một nén vàng,
nhưng phải bị phạt mỗi chữ đánh một trượng vì có ý « móc lò ».
Trở lại, chúng ta thấy yếu tố huyết thống và hoàn cảnh sinh hoạt
giữa Tào-Phi và Tào-Thực, hay giữa vua Tự-Đức và Hoàng-Bảo vẫn còn nguyên vẹn,
chỉ vì tham vọng cá nhân mà tình thương bị xóa nhòa trong cảm giới. Xem thế thì
tính chất tư hữu cũng tác động không phải nhỏ.
Đối với gia đình bình dân, những sự tích như « Cây khế ngọt » hoặc « Con chó đá » cũng để lại cho chúng ta thấy trạng thái tham vọng cá
nhân trấn áp cả tình huyết thống và tình sinh hoạt.
Lấy điển hình chuyện « Cây khế ngọt » như sau đây :
*
Ngày xưa có hai anh em nhà kia thừa hưởng một gia tài cha mẹ để
lại. Nhưng vợ chồng người anh vốn tính tham lam tiếm đoạt hết của tiền, ruộng
đất, nhà cửa, chỉ cho vợ chồng người em một túp lều và một cây khế. Tuy vậy, vợ
chồng người em cũng chẳng phàn nàn, tự nhủ : « Cha mẹ sinh ra nuôi
cho đến lúc lớn khôn, tự mình phải làm lấy mà ăn, tranh giành của cải chỉ làm
cho tình cốt nhục bị chia lìa mà thôi ».
Thế là vợ chồng người em an phận nghèo nàn, làm thuê độ nhật. Cũng
may, cây khế của vợ chồng anh ta đã sai trái, lại ngọt, đến mùa hái bán mua gạo
cũng đủ.
Vào một năm nọ, khế vừa chín thì chẳng biết con quạ to lớn phi
thường từ đâu bay đến, đậu trên cây ăn suốt ngày, người vợ đuổi cách nào chim
quạ cũng không bay.
Người vợ buồn bã, ngồi dưới gốc cây than thở :
- Vợ chồng ta chỉ sống nhờ cây khế, nay chim đến ăn,
phá thế này, vợ chồng ta chắc phải chết đói.
Bỗng con quạ từ trên cây cất tiếng nói :
- Ăn mỗi quả trả cục vàng. May túi ba gang mà đựng.
Người vợ kinh ngạc, biết là chim thần, không dám xua đuổi nữa, chờ
lúc người chồng đi làm về nói lại. Người chồng bảo :
- Chim thần đã dặn như vậy thì mình cứ may sẵn cái túi
ba gang để chờ xem sao.
Nghe lời chồng, người vợ kiếm vải nối lại may một cái túi nhỏ vừa
dài đủ ba gang tay. Túi đã may xong nhưng chim quạ ngày nào cũng đến ăn khế,
không thấy việc gì khác.
Người vợ nóng lòng nói với quạ :
- Chim ơi ! Nếu là chim thần thì xin thương hoàn
cảnh đói khổ của vợ chồng tôi mới phải, sao lại phá phách như vậy ?
Chim quạ nói :
- Ăn mỗi quả trả cục vàng. May túi ba gang mà đựng.
Rồi một buổi sớm tinh sương, lúc người chồng chưa ra đồng làm
thuê, gánh mướn, con quạ to lớn ấy đã bay đến, sà xuống đậu giữa sân, bảo người
chồng mang túi đi lấy vàng. Người chồng theo lời quạ, cầm túi vải leo lên lưng.
Con quạ kêu lên một tiếng, quạt cánh như gió bão, bay bổng lên từng mây. Người
vợ đứng dưới đất nhìn theo chồng và chim quạ dần dần mất hút tận chân trời xa,
không rõ lành dữ thế nào.
Quạ bay nhanh quá, người chồng ngồi trên lưng nhắm mắt lại, không
dám trông xuống đất, vì bên dưới là đại dương bao la bát ngát.
Lúc mặt trời lên độ ba sào, chim quạ đáp xuống một hòn núi cao
giữa biển. Nơi đỉnh núi này có một thung lũng chứa đầy vàng ngọc châu báu.
Quạ bảo người chồng lựa những vàng ngọc nào anh thích, lấy cho đầy
túi. Trong lúc đó, quạ lại bay đến một đỉnh núi khác để kiếm ăn.
Người chồng nhìn xung quanh thấy vàng ngọc như đất cục, nhiều quá
không thể nào kể xiết. Tuy nhiên, chàng vốn là kẻ không tham lam, chỉ lượm đầy
cái túi ba gang rồi chờ chim quạ trở lại đem chàng về nhà.
Mãi đến trưa, quạ ăn no mới trở lại bảo chàng leo lên lưng rồi bay
một mạch trở lại đất liền, và đem chàng về túp lều cũ.
Từ đấy hai vợ chồng người em lần lượt bán vàng ngọc đã lượm được,
mua nhà, tậu ruộng và trở nên giàu có phi thường.
Năm sau, vào ngày giỗ cha, người em nghĩ mình đã dư ăn, dư để, nên
muốn làm một tiệc lớn, mời vợ chồng người anh đến chung vui.
Người anh lâu nay khinh em mình nghèo, không hề lui tới, nay thấy
em mình mời mọc, cười chế giễu, nói :
- Chừng nào chú có chiếu lót đàng, vàng phết ngõ thì vợ
chồng tôi mới sang chơi.
Người em trở về sai vợ mua chiếu trải dài theo lối đi từ nhà mình
đến nhà người anh, lại mua vàng phết khắp cổng ngõ chói lọi. Vợ chồng người anh
thấy thế kinh ngạc, vội vàng sang thăm, mới biết người em ngày nay đã giàu có
hơn mình gấp trăm nghìn lần.
Người anh hỏi :
- Vợ chồng chú làm ăn thế nào mà mau giàu có như
vậy ?
Người em không giấu giếm gì cả, đem việc vừa qua kể lại. Người anh
vốn tính tham lam, đòi đổi gia tài mình lấy túp lều tranh và cây khế.
Người em không dám cãi lời. Thế là người anh dẫn vợ đến ở nơi túp
lều tranh, dưới gốc cây khế, và săn sóc cây khế rất chu đáo.
Đến mùa khế chín, con quạ cũng đến ăn. Người vợ ngồi dưới gốc cây
phàn nàn.
Quạ bảo :
- Ăn mỗi quả trả cục vàng. May túi ba gang mà đựng.
Vợ chồng người anh mừng rỡ bàn với nhau :
- Chúng ta phải may túi sáu gang, lấy thật nhiều vàng
ngọc để giàu hơn vợ chồng chú nó mới được.
Bàn định xong, vợ chồng hí hửng may cái túi thật lớn, dài hơn sáu
gang và chờ đợi.
Rồi một hôm quạ đến chở người anh đi lấy vàng. Nó cũng bay đến hòn
núi hôm nọ và bảo người anh lấy cho đầy túi, chờ nó bay đi ăn xong sẽ trở lại
đưa về nhà.
Người anh tham lam, thấy cục vàng nào cũng tốt, viên ngọc nào cũng
to nên không nỡ bỏ lại, đã chất đầy cái túi sáu gang còn bọc thêm trong áo,
trong quần đầy nhóc.
Lúc bay ra giữa biển nặng quá, quạ bảo anh ta bỏ bớt xuống kẻo sa
cánh, nhưng anh không chịu bỏ bớt, cứ ôm chặt vào người. Quạ bay không nổi nữa,
sa cánh, làm cho anh ta lăn ùm xuống biển mà chết.
Người vợ trông chồng không thấy về, năm tháng mỏi mòn cũng lâm
bệnh chết theo.
(Trích Chuyện cổ tích Việt-Nam)
*
Chuyện cổ tích trên đây tuy là huyền thoại, song phản ảnh được
tính chất tham vọng cá nhân đã làm mất tình huyết thống.
Thực ra tính chất tham vọng cá nhân thường phát hiện trong gia
đình của giai cấp thượng lưu quí phái nhiều hơn trong gia đình giai cấp bình
dân, bởi lẽ giai cấp bình dân tài sản của cha mẹ để lại không có bao nhiêu. Anh
em trong gia đình khi lớn lên phải tự đem sức mình làm việc để nuôi sống, ít
được nhờ vào di sản của cha mẹ.
Do đó, mặc dù tình anh em khi lớn lên bị hoàn cảnh sinh hoạt của
gia đình riêng chi phối, tình thương không được khắng khít như lúc còn sống
chung trong một gia đình, song họ vẫn giữ được ít nhiều tình huyết thống. Ý
thức ấy đã bộc lộ qua các câu ca dao sau đây :
« Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân.
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy ».
Hoặc : « Chị ngã thì em phải nưng,
Đừng thấy chị ngã em bưng miệng cười ».
Hay : « Anh em cốt nhục đồng bào,
Kẻ sau người trước phải hầu cho vui.
Lọ là ăn thịt ăn xôi,
Quí hồ ở nết tới lui bằng lòng ».
Dĩ nhiên những câu ca dao trên đây chỉ là ý thức giáo dục trên
tình cảm huyết thống, không phải do tâm hồn thiết tha trong cảm giới yêu đương
như tình hiếu đạo, hoặc tình vợ chồng, song chúng ta cũng không thể phủ nhận
được lòng mong muốn của họ trong lẽ sống.
Mặt khác, đối với người bình dân, dù là tình anh em có vì quyền
lợi cá nhân làm phai nhạt đến đâu, chúng ta vẫn thấy họ vẫn giữ được tình huyết
thống. Chính họ đã nhận thấy :
« Cắt dây bầu dây bí,
Ai cắt dây chị dây em ».
Hoặc : « Anh em chém nhau đằng sống,
Không ai chém nhau đằng lưỡi ».
Trạng thái mâu thuẫn có giới hạn như vậy chứng tỏ họ còn giữ được
tình cốt nhục trong phạm vi tham vọng cá nhân.
Hơn nữa, đối với người bình dân, nếu quyền lợi cá nhân đã làm phai
nhạt tình anh em, thì cũng có nhiều trường hợp vì phải đấu tranh với mâu thuẫn
xã hội mà họ chung lưng đấu cật với nhau để thắt chặt tình anh em. Ví dụ họ
bảo :
« Đông có mày, Tây có tao ».
Hoặc : « Cha nó lú, chú nó khôn ».
Hoặc họ cảm thấy một lúc nào đó, tình huyết thống trỗi dậy trong
tâm tư khi họ vì quyền lợi tranh chấp giữa tình anh em. Họ bảo :
« Không cho ruột ăn, chớ chọc ruột, ruột
cũng đau ».
Hoặc : « Máu chảy ruột mềm ».
Tóm lại, tình anh em phát hiện trong tình huyết thống và tình sinh
hoạt, chịu ảnh hưởng chi phối của chế độ tư hữu gia đình, vì vậy sinh hoạt hàng
ngày thường làm cho tình anh em bị lu mờ và gây nhiều mâu thuẫn vì quyền lợi
trong ý thức tư hữu. Tuy nhiên, tình huyết thống vẫn giữ một vai trò thiêng
liêng, nên khi ý thức tham vọng bị tiêu diệt thì tình huyết thống lại trỗi dậy.
Do đó, nhiều anh em lúc còn trẻ tranh chấp liên miên, đến lúc tuổi già, gần kề
cõi chết, họ nhận thấy sự đời là trống rỗng, họ trở nên hối hận về dĩ vãng. Và
chính sự hối hận ấy đã giày vò làm cho họ đau đớn vô cùng.
3) Tuyển tập ca dao tiêu biểu
1. « Anh em một khí huyết rây,
Cũng như người có chân tay khác gì.
Ai ai lấy đấy mà suy,
Có câu Đường lệ trong Thi để truyền ».
2. « Anh em cốt nhục đồng bào,
Vợ chồng là nghĩa lẽ nào chẳng thương ».
3. « Anh em bất nghĩa chi tồn,
Anh đánh miếng l… anh đánh miếng gh… »
4. « Anh em bất nghĩa chi khèo,
Anh thì đ… mèo, em lại cầm đuôi ».
5. « Anh em như chân, như tay,
Vợ chồng như áo cởi ngay nên lìa ».
6. « Anh em thâm thật là hiền,
Bởi một đồng tiền, làm mất lòng nhau ».
7. « Con cô con cậu thì xa,
Con chú con bác thực là anh em ».
8. « Đắng cay cũng thể ruột rà,
Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng ».
i)
Tình vợ chồng
Ở mục trước, chúng ta đã có dịp phân tích những căn bản khác biệt
giữa tình vợ chồng và tình anh em, ở đây chúng ta không cần nhắc lại tính chất
ấy nữa, mà chỉ tìm hiểu ở cảm giới người bình dân thời xưa đã để lại cho chúng
ta những gì trong quan niệm tạo lập gia đình của họ.
Trước nhất, chúng ta thường thấy trong ca dao Việt-Nam, người bình
dân quan niệm sự sống chung giữa vợ chồng là một cái « đạo ». Ví
dụ :
« Đạo vợ chồng khó lắm ai ơi !
Không phải như ong bướm đậu rồi lại bay ! »
Vậy, thế nào là đạo vợ chồng theo quan niệm của họ ?
Khi nói đến đạo tức là nói đến lý tính, nói đến ý thức ràng buộc
bằng hệ thống tâm tư, trong đó con người phải vận dụng khả năng để thu đạt
những lợi ích của nó.
Theo triết thuyết Khổng Mạnh thì người đàn bà lấy chồng tức là
thực hiện đạo tam tòng. Đó là hệ tư tưởng duy lý bảo vệ phụ quyền.
Người bình dân vẫn cho việc sống chung giữa vợ chồng là một cái
đạo, nhưng căn bản không giống với ý thức của Khổng Mạnh. Sự sống chung ấy còn
là một nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ gia đình, vì vậy quyền hạn giữa người chồng
và người vợ không phải chỉ có một chiều như quan niệm của Khổng Mạnh, mà phải
đặt trên tính chất tương ứng và bình đẳng.
Ý thức về nghĩa vụ theo quan niệm họ đã biểu lộ qua nhiều câu ca
dao. Ví dụ như :
« Xét ra trong đạo vợ chồng,
Cùng nhau nương cậy để phòng nắng mưa ».
Người vợ lấy chồng không phải để cho chồng sai khiến mà để họp sức
với chồng tranh đấu với mọi hoàn cảnh sinh hoạt, nhờ đỡ nhau trong nguy biến,
trong lẽ sống hàng ngày. Ý thức như vậy không thể lẫn lộn với ý thức
« tòng phu » của Khổng Mạnh được. Để chứng minh rõ ràng
hơn, chúng ta hãy nghe cô thôn nữ bảo chồng :
« Rương xe chìa khóa em cầm,
Giang sơn anh gánh, nợ nần em lo ! »
Thì rõ ràng là một sự phân công trong kế hoạch bảo vệ gia đình.
Người chồng gánh vác việc ngoài, người vợ lo lắng việc trong, nghĩa vụ được
phân định một cách bình đẳng và tương ứng như vậy chứng tỏ đạo vợ chồng mà
người bình dân quan niệm không phải như đạo lý Khổng Mạnh đã ảnh hưởng trong
giai cấp phong kiến quý tộc.
Người đàn bà trong giai cấp bình dân quan niệm đạo vợ chồng như
vậy, thì người đàn ông bình dân cũng không quan niệm khác hơn. Đây, chúng ta
nghe một nông phu bảo vợ :
« Cỏ mọc bờ giếng cheo leo,
Tay vịn chân trèo hái trái nuôi nhau ».
Người vợ vẫn theo chồng. Nhưng ý thức theo chồng của người bình
dân khác với ý thức « tòng phu » của Nho giáo. Ý thức « tòng
phu » của Nho giáo bắt người vợ phải chịu dưới quyền điều khiển của người
chồng trong trật tự gia đình, biến người vợ thành vật nô lệ. Còn ý thức theo
chồng của người bình dân là để chia xớt những buồn vui, cực nhọc, và hòa mình
với nhau trong ý sống. Đây, chúng ta nghe họ hát :
« Theo nhau cho trọn đạo trời,
Dẫu mà không chiếu, trải tơi mà nằm ».
Như vậy chúng ta không thể nhìn họ với ý thức cách biệt giữa người
chồng và người vợ được. Và đạo vợ chồng theo quan niệm họ không phải là sự phân
chia quyền uy, tranh giành địa vị, mà chính là nghĩa vụ chung sống, tương thân
tương ái, cấu kết tình yêu giữa hai người làm một. Với ý thức ấy họ đã mô tả
một cách rõ ràng :
« Đôi ta như rắn liu điu,
Nước chảy mặc nước, ta dìu lấy nhau.
Đôi ta như thể con tằm,
Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong.
Đôi ta như thể con ong,
Con quấn con quít, con trong con ngoài ».
Tại sao đạo vợ chồng của người bình dân lại xây dựng trên quan
niệm bình đẳng và tương thân tương ái ?
Thật không có gì khó hiểu. Nếu những người vợ trong giai cấp
thượng lưu, quí tộc ỷ lại vào địa vị, tài sản của người chồng, sống nhờ vào đó,
không phải làm lụng mệt nhọc gì cả, thì người chồng trong giai cấp thượng lưu,
quí phái cũng ỷ lại vào tài sản, địa vị của mình mà coi thường người vợ, không
cho người vợ có một quyền hạn và địa vị trong gia đình ngang với mình. Người
bình dân trái lại, vợ chồng lấy nhau phải đem thân làm lụng đầu tắt mặt tối
suốt năm tháng để mưu sinh. Hoàn cảnh như vậy không cho phép người chồng cậy
thế mà xem rẻ địa vị người vợ trong gia đình. Đã vậy, những buồn vui trong việc
mưu sống hàng ngày chẳng những đem đến cho vợ chồng người bình dân quan niệm
bình đẳng, mà còn siết chặt tình thương của họ trong gian lao, khổ cực nữa.
Đây, chúng ta nghe họ nói :
« Rủi tay anh đánh bể cái ô đồng,
Của chồng công vợ, bể rồi thì thôi ».
Vì phải chung lưng đấu cật để mưu sinh và tạo lập gia đình, nên ý
thức bất bình đẳng không thể tồn tại trong lẽ sống của người bình dân được.
Từ chỗ quan niệm bình đẳng trong tương thân, tương ái, đạo vợ
chồng của người bình dân đi đến ý thức chung thủy. Bởi vì chỉ có tình thương
nào nẩy nở trong lẽ sống tương thân, xem nhau như một mới tạo ra được sự chung
thủy mà thôi.
Ý thức chung thủy của người bình dân chính đã phát sinh trên yếu
tố bình đẳng, tương thân tương ái ấy.
Đây, chúng ta nghe họ thiết tha với niềm chung thủy mà họ cho là
đạo vợ chồng :
- « Trăm năm lòng gắn dạ ghi,
Dầu ai đem bạc đổi chì cũng không.
Muối mặn ba năm muối hãy còn mặn.
Gừng cay chín tháng gừng hãy còn cay.
Đạo vợ chồng đừng có đổi thay,
Làm nên danh vọng, hay rủi ăn mày vẫn theo nhau ».
- « Tay bưng dĩa muối chấm gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau ».
Rõ ràng ý thức chung thủy của họ gắn liền với những đắng cay, khổ
cực trong đời sống họ mà cả vợ chồng đều phải chung lưng hứng chịu. Chính những
đắng cay khổ cực ấy là sợi dây siết chặt tình tương thân tương ái, mà khi nghĩ
đến, cảm giới của mỗi người không thể nào gạt bỏ ra ngoài thứ tình cảm sâu sắc
ấy được.
Chúng ta không lạ lùng, khi trong ca dao bình dân phát lộ những
cảm giác thiết tha về yêu đương như :
- « Trăm năm ý quyết một lòng,
Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
Dầu cho đá nát vàng phai,
Trăm năm duyên nợ chẳng sai chút nào ».
- « Trăm năm không bỏ nghĩa chàng,
Quạt tàu rách nát, ngọc vàng còn xinh.
Vải thưa nhuộm lấy màu đen,
Vải thưa mặc vải, màu xinh khen màu ».
Nếu bảo người bình dân vì quê mùa chất phác, không đủ tình cảm để
nhận chân giá trị của ái tình, thì quả là một nhận xét sai lầm. Tình cảm không
đến với con người bằng suy luận mà bằng mọi tiếp xúc với thực tại bên ngoài.
Nếu những đôi vợ chồng trong giới thượng lưu quí phái sống trên nhung gấm, nhờ
những trau dồi vật chất giúp cho cảm giác yêu đương của họ thì người bình dân
lại nhờ vào những khổ cực trong sinh hoạt hàng ngày để tìm lấy cảm giác yêu
đương. Bởi vậy, cảm giác yêu đương của họ thoát ra ngoài quan niệm vật chất,
hòa tan trong quan niệm lý tính và tạo cho họ một căn bản yêu đương trong nghĩa
vụ vợ chồng. Chính ý thức ấy đã bộc lộ qua câu hát thường ngày bên nương dâu,
ruộng lúa, như :
« Chồng ta áo rách ta thương,
Chồng người điểm phấn tô hương mặc người ».
Chính cái áo rách của chồng là vật chứa đựng tình thương, nó đã
cùng với người vợ chiến đấu gian lao để sinh sống hàng ngày. Giá trị tình cảm
của nó đã vượt lên trên giá trị mỹ thuật của phấn hương.
Cho nên, giá trị tình cảm không thể đem so sánh với giá trị mỹ
thuật được. Giá trị mỹ thuật là thứ giá trị vật chất, còn giá trị tình cảm là
giá trị của tinh thần.
Một cái chén xưa, vật dụng của tổ tiên để lại nếu đem so sánh vẻ
đẹp với cái chén bây giờ thì chẳng có nghĩa lý gì. Song nếu kể về giá trị tình
cảm thì chính cái chén xưa kia là vật chứa đựng những buồn vui, cay đắng của
gia đình từ đời tổ tiên cho đến nay. Tình cảm ấy gắn liền giữa tâm tư con người
với vật dụng, tạo thành một giá trị vượt trên giá trị nghệ thuật.
Người vợ đem tình thương phủ lên chiếc áo rách của chồng chính là
đã phủ lên đấy một giá trị tình cảm, khác với giá trị thẩm mỹ.
Khi đã tìm được mầm yêu đương trong sự hòa đồng gian khổ, người
bình dân không còn ngần ngại và sợ hãi gian khổ nữa. Họ đem gian khổ đổi lấy
yêu đương, và cũng đáp lại yêu đương bằng gian khổ. Đây, chúng ta nghe họ
nói :
- « Thương chồng nên phải lầm than,
Xưa nay ai bắt việc quan đàn bà ».
- « Thương chồng nên phải gắng công,
Nào ai xương sắt dạ đồng chi đây ».
- « Vì chàng thiếp phải bắt cua,
Những như mình thiếp, thiếp mua ba đồng ».
- « Vì chàng thiếp phải long đong,
Những như mình thiếp cũng xong một bề ».
Khác với người khuê phụ trong giai cấp phong lưu quí phái, họ
không tìm tình yêu của chồng trong việc điểm trang sắc diện. Cho nên, bậc nữ
lưu khi cách biệt chồng, họ đã than :
« Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều dòi dõi nương song.
Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ».
(Chinh phụ ngâm)
Chúng ta thấy rõ ràng khi sum họp với chồng, người đàn bà quí phái
kia đã xây dựng tình yêu trên việc điểm trang sắc diện.
Người đàn bà bình dân khác hẳn. Và người đàn ông trong giai cấp
bình dân cũng không lấy tình yêu trên nhan sắc làm trọng. Nếu gặp cảnh chồng
phải ra đi lính thì người đàn bà bình dân gìn giữ tình vợ chồng bằng nhiệm vụ
đảm đương việc nhà. Họ bảo :
« Anh ơi phải lính thì đi,
Việc nhà đơn chiếc đã thì có em ».
Hoặc nếu có uất nghẹn vì cảnh biệt ly ngang trái, thì họ cũng nghĩ
tới nỗi khổ của chồng hơn là tha thiết đến việc trăng hoa. Đây, chúng ta nghe
họ than :
- « Phải vua bắt lính đàn bà,
Để em đi thế anh vài ba năm ».
- « Phải chi em vác nổi cây súng đồng,
Em ra đi lính thế cho chồng một phen ».
Hoặc họ tưởng tượng đến việc chia bớt cảnh nặng nhọc của người
chồng ngoài biên ải, và họ than :
« Chàng ơi đưa gói thiếp mang,
Đưa gươm thiếp vác cho chàng đi không ».
Có người đàn ông nào đi lính đem vợ theo, hoặc để cho vợ vác gươm,
mang gói trên bước quân hành ! Đây là ý thức của một chinh phụ trong giới
bình dân, muốn chia sẻ nỗi khổ cực với chồng ngoài muôn dặm.
Căn cứ trên tâm tư diễn biến qua ca dao, chúng ta có thể kết luận
rằng đạo vợ chồng theo quan niệm của người bình dân là nghĩa vụ tương thân
tương ái và bình đẳng xây dựng trên ý thức đồng lao cộng lực.
Vậy chúng ta thử lược khảo qua các điểm sau đây :
1) Vợ chồng khi gần gũi
Cứ theo quan niệm trên thì đôi vợ chồng bình dân sống chung nhau
là để tạo cho nhau những kỷ niệm, di lưu vào tâm hồn nhau những hoài cảm trên
bước đường tranh đấu, tạo dựng gia đình. Cho nên, họ lấy sự săn sóc nhau, lo
lắng nhau làm căn bản tình yêu. Ý thức ấy biểu lộ rõ rệt qua câu :
« Ơn trời cho lúa chín vàng,
Cho anh đi gặt, cho nàng đem cơm ».
Hoặc : « Ai kêu, ai hú bên sông,
Tôi đang nấu nướng cho chồng tôi ăn ».
Tình chồng vợ chất chứa trong chén cơm, manh áo. Theo họ chỉ có
tình cảm trong tâm tư mới là tình cảm lâu dài, không bao giờ mất. Bởi vậy, họ
tìm thấy cái thú yêu đương của vợ chồng khác với tính chất luyến ái giữa gái
trai. Vợ chồng càng khổ cực bao nhiêu thì tình cảm càng nồng đậm bấy nhiêu.
Chúng ta đã nhận thấy cảnh :
« Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa ».
Họ khổ cực thật, nhưng chính cái khổ cực ấy biến thành cái thú yêu
đương trong đạo vợ chồng mà chúng ta, kẻ ngoại cuộc, không thể nào cảm nghĩ
được.
Cũng như ngày xưa, vợ may áo cho chồng là gieo vào tấm áo một mối
tình, mà người chồng khi mặc tấm áo ấy luôn luôn nhớ đến công lao của vợ. Ngày
nay khoa học tiến bộ, người ta may áo may quần bằng máy, và người vợ không còn
là hình bóng đêm đêm khâu áo cho chồng trong canh trường gió lạnh nữa. Như vậy
là chúng ta đã mất đi phần nào tập tục yêu đương trong tình chồng, nghĩa vợ.
Đây, chúng ta thử hòa đôi chút giao cảm qua công việc vá may của người đàn bà
đối với người yêu :
« Thương chồng may áo cho chồng,
Canh trường quạnh vắng, đêm đông gió lùa ».
Ai có thể phủ nhận được tình cảm của người vợ trong ưu tư qua từng
đường kim, mũi chỉ. Tình cảm ấy không gieo vào lòng người đàn ông một cảm giác
yêu đương nào ư ?
Hoặc : « Ai kêu, ai hú bên sông,
Tôi đang vá áo cho chồng tôi đây ! »
Hay : « Áo anh rách chỉ đường tà,
Vợ con không có, mẹ già cũng không ! »
Và : « Thương trò may áo cho trò,
Thiếu bâu, thiếu vạt, thiếu hò, trò ơi ! »
Tình vợ chồng đến với họ bằng sự tương cảm những khổ đau trong
sinh hoạt xã hội. Cho nên cảm giới yêu đương của họ là một bầu trời bao la, bát
ngát, vượt ra ngoài phạm vi dục tính của con người. Còn gì thiết tha hơn khi
tâm tư họ thốt ra những cảm nghĩ :
« Thương chồng nấu cháo le le,
Nấu canh bông bí, nấu chè hột sen ».
Dù chỉ một con le le bắt được trên rừng, một vài cái bông bí nở
ngoài hàng giậu, họ cũng có thể dùng nó gửi gắm tình yêu, huống chi cuộc sống
người bình dân không phải không có những ước vọng lớn lao. Họ cũng muốn có
người chồng trong gia đình được học hành, mở mang trí tuệ, chen lấn với đời
trên bước thang danh vọng. Bởi vậy chúng ta mới thấy có những cảnh :
« Sáng trăng trải chiếu hai hàng,
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ ».
Việc học hành là bổn phận của đàn ông, thế mà người đàn bà bình
dân lại đem mọi lo lắng của mình để chia sẻ bổn phận ấy. Như vậy chúng ta tưởng
không có điều gì mà vợ chồng không đồng công cộng lực được. Đây, chúng ta thử
nhìn vào ưu tư của người vợ trong gia đình :
« Canh một dọn cửa dọn nhà,
Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.
Canh tư bước sang canh năm,
Trình anh dậy học chứ nằm làm chi ».
Hoặc : « Em là con gái Phụng-Thiên,
Bán rau mua bút mua nghiên cho chồng.
Nữa mai chồng chiếm bảng rồng,
Bỏ công em tưới nước vun trồng cho rau ! »
Cáng đáng
công việc gia đình, nuôi chồng ăn học để chen chân lấn bước với đời, nếu người
chồng có thành đạt thì công lao ấy không phải riêng của người chồng, mà một
phần lớn do người vợ góp sức.
Chúng ta thấy ý thức bình đẳng của họ phát nguồn từ chỗ đồng lao
cộng lực, không phải do một sự bắt ép nào bên ngoài.
Khác với quan niệm vợ chồng trong giai cấp quý tộc, người đàn bà
sống ỷ lại vào sự che chở của đàn ông. Họ bảo :
« Phận cát đằng nhờ lượng tòng quân ».
Đã mang ý thức sống nhờ như vậy làm thế nào đòi hỏi được tinh thần
bình đẳng ? Cho nên, nếu xét tận nguồn gốc thì quan niệm bình đẳng trong
tình vợ chồng của người bình dân mới là căn bản. Chỉ có ý thức bình đẳng trong
nghĩa vụ mới đem lại ý thức bình đẳng trong tâm hồn. Chúng ta không lấy làm lạ
khi thấy ý thức của vợ chồng bình dân bộc lộ trong tương thân, tương ứng
như :
Trong hoạn nạn :
- « Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi,
Giậm ra ván nát thuyền thì long đanh ».
- « Đôi ta lên thác xuống gành,
Em ra đứng mũi để anh chịu sào ».
Trong hạnh phúc :
« Râu tôm nấu với canh bầu,
Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon ».
Trong gian lao :
« Rủ nhau lên núi đốt than,
Anh đi Tam-Hiệp em mang nón trình.
Củi than nhem nhuốc với tình,
Ghi lời vàng đá, đôi đứa mình chớ quên ».
Hoặc : « Từng cơn trong núi mưa ra,
Mưa râm, mưa rỉ, đôi ta ướt mình.
Ướt mình thì mặc ướt mình,
Khó khăn gian khổ mà tình có nhau ».
Nói như thế không có nghĩa là người bình dân chỉ biết yêu thương
nhau trong gian khổ mà không biết yêu thương nhau trong dục tính. Sau những hồi
gian khổ, họ cũng biết thưởng thức những phút ái ân. Nhưng đây chì là những cơn
gió thoảng qua bức màn thưa, mà trăng hoa có dịp rạt rào trong cảnh sắc thiên
nhiên. Đây, chúng ta lắng nghe tiếng lòng của họ :
« Đêm đêm gối ấm không êm,
Gối lụa không mềm bằng gối tay em ! »
Hoặc : « Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng,
Cau tươi ăn với trầu vàng xứng không ? »
Tuy nhiên, không phải tình vợ chồng của giới bình dân thiết tha
như vậy mà tránh khỏi những xích mích đối với cuộc sống gia đình. Vạn hữu trong
vũ trụ đều biến động theo quy luật tất yếu của nó. Tình thương của loài người
cũng thế, không thể đứng yên. Cho nên, đối với tình vợ chồng, người xưa đã ví
như chén bát trong sóng, không thể nào tránh khỏi sự va chạm làm bật lên những
tiếng khua. Nếu mặt biển trầm lặng là để đón nhận những cơn sóng gió, thì chính
tình yêu của đôi vợ chồng cũng là để lúc chờ giận dỗi nhau. Chúng ta thử xét
qua điểm này.
2) Tình vợ chồng khi sóng gió
Nhiều người bảo : « Chính tình yêu tạo ra hờn
giận ». Nhận xét này không phải vô lý. Bởi vì tình yêu là sự hòa
hợp giữa hai người. Khi đã yêu nhau, tình cảm bắt buộc phải hòa hợp, nhưng cuộc
sống loài người chịu ảnh hưởng muôn mặt đối với xã hội bên ngoài, do đó, tình
cảm cá nhân đôi lúc chênh lệch, gây bất bình giữa tình yêu. Nếu xã hội loài
người vì sự bất công chênh lệch mà xảy ra chiến tranh, chém giết lẫn nhau, thì
gia đình vì trạng thái tâm tư chênh lệch mà vợ chồng sinh ra hờn giận nhau.
Vậy, chiến tranh và hờn giận chỉ là trạng thái mâu thuẫn để tìm đến chỗ thăng
bằng và dung hợp.
Xét về tâm tư của người bình dân, vì cấu tạo trên ý thức bình đẳng
và tương thân, nên việc giận hờn nhau ít khi đi đến chỗ khốc liệt. Nếu ý thức
yêu đương có bất hòa thì họ cũng cố nhẫn nhục để cảm thông. Tính chất nhẫn nhục
ấy cũng bắt nguồn ở những kỷ niệm thiết tha trong cuộc sống hàng ngày. Đây,
chúng ta thử nghe tiếng lòng của họ khi vướng nỗi bất bình :
- « Đốn cây ai nỡ đốn chồi,
Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương ».
- « Cục đá lăn nghiêng lăn ngửa,
Khen ai khéo sửa cục đá lăn tròn.
Giận thì nói vậy, dạ còn thương em ! »
Tình cảm của họ đã thắng mọi chênh lệch giữa tâm tư. Họ biết hàn
gắn những rạn nứt bằng nhẫn nhục. Ví dụ như :
« Đương khi chồng giận mình đi,
Hết khi nóng giận đến khi vui vầy.
Nghĩa nhân như bát nước đầy,
Bưng đi mà đổ hốt rày được đâu ».
Hoặc : « Thò tay vuốt ngực chung tình,
Nước sôi còn nguội huống chi mình giận em ! »
Trong ý thức nhẫn nhục, họ còn dí dỏm hơn nữa, như :
« Chàng ơi phụ thiếp làm chi,
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng ».
Hay : « Chồng giận thì vợ làm lành,
Miệng cười tủm tỉm rằng anh giận gì ?
Thưa anh : Anh giận em chi ?
Muốn cưới vợ bé em thì cưới cho ! »
Chẳng những hàn gắn bằng nhẫn nhục mà họ còn làm lành bằng cách
khuyên nhủ nhau trong giờ phút tâm tình để tạo hòa khí yêu đương nữa. Đây,
chúng ta hãy nghe họ gieo mầm giao cảm :
- « Đêm nằm nghe vạc kêu thanh,
Nghe chuông dộng sáng, nghe anh dỗ nàng ».
- « Đêm nằm đặt lưng xuống chiếu,
Nghe mấy lời thiết yếu em than,
Mau mau chỗi dậy ruột gan đau từng hồi ».
3) Tình vợ chồng khi xa cách
Tình vợ chồng lúc gần gũi đã vậy thì khi xa cách sao khỏi nhớ
thương ! Sự thương nhớ của họ là một cảm giác thiếu thốn chẳng những trong
sinh hoạt vật chất, mà trong sinh hoạt tinh thần nữa. Ví dụ như :
« Thiếp xa chàng hái dâu quên giỏ,
Chàng xa thiếp cắt cỏ quên liềm.
Xuống sông gánh nước hũ chìm gióng trôi !
Nhọc lòng khổ lắm ai ơi !
Hũ chìm kiếm được, gióng trôi phương nào ».
Hoặc : « Chàng về thiếp một đứng trông mây,
Con thơ bỏ đói chốn này ai nuôi ? »
Tâm trạng nhớ nhung của người bình dân cũng nồng nàn tha thiết đâu
kém gì những cô gái phòng khuê vò võ trông chồng. Nếu trong văn chương bác học
chúng ta đã từng đọc những vần thơ ly biệt đau thương, như :
« Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng, ý thiếp, ai sầu hơn ai ? »
(Chinh phụ ngâm)
Thì trong ca dao bình dân chúng ta cũng thấy những câu hát trong
ly biệt rất thấm thía, như :
« Anh đi đường ấy xa xa,
Để ai ôm bóng trăng tà năm canh.
Nước non một gánh chung tình,
Nhớ ai, ai có nhớ mình hay chăng ? »
Dù giàu nghèo, sang hèn, đã là con người thì những đau đớn trong
tình cảm vẫn là trạng thái như nhau khi cùng chung cảnh ngộ.
Trong văn chương bác học, chúng ta đã đọc những câu như :
« Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại để dành hơi ».
Thì trong văn chương bình dân chúng ta cũng thấy :
« Chàng về để áo lại đây,
Đêm khuya em đắp, gió tây lạnh lùng ».
Hoặc : « Chàng về để áo lại đây,
Áo thời thiếp mặc, gối may đợi chờ.
Trăm năm vách phấn đề thơ,
Lòng thương ai biết, dạ chờ ai hay ».
Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể tìm được những tương đồng trong bản
năng dục vọng, còn riêng về tâm tư, tức là đi sâu vào ý thức nghĩa vụ thì tình
nhớ nhung của người bình dân có chỗ khác.
Nếu trong ly biệt người đàn bà trong giai cấp thượng lưu quí phái
chỉ biết có rên than, hờn duyên tủi phận, và chỉ nghĩ đến sự đau đớn riêng
mình. Ví dụ :
« Vì chàng lệ thấm nhỏ đôi,
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề ».
(Chinh phụ ngâm)
Thì người đàn bà bình dân lúc ly biệt lại nghĩ đến nỗi khổ cực của
chồng nhiều hơn niềm đau đớn riêng tây. Ví dụ :
« Chàng đi những nhớ cùng thương,
Gánh tình thì nặng, con đường thì xa ».
Hoặc : « Chàng ơi ! trẩy sớm kẻo trưa,
Cửa nhà cậy mẹ, nắng mưa nhờ trời.
Em đi khấn Phật cầu Trời,
Biết than cùng Trời, biết thở cùng ai ? »
Hay : « Anh đi, em ở lại nhà,
Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ.
Lầm than bao quản nắng mưa,
Anh đi, anh liệu chen đua với đời ! »
Lấy khổ cực cảm thông niềm khổ cực, lấy nghĩa vụ đáp đền nghĩa vụ,
tâm tư người bình dân đã vượt lên cảm giác thường tình của những cô gái phòng
khuê yếu mềm thuở xưa. Đó chính là tính chất dị biệt mà người bình dân gọi là
đạo vợ chồng.
4) Tình chồng vợ trong mất mát
Điều bất hạnh nhất trong tình vợ chồng là sự mất mát. Xưa nay đã
biết bao nhiêu nguồn cảm giác buồn đau khi một trong đôi vợ chồng bị vắn số,
làm cho cuộc yêu đương nửa chừng gãy gánh. Trạng thái đau đớn ấy đối với người
bình dân rất nặng nề. Chúng ta nghe họ than :
- « Nhạn về biển bắc nhạn ơi !
Bao thuở nhạn hồi để én đợi trông ».
- « Lênh đênh chiếc bách giữa dòng,
Thương thân góa bụa phòng không lỡ thì ».
- « Tay cầm một nắm nhang tàn,
Liều mình nhảy xuống suối vàng tìm anh ».
- « Tay em cầm nạm hương, cây tắt cây đỏ,
Tay em nhổ nạm cỏ, cây héo cây khô.
Em khổ đau, ôm nấm khóc mồ,
Âm dương cách biệt, biết đời mô gặp chàng ! »
*
Tóm lại, đối với tình vợ chồng, người bình dân gọi là cái đạo. Cái
đạo theo quan niệm của họ là bình đẳng, tương thân và chung thủy, khác với đạo
« tam tòng » của Khổng Mạnh. Trong lúc đạo « tam tòng »
tước đoạt hết quyền của người đàn bà, bắt người đàn bà phải sống lệ thuộc vào
đàn ông, tạo trong gia đình quí tộc sự bất bình đẳng, thì đạo vợ chồng của
người bình dân ngược lại dùng ý thức sinh hoạt làm nghĩa vụ, khiến cho nền tảng
bình đẳng được bảo vệ và duy trì. Và ý thức dân chủ cũng chính là ý thức của
gia đình bình dân thuở xưa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét