Thi ca bình dân Việt Nam quyển 3
Vũ trụ quan 6
4) Sự thành công và thất bại của hai nền văn minh đạo học và khoa
học
Trước khi khảo cứu đề mục này, chúng
tôi xin trích dẫn một bài phê bình về ý thức đạo học và khoa học trong nguyệt
san Tri hành số ra ngày 1-10-1969 với đề mục: «Tuổi trẻ hôm nay nghĩ
gì về văn minh tiến bộ?»
Ở đây chúng ta có cần viện dẫn vài nhà
ngôn-ngữ-học để truy cứu nguồn gốc và xác định ý nghĩa của danh từ «văn
minh, tiến bộ» trước khi muốn đề cập vấn đề nầy không?
Chúng tôi xét thấy không cần, mà cũng
không muốn ràng buộc vào cái định lệ khô khan, cũ kỹ ấy. Tại sao chúng ta cứ
muốn vẽ ra một cái vòng để bắt mọi suy tư chúng ta phải nhốt vào trong phạm vi
quái gở ấy ?
Những cái gì của nhà ngôn-ngữ-học chưa
hẳn là khuôn thước muôn đời. Ngôn ngữ được phát sinh do tâm tư con người, thì
ngôn ngữ cũng phải thay đổi theo nhịp độ biến chuyển của tâm tư. Khi bộ óc con
người đã khôn ngoan, tâm tư con người đã mở rộng ngoài tầm ngôn ngữ, thì ngôn
ngữ trở thành «vật lệ thuộc» của tâm tư. Ngôn ngữ không thể xác
định hình bóng của suy tư, mà chính suy tư qui định tính chất của ngôn ngữ. Cho
nên, tính chất ngôn ngữ nếu trước kia thể hiện một cái gì cố định cho ý muốn
con người thì ngày nay ngôn ngữ lại trở thành trừu tượng trước mọi biến chuyển
tinh vi của khối óc.
Nói cách khác, ngôn ngữ loài người
không phát triển kịp với đà tiến triển của bộ óc con người, cho nên bộ óc con
người đã lợi dụng sự thiếu thốn ấy để bắt ép, gạt gẫm những suy tư của kẻ khác
trong phương diện truyền đạt ngôn ngữ. Kết quả, người ta dùng tính chất
trừu-tượng-hóa của ngôn ngữ hiện hữu để tranh đấu trên chính trường, trên cuộc
sống hàng ngày, mà họ cho đó là điều khôn ngoan trong lẽ sống.
Trước kia, chúng ta nói đến
«học» thì ai cũng nghĩ đó là việc cắp sách đến trường, hoặc nghiền
ngẫm trong sách vở để thu đạt những lời giáo huấn. Nhưng ngày nay, có kẻ dấn
thân vào những cuộc truy hoan, họ vẫn cho đó là một lối học, mà kẻ dấn thân là
đang thụ huấn trong trường đời. Vậy ngôn từ chỉ có giá trị chính xác qua một tiêu điểm thời
gian, khi suy tư con người chưa vượt ra ngoài sự cung ứng đầy đủ của ngôn ngữ,
và nó sẽ mất giá trị chính xác khi bộ óc con người đòi hỏi một biên giới rộng
rãi hơn của ngôn từ. Và, ngôn ngữ đi từ chính xác đến trừu tượng, mà các nhà
ngôn ngữ học cũng chỉ là những kẻ chạy theo sự đòi hỏi của bộ óc con người để
thương xác mà thôi. Nhưng, càng thương xác, ngôn ngữ càng thoát đi xa hơn, để
rồi chúng ta dần dần mất hẳn hình dáng xác thực của nó.
Vì thế, chúng tôi muốn nói với các bạn
ngôn từ « văn minh, tiến bộ » chỉ là một ngôn từ trừu tượng.
Tiếng « trừu tượng », chúng
tôi muốn nói ở đây không phải chối bỏ hoàn toàn giá trị của một ngôn từ. Giá
trị của nó không nằm trong khối óc của một cá nhân, một nhà khảo cứu, một định
nghĩa, mà nằm trong cảm giác của đa số nhân dân. Cảm giác ấy định giá trị và giới
hạn cho một ngôn từ. Nhưng khi chúng ta đã tìm hiểu giá trị một ngôn từ qua cảm
giác tất nhiên ngôn từ ấy đã trở thành trừu tượng rồi, dù trong phạm vi hạn
hẹp.
Vậy « văn minh, tiến bộ » là
gì ? Nói một cách
tóm tắt thì nó là sự đưa loài người đến chỗ có ánh sáng, giải thoát đời sống co
người trong cảnh lầm than. Chính vì vậy mà khi nói đến văn minh, tiến bộ, dân
tộc nào trên thế giới cũng có một cảm nghĩ như một con đường đưa nhân loại đến
vinh quang. Không ai có quyền cản trở bước tiến của nhân loại, không ai có
quyền bắt con người không được mơ ước một lẽ sống huy hoàng. Kẻ nào cản trở
bước tiến của nhân loại là đắc tội với nhân quần xã hội.
Chúng ta cũng là con người không vì lẽ
gì lại muốn loài người không đạt đến mục đích tốt đẹp, trong đó có chúng ta.
Nhưng, từ xưa đến nay loài người đã văn minh, tiến bộ chưa ? Và loài người
có đang đi trên con đường ấy để đạt đến vùng ánh sáng của ước mong chăng ?
Hơn nữa, cái mà chúng ta gọi là văn minh, tiến bộ có phải là cứu cánh của loài
người, hay cũng chỉ là một ngôn từ « siêu hình » mà chúng ta – loài
người – dù có văn minh, tiến bộ đến đâu cũng chẳng tìm thấy hình bóng đích thực
của nó được? Đó là những thắc mắc mà chúng tôi muốn cùng bạn bỏ một chút
ít ưu tư trong bài nầy.
Trước nhất, theo quan niệm chung,
chúng ta đều nhận rằng thế giới loài người hiện nay đã văn minh, tiến bộ đến
cực điểm. Vì, nếu không bảo là văn minh tiến bộ thì còn phải giải thích thế nào
khi xã hội loài người phát nguồn từ trạng thái ăn lông ở lỗ tiến đến xã hội
khoa học, nguyên tử, hỏa tiễn, phi thuyền và đổ bộ lên nguyệt cầu?
Hỡi các khoa-học-gia ! Sự hiện
diện của các người rất xứng đáng đối với nhân loại, và nhân loại đã vì các
người mà hãnh diện trước một vũ trụ bao la, huyền bí. Sự hãnh diện ấy chính là
niềm suy tư, ước vọng của nhân loại tự cho đó là con đường dẫn loài người vào
chân trời văn minh, tiến bộ. Như vậy, quan niệm văn minh, tiến bộ khoa học cơ
giới mà nhân loại hiện đang theo đuổi.
Nhưng, nếu chúng ta quan niệm văn
minh, tiến bộ chỉ phát hiện trên đường khoa học cơ giới thì trước kia, thời
thượng cổ, cận đại, lúc mà khoa học cơ giới chưa đi vào đời sống con người, thì
loài người chưa có văn minh, tiến bộ sao?
Không! Cái quan niệm văn minh,
tiến bộ đang diễn ra trên lịch sử xã hội loài người chỉ là một quan niệm tương
đối. Thế giới loài người bao giờ cũng hãnh diện là mình đang sống trong văn
minh, tiến bộ bất kỳ thời điểm nào. Lịch sử của văn minh, tiến bộ là lịch sử
của thời gian. Dĩ vãng của hôm nay là hiện tại của quá khứ, và tương lai của
chúng ta là hiện tại của ngày mai. Thời gian trôi qua chồng chất trong lịch sử
loài người một dung lượng mỗi lúc mỗi nhiều hơn. Dung lượng thời gian thay đổi
cuộc sống loài người, mà chính chúng ta quan niệm như là một sự văn minh tiến
bộ. Cho nên, nếu chúng ta quan niệm văn minh, tiến bộ theo dòng lịch sử thì xã
hội loài người lúc nào cũng có văn minh, tiến bộ cả. Hiện tại, chúng ta coi như
văn minh tiến bộ so với dĩ vãng, và tương lai sẽ là văn minh, tiến bộ so với
hiện tại. Quan niệm văn minh, tiến bộ như vậy tức là quan niệm một chiều, theo
lịch sử chuyển biến của thời gian, và loài người lúc nào cũng tự cho mình là
văn minh, tiến bộ cả.
Ngược dòng lịch sử, trở về tới cận
đại, lúc mà nền văn minh Trung-hoa ngự trị ở các nước Á-đông, con người vẫn tự
hào là mình đang sống trong tuyệt đỉnh văn minh, tiến bộ. Bởi vì lễ nghi trong
tập đoàn xã hội được minh định, tổ chức xã hội từ trên xuống dưới được sắp xếp
có trật tự, các học thuyết đua nhau ra đời dựa trên cơ năng vũ trụ, cố tạo cho
loài người một cuộc sống phù hợp với thiên nhiên, với nhân đạo. Yếu tố tinh
thần được vận dụng triệt để, lòng vị tha được xem như một năng lực xây đời, và
những đòi hỏi của bản năng vật chất được coi như cái gì đê tiện nhất của mọi cá
thể. Người ta ca tụng những mẫu người quân tử. Người ta ca tụng những anh hùng
Kinh-Kha, Mạnh-thường-Quân, Chuyên-Chư, Khánh-Kỵ, Yếu-Ly, Quan-Công… những kẻ
vì nghĩa quên mình. Người ta nói đến Tống Tương-công đi đánh giặc dựng cờ
« nhân nghĩa » và đem những tấm gương trung, hiếu, tiết, liệt làm
khuôn vàng thước ngọc cho cuộc sống loài người. Vào thời đó không ai phủ nhận
ánh sáng văn minh, con đường đạo học, đến nỗi mọi sinh hoạt của con người, mọi
suy tư của cuộc sống đều dồn vào lý tính, tỏa chiết bản năng, xem bản năng vật
chất như kẻ thù của đạo nghĩa – của văn minh tiến bộ.
Với niềm hãnh diện ấy, chính người
Trung-hoa lúc bấy giờ cho những dân tộc khác là lạc hậu, man di, bởi vì những
dân tộc ấy không có một Kinh-Kha, một Quan-Công, một Mạnh-thường-Quân… như dân
tộc Trung-hoa.
Nhưng nếu đó là ánh sáng văn minh,
đáng cho loài người hãnh diện với cuộc sống thì tại sao dân tộc Trung-hoa, nơi
phát sinh ánh sáng lại mang một lịch sử chém giết triền miên, vua tôi ám hại
lẫn nhau, giặc giã không bao giờ ngớt, những cuộc phế hưng giành địa vị cai trị
tạo thành những trang chiến sử đầy máu lệ mà đến ngày nay chúng ta xem lại còn
thấy hãi hùng? Như vậy, cái gì là văn minh, tiến bộ? hay ý nghĩa
văn minh tiến bộ chỉ có trong tư-tưởng-giới mà không thể có trong thực tế của
cuộc sống con người?
Trong lúc đạo học được tôn thờ, xem
như vùng ánh sáng của loài người thì đùng một cái, khoa học cơ giới phát minh,
súng đồng, tàu trận xuất hiện. Vùng ánh sáng này không giải thích bằng nghĩa
lý, mà bằng sức mạnh của chiến trường.
Ánh sáng khoa học đã làm đảo lộn nền
văn minh, tiến bộ của đạo học. Loài người bắt đầu nghi ngờ những gì cao quí
trong lý tưởng mà từ trước đến nay họ đã tôn thờ. Những cuộc cách mạng manh nha
quấy động báo hiệu sự sụp đổ của nền đạo học, và không còn chấp nhận nền văn
minh của đạo học nữa.
Ngay ở Trung-hoa, cuộc vận động cách
mạng của Tôn-Văn chủ trương thuyết « Tam dân chủ nghĩa » chính là
nhát búa đầu tiên đánh vào nền văn minh đạo học của Trung-quốc, mở đầu một
chuyển hướng lớn lao từ nền văn minh đạo học sang nền văn minh khoa học.
Ở Việt-nam chúng ta, nền đạo học chịu
ảnh hưởng Trung-quốc, nhưng khi thấy các nhà thức giả đương thời của Trung-hoa
vùng lên, đả phá nền văn minh đạo học, các cụ như Phan-sào-Nam,
Nguyễn-thượng-Hiền, Nguyễn-hải-Thần, Cử Khê-Nhị… cũng dấn thân vào đường cách
mạng, khởi xướng phong trào Đông-du, hô hào lớp người trẻ xuất dương thu thập
ánh sáng văn minh cơ giới nước ngoài. Bầu nhiệt huyết của các cụ lúc bấy giờ
như một kẻ vừa nhìn thấy một chân trời lạ mà ở đấy là thiên đàng của lẽ sống.
Một nhà cách mạng thời ấy đã thuật lại
rằng sau trận Nga-Nhật chiến tranh, Nga thất bại ở Đối-mã, những tàu chiến của
Nga chạy lạc vào cửa Đà-nẵng. Cứ nhìn vào công trình sáng chế những chiến hạm
ấy, các cụ đã khiếp đi rồi. Chiến hạm nào cũng to lớn, vỏ sắt dày, trang bị máy
móc như rừng, thế mà bị súng thần công của Nhật bắn lủng từng lỗ to như những
cửa hang, bảo sao các cụ không kinh hồn, ngơ ngác trước nền văn minh tiến bộ
của cơ giới ?
Trước đây, người Nhật cũng chỉ là một
nước nhỏ trong hệ thống văn minh Á-đông, thế mà người Nhật nhờ vua Minh-Trị Thiên-hoàng
nhận rõ được ánh sáng của nền văn minh cơ giới Tây-phương, nên chẳng những đã
thoát ra ngoài quan niệm của văn minh đạo học mà còn có thể đương đầu giữa
luồng ánh sáng lạ, mà loài người cho là tân tiến nữa.
Kết quả, quan niệm văn minh đạo học
của Đông-phương không còn tìm thấy một niềm hãnh diện nào, mà còn bị ánh sáng
khoa học cho là lạc hậu, thoái hóa. Ý thức văn minh tiến bộ của loài người từ
đấy dồn vào ý thức tiến bộ của văn minh cơ giới. Nói như thế cũng có nghĩa quan
niệm văn minh tiến bộ của loài người chuyển hướng từ nền văn minh đạo học sang
văn minh khoa học. Trong thời gian đó, mọi phong trào vận động, mọi chống đối
về ý thức hệ… không ngoài mục đích đả phá nền móng đạo học, từ bỏ đạo học để
tiến sang địa hạt khoa học. Phạm-Quỳnh chủ trương điều hòa Âu-Á trên tạp chí
Nam-phong ; Phan-Khôi chủ trương hô hào giải phóng phụ nữ trên báo Phụ-nữ
Tân-văn ; nhóm Tự-lực Văn-đoàn dùng báo Phong-hóa đả phá những tập tục nho
phong… tất cả đều là những phong trào trong thời gian chuyển mình từ lãnh vực
văn minh đạo học bước sang lãnh vực văn minh khoa học, và cũng từ đấy, ý thức
văn minh khoa học ngự trị trong tư tưởng giới con người.
Nhưng, nền văn minh khoa học có phải
là nguồn văn minh lý tưởng của loài người chăng? Chúng tôi, cũng như
các bạn, không thể không hoài nghi. Nếu chúng ta quan niệm sự văn minh tiến bộ
của loài người chỉ là yếu tố chuyển biến tất yếu của thời gian, hay nói cách
khác, nó là sự đổi thay của thời đại thì chúng ta không cần thắc mắc. Nhưng nếu
chúng ta quan niệm văn minh tiến bộ bằng ý thức của cảm giác, nghĩa là trong đó
phải hàm chứa một sắc thái chân, thiện, mỹ đưa con người đến một cuộc sống lý
tưởng, huy hoàng, thỏa mãn nguyện vọng chung của nhân loại thì chúng ta lại
thấy thất vọng.
Vì sao? Từ khi ánh sáng khoa
học cơ giới xuất hiện, thế giới loài người phải trải qua hai cuộc đại chiến
kinh hồn, mà tự ngàn xưa chưa từng có. Ngày xưa, nếu có chiến tranh giữa con
người thì cũng chỉ là những cuộc chiến tranh nhỏ bé, phát xuất từng địa phương
với những vũ khí thô sơ giết người không mấy nguy hại. Điều này chắc người Nhật
không thể quên được thứ vũ khí khoa học ghê gớm ở Trường-kỳ, Quảng-đảo. Đó là
vũ khí nguyên tử.
Vậy, văn minh cơ giới đã đe dọa sự
sống loài người, bắt loài người phải nơm nớm lo âu trước nền văn minh tiến bộ
đó.
Mặt khác, nền văn minh cơ giới đem đến
cho loài người những tiện nghi vật chất, giúp cho loài người mỗi lúc thêm đầy
đủ phương tiện đối với cuộc
sống. Điều này chúng ta không thể không hãnh diện khi nhìn thấy kỹ nghệ khoa
học chu cấp cho chúng ta những vật dụng mỗi lúc mỗi thêm tinh vi hơn. Tuy
nhiên, niềm hãnh diện ấy lại không cho phép chúng ta – nhân loại – tự hào là
chúng ta đang sống trong lý tưởng, hạnh phúc.
Nếu bảo tiện nghi vật chất là thiên
đàng của lý tưởng thì nền văn minh khoa học ngày nay đã cung cấp cho loài người
quá đầy đủ, người ta có thể dùng phi thuyền đổ bộ mặt trăng, có thể thực hiện
bất cứ điều gì mà loài người còn thiếu thốn trong đời sống, tại sao nhân loại
vẫn còn nghèo đói, vẫn còn chém giết, cướp giật lẫn nhau, vẫn còn tạo nên những
phong trào chống đối, bất mãn… Bảo rằng vì cuộc sống loài người quá đầy đủ
khiến con người đòi hỏi những chuyện vô lý ư ? Nếu vậy thì mọi cung ứng
vật chất trở thành vô nghĩa rồi.
Nhưng không, con người không thể vì
quá đầy đủ mà đòi hỏi vô lý. Chắc các bạn cũng nghĩ như chúng tôi, mọi phản ứng
con người bao giờ cũng bắt nguồn từ lương tri chống lại ảnh hưởng của cuộc
sống. Hình bóng tuổi trẻ ngày nay chìm dần trong lạc lõng. Họ nhìn thế giới
loài người trước mắt họ như một thế giới ma quái, và họ xem thân phận con người
như một cái gì bi đát. Họ lao mình vào chủ nghĩa hiện sinh, phá phách thân xác
của họ, những tài nguyên vô cùng quí báu của loài người. Và… họ nổi loạn.
Nhưng chúng ta không thể trách họ. Vì
đó chỉ là những ý thức bất mãn, không chấp nhận nền văn minh tiến bộ hiện tại.
Cũng như lớp người trước kia đã gây nên những phong trào chống đối nền văn minh
đạo học đã không đem lại cho loài người một nguồn sống hạnh phúc và lý tưởng mà
nhân loại đang mong muốn.
Vậy, thế nào là văn minh, tiến bộ?
Con đường văn minh, tiến bộ phải đi tìm ở đâu? Hay danh từ văn minh tiến
bộ theo ước mong của loài người chỉ là danh từ «siêu hình» không
thể đạt được trong đời sống thực tại, nghĩa là chúng ta chẳng bao giờ tìm thấy
nó, mặc dù lúc nào, thời nào xã hội loài người vẫn tự hào và hãnh diện là đang
sống trong ánh sáng văn minh tiến bộ ?
Tóm lại, từ trước đến nay chúng ta đã
trải qua hai nền văn minh : nền văn minh đạo học và nền văn minh khoa học.
Cả hai đều không đáp ứng được ý nghĩa của danh từ văn minh tiến bộ trong thực
tại đời sống con người. Phải chăng đó là thắc mắc bâng khuâng đối với chúng ta
ngày nay.
Nhưng, dù thắc mắc, chúng ta cũng
không thể phủ nhận khả năng của khối óc con người trong lãnh vực khoa học, và
công trình suy tư, đúc kết của con người trong lãnh vực đạo học. Cả hai đều
nhằm mục đích giải phóng xã hội loài người, mà hiện nay chúng ta – nhân loại – vẫn còn
đang có trách nhiệm phải làm sao cho các công trình ấy không trở thành vô ích.
Trích dẫn bài tham khảo trên đây,
chúng tôi muốn cùng các bạn ý thức một lịch sử diễn biến qua từng thời đại giữa
hai nền văn minh đạo học và khoa học.
Gọi là biến cố không phải quá đáng,
bởi vì chính sự thành công và thất bại của hai nền văn minh đã làm xáo trộn
lịch sử xã hội loài người từ sinh hoạt tinh thần đến vật chất.
Nhưng tại sao lại xảy những biến
cố? Nguyên nhân của biến cố là gì?
Trở về với căn bản suy tư, chúng ta
phải thừa nhận rằng trong con người tự nó hàm chứa những mâu thuẫn tất yếu giữa
bản năng vật chất và tinh thần. Vật chất vì nhu cầu dục vọng bao giờ cũng đòi
hỏi hưởng thụ, ngược lại, tinh thần vì nhân đạo, bao giờ cũng tiết chế. Sự đòi
hỏi và tiết chế đương nhiên trở thành hai năng lực đối lập, lúc nào cũng tìm
cách tiêu diệt đối phương. Cho nên, khi nói đến biến cố trong lịch sử loài
người giữa hai nền văn minh đạo học và khoa học, cũng có nghĩa là chúng ta nói
đến khả năng bành trướng và đối chọi giữa hai trạng thái vật chất và tinh thần
trong lẽ sống. Căn bản của biến cố do đó phát sinh, và cũng là nguyên nhân
chính yếu tạo thành dòng lịch sử giữa hai nền văn minh đạo học và khoa học.
Đã ý thức được nguyên nhân của những
biến cố ấy, bây giờ chúng ta thử tìm hiểu nguyên nhân thành công và thất bại.
Nền văn minh đạo học và khoa học mỗi bên đều có cái hay, cái dở của nó. Cho
nên, đến ngày nay chúng ta không lấy làm lạ khi thấy mỗi nền văn minh đều biểu
lộ một khả năng phát triển tột độ, để rồi mang những chứng tích không kém quan
trọng đối với cuộc sống loài người.
Nếu nền văn minh đạo học nhờ ở những
xáo trộn trong cuộc sống, tạo cho tinh thần con gười trở thành sức mạnh, con
người muốn đem lý trí làm chủ cuộc sống của mình, khống chế mọi nhu cầu vật
chất, đạt được một thành công đáng kể trong sinh hoạt xã hội, thì nền văn minh
khoa học lại nhờ ở sự thiếu thốn trong bản năng nhu cầu sinh hoạt, tạo cho con
người một ý thức vươn lên, cố đem lý trí giải quyết những đòi hỏi của dục vọng,
và tạo cho mình một thành công trong ý sống của loài người.
Một đứa trẻ ra đời, mọi đòi hỏi dục
vọng của đứa bé mỗi ngày một dồn dập. Từ lúc nhỏ không thể thiếu một bầu sữa,
một tiếng ru, đến lúc lớn lên, ngoài phạm vi cơm áo, đứa bé còn đòi hỏi hưởng
thụ những nhu cầu
phát triển theo cơ thể của nó. Có những cha mẹ đã đem ý thức giáo dục khuyên
răn, tức là tạo cho con mình một khả năng lý trí để nó tự kềm hãm dục vọng, làm
chủ bản năng. Có những cha mẹ đã nuông chiều đứa con bằng cách rán sức làm việc
để cung ứng cho nhu cầu của nó khỏi bị thiếu thốn. Dù nuôi con bằng cách nào,
cha mẹ nào cũng vẫn với ý thức thương con, muốn cho con khỏi khổ cực. Tuy nhiên,
mỗi cha mẹ lại chủ trương một đường lối khác nhau.
«Thương con cho roi cho
vọt». Bậc cha mẹ ấy đã làm cho đứa con họ biết lễ nghi, hiếu đạo, chất
chứa tình cảm nhân quần xã hội, song đứa con ốm yếu, khiếp nhược trước những uy
quyền của vũ lực, không đủ sức đương đầu với khổ cực, gian nguy, và một ngày
nào đó, tinh thần cũng không còn đủ khả năng trấn áp những thèm muốn trong cơ
thể của nó nữa, vì bị thiếu thốn, nhịn nhục lâu ngày.
«Thương con bằng nuông
chìu». Bậc cha mẹ ấy đã làm cho đứa con phát triển dục vọng mỗi ngày một
tăng thêm, và sự đòi hỏi của dục vọng không bao giờ ngừng lại. Tuy đã tận
hưởng, đứa con vẫn cảm thấy mình bao giờ cũng như bị thiếu thốn. Để đi tìm
những cảm giác mới lạ, đứa con lúc nào cũng vòi vĩnh, và hành động như điên cuồng,
chẳng còn biết mình là ai? sống để làm gì? hưởng thụ để làm gì
nữa?
Sự thành công và thất bại của hai nền
văn minh đạo học và khoa học có thể căn cứ vào ví dụ trên, xem nó như tiêu biểu
cho hai chiều hướng phát triển ấy.
Bây giờ chúng ta thử đi sâu vào những
nét thành công điển hình của hai nền văn minh đạo học và khoa học đã phát hiện
trên dòng lịch sử của hai thế giới Đông Tây.
- Sự thành công của đạo học -
Chúng ta hãy thử đọc một đoạn thư của
hai cô gái thành thị và thôn quê : « Mình sống ở nhà quê quen với phong tục, tập
quán, nên lúc mới đến ở thành phố có nhiều chuyện buồn cười. Ở nhà quê tuy
nghèo nhưng chứa đủ thứ tình : tình gia đình, tình quen thuộc, tình hàng
xóm, tình… quê hương. Còn ở đây, con người tuy sang trọng bề ngoài, song tìm
cảm rất thiếu thốn. Nhà liền vách, sống chen chúc nhau, nhưng là để tranh nhau
từng tấc đất, chửi rủa nhau vì một con chó, cãi lộn nhau vì một vài cọng rác xả
trước nhà. Tuy nhiên, nếu nhà bên cạnh có người đau đến chết, xung quanh cũng
chẳng ai biết đến. Đợi đến lúc họ mua hòm về, sắp đi chôn, những nhà hàng xóm
mới ghé mắt nhìn sang, rồi đóng sầm cửa lại, coi như chẳng có việc gì xảy
ra ! Ở nhà quê chúng mình làm sao có những cảnh sống như thế ? Dù ông
hàng xóm là kẻ bất lương, khi tang quyến lâm nạn, tình cảm cũng chan hòa nhau trong
tình tương thân tương ái… » (Đông Tây tạp
chí số ra ngày 31-5-1934)
Bức thư trên đây nói lên sự bỡ ngỡ của
người dân quê Việt-nam khi hai nền văn minh Đông Tây vừa va chạm. Vào thời đó,
trừ những thức giả lỗi lạc, phần đông ít ai tìm hiểu nguyên nhân nào đã chia rẽ
tình cảm con người thành thị với thôn quê.
Sự chia rẽ ấy phát sinh bởi ý thức văn
minh đạo học và khoa học. Người thành thị sớm nhiễm cảnh sống vật chất
Tây-phương truyền sang, cảm giác của họ không còn nguyên vẹn trong tập tục của
dân quê nữa.
Tập tục của dân quê! Nó là nền
tảng của tinh thần đạo lý Đông-phương, ăn sâu vào đời sống.
Hỡi những người cầm bút! Hỡi các
văn nhân! Từ xưa đến nay các người đã ca tụng tình thương, ca tụng nụ
cười thầm kín của cô thôn nữ, ca tụng tâm hồn mộc mạc, chất phác của bác nông
phu… và tất cả những gì mà các người lưu tâm đều nằm trong tính chất đạo học.
Đặt tình thương ra ngoài, bỏ cuộc sống
tình cảm, có lẽ các người phải ném bút, không còn gì để viết nữa. Các người bóc
trần xã hội, tố cáo cảnh đồi trụy, nêu lên những hành vi tội ác của con người,
phải chăng các người đã củng cố tinh thần đạo học? Cái gì đã thúc đẩy con
người cầm bút phải thi hành sứ mạng thiêng liêng ấy? Đạo lý! Sức
mạnh tinh thần! Sức mạnh ấy vẫn di lưu trong huyết quản của loài người,
dù con người mỗi ngày chạy theo cuộc sống văn minh vật chất. Đó là một thành
công lớn lao của đạo học.
Sự thành công của đạo học không thể kể
trong một đoạn sách, cũng không sao nêu lên hết những khía cạnh của nó trong
lịch sử xã hội loài người. Tuy nhiên, chúng ta lại có thể hiểu nó trong cảm
tính. Bởi vì, dù thời đại nào, cuộc sống tân tiến đến đâu, tinh thần đạo học
vẫn còn di lưu trong huyết quản của con người Đông-phương như một truyền thống
của chủng tộc.
Tuy nhiên, trước sự thành công vĩ đại
của nền văn minh đạo học đã chi phối cuộc sống loài người, chúng ta lại không
khỏi đau lòng khi nhìn thấy những thất bại trầm trọng, tiếp diễn mãi trong thế
giới đạo học Đông-phương.
«Can vua bỏ rượu»
Vua Cảnh-công nước Tề hay uống rượu, có
bận say luôn mấy đêm ngày, xao lảng cả việc nước. Huyền-Chương can,
nói: «Nhà vua uống
rượu say sưa như thế, hạ thần xin can, nhà vua không nghe, hạ thần xin tự vận».
Ngay lúc ấy, Án-tử vào yết kiến vua.
Vua bảo: «Huyền-Chương
can ta bỏ rượu, không thì y tự vận. Nếu ta nghe, thì ta hóa ra non, nếu ta
không nghe, nhỡ Huyền-Chương chết thì cũng đáng tiếc».
Án-tử nói: «May lắm! May
Huyền-Chương gặp được nhà vua, chớ như vua Kiệt, vua Trụ, thì chết mất rồi, còn
đâu sống được đến bây giờ nữa!»
Cảnh-công nghe nói, tỉnh ngộ, tự hôm
đó chừa rượu. (Án-tử Xuân Thu – trích Cổ học
tinh hoa)
«Khéo can được vua»
Vua Cảnh-công nước Tề có con ngựa quý,
giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa một hôm tự nhiên lăn ra chết. Vua giận
lắm, cho là giết ngựa, sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án-tử
đang ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi vua rằng: «Vua Nghiêu, vua Thuấn
xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước?»
Cảnh-công ngơ ngác nhìn
nói: «Thôi hãy
buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội».
Án-tử nói rằng: «Tên phạm nầy chưa
biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội
của nó, rồi hãy hạ ngục».
Vua nói: «Phải».
Án-tử bèn kể tội rằng:
«Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Ai sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là một
tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất quý của vua, là hai tội đáng chết. Để
vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ
nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết
một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán hận, nước ngoài có bụng dòm
dỏ, là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa ? Bây giờ hãy tạm giam ngươi
vào ngục…
Cảnh-công nghe nói ngậm ngùi than
rằng : « Thôi, tha cho
nó ! Thôi, tha cho nó ! kẻo để ta mang tiếng bất nhân ». (Án-tử Xuân Thu – trích Cổ học tinh hoa)
« Ông quan thanh bạch »
Dương-Chấn được bổ đi làm thái thú
quận Đông-lai. Lúc đi phó nhậm, qua đất Xương-ấp, quan huyện ở đấy là
Vương-Mật, trước được nhờ ông đề bạt cho, vào yết kiến. Rồi đợi đêm khuya liền
đem vàng đến lễ.
Dương-Chấn bảo : « Trước tôi biết ông là
người khá, mới cử ông lên, thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, còn đem vàng đến
cho tôi ư ? »
Vương-Mật cố nài, thưa
rằng : « Xin ngài cứ
nhận cho. Bây giờ đêm khuya không ai biết ».
Dương-Chấn nói : « Trời biết, đất biết,
ông biết, tôi biết, sao lại bảo là không ai biết ? » Vương-Mật nghe nói,
xấu hổ lùi ra.
Dương-Chấn thật là một ông quan thanh
liêm, chỉ chăm việc dân việc nước, không tham nhũng, không làm giàu cho mình.
Ông thường nói : « Làm quan mà để được cái tiếng thanh bạch cho con
cháu, chẳng quí hơn là tiền của, ruộng nương lại cho chúng ư ? » (Hậu Hán thư –Trích Cổ học
tinh hoa)
« Trung, Hiếu lưỡng toàn »
Đời vua Chiêu-vương nước Kinh, có
người Thạch-Chử làm quan rất công bình chính trực.
Một hôm đang đi tuần trong hạt, thấy ở
ngoài đường có kẻ giết người. Thạch-Chử đuổi bắt, thì ra chính cha mình, bèn
quay xe trở lại. Rồi chạy đến trước sân rồng nói rằng : « Kẻ giết người là cha
tôi. Bắt cha làm tội thì tình không nỡ ; vì cha mà bỏ phép thì lý không
xuôi. Làm quan đã không giữ phép, thì phải chịu tội ». Vừa nói, vừa kề gươm
vào cổ, xin vua cho hành hình.
Vua nói : « Nhà ngươi đuổi theo
mà không bắt được đã là biết giữ phép, còn tội gì. Cứ an tâm làm chức vụ ».
Thạch-Chử thưa : « Làm con không biết ủy
khúc thờ cha, không gọi là người con hiếu, làm tôi không công bằng giữ phép
nước, không gọi là bầy tôi trung. Bao dong mà xá tội là ơn của quân
thượng ; trái phép mà chịu tội là phận của tôi con ». Nói đoạn cầm gươm
tự sát.
Không giữ phép nước thì chết ;
cha phạm tội không nỡ bắt, vua tha tội không chịu nhận ; người Thạch-Chử
làm quan như thế, thật là người Trung, Hiếu lưỡng toàn vậy. (Lã thị Xuân Thu – trích Cổ học tinh hoa)
« Mua nghĩa »
Mạnh-thường-Quân nhà giàu cho vay mượn
nhiều. Một hôm sai Phùng-Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng-Huyên
hỏi : « Tiền nợ thu
được có định mua về gì không ? »
Mạnh-thường-Quân nói : « Ngươi xem trong nhà
ta còn thiếu thứ gì, thì mua ».
Khi đến đất Tiết, Phùng-Huyên cho gọi
dân lại, bảo rằng : « Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường-Quân đều
cho cả ». Rồi đem văn
tự ra đốt sạch.
Lúc về, Phùng-Huyên thưa với
Mạnh-thường-Quân rằng : « Nhà tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa
đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái
« nghĩa », tôi trộm phép vì tướng công đã mua về ».
Mạnh-thường-Quân nghe thấy nói thế,
cũng không hỏi gì đến tiền nữa. Sau Mạnh-thường-Quân phải bãi quan về ở đất
Tiết, dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh-thường-Quân bấy
giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng-Huyên rằng : « Trước tiên sinh vì
tôi mua « nghĩa », nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy ». (Quốc sách – trích Cổ
học tinh hoa)
- Những thất bại của đạo học -
Nếu chúng ta đã tìm thấy nguyên nhân
thành công của đạo học là do dục vọng bản năng con người đòi hỏi hưởng thụ, tạo
cho cuộc sống loài người trở thành mục tiêu tranh đoạt, gây thảm trạng cho xã
hội, nên đạo học đem lý trí khắc phục bản năng, đưa con người trở về nhân đạo,
thì nguyên nhân thất bại của đạo học cũng lại do dục vọng bản năng con người phát
triển quá mạnh, đến mức lý trí không còn đủ khả năng kềm hãm nữa, và biến đạo
học trở thành tấm bình phong nứt rạn, mà bên trong chứa đầy những tội lỗi xấu
xa. Trước nhất
chúng ta có thể lấy một vài mẫu chuyện điển hình cho trạng thái rạn nứt của nền
đạo học Đông-phương :
« Chuyện vợ Võ Đại-lang và
cường hào Tây-môn-Khánh »
Võ Đại-lang là anh Võ-Tòng, sống về
nghề bán bánh hấp. Cứ mỗi sáng, Võ Đại-lang quảy gánh đi bán, đến chiều tối mới
về.
Vợ Võ Đại-lang là nàng Kim-Liên, vốn
là người đàn bà đa tình, nên cứ sau khi người chồng quảy gánh ra đi, nàng buông
rèm mở cửa chờ khách, và đến khi người chồng về, dẫu còn sớm, nàng cũng kéo rèm
lên, đóng cửa lại, ra tuồng chính chuyên.
Một sáng, người chồng vừa ra đi, người
vợ lại buông rèm, mở cửa ; bất ngờ sợi dây bị đứt, tấm rèm rơi xuống trúng
phải người khách qua đường.
Khách dừng chân, trợn tròn xoe đôi
mắt, toan quát lên, nhưng miệng bỗng cứng lại, đôi mắt không còn hung hãn, toàn
thân như mềm nhũn.
Khách gặp phải ác phong chăng ?
Thưa không ! Khách đang bị một sắc đẹp khuynh đảo tâm hồn khi ngước nhìn
thấy người đàn bà da phấn môi son, mày cong lá liễu, răng trắng như ngà, thân
hình nở nang với chiếc ngực phập phồng trong làn áo ngủ bằng lụa màu hồng.
Qua một phút định thần, nhìn người đàn
bà quyến rủ, khách tủm tỉm cười khuây khỏa ; nhất là sau khi được nghe
giọng oanh vàng thỏ thẻ thốt ra từ làn môi ngọc : « Ôi chao !
Tôi tay yếu làm rơi bức rèm tổn thương đến tôn ông ! »
Khách vội chỉnh lại vành khăn, nghiêng
mình chào ra lối hào hoa phong nhã, đáp : « Có hề chi ! Xin
nương nương chớ e ngại ! »
Mụ Vương bà mở trà điếm giáp bên
tường, trông thấy, thò đầu ra cười hí hửng, nói : « Ấy là cái số trời
định vậy ! Đúng lúc người ta tháo rèm thì tôn ông đưa đầu ra đỡ, còn than
van nỗi gì ? »
Khách cười đưa duyên, nói :
« Vương bà nói chí lý ! Thật là cái số trời định từ kiếp trước, nên
mới chọn đúng lúc cánh tay ngà ngọc đang bỏ rèm thì tôi đi qua đây ».
Người đàn bà thấy kẻ kia ăn nói hay,
mỉm cười đáp : « Tôn ông rộng lượng thứ cho ! Tôi thực vô ý ».
Khách lấy tay vuốt ngực, cúi đầu khiêm
nhượng, rồi giã biệt ; đi một quãng mà còn ngoảnh lại như tiếc cái gì quý
báu đã mất.
Kẻ ấy là ai ? Hắn là tay đại bợm
giàu có trong vùng. Đã bao năm hắn ở trong nghề buôn gian, bán lận, cho vay
nặng lãi. Hắn thường mua chuộc quan lại để gây thế lực. Gần đây, hắn rước thầy
về học võ để doạ nạt mọi người. Hắn tên là Tây-môn-Khánh mà bọn đầu trộm đuôi
cướp gọi tâng bốc là Tây-Môn đại nhân.
Từ lúc trông thấy mỹ nhân,
Tây-môn-Khánh đâm ra ngẩn ngơ. Anh chàng lân la trà điếm của Vương bà để thăm
dò lai lịch. Vương bà là tay từng trải, hiểu ngay tình ý, nghĩ thầm :
« Hai bên đều đa tình, đắm sắc, dại gì không nhân cơ hội xoay tiền ». Liền đon đả mời
Tây-môn-Khánh vào nhà, và hỏi : « Khi mai đại nhân nói chuyện với ai
mà trông trịnh trọng thế ? »
Tây-môn-Khánh hỏi lại :
« Người đẹp bên nhà bà là ai thế ? Đã có chồng con chưa ? »
Vương bà cười hóm hỉnh, nói :
« Đó là em bà Lê-Sơn Thánh-mẫu vì rơi chân ngọc nên bị đọa xuống huyện
Dương-cốc này. Đại nhân muốn rõ nguồn gốc xin cứ lên Nam-Tào tra sổ bộ thì rõ ».
Tây-môn-Khánh cười xoà, nói :
« Vương bà nói chuyện nghe hay quá nhỉ ? Tôi muốn hỏi thật xin bà
đừng trêu tội nghiệp ».
Vương bà nheo mắt nói :
« Đại nhân làm gì mà chẳng biết chồng mỹ nhân, cái anh chàng ngày nào cũng
gánh bánh hấp đi suốt từ đầu phố đến cuối phố đó ».
Tây-môn-Khánh lim dim đôi mắt ra vẻ
suy nghĩ, rồi hỏi : « Có phải anh chàng Từ-Tam bán bánh ngọt nhân
trứng đó chăng ».
Vương bà xua tay :
« Không ! Không phải ! Nếu được như người ấy đã không đến nỗi
cành mai cúc rũ ! »
Tây-môn-Khánh im lặng một lúc rồi búng
tay nói : « À ! Có lẽ gã Lý-Nhi ! »
Vương bà cười sằng sặc, nói :
« Được như gã ấy đã không đến nỗi đỉa đeo chân hạc ».
Tây-môn-Khánh lắc đầu, nói :
« Thế thì tôi xin chịu, không đoán nổi ».
Mụ Vương cười mỉa mai, nói :
« Tôi nói, ông phải vịn tay vào bàn kẻo nghe đến đại danh ấy ông lại hoảng
sợ còn hơn là bị cánh rèm rơi trúng sọ ».
Tây-môn-Khánh nóng lòng hỏi :
« Xin Vương bà cho biết tên kẻ diễm phúc ấy ».
Vương bà nói : « Con người
diễm phúc đó tên là Võ-đại-Lang ».
Tây-môn-Khánh đập tay xuống bàn, đánh
chát một cái, làm chén nước rơi xuống đất bể hai.
Vương bà bước đến, lượm chén bể lên,
vừa tiếc vừa nói : « Đó, tôi bảo ông bình tĩnh trước khi nghe cái đại
danh ấy kia mà ».
Tây-môn-Khánh nói : « Không
sao ! Tôi sẽ đền chén cho bà. Câu chuyện hay ho thế này dẫu tốn kém bao
nhiêu cũng không tiếc ».
Vương bà ranh mãnh, nhìn Tây-môn-Khánh
tiếp : « Trời già hay trớ trêu thế đấy. Tiếc thay cây quế giữa rừng,
để cho thằng Mán thằng Mường nó leo ».
Tiếp đấy là vài câu chuyện thù tạc
giữa hai người. Tây-môn-Khánh bỗng nói giọng ỡm ờ : « Tôi nhờ bà làm
mối cho tôi một người chăn gối ».
Vương bà làm bộ giật nẩy người, le
lưỡi nói : « Ấy chết ! Đệ nhất « phu nhân » mà biết được
việc nầy thì cả cái huyện Dương-cốc đây cũng phải tan vỡ đừng nói chi cái mặt
mụ Vương tôi ».
Tây-môn-Khánh vội xua tay nói :
« Xin chớ ngại ! Phu nhân nhà tôi nết hiền như Thích-Ca, lượng lớn
như Nam-hải, hẹp gì mà chẳng chứa thêm một người nữa. Trong nhà đã có ngót chục
nàng, nhưng ngao ngán lắm bà ôi ! Chỉ thời gian đầu rồi đứa nào xem cũng
như đồ ma đói, không ra tuồng gì cả ! Chẳng có cơn gió dông nào cuốn chúng
nó ra nghĩa địa cho tôi được nhờ. Bà tìm giúp tôi một chỗ, quanh quẩn gần đây
càng tốt ».
Vương bà ra dáng ngẫm nghĩ, rồi
nói : « Có một chỗ ngọc diệp kim chi, chỉ sợ tôn ông khó tính đấy
thôi ».
Vớ được cơ hội, Tây-môn-Khánh
tiếp : « Đã là kim chi ngọc diệp, tôi đâu dám khó tánh, xin bà làm
phúc cho ».
Vương bà nói : « Mười phần
xinh đẹp cả mười, chỉ hiềm một nỗi tuổi hơi cao ! »
Tây-môn-Khánh trố mắt nhìn Vương bà tỏ
vẻ không hiểu, nói : « Tuổi tác có cần chi. Dẫu xê xích nhau năm ba
tuổi đã có sao ».
Mụ Vương che miệng nói tiếp :
« Mỹ nhân tuổi mậu dần, tướng tinh con cọp, tháng sáu sang năm xuân xanh
mới có chín mươi ba ! »
Tây-môn-Khánh vỗ vai mụ rồi cười ha
hả : « Bà lão này người già mà tánh nết hãy còn xuân. Cứ trêu tôi mãi ». Dứt lời đứng dậy bước
ra cửa.
Chưa bao lâu, trời đã tối, mụ Vương
đóng cửa thắp đèn, bỗng bên ngoài có tiếng gõ cửa, mụ Vương bước ra mở cửa thì
ra Tây-môn-Khánh. Nhưng lần này chàng ăn mặc thật đẹp, mái tóc lại có rảy chút
ít hương thơm. Vương bà mỉm cười, biết rõ Tây-môn-Khánh đến đây là vì lòng rạo
rực, không sao nằm ở nhà được.
Không muốn anh chàng si tình kia bỡ
ngỡ, mụ Vương hỏi : « Xơi trà nhé ! »
Tây-môn-Khánh bước vào ngồi trên ghế,
miệng nói mà đôi mắt dính liền với vách tường cạnh nhà mỹ nhân :
« Được, xin bà cho chút trà ấm bụng ».
Mụ Vương đặt chén trà lên bàn, khói
thơm lên nghi ngút, Tây-môn-Khánh uống ba hớp, rồi hình như không thể ngồi yên
một chỗ, rũ tay áo đứng dậy, nói : « Xin ghi sổ, mai sẽ thanh toán ».
Mụ Vương mỉm cười đáp :
« Chắc giờ nầy đại nhân đang bận rộn việc gì ! Sáng mai xin mời đại
nhân dời gót ngọc đến chơi ! »
Tây-môn-Khánh gật đầu ba cái bước ra
khỏi cửa. Mụ Vương để ý nom theo. Đêm ấy trời đã khuya mà chàng si tình còn
thẩn thơ qua lại mãi, mắt không rời bức rèm trên gác nhà bên cạnh. Hôm sau trời
vừa rựng sáng, tuyết trên đường còn rơi lả tả, Vương bà mở cửa ra đã thấy bóng
Tây-môn-Khánh thấp thoáng trước cửa nhà, đôi mắt lấm lét nhìn lên bức rèm trên
gác.
Mụ lẩm bẩm : « Khiếp con mèo
đói kia ! Bà mới bôi cho tí mỡ vào đầu mũi mà liếm mãi không thôi. Hắn nổi
tiếng bóc lột mọi người làm giàu, bạc vàng đầy tủ, bà kiếm kế lận lưng, lấy
chút ít cũng chẳng sao. Đã biết đây là cửa hàng săn thì cứ lăn vào mà chết cho
mất thân ».
Mụ vừa dứt lời thì Tây-môn-Khánh đã đi
đến, rẽ vào cửa nhìn mụ, nói : « Có trà hảo hạng pha ra đây ! »
Vương bà pha trà bưng lên.
Tây-môn-Khánh chỉ chiếc ghế, mời Vương bà : « Bà cứ ngồi đây uống
với tôi một chén trà ban mai xem có gì thú vị chăng ».
Vương bà kéo ghế ngồi, vừa cười vừa
nói : « Sớm mở mắt chưa nghe thấy con hoàng anh hót trên lầu đã thấy
cái mặt khô héo già này thì còn thú vị gì nữa ».
Tây-môn-Khánh cười lớn, nói :
« Tôi nào được thấy con hoàng anh ở đâu ».
Mụ Vương nói : « Ở chân trời
xanh, nhưng nếu có kẻ tri âm đưa tay vẫy, chim trời kia chê gì mà chẳng chui
đậu vô tay áo ấm ».
Tây-môn-Khánh cười xòa, đứng dậy bước
ra ngoài và nói : « Bà biên vào sổ đi nhé ! »
Mụ Vương tiễn khách ra cửa, nắm tay
cào cấu một lúc rồi mới quay vào nói : « Già này phải ghi cho nhớ
chứ ! »
Tây-môn-Khánh cười khoái trá bước ra
đường, phe phẩy tà áo lụa xanh đi qua đi lại không biết mấy lần. Mỏi mệt, chàng
lại ghé trở vào trà điếm của mụ Vương.
Mụ Vương pha nước. Tây-môn-Khánh thò
tay vào bọc lấy ba lạng bạc đưa cho mụ, và nói : « Đây, bà tính tiền
trà tôi đã uống mấy hôm nay ».
Mụ Vương nắm chặt ba lạng bạc vào lòng
bàn tay, đáp : « Đại nhân rộng quá. Tiền trà có bao nhiêu mà trả cho
mụ một số bạc nhiều như thế ? »
Tây-môn-Khánh làm ra vẻ hào phóng
nói : « Bà cứ cất đi. Nên hư cũng có lời bà ở trong ! Còn nhiều
đền đáp nữa kia mà ».
Được tiền, mụ Vương nói thầm :
« Cái quân mê gái ! Rồi đây còn chết với bà, chưa phải thế này thôi
đâu nhé ! » liền quay vào nhà trong cất tiền cẩn thận, rồi trở ra,
nói : « Hôm nay tuy lạnh nhưng xem chừng đại nhân khát nước lắm đấy,
vậy xin dâng một chén Tiễn-diệp-trà ».
Tây-môn-Khánh nói : « Đúng
vậy ! Bà có tài nhìn bên ngoài mà biết được trong ruột gan kẻ khác. Dẫu có
Hoa-Đà, Biển-Thước cũng phải thua ».
Vương bà cười khanh khách, nói :
« Nào có khó gì đâu ! Cứ nhìn con mắt là thấy rõ lòng nhau ! Hũ
kín nút, chai bọc kín mà già này còn biết bên trong đựng gì, huống hồ những
bệnh thông thường đó ».
Tây-môn-Khánh nói nửa đùa, nửa
thật : « Bà đoán bệnh tôi xem, nếu đúng, tôi xin tạ bà năm lạng nữa ».
Mụ Vương cười hể hả, nói :
« Khó gì. Tôn ông phải cáo bệnh đau đầu vì bị con người ngọc kia đánh rơi
chiếc rèm hôm nọ, nay phải được năm ngón tay tiên ấy thoa bóp thì khỏi hẳn ».
Tây-môn-Khánh nghẻo cổ cười :
« Thật là thánh vậy ! Tài ấy phải làm quân sư cầm đầu mười vạn quân
mới đáng. Không giấu giếm bà làm gì nữa, từ hôm ấy đến nay, tôi không thể nào
chợp mắt nổi ».
Mụ Vương phì cười : « Tôn
ông đã không giấu tâm bệnh, tôi đây lại giấu nghề làm chi. Già này lâu nay đã
làm biết bao nhiêu những việc đưa hoa đón khách ».
Tây-môn-Khánh hỏi : « Thế
nào là đưa hoa đón khách ? »
Mụ Vương cười ngặt nghẹo, đáp :
« Ấy là đón chim vườn trước, săn bướm vườn sau. Trong nhà này có giường
thất bảo, có giường tư mã, giọng phong tình lả lơi, gái này đã thuộc từ thuở
đương tơ, vỏ lựu, mào gà đã quen gạt lừa phường đa tình ngu xuẩn ».
Tây-môn-Khánh chúm chím cười :
« Thế thì bà đem một chút ít tài cũ giúp tôi, xong việc tôi xin hậu tạ ».
Mụ Vương nghiêm nét mặt nói :
« Cái nghề chim gái đâu phải dễ. Dẫu người ta muốn giúp, mình phải đủ điều
kiện mới được ».
Tây-môn-Khánh kéo ghế lại gần,
hỏi : « Điều kiện gì xin bà cho biết ».
Mụ Vương đáp : « Có nói
trước mới được việc sau. Cái nghề chơi phải lắm công phu, nghĩa là phải chịu
tốn kém nhiều tiền bạc mới chiếm được gái. Tôi nghe người ta nói, về tiền bạc,
tôn ông không rộng rãi lắm. Điều ấy mà sút đi thì hỏng mất tám phần mười công
việc ».
Tây-môn-Khánh nói : « Tưởng
gì chứ điều ấy đâu có khó. Từ nay mọi sự ở bà, dạy gì tôi cũng nghe theo ».
Vương bà vui thích, mỉm cười, chậm rãi
nói : « Được rồi, nếu tôn ông chịu phí chút ít thì lo gì mỹ nhân
chẳng vào tay. Hôm nay tối rồi, tôn ông cứ về nghỉ, ngày mai đến đây nghe tôi
hiến kế ».
Tây-môn-Khánh, đôi mắt đăm chiêu, nhìn
Vương bà tha thiết : « Nếu về mà chưa được nghe diệu kế thì lòng tôi
phập phồng cả đêm làm sao ngủ được. Xin bà dạy cho Khánh tôi biết trước ».
Mụ Vương cười khanh khách nói :
« Nếu vậy thì đây, tôi hiến kế cho. Song kế hay phải có người theo, mà
theo thì phải thành tâm, dù phải thí xa mã mà qua sông để phá lũy, đoạt thành
thì cũng cứ gan liền đừng sợ nhé ! »
Tây-môn-Khánh nói : « Xin bà
cứ dạy cho. Tôi tự coi như một tín đồ trung thành của bà vậy ».
Vương bà đằng hắng lấy giọng, rồi kề
tai Tây-môn-Khánh thì thầm bày vẽ mưu kế. Tây-môn-Khánh lẳng lặng chú tâm nghe,
nghe đến đâu mát lòng đến đấy. Khi Vương bà dứt lời, chàng ta vỗ đùi thích chí
reo to : « Thật là mưu thần chước quỷ, có thua gì Tôn-Vũ-Tử đâu ».
Thế rồi Vương bà tung ra nhiều mẻ lưới
theo kinh nghiệm của một tay già giặn chuyên nghề đưa trước đón sau bằng cách
lân la sang nhờ Kim-Liên, tên mỹ nhân, may bộ áo tống chung. Ý kiến ấy được
người đàn bà chấp thuận, nàng hàng ngày sang trà điếm của Vương bà giúp đỡ việc
cắt may. Nhân dịp này, Tây-môn-Khánh tới lui tán tỉnh, ca ngợi tài khâu vá khéo
léo của mỹ nhân. Vương bà và Tây-môn-Khánh toa
rập nhau đặt ra tiệc tùng để phục rượu người đàn bà. Đây, ta hãy xem kế mưu của
họ diễn biến :
… Câu chuyện kéo dài trong êm ả.
Tây-môn-Khánh cùng với mụ Vương cố dùng những câu bóng gió để gợi lòng người
đàn bà đang nồng bốc men say.
Qua một lúc, Vương bà lắc bình rượu,
nói : « Tiệc đang hào hứng, rượu lại cạn bình ! Để già nầy đi
mua thêm, nối tiếp cuộc vui kẻo uổng ».
Tây-môn-Khánh nói : « Trong
chiếc khăn gói kia còn nhiều bạc lẻ, xin bà lấy mà dùng. Nếu cần phải đi xa,
xin bà chịu khó một chút, tìm cho được thứ rượu thơm ngon để nương tử khỏi đắng
miệng ».
Mụ Vương cầm túi tiền, ngảnh nhìn
người đàn bà, nói : « Trong bình còn ít rượu, xin nương tử rót mời
đại nhân. Tôi phải qua tận bên kia cầu Sư-tử mới tìm được mỹ tửu đem về cho mỹ nhân ».
Dứt lời mụ Vương cười khanh khách.
Người đàn bàn cũng chúm chím cười và nói : « Tôi uống đã đủ, quá chén
e phải say nằm thì bất nhã ».
Vương bà cười, và nói :
« Say thì đã có thuốc giả say. Lại sẵn chăn nệm kia, có lò than hầm để
sưởi, lạnh lùng gì mà ngại ».
Sau khi liếc nhìn Tây-môn-Khánh một
cái đầy ý nhị, Vương bà bước ra cửa, khóa chặt lại. Mụ không đi mua rượu,
mà ngồi ngoài cửa để nghe ngóng. Trong phòng, đôi quả tim hồi hộp. Tây-môn-Khánh
mặt đỏ bừng, bụng bảo dạ : « Bây giờ là lúc Lưu-Nguyễn nhập
Thiên-thai, ta phải ra tay mở khóa động đào cho thỏa tình mơ ước ».
Nghĩ rồi, giả cách vô ý gạt tay áo làm
rơi đũa xuống gầm bàn. Chàng cúi xuống nhặt. Đôi đũa rơi gần đôi chân bé xíu của
mỹ nhân, cô mang giày xanh, thêu cánh hồng con bướm. Tây-môn-Khánh không lượm
đũa mà ôm đôi chân giai nhân nựng nịu. Giai nhân cười khanh khách, nói :
« Khéo giả vờ rơi đũa ! Ai chẳng biết nét mặt si tình ấy ! »
Tây-môn-Khánh quỳ xuống, nắm tay người
ngọc, nói hổn hển : « Chao ôi ! Tôi khổ sở đã bao ngày mới được
giây phút này đây. Xin nương tử thấu tình cho ».
Tây-môn-Khánh nghe hơi thở của nàng
rồn rập, bèn đứng lên dìu nàng… Thế rồi, một cuộc mưa xuân tơi tả, vũ trụ say
cuồng. Và, cuộc ái
tình vụng trộm đầy tội lỗi này bị người phát giác, đi báo cho Võ-đại-Lang,
chồng người đàn bà, biết. Người chồng vội vã quảy gánh bán hết bánh rồi lật đật
về nhà gọi cửa.
Người đàn bà cũng mới vừa về cách đó
năm phút, khuy áo còn gài xốc xếch, đôi má phấn còn đượm men say, đon đả
nói : « Sao hôm nay lang quân về trễ thế, thiếp trông đã mỏi mòn ».
Người đàn bà dọn cơm lên, Võ-đại-Lang
thấy cổ khô và nóng như ran, cố nuốt trôi ba miếng cơm rồi nằm vật xuống
giường. Đêm về với
nguồn quạnh hiu trong tâm hồn người đau khổ… Sự gian dâm mê đắm
còn dẫn dần họ đến chỗ liều lĩnh xui người đàn bà gạt chồng cho uống thuốc độc
chết đã để lại trong văn học Trung-quốc những chứng tích khả ố…
Câu chuyện trong sách Kim Bình
Mai chúng tôi vừa lược dẫn trên đây thuộc vào loại truyện tả chân xã
hội, sáng tác vào đời Minh, phản ánh khả năng đe dọa trầm trọng của dục vọng
con người trong thế giới đạo học.
Một Kim-Liên, điển hình trạng thái
khát khao của bản ngã, mà lý tính không còn kềm hãm nổi. Một Tây-môn-Khánh tiêu
biểu tính chất hoan lạc chi phối cuộc sống con người. Một mụ Vương biểu lộ sắc
thái điêu ngoa, dùng tấm màn nhân nghĩa để làm tiền đôi gian phu, dâm phụ.
Nếu bên trong thế giới đạo học nẩy
sinh những mầm tệ hại như vậy thì cái vỏ đạo đức bên ngoài phỏng còn giá trị
gì. Cho nên, đạo học không thể là con đường tuyệt đối có thể soi sáng lẽ sống
loài người, trong lúc bản năng dục vọng con người luôn luôn manh nha phá vỡ lớp
vỏ ấy để lôi cuốn con người vào sa đọa.
Một đứa con bị kềm hãm trong lễ giáo
luôn cảm thấy mình bị khắt khe. Đó là trạng thái mâu thuẫn giữa lý tính và bản
năng tính. Sự thất bại của đạo học là sự thất bại của tính chất phủ nhận hoàn
toàn bản năng tính, đưa khả năng lý tính đến hình thức chế ngự một cách cực
đoan. Bởi vậy, khi mỗi người trong chúng ta gặp những cơ hội thuận tiện, lý
tính không còn kềm hãm nữa thì bản năng dục vọng không ngần ngại gì mà không
hành động theo chiều hướng phát triển của nó. Một xã hội cũng thế, khi ý thức
đạo học đã không được guồng máy chính trị bảo vệ và củng cố thì khả năng dục vọng
cá nhân tự nhiên nẩy sinh, phá vỡ khuôn khổ đạo lý để đi vào chiều hướng tự do
hành động của nó.
Trạng thái ấy đã phát sinh trong thời
tiền chiến, lúc mà guồng máy chính trị phong kiến sắp cáo chung, nhường chỗ cho
guồng máy thực dân của người Tây-phương.
Nói như thế cũng có nghĩa là ý thực
đạo học muốn được củng cố chẳng những phải căn cứ vào khả năng giáo dục tình
cảm con người, mà còn phải dựa vào khả năng bảo vệ của guồng máy chính trị nữa.
Nền văn minh Tây-phương du nhập vào
Việt-nam mang theo chính sách đô hộ đã nẩy sinh ý thức canh tân về nếp sống.
Nhưng thế nào là canh tân ? Trước đây chúng ta
thấy có hai phong trào canh tân trên đất nước chúng ta :
Một là phong trào Duy-tân. Phong
trào nầy không tách rời ý thức đạo học Đông-phương, mà chỉ đem tinh thần đạo
học tiếp thu những tiến bộ vật chất để đối phó với mọi đe dọa do nền khoa học
phát triển.
Hai là phong trào Tự lực văn
đoàn. Phong trào nầy chối bỏ hoàn toàn ý thức đạo học, đả phá tất cả
những phong tục tập quán để tiếp nhận nếp sống văn minh khoa học Tây-phương.
Nhưng, dù với phong trào canh tân nào,
chúng ta cũng không thể phủ nhận khi đã canh tân tức là mầm thất bại của nền
văn minh đạo học đã bắt đầu biểu hiện.
Để chứng minh sự thất bại trên, và
cũng để phân định sự khác biệt giữa hai phong trào duy tân, chúng ta thử đi vào
tính chất căn bản của mỗi thời kỳ đã biểu lộ qua ý thức và hành động.
Phong trào Duy-tân Việt-nam phát khởi
từ đầu thế kỷ XX ; lãnh đạo phong trào, chúng ta phải nói đến ba nhân vật
nổi danh nhất là Phan-bội-Châu, Huỳnh-thúc-Kháng, và Phan-châu-Trinh.
Dĩ nhiên đó là một phong trào ái quốc,
mưu đồ cách mạng, cũng như trước đấy, Việt-nam đã có phong trào Văn-thân và
Cần-vương. Ở đây, chúng ta không bàn về phương diện cách mạng, mà chỉ đề cập sự
thất bại của nền đạo học, do đó, chúng ta không đi sâu vào phương lược hoạt
động mà chỉ xét riêng về căn bản đạo học của phong trào duy tân mà thôi.
Thế nào là duy tân ? Tại sao phải
duy tân ? Trải qua bao
nhiêu thế hệ, nền đạo học ngự trị trên xã hội Á-đông, người Việt-nam cũng như
người Trung-hoa đều chỉ thấy có sức mạnh tinh thần mà không thấy có sức mạnh
vật chất. Mãi đến lúc các cường quốc Tây-Âu dùng súng đồng, phi cơ, chiến hạm
vượt trùng dương xâm chiếm Trung-hoa, thế giới Đông-phương mới thức tỉnh, và
cảm thấy sức mạnh vật chất cũng đáng kể như sức mạnh tinh thần.
Nếu ở Trung-hoa, Tôn-Văn đã vận động
phong trào « quốc dân chủ nghĩa » mục đích đem đạo học gắn liền với
những tiến bộ khoa học để bảo tồn tổ quốc, thì ở Việt-nam chính phong trào duy
tân cũng do ảnh hưởng ở sự cải cách Trung-hoa mà ra. Cho nên, phong trào duy
tân Việt-nam chúng ta phải coi đó như là một sự « cựa mình » của nền
đạo học khi phải « thức dậy » để tiếp khách. Nếu đặt tinh thần dân
tộc và tinh thần ái quốc sang một bên, và đứng trên khía cạnh thành công và thất
bại của hai nền văn minh đạo học và khoa học, chúng ta phải thấy phong trào duy
tân Việt-nam không phải riêng rẽ, mà kết hợp với tính chất biến động của nền
văn minh đạo học Đông-phương trong thời bấy giờ.
Như vậy, duy tân tức
là đổi mới, là xét lại tinh thần đạo học, là không còn tin tưởng
vào sức mạnh tuyệt đối của đạo học đã chế ngự xã hội Đông-phương tự ngàn xưa.
Cũng như tinh thần cải cách của thế hệ
1932-1945, nhóm Tự lực văn đoàn đã đứng lên cầm đầu phong
trào, đả phá những tập tục cổ truyền, thì đó cũng là phong trào duy tân, tuy
nhiên khác với phong trào duy tân cách mạng của thời Phan-bội-Châu, phong trào
cải cách của thế hệ 1932-1945 làm lũng đoạn ý thức đạo học cổ truyền của
Đông-phương, gây mầm chống đối giữa những lớp người tiêm nhiễm hai nền văn minh
Đông-Tây, còn phong trào duy tân cách mạng, tuy vẫn hô hào cải cách, song lôi
cuốn được cả một số lớn sĩ phu, cũng như đông đảo lớp người trẻ tham gia mà
không có sự chống đối nào cả.
Tại sao lại có sự lạ lùng như
vậy ? Nếu văn minh
Tây-phương tràn vào Á-đông, đánh thức tinh thần thủ cựu của những thức giả
đương thời, gây một luồng gió mới trong ý thức hệ, lẽ ra sự chống đối phải xảy
ra ngay lúc đó, nhưng trái lại, mãi đến thế hệ 1932-1945, người ta mới thấy xảy
ra phong trào chống đối. Trạng thái ấy không phải không có nguyên nhân.
Sở dĩ phong trào duy tân cách mạng hô
hào đổi mới nếp sống của dân tộc, mà không bị chống đối là phong trào này vẫn
đứng trên ý thức đạo học Đông-phương để cải tiến sinh hoạt. Đổi mới của phong
trào duy tân cách mạng có nghĩa là tiếp nhận nền văn minh khoa học dung hợp
trong tinh thần đạo học để cải tiến nếp sinh hoạt cho hợp với trào lưu. Còn
phong trào cải cách của thế hệ 1932-1945 do nhóm Tự lực văn đoàn chủ
trương sở dĩ bị chống đối là vì phong trào này chối bỏ hoàn toàn ý thức đạo
học. Tinh thần đổi mới ấy phục vụ cho cái văn minh vật chất, trái với truyền
thống đạo học Đông-phương.
Chúng tôi chưa có dịp để chứng minh sự
khác biệt giữa hai phong trào bằng ý thức và hành động cụ thể. Tuy nhiên, với
mục đích khảo sát tinh
thần đạo học và khoa học trong đề mục nầy, chúng ta có thể đem một vài sự việc
đại để làm tiêu biểu.
Ví dụ, phong trào duy tân cách mạng,
các lãnh tụ phong trào vẫn hô hào dân chúng hớt tóc ngắn, mặc đồ ngắn để cải
tiến nếp sống xã hội cho gọn ghẽ, tiện lợi. Sự hô hào ấy biểu lộ qua những bài
vè như sau :
« Vè cúp tóc »
Cúp hề, cúp hề !
Tay mặt cầm kéo,
Tay trái cầm lược,
Cúp hề, cúp hề !
Đủng đỉnh cho khéo,
Bỏ cái ngu mày,
Bỏ cái dại mày,
Học theo người Tây,
(Nếu) Hãy còn ăn mặn,
Hãy còn nói láo,
Phen này ta cúp,
Phen sau ta cạo.
Tuy thế, từ lớp sĩ phu đến lớp người
trẻ ai ai cũng nao nức làm theo, sự chống đối không vì việc đổi mới ấy mà tạo
thành sóng gió trong ý thức hệ.
Còn đối với phong trào cải cách của
thế hệ 1932-1945, cũng hô hào hớt tóc ngắn, mặc áo tân thời, lại bị nhiều người
chống đối. Bởi vì phong trào duy tân cách mạng hô hào đổi mới là để đưa dân tộc
đến chỗ tự lực tự cường trong nếp sống đạo lý ; còn phong trào cải cách
của thế hệ 1932-1945 là phong trào đổi mới theo thẩm mỹ của nền văn minh vật
chất. Những kiểu áo mới, những mái tóc đẹp của phong trào 1932-1945 đã nói lên
chiều hướng xa rời ý thức đạo học của nó.
Tóm lại, dù với phong trào duy tân,
hay cải cách, hiện tượng thất bại của nền đạo học Đông-phương cũng đã bắt đầu
nổi dậy. Chúng tôi vạch đôi nét khác biệt của hai phong trào trên đây là để
chứng minh những
thất bại ấy, và cũng để xác định rằng, thời kỳ duy tân cách mạng, ý thức đạo
học chưa bị tổn thương mấy, mãi đến phong trào cải cách của thế hệ 1932-1945,
do nhóm Tự lực văn đoàn gây nên, ý thức đạo học mới sụp đổ.
« Say, tỉnh, đục, trong »
Khuất-Nguyên làm quan đại phu cho đời
Hoài-vương nước Sở, bị kẻ sàm báng mà phải phóng khí. Mặt mũi tiều tụy, hình
dong khô héo, Khuất-Nguyên vừa đi vừa hát trên bờ đầm.
Có ông lão đánh cá trông thấy hỏi
rằng : « Ông có phải
là Tam-lư đại phu đấy không ? Sao mà đến nỗi khốn khổ như vậy ? »
Khuất-Nguyên nói : « Cả đời đục cả, một
mình ta trong ; mọi người say cả, một mình ta tỉnh ; bởi vậy nên ta
phải phóng khí ».
Ông lão đánh cá nói : « Thánh nhân có câu nệ
việc gì, lại hay tùy thời. Có phải cả đời đục cả, sao ông không khuấy thêm bùn,
vỗ thêm sóng cho đục một thể ; loài người say cả, sao ông không ăn cả men,
húp cả bã cho say một thể ? Việc gì mà phải lo xa, nghĩ sâu, để cho đến nỗi
phải phóng khí ? »
Khuất-Nguyên nói : « Tôi nghe : mới
gội đầu tất phải chải mũ ; mới tắm ra tất phải thay áo ; có đâu lại
chịu đem cái thân trong sạch mà để cho vật dơ bẩn dính vào mình được ?
Chẳng thà nhảy xuống sông Tương, vùi xác vào trong bụng cá, chớ sao đang trắng
lôm lốp, lại chịu để dấy phải bụi dơ ».
Ông lão đánh cá nghe nói, tủm tỉm
cười, quay chèo bơi đi, rồi hát rằng :
Sông Tương nước chảy trong veo,
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta ;
Sông Tương nước đục phù sa,
Thì ta lội xuống để mà rửa chân.
Hát xong, đi thẳng không nói gì nữa.
(Khuất-Nguyên – trích Cổ học tinh hoa)
« Vợ lẽ phải đòn »
Xưa có người đi làm quan xa. Vợ ở nhà
có ngoại tình ; ít lâu có tin người chồng sắp về, đứa gian phu lấy làm lo.
Đứa gian phụ bảo
rằng : « Không việc gì
mà lo. Tôi đã làm sẵn thứ rượu thuốc để đãi nó đây rồi ».
Hai hôm sau chồng về tới nhà, đang khi
chuyện trò vui vẻ, người vợ sai người thiếp rót chén rượu dưng chồng, bảo cố
mời uống. Người thiếp biết rõ chén rượu ấy có thuốc độc, nghĩ trong bụng
rằng : « Ta mà
dưng chén rượu này thì ta là người giết chồng ; ta mà nói ra, thì ta lại
làm cho vợ cả ghét ta ». Bèn giả cách ngã, làm
cho chén rượu đổ xuống đất.
Chồng thấy vậy giận lắm, đánh cho
người thiếp mấy chục roi. Than ôi ! người thiếp này đánh đổ chén
rượu, phần thì làm cho chồng được còn sống, phần thì làm cho vợ cả được khỏi
tội. Trung tín đến mức như thế mà chẳng khỏi đòn mà phải chịu tội. (Chiến quốc sách – trích Cổ học tinh hoa)
« Đọc sách cổ »
Vua Hoàn-công đọc sách ở nhà trên, có
người thợ mộc đang đẽo bánh xe ở nhà dưới, nghe tiếng học, bỏ chàng, đục chạy
lên thưa với vua rằng : « Cả dám hỏi nhà vua học những câu gì
thế ? »
Hoàn-công nói : « Những câu của
Thánh-nhân ».
- Thánh nhân hiện nay còn sống
không ?
- Đã chết rồi.
- Thế thì những câu nhà vua học
chỉ là những tao phách của cổ nhân đấy thôi.
- À, anh thợ ! Ta đang đọc sách, sao dám
được nghị luận ? Hễ nói có lý thì ta tha, không có lý thì ta bắt tội.
Người thợ mộc nói : « Tôi đây cứ lấy việc
tôi làm mà suy xét, khi đẽo cái bánh xe, để rộng thì mộng cho vào dễ, nhưng
không chặt ; để hẹp thì mộng cho vào khó, và không ăn. Còn làm không rộng,
không hẹp, vừa vặn đúng mực, thì thật tự tâm tôi liệu mà nẩy ra tay tôi làm,
như đã có cái phép nhất định, chớ miệng tôi không thể nói ra được. Cái khéo ấy
tôi không thể dạy cho con tôi, con tôi cũng không thể học được tôi. Bởi thế tôi
năm nay đã bảy mươi tuổi mà vẫn giữ nghề đẽo bánh xe ».
Người đời cổ đã chết thì cái hay của
người đời cổ khó truyền lại được, tưởng cũng đã chết cả rồi. Thế thì những câu
nhà vua học thật chỉ là những tao phách của cổ nhân mà thôi. Vua cho người thợ mộc
nói là phải. (Trang-tử – trích Cổ học
tinh hoa)
« Ác ngầm »
Vua Ngụy đem một người con gái đẹp
dâng vua Kinh. Vua Kinh lấy làm thích thú và yêu lắm. Phu nhân là Trịnh-Tụ
biết thế, chính mình cũng yêu mến người con gái, có khi lại yêu mến hơn vua.
Người con gái ấy muốn ăn mặc, chơi bời gì phu nhân cũng đều sắm sửa cho đủ cả.
Vua khen : « Phu nhân biết ta yêu
mến tân nhân, mà đem lòng yêu mến tân nhân quá ta, thật có khác nào như người
con có hiếu thờ cha mẹ, người bầy tôi trung thờ vua vậy ».
Phu nhân đã chắc bụng vua không ngờ
mình là người ghen, nhân dịp mới bảo tân nhân rằng : « Vua yêu mến nhà ngươi
lắm, nhưng ghét cái mũi ngươi. Giá từ nay, hễ người trông thấy vua, ngươi cứ
che lấy cái mũi đi, thì vua yêu mến được mãi đấy ».
Tân nhân theo lời, từ đó mỗi khi trông
thấy vua, là che ngay mũi lại. Vua thấy thế, bảo với phu nhân
rằng : « Tân nhân
trông thấy ta mà cứ che mũi là ý làm sao ? »
Phu nhân trước thưa : « Tôi không được rõ ».
Đợi vua cưỡng hỏi nữa, mới thưa
rằng : « Tôi nghe đâu
như tân nhân có nói hơi vua khí nặng, lấy làm khó chịu ».
Vua phát giận bảo : « À, nếu thế thì xẻo
mũi nó đi ».
Vua vừa nói đoạn, thì một viên quan
hầu cầm dao ra xẻo ngay mũi tân nhân. Vì phu nhân đã dặn một viên quan hầu đứng
chực sẵn đấy trước, hễ thấy vua phán gì, là làm ngay lập tức. (Hàn-Phi-Tử – trích Cổ học tinh hoa)
« Lời nói kẻ bắt rắn »
Ở Vĩnh-châu có giống rắn lạ, thân đen,
vằn trắng, chạm vào cây cỏ, thì cây cỏ chết, cắn phải người, thì không thuốc gì
chữa nổi. Song mà bắt được giống rắn ấy dùng làm thuốc để chữa những bệnh như
bệnh trúng phong, bệnh co quắp chân tay, lại sát được cả trùng. Cho nên nhà vua có lệ
bắt dân gian mỗi năm phải hiến hai con rắn ấy để dành. Ai bắt được rắn thì được
trừ thuế ruộng.
Người châu Vịnh tranh nhau mà làm nghề
bắt rắn. Có nhà họ Tương cũng làm nghề ấy đã được ba đời. Hỏi ra thì nhà họ
Tương nói : « Ông tôi chết
về nghề bắt rắn, cha tôi cũng chết về nghề bắt rắn. Tôi nối nghề ông cha tôi
mới có mười hai năm, cũng đã mấy lần suýt chết ». Người ấy nói, vẻ mặt
rất buồn rầu.
Ta thương và hỏi rằng : « Nhà ngươi có thật cho
nghề bắt rắn là khổ không ? Ta sẽ nói với quan trên cho nhà ngươi bỏ nghề
ấy mà cứ nộp thuế ruộng như thường. Nhà ngươi tính thế nào ? »
Người họ Tương vừa khóc, vừa
nói : « Ông thương
tôi, muốn cho tôi sống thì ông để cho tôi làm nghề bắt rắn còn hơn. Nếu tôi
không làm nghề thì tôi khốn khổ đã lâu rồi. Nhà tôi ba đời ở làng kể đã hơn sáu
mươi năm, cách sinh nhai trong làng mỗi ngày một quẫn bách. Người làng phải rút
hết cả lợi hoa mầu, vét hết cả của cải trong nhà để mà nộp thuế hết, thậm chí
bỏ làng, bỏ xóm, đói khát, trôi giạt, chết đường, chết chợ kể bao nhiêu người.
Những người vào trạc tuổi ông tôi, mười nhà không còn một. Những người vào trạc
tuổi cha tôi, mười nhà còn độ hai, ba. Những người vào trạc tuổi tôi, mười nhà
còn độ bốn, năm. Không chết chóc thì lưu lạc cả… Tôi nhờ nghề bắt rắn mà còn
đến bây giờ. Những quan lại tàn ác về làm thuế làng tôi, xúc lúa hết đầu làng,
cuối xóm, vơ vét đến cả con gà, con chó, dân gian phải hãi hùng kinh sợ. Những
lúc ấy, về phần tôi được yên lặng, trông trong giỏ con rắn vẫn còn là tôi được
ăn no, ngủ yên. Tôi làm nghề bắt rắn một năm sợ chết chỉ có hai lần, ngoài ra
là vui vẻ, không phải lo thuế má, không đến nỗi như người làng xóm tôi hết ngày
này, sang tháng khác khốn khổ về quan lại tàn ác. Giá tôi có chết về nghề bắt
rắn, ví với người làng xóm, tôi cũng đã là chậm, đâu dám cho là rắn độc mà xin
thôi. Ta nghe câu
chuyện, lại càng thương lắm. Xưa Đức Khổng-Tử nói : « Chính sách hà
khắc độc hơn hổ dữ », ta vẫn ngờ, bây giờ xem chuyện họ Tương mới cho là
thật. Than ôi ! cái độc quan lại tàn ác làm thuế ở dân gian dữ hơn rắn
độc, cho nên nói ra đây để người xem xét phong tục thấu được tình cảnh đau khổ
của dân ». (Liễu-Tôn-Nguyên – trích Cổ học tinh hoa)
- Sự thành công của khoa học -
Không cần phải chứng minh, cho đến
ngày nay thế hệ chúng ta đã trông thấy tận mắt những vệ tinh không gian đưa
người lên mặt trăng và trở về quả đất. Cả nhân loại không ai còn có thể phủ
nhận công trình tiến bộ của khoa học được.
Thời gian, không gian như lệ thuộc vào
bộ óc con người. Chúng ta bàn đến những thành công của khoa học ở đây là chuyện
thừa.
Tuy nhiên, có một điều chúng ta cần
phải xét lại. Do yếu tố nào đã thúc đẩy công trình khoa học tiến triển một cách
nhanh chóng như vậy, trong lúc đạo học vẫn trầm lặng trong cuộc sống con
người ?
Nếu chúng ta đã thừa nhận nền văn minh
khoa học là một nền văn minh vật chất, cấu tạo trên căn bản hưởng thụ, thì
chúng ta cũng chẳng lấy gì
làm lạ. Khả năng hưởng thụ trong con người bao giờ cũng phát triển mạnh hơn khả
năng kềm hãm. Cho nên, khi khả năng hưởng thụ được phát huy, mọi ý thức cạnh
tranh và phát triển khoa học dễ bành trướng để đáp ứng những cung cầu vật chất
của loài người.
Còn đạo học, khi căn bản cấu tạo trên
tính chất kềm hãm, dĩ nhiên ý thức tranh đua cá nhân không nẩy nở mấy, và cuộc
sống mỗi ngày một trầm lặng hơn.
Trong một bài bình luận ở báo Nam
phong, ông Phạm-Quỳnh đã ý thức rằng : « Khoa học
luôn luôn đi tìm những mới lạ, còn đạo học một lời nói, một nửa câu đem ra áp
dụng một đời chưa chắc đã làm xong ».
Lời bình luận trên đây chính ông
Phạm-Quỳnh cũng đã thấy rõ tính chất căn bản của hai nền văn minh đạo học và
khoa học rồi. Bởi vậy sự thành công của khoa học là sự thành công của ý thức
tranh đua trong phạm vi cung cầu vật chất.
Sự thành công ấy đã dẫn loài người vào
một ngả rẽ, khống chế cả cuộc sống tinh thần.
Ai cũng tưởng khoa học càng tiến bộ,
thì cuộc sống con người càng thoải mái, vì có đủ phương tiện phục vụ cho lẽ
sống. Mà đó cũng là nguồn hạnh phúc. Tuy nhiên, khi khoa học tiến bộ đến tuyệt
đỉnh thì con người lại không thể giải quyết những nhu cầu của mình, và chính
cuộc sống vật chất ấy càng văn minh tân tiến càng làm cho con người nghi ngờ lẽ
sống của họ.
Những thắc mắc, hằn học, rên than, sầu
muộn không phát sinh ở thế giới đạo học bằng thế giới khoa học. Và cũng chỉ
trong thế giới đạo học, tâm hồn con người mới cảm thấy mình bị đau đớn, thiếu
thốn, ê chề. Phải chăng đó là một thất bại của khoa học ?
« Vô tuyến truyền thanh và
vô tuyến truyền hình »
Người thường dân sẽ cảm thấy sung
sướng hơn khi anh ta có thể trông thấy những gì mà anh ta đang nghe thấy. Vì
vậy, anh đi tìm tới vô tuyến truyền hình. Trên màn ảnh của máy vô tuyến, anh ta
có thể trông thấy những sự việc tin tức như là đang xảy ra. Anh ta có thể thấy
những nhạc sĩ danh tiếng, xem những vở kịch hay. Anh ta có thể theo dõi một nhà
chuyên môn dạy cách trồng trọt ngũ cốc một cách khéo léo hơn và săn sóc sức
khỏe của anh ta như thế nào.
Tất cả những thứ đó và nhiều thứ khác
nữa anh ta có thể ngồi trên ghế ở nhà mà xem thấy.
Ngay từ hồi mới xuất hiện, vô tuyến
truyền hình đã phổ biến trên khắp thế giới, mỗi lục địa có hàng triệu khán giả.
Tuy nhiên, không một nhà phát minh đơn độc nào lại có thể được gọi là người duy
nhất sáng chế ra vô tuyến truyền hình ; chẳng phải một ông Samuel Morse,
một ông Alexander Graham Bell hay Marconi. Đúng hơn, nó là sản phẩm của nhiều
khối óc ở nhiều quốc gia : Đức, Pháp, Nga-sô và Mỹ.
Kỳ diệu đến nỗi có thể nhận được vừa
hình ảnh vừa âm thanh cùng một lúc, vô tuyến truyền hình vẫn còn phải bị giới
hạn trong không gian. Trong khi có thể gọi điện thoại dễ dàng từ Cựu-kim-sơn
đến Đông-kinh, ta thấy rất khó truyền hình trực tiếp giữa hai địa điểm đó.
Nhưng người ta đã bắt đầu thực hiện những hệ thống truyền hình quốc tế bằng
những vệ tinh viễn thông chạy cao trên quỹ đạo chung quanh trái đất. Khán giả
vô tuyến truyền hình từ Cựu-kim-sơn có thể xem được Thế-vận-hội 1964 ở
Đông-kinh bằng phương tiện một vệ tinh viễn thông tên là Syncom. (G.s. Trần-hữu-Tắc)
« Giá trị của khoa học »
Các bạn biết cách đây vài tỷ năm, con
người sống trên quả đất này ra sao và bây giờ họ ra sao. Cô lập giữa một tạo
hóa mà tất cả là huyền bí đối với họ, sợ hãi trước mỗi hiện tượng bất ngờ của
những quyền lực lạ lùng khó hiểu, họ không tài nào hiểu được những biến chuyển
của tạo hóa một cách khác hơn là do sự bất định, họ quy những hiện tượng ấy vào
hành động của vô số thần linh kỳ dị và khó tính.
Ngày nay chúng ta không khẩn cầu tạo
hóa nữa ; ta sai khiến được tạo hóa vì lẽ ta đã khám phá một vài bí ẩn của
nó, và mỗi ngày lại khám phá nhiều điều bí ẩn mới. Ta sai khiến được tạo hóa vì
ta dựa trên những định luật tạo hóa không thể khước từ được, vì chính là những
định luật của nó. Chúng ta không ngông cuồng đòi hỏi những định luật ấy phải
thay đổi. Ta là những người đầu tiên phải chịu tuân theo. (Henri Poincaré – Nguyễn-thanh-Trừng
dịch)
« Tiến triển trong khoa mổ xẻ »
Trong những dạo vừa qua, thỉnh thoảng
báo chí cho đăng lên trang đầu những tin mới lạ về ngành giải phẫu. Chẳng hạn
một bác sĩ Nga đã ghép được một quả tim vào cơ thể chó. Chẳng hạn máy quay phim
và máy chụp hình màu đã được dùng để khảo sát óc não. Ngoài ra còn biết bao
điều khám phá mới lạ khác không được ra mắt công chúng. Trong khoảng ba, bốn năm gần đây, tiến
triển trong khoa giải phẫu thật là lớn lao…
… Bây giờ mổ tim mổ não là chuyện hằng
ngày. Ở Âu-Mỹ, trong một bệnh viện chuyên về tim, người ta mổ mỗi tuần lễ từ 10
đến 16 bệnh nhân. Bên ngành thần kinh thủ thuật cũng vậy, những bệnh nhân có
sủng phù hay mắc động kinh, nối tiếp nhau trên bàn mổ. Nếu cuộc mổ không có gì
mới lạ, đáng để ý là kỹ thuật mổ, trình độ vững vàng đã đạt được.
…Những chi tiết về các khám phá mới lạ
trong thuật mổ xẻ còn nhiều nữa. Với những căn bản vững chắc, tiến triển trong
những năm sau này còn tăng lên gấp bội. Trong địa hạt tâm học, người ta mong
muốn một ngày nào gần đây thay thế được quả tim yếu ớt hay hư hỏng. (Võ quang Yến – trong Nói
chuyện khoa học)
« Sự ích lợi của khoa học »
Mỗi phát kiến của trí óc loài người
tương xứng với một tiến bộ về luân lý, một tiến bộ về nhân cách cho mọi người.
Thời thượng cổ, cách thức kéo xe là cả một sự giản dị kinh hãi : hàng trăm
người bị buộc vào xe, mang một sợi dây cột cổ, cố kéo với toàn sức của các bắp
thịt. Không có máy xay bằng sức nước hay sức gió, người ta xay lúa với sức mạnh
của cánh tay. Kéo cối xay đồng nghĩa với hình phạt độc ác nhất.
Những cuộc nghiên cứu khoa học, bề
ngoài có vẻ chỉ dành riêng cho một thiểu số, nhưng kỳ thật là mẹ đẻ của những
phát kiến mà mọi người đều được hưởng lợi ích. Thật là có lợi cho dân chúng khi
có những nhà bác học nghiên cứu để mở mang tầm hiểu biết của con người.
Một thế giới không khoa học là thế
giới nô lệ, là thế giới của người kéo máy xay, lệ thuộc vào vật giới, đồng hóa
với súc vật. Thế giới được khoa học cải tiến sẽ là nơi ngự trị của trí tuệ, là
triều đại của con người tự do.
Chúng ta hãy đoàn kết trong kỳ vọng
ấy. Niềm tin vào sự tiến bộ là nguồn an ủi lớn của những ai học hỏi và tranh
đấu cho ngày mai. (Theo Ernest
Renan – G.s. Nguyễn-thanh-Trừng
dịch)
« Vài chi tiết đáng ghi về
sự thành công tối hậu
của khoa học hiện đại »
Từ chiếc nguyệt xa Eagle (Phượng
Hoàng), phi hành gia Neil Alden Armstrong đặt chân xuống mặt nguyệt cầu hồi 2
giờ 56, giờ quốc tế, ngày 21-7-1969 ; ông tuyên bố : « Đây là
bước chân nhỏ bé của con người, nhưng là một bước tiến nhảy vọt vĩ đại
của nhân loại ».
Sứ mạng Apollo 11 đã để lại trên
nguyệt cầu một quốc kỳ Mỹ, các bức thông điệp của các vị nguyên thủ của 73 quốc
gia, và một tấm bảng có ghi hàng chữ : « Nơi đây những con
người từ hành tinh Địa-cầu lần đầu tiên đặt chân lên nguyệt cầu, tháng 7-1969
Tây-lịch. Chúng tôi tới với thiện chí hòa bình của nhân loại ». (Walter Iroehlich – trích Nguyệt
cầu và xa hơn nữa).
Trong chuyến du hành nguyệt cầu, các
phi hành gia Armstrong và Aldrin đều mang theo các máy móc dụng cụ cho ba cuộc
trắc nghiệm khoa học. Aldrin đặt máy trắc nghiệm gió mặt trời – một tấm kim khí
bằng nhôm cuộn lại để thu hút hơi khí từ mặt trời phát ra. Trước khi rời nguyệt
cầu, tấm nhôm được đặt vào trong một cái hộp chân không đem về địa cầu để phân
chất. Các khoa học gia hy vọng cuộc trắc nghiệm này sẽ giúp con người thấu đáo
về phương thức mặt trời và các hành tinh đã được cấu tạo ra sao. Hai dụng cụ
trắc nghiệm khác được để lại trên mặt nguyệt cầu, đã cung cấp nhiều tin tức hữu
ích. Một máy nguyệt chấn, phúc trình về những sự rung chuyển gây ra do các vẩn
thiết rơi xuống hoặc hỏa diệm sơn đang phun lửa. Máy thứ hai là tấm phản quan
tia sáng Laser, dội một tia sáng trực tiếp thẳng xuống địa cầu. Từ tia sáng đó,
các khoa học gia trắc lượng khoảng cách chính xác giữa địa cầu và nguyệt
cầu. (Trích Nguyệt
cầu và xa hơn nữa).
- Những thất bại của khoa học -
Chúng tôi xin trích ra đây một vài
đoạn văn tiêu biểu những vết tích của tâm hồn hiện đang sống trong thế hệ mà
khoa học đã cung ứng cho loài người đầy đủ những tiện nghi ưu tú : « …Cho anh một
lần cuối cùng em bước lại con đường tình sử, nghe em. Dù bằng tưởng tượng của
riêng anh, dù không có em bằng xương bằng thịt, anh cũng cảm thấy mình chưa một
lần bị « đá », con tim chưa một lần bị rỉ máu, anh chưa thể nhìn
những người con gái bằng tia mắt hận thù, cuộc tình vẫn còn nhiều đam mê, quyến
rủ, ước vọng vẫn còn cao ngút mãi. Anh sẵn sàng là con người của tình si trọn
nghĩa. Xin hãy cùng anh bước vào thế giới yêu thương. Ở đó không hận thù, không
có những cảnh bất công, không có uy quyền mà chỉ có tình yêu và những kẻ đam
mê. Khung trời trước mặt không có ngày, mà cũng chẳng có đêm, không có mặt
trời, cũng không có mặt trăng, chỉ có khóe mắt, nếp môi, điệu cười, tiếng nói
ngọt mềm hương yêu. Chỉ có hai sinh vật khác giống mới biết buồn khổ, sung
sướng, chuyền sức sống cho nhau, từng hơi thở ngụp lặn trong hơi thở, cùng một
nhịp tim. Xin cho anh một lần khơi lại đống tro tàn nguội lạnh đã vùi chôn đi
bao nhiêu thương nhớ, ngỡ ngàng, buồn khổ. Xin cho anh một đôi môi cười, bóng
dáng thương yêu, lời yêu đương, âu yếm, ngọt ngào dĩ vãng không chua xót mặn
nồng. Anh chỉ xin em một lần thôi… Một lần đã quá đủ, một lần đã quá đủ phải
không em… Thời gian, thời gian là liều thuốc thần hiệu nhất để chữa những vết
thương lòng, bây giờ anh mới nhìn nhận là đúng. Ai mà cầm lòng đậu, ai mà không
nghe một thoáng buồn len lỏi vào hồn mình, một nỗi nhớ thương dấy lên, một niềm
xúc động dâng trào thành những giọt lệ đọng quanh mi. Làm sao không buồn phiền
cho được. Như từng khối băng nhỏ giọt thánh thót vào lòng… » (Hải-Thu-Vân – trích trong Nhật báo
Công-luận số 717 ngày 18-5-70)
Chúng ta đừng tưởng trên đây là những
dòng tâm tư say sưa của kẻ đang hưởng thụ. Không, nó biểu hiện một trạng thái
trốn chạy trước cuộc sống sa đọa của thế giới vật chất. Dục vọng không làm họ
say sưa, mà chính họ phải nhờ vào say sưa dục vọng để chôn lấp những bất bình,
hằn học trong cuộc sống loài người, khi mà ánh sáng văn minh khoa học đang chế ngự
xã hội.
Con người luôn luôn đòi hỏi và tìm đến
hưởng thụ, nhưng khi hưởng thụ, con người lại cảm thấy cuộc sống vô vị, không
có ý nghĩa gì cả.
Cho nên, các nhà đạo học đã dùng ý
nghĩa chữ « đức » để chống đối
trạng thái hưởng thụ ấy : « Đức là
gì ? Các cổ thư giảng rằng :
« Đức, đắc dã » (Đức là cái
điều mình được). Nhưng được cái gì. Chu-Mục đời Hậu-Hán cắt nghĩa :
« Đắc kỳ thiện tính vi chi đức » (được thiện tính gọi là đức). Cái
nghĩa dùng trong chữ « đức » của các nhà đạo học Đông-phương nên hiểu với
tính cách tuyệt đối lý tưởng hóa. Đời sống chẳng có cái gì gọi là « được » cả, bởi vì rồi
ra cũng dẫn đến cái chết. Tiền tài hay hết thảy mọi thứ làm thỏa mãn cho dục
vọng giác quan, khi đã tới gần sự chết thì cũng chỉ là không. Vậy thì ở đời thế nào
mới gọi là mình đã được ? Mạnh-tử nói : « Con người đến với thế giới, mở
mắt ra nhìn năm màu bảy sắc, mê loạn, cho nên trước cần phải biết ta được cái
gì, mà không được cái gì ? Nhiều kẻ cứ tưởng phải lấy bên ngoài mới gọi là
được, vì thế kẻ ấy không chịu cho bao giờ. Thiên hướng về dục vọng giác quan
nên ham lấy, càng ham lấy thì càng làm hẹp cái vòng sống của mình để rồi tiêu
tan vào sự chết. Chỉ có những người biết cho nhiều, mở rộng cái
vọng sống của mình vô tận thì mới mong bất diệt được ».
Quan niệm trên đây của đạo học trái
ngược với chủ trương hưởng thụ của nền văn minh khoa học, mà cho đến ngày nay,
phải chăng những mầm thất bại của cuộc sống trong ánh sáng khoa học lại do đó
mà nẩy sinh.
Thế hệ chúng ta hiện đang nghi ngờ, và
đang xét lại hai tính chất căn bản trên để đi tìm lẽ sống.
Nhưng dù sao, nếu nền văn minh đạo học
từ trước đã phô bày những nứt rạn trong ý thức phục vụ lẽ sống thì nền văn minh
khoa học ngày nay cũng lại biểu lộ những trạng thái bế tắc của tâm hồn.
Đây, chúng ta thử tìm hiểu một vài vết
tích hiện đang cày nát tâm tư con người trong ánh sáng khoa học. Cõi lòng của
họ đang thổn thức vì sự mất mát những hình ảnh tươi đẹp như ngày vàng của dĩ
vãng. Một cây đa, một mái đình còn biết có đứng yên chăng qua những cơn sốt vì
dục vọng con người :
Cây đa còn đứng đầu đình,
Bàn tay năm ngón anh đây,
Xin mời em nắm cho ngây ngất tình,
Cho nắng ấm, cho hoa xinh,
Cho vơi tủi hận, cho trinh trắng lòng.
Bao giờ suối bạc mây trong,
Bao giờ xóm nhỏ hết đong đưa sầu,
Bao giờ thoáng hiện bồ câu,
Bao giờ gãy cánh diều hâu đâu
người ?…
Rằng thương rằng quí mười mươi,
Thì sao tiếng khóc sụt sùi trống canh.
Rằng cho hoa ngát hương lành,
Thì sao cỏ cháy trơ cành thế
kia !…
Sao em nước mắt đầm đìa,
Cải vàng sao héo cho thia thia buồn.
Sao chim vỡ tổ xa nguồn,
Và sao tiếng gió nghe tuồng thở
than ?…
Đã chung huyết thống da vàng,
Xin đừng thêm chuyện tương tàn hôm nay.
Đã chung bọc trứng trăm đầy,
Xin đừng vẽ chuyện cho đây đó buồn.
Này em mắt thắm môi hường,
Quê mình thế đó đoạn trường không
em ?
Đừng vì chăn nệm ấm êm,
Mà quên « máu chảy ruột
mềm » đấy nhe !
« Gió đưa bụi chuối sau
hè »,
Ai khơi lửa hận cho me héo gầy.
Chiều chiều gió thổi hiên tây,
Chạnh nghe bên nớ, bên này đớn đau.
Đói lòng ăn bát canh rau,
Uống lưng bát nước cho nhau trọn tình.
Cây đa còn đứng đầu đình,
Việt-nam còn mãi chuyện tình đông
phương.
Thôi em chớ có lăng loàn,
Mà quên đi chuyện cải vàng năm xưa.
Quê mình ruộng lúa hai mùa,
Quả rau bốn bận kém thua tí nào !
Má em xin chín hồng đào,
Môi em xin ngọt cho cao cánh diều.
Thương nhau kể chuyện nhiễu điều,
Máu hồng một giọt hơn nhiều nước ao.
Đêm nằm ngửa mặt đếm sao,
Càng nhiều ông sáng, càng cao ngất
tình.
Cầu xin nhụy thắm, Hương-bình,
Sen lên chóp Ngự, chày kình điểm
khuya.
Chiều nay rồi lại chiều kia,
Ôm tròn cay đắng, biết chia ai chừ !…
Quê hương khói lửa mịt mù,
Bởi ai ? ai biết ? nhớ thu
lại buồn.
Hai mươi năm lẻ đoạn trường,
Hai mươi năm lẻ tang thương phủ đầy.
Tình quê gởi trọn chút này,
Mời Trung-Nam-Bắc về đây sưởi lòng.
(Thơ Hoàng-Thoại-Châu)
Và đây là tâm tư thầm kín nay được phơi
bày khi nhận định được mức tiến của khoa học rồi nhìn về tương lai của kiếp
người : « Lửa khói 20 »
- Thẫn thờ trong bệnh xá
Từng bước chân rã rời
Bạn bè xa vạn ngả
Tâm sự với ai đây ?
- Vết thương chân hành hạ
Ray rức suốt ngày đêm
Óc tim ai hành hạ
Hay máu chảy ruột mềm ?
- Cùng một trời Đông-Á
Người giết người gớm ghê !…
Cũng là dân Việt cả
Sao oán hận lê thê…
- Chiến tranh vẫn còn đó
Thân thể tôi còn đây
Mai còn đi chiến đấu
Khi vết thương lành rồi.
- Ôi ! con đường chinh chiến
Mịt mờ bóng vinh quang
Tôi đi tìm lý tưởng
Trên những cảnh điêu tàn.
- Trên những lời ta thán
Trong miệng đời kẽm gai
Những ngôn từ bom đạn
Chỉ tôi tìm tương lai…
- Qua lại hành lang trắng
Bắt đầu những thân người
Đui mù hay què quặt
Hốt nhiên tôi thét cười.
- Nụ cười đầy xương xẩu
Sặc sụa những máu tươi
Niềm đau này ai thấu
Ôi ! Lửa khói 20 !
(Trần-lãng-Lữ – trích Nhật báo Công-Luận
Số 719, 20-5-70)
Lại nữa : « Chuyện quanh một
người chết »
Qua cơn sốt, tao như người điên dại,
Khi cười ran, khi nức nở ngậm ngùi.
Chiến tranh dài đau thương còn đeo mãi,
Tuổi ngọc ngà, ngày tháng đã chôn vùi.
Sáng ngủ dậy tao được tin mày chết,
Vết đạn cày trên mái tóc còn xanh.
Gói thuốc mày cho hôm qua chưa hết,
Tao chợt cười, nghe mày ngủ quá nhanh.
Đứa con gái mày quen ngày nghỉ phép,
Đã lấy chồng đi lính tận Cao-nguyên.
Tao về báo tin, nàng cười sắt thép,
Rêu rao chuyện trò cuộc đời thật xinh.
Đứa em trai mày vẫn thường nhắc nhở,
Tàn phế hình hài !… Cuộc chiến
điêu linh.
Trên đường đến trường, trái mìn chợt
nổ,
Hắn đã khóc cười trong ánh nắng bình
minh.
Quê hương này bao giờ qua giông tố,
Hết kẻ đi thương kẻ ở nhà.
Ba mày đó vẫn đi bằng cẳng gỗ,
Mẹ mày được tin mắt vẫn mù lòa.
Cơn nhức nhối ẩn mình trong thể xác,
Bỗng bùng lên hành hạ xác thân gầy.
Cơn trốt xoáy, mày ngủ ngoài trận mạc,
Đằng đẳng ngàn năm chinh chiến còn
đây.
(Lê viết Ánh – trích Nhật báo Công-luận
Số 717, ngày 18-5-70)
« Có phải tiến bộ là ảo ảnh »
Xã hội không bao giờ tiến cả. Xã hội
lùi lại một mặt cũng mau như là xã hội tiến về mặt khác. Xã hội trải qua những
thay đổi liên tục : xã hội man rợ, xã hội văn minh, xã hội được biến cải
theo đạo Cơ-đốc, xã hội giàu có, xã hội có tính cách khoa học ; nhưng sự
thay đổi này không phải là sự cải tiến. Đối với vật được cho đi thì lại lấy lại
vật khác. Xã hội thâu thái được những nghệ thuật mới và mất đi tất cả những bản
năng cũ. Một sự tương phản biết mấy giữa một người Mỹ ăn mặc chỉnh tề, biết
đọc, biết viết, biết suy tư với một cái đồng hồ, một cái bút chì, và một hối
phiếu ở trong túi và một người Tân-tây-lan trần truồng mà tài sản là một cái
gậy ngắn, một cái lao, một cái chiếu và nguyên một phần hai mươi cái chuồng bò
để ngủ ở dưới ! Nhưng hãy so sánh sức khỏe của hai người đó và các bạn sẽ
thấy rằng người da trắng đã mất cái sức mạnh xưa kia. Nếu điều mà du khách nói
cho chúng ta nghe đúng, anh hãy đánh người mọi rợ bằng một rìu lớn và trong một
hay hai ngày thịt người đó sẽ liền lại và khỏi hẳn dường như anh đã đánh cú
đánh vào lớp hắc ín mềm và cũng cú đánh đó sẽ đưa người da trắng tới ngôi mộ
của anh ta.
Người văn minh đã chế tạo một cái xe
hơi, nhưng đã mất sự sử dụng cặp chân của mình. Anh ta được chống đỡ của cặp
nạng, nhưng thiếu quá nhiều sự chống đỡ của bắp thịt. Anh ta có một chiếc đồng
hồ đẹp chế tạo tại Geneva, nhưng anh ta thiếu hẳn cái tài nói giờ giấc theo mặt
trời. Anh ta có một cuốn lịch hàng hải ấn định ngày giờ theo đài thiên văn
Greenwich, và quá chắc chắn về tin tức khi anh ta muốn có, nên người công dân
kiểu mẫu không biết tới một ngôi sao trên bầu trời. (Ralph Woldo Emerson, an American
writer – G.s. Nguyễn
văn Ngải dịch)
« Đại sư Vivekananda (Ấn-độ) nói »
Ta hãy lấy thí dụ một người sống ở
trong rừng, y không biết trau giồi tâm tâm trí, không thể đọc một quyển sách,
chưa từng nghe nói đến « viết chữ » là gì. Nếu y có bị thương nặng
thì y sẽ lành mạnh trở lại qua một thời gian rất ngắn trong khi chúng ta chết
vì một vết trầy trụa. Máy móc đang làm cho vật giá rẻ, giúp cho sự tiến bộ và tiến hóa, nhưng hàng
triệu người bị nghiền nát hầu cho một người được làm giàu. Khi một người làm
giàu thì đồng thời cả ngàn người khác sẽ nghèo thêm và hàng khối người bị làm
nô lệ. Và cứ tiếp tục như thế đó.
Con người trình độ thấp kém sống bằng
giác quan. Nếu y không có đủ ăn thì y khốn khổ, hoặc nếu việc gì xảy ra đến cho
thể xác y thì y đau khổ. Cả hai sự khốn khổ và hạnh phúc của y đều khởi nguyên
và cáo chung trong giác quan. Khi con người đó vừa mới tiến bộ, khi hạnh phúc
của y vừa mới tăng lên thì chân trời vô phúc của y cũng tăng thêm theo tỷ l ệ.
Con người ở rừng không biết thế nào là ganh tị, thế nào là ra trước tòa án, trả
thuế vụ và bị xã hội khiển trách… (John Yale
soạn tập – Vương-gia-Hán
dịch)
« Sự thiếu sót của khoa học »
Rất có thể sự bành trướng nhanh chóng
của khoa học đã mở những chân trời mới cho trí tuệ chúng ta. Tuy nhiên, tất cả
đều cảm thấy và rất nhiều người thú nhận rằng thực tại chưa đạt đến mức kỳ vọng
của ta. Chỉ cần nhìn sơ qua thế giới, ta có thể thấy rằng một nỗi buồn vô tả
đang đè nặng tâm hồn và một trống rỗng vô biên xâm chiếm lòng người. Con người
đã biết khuất phục được vật chất, nhưng vật chất không cống hiến được cho họ
những gì nó không có, và khoa học nhân loại chưa giải đáp được những vấn đề
liên quan mật thiết đến quyền lợi thiêng liêng nhất của chúng ta ; lòng
khao khát chân lý, hạnh phúc và vô cực đang dày vò chúng ta chưa được thỏa mãn.
Những niềm vui, những bảo vật của thế gian, sự gia tăng những tiện lợi của đời
sống, đều không thể làm lắng dịu niềm lo âu tinh thần trong tâm khảm. (S.S. Plex – G.s.
Nguyễn-thanh-Trừng dịch)
« Khoa học và văn minh »
Nói cho đúng, văn minh không có hẳn
nghĩa là hạnh phúc, thật vậy, có khi thay vì hưởng lợi về việc tăng hiểu biết,
thường khi con người lại dùng sai những phương tiện mà một sự gắng công khoa
học lâu dài đã đem lại cho họ. Nếu các máy bay chỉ dùng để thả bom các thành
phố, thì máy bay là một sự khám phá tai hại. Nếu những tiến bộ của hóa học là
để sản xuất ra những khí độc có thể tiêu hủy một trung đoàn trong vài phút, thì
hóa học thật là một khoa học đáng phỉ nhổ.
Vậy thì, văn minh, theo nghĩa chính
đáng của tiếng đó, nghĩa là một số hạnh phúc lớn hơn cho kiếp sống con người
của chúng ta, không phải chỉ ở trong sự hiểu biết của sự vật và không phải cả
trong việc thực dụng sự vật. Còn phải có gì hơn thế. Ấy là, nếu người ta muốn,
và dù là người ta đã lạm dụng danh từ đó, một thứ nguyên tắc về đạo đức, ý niệm liên kết
và hòa đồng thân ái trong nhân loại, sự tôn trọng quyền của lẽ phải.
Như vậy lời nói của chúng tôi :
« Hạnh phúc của loài người tùy thuộc những tiến bộ trong sự hiểu biết
(trong khoa học) » thật là tuyệt đối đúng, với điều kiện là thêm vào đó
cầu sửa cần thiết, rằng hạnh phúc của loài người không phải chỉ tùy thuộc trong
những tiến bộ trong sự hiểu biết.
Không có sự hiểu biết sự vật thì không
có văn minh, không có cuộc sống sung sướng ; mà là cuộc sống dã man với
tất cả sự khốc liệt của nó sẽ lan tràn nẩy nở. Nhưng sự hiểu biết chưa đủ, mà
sự mở mang trí óc còn phải sử dụng để gây phúc chứ không phải để gây họa. (Charles Richet – G.s. Nguyễn văn Ngải, Trần việt Sơn dịch)
« Thế kỷ XX »
Có những thay đổi lớn lao trong cuộc
sống : khung cảnh và điều kiện của con người trong thể kỷ hiện tại. Cách
đây chưa đầy một trăm năm, nhiều việc mà ngày nay chúng ta làm trước đây được
coi là không thể thực hiện được, ví dụ : đi trên máy bay ; và nhiều
việc khác, như là nghe âm nhạc trên máy radio cách xa hàng ngàn dặm, chắc chắn
đã được coi như không thể thực hiện được, nếu mà người ta chưa tưởng tượng tới.
Những sự cải thiện về xe hơi, đặc biệt
là về đầu máy, đã làm cho xe buýt có thể chuyên chở hành khách nhanh chóng và
rẻ tiền, không phải từ nhà của họ tới nơi làm việc mà còn từ miền này ở trong
nước tới miền khác. Những đường xe lửa, bắt đầu có thể ở thế kỷ thứ 19, rất hữu
ích, nhưng giờ đây chúng quan trọng đối với các thành phố hơn là các làng mạc.
Chính xe buýt đã thực sự mang những người dân ở làng mạc và thành phố lại gần
nhau.
Khoa học đã tìm ra nhiều điều. Trong
số những khám phá quan trọng nhất đối với tất cả mọi người chúng ta là những
thứ thuốc mới mà các bác sĩ có thể dùng khi người ta ốm đau. Nhiều bệnh tình
trầm trọng, cách đây năm mươi năm người ta không sao khỏi được, giờ đây có thể
được chữa khỏi hoàn toàn dễ dàng. Kết quả là có nhiều người đàn
ông và đàn bà già cả hơn ở trong thế giới hiện nay. Tuy nhiên, rủi thay, sự
thật là có một vài căn bệnh vẫn chưa có thể chữa khỏi được.
Nhưng những đổi thay của thế kỷ này
không phải tất cả đều là những thay đổi tốt cả. Hai trân đại chiến đã mang lại
đói khổ, bệnh tật, đau buồn, và chết chóc cho hàng triệu người trên khắp thế
giới. Trừ phi loài người tìm cách sống với nhau trong cảnh thanh bình, nếu không
họ sẽ không bao giờ có thể tận hưởng tất cả hạnh phúc mà cuộc sống cống hiến
cho họ. (E.V Gatenby – G.s. Nguyễn văn Ngải
dịch)
« Không thể nào quên »
Một phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ
ngày trái bom Nguyên-tử đầu tiên phá tan một thành phố ở Nhật-bản :
Hiroshima, đem lại tang tóc đau thương cho hàng trăm ngàn gia đình và cũng gây
một nỗi kinh hoàng ghê gớm cho toàn thể các dân tộc trên thế giới. Cơn ác mộng của nhân
loại bắt đầu.
Từ đó đến nay 25 năm trôi qua, và mỗi
năm đến ngày 6 tháng 8, vào lúc 8 giờ sáng, nhân dân đô thị Hiroshima
(Quảng-đảo) lại ngừng hết hoạt động, giữ một phút im lặng, tưởng niệm đến những
mạng người vô tội thác oan trong một trận chiến tranh khốc liệt nhất lịch sử
nhân loại.
Cũng giờ phút đó, một buổi lễ long
trọng được cử hành ngay tại chỗ trái bom Nguyên-tử đã nổ năm xưa và ông
Thị-trưởng Hiroshima tuyên đọc diễn văn, nhắc lại thảm trạng như một thiên tai
giáng xuống thành phố này vào buổi sáng tốt trời của ngày 6-8-45. Hàng chục,
hàng trăm ngàn người dự lễ, cúi đầu tưởng niệm ôn lại phút hãi hùng.
Chỉ trong khoảnh khắc, ánh sáng chói
lòa như muôn triệu mặt trời rớt xuống, tiếng nổ kinh thiên động địa. Một thành
phố rộng lớn bằng nửa thành phố Saigon (Hiroshima năm 1945) đã trở thành hoang
địa, ghê gớm thay sức tàn phá của bom Nguyên-tử. Tài giỏi thay – nhưng cũng ác
độc thay – sự tiến bộ của văn minh Âu Mỹ.
Người Nhật-bản không quên. Các dân tộc
khác trên thế giới cũng không quên. Nhất là dân thành phố Hiroshima không thể nào
quên được. (Việt Lang Quân – Nhựt báo Đuốc Nhà Nam
số 483 ngày 6-8-70)
Khả năng nguyên tử, vệ tinh nhân tạo
đã phô bày mức tiến bộ nhảy vọt của khoa học, có thể vượt không gian, khám phá
bí mật của vũ trụ, nhưng tại sao lại không thể đi vào cõi lòng con người để tìm
hiểu tâm tư con người ?
Sự thành công và thất bại của đạo học
và khoa học chính là sự khác biệt về hai lãnh vực chinh phục giữa vật chất và
tinh thần.
Đạo học và khoa học đã đem đến thế
giới loài người ngày nay một thành công cũng như một thất bại, tạo thành hai
dòng lịch sử giữa hai nếp sống Đông-Tây.
5) Ý thức đạo học và khoa học trong giai cấp bình dân
Ở phần trên chúng ta đã lược dẫn qua
tính chất và lịch sử phát triển của hai nền văn minh khoa học và đạo học. Vậy
tính chất và lịch sử của hai nền
văn minh ấy ảnh hưởng vào ý thức người bình dân như thế nào ?
Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến người bình
dân Đông-phương, nói chung, và người bình dân Việt-nam, nói riêng.
Người bình dân Đông-phương, dù lớp
người ít học, sống trong lao khổ, bị kềm hãm dưới mọi chế độ chính trịnh, và ý
thức họ luôn luôn bị guồng máy sinh hoạt xã hội chi phối, tuy nhiên, họ vẫn là
người Đông-phương, mang trong người một vũ trụ quan khác biệt với ý thức triết
học Tây-phương, vì vậy căn bản của họ vẫn là căn bản của ý thức đạo học.
Một tiếng chim kêu, một dòng sống uốn
khúc, một mầm sống đâm chồi, đối với người nông phu tự thấy mình bị ràng buộc
tình cảm với cảnh vật. Sự ràng buộc ấy không phát nguồn ở dục vọng cá nhân, ở
lòng tham ích kỷ, ở tâm hồn hưởng thụ với tính chất lãng mạn, mà chính ở sự hòa
hợp lẽ sống với thiên nhiên. Tình thương đến với họ không vì quyền lợi cá nhân,
mà vì quyền sống của mọi sinh vật trong vũ trụ. Tình thương phát xuất trong
lĩnh vực đó chính là đạo lý. Vậy đạo lý là ý thức căn bản phát xuất trong tâm
hồn người bình dân Đông-phương như một khả năng cố hữu, chứ không phải vì ảnh
hưởng những triết thuyết đạo học Đông-phương mà người bình dân mới có ý thức
đạo học.
Quyển Dân tộc tính trong ca
dao xuất bản năm 1952, ông Hoa-Bằng đã đưa ra mười bài khảo luận về ý
thức của người bình dân Việt-nam qua các đề mục như : bác ái, hy sinh, tự
tín, đoàn kết, đấu tranh, v.v…
Tuy hướng suy luận của ông Hoa-Bằng
không đứng trên quan điểm đạo học và khoa học, mà chỉ đứng trên lập trường dân
tộc tính, nhưng với sự chứng minh của ông qua những câu ca dao tiêu biểu, đã phản
ánh rõ ràng tính chất người bình dân Việt-nam vẫn xây dựng trên ý thức đạo học. Chúng tôi xin trích
dẫn một vài đoạn sau đây :
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau
cùng.
Ở vào thời đại xa xưa, dân trí còn
thấp, tư tưởng còn hẹp, thế mà ca dao đã nảy ra những ý tứ đẹp đẽ như thế.
Ôi! Còn cái đẹp nào bằng cái đẹp
bác ái! Còn cái cao qúi nào bằng cái tình đồng bào yêu nhau.
Cao hơn thế nữa, vì lòng yêu nhau,
thương nhau, người ta còn muốn san bằng cái bờ kỳ thị, xóa bỏ phạm vi chủng
tộc, phủ nhận những tiếng « vô nghĩa » mà người ta dùng để phân biệt
màu da như : Thổ, Mán, Thái, Mường, Mèo, Kinh… :
Chị ngã, em nâng…
Hay : Tay
đứt, ruột xót.
Ý thức ấy hòa hợp, sống chung trong
đại gia đình đầy dẫy những khi yêu thương, đùm bọc. Ca dao lớn tiếng kêu
gào, cổ động :
Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn.
Đã thương yêu nhau rồi, đoàn kết với
nhau rồi, chung sống với nhau trong một đại gia đình rồi vẫn còn chưa đủ. Vì
một khi tư dục cám dỗ, quyền lợi xung đột, rất dễ bị cảnh nồi da xáo thịt, nên
ca dao lại lớn tiếng khuyên :
Khôn ngoan đá đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Phải, anh tài giỏi ư? Thì anh cứ
thi thố với người, thiên hạ. Chị khôn khéo ư? Thì chị hãy đối phó với
người ngoài. Còn chúng ta với nhau như gà một mẹ, cục cục, chíp chíp quây quần
với nhau dưới đôi cánh mẫu từ, ấp ủ, che chở, nỡ nào lại tương hại tương tàn,
để cho cắt vọ, diều hâu đứng ngoài kiếm lợi ?
Mà cái đạo yêu thương nhau chẳng qua
chỉ là ý thức từ bỏ lòng ích kỷ, tham lam đê hèn của cá tính mà thôi.
Cho nên, về dân tộc tính, người bình
dân Việt-nam lấy tình thương làm căn bản cho lẽ sống, và đã cảm thông với cái
khổ chung của đồng loại :
Dốc bồ thương kẻ ăn đong,
Vắng chồng thương kẻ nằm không một
mình.
Với bài luận về tinh thần bác
ái, ông Hoa-Bằng đã chứng minh qua ca dao người bình dân đã đặt nặng tính
chất đạo học trên lẽ sống của họ. Trong bài luận về yêu loài vật, ông Hoa-Bằng
viết :
Dân tộc Việt-nam giàu lòng bác ái,
nhưng tình thương ấy mông mênh bát ngát, chẳng những đối với loài người, mà cả
loài vật nữa.
Một chiều xuân êm dịu, bên gốc mấy cây
phượng rủ bóng bên đường, một ông già nhà quê, áo cánh nâu, quần lá mạ, ngồi
cạnh đống cỏ non mơn mởn, mới cắt, tay cầm một đầu thừng, tay túm nắm cỏ nhét
cho con trâu ăn dần, ngắm nghía con vật yêu quí nhai ngốn nắm cỏ xanh. Cử chỉ
ấy làm cho chúng ta nhớ lại những câu ca dao :
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.
Hoặc : Trâu
ơi, ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy, ai mà quản
công?
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Người nhà nông đặt trâu lên địa vị
bình đẳng. Nếu không chất chứa trong lòng một tình thương bao la, bát ngát thì
làm gì có ý thức đối xử với loài vật như vậy.
Một cô gái độ 12, 13 tuổi, chễnh chệ
trên lưng con bò mẹ dưới hoàng hôn. Đàng xa, cô thấy con bê con mà cô quen gọi
nó bừng tiếng nựng nịu là « Mế » đang mải miết ăn hết đám cỏ nọ lại
ngoạm đến chòm cỏ khác. Nó ham ăn, không chú ý theo đàn. Cô bé từ trên lưng mẹ
« Mế » cất tiếng thương yêu gọi « Mế » :
Mế ơi! Là con bò
« Mế »
Mế hương, Mế hoa
Mế cà, Mế rợ
Mế ở ba mùa
Ai mua chẳng bán
Ai hoạn chẳng cho
Cắt cỏ ăn no
Cày bừa cho đỡ mẹ Mế
Mế ơi là con bò Mế !
Giọng cô bé lanh lảnh, rung động cả
khung trời chiều. Người ta ngẫm nghĩ : « Đây là một bài đồng dao, nó
không phải riêng từ miệng cô bé hát ra, mà chung cho tất cả những đứa bé như cô
ấy. Tất nhiên, tình thương loài vật xem cuộc sống loài vật như cuộc sống loài người
đã chất chứa trong ý thức người dân Việt-nam trong nương dâu, đồng ruộng và
cũng chỉ có người Việt mới cảm thông được những tình thương bao la ấy ».
Trong những hẻo lánh ở mạn ngược,
chiều đến, từ trên sườn đồi đi về phía mấy chiếc nhà tranh lẻ tẻ, dưới rặng lau,
những cô bé mộc mạc thường ngất ngưởng trên lưng trâu, véo von hát :
Nghé ơi là nghé !
Nghé khôn theo mẹ.
Nghé dại theo đàn.
Nghé chớ ăn càn.
Người ta đánh nghé!…
Đó là mấy bài đồng dao, đầy ý nghĩa
yêu thương loài vật. Đó cũng là những nét biểu hiện lòng bác ái bao la, man mác
của tâm hồn người dân Việt-nam. (Hoa-Bằng)
Đem lòng bác ái để chứng minh dân tộc
tính, trên đấy ông Hoa-Bằng mới nhận xét ở khía cạnh đồng dao qua tinh thần
người nông phu đối với loài trâu, bò.
Để có một tầm mắt khái quát hơn, chúng
ta có thể đi vào cảm giới của người bình dân, nói chung tất cả mọi sinh vật
khác, kể cả những sinh vật không đem lại lợi ích cho cơm áo loài người.
Một con cò, một con ếch, một con cào
cào… đối với cuộc sống người bình dân cũng không phân định ranh giới :
Con cò mắc giò mà chết,
Con bìm bịp mua nếp làm chay,
Con cu đánh trống ba ngày,
Chóp mào đội mũ làm thầy đọc văn.
Bồ cào giã gạo nhà quê,
Quần áo rách nát phủ phê bồ cào !
Như vậy, tình thương của người bình
dân đối với mọi sinh vật không có giới hạn, và không phát xuất từ trạng thái
ích kỷ, riêng rẽ. Chúng tôi muốn nói đến ý thức đạo lý của người bình dân, và
tìm ở đây một yếu tố căn bản của nó trong sự khác biệt về chủ trương.
Nếu nói chung về nền đạo học Đông
phương thì với hệ thuyết nào, người Đông-phương vẫn chủ trương lấy tình thương
và lòng vị tha làm căn bản cho ý sống. Tuy nhiên, nếu phân tích riêng rẽ từng
hệ thuyết đạo học thì mỗi hệ thuyết lại chủ trương mỗi khác. Cho nên, cùng là
căn bản đạo học, ý thức người bình dân Việt-nam có nhiều chỗ không giống hẳn
với các hệ thuyết đạo học khác.
Trước hết, chúng ta thấy ý thức đạo lý
của người bình dân Việt-nam mở rộng ngoài giới hạn giữa con người và muôn vật.
Ý thức này trùng hợp với Lão-học và Phật-học nhưng khác với Khổng-học.
Nếu Khổng-học chủ trương một tình
thương trong trật tự xã hội, trong giai cấp loài người, thì người bình dân
Việt-nam quả đã vượt ra ngoài phạm vi ấy. Bởi lẽ người bình dân Việt-nam có một
vũ trụ quan khác biệt hơn, không xem trạng thái biến động của vũ trụ là trạng thái
riêng rẽ của từng lớp trong ý thức phân chia, mà là trạng thái chung cho cả vạn
hữu, trong đó có loài người. Vậy muôn vật và loài người cũng chỉ là một, và
tình thương con người cũng phải có trong tình thương của muôn vật.
Mặt khác, ý thức đạo lý của người bình
dân cũng khác với hệ thuyết của Lão-học và Phật-học ở chỗ người bình dân không
vì tình thương bao la mà chối bỏ trạng thái mâu thuẫn tất yếu của vũ trụ. Cho
nên, muốn thực hiện đạo lý (thực hiện tình thương) cần phải đấu tranh trong
cuộc sống loài người.
Ý thức đấu tranh của người bình dân
trong tinh thần đạo lý được ông Hoa-Bằng mô tả trong quyển Dân tộc tính
trong ca dao.
Trước hết là đấu tranh để tự lực, tự
cường. Ông Hoa-Bằng viết:
Phải làm đổ mồ hôi trán mới có cái ăn. Dân Việt-nam, từ xưa
vẫn thực hành được đúng như câu « kinh thánh » ấy. Bao giờ cũng hăng
hái làm việc, chỉ trông cậy nơi mình, chứ không hy vọng vào ai, ỷ lại vào sức
nào, dù phải trải qua hai sương một nắng, ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh, rồi
cũng đi đến thành công, hái được kết quả tốt đẹp : « Có công mài
sắt có ngày nên kim ». Với tấm thân cứng
cát, rắn rỏi, chịu gian lao khổ ai, dân ta thực đã chăm chỉ, siêng năng, sốt
sắng hoạt động, không hề khuất phục dưới bức bách, đe dọa của sương lạnh buốt,
rét căm căm, mưa phũ phàng, nắng nung nấu. Họ bảo :
Có khó mới có miếng ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Mặt khác, là tranh đấu để đoàn
kết : « Đoàn
kết thì sống, chia rẽ thì chết ». Những tiêu ngữ ấy ngày nay được nêu lên
gần như bài kinh nhật tụng. Từ lâu, trong giai cấp bình dân đã được ca dao kêu
gọi :
Muốn cho có đó cùng đây,
Sơn lâm há dễ một cây nên rừng.
Vậy cần phải đoàn kết :
Một hòn chẳng đắp nên non,
Ba hòn dụm lại nền cồn Thái-sơn.
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây dụm lại nên hòn núi cao.
… Xã hội như một con tàu, người trong
xã hội như các thủy thủ, ai nấy tùy theo sở năng làm hết phận sự để cho con tàu
tiến tới, đi đến bờ hạnh phúc, yên vui. Trong một cái nhà, từ nóc tới rui, mè, sà,
cột, phải nương dựa lẫn nhau, gánh vác lẫn nhau, mới thành cái nhà để chống mưa
nắng. Cho nên, tinh thần đoàn kết đã biểu lộ trong dân tộc :
Một cái nóc gánh trăm cái rui,
Trăm cái rui đè một cái nóc.
Tuy nhiên, không phải chỉ đem tình
thương mà có thể đoàn kết được. Muốn đoàn kết phải tranh đấu để giữ lấy tình
thương :
Ở cho phải phải phân phân,
Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.
(Hoa-Bằng)
Nhìn chung, ý thức đạo học của người
bình dân Việt-nam gồm vào hai tính chất « yêu thương » và
« tranh đấu ».
Hai tính chất ấy gồm vào một tuy có vẻ
mâu thuẫn, song rất tế nhị, hợp với vũ trụ quan của họ.
Nói về quan niệm vũ trụ thì vạn vật
đều tương quan trong tính chất mâu thuẫn. Cho nên, con người muốn cuộc sống hợp
với trạng thái thiên nhiên cần phải chấp nhận qui luật ấy. Nếu chỉ có tình
thương mà không tranh đấu để điều hòa mâu thuẫn thì đạo lý con người là đạo lý
tiêu cực. Còn nếu có tranh đấu mà không có tình thương thì con người trở thành
vật hy sinh cho bản năng dục vọng.
Chính sự phối hợp giữa tình thương và
sự tranh đấu, mà người bình dân có một ý thức đạo lý khác biệt, tồn tại mãi cho
đến ngày nay, trong lúc mọi hệ thuyết khác trong hai nền văn minh Đông-Tây đều
lần lượt đi đến cực đoan, và đổ vỡ.
Dung hợp tình thương và tranh đấu cũng
có nghĩa là điều hòa nguồn sống vật chất và tinh thần cho cân xứng với nhau.
Cho nên, nếu ở Đông-phương, các hệ
thuyết về đạo học chỉ nêu lên tình thương, chỉ nói đến tình thương, thì chính
ca dao bình dân lại đồng thời nêu lên tình thương và ý thức cải tiến vật chất
trên phương diện nghề nghiệp.
Chúng ta hãy lấy những ví dụ trong
công tác đồng áng. Họ thường
khuyên bảo nhau :
- Cày sâu, cuốc bẫm.
Cấy thưa hơn bừa kỹ.
- Nơi sâu em để cấy chiêm,
Nơi nào cao ráo thì em cấy mùa.
Chớ tham những ruộng hai mùa,
Chiêm se gió ngập ăn thua nỗi
gì?
- Ăn kẽ no lâu,
Cày sâu lúa tốt.
Những ca dao về cải tiến nghề nghiệp
đối với người bình dân Việt-nam dẫy đầy trong dân gian, phong phú không kém
những câu nói về tâm tình và đạo nghĩa. Như vậy, nếu chúng ta có thể xem ý thức cải tiến nghề nghiệp
để bồi dưỡng vật chất là bước đầu của ý thức khoa học, thì chúng ta phải nhìn
nhận rằng chính quan niệm về đạo lý của người bình dân mới là quan niệm chính
xác, phát nguồn từ giao cảm với vũ trụ, điều hòa được hai yếu tố vật chất và
tinh thần. Trong lúc đó, hai nền văn minh Đông-Tây, một đàng chỉ biết có vật
chất mà không biết có tinh thần, một đàng ngược lại chỉ biết có tinh thần mà
không biết có vật chất. Cả hai đều đi vào trạng thái cực đoan, đổ vỡ.
Nói như thế không phải chúng ta đứng
trên lập trường bảo thủ, gắn cho người bình dân một ý thức riêng biệt. Nếu nói
về tình cảm con người, thực chất của từng lớp người, thì có nhiều lúc chính con
người mình lại không hiểu mình bằng kẻ khác. Cho nên, mặc dù người bình dân tâm
tư họ hiện hữu như vậy, họ vẫn không thấy được tính chất căn bản của họ. Những
điều chúng ta chứng minh trên đây là một chứng cớ hùng hồn.
Chúng tôi nói ông A có tính lẩm cẩm.
Nhưng ông A chẳng bao giờ tự thấy mình lẩm cẩm, bởi lẽ ông không hiểu được con
người của ông khi đem so sánh với kẻ khác.
Người bình dân Việt-nam cũng thế, chỉ
có đem so sánh nguồn tâm tư họ đối với những lập trường tư tưởng của các hệ
thuyết Đông-Tây, chúng ta mới biện minh được những khác biệt của họ giữa hai
nền văn minh đạo học và khoa học.
Cũng chính vì sự khác biệt ấy mà thời
kỳ đụng chạm giữa hai nền văn minh Đông-Tây trên bán đảo Đông-dương, chúng ta
thấy trạng thái phản ứng đối với lớp người bình dân có một sắc thái không giống
như sự phản ứng của các từng lớp danh gia quí tộc trong xã hội Việt-nam.
Đây, chúng ta thử đi vào tính chất
diễn biến của lịch sử trong giai đoạn đương thời.
6) Ảnh hưởng của hai nền văn minh Đông Tây tác động vào đời sống
người bình dân Việt Nam
Chế độ thực dân Tây-phương đem đến cho
người Việt-nam vào thế kỷ thứ XIX một luồng gió mới: nền văn minh khoa
học Tây-phương. Vấn đề này chúng ta đã bàn đến trong phần : « Mâu
thuẫn giữa hai nền văn minh đạo học và khoa học » nên ở đây chúng
tôi không nhắc lại. Trong mục này chúng ta chỉ đề cập đến tính chất phản ứng
riêng rẽ của người bình dân đối với phong trào đổi mới ấy.
Nói về các phong trào phản ứng ghi
trong lịch sử văn học, chúng ta có thể chia làm hai loại, mang hai tính chất
khác nhau.
Một loại phản ứng vì tinh thần quốc
gia dân tộc, kích động lòng yêu nước, chống lại chế độ thực dân. Điển hình cho
loại này là phong trào cần vương, văn thân, duy tân…
Một loại phản ứng vì ý thức mâu thuẫn
giữa hai nền văn minh khoa học và đạo học, như phong trào cải cách của thế hệ
1932-1945.
Với hai loại phản ứng trên, chúng ta
thấy ở lớp sĩ phu, trí thức đều bị tác động rất mạnh mẽ. Nếu phong trào duy tân
cách mạng có những chí sĩ như Phan-bội-Châu, Phan-châu-Trinh, Huỳnh-thúc-Kháng
đứng ra cổ động phong trào thì cũng có những nhóm người cam tâm làm tôi tớ cho
chế độ thực dân, mưu đồ lợi riêng cho bản thân mình. Nếu phong trào cải cách
thế hệ 1932-1945 có những người chạy theo luồng ánh sáng văn minh khoa học, tìm
cách đập phá ý thức cổ truyền, thì cũng có những lớp người thủ cựu, cố gắng
chống lại chủ trương cải cách ấy. Tuy nhiên, các phong trào chỉ tác động mạnh
mẽ trong giới sĩ phu, trí thức, và lịch sử Việt-nam cũng chỉ ghi lại những dấu
vết tâm tư của các giai tầng ấy mà thôi.
Vậy thì đối với người bình dân
Việt-nam trước những phong trào canh tân – biến chuyển trên địa hạt văn hóa –
đời sống họ có bị tác động thế nào không ?
Thực ra, người bình dân vẫn chịu ảnh
hưởng chung trong mọi chế độ sinh hoạt, không thể nào tách rời khỏi những biến
cố về ý thức hệ. Sở dĩ lịch sử văn học không nói đến họ qua các phong trào canh
tân và sự biến động của tâm tư họ chỉ vì họ là giai tầng thấp kém trong xã hội,
bị các giới trí thức lảng quên, trong lúc họ vẫn sống, vẫn sinh hoạt, vẫn hứng
chịu tất cả những gì mà dân tộc phải mang lấy.
Trên đây chúng ta đã chia ra hai loại
phản ứng qua các phong trào duy tân, đối với hạng sĩ phu, trí thức. Còn đối với
người bình dân, ý thức biểu lộ rõ rệt nhất là sự phản ứng về chính trị.
Trong lãnh vực này, chúng ta có thể
chứng minh qua những bài ca dao tiêu biểu như :
Muốn gần tàu lặn, tàu bay,
Nên anh bỏ việc cấy cày mà đi.
Biết mà cu-lít, cu-li,
Thà rằng ở vậy nhà quê với nàng.
Nhà quê có họ có hàng,
Có làng có xóm, nhỡ nhàng có nhau.
Hay : Đồn vui thăm
thú thị thành,
Kiếm ăn cũng khó, công danh ra gì.
Ra mà lãnh chức cu-li,
Thà về quê cũ giữ nghề canh nông.
Hoặc : Mảng vui cơm
tấm ổ rơm,
Tuy rằng cũ kỹ mà thơm sạch lòng.
Hơn ai gạo tấm lầu hồng,
Đem thân luồn cúi vào vòng lợi danh.
Những câu cao dao trên đây phát hiện
trong thời kỳ người Pháp đặt ách đô hộ trên dân tộc Việt-nam, và cũng là thời
kỳ nền văn minh khoa học Tây-phương tràn sang cõi Á-đông. Nếu thời kỳ đó, các
sĩ phu có tinh thần ái quốc, hô hào canh tân, sửa đổi ý thức đạo học để tiến
kịp trào lưu cơ giới hóa guồng máy sinh hoạt xã hội, biến dân tộc trở thành khả
năng tự lực tự cường, thì chính người bình dân trong thời đó cũng đã có ý thức
chống đối nền móng đô hộ của thực dân Pháp.
Khuyên nhau trở về đồng ruộng, không
chịu đi làm cu-li chỉ là tinh thần bất mãn với ách đô hộ ngoại bang, chứ không
phải ý thức chống đối tính chất phát triển của nền văn minh khoa học. Cũng như
phong trào duy tân cách mạng hô hào đổi mới sinh hoạt không phải là đả phá đạo
học, mà đó chỉ là phong trào yêu nước.
Tuy nhiên, nói như thế cũng không có
nghĩa là người bình dân Việt-nam chấp nhận hoàn toàn ánh sáng văn minh khoa
học. Ở các mục khảo sát trước đây, chúng ta đã thấy quan niệm nhân sinh của
người bình dân Việt-nam căn bản vẫn phát xuất từ nền đạo học Đông-phương, cho
nên, dù hoàn cảnh sinh hoạt bắt buộc họ phải lưu ý và phát triển khả năng vật
chất, họ cũng không thể từ bỏ nguồn sống tinh thần mà thế giới đạo học gọi là
đạo lý.
Phát triển khả năng vật chất trong ý
thức phụng sự tinh thần, người bình dân không tự đưa mình đến trạng thái cực
đoan như các hệ thuyết khác. Bởi vậy, khi phong trào cải cách xã hội ở thế hệ
1932-1945 giữa hai lớp người mệnh danh là cũ, mới chống đối nhau, thì người
bình dân vẫn sống thản nhiên trong tinh thần hòa hợp của họ.
Sở dĩ họ thản nhiên là vì họ không bị
cực đoan như các tầng lớp trí thức đương thời.
Một cô gái phòng khuê, cái đức hạnh
được nền đạo học quí trọng nhất là trinh tiết. Và trinh tiết của nền đạo học
lúc đi đến cực đoan thì :
- Nam nữ thụ thụ bất thân.
- Khuê môn bất xuất.
Thế mà bỗng nhiên nền văn minh khoa
học lại cho phép cô gái phòng khuê ấy thoát ra khỏi bức màn, đường hoàng đối
diện với bạn trai, nói những câu tâm tình tri kỷ, thì làm sao những kẻ có tinh
thần cực đoan về đạo học không phản ứng?
Còn đối với người bình dân, tuy họ vẫn
quý trọng tiết hạnh người đàn bà, song với quan niệm tiết hạnh của họ không quá
cực đoan. Trên mặt đê, bên dòng suối, dưới đêm trăng, trong mọi hoàn cảnh sinh
hoạt, trai gái vẫn được gần nhau, trao đổi nhau bằng câu hát tâm tình. Như vậy,
dù ánh sáng văn minh khoa học có đưa đến một phong trào lãng mạn, trai gái đua
nhau khai thác tình cảm để hưởng thụ dục vọng tình yêu đương thì chính ý thức
phản ứng của người bình dân cũng không mạnh mẽ bằng giai tầng danh gia quí tộc,
bị ý thức cực đoan của đạo học đổ vỡ một cách đột ngột.
Đến như lối ăn mặc, người con gái sống
trong phong lưu đài các không bao giờ được phép hở hang, đến nỗi ra đường phải
dùng tấm màn the che mặt, sợ người khác trông thấy. Thế mà nền văn minh khoa
học lại tán thưởng những tấm thân bóc trần để cho mọi người chiêm ngưỡng làn da
thớ thịt, những đường nét nở nang, hấp dẫn mọi cảm giác vật chất của dục vọng
ngông cuồng. Như vậy, làm sao những lớp người sống trong ý thức cực đoan về đạo
học có thể tiếp nhận hay dung thứ được.
Người bình dân trái lại, mặc dù với
căn bản đạo học, hoàn cảnh khổ cực của họ đã buộc họ không được phép cực đoan,
nghĩa là tuy họ không cố ý phô diễn làn da, sớ thịt để lôi cuốn những tâm hồn
trụy lạc, song thường ngày những tấm áo rách không đủ che thân, những thì giờ
rảnh rỗi không đủ để cho họ dùng trong việc chỉnh đốn dung y, đã làm cho họ trở
thành thói quên, không xem việc hở hang, trống trải là hành động thiếu đức hạnh
của người đàn bà. Do đó, dù nền văn minh khoa học Tây-phương có đem đến những
phong trào mặc áo hở tay, trống ngực, bó đùi, cũng không làm cho họ phải phản
ứng mạnh mẽ như lớp người trong giai tầng phong lưu đài các, ăn không ngồi rồi,
ép mình theo khuôn khổ cực đoan của nền văn minh đạo học.
Trên đây chúng ta chỉ đem một vài ví
dụ để chứng minh ảnh hưởng của hai nền văn minh Đông-Tây tác động vào đời sống
người bình dân mà thôi.
Căn cứ vào tính chất như vậy, chúng ta
có thể xác định rằng bất kỳ nền văn minh đạo học hay khoa học, người bình dân
vẫn với ý thức chống đối. Sự chống đối của họ là sự chống đối vì tính chất cực
đoan của nó, mà chủ trương của người bình dân xem lẽ sống con người về tinh
thần cũng như vật chất không thể cực đoan mà tồn tại được.
Để chứng minh trạng thái dung hợp
trong tâm hồn họ trên căn bản của hai nền văn minh, chúng ta có thể đem sự đụng
chạm của hai nền học thuật Đông-Tây làm tiêu biểu.
Nền học thuật Đông-phương, khi chủ
trương về đạo học, đã đưa đạo học lên cao vút, mọi tiềm năng phát triển về văn
hóa chỉ nhằm phụng sự tinh thần, bởi vậy các sách vở của đạo học hoàn toàn
không nói đến yếu tố kiến tạo xã hội vật chất. Họ chỉ nói làm thế nào để trở
thành một người quân tử, mà không bao giờ nới đến làm thế nào để cho đất đai
được nhiều chất mầu, làm thế nào để cho cây cối được mùa, nhân dân được sung
túc.
Nền học thuật Tây-phương ngược lại,
khi chủ trương về khoa học cũng chỉ biết có làm thế nào để phát triển guồng máy
sản xuất cung cấp cho nhu cầu vật chất con người, mà không hề nói đến lẽ sống
trong tình thương.
Cả hai đều là cực đoan. Trong lúc đó,
người bình dân vẫn chủ trương sống trong nhân đạo, đồng thời lại nói đến phương
pháp cải tiến nghề nghiệp, cốt đem hiệu năng vật chất bồi dưỡng cho cuộc sống
tinh thần. So với hai nền học thuật Đông-Tây thì người bình dân tuy phải dùng
ca dao làm nền học thuật phổ biến trong dân gian, không có trường học, không có
chính sách giáo dục… song những gì di lưu qua ca dao chúng ta cũng có thể xác
định lập trường dung hợp của họ về hai phương diện trên.
Khi đã ý thức như vậy, chúng ta sẽ
không lấy làm lạ, tại sao người bình dân vừa tôn sùng đạo học vừa chống đối đạo
học. Ví dụ đối với
người đàn bà họ vẫn đề cao danh tiết, như :
Cái nết đánh chết cái đẹp.
Hoặc : Có con phải
khổ vì con,
Có chồng phải gánh giang sơn nhà
chồng.
Rõ ràng họ xây dựng nguồn hạnh phúc
trên đạo nghĩa. Nhưng rồi có lúc họ phản đối :
Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son thếp
vàng.
Với tâm trạng trên, chúng ta thấy rõ
không phải họ đả phá đạo học, mà họ phản đối tính chất cực đoan của nền đạo học
đã tách rời cuộc sống tinh thần ra ngoài sinh hoạt vật chất, khiến cuộc sống xã
hội loài người bị chênh lệch.
Cũng như người bình dân không phản đối
khoa học, họ chỉ đả phá tính chất cực đoan của nền văn minh ấy đã đưa con người
đến trạng thái chỉ biết có vật chất mà không biết có tinh thần, chỉ biết có
tranh đoạt hưởng thụ mà không biết có tình thương, đạo nghĩa :
Đời bây giờ con gái mười ba,
Tối nằm với mẹ khóc la đòi chồng.
Mẹ giận mẹ đánh ngang hông,
Đồ con chết chủ, đòi chồng thâu đêm.
Họ không chủ trương bắt người con gái
phải ở góa, không được đòi chồng, nhưng họ châm biếm tính chất dục vọng cá nhân
đã đưa người con gái vượt khỏi nguồn gốc của đạo lý.
Những phong trào làm đĩ, lấy Tây trong
thời Pháp thuộc, dưới mắt người bình dân đều được xem như hư đốn.
Bởi vậy, khi nhận xét về ý thức người
bình dân trên lãnh vực văn minh đạo học và khoa học, chúng ta hẳn thấy người
bình dân có một thái độ khác biệt. Thái độ ấy là tinh thần dung hợp hai luồng
văn minh, và chống lại mọi cực đoan trong mỗi ý thức hệ.
Nói như thế không phải chúng ta đem
một lập trường tư tưởng áp đặt lên lớp người bình dân mà chính họ cũng chẳng
bao giờ quan niệm như vậy. Không, chúng ta không bắt buộc người bình dân phải
hiểu và phân tách ý nghĩa những gì họ đang làm và đang sống. Ngay trong giới
trí thức chưa hẳn họ đã hiểu và cắt nghĩa nổi những ý thức họ đang theo đuổi
trong nếp sống hàng ngày của họ, thì đối với người bình dân chúng ta bảo họ
phải nói lên ý nghĩa những gì họ đang làm và suy tư thì e có phần quá đáng.
Không, chúng ta phải tìm hiểu họ mà
không đòi hỏi họ phải cắt nghĩa cho chúng ta qua dòng lịch sử sinh hoạt của họ.
Người bình dân không có một hệ thống
triết học, nhưng họ vẫn có một lập trường suy tư. Lập trường suy tư của họ phát
xuất từ trạng thái sinh hoạt xã hội.
Họ tôn sùng đạo học chỉ vì hoàn cảnh
khổ cực, áp bức, đau xót trong sinh hoạt thường ngày của họ.
Họ không bất mãn với ý thức khoa học,
chỉ vì khoa học gần gũi với khả năng kiến tạo vật chất, mà họ là kẻ đang cần
thiết.
Nhưng khi hai nền văn minh đạo học và
khoa học mâu thuẫn nhau thì họ là kẻ dung hòa, chống lại mọi cực đoan của mỗi
nền văn minh đã đưa ý thức loài người đến chỗ đổ vỡ.
Ở đây, nhân đề cập hai nền văn minh
Đạo-học và Khoa-học, chúng tôi tưởng cũng nên phân tích tại sao văn minh đạo
học lại xem nhẹ người đàn bà, bắt người đàn bà ghép vào một khuôn khổ khắc
nghiệt, gây thành bất công trong xã hội loài người. Ngược lại, nền văn minh
khoa học lại xem trọng người đàn bà, an vị người đàn bà như một thần tượng
trong lẽ sống ?
Sự trái ngược ấy hẳn có một nguồn gốc
sâu xa. Nếu chúng ta đã thừa nhận tính chất căn bản của đạo học là dùng lý tính
toả chiết dục vọng bản năng, mà người đàn bà là tượng trưng cho hình bóng của
dục vọng, thì sự khinh rẻ người đàn bà, đối với đạo học, cũng có nghĩa là khinh
rẻ những hình bóng ấy. Đặt người đàn bà vào địa vị không quan trọng trong lẽ
sống, đối với đạo học, có nghĩa là thế giới đạo học không để cho hình bóng nhục
dục làm chủ tâm hồn con người.
Tuy nhiên, khi phải chiến đấu với bản
năng, áp đảo những hình bóng tượng trưng cho dục vọng, thế giới đạo học đã phạm
phải một lỗi lầm lớn lao về nhân cách, tạo thành những chế độ bất công giữa con
người và con người.
Còn thế giới văn minh khoa học, tính
chất căn bản là khai thác vật chất để hưởng thụ, cho nên hình bóng đàn bà trở
thành mục tiêu của lẽ sống. Người đàn bà được đề cao, trở thành thần tượng của
dục tính, và được ngụy trang dưới hình thức nghệ thuật. Nhưng thực ra vì khai
thác nghệ thuật dục tính, cái mà họ cho là quý giá của người đàn bà lại biến
thành sự vật dùng kích động bản năng.
Một nhà phê bình về đạo học và khoa
học đã có lần nói với chúng tôi : « Văn minh Đạo-học phát triển
bao nhiêu thì hình bóng đàn bà càng lu mờ bấy nhiêu. Ngược lại, văn minh
Khoa-học càng phát triển bao nhiêu thì hình bóng đàn bà càng rõ rệt bấy nhiêu ».
Thật vậy, hiện tượng ấy ngày nay chúng
ta đã trông thấy phần nào. Nền văn minh khoa học đi đến đâu thì trên sách báo
hình bóng đàn bà chiếm gần như trọn vẹn.
Tóm lại, với ý thức toả chiết bản năng
của đạo học, khinh rẻ người đàn bà, gây nên chế độ bất công về nhân cách, đó là
ý thức cực đoan. Mặt khác, với chủ trương khai thác dục tính, làm cho hình bóng
người đàn bà trở thành công cụ của dục tính, ý thức của nền văn minh khoa học
vẫn là ý thức cực đoan. Một đàng cực đoan về tinh thần, một đàng cực đoan về
vật chất. Dĩ nhiên đối với người bình dân Việt-nam, mọi cực đoan đều không được
chấp nhận.
7) Kết luận
Trong mục này, sở dĩ chúng tôi nêu vấn
đề « ý thức đạo học và khoa học của người bình dân » vì xét thấy lịch
sử văn minh xã hội loài người là lịch sử tranh đấu về ý thức hệ giữa hai luồng
ánh sáng của văn minh tinh thần và văn minh vật chất. Lịch sử tranh đấu ấy ảnh
hưởng sâu xa vào mọi tầng lớp người trên thế giới, và chi phối tất cả cuộc sống
loài người.
Chiến tranh hay hòa bình cũng chỉ là
trạng thái diễn biến của lịch sử tranh đấu về đạo học và khoa học. Những hệ
thống về ý thức hệ mỗi ngày một đổ vỡ, hay đổi mới, cũng chỉ vì trạng thái diễn
biến của lịch sử đạo học và khoa học…
Và tất cả! Chúng tôi muốn nói
hầu hết những vết tích tâm tư chúng ta hiện nay đều là sản phẩm của dòng lịch
sử ấy.
IV. TINH THẦN TÍN NGƯỠNG CỦA
NGƯỜI BÌNH DÂN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TÔN GIÁO
Tinh thần tín ngưỡng do quan niệm vũ
trụ mà có. Cho nên, không một dân tộc nào, dù lạc hậu hay văn minh, mà không có
tinh thần tín ngưỡng.
Tinh thần tính ngưỡng ấy phát xuất ở
suy tư. Con người sống giữa thiên nhiên, khi chưa tìm ra được nguồn gốc đích
thực của cơ năng vũ trụ, thì lấy căn bản suy tư làm chủ đích, lấy sự tin tưởng
của khối óc làm đường hướng cho ý thức sinh tồn.
Mối lo lắng quan trọng nhất của con
người là sự sống và sự chết. Nếu đạo học và khoa học mới chỉ lo cho cái sống,
thì tinh thần tín ngưỡng chính là mối lo cho cái chết. Sống chết, mất còn là
hiện hữu trong đời người, dù muốn dù không, con người vẫn phải ưu tư.
Tinh thần tín ngưỡng xuất phát ở những
ưu tư về mất mát. Bởi vì ai cũng muốn mình tồn tại. Dù phải tuân theo định luật
thiên nhiên, lấy thời gian trăm năm làm chuẩn đích cho một kiếp người, và cũng
không ai muốn rằng sau cái thời gian trăm năm ấy, cá nhân mình bị hoàn toàn hủy
diệt ở một con cõi hư vô nào. Đó cũng là do bản năng tự tồn của mỗi cá thể. Con
người, một sinh vật biết suy tư, khi đặt mình trước những lo âu như vậy, tất
nhiên không thể không có phản ứng. Phản ứng đầu tiên của con người là đi tìm
cái còn trong cái mất, tức là cố gắng duy trì sự hiện hữu của mình trong qui
luật tan biến của thiên nhiên.
Một Tần Thủy-hoàng kinh hãi trước sự
hủy diệt của cá thể mà ra lệnh tìm cho được thuốc trường sinh bất tử. Một
Quỉ-cốc tiên sư vào núi tu hành để luyện linh đơn cải lão hoàn đồng. Những câu
chuyện tu tiên, luyện phép không phải là tâm tư phản ứng của con người trước
qui luật đào thải của hạn hữu ư?
Sống, con người lo cái sống đã đành,
mà còn lo cho cái chết nữa. Lo cho cái sống, con người có thể đạt được kết quả
hiện hữu, nhưng khi lo cho cái chết, con người cảm thấy mơ hồ. Bởi vì không ai
có thể chứng minh bằng thực tế giữa cái sống và cái chết, giữa cái còn và cái
mất, giữa cái không và cái có… Muốn chứng minh người ta chỉ còn cách dùng suy
tư, cấu tạo trên căn bản « niềm tin ». Do đó, khi bàn đến cõi chết,
người ta dành riêng cho mỗi người một « niềm tin » tức là phạm
vi tín ngưỡng.
Như vậy, tính ngưỡng cũng quan trọng
không kém hai hệ thống đạo học và khoa học. Nếu vì lo cho lẽ sống, nền đạo học
và khoa học của thế giới loài người đã chi phối cả guồng máy sinh hoạt xã hội,
tạo thành những phong tục, tập quán, cấu kết một nền văn minh trong thế giới
sử, thì với ý thức lo lắng cho cái chết, tinh thần tín ngưỡng của con người cũng
chi phối vào cuộc sống thực tiễn tạo thành những phong tục, tập quán và ảnh
hưởng vào hai hệ thống văn minh trên thế giới loài người không phải nhỏ.
Con người bắt đầu ý thức được cái sống
thì cũng bắt đầu ý thức được cái chết. Cho nên lịch sử tín ngưỡng của nhân loại
song hành với lịch sử cải tiến nhân sinh.
Những chuyện thần thoại, hoang đường,
những ý thức siêu hình mà nền văn học thế giới lưu truyền lại cho đến ngày nay
đều phát xuất từ căn bản tín ngưỡng cả.
Vậy lịch sử tín ngưỡng là lịch sử của
ý thức con người đi tìm cái sống trong cái chết, cái còn trong cái mất. Nó là
trạng thái phản ứng của diệt vong.
Tính chất căn bản của tính ngưỡng như
vậy, nên ý thức tín ngưỡng không cố định, mà thay đổi theo suy tư, từ niềm tin
của khối óc qua từng thế hệ. Niềm tin con người sẽ mất đi, hoặc biến đổi dần
theo một chiều hướng khác là do suy tư con người mỗi lúc một đổi mới, khối óc
con người không cho phép một niềm tin nào tồn tại khi lẽ sống con người đã tìm
thấy niềm tin ấy không còn hợp với cơ năng vũ trụ nữa.
Một ông bình vôi bỏ dưới gốc đa, một
chiếc đầu ông táo bể được đặt trên chiếc gò mối, đối với người dân Việt-nam
thuở xưa đâu phải là chuyện không có ý nghĩa. Nó phát xuất từ niềm tin, từ ý
thức tín ngưỡng của dân tộc. Tuy nhiên, thời gian làm đổi thay hệ thống suy tư
của khối óc thì tinh thần tín ngưỡng cũng không giữ một trạng thái cố định
được. Những phát minh khoa học hàng ngày, lấy thực nghiệm chứng minh cơ năng vũ
trụ, làm cho từng niềm tin con người mỗi lúc một lạc lõng và phai dần cho đến
lúc niềm tin ấy thay đổi hoàn toàn theo một chiều hướng khác. Khi một niềm tin
thay đổi, khi một chiều hướng tín ngưỡng của đa số bị loại bỏ, nếu còn kẻ nào
theo đuổi thì xã hội sẽ cho là mê tín, dị đoan. Ý nghĩa mê tín, dị đoan là
những niềm tin sai lạc, những chiều hướng tín ngưỡng không còn hợp với những
suy tư mới trong trào lưu tiến hóa của nhân loại mà phần đông đã công nhận là
sai lạc với trạng thái thiên nhiên.
Tuy vậy, tín ngưỡng không chỉ có loại
bỏ mà không có phát triển. Niềm tin con người luôn luôn đi tìm những trạng thái
mới trong lúc những trạng thái cũ bị lỗi thời. Do đó, tín ngưỡng chẳng bao giờ
bị tiêu diệt, khi con người còn đòi hỏi, còn băn khoăn đi tìm sự sống trong sự
chết để cố giữ lấy một bản năng vĩnh cửu trong mọi hủy diệt của thiên nhiên. Đi
tìm hiện hữu trong cái không hiện hữu để tự tồn chính là một hấp lực lôi cuốn
con người đi mãi trên con đường tín ngưỡng chẳng bao giờ dừng bước, cũng như
trên con đường đạo học và khoa học từ xưa đến nay chúng ta vẫn đi mãi không
dừng lại ở một thời điểm nào chỉ vì chúng ta chưa tìm thấy chân lý, chưa đạt
được thỏa mãn trong cái sống.
Tín ngưỡng đối với đạo học và khoa học
khác nhau (một đàng lo cho cái sống, một đàng lo cho cái chết), tuy nhiên, vì
lo cho cái chết trong lúc đang sống, nên sự lo lắng ấy lại ảnh hưởng vào lẽ
sống con người tạo thành dòng lịch sử nhân loại.
Trên đây, chúng ta đã xác định tín
ngưỡng là nguồn gốc của suy tư, đem niềm tin đi tìm sự tồn tại trong qui luật
huỷ diệt của thiên nhiên, mà niềm tin con người có rất nhiều mặt, ảnh hưởng vào
thời gian, không gian cho nên niềm tin con người không thể duy nhất được. Tính
chất không duy nhất của mọi niềm tin đã đưa nhân loại đến những hệ thuyết về
tôn giáo, và tôn giáo chính là lịch sử phát triển tinh thần tín ngưỡng của loài
người.
Ở đây chúng tôi không bàn đến một
triết thuyết của tôn giáo, cũng không có ý phê bình, chỉ trích một tôn giáo
nào. Trong phạm vi một quiển sách khảo cứu về văn học dân tộc, chúng tôi chỉ
nêu hai tiêu đề :
- Tinh thần tín ngưỡng của người bình dân trong quá trình
phát triển tôn giáo.
- Đạo thờ ông bà.
Chúng ta đã xác định tôn giáo là hiện
thân của tín ngưỡng, mà tín ngưỡng là niềm lo âu cho cái chết, đi tìm sự tồn
tại trong qui luật hủy thể của vạn hữu. Vậy tôn giáo mang tính chất căn bản là
lo cho sự chết chứ không phải lo cho sự sống của loài người như tính chất đạo
học và khoa học. Bởi vậy, không một tôn giáo nào không mang tính chất siêu
hình. Chỉ có địa hạt siêu hình, con người mới có thể gởi vào đó một niềm tin,
và tìm ở đó một nguồn an ủi trước trạng thái phũ phàng trong luật huỷ thể của
vũ trụ. Nói như thế cũng có nghĩa là chúng ta đã phân định vị trí của tôn giáo
trong đời sống loài người. Tôn giáo khác với đạo học và khoa học, tôn giáo là
một ý thức hệ song hành với đạo học và khoa học, chiếm một địa vị quan trọng
trong đời sống để giải quiết toàn vẹn mọi thắc mắc và suy tư của con người từ
cõi sống đến cõi chết, làm thỏa mãn ý thức tự tồn của con người trước thiên
nhiên.
Mang sứ mệnh như vậy, tôn giáo tuy
phát xuất ở niềm tin, nhưng lại là nhu cầu cần thiết cho loài người. Không một
dân tộc nào không cảm nhận tinh thần mình thiếu thốn khi chưa tìm thấy một con
đường giải thoát dành cho cuộc sống của mình. Niềm tin ấy đi từ những hình thức
tín ngưỡng thô sơ, lần lần kết thành những hệ thuyết về tôn giáo.
Một làng người da đỏ kia đem thây
người chết ném xuống vực sâu. Một nhóm người Thượng kia chất lửa thiêu xác
người quá cố… Đó chỉ là tín ngưỡng, niềm tin của họ phát xuất từ ý thức đi tìm
sự tồn tại trong hủy diệt. Cho đến một nhà sư, một đạo sĩ, một tín đồ xả thân
hành đạo, hy sinh mọi hưởng thụ vật chất trong đời sống, thì đó cũng chỉ là đi
tìm sự tồn tại trong hủy diệt mà thôi. Khi đã là niềm tin thì không căn cứ vào
lẽ phải. Bởi vì lẽ phải chỉ có trong niềm tin, mà không có gì để chứng minh
ngoài ý tưởng. Cho nên, trong lĩnh vực tín ngưỡng không ai đem niềm tin mình
chê trách niềm tin của kẻ khác cũng không ai bắt buộc niềm tin kẻ khác phải là
niềm tin của mình. Chính vì vậy, tín ngưỡng phát sinh tôn giáo. Mỗi tôn giáo là
hiện thân của mỗi hệ phái về tín ngưỡng. Nhưng khi nói đến tôn giáo tức là nói
đến một hệ thống về ý thức tín ngưỡng đã trưởng thành trong lĩnh vực suy tư,
không còn ở trong trạng thái
thô sơ của thuở ban đầu nữa. Khi đã thành tôn giáo tất phải có tổ chức để củng
cố và phát triển niềm tin. Mỗi tôn giáo phải có vị giáo chủ, phải có phương
pháp để thực hiện niềm tin ấy trong cuộc sống hiện hữu. Để củng cố và phát
triển niềm tin, mỗi tôn giáo đều xây dựng theo quan niệm mình một hệ thuyết làm
nền tảng. Do đó, lịch sử tôn giáo có một quá trình phát triển đối diện với dòng
lịch sử sinh hoạt xã hội trong thế giới văn minh ngày nay.
Mặc dù tôn giáo, mục đích chỉ lo cho
sự chết, tìm cái trường tồn trong hủy diệt, song tôn giáo nào muốn bước vào
lãnh vực siêu hình đều cũng bắt đầu bằng lãnh vực hữu hình, nghĩa là muốn đạt
được sự trường tồn trong cái chết phải chuẩn bị ngay từ cái sống, vì thế tôn
giáo ảnh hưởng vào đời sống con người khắp mọi mặt.
Chúng ta thử lược dẫn qua từng địa
hạt.
1) Tôn giáo ảnh hưởng vào sinh hoạt xã hội
Nói đến sinh hoạt xã hội là nói đến ý
thức tranh đấu tự tồn. Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh điều đó. Những
cuộc chém giết triền miên, cướp đoạt, xâu xé nhau vì mưu sinh gieo vào cuộc
sống loài người những thảm cảnh mà chính hai nền văn minh khoa học và đạo học
cũng không sao giải quyết nổi. Khi cuộc sống đã chất chứa đau khổ, phũ phàng,
thì tín ngưỡng – vùng đất hồi sinh của mọi niềm tin – lại trở thành nguồn an ủi
trong cuộc sống.
Cho nên, tôn giáo đi vào cuộc đời,
chúng ta có thể ví như những chiếc xe cứu thương tháp tùng một đoàn đua xe đạp
để cứu vớt các tay đua bất hạnh bị rơi rụng trong hành động tranh đoạt, mưu
loại đối phương ra ngoài vòng chiến.
Cuộc đời đến với con người cũng khởi
hành từ lằn mức ấy. Ai cũng muốn vươn lên, cố gắng vượt hẳn đối thủ. Tuy nhiên,
trên trường tranh đấu sao cho khỏi có kẻ thắng người bại. Kẻ thắng thì tiếp đón
vinh quang. Người bại thì ảo não, chán chường ; chính lúc này những kẻ bất
hạnh mới thấy chiếc xe cứu thương là cần thiết.
Tôn giáo đến với xã hội loài người
cũng thế ! Còn gì hơn khi kẻ thất bại ở đấu trường tìm được nguồn an ủi
cho tâm hồn đang tuyệt vọng. Nguồn an ủi ấy là « niềm tin ».
Một viên tướng thất trận, bị địch quân
truy kích, nhưng nếu viên tướng ấy tin rằng đàng sau mình có viện binh, và khi
họp được hai đạo quân thì sẽ phản công kẻ nghịch, hy vọng sẽ chiến thắng cuối cùng thì viên tướng
ấy không cảm thấy đau khổ về sự bại trận hiện tại.
Con người sống trong xã hội cũng thế.
Tương lai là nguồn an ủi cho hiện tại. Nếu tương lai loe lói một ánh sáng huy
hoàng, thì kẻ đau khổ thường hay nhìn về trước mặt và đặt ở đấy một niềm tin.
Một anh nông phu suốt đời cặm cụi việc
đồng áng, dầm mưa dãi nắng, nhưng cực khổ ấy không làm cho anh nản chí, bởi vì
anh tin tưởng sự tham khổ ngày nay sẽ xây dựng một sự nghiệp cho đàn con anh ở
ngày mai.
Một cậu học sinh miệt mài trên ghế nhà
trường suốt bao năm tháng, nếu không hy vọng ở tương lai thì công trình ấy sẽ
làm cho cậu cảm thấy cực nhọc và vô bổ biết chừng nào !
Tôn giáo đem đến cho loài người một hy
vọng ở tương lai. Hy vọng tương lai của tôn giáo không phải ở cõi hiện sinh mà
ở cõi siêu sinh, tức là cõi sống thảnh thơi, an nhàn trong thế giới siêu hình.
Chúng ta không cần bàn đến thế giới đó, ngay ở hiện tại niềm tin ấy cũng đã làm
êm dịu những gì đau khổ trong xã hội loài người rồi.
Một người chịu cực khổ trong hiện tại
có quyền lấy sự cực khổ ấy làm hãnh diện, cho đó là nguyên nhân sẽ đạt được
hạnh phúc sau cõi sống của họ. Sự hạnh diện ấy không phải là nguồn an ủi
sao ?
Mặt khác, nếu tôn giáo là một nguồn an
ủi cho đời sống loài người như một chiếc xe cứu thương kèm theo cuộc đua đầy
gian lao, nguy hiểm thì chiếc xe cứu thương ấy cũng lại là một hình thức cảnh
giới những tay đua quá hăng say xây dựng chiến thắng mà không lưu tâm đến những
gì rủi ro, bất trắc.
Thật vậy, con người dù ham mê, thích
thú cuộc sống đến đâu cũng có lúc tưởng tượng đến hình hài bị hủy diệt theo
định luật chung của vạn hữu. Nếu những kẻ nghèo khổ, thất thế trong cõi hiện
sinh, mong cho rũ kiếp trần ai để tìm sự huy hoàng trong kiếp khác, thì chính
những kẻ đang tràn đầy hạnh phúc cũng lại lo sợ ở tương lai, nơi cõi siêu sinh
kia. Sự hiện diện của tôn giáo trong cõi sống là một hình thức cảnh giới về
phương diện tinh thần.
Dù tay đua nào trong cuộc có hăng say,
liều lĩnh đến đâu, khi thấy thấp thoáng hình bóng chiếc xe cứu thương cũng làm
cho anh ta chùng chí, để tâm dè dặt, không dám liều lĩnh quá đáng.
Xem thế, chúng ta thấy rõ tầm ảnh
hưởng của tôn giáo vào sinh hoạt xã hội loài người không phải nhỏ. Đối với đạo
học, vì thấy đời sống con
người đau khổ nên đem tình thương cải tiến xã hội. Đối với khoa học, vì thấy
đời sống con người thiếu thốn nên đem cả tâm trí nghiên cứu việc sáng chế phát
minh. Còn đối với tôn giáo, tuy không lo cho hiện sinh, nhưng lại ảnh hưởng vào
cuộc sống loài người một cách trực tiếp, đến nỗi loài người nếu thiếu sự hiện
diện của tôn giáo, bộ mặt xã hội sẽ thay chiều, đổi hướng, và không ai có thể
đoán trước được sự khác biệt ấy sẽ như thế nào.
Một kẻ trộm, tuy hành động bất chính,
nhưng không phải không có tầm mức. Một kẻ giết người, tuy hành động tàn ác,
nhưng chúng ta đừng tưởng sau giờ phút bạo hành, tâm hồn họ không được lên chút
gì kinh tởm.
Tinh thần tín ngưỡng luôn luôn chứa
đựng trong con người, dù với hạng người nào. Đó là ý thức tự tôn khi nhìn thấy
sự diệt vong của vạn vật. Mặc dù loài người tìm sự đắc thắng bằng hành động
tiêu diệt đối phương, nhưng không một ai muốn mình bị hủy diệt cả. Tính chất
mâu thuẫn ấy buộc con người phải tìm về tín ngưỡng, và tín ngưỡng trở lại không
chế con người từ ý thức đến hành động.
Chúng ta thử tưởng tượng, nếu con
người không có một niềm tin ở tương lai (hậu quả), không chứa đựng một phần ý
thức tín ngưỡng, thì con người sẽ hành động ra sao trong thế giới loài
người ? Chúng tôi nghĩ rằng, với kỹ thuật vũ khí tân tiến ngày nay, có lẽ
con người sẽ còn cuồng bạo hơn mọi ác thú !
Như vậy, cái gì đã chế ngự hành động
hung bạo ấy ? Ý thức nhân
đạo chỉ ảnh hưởng phần nào thôi. Nhân đạo không thể tác động trọn vẹn trong tâm
giới con người, bởi vì nhân đạo không làm cho lòng người băn khoăn, sợ hãi nếu
không nhờ ở tinh thần tín ngưỡng. Cho nên, khi nói đến tâm giới, chúng ta phải
thấy vai trò tôn giáo có một địa vị quan trọng trong cõi sống.
Con người đi tìm sự sống trong hành
động hủy diệt kẻ khác, nhưng chính kẻ mưu hủy diệt kẻ khác lại nơm nớp lo âu từ
cõi sống đến cõi chết, sợ mình bị hủy diệt. Vai trò tôn giáo đã nhờ vào ý thức
tự tồn của mỗi cá thể mà khống chế được tâm giới của loài người.
Trên đây, chúng ta chỉ mới nhận xét
tính chất tôn giáo ảnh hưởng vào cuộc sống con người song hành với đạo học và
khoa học. Tuy nhiên, hễ có ảnh hưởng thì cũng có những phản ứng ngược chiều.
Nếu đạo học đem tình thương chế ngự bản năng dục vọng, đem nhân đạo đến cho loài
người, thì ngược lại, loài người lại lợi dụng lòng nhân đạo đó để lừa gạt,
phỉnh phờ, mưu lợi riêng mình. Nếu khoa học chủ trương dùng lý trí con người
cung ứng những phát minh vật chất, đem lại đời sống sung túc cho nhân loại, thì
ngược lại, con người cũng lợi dụng sự phát minh vật chất ấy mưu lợi riêng tư. Ở lãnh vực tôn
giáo cũng thế, nếu tôn giáo tự tạo cho mình một sức mạnh, khống chế tinh thần
nhân loại, thì chính tôn giáo cũng lại bị con người lợi dụng tinh thần tín
ngưỡng, dùng vào công việc dối gạt để mưu sinh.
Nói chung, sinh hoạt xã hội loài người
là một trạng thái hỗn độn, phức tạp, chịu ảnh hưởng mọi mặt, và cũng chịu sự
phản ứng mọi mặt. Nhìn vào đó, chúng ta có một cảm giác như một cuộn tơ rối
bời, không còn rõ đâu là đầu mối nữa. Tuy nhiên, dù rắc rối đến bực nào nó chỉ
là trạng thái phản ảnh sự diễn biến của ba hệ thống ý thức : đạo học, khoa
học và tín ngưỡng mà thôi.
2) Tôn giáo ảnh hưởng vào đạo học
Tôn giáo khác với đạo học. Đạo học chủ
trương giải quyết những rắc rồi của loài người trong thế giới hiện sinh. Tôn
giáo chủ trương giải quyết những niềm tin con người trong thế giới siêu sinh.
Tuy hai chủ trương khác nhau, song tôn giáo và đạo học có liên hệ về căn bản.
Chúng ta không kể những ý thức tín
ngưỡng còn trong vùng thô sơ, chỉ gây thành tập tục, chưa đúc kết thành tôn
giáo, thì đa số các tôn giáo đều có ảnh hưởng ít nhiều vào nền móng đạo học
Đông-phương.
Thật vậy, vì chủ trương giải quyết con
người ở cõi siêu sinh, tôn giáo không coi thế giới hiện sinh là trọng. Đối với
tôn giáo, những gì của thế giới hiện sinh chỉ là hư ảnh, tạm thời, không tồn
tại. Đã phủ nhận cuộc sống hiện hữu tất nhiên không một tôn giáo nào chấp nhận
ý thức tranh đấu xã hội.
Từ chỗ không chấp nhận ý thức tranh
đấu xã hội, tôn giáo đi đến chỗ phản đối những hành vi tàn bạo, bất công, ích
kỷ của loài người gây thành thảm trạng trong cõi sống.
Ở lãnh vực này, chúng ta thấy đạo học
và tôn giáo trở nên tương đồng như hai kẻ lữ hành gặp nhau nơi quán trọ. Một
đàng vì nhân đạo đem lý trí chế ngự bản năng, cải tiến xã hội, một đàng vì muốn
tạo nên một thế giới siêu sinh tốt đẹp, đả phá những xấu xa, hỗn độn trong thế
giới hiện sinh.
Khi tôn giáo và đạo học đã gặp nhau ở
điểm tương đồng ấy, tất nhiên phải có ảnh hưởng qua lại như hai dòng sông cùng
chảy một chiều, trong mùa lụt lớn, nước có thể từ dòng sông này tràn sang dòng
sông kia.
Ví dụ, Nho-giáo là một hệ phái của đạo
học vẫn phải mượn ý thức tín ngưỡng của tôn giáo để củng cố nền móng đạo học
của mình. Ngược lại, tôn giáo cũng phải dùng đến tinh thần nhân nghĩa, lòng vị tha của đạo học để
làm nguyên nhân dẫn đến nguồn hạnh phúc của thế giới cực lạc siêu hình.
Tất nhiên, tôn giáo cũng có nhiều tín
ngưỡng khác nhau, còn đạo học cũng có nhiều hệ phái khác nhau, chúng ta chỉ xét
về những nét đại lược. Sự thật cũng có những nguồn tín ngưỡng không thích hợp
với tính chất căn bản đạo học, hoặc cũng có những hệ phái đạo học không thích
hợp với chủ trương của tôn giáo. Bởi vậy, qua lịch sử diễn biến của tôn giáo
trên thế giới, không phải tôn giáo nào cũng có thể phát triển bất cứ trên địa
hạt nào. Mỗi tôn giáo chỉ có thể phát triển mạnh mẽ ở những nơi mà dân tộc ấy
thấy phù hợp với quan niệm nhân sinh của họ.
Các dân tộc Đông-phương sống trong
truyền thống đạo học, lấy nhân nghĩa làm nền tảng, lấy lòng vị tha làm cứu cánh
cho cuộc sống loài người, đó là một mảnh đất tốt, thích hợp cho Phật-giáo, một
tôn giáo chủ trương từ bi, bác ái. Cho nên, dù hệ thuyết của Phật-học có bị
chèn ép đến đâu đi nữa, tôn giáo ấy vẫn ảnh hưởng vào nền móng văn minh
Đông-phương như một nhu cầu cần thiết cho lẽ sống.
3) Tôn giáo ảnh hưởng vào khoa học
Cũng như đạo học, khoa học chủ trương
cải tiến xã hội loài người. Tuy nhiên, trái với đạo học, khoa học chỉ thỏa mãn
nhu cầu vật chất, giải quyết mọi thiếu thốn trong lãnh vực mưu sinh, cho nên
tinh thần khoa học bao giờ cũng đi ngược chiều với tinh thần tín ngưỡng. Một
đàng lấy thực nghiệm chứng minh, một đàng lấy niềm tin tôn thờ nguồn sống. Khoa
học và tín ngưỡng như hai kẻ đuổi bắt nhau trong một không gian huyền ảo. Tín
ngưỡng chỉ thành công ở những nơi mà những huyền vi của vũ trụ còn bao trùm cả
trí óc con người, và nó sẽ không còn tồn tại, một khi lãnh vực ấy bị ánh sáng
khoa học chiếu vào, làm cho niềm tin của khối óc con người chạm phải thực tế.
Tính chất tín ngưỡng và khoa học trái
ngược nhau như thế, nên khoa học càng tiến bộ càng dồn đuổi tín ngưỡng đến một
địa hạt xa hơn, địa hạt mà ánh sáng khoa học chưa đủ khả năng rọi tới. Cho nên,
trong lịch sử sinh hoạt xã hội, tinh thần tín ngưỡng không bao giờ đứng yên. Đó
là do tác dụng diễn biến của khoa học ảnh hưởng vào tôn giáo.
Tuy nhiên, luật vũ trụ không bao giờ
tác động một chiều. Nếu khoa học đã ảnh hưởng vào tôn giáo, đưa ý thức tôn giáo
mỗi ngày một đổi mới, thì ngược lại tôn giáo cũng ảnh hưởng vào khoa học không
phải ít.
Trước nhất, chúng ta hãy xác định giá
trị con người. Dù bộ óc con người có thông minh đến đâu cũng chỉ là sản phẩm
của vũ trụ, không thể vượt ra ngoài sự chi phối của thiên nhiên để trở thành
tạo vật chủ được. Khoa học ngày nay tiến bộ thật! Loài người đã hãnh diện
với công trình của họ khi tạo ra những chiếc phi thuyền đưa người lên cung
trăng, tuy nhiên, dù tiến bộ đến đâu, con người cũng chỉ làm được những cái gì
vũ trụ đã có, mà không thể tạo ra những cái vũ trụ chưa có. Con người khi khám
phá thiên nhiên cũng chỉ nhờ vào qui luật thiên nhiên mà tác thành những ý muốn
của mình. Nói như thế cũng có nghĩa là con người chỉ có thể làm được những gì
trong giới hạn của một sinh vật có trí khôn trong vòng chi phối của thiên nhiên
mà thôi. Vượt ra ngoài định giới ấy, con người sẽ bất lực. Do đó, khoa học
không bao giờ theo kịp tín ngưỡng, bởi một đàng phải cần đến kết quả thực
nghiệm, một đàng chỉ cần kết quả của một niềm tin. Con người càng văn minh về
khoa học thì niềm tin càng đi xa hơn để giải quyết những ưu tư, thắc mắc, mong
muốn còn đọng lại trong tâm giới họ. Vì khoa học không thể đưa con người trở
thành tạo vật chủ, nên khoa học cũng chẳng bao giờ giải quyết được ý thức tín
ngưỡng. Ngược lại, tín ngưỡng ảnh hưởng rất mạnh vào nền văn minh khoa học, khi
con người nhận thấy những phát minh khoa học chứng minh bộ óc con người bị giới
hạn trong ảnh hưởng thiên nhiên.
Năm 1970, khi chiếc phi thuyền Apollo
thứ 13 của người Mỹ phóng lên cung trăng bị trục trặc máy móc, chới với giữa
không gian, cả thế giới đều một loạt đứng lên tổ chức những lễ cầu nguyện cho
các phi hành gia trở về trái đất được bình an. Hiện tượng ấy không đủ chứng
minh các bộ óc khoa học của con người khi hoảng hốt, không còn đủ bản năng tự
tín mà phải trở về với tín ngưỡng để tự an ủi mình sao ? Cho nên, chiếc xe
cứu thương bao giờ cũng cần thiết trong mọi lãnh vực chiến đấu. Tôn giáo không
thể không cần đến trong trường đấu tranh xã hội, giữa con người và con người,
hay trong địa hạt chinh phục vũ trụ, giữa con người và thiên nhiên.
Mặt khác, thế giới khoa học là một thế
giới đấu tranh về vật chất, phát triển dục vọng cá nhân để hưởng thụ. Vì lẽ đó,
nền văn minh khoa học càng tiến bộ bao nhiêu, ý thức tranh đấu và hành động
tước đoạt giữa con người và con người càng nẩy nở bấy nhiêu. Sự vật lộn giữa
con người và con người trong giới khoa học không thể không gây những đau khổ,
thê lương. Đã có đau khổ trong xã hội loài người thì dù với nền văn minh khoa
học, con người vẫn tìm đến tín ngưỡng, lấy tín ngưỡng làm nguồn an ủi, cũng như
họ cần có chiếc xe cứu thương khi họ lâm nạn vậy.
4) Tôn giáo ảnh hưởng vào đời sống bình dân Việt Nam
Nhiều người ngoại quốc khi khảo cứu về
tín ngưỡng Việt-nam đã phê bình : « Người Việt-nam có một tín ngưỡng hỗn độn,
không phân biệt tôn giáo với mê tín. Họ pha trộn nhiều tôn giáo đến nỗi có
nhiều gia đình cha theo đạo Phật, con theo đạo Thiên-chúa, hoặc Cao-đài,
Tin-lành chẳng hạn. Họ chỉ nhận xét bề mặt, không chịu tìm hiểu sâu xa giáo lý
của mỗi tín ngưỡng ».
Lời phê bình trên đây đối với người
ngoại quốc chúng ta không cần bàn đến. Nhưng đối với người Việt-nam, dĩ nhiên
chúng ta không thể nhận xét một cách phiến diện như vậy được.
Chúng ta không phủ nhận tính chất hỗn
tạp trong lãnh vực tín ngưỡng Việt-nam, tuy nhiên, hỗn tạp không có nghĩa là
nặng về mê tín, không tìm hiểu chân lý của mỗi tôn giáo để định rõ xu hướng.
Ông Toan-Ánh, trong quyển Tín
ngưỡng Việt-nam có viết : « Tất cả mọi tôn giáo du nhập vào Việt-nam đều được
đón nhận, và có thể phổ biến dễ dàng trong dân chúng, trừ những tôn giáo không
phù hợp với nền luân lý của ta. Có những tôn giáo vào nước ta sau các tôn giáo
khác, nhưng đã phổ cập rất mau chóng đến mọi từng lớp xã hội và được đồng thời
cùng sùng tín với các tôn giáo khác, nhưng cũng có những tôn giáo chỉ mới lan
truyền vào nước ta đã gặp khó khăn, một phần vì sự ngăn cản của chính quyền,
một phần vì sự dè dặt của quần chúng. Lại có những tôn giáo khi tới Việt-nam đã
bị từ khước hẳn, vì giáo điều đi ngược lại nếp sống thuần túy của dân ta ».
Chúng tôi đồng ý với ông Toan-Ánh về
đoạn khảo luận này. Lịch sử phát triển tôn giáo thế giới đã ghi trên mảnh đất
Việt-nam những thành công và thất bại của nó bằng những chứng tích, không ai có
thể bôi xóa đi được. Nhưng chứng tích ấy lại chứng minh tinh thần xu hướng về
tôn giáo của dân tộc Việt-nam không đến nỗi nông cạn, hỗn tạp đền bừa bãi.
Mặt khác, các nhà khảo cứu về tôn giáo
Việt-nam cũng nhận xét : « Tất cả
các giáo đạo hiện hành ở Việt-nam không có đạo nào là thuần túy của ta, kể các
đạo Cao-đài mới sáng lập vào tiền bán thế kỷ 20, bởi một giáo chủ Việt-nam,
nhưng thần thánh vẫn là lấy ở các đạo khác tập trung lại. Những tôn giáo ta tin
theo nếu không do người Trung-hoa mang lại trong thời kỳ đô hộ thì cũng do
người Tây-phương truyền đến trong những năm gần đây ».
Như vậy, các nhà khảo cứu về tôn giáo
đã chứng minh dân tộc Việt-nam không sáng lập tôn giáo mà chỉ xu hướng vào các
tôn giáo ngoại nhập.
Tại sao có việc lạ lùng như vậy ? Trước hết, chúng ta
phải thừa nhận con đường từ tín ngưỡng tạo ra những tập tục, rồi dần dần đem
những ý thức tín ngưỡng kết thành hệ thống giáo lý để dựng lên một tôn giáo
không phải là ngắn ngủi. Dân tộc Việt-nam sớm bị Trung-quốc đô hộ, nền văn minh
Trung-quốc, trong đó có tín ngưỡng, đã chi phối vào tinh thần người Việt, làm
cho dân tộc Việt-Nam luôn luôn phải đối phó – chấp nhận và không chấp nhận
những ngoại lai – không còn có một hoàn cảnh nào để tạo cho mình một ý thức hệ
riêng tư được. Vả lại, khi tìm hiểu dân tộc tính, chúng ta đã thấy quan niệm về
vũ trụ của dân tộc Việt-nam có một sắc thái khác biệt. Với sự khác biệt ấy tất
nhiên người dân Việt-nam phải có cái gì không giống với những dân tộc khác, ít
ra ở phần tính chất căn bản.
Mặt khác, tinh thần tín ngưỡng của
loài người cũng phát triển theo trào lưu tiến hóa của nhân loại, nghĩa là nó
cũng mở rộng theo nhịp sống của con người đối với thời gian, không gian. Cho
nên, tín ngưỡng từ tính chất địa phương kết hợp với thời gian, không gian, lan
dần đến lãnh vực tôn giáo có tính cách đại đồng thế giới.
Ở đây, chúng tôi tưởng cũng nên phân
tích tại sao tôn giáo dễ mang tính chất đại đồng thế giới hơn những học thuyết
về triết lý xã hội, hoặc những hệ thuyết về đạo học ?
Sở dĩ tôn giáo mang tính chất cộng
đồng vì nó không chủ trương cải tạo thế giới hiện sinh, mà chỉ lo cho thế giới
siêu sinh. Ở thế giới ấy loài người chỉ có tín ngưỡng mà không có mâu thuẫn
quyền lợi thực tiễn, cho nên, mọi người không đặt ý thức ganh ghét, vị kỷ. Đã
không xem tôn giáo là mảnh đất để cạnh tranh quyền lợi thì dù với tôn giáo nào,
nếu không đặt ở đó một niềm tin, cũng chẳng ai muốn kích bác.
Với tính chất tìm về cõi siêu hình,
tôn giáo đứng ngoài phạm vi chánh trị – trừ những tôn giáo lợi dụng hình thức
tu hành để mưu lợi riêng. Không dính líu với chính trị, được loài người coi là
« thoát tục », « lánh đời ». Đã lánh đời, thoát tục, con
người của thế giới hiện sinh không còn xem tôn giáo như một đối tượng của xã
hội loài người nữa. Do đó, tôn giáo được tự do khai triển, mở rộng không gian,
ăn nhịp với thời gian, lan truyền một cách mau chóng trong cõi sống loài người.
Trong lúc đó những nền móng đạo học, khoa học thường đi đôi với chính trị, lấy
chính trị làm phương tiện phổ biến, lấy yếu tố mưu sinh làm căn bản cho sự phát
triển, vì vậy mà đạo học cũng như khoa học bị cuộc sống con người chèn ép,
không có tính chất đại đồng như tôn giáo được.
Trở lại vấn đề tôn giáo đối với dân
tộc Việt-nam. Sở dĩ có rất nhiều tôn giáo du nhập vào Việt-nam và được tự do
bành trướng là do ý thức người Việt-nam xem mọi tôn giáo đều đứng ngoài vòng
tranh chấp của thế
giới hiện sinh, và trên tinh thần tín ngưỡng, mỗi tôn giáo đều có một giá trị
ngang nhau.
Khi nói đến tín ngưỡng, dân tộc
Việt-nam không dùng lý trí xác định mà chỉ lấy niềm tin và căn bản cho lẽ phải
mà thôi. Quan niệm như vậy không là hỗn độn, mà chỉ tránh trạng thái độc tôn,
tự kỷ trong cảm giới con người. Sự chấp nhận nhiều tôn giáo trong sinh hoạt xã
hội Việt-nam bắt nguồn từ ý thức ấy.
Tuy nhiên, khi tôn giáo đã xâm nhập
vào sinh hoạt xã hội Việt-nam, dân tộc Việt-nam không thể tránh khỏi những ảnh
hưởng của nó.
Trước nhất, nói đến ảnh hưởng của tôn
giáo trong sinh hoạt xã hội, chúng tôi phải nói đến đạo Phật, bởi vì đạo Phật
là một tôn giáo phát sinh từ Đông-phương, kết tinh của mọi tín ngưỡng
Đông-phương, và không trái với nền văn minh đạo học. Nhiều nhà khảo cứu về tôn
giáo đã nhận xét dân tộc Việt-nam chín mươi phần trăm đều xu hướng Phật-học.
Lời nhận xét ấy không phải vô căn cứ.
Khi nói đến chín mươi phần trăm dân
tộc, tất nhiên đa số là người bình dân. Như vậy, chúng ta thử tìm xem đạo Phật
đã ảnh hưởng vào sinh hoạt xã hội bình dân như thế nào ?
- Về ý thức -
Đạo Phật chủ trương luân hồi và nhân
quả. Chủ trương ấy đem lại niềm tin trong dân gian là khi người ta chết, phần
hữu hình là thể xác bị hủy diệt, còn phần vô hình là linh hồn sẽ về cõi Cực-lạc
hay phải xuống địa ngục, hoặc đi đầu thai một kiếp khác – kiếp người hay kiếp
thú – tùy theo sự ăn ở hiền lành hay độc ác mà lúc sinh thời đã gây nên quả báo
ấy. Trong ca dao
bình dân, chúng ta thấy có những câu như :
Lênh đênh qua cửa thần phù,
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.
Chìm, nổi là thể hiện của nhân quả ở thế
giới siêu sinh. Khi ý thức như vậy, chính người bình dân đã chịu ảnh hưởng Phật
học.
Trong những tác phẩm về văn chương
bình dân như thơ Phạm-Công Cúc-Hoa, Lâm-Sanh Xuân-Nương hoặc
những truyện Con Tấm Con Cám đều tiêu biểu cho tính chất luân
hồi và nhân quả của Phật học, mà người bình dân Việt-nam rất say mê, thích thú.
Chẳng những thế, trong một số chuyện
dân gian chúng ta còn thấy người bình dân hình dung cả một thế giới của cõi
chết. Đó là địa ngục và niết
bàn (hay cõi Phật).
Theo niềm tin của họ :
- Linh hồn con người trước khi lên niết bàn hoặc đi đầu
thai kiếp khác đều phải qua Phong đô đại đế và Thập
điện Diêm-vương.
- Phong-đô là một thế giới cõi âm, được gọi là « âm
ty » hay âm phủ.
Bởi vậy trong ca dao có những câu
như : « Sống chơi
trần thế, thác về âm ty ».
Ở cõi âm ty có mười vị Diêm-vương, với
những quyền hành và nhiệm vụ riêng. Mỗi vị Diêm-vương lại có một vị phán quan
và nhiều ngục quan cùng quỉ sứ để giúp việc thưởng phạt người trần.
Mỗi người chết, trong lúc gia quyến
đang lo việc ma chay, chôn cất, thì hồn người chết đã bị quỉ vô-thường, loại
quỉ có trách nhiệm đón linh hồn người quá cố dấn đến thập điện Diêm-vương. Nơi
đó có sổ sách ghi rõ số mạng và tội ác từng người. Nếu kẻ nào chưa đến số, bị
quỉ bắt lầm thì được trả hồn về, người chết sẽ sống lại, còn người nào đã đến
số, Diêm-vương sẽ theo tội ác lúc sống trên trần gian mà thưởng phạt. Người nào
làm lành nhiều dữ ít thì được đầu thai trở lại làm người để hưởng vinh hoa, phú
quí. Nếu người nào dữ nhiều lành ít thì hoặc đầu thai làm súc vật, hoặc bị xử
trị bằng những hình phạt nặng nề như róc xương, xẻ thịt, rút gân, nấu dầu chẳng
hạn.
Vì có những niềm tin như vậy nên trong
ca dao bình dân có những câu như :
Con gái bỏ chồng theo trai,
Chết xuống âm phủ cưa hai nấu dầu.
Ảnh hưởng vào Phật-học, chẳng những
người bình dân Việt-nam xem xã hội hiện sinh như là cõi sống tạm :
Đời người như bóng phù du,
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng.
Mà họ còn đặt hy vọng ở những đổi thay
về căn kiếp. Ví dụ đôi trai gái yêu nhau mà không được lấy nhau, họ than
thở :
Kiếp này duyên lỡ làng duyên,
Kiếp sau xin hẹn cửu tuyền gặp nhau.
Hoặc họ chán ngán vì cảnh sống thực
tại như :
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Tất cả những ý thức phổ cập trong ca
dao với quan niệm căn kiếp, đều do ảnh hưởng của đạo Phật cả. Từ ý thức, đạo
Phật ảnh hưởng vào sinh hoạt.
- Về sinh hoạt -
Nói đến sinh hoạt, trước nhất chúng ta
thử lược dẫn vài nét lịch sử của đạo Phật trong quá trình phát triển đối với
xã-hội Việt-nam.
Đạo Phật lúc đầu chỉ thịnh hành ở
Ấn-độ, về sau mới lan truyền sang Trung-hoa, rồi đến Việt-nam.
Tại Trung-hoa, đời vua Hán Võ-Đế, sau
khi Ban-Siêu đi sứ Tây-vức trở về, ngưởi Trung-hoa mới biết đến đạo Phật.
Ở Việt-nam, theo sử chép thì vua Đinh
Tiên-Hoàng là người đầu tiên mến đạo Phật, nên phong Hòa-thượng Khuông-Việt làm
thái sư.
Sau vua Đinh Tiên-Hoàng, vua Lê
Đại-Hành vẫn dùng Hòa-thượng Khuông-Việt và sai sứ sang Tàu để cầu kinh
Tam-tạng.
Đến đời nhà Lý, đạo Phật rất thịnh
hành. Các bậc danh Nho bắt đầu nghiên cứu những ý nghĩa thâm thúy của giáo lý
đạo Phật. Các chùa chiền được dựng lên khắp nơi, dân chúng tham gia vào việc
đúc chuông, tô tượng và có xu hướng mạnh về việc tu hành.
Tuy nhiên, từ đời Hậu Lê trở về sau,
triều đình trọng về đạo học mà nhẹ về tín ngưỡng, nên đạo Phật chỉ còn lại
trong lòng một số ít dân chúng mà thôi.
Thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, miền
Bắc chúa Trịnh vẫn tiếp tục chủ trương nâng đỡ đạo học, làm cho đạo Phật càng
sút kém hơn, nhưng ở miền Trung, thuộc quyền chúa Nguyễn, đạo Phật lại bắt đầu
hưng thịnh. Chính quyền Nguyễn-Hoàng đã xây chùa Thiên-mụ vào năm 1601 tại
Thuận-hóa.
Nhưng đến thời Tây-sơn, đạo Phật miền
Trung nước Việt lại lâm vào một cơn khủng hoảng. Vua Tây-sơn bắt các thầy tu
phải nhập ngũ, chùa chiền bỏ vắng, các tượng phật bị phá hủy hoặc điêu tàn.
Đến thời vua Gia-Long lập lên nhà
Nguyễn, thống nhất sơn hà, đạo Phật vẫn còn chịu cảnh đen tối, bởi vì nhà
Nguyễn đã dùng tín ngưỡng làm
lợi khí chính trị. Đạo Phật chỉ còn như cái xác không hồn.
Bắt đầu từ khi người Pháp sang đô hộ
nước ta, Phật-giáo lại đi vào chỗ suy kém hơn. Người Pháp đã tận tình nâng đỡ
Thiên chúa giáo, chèn ép đạo Phật trong mọi phương tiện hoạt động và phát
triển.
Tuy vậy, đạo Phật vẫn không vì thế mà
bị hủy diệt trong chính sách thực dân đô hộ. Đi đôi với phông trào chấn hưng
đạo Phật ở Trung-hoa vào năm 1920, các tín đồ Phật-giáo Việt-nam âm thầm vận
động thành lập những hội nghiên cứu Phật-học. Năm 1931, tại Sài-gòn, một
hội Nam-kỳ nghiên cứu Phật-học được thành hình. Tiếp theo ở
Trung-Việt năm 1932 và ở Bắc-Việt năm 1934, các hội Phật-học này đều do những
tăng già và tu sĩ đứng ra chủ trương với mục đích chỉnh đốn chùa chiền, vãn hồi
qui giới, phổ biến tinh thần Phật-học trong đại chúng bình dân.
Đến năm 1951, một hội nghị toàn quốc
gồm các đại diện vừa tu sĩ vừa cư sĩ được tổ chức tại Huế, mục đích thống nhất
các hội cư sĩ và cải cách nội bộ Phật-giáo thành một hệ thống.
Năm 1955, đạo Phật lại thành lập Hội
Phật-giáo Việt-nam thống nhất.
Căn cứ vào diễ biến trên dòng thời
gian gần hai mươi thế kỷ, chúng ta phải ghi nhận ảnh hưởng của Phật-giáo đối
với lớp người bình dân không phải ít. Với tính chất thăng trầm của một hệ thống
ý thức về tín ngưởng, nếu đạo Phật không được quần chúng Việt-nam bảo vệ và duy
trì thì thật khó tồn tại trước mọi biến cố chính trị. Sở dĩ đạo Phật trường tồn
trong lòng dân chúng vì những lý do sau đây :
- Đạo Phật không trái với nền triết lý
Đông-phương.
- Qua mọi biến chuyển chính trị, dân tộc
Việt-nam càng bị thống khổ bao nhiêu thì đạo Phật càng đem lại niềm an ủi bấy
nhiêu trong lãnh vực tín ngưỡng.
- Đạo Phật thực tế thoát ra ngoài mọi tranh
chấp xã hội, gây được niềm tin qua giáo lý và sự hiện hữu của họ.
Chính vì các lý do trên, trong sinh
hoạt xã hội Việt-nam, ý thức tín ngưỡng được hòa hợp một cách nhẹ nhàng khiến
chúng ta không còn tìm thấy những gay cấn giữa hai nguồn sống đạo và đời nữa.
Bên cạnh đình làng, một ngôi chùa ẩn
mình trong rặng cây, tĩnh mịch, từng tiếng chuông ngân trong hoàng hôn, giữa
lúc mọi mái nhà lơ lửng vài vệt khói lam, cảnh tượng quen thuộc ấy có ai phân biệt được cùng một
không gian, chứa đựng hai cảnh sống đạo và đời ? Trái lại, nếu ở vùng nào
lúc rạng đông cũng như bảng lảng chiều, mà không có tiếng chuông ngân, lòng
người sẽ cảm thấy như thiếu một cái gì trong nếp sống cũng như bầu vũ trụ có
ánh trăng trong mà thiếu cơn gió mát vậy.
Sự hòa hợp ấy biểu hiện lòng khao khát
tín ngưỡng của dân tộc, và chính đạo Phật đã cung cấp niềm vui trong nguồn
thiếu thốn ấy.
Nói đến ảnh hưởng của đạo Phật trong
sinh hoạt xã hội Việt-nam, chúng ta phải nói đến chùa chiền.
Chùa chiền ngày xưa không xây cất ở
thành thị, chỗ đông người, mà chỉ dựng lên ở các vùng quê hẻo lánh. Tuy đó là
chủ trương của kẻ tu hành, xa lánh những hoạt động của thế sự, nhưng lại tạo
thành một yếu tố khiến cho lớp người bình dân Việt-nam, phần lớn là nông phu,
gần gũi với sinh hoạt tín ngưỡng nhiều hơn.
Bởi vậy trong ca dao Việt-nam, chúng
ta thấy nói đến chùa chiền khá nhiều. Ví dụ những câu như :
Lên chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ đi tu không đành.
Nghiêng vai ngửa vái Phật Trời,
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân.
Ngó qua chùa lớn làm chay,
Thỉnh ông Tiêu-viện, thỉnh bà Quan-âm.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.
Vô chùa thắp một nắm nhang,
Miệng khấn, tay vái bốn phang chùa
này.
Chùa này có một ông thầy,
Có hòn đá tảng, có cây ngô đồng.
Hoặc những câu hài hước như :
Lên chùa thấy tiểu mười ba,
Thấy sư mười bốn, vãi già mười lăm.
Ước gì một tháng đôi rằm,
Trước là lễ Phật, sau thăm vãi già.
Ba cô đội gạo lên chùa,
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Sư về sư ốm tương tư,
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Ai làm cho dạ sư sầu,
Cho ruột sư héo như bầu đứt dây.
Sư dương tụng niệm Nam-mô,
Thấy cô xách giỏ mò cua bên chùa.
Lòng sư luống những mơ hồ,
Bỏ cả kinh kệ, tìm cô hỏi chào.
Ai ngờ cô đi đàng nào,
Tay cầm tràng hạt, sư vào băn khoăn.
Tiểu tôi, tiểu kính, tiểu hiền,
Bao nhiêu chùa chiền, tiểu đốt tiểu
đi.
Thịt chó tiểu đánh tì tì,
Bao nhiêu chỗ lội tiểu thì cắm chông.
Nam-vô xứ Bắc, xứ Đông,
Con gái chưa chồng thì lấy tiểu tôi.
Ở đây chúng ta đặt ra ngoài ý nghĩa
trung thành và chống đối. Phương diện này, chúng ta đã nhận xét một mục khác.
Cứ như tầm ảnh hưởng của đạo Phật
trong sinh hoạt dân gian, ăn sâu vào ca dao, đủ chứng minh rằng sinh hoạt của
đạo Phật đã đi vào nguồn sống người bình dân rồi. Những câu hát dí dỏm vắt vẻo
nơi lưng đồi hòa hợp với tiếng chuông, tiếng mõ. Những âm thanh ấy có lúc hòa
điệu, có lúc tách rời ra để chứng minh sự hiện hữu của hai đối tượng :
siêu sinh và hiện sinh. Chúng ta làm sao phủ nhận được những chứng tích ấy trên
dòng lịch sử sinh hoạt xã hội.
Trên đây, chúng ta mới chỉ nói riêng
về ảnh hưởng của đạo Phật trong dân gian. Nhưng ở Việt-nam không chỉ có đạo
Phật mà còn nhiều tôn giáo khác nữa.
Như ở đoạn trên, chúng ta đã xác định,
dân tộc Việt-nam chỉ có tín ngưỡng mà không có tôn giáo. Cho nên tín ngưỡng đã
dựa trên một số giáo lý của các tôn giáo ngoại lai, gây thành một trạng thái
hỗn độn trong mọi niềm tin.
Các sử gia Việt-nam, khi đề cập đến
tôn giáo, đều nhận xét : « Cũng như bất cứ dân tộc nào trên
thế giới, từ Đông sang Tây, từ Bắc đến Nam, qua các châu Âu, Á, Mỹ, Úc, Phi lúc
sơ khởi người Việt-nam tôn thờ và tín ngưỡng tất cả những sức mạnh vô hình
như : Trời, Đất, Sấm, Sét, Gió, Mưa, Nước, Lửa, Núi, Sông, Trăng, Sao, v.v… Dần dần ý
thức trưởng thành qua suy tư, lại thêm ảnh hưởng của nền văn minh Trung-hoa,
cho đến khi tiếp xúc với nền văn minh Tây-phương thì ý thức tín ngưỡng của dân
ta chỉ còn lại trong việc tôn thờ Trời, Phật, Thần, Thánh và tổ tiên. Đối với tôn giáo, sau
cuộc tiếp xúc với nền văn minh Tây-phương, từ thế kỷ thứ XVI cho đến nay, người
Việt-nam chỉ còn lại có mấy khuynh hướng : đạo Phật, đạo Thiên-chúa, đạo
Tin-lành, đạo Cao-đài, đạo Bah’ai, v.v… »
Dĩ nhiên, mỗi tôn giáo đều có một lịch
sử phát triển qua thời gian, không gian, và có ảnh hưởng hoặc ít, hoặc nhiều.
Tuy nhiên so với đạo Phật, các tôn giáo khác một phần vì không hợp với nền văn
minh Đông-phương, một phần vì thời gian du nhập không sâu xa bằng đạo Phật, nên
tầm ảnh hưởng không rộng rãi bằng.
Để chứng minh điều đó, chúng ta có thể
lấy ca dao làm tiêu biểu. Trong ca dao Việt-nam có rất nhiều câu nói về đạo
Phật, mà các đạo khác không thấy nói đến hoặc chỉ một phần nhỏ nào không phổ
cập. Cho đến những tích truyện dân gian cũng thế, những câu chuyện có liên quan
đến đạo Phật được tác thành gần như những thần thoại có tính chất giáo điều
được lớp người bình dân truyền tụng từ thế hệ này, qua thế hệ khác, trong lúc
các tôn giáo khác không hề được ca dao và truyện dân gian nhắc nhở đến.
Tuy nhiên, dù với tôn giáo nào, đã
không là của dân tộc thì đó cũng chỉ là một nguồn an ủi, đến với người bình dân
trong quá trình sinh hoạt xã hội, mà một dân tộc phải gánh chịu triền miên dưới
ách đô hộ của mọi chế độ chính trị. Sự khổ đau ấy cần một nguồn tín ngưỡng để
an ủi và giải thoát tâm hồn, nhưng cũng vì sự đau khổ ấy mà tâm hồn người dân
Việt tiếp nhận mọi niềm tin một cách hỗn độn, không cần phân tích miễn sao niềm
tin làm vơi bớt những đau khổ hiện tại bằng một hy vọng ở một thế giới khác hơn
là thế giới hiện sinh.
Trên đây chúng ta đã xác định vị trí
của tôn giáo trong xã hội loài người. Tôn giáo bắt nguồn từ tín ngưỡng, nghĩa
là khi tín ngưỡng đã trở thành một hệ thống có tổ chức, có giáo lý thì tín
ngưỡng mới trở thành tôn giáo. Tuy nhiên, khi đã trở thành tôn giáo, thì tôn
giáo lại ảnh hưởng ngược về lãnh vực tín ngưỡng, khiến cho những niềm tin sơ
khởi của mỗi dân tộc chịu ảnh hưởng và tác động bởi các hệ thống tôn giáo đã
thành hình.
Ở Việt-nam, trong xã hội bình dân có
rất nhiều tín ngưỡng. Nó là sản phẩm của dân tộc tính, chi phối hầu hết những
phong tục, tập quán người dân. Tuy nhiên, tín ngưỡng Việt-nam cũng không làm
thế nào giữ được bản chất nguyên vẹn trong lúc xã hội Việt-nam bị những hệ
thống tôn giáo bên ngoài tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ trong sinh hoạt hàng
ngày. Do đó, tín ngưỡng Việt-nam từ nguồn gốc dân tộc lần lần được giai thích
theo tinh thần cấu tạo qua mọi triết thuyết tôn giáo.
Sau đây, chúng ta thử lược dẫn một số
tín ngưỡng đã tác động vào cuộc sống bình dân và tồn tại mãi với thời gian,
không gian.
1) Việc thờ cúng thần linh
Ở đây chúng ta phải phân biệt ý thức
thần thoại và sự diễn biến của tín ngưỡng.
Trong bài khảo sát về thần thoại
Việt-nam, chúng ta đã xác định Việt-nam không có thần thoại, bởi vì dân tộc
Việt-nam có một vũ trụ quan khác biệt. Mọi sức mạnh hữu hình cũng như vô hình
đều được dân tộc Việt-nam tôn thờ, và tin tưởng, xem như một khả năng của thiên
nhiên.
Dần dần ý thức tín ngưỡng chịu ảnh
hưởng các hệ thuyết của tôn giáo, sự thờ cúng thần linh xuất hiện trong dân
gian, song hành với mọi tín ngưỡng khác tạo thành những tập tục.
Tại sao có việc thờ cúng thần
linh ? Dĩ nhiên đó
chỉ là hiện tượng của tín ngưỡng. Tôn giáo đã đem đến cho loài người một thế
giới siêu hình. Khi đã có thiên đàng, địa ngục, tất nhiên ngoài thế giới hữu
hình còn có thế giới vô hình, và thế giới vô hình cũng tác động vào thế giới
hữu hình.
Sự tôn thờ thần linh ở Việt-nam, theo
các nhà khảo cứu về phong tục, được chia ra làm hai loại : loại thờ nơi
công cộng và loại thờ ở tư gia.
Các vị thần thờ nơi công cộng như
đình, miếu, am, v.v…
Các vị thần thờ nơi tư gia như Ông
Tóa, Ông Địa, Thần Tài, v.v…
Nói chung, ý thức thờ thần dù công
cộng hay tư gia đều do nguồn gốc tín ngưỡng chi phối cả. Tín ngưỡng đã đưa đến
tôn giáo một hệ thống siêu nhiên, và thế giới siêu nhiên ngự trị trong niềm tin
của loài người, tác động là sinh hoạt hiện hữu, cho nên trong cõi sống người ta
hình dung đến cõi chết, trong cõi hữu hình người ta liên tưởng đến cõi vô hình.
Sự liên hệ giữa cõi hữu hình và cõi vô
hình tuy thuộc về phạm vi tín ngưỡng, nhưng cũng không thoát ra ngoài trạng
thái sinh hoạt xã hội. Nếu trong khổ đau, sợ hãi, tuyệt vọng, người ta cần tìm
một sự che chở làm cứu cánh, thì ý thức tôn thờ thần linh chính là sự cầu cứu
của con người trong những hoàn cảnh ấy.
Chúng ta tôn thờ thần tài chỉ vì chúng
ta sống trong nghèo khổ, thiếu thốn nên ước mong được có một khả năng che chở.
Chúng ta tôn thờ Ông Táo chỉ vì hy
vọng mọi sự no ấm, được bát cơm đầy ngày hai bữa với bếp lửa hồng.
Chúng ta tôn thờ Thổ Thần vì mong ước
nơi cư trú không xảy ra những điều bất an.
Từ chỗ ước mong, hoặc sợ hãi, việc thờ
cúng thần linh lần lần lan dần trong mọi địa hạt. Ví dụ, tai một khúc sông kia
có một hòn đá lớn, dân chúng trong vùng sống về nghề chài lưới, mỗi khi qua
đường thắp hương, đốt vàng bạc để cầu xin sự bình yên. Có khi ở một cửa biển
thường xảy ra sóng gió, mỗi khi thuyền bè qua lại, các thuyền chủ thường đốt
vàng, hương ném xuống nước để cầu khấn. Trên những chân đèo, nơi xe cộ qua lại,
chúng ta cũng thường thấy dân chúng lập lên những chiếc bàn thờ nhỏ, khách qua
đường đến đó ghé lại thắp hương để cầu xin cho xe cộ được bình yên. Hoặc ở một
khu rừng hẻo lánh chúng ta cũng thường bắt gặp một bàn thờ nhỏ, dưới một tàn
đại thọ, thờ cúng một vị chúa rừng…
Tóm lại, chúng ta khó kể hết các vị
thần linh được dân gian thờ cúng, bởi vì nó là sản phẩm của tín ngưỡng. Một sức
mạnh có thể là một vị thần, mỗi nghề nghiệp cũng có một vị thần riêng. Cho đến
các linh thú như : long, lân, qui, phụng, người ta cũng tôn thờ. Kể cả một
con vật có nghĩa, người ta cũng tôn thờ sự có nghĩa của nó.
2) Việc thờ cúng cô hồn
Khi tín ngưỡng đã chịu ảnh hưởng tôn
giáo, hình dung một thế giới vô hình, trong đó có thần linh tất nhiên thế giới
vô hình ấy lại cũng dung nạp hồn
người chết. Đó là cõi siêu sinh.
Theo tín ngưỡng Việt-nam thì cô hồn là
những vong hồn bị chết oan, nghĩa là chưa đến số nên chưa thể đi đầu thai hóa
kiếp, phải chờ đợi một thời gian. Trong thời gian đó, cô hồn không có nơi nào
nương tựa, phải ẩn náu ở những cây cao bóng mát, góc chợ đầu đình, sườn non
ghềnh đá, v.v…
Khác với thần linh, cô hồn cũng như dân gian trong cõi sống, không có quyền hạn
trong thế giới siêu hình, mà chỉ phá phách, đòi ăn đòi uống, bắt bớ người trần
gian để cúng kính. Vì vậy, cô hồn cũng được người trần gian gọi là ma quái.
Vì sợ cô hồn phá phách nên những kẻ
tín ngưỡng về cô hồn thường hay cúng kính, van vái để được che chở, dung tha.
Việc thờ cúng thần linh và cô hồn dần
dần trở thành tập tục trong tín ngưỡng, và ca dao Việt-nam đã phản ảnh rất
nhiều về phạm vi tín ngưỡng này. Ví dụ họ bảo :
Ở cho phải phải phân phân,
Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.
Đất có thổ công,
Sông có Hà-Bá.
Ma bắt coi mặt người ta,
Mấy người nhớn nhát thì ma bắt hoài.
Chẳng những chỉ có trong ca dao mà
trong những câu truyện về quỉ thần rải rác trong dân gian không biết bao nhiêu
mà kể. Cho nên, chúng ta có thể nói tôn giáo ảnh hưởng vào tín ngưỡng Việt-nam
rất sâu rộng.
3) Tín ngưỡng về phù thủy
Từ chỗ tin vào thế giới vô hình do
thần linh và cô hồn ngự trị, người ta lại dần dần tin đến những pháp thuật cầu
thần, trừ ma, yếm quái.
Nhiều nhà khảo cứu về tín ngưỡng đã
gán cho những yêu thuật là ảnh hưởng của đạo Lão. Tuy nhiên, theo sự khảo cứu
của chúng tôi thì pháp thuật, bùa chú xuất phát ở tín ngưỡng mà ra, còn đạo Lão
là một hệ thuyết về đạo học. Đạo học với tín ngưỡng không thể cùng chung một
gốc được. Đó chỉ là một sự lầm lẫn.
Ma quái ở thế giới vô hình, theo tín
ngưỡng, tác oai, tác quái vào đời sống dân gian. Một luồng gió trót, một bóng
lửa xanh có thể là hiện tượng của ma quái. Trong bóng tối dày đặc của đêm
trường nơi hẻo lánh, ai có thể ngăn cản nổi sự sợ hãi của con người đối với bề
sâu của cảnh vật. Cảnh vật, nếu đã cung cấp cho loài người những mỹ cảm thiên
nhiên thì mang đến cho loài người những hiện tượng kinh rợn của thiên nhiên. Ví
như ở biển xanh, chúng ta thấy đẹp, nhưng chúng ta lại cũng thấy ở đó những
hiện tượng giết người thảm khốc.
Tất cả những gì làm cho loài người
kinh sợ ở thế giới vô hình đều được gọi là ma quái. Ma quái đến với đời sống
con người bằng sự phá phách, đòi hỏi, tàn nhẫn. Bởi vậy, trong ca dao Việt-nam đã có
câu :
Nhất quỉ, nhì ma,
Thứ ba học trò.
Học trò ưa phá phách nhất, nhưng cũng
không bằng ma quỉ.
Một đứa bé sơ sinh vang mình sốt mẩy,
người ta nghi cho ma quỉ phá phách. Một cô gái đi chợ về trưa bị xây xầm mặt
mày, người ta cũng nghi cô đã vướng phải chỗ cây cao bóng mát.
Ngày nay chúng ta bảo là mê tín, dị
đoan bởi vì niềm tin ấy không còn tồn tại trong thế giới thần linh của chúng ta
nữa. Tuy nhiên, đối với kẻ tín ngưỡng không thể bảo là mê tín được. Tín ngưỡng
không thể dùng lý trí để giải thích, mà lý trí đôi khi cũng cần đến tín ngưỡng
để cứu lấy những đau khổ của mình trong cuộc sống giữa xã hội loài người.
Như vậy, tín ngưỡng đem đến cho loài
người một nguồn an ủi, đồng thời cũng mang lại một sự sợ hãi. Từ chỗ tin ở thế
giới vô hình có thể cứu rỗi kiếp sống con người thoát ra khỏi bánh xe luân hồi,
con người lại đi đến chỗ sợ tà ma, quỉ quái.
Khi đã tin rằng có tà ma, quỉ quái ở
cõi vô hình phá phách tất nhiên con người phải cần đến một quyền phép nào để
trừ khử. Nhưng thầy phù thủy sở dĩ xuất hiện trong sinh hoạt con người chính là
để đáp ứng như cầu tín ngưỡng ấy.
Đối với tôn giáo, vai trò phù thủy bị
xem như tà đạo. Tuy nhiên, không phải vì thế mà vai trò phù thủy không tồn tại
trong cuộc sống loài người khi nào con người còn tin ở cõi vô hình có tà ma,
quỉ quái luôn luôn đe dọa, phá phách họ.
Nói về phép tắc của các thầy phù thủy
tại Việt-nam cũng như Ấn-độ, Phi-châu, v.v… đều tin rằng thầy phù thủy có phép luyện âm binh, âm tướng,
thường đêm khuya đến những nơi tha ma vắng vẻ đốt hương luyện bùa khiến các âm
hồn phải phục tùng mệnh lệnh của mình.
Có kẻ cho rằng thày phù thủy cao tay
có thể bắt ấn, niệm chú cho người sống xuống được âm phủ tìm giáp mặt người
chết để trò chuyện.
Lại có kẻ cho rằng thầy phù thủy có
thể khiến âm binh làm những công việc trên trần như tát nước, ném gạch vào nhà
người khác, v.v…
Ông Nguyễn-đình-Chiểu trong tập
thơ Lục Vân Tiên đã dựa vào tín ngưỡng Việt-nam, mô tả tài
phép một thầy phù thủy như sau :
Đồng rằng : « Nghe tiếng
thầy đây,
Trừ ma, ếm quỉ, phép
thầy rất hay ».
Pháp
rằng : « Ấn đă cao tay,
Lại thêm phù, chú xưa nay ai bì.
Qua sông cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.
Pháp hay hú gió kêu mưa,
Sai chim, khiến vượn, đuổi lừa, vật
trâu.
Pháp hay miệng niệm một câu,
Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.
Phép hay sái đậu thành tinh,
Hiện hình làm tướng
phá thành Diêm-vương ».
Vì tin ở tài năng, pháp thuật như vậy,
nên những gia đình nào có người chết nhằm giờ xấu, sợ bị hung thần tra khảo,
phải nhờ thầy phù thủy vẽ bùa trấn ếm quanh nhà và quan tài để áp đảo tà ma.
Khi người đau ốm cho là do tà
ma quấy phá, người ta cũng rước thầy phù thủy đến chuyên chữa.
Trong lúc chữa bệnh, thầy phù thủy
thường bắt gia chủ lập đàn tràng, mổ gà vịt, nấu xôi, làm bánh để khao thưởng
âm binh âm tướng.
Tuy nhiên, đối với người Việt-nam, mặc
dù chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng, phần đông không mấy tin tưởng vào pháp thuật.
Chính họ đã nói : « Đau chân há miệng ».
Nó chỉ là tiếng rên than khi con người
tuyệt vọng không còn biết nương cậy vào đâu để cứu vãng nữa. Một người mẹ vừa
lìa trần, đứa con quá đau xót đến nỗi làm những cử chỉ vô nghĩa. Đó là chuyện
thường có trong cuộc sống loài người.
Để chứng minh dân tộc Việt-nam không
phải vì tín ngưỡng để cho các thầy phù thủy bày trò lừa gạt, chúng ta thử nhìn
họ qua vài câu tục ngữ, ca dao tiêu biểu sau đây :
Họ bảo :
Thầy phù thủy không ai bắt thường đầu
gà.
Hay họ châm biếm :
Huých phà ! Ba cái đầu gà thầy
xơi hết !
Hoặc họ hài hước :
Châu sa đố lộn phàn sa,
Có thầy phù thủy vẽ ra ông bùa !
Trong một vài câu chuyện truyền miệng
giữa dân gian, họ còn làm cả một bài vè trào phúng như :
Chốc chốc, cheng cheng,
Nấu chè đậu đen,
Nấu xôi nếp quạ.
Tôi tưởng thầy lạ,
Ai ngờ thầy quen,
Đóng cửa cài then,
Tắt đèn đi ngủ.
4) Tín ngưỡng về đồng bóng
Niềm tin về đồng bóng cũng do ý thức
sợ sệt ma quái mà có. Nếu ở lãnh vực phù thủy người ta tin rằng con người có
thể luyện nên pháp thuật để trừng trị và điều khiển ma quái, thì ở lãnh vực
đồng bóng người ta
lại tin cậy vào sự che chở của các vị từ tâm trong cõi vô hình.
Đồng bóng không cậy vào pháp thuật. Họ
chỉ dùng một xác phàm cho một vong hồn nào đó mượn để nhập vào mách bảo những
điều cần phải làm để tránh những tai nạn do ma quái quấy rối.
Những người được các vong hồn nhập vào
mượn xác, người ta gọi là đồng cốt. Đồng cốt có thể đàn ông hoặc đàn bà, và
thường thường họ thờ các vị sau đây : Liễu-Hạnh công chúa, Cửu thiên huyền
nữ, Thượng Ngàn công chúa, hoặc các vị hoàng tử, các cậu các cô.
Bởi vậy đồng cốt chia ra làm nhiều
loại : đồng Đức Mẹ, đồng Đức Ông, đồng Cậu, đồng Cô… tùy theo người tôn
thờ đối với vị nào.
- Thờ các bà Công-chúa gọi là đồng Đức Mẹ.
- Thờ các vị Hoàng-tử gọi là đồng Đức Ông.
- Thờ các cậu gọi là đồng Cậu.
- Thờ các cô gọi là đồng Cô.
Tuy nhiên, theo tín ngưỡng của dân
gian, không phải ai muốn làm nghề đồng cốt cũng được. Người muốn làm nghề đồng
cốt phải có căn đồng, nghĩa là người nào được các vị linh thiêng bằng lòng mượn
xác mới được.
Thế nào là người có căn đồng? Trong tập Tín
ngưỡng Việt-nam, ông Toan-Ánh có nói về đồng cốt và cách thờ cúng như
sau :
Không phải tự nhiên ai cũng lập điện
thờ, hoặc cũng tới điện để lên đồng lên bóng. Thường đồng cốt phần
lớn là đàn bà. Những bà,
những cô hay đau yếu, hoặc đôi khi mặt đỏ rần rần, nằm mơ thấy bay lên không,
thấy lội dước nước, đi xem bói, đi lễ bái được thầy bói hoặc các ông đồng bà
cốt bảo là có số thờ, thánh bắt đồng. Người có số thờ này đem vàng hương tới một
cửa điện xin làm con công đệ tử và phải đội bát phù hương, nghĩa là những bình
hương nhỏ để ở bàn thờ chư vị tại điện.
Những ngày tuần tiết, người có số thờ
đến lễ đội những bình hương đó lên đầu. Bình hương đặt trên một chiếc mâm nhỏ
và có thắp hương. Có người phải đội một bát phù hương, có người căn đồng nặng
phải đội hai bát hoặc nhiều hơn. Có người chỉ phải đội bát phù hương, có người
được chi vị bắt phải ngồi đồng hầu bóng thánh. Nếu vì lý do
còn trẻ tuổi có thể làm lễ xin khất đồng được. Khi đã bắt đồng thì
hoặc lập điện tại gia thờ, hoặc thờ theo tại điện của ông đồng bà cốt khác, hay
tại một cửa miếu thờ chư vị. Ông đồng đây, có khi không phải là một người đàn
ông, mà chỉ là một người đàn bà có đồng Đức Ông. Cũng như có nhiều bà đồng
không phải là đàn bà mà chính là đàn ông có đồng Đức Mẹ.
Cách bài trí điện chư vị : Điện chư vị thường
lập tại một căn nhà riêng và bàn thờ bài trí tương tự như ngôi điện thanh đông.
Tại bàn thờ có đủ ngựa, võng, hài hộp, vàng xanh, vàng đỏ, nón dứa, nón nghê,
treo lủng lẳng từ trên xuống hoặc bày ở hương án, có khi ở cả gầm hương án nữa,
vì nơi đây thờ một cô hoặc một cậu nào. Trong những ngày tuần tiết, cúng bàn thờ chư
vị thường có hoa quả bánh kẹo.
Cách ngồi đồng hầu bóng : Các ông đồng bà cốt
đều có khăn trầu, áo ngự, tức là loại khăn áo ngũ sắc để khi ngồi đồng hầu
bóng. Tại điện đã
sẵn có cung văn, tức là người đàn ca lúc hầu bóng, đàn ca như vậy gọi là chầu
văn. Người chủ điện
hoặc một người có căn đồng khác vào ngồi đồng, mặc áo xanh, áo đỏ, đội khăn các
màu, múa may nhảy nhót ở trước cửa điện. Lúc đó là lúc thánh đã ốp vào đồng. Bọn cung văn đàn ngọt
hát hay được đồng ban tiền lộc cho. Có những người hầu dâng tức là người phụ tá
để đưa quần áo cho đồng, và con công, đệ tử ngồi chung quanh kêu xin để chữa
bệnh cho người đau. Thánh, xin hiểu đây là người ngồi đồng, ban truyền bằng một
giọng nũng nịu ỏn ẻn có khi giọng hờn rỗi để được nịnh nịt tâng bốc. Thánh phán
sao, gia chủ của người bệnh phải tuân theo. Có khi thánh cho uống tàn hương
nước thải, có khi cho nước quyết trầu để mang về xoa cho người bệnh. Có khi cho
bùa đeo. Người bệnh
khi khỏi phải tới lễ tạ.
Trong lúc lên đồng như vậy, bà đồng đã
được thánh ốp vào thường ban lộc cho những người hầu dâng hoặc những người đứng
chung quanh lễ bái. Lộc có thể là tiền, là kẹo bánh đã được mua trước cúng tại
điện, là trầu cau hoặc thuốc lá. Những bà đồng thường dùng giấy bạc một đồng
hoặc năm đồng kết thành những con bướm để dùng ban lộc…
Thật ra đồng cốt cũng như phù thủy
thuộc vào phạm vi tín ngưỡng, chỉ có giá trị ở niềm tin. Tín ngưỡng cũng sẽ dần
dần thay đổi theo mức độ thời gian, khi mà niềm tin ấy không còn tồn tại trong
tâm giới con người nữa.
Cũng như ở lãnh vực phù thủy, sự tin
tưởng vào đồng cốt người dân Việt-nam cũng không mấy chú trọng, chỉ có số người
vì gặp những hoàn cảnh đau ốm mà phương tiện chạy chữa theo thuốc men không đem lại cho
họ một hy vọng nào, tình máu mủ ruột rà đã đưa họ vào luồng tín ngưỡng ấy với tính
chất cầu may. Thực tế, người bình dân cũng đã dùng những câu ca dao châm biếm,
sỉ vả những kẻ lợi dụng tinh thần tín ngưỡng của dân gian để lừa gạt, phỉnh
phơ. Ví dụ họ bảo :
Mỗi người đều có một nghề,
Làm cốt thì ngáp, làm nghê thì chầu.
Xem đồng cốt như một cái nghề để sinh
sống, người bình dân Việt-nam không phải không khắt khe đối với quan niệm tín
ngưỡng.
Tuy nhiên, khi con người đang lâm vào
hoạn nạn, mất hết hy vọng mới thấy tín ngưỡng là một an ủi của tâm hồn mình.
Giữa thế kỷ hai mươi, nền văn minh khoa học lên đến tuyệt đỉnh, con người có
thể dùng phi thuyền đổ bộ mặt trăng, thế mà khi chiếc Apollo XIII của nước Mỹ
bị trục trặc, thế giới đều xúm nhau cầu nguyện cho ba phi hành gia được may mắn
trở về an toàn. Như vậy, chúng ta không thể nào chế nhạo một đứa con, khi người
cha thập tử nhất sinh trên giường bệnh, đến cầu cạnh, lạy lục một ông đồng, bà
cốt. Sự lạy lục cầu sinh ấy chỉ là biểu tượng của tình thương, của hiếu đạo,
của tuyệt vọng, mà sức người không thể nào chống đỡ nổi, phải lấy tín ngưỡng
làm nguồn an ủi cho tâm hồn.
5) Tín ngưỡng về gieo quẻ, xin xăm
Trên đây chúng ta đã thấy tín ngưỡng
Việt-nam do tôn giáo ảnh hưởng tạo thành một hệ thống siêu hình. Từ niềm tin
ngoài cõi sống còn có cõi chết, ngoài thế giới hữu hình còn có thế giới vô
hình, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau, tín ngưỡng Việt-nam đi lần đến chỗ sợ ma
quái, cần đến thầy phù thủy để luyện bùa phép trừ ma, cần đến những người đồng
cốt để các vị thần thánh trong thế giới vô hình mượn xác nhập vào cứu độ chúng
sinh. Ở lãnh vực gieo quẻ, xin xăm cũng thế. Nhưng lãnh vực này không cậy đến
phù phép, hay quyền lực đến trấn áp tà ma, mà chỉ cầu xin thần linh chỉ dẫn cho
biết những tai họa vấp phải để đề phòng, hoặc tránh đỡ. Bởi vậy, gieo quẻ, xin
xăm bao giờ cũng cần đến sự chứng nghiệm của thần linh.
Sự chứng nghiệm của thần linh nhờ vào
một cây que (thẻ) hoặc một chữ số, hoặc tất cả những dụng cụ nào có thể dùng để
chỉ dẫn sự suy đoán của mọi người.
Ở Việt-nam, việc gieo quẻ xin xăm
thường tổ chức ở các đền đài, những nơi có thờ một vị thần linh nào đó. Những
người muốn xin quẻ xin xăm phải mang vàng hương lễ lộc đến đó chiêm bái.
Tuy nhiên, cũng có nhiều chỗ tổ chức
bằng những hình thức đổi khác, nhưng căn bản vẫn dựa vào sự ứng nghiệm của linh
thần.
Ở đây chúng tôi tưởng cũng nên ghi lại
vài nét đại cương về hình thức xin quẻ, xin xăm, một tín ngưỡng hiện nay vẫn
còn được nhiều nơi tổ chức :
Muốn xin quẻ, xin xăm, trước hết phải
lễ bái trước bàn thờ thần linh. Lễ xong, người xin quẻ, xin xăm cầm ống thẻ xóc
cho đến khi một cây thẻ rơi ra ngoài. Trong thẻ có ghi số, người xin thẻ căn cứ
vào số ấy đi tìm một bài thơ mà người trong đền thờ đã in sẵn. Bài thơ này,
theo tín ngưỡng, là những bài thơ giáng bút của thần linh được chép lại. Với bài thơ ấy, người
ta có thể đoán được bất cứ điều gì người xin ước muốn. Ví dụ :
- Bản mệnh : nói về bản thân
có yên lành không, có gặp may rủi hay bị tà ma hãm hại không ?
- Mưu vọng : nói về việc
công danh chức tước, lo việc này việc khác, nên hay không nên, có gặp trở ngại
gì, có quí nhân giúp đỡ không ?
- Cầu tài : nói về việc làm
ăn, mua bán, có gặp may mắn, trở ngại ra sao.
- Hành nhân : nói về việc ra
đi may rủi thế nào.
- Thất vật : nói về những
vật đã bị mất có tìm lại được không. Muốn tìm thấy phải đi về hướng nào.
- Lục giáp : nói về việc
sinh đẻ con cái. Người có thai sẽ sinh trai hay gái. Hoặc muốn cầu tự phải làm
sao.
- Quan tụng : nói về việc
thưa kiện sẽ thắng hay thua.
- Bệnh tật : nói về bệnh
trạng nặng hay nhẹ, ngày nào khỏi, phải kêu cầu ở đâu ? Có ma quái ám ảnh
hay bị thần linh quở trách.
- Gia sự : nói về việc trong
nhà từ con cái đến kẻ ăn người ở.
Nói chung, chỉ một thơ bốn câu đã ghi
sẵn, người xem quẻ hoặc bàn xăm có thể căn cứ vào đấy giải thích đủ mọi chiều
hướng.
Cũng như phù thủy và đồng cốt, xin
quẻ, xin xăm chỉ là một niềm tín ngưỡng ảnh hưởng nhiều mặt trong sinh hoạt xã
hội. Xã hội càng có nhiều
khổ đau, tín ngưỡng càng lan rộng và tồn tại mãi để con người tìm ở đó một an
ủi, hoặc hy vọng.
Ngày nay với đà tiến bộ của văn minh
khoa học, thế giới loài người đã loại bỏ dần những niềm tin thiếu căn bản suy
luận, gọi những trò phù thủy, đồng cốt, xin quẻ xin xăm là mê tín dị đoan.
Thật vậy, niềm tin con người có lúc bị
mù quáng chỉ biết có lương năng mà không biết có lương tri. Tuy nhiên, ở đây
chúng ta không bàn đến lập trường suy tư của một tín ngưỡng, mà chỉ bàn đến tác
động của tín ngưỡng trong sinh hoạt xã hội.
Dù chúng ta gọi những hiện tượng đồng
cốt, phù thủy, xin quẻ xin xăm là mê tín, thì chính những hiện tượng ấy lại
phản ảnh được ý sống của con người… Con người sống phải có hy vọng, lo âu, sợ
hãi… Những yếu tố ấy thúc đẩy con người đi tìm những nương tựa, và chỗ nương
tựa cuối cùng của sự bất lực là tín ngưỡng. Tín ngưỡng không cho phép chúng ta
dùng lương tri giải thích, bởi vì giá trị của nó chỉ đạt được ở niềm tin mà
thôi.
Chúng ta gần gũi một kẻ hiểm ác, nhưng
nếu chúng ta có đủ niềm tin cho rằng kẻ ấy không hiểm ác thì tâm hồn chúng ta
sẽ cảm thấy khoan khoái, dễ chịu hơn, mặc dù niềm tin chúng ta không đúng với
thực tế.
Một con thuyền sắp chìm ở vùng biển khơi,
hành khách trên thuyền sắp phải chết đuối. Đàng xa lờ mờ một hòn đảo nhô lên
mặt nước. Có người cho rằng đó là con tàu đến cấp cứu, nên đặt trong người một
niềm tin ; có người cho đó là một hòn đảo, và tỏ ra tuyệt vọng. Rồi tất cả
đều chết. Vậy thì trước khi chết tâm hồn của những kẻ tin rằng mình sẽ được cứu
thoát cảm thấy dễ chịu hơn, ít đau khổ hơn.
Một tội nhân sắp đưa lên đoạn đầu đài,
nhưng trước ngày lãnh án, quan tòa an ủi một câu : « tội anh tuy
nặng, nhưng còn có hy vọng giảm khinh ». Mặc dù lời nói đó chỉ là sự dối
gạt, nhưng ít ra cũng làm cho tội nhân ăn ngon ngủ yên, và cảm thấy ít đau khổ
hơn trong những ngày chưa thọ hình.
Tín ngưỡng không cần đến thực tế, chỉ
cần sự an ủi của tâm hồn.
Một kẻ hấp hối trên giường bệnh, ai
cũng biết người ấy sắp chết, nhưng không ai đủ can đảm kề miệng vào tai bệnh
nhân nói cho kẻ ấy biết rằng họ sắp lìa trần.
Một viên y sĩ biết trước một căn bệnh
nan y, và không thể chữa trị nổi, nhưng nếu viên y sĩ ấy nói cho bệnh nhân biết
số phận của họ thì quả là người tàn nhẫn.
Cho nên tín ngưỡng không là mê tín, dù
với một niềm tin nào. Điều đáng nói là trong cuộc sống loài người có những kẻ
khai thác đau khổ của kẻ khác trong phạm vi tín ngưỡng để sống bám vào cái nghề
phỉnh phờ dối gạt ấy mà thôi.
Xã hội Việt-nam chứa đựng nhiều đau
khổ nhất, người bình dân Việt-nam sở dĩ thường đi gieo quẻ, xin xăm là muốn tìm
ở lãnh vực tín ngưỡng một an ủi về tâm hồn. Hành động ấy không phải mê tín, dị
đoan, mà biểu tượng cho cuộc sống xã hội nhiều bất công, đe dọa, thiếu thốn, bất
lực, mà chính họ là kẻ phải gánh chịu nhiều nhất. Chúng ta cũng đừng tưởng rằng
niềm tin của họ bao giờ cũng đi đến chỗ cuồng tín, lạc hậu. Không, từ ngàn xưa,
ý thức họ cũng đã phân biệt những kẻ lợi dụng tín ngưỡng. Đây, chúng ta nghe họ
nói :
Sáng ngày đi ra chợ Đông,
Bói xem một quẻ, lộn chồng được
chăng ?
Ông thầy xem quẻ đoán rằng :
« Lộn thì lộn được nhưng năng
phải đòn ».
Đem việc lộn chồng ra làm đề tài trêu
cợt thần linh, và thái độ hài hước đối với những ông thầy xem quẻ, bàn xăm,
không đủ nói lên ý thức tín ngưỡng của họ không phải là cuồng tín sao ?
Ngày nay, nền văn minh khoa học
Tây-phương tràn sang Việt-nam, những máy móc tinh vi phổ cập khắp trong dân
chúng, những cảnh sống xa hoa vật chất không còn biết phải nói thế nào để diễn
tả nổi. Nhưng, chúng ta đừng tưởng bên cạnh ý thức tân tiến ấy, tín ngưỡng
Việt-nam sẽ đổi chiều và phủ nhận mọi niềm tin của dĩ vãng. Trái lại, văn minh
vật chất càng phát triển, tín ngưỡng Việt-nam càng mở rộng thêm. Chưa bao giờ
nơi một lăng Ông, nơi một đền Thánh, số người đến xin quẻ, xin xăm đông đảo như
lúc này. Với sự lưu tâm, chúng ta sẽ thấy rằng họ đâu hẳn là những người cục
mịch quê mùa, tầm kiến thức còn thấp thỏi, mà lại chính là những người đang
sống trong ánh sáng văn minh vật chất của khoa học Tây-phương.
Mê tín chăng ? Lạc hậu
chăng ? Không ! đó chỉ là trạng thái khổ đau, của hy vọng, của bất
lực mà tâm hồn người dân Việt dù pha trộn đến đâu cũng còn giữ được bản chất
Đông-phương.
6) Về việc xem bói, xem tướng
Xem bói, xem tướng trước kia có nhiều
người cho là tín ngưỡng, nhưng lần lần lãnh vực này tách rời ra khỏi tín
ngưỡng, do lối chứng minh bằng triết học thực tiễn.
Đối với Đông-phương, các nhà ứng dụng
về khoa tướng số đã dùng căn bản dịch lý để phát triển ngành triết học này.
Nguồn gốc của khoa tướng số phát
nguyên do các âm-dương-gia và quan niệm vũ trụ của họ. Các âm-dương-gia ngày
xưa ở Trung-quốc được gọi là những nhà thuật số.
Theo sách Tiền Hán thư ở
phần Nghệ-văn-chí (quyển 30) thì những ngành thuật số được gồm vào sáu
loại :
Thiên văn : phần này,
theo Hán thư văn nghệ chí là để sắp thứ tự hai mươi tám vì
sao, để ghi chép sự vận chuyển của ngũ tinh, nhật nguyệt, để ghi những hiện
tượng lành dữ của mọi biến động thiên nhiên.
Lịch phổ : ngành này
nghiên cứu về việc sắp xếp bốn mùa, chia đúng các tiết, hiểu giờ của mặt trời,
mặt trăng và năm sao, khảo sát lạnh nóng, sống chết… Nhờ thuật này những tai
ách và những điều vui vẻ, tốt lành được biết trước rõ ràng.
Ngũ hành : theo
Nghệ-văn-chí thì ngành này bắt đầu nghiên cứu từ sự biến động của năm nguyên
tố : kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, và suy cho cùng tận thì không có gì là
không thấu hiểu được.
Bói toán : theo
Nghệ-văn-chí thì ngành bói toán xưa đã dùng cỏ thi, mai rùa, xương bò. Với cách
này người thầy bói đục lỗ ở trong vỏ rùa hay trong miếng xương phẳng rồi đem hơ
vào lửa trên chiếc đũa bằng kim loại để làm thành những đường nứt phát ra chung
quanh lỗ. Thầy bói giải thích các đường nứt ấy theo hình trạng chúng để trả lời
câu hỏi nêu ra. Cũng có khi thầy bói dùng cỏ thi làm thành những tổ hợp về số
để giải thích theo Dịch Kinh.
Tạp chiêm : ngành
này nhận xét những hiện tượng sự vật để cắt nghĩa tính chất của sự vật. Ngành
này về sau trở thành ngành xem tay, xem tướng.
Hình pháp : ngành này
cũng nhận xét những hiện tượng sự vật nhưng với sự nghiên cứu rộng rãi hơn, nên
về sau phát triển về khoa địa lý (phong thủy).
Thuật số cũng có ước vọng như khoa học
muốn nghiên cứu và giải thích thiên nhiên một cách tích cực, đồng thời cũng
muốn chinh phục thiên nhiên để phụng sự con người. Tuy nhiên, thuật số lại có
rất nhiều lúc mơ hồ. Trạng thái này không thể trở thành khoa học, nếu không từ bỏ sự
tin tưởng vào năng lực siêu nhiên, để cố giải thích vũ trụ bằng năng lực tự
nhiên.
Vì không cho việc xem bói, xem tướng
là tín ngưỡng, nên chúng ta không bàn đến ở đây. Tuy nhiên, chúng tôi thấy cũng
cần khảo qua ý thức người bình dân Việt-nam thời xưa.
Cũng như chúng ta ngày nay, người bình
dân thời xưa không coi việc xem bói, xem tướng có liên quan đến thế giới vô
hình, nghĩa là không nằm trong phạm vi tín ngưỡng. Họ không biết dịch lý là gì,
nhưng họ cảm thấy qui luật vũ trụ là một hệ thống biến động, có ảnh hưởng đến
cuộc sống con người, do đó họ tìm căn nguyên và kết quả của qui luật biến động
ấy để áp dụng vào sinh hoạt của họ. Họ chỉ lấy kinh nghiệm trong thiên nhiên
làm căn bản cho suy lý. Từ việc đào giếng, cất nhà, chôn cất, ra đi, đến những
việc kiêng cữ thường ngày, phần lớn không hoàn toàn nằm trong phạm vi tín
ngưỡng, mà nằm trong phạm vi rút tỉa những thực nghiệm trong qui luật biến động
của vũ trụ.
Muốn tìm một con ngựa hay, một con
trâu kéo cày giỏi, một con chó có nghĩa, một con heo nuôi mau lớn, họ chỉ cần
xem tướng con vật để quyết định giá trị. Như vậy ý thức về bói, tướng, đối với
người bình dân từ ngàn xưa đã không thuộc phạm vi tín ngưỡng.
7) Về việc sấm truyền
Sấm truyền là lời tiên tri của những
bậc siêu nhân. Siêu nhân đây không phải là thần thánh ẩn hiện trong thế giới vô
hình, mà chỉ là người có tầm hiểu biết đoán trước được những việc quá khứ, vị
lai, căn cứ theo dịch lý của nền triết học Đông-phương. Lời sấm truyền là
những bài thơ, những câu thơ do một danh nhân đề xướng, và được dân chúng
truyền tụng sau một thời gian khi danh nhân ấy đã quá cố. Ở Việt-nam dân chúng
thường nói đến và tin tưởng ở lời sấm Trạng-trình Nguyễn-bỉnh-Khiêm. Sự tin tưởng
ấy không gọi là tín ngưỡng được. Đó chỉ là tính chất tôn sùng sự hiểu biết của
một danh nhân căn cứ trên sự xét đoán đối với qui luật vũ trụ, cho nên, nếu
chúng ta thừa nhận địa hạt bói, tướng không phải tín ngưỡng, thì sấm truyền
cũng không thể là tín ngưỡng. Vậy, ở đây
chúng ta không bàn đến.
Để kết luận phần khảo sát này, chúng
ta thấy phần lớn tín ngưỡng Việt-nam do giáo lý của các tôn giáo ảnh hưởng rất
mạnh. Ảnh hưởng chi phối tâm tư người dân qua muôn đường vạn nẻo, khiến niềm
tin của họ hầu như hỗn độn.
Tuy nhiên, có một điều chúng ta không
thể phủ nhận được là dân tộc Việt-nam luôn luôn lấy tín ngưỡng làm an ủi chứ
không lấy tín ngưỡng làm cứu cánh. Sự pha trộn nhiều tôn giáo, sự tin tưởng
phức tạp trong mọi hình thức chính là chứng cớ rõ ràng để chúng ta có thể đi
vào kết luận vừa nói trên.
Theo phong tục Á-đông, chúng ta có thể
gọi việc thờ cúng tổ tiên của người Việt-nam là một cái « đạo ». Đạo
ở đây không quan niệm là tôn giáo, mà chỉ là sản phẩm của đạo học, nền tảng của
văn minh Đông-phương.
Nền văn minh Đông-phương cấu tạo trên
nhân nghĩa, lấy gia đình, tổ quốc làm cơ sở. Dân tộc Việt-nam trưởng thành trên
ý thức ấy, nên đã lấy tình cảm làm nguồn sống, lấy tinh thần làm cứu cánh cho
nhân sinh :
Con người có tổ có tông,
Cái cây có cội, con sông có nguồn.
Tiếng nói của họ là cả một sức mạnh
của tình thương từ gia đình đến dân tộc.
Xưa nay, trên lịch sử thế giới không
một dân tộc nào không bảo vệ nguồn gốc của mình và không lấy quốc gia làm vinh
dự. Tuy nhiên ý thức của mỗi dân tộc bộc lộ bằng nhiều hình thức khác nhau. Có
những dân tộc phô diễn uy lực quốc gia bằng ý thức tự cường, và tình dân tộc
cũng cấu tạo trên sự hãnh diện ấy. Lại có những dân tộc không lấy yếu tố sức
mạnh làm hãnh diện, mà tình quốc gia, dân tộc được cấu tạo trên tình cảm của
huyết thống, trên sự khổ đau của lịch sử dân tộc, trên sự chia xẻ sinh hoạt qua
dòng thời gian và không gian.
Đạo thờ ông bà của dân tộc Việt-nam
phát xuất ở ý thức thứ hai, mang tính chất sâu xa về tình cảm. Từ chỗ thương
mến, nhớ ơn đi đến chỗ tôn thờ rất thành kính.
Ông Phan-Kế-Bính trong Việt-nam
phong tục có viết : « Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là
thành kính. Ấy cũng là một lòng bất vong bản. Ấy cũng là nghĩa cử của con
người… Cây có gốc
mới nở ngành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu, thì con người có
tổ, có tiên mới có thể có mình được… »
Nhận xét như vậy, ông Phan-Kế-Bính
cũng không đặt ngoài ý niệm đạo lý. Tuy nhiên, trong tính chất « đạo thờ ông bà »
của dân tộc Việt-nam, chúng ta lại còn tìm thấy một nguồn gốc sâu xa hơn. Đó là
tình cảm. Vậy chúng ta
thử đi tìm nguồn gốc.
Nói đến đạo thờ ông bà thường thường
người ta nghĩ ngay đến hình thức cúng giỗ, tế tự, nhưng thực ra, hình thức ấy
chỉ là hậu quả của hiếu đạo, phản ảnh của tình thương trong gia đình.
Tình gia đình đối với người Việt-nam
là cơ sở phát triển và nuôi dưỡng mọi tình thương. Không có gì tồn tại trong
lòng người bằng những khổ cực, vui buồn cùng chia sớt với nhau hàng ngày trong
cuộc sống. Gia đình chính là nơi chất chứa những kỷ niệm ấy. Tại sao con phải
thương cha mẹ ? Tại sao cha mẹ lại thương con ? Ngoài yếu tố huyết
thống, chính là tình cảm gia đình đã để lại trong lòng mỗi người những kỷ niệm
mến yêu.
Một ông già luống tuổi, trầm tư trước
hoàng hôn, bức tranh dĩ vãng quây dần dần trong ký ức của ông, những hình bóng
từ lúc thiếu thời cho đến khi già nua, trong bức tranh ấy không thể thiếu những
bộ mặt gần gũi, thân yêu là ông bà, cha mẹ, con cái của ông.
Thiếu những hình bóng gần gũi, thân
yêu ấy lịch sử đời người không còn giá trị tình cảm nữa.
Một đứa trẻ thơ khóc mếu máo trông mẹ
về chợ, không phải đói lòng, mà nó cảm thấy thiếu một cái gì trong những giờ
phút xa vắng mẹ nó.
Sự quyến luyến người thân trong gia
đình không phải đợi đến lúc chết, mà ngay trong lúc sống. Bởi vậy, trong lúc
sống, họ đã cảm thấy những hiện tượng đau buồn khi thiếu thốn :
Có cha có mẹ thì hơn,
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.
Hoặc : Còn cha gót
đỏ như son,
Một mai cha chết, gót con như chì.
Sự thiếu thốn tình cảm đối với kẻ thân
yêu trong gia đình, nhất là đối với ông bà cha mẹ, đã nhiều lúc làm cho lòng
người cảm thấy bùi ngùi :
Mẹ già ở chốn lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
Hoặc : Công cha như
núi Thái-sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Công cha, nghĩa mẹ là gì ? Phải
chăng đó là công phu nuôi dưỡng, bảo vệ đứa con ? Phải chăng đó là những
hình ảnh cam khổ trong cuộc sống mà mỗi gia đình đều phải trải qua đối với con
cái ?
Hình ảnh ấy không bao giờ mất trong
thế giới đạo học. Nó tồn tại trong tình cảm con cái, đúc kết thành tình thương
yêu đối với gia đình.
Tuy nhiên, nếu tình cảm con người tăng
trưởng theo thời gian, chất chứa mỗi lúc một đầy thêm thì thể chất con người
lại bị thời gian làm mòn mỏi, cằn cỗi và tiêu diệt.
Sự mất mát của thể chất đã không làm
phai mờ mà còn tăng thêm tình cảm con người trong nhớ nhung, mến tiếc.
Cho nên, những hình thức cúng giỗ, tế
tự của con cái đối với ông bà, cha mẹ, chính là hậu quả của nhớ thương, của mất
mát trong cuộc sống gia đình.
1) Ý thức đối với người chết
Chúng ta chưa vội nói đến tín ngưỡng,
vì tín ngưỡng chưa phải là nguồn gốc phát sinh đạo thờ ông bà, mà chỉ ảnh hưởng
do lịch sử xã hội đem đến.
Đạo thờ ông bà phát xuất do tình cảm
của con người sống trong thế giới đạo học. Mặc dù qui luật vũ trụ bắt vạn hữu
phải sinh để rồi diệt, phải có để rồi không, nhưng tình cảm con người không
muốn như vậy. Tình cảm con người muốn người thân luôn luôn gần gũi với mình, do
đó, mặc dù không phải phá vỡ được qui luật thiên nhiên, họ vẫn xem người chết
như lúc còn sống, nghĩa là họ đem tình cảm nối liền giữa cõi chết và cõi sống.
Như vậy, căn bản thờ phụng tổ tiên của
người Việt-nam ban đầu không phải do ý thức tín ngưỡng, mà phát xuất ở tình
cảm, để giải quyết những gì nhớ nhung cảm mến trong lòng họ.
Kính trọng người chết, kẻ còn lại phải
làm sao ? Nếu chỉ để những nhớ thương, cảm mến trong lòng, không bộc lộ ra
ngoài, con người không thể chịu nổi.
Mùa thu đến với thi nhân, gợi lên muôn
ngàn vẻ đẹp, thi nhân không thể chỉ đem cảm giác mình để thưởng thức mà không
bộc lộ tình cảm ấy bằng lời thơ.
Một đứa con mang tình thương đối với
cha mẹ, nếu tình thương ấy không biểu lộ qua những hình thức phụng dưỡng, nuôi
nấng, đứa con sẽ cảm thấy như mình chưa toại nguyện.
Một chàng trai ôm ấp yêu đương, dù
tình nhân không thể hội diện, chàng trai ấy cũng phải có những cử chỉ thế nào
để vơi đi những tình cảm hiện hữu đang ứ đọng trong lòng.
Tình thương giữa người sống và người
chết cũng thế. Xã hội loài người chưa bao giờ ngăn cấm những hành động nhớ
nhung giữa người sống và người chết, do đó, con người có đủ tự do cởi mở những
cảm giác lắng đọng trong tâm hồn mình đối với lãnh vực này.
Người Việt-nam đã chọn hình thức cởi
mở tình cảm đối với người chết bằng cách cúng giỗ.
2) Việc cúng giỗ
Cúng giỗ tượng trưng cho tình thương
con cái đối với tổ tiên. Tình thương ấy đã đưa quan niệm người Việt-nam đến chỗ
« sống sao thác vậy ».
« Sống sao thác vậy » có
nghĩa là tuy người còn kẻ mất, nhưng lòng kính mến vẫn xem như lúc còn sống.
Để ghi nhớ người thân yêu trong gia
đình đã mất, còn gì hơn là hàng năm con cháu tụ họp dưới mái gia đình để tưởng
nhớ. Đã có sự tụ họp tất nhiên phải ăn uống, mà con cháu ăn uống chẳng lẽ không
tưởng đến người chết. Vì vậy, cúng giỗ là để cho con cháu tưởng nhớ, và việc sắm
mâm cao cổ đầy trước tiên để tưởng nhớ, sau đó là để con cháu sum vầy.
Cho nên, tính chất căn bản của cúng
giỗ là do phong tục chứ không phải tín ngưỡng. Nó phát lộ ở lòng thành kính. Trong ca dao người
bình dân đã có ý niệm rằng :
Trâu heo khi chết tế ruồi,
Chẳng bằng khi sống ngọt bùi còn hơn.
Như vậy, chính họ đã xác định tình cảm
con người là yếu tố chính trong việc cúng giỗ.
Trong quyển Tín ngưỡng
Việt-nam, ông Toan-Ánh có ghi một đoạn : « Giỗ có làm to hoặc làm nhỏ tùy theo
gia cảnh, tùy theo con cháu đông hay vắng, và nhiều khi lại tùy theo sự liên
lạc ( ?) giữa người
sống và người chết. Giỗ cha mẹ, giỗ ông bà thường làm to, giỗ anh em, chú bác
cùng các vị cao, tằng, khảo, tỷ thường chỉ cơm canh, cúng đơn sơ để khỏi bỏ
giỗ. Trong những giỗ này người ta gọi là giỗ mọn, không có mời bạn bè thân
thuộc, chỉ trong nhà cúng rồi ăn với nhau ».
Phản ánh tính chất trên, rõ ràng yếu
tố tình cảm chiếm địa vị quan trọng trong việc thờ phụng ông bà. Sở dĩ những
bậc ông bà cao, con cháu cúng giỗ sơ sài hơn là vì tình cảm của con cháu đối
với những bậc ông bà cao không nồng đượm bằng những người gần gũi với thời
gian, với sinh hoạt.
Đã thừa nhận tình cảm là nguồn gốc của
đạo thờ ông bà, chúng ta không thể thừa nhận quan niệm sau đây của một nhà khảo
cứu về phong tục Việt-nam đã viết : « Trong ngày giỗ người ta làm cỗ bàn mời thân
bằng quyến thuộc. Ở thôn quê, ngày giỗ là một dịp để gia chủ được mời lại những
người đã từng mời mình đi ăn uống. Người ta gọi là « trả nợ miệng ».
Nhận xét như vậy quả đã làm sai lạc
tính chất tình cảm thiêng liêng trong đạo thờ ông bà của người Việt-nam. Đối
với con cháu, ngày giỗ phải về đông đủ là để tưởng nhớ người quá cố. Còn đối
với thân bằng cố hữu, được mời đến không phải là vì miếng ăn, mà chính để gia
chủ có dịp tỏ lòng hiếu thảo của mình cho mọi người thấy. Cho nên, mời khách
đến ăn giỗ cũng chỉ là một hình thức hiếu đạo mà thôi. Dĩ nhiên, việc mời mọc
trong các ngày giỗ phải có qua có lại, nghĩa là người này mời người kia thì
người kia phải mời lại. Tuy nhiên, mời lại không phải là để « trả nợ
miệng » mà để tỏ cho kẻ khác biết lòng hiếu đạo của mình cũng không kém gì
kẻ khác.
Ở thôn quê Việt-nam, khách đến dự ngày
giỗ của một nhà nào tức là đem đến gia chủ một vinh dự. Nói cách khác, khách
đến dự ngày giỗ tức là chia sớt với gia chủ tình nhớ thương mến tiếc đối với
ông bà cha mẹ họ. Bởi vậy, gia chủ phải trọng khách, và trọng khách trong những
ngày giỗ tức là tăng niềm hiếu đạo của con cái trong gia đình.
Với quan niệm không coi « miếng
ăn » trong ngày giỗ là quan trọng bằng tình cảm, nên người bình dân
Việt-nam đã nói qua ca dao : « Ăn buổi giỗ, lỗ buổi cày ».
Nếu không vì tình cảm đối với gia chủ,
có lẽ họ chú trọng việc đồng áng hơn là đi dự một đám giỗ.
Tuy nhiên, đối với người cúng giỗ thì
càng nhiều khách khứa bao nhiêu, càng tổ chức mâm cao cỗ đầy bao nhiêu, thì
tình cảm của họ đối với ông bà, tổ tiên nồng đượm bấy nhiêu.
Họ bảo : « Một ngày giỗ
cha, ba ngày hút nước ».
Con cái rất nặng tình với cha mẹ, nên
thường thường ngày giỗ cha mẹ là ngày giỗ lớn nhất trong gia đình, và khách
khứa được mời đông nhất. Cứ những thức ăn còn lại, con cái phải ăn đến đôi ngày
sau mới hết.
Mặc dù, trong thế giới đạo học, tình
cảm đã được mọi dân tộc ghi sâu đậm, thậm chí đã trở thành một tập tục như đạo
thờ ông bà ở Việt-nam, nhưng tình cảm cũng là trạng thái biến động, không phải
bất di bất dịch trong lòng người, nó sẽ phai nhạt với thời gian, không gian. Vì
vậy, đạo thờ ông bà phát sinh hình thức thừa tự.
Thừa tự tức là đặt nhiệm vụ cúng giỗ
vào người con trưởng của dòng đích tôn. Muốn cho dòng đích tôn có đủ khả năng
thờ cúng, con cháu trong họ lập nhà từ đường và trích những bất động sản làm
hương hỏa gọi là đặt tự. Dòng đích tôn hưởng hoa lợi của tài sản hương hỏa để
lo việc cúng giỗ.
Tính chất lập hương hỏa để cúng giỗ
ông bà, chính là dân tộc Việt-nam đã dự liệu mọi biến động của tình cảm con
người. Tình cảm chỉ đến với con người như hình ảnh sinh hoạt chứa đựng trong sự
liên hệ của thời gian. Ngoài yếu tố liên hệ về sinh hoạt, tình cảm con người sẽ
phai nhạt dần và đi sâu đến chỗ tiêu diệt.
Người Việt-nam không muốn tình thương
đối với ông bà cha mẹ mình ngày nay lại bị tiêu diệt ở ngày mai. Họ muốn tình
thương ấy tồn tại mãi trong lòng con cháu như đang nồng đượm trong lòng họ, dù
phải vượt qua bao nhiêu thời gian, trải qua bao nhiêu thế hệ.
Hình thức thừa tự hương hỏa chính là
biểu tượng của hiếu đạo, muốn giữ tình cảm con người trong trạng thái bất biến.
3) Việc chạp mả
Cúng giỗ đi đôi với việc chạp mả. Cứ
hàng năm vào khoảng tháng chạp, mọi gia đình đi tảo mộ, vun những nấm mồ, chặt
những cây cối quanh mả, nói chung là bảo vệ phần mộ của ông bà tổ tiên.
Người chết để lại những gì ?
Chúng ta có thể nói rằng họ chỉ để lại ở người sống một tình cảm và một nấm mồ.
Với tình cảm, người sống đã biểu lộ bằng cúng giỗ, với nấm mồ người sống đã biểu
lộ niềm thương yêu bằng cách thăm viếng, sửa sang, xem như đó là nơi an nghỉ
cuối cùng của kẻ vĩnh biệt.
Không nhìn thấy người quá cố, con cháu
hàng năm nhìn lại nấm mồ để tưởng nhớ người chết, trút vào đó những kỷ niệm của
dĩ vãng không phải là trạng thái biểu lộ lòng nhớ nhung, thương mến sao ?
Khi con cháu sống dưới mái tranh êm
đềm tất nhiên không thể không liên tưởng đến cảnh quạnh quẽ, cô liêu, nơi mà họ
đã gởi thân xác của ông bà cha mẹ họ. Vì vậy, sửa sang phần mộ cũng nằm trong
tính chất hiếu đạo của con cái.
Với quan niệm ấy, tục ngữ Việt-nam đã
có câu : « Cao nấm ấm mồ ».
Dĩ nhiên, dù họ là người bình dân chất
phác, họ vẫn biết rằng thể xác con người khi chết đi phải tan rã trong lòng
đất. Như vậy tại sao họ lại chủ trương « cao nấm ấm mồ » ?
Xét như vậy, « ấm mồ » theo
quan niệm người dân Việt-nam không phải là ấm thể xác của người chết, mà ngược
lại ấm ở cõi lòng người sống. Người sống khi thấy nấm mồ được vun cao tự hiểu
rằng người chết hiện được con cháu phụng thờ. Cảm giác ấy làm cho họ thấy ngôi
mộ được ấm áp.
Bằng chứng là người Việt-nam luôn luôn
tỏ vẻ thương hại đối với những nấm mồ hoang.
Thực vậy, có gì thê lương ảm đạm bằng
buổi trời chiều, một ngôi mồ hoang nằm giữa cảnh hoang vu. Trong thế giới đạo
học, thi nhân thường mượn những cảnh ấy để nói lên nỗi lòng ngao ngán trong cõi
sống loài người.
Ông Nguyễn-Du cũng đã tả cảnh đau buồn
của nàng Kiều khi trông thấy nấm mồ hoang của Đạm-Tiên trong tiết
Thanh-minh :
Sè sè nấm đất bên đường,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh.
Rằng : « Sao trong tiết
Thanh-minh,
Mà đây hương khói vắng tanh thế
này ? »
(Kiều)
Một vùng cỏ úa, một nấm đất bị gió mưa
tàn phá không được sửa sang, sự lạnh lẽo, u buồn ấy đã do tình cảm con người mà
có. Chết là hiện tượng của mất mát, nhưng lòng người lại muốn biến sự mất mát
ấy bằng sự tồn tại, dù sự tồn tại ấy chỉ là một nấm đất.
Ở miền quê Việt-nam, nếu ai đã có dịp
đi đến những đồi hoang, gò cát, chân núi, bờ khe, và nhìn từng nấm mồ rải rác
đó đây, sẽ thấy quang cảnh mồ mả chẳng khác quang cảnh nhà cửa của người dân.
Nếu nhà cửa dân gian thỉnh thoảng có những mái ngói xen lẫn những túp lều tranh,
thì mồ mả thỉnh thoảng cũng xen vào những ngôi mộ có bia đá, có thành quách, tô
vôi, xây gạch. Đó là chưa kể những khác biệt nhau về ngôi lớn, ngôi nhỏ, ngôi
cao, ngôi thấp. Hiện tượng ấy chứng tỏ cuộc sống người dân quê Việt-nam nối
liền với cõi chết của tổ tiên. Nhà giàu, mồ mả tổ tiên được đắp điếm sang
trọng, nhà nghèo, mồ mả tổ tiên chỉ được săn sóc theo điều kiện sinh sống của
họ. Đến như những bậc vua chúa, mồ mả tổ tiên họ là những lăng tẩm uy nghi
tráng lệ. Từ sự liên hệ tình cảm giữa người sống và người chết, các lăng tẩm đế
vương đi dần đến những kỳ quan quốc gia.
Tóm lại, việc sửa sang mồ mả từ ngàn
xưa cho đến ngày nay vẫn mang yếu tố căn bản là tình cảm gia đình nằm trong
« đạo thờ ông bà » của người dân Việt, và đã trở thành phong tục.
4) Sự tôn kính và kỵ úy
Người Việt-nam đối với tổ tiên chẳng
những thương mến mà còn tôn kính nữa. Lòng tôn kính bộc lộ rõ ràng nhất trong
tập tục kỵ úy. Tập tục này không cho phép con cháu nói đến tên ông bà, cha mẹ,
hoặc tổ tiên.
Trong quyển Tín ngưỡng
Việt-nam, ông Toan-Ánh có viết : « Con cháu kiêng không nói đến tên ông, bà, cha, mẹ.
Nếu trong đời sống hàng ngày có những tiếng trùng với tên của các bậc này, con
cháu sẽ gọi tránh đi, hoặc tìm một tiếng đồng nghĩa để thay vào. Ví dụ, Hà-đông
gọi là Hà-đương, thịt đông gọi là thịt đặc, hoa gọi là bông, quả bưởi gọi là
quả bồng, trái banh gọi là trái bóng, v.v… Đối với tổ tiên là các vị đã khuất, sự kiêng tên càng
được giữ gìn hơn. Khi con cháu làm điều không phải bị người khác gọi tên ông bà
cha mẹ đã khuất ra mà réo, mà chửi là một điều tủi hổ lớn lao, có thể gây nên
thù oán sâu đậm được. Chính để tránh cho người khác khỏi xúc phạm đến tổ tiên
mình, mọi người đều giữ gìn trong điều ăn, nếp ở, cố làm sao không gây bất cứ
sự đụng chạm nào. Trong lúc
giỗ, phải khấn đến tên tổ tiên, người gia trưởng cũng lâm râm khấn rất khẽ, e
khấn to có người nghe tiếng là phạm tội bất kính. Các con cháu còn nhỏ
không được biết đến tên tổ tiên, e chúng nhắc bậy bạ phạm đến các người, gây
điều bất hiếu cho cha mẹ. Trước khi đặt
tên cho con cháu, cha mẹ phải kiêng cữ, không được đặt trùng những tên của tổ
tiên ».
Như vậy, tập tục kỵ úy trong gia đình
cũng vẫn phát nguồn từ ý thức tôn kính ông bà cha mẹ mà ra, và nằm trong đạo
thờ ông bà của người dân Việt.
Tuy nhiên, nếu ý thức ấy ăn sâu vào
phong tục người dân, thì ý thức ấy lại đưa đến người dân một phản ứng. Đó là
việc nguyền rủa, nhục mạ.
Người dân Việt-nam vì quan niệm gọi
đến tên ông bà cha mẹ là làm nhục con cháu, cho nên, mỗi khi muốn làm nhục ai,
họ gọi tên ông bà cha mẹ người ấy ra để chửi mắng bằng những tiếng thô bỉ. Việc
chửi mắng như vậy thường xảy ra trong những trường hợp xích mích, giận dữ. Tuy
về vật chất, người bị chửi mắng không thiệt hại gì, nhưng về tinh thần thì đó
là một sỉ nhục đáng kể.
Đối với những kẻ có quyền thế trong
giai cấp thượng lưu quí tộc, việc chửi rủa ít xảy ra, bởi vì khi họ muốn trả
thù, hoặc nhục mạ ai, họ đã có đủ phương tiện làm cho kẻ khác phải thiệt hại.
Ví dụ nàng Hoạn-Thư khi ghen tức nàng Kiều thì :
Tính rằng cách mặt khuất lời,
Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho.
Lo gì việc ấy mà lo,
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu.
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên.
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người tham ván bán thuyền biết
tay.
Chước đâu, có chước lạ đời,
Người đâu mà lại có người tinh ma.
Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm cho con ở, chủ nhà, đôi nơi.
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không
dao…
(Kiều)
Còn người bình dân thì không thế. Họ
không có một quyền uy, một khả năng nào để làm hại kẻ khác, nên họ đã dùng
phong tục tập quán để phản ứng. Chúng ta không lấy làm lạ, khi thấy người bình
dân thường hay dùng lời thô bỉ để mắng chửi nhau. Họ bảo :
Chửi cho tan mồ nát mả.
Chửi cho bay tóc trán.
Thực ra đó chỉ là một hình thức trừng
phạt về tinh thần, mà người bình dân Việt-nam đã phản ứng do ý thức thờ phụng,
tôn kính ông bà, tổ tiên mà ra.
Trên đây chúng ta vừa khảo sát qua
tính chất căn bản về đạo thờ ông bà của người Việt-nam, và xác định đạo thờ ông
bà không phải một tín ngưỡng hoặc một tôn giáo.
Tuy nhiên, sinh hoạt xã hội loài người
bao giờ cũng ảnh hưởng vào thời gian, không gian để tạo thành lịch sử. Bởi vậy,
ý thức con người cũng biến chuyển theo. Nếu đạo thờ ông bà của dân tộc Việt-nam
nguồn gốc là do tình cảm phát sinh, thì lịch sử sinh hoạt xã hội lại đưa nguồn
gốc ấy dần dần từ tình cảm sang tín ngưỡng.
Ý thức đối với người chết ban đầu vì
thương yêu, kính mến mà tôn thờ, nhưng về sau những ý thức hệ tôn giáo du nhập
vào nước, tín ngưỡng Việt-nam chịu ảnh hưởng, chi phối, và dần dần sự tôn thờ
người chết được quan niệm theo tín ngưỡng về thần linh.
1) Tình cảm đi vào thế giới thần linh
Như ở các mục vừa rồi, chúng ta đã xét
thấy tôn giáo đem đến cho thế giới loài người một cõi siêu hình để giải quyết
trọn vẹn về sự còn mất trong vạn hữu.
Người chết đi về đâu ? Tín ngưỡng
đã đi đến tôn giáo và hình dung một cõi siêu sinh, trong đó là thế giới của người
chết. Tín ngưỡng Việt-nam đã tin có ma quái, có thần linh, thì đối với ông bà,
cha mẹ, tổ tiên không thể chịu ảnh hưởng về hệ thống siêu hình ấy.
Cho nên, khi tình cảm đã đi vào tín
ngưỡng, sự thờ cúng tổ tiên mang một sắc thái khác biệt với thuở ban đầu.
Từ hình thức tống táng đến việc phụng
thờ, ý thức người sống đối với người chết là làm sao vong hồn người chết được
tiêu diêu nơi cực lạc, ý thức ấy đã tạo thành một số nguyên tắc về lễ nghi,
thoát ra ngoài biểu tượng của tình cảm, và nặng về tín ngưỡng nhiều hơn.
Đây, chúng ta thử lược dẫn một vài tập
tục để chứng minh ý thức tín ngưỡng trong đạo thờ ông bà.
Ông Toan-Ánh có viết trong Tín
ngưỡng Việt-nam :
Quan niệm vong hồn gia tiên luôn luôn
ở gần mình, người sống luôn luôn như tiếp xúc với giới vô hình qua việc cầu
cúng, lễ bái.
Theo Phan-Kế-Bính : « Mỗi
tuần tiết hoặc ngày kỵ đều có làm lễ cáo gia tiên, hoặc mùa có của mới, gạo mới
hoặc khi có việc hiếu hỉ ».
Đấy chỉ là kể sơ lược, chính ra nhất
nhất mỗi biến cố xảy ra trong gia đình, gia chủ đều khấn vái gia tiên, trước là
để trình bày sự kiện, sau là để xin sự phù hộ giúp đỡ.
Nhà nuôi được một lứa lợn lớn, đem bán
xong, gia chủ cũng có một lễ mọn gồm trầu cau, vàng rượu, hoa quả để cáo gia
tiên. Đây cũng là một cách lễ tạ ơn vì gia tiên đã phù hộ cho lứa lợn nuôi trót
lọt.
Nửa đêm con trẻ trong nhà bất thần trở
mình đau sốt, gia chủ lập tức khấn vái gia tiên để xin phù hộ cho đứa trẻ được
tốt lành, tai qua nạn khỏi. Lúc này, đêm hôm nếu có trầu cau càng tốt, bằng
không chỉ cần chén nước lạnh với lòng thành thắp hương khấn vái trên bàn thờ là
đủ.
Người đi buôn gặp dịp buôn may bán
đắt, không bao giờ quên lễ gia tiên, cũng như lúc bắt đầu bỏ vốn ra buôn bán,
đã có lời van vái cúng lễ trước.
Mỗi khi nhà có mùa hoa quả mới, trước
khi ăn, con cháu bao giờ cũng nghĩ đến việc hương đèn cúng kính…
Đấy chỉ là những việc nhỏ. Còn những
biến cố quan trọng gia đình tất nhiên gia trưởng đều có lễ cáo gia tiên :
- vợ sinh con
- con đầy cữ, đầy tháng, đầy năm
- con cái bắt đầu đi học
- con cái sửa soạn đi thi
- con cái thi đỗ
- gả chồng cho con gái, dựng vợ
cho con trai
- lập được công danh, nghĩa là
được bầu vào các chức việc trong làng
- mua được phẩm hàm
- khao vọng
- xây dựng nhà mới, nhiều khi chỉ
lát gạch một chiếc sân, hoặc xây một bức tường
- đi dự một giải thi gì ở một hội
hè nào.
Những biến cố trên là những biến cố
vui mừng, con cháu trình báo tổ tiên để tổ tiên chia xẻ cái mừng với con cháu,
và cũng nhiều khi là dịp con cháu tạ ơn tổ tiên đã phù hộ độ trì cho mình cầu
được, mong nên. Tùy từng trường hợp, việc cáo gia tiên gia chủ chỉ cần sửa một
lễ nhỏ như đĩa xôi, nải chuối, ly rượu, hương đèn, hoặc cũng có khi làm cỗ bàn
cúng mặn. Lễ vật không đáng kể, điều cần thiết là lòng thành của con cháu.
Những biến cố buồn xảy ra trong gia
đình con cháu cũng trình khấn lên tổ tiên, như :
- có người mệnh một
- lúc bắt đầu đưa ma người mệnh
một
- trong nhà có người ốm đau
- gặp những chuyện không hay như
buôn bán thua lỗ, bị kiện cáo
- có người phải đi xa, v.v…
Cáo với gia tiên những biến cố buồn,
con cháu trình để tổ tiên rõ mọi việc xảy ra, và cầu xin tổ tiên phù hộ cho
được qua mọi sự không may.
Ngoài những biến cố xảy ra trong gia
đình, còn có nhiều trường hợp con cháu cũng làm lễ gia tiên, kêu cầu khấn vái
như :
- trong làng bỗng có vụ cướp xảy
ra, gia chủ vội khấn tổ tiên dun rủi cho kẻ cướp đi khỏi làng, không đến quấy
rối nhà mình.
- nước đang thanh bình bỗng có
loạn, con cháu cũng cầu xin tổ tiên phù hộ cho toàn gia tránh khỏi mọi tai họa
trong lúc loạn lạc
- một bệnh dịch phát sinh, con
cháu xin với tổ tiên phù hộ tránh khỏi tai ách nguy nàn
- trong làng mở hội, con cháu vui
mừng cũng có lễ cúng tổ tiên.
Tóm lại, con cháu tin tưởng ở sự phù
hộ của tổ tiên, và ở sự hiện diện của tổ tiên quanh mình, nên bất cứ mọi việc
to nhỏ gì xảy ra liên quan đến gia đình, con cháu đều cáo gia tiên.
Chúng ta không lấy làm lạ khi thấy ý
thức thờ phụng tổ tiên của dân tộc Việt-nam nhuộm đầy màu sắc tín ngưỡng.
Một dân tộc nhỏ bé, luôn luôn sống
dưới sự đe dọa của mọi chế độ chính trị, bao nhiêu đau khổ, tủi hờn dồn dập,
lắng đọng trong lòng họ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tinh thần người dân dù
có cứng rắn đến đâu cũng phải có lúc chán nản, yếu mềm. Trong đau khổ, họ đã
lấy tín ngưỡng làm cứu cánh cho tâm hồn, thì ông bà tổ tiên là những người thân
của họ, tâm hồn sao khỏi nghĩ đến nhờ vã ông bà, tổ tiên.
Một đứa trẻ bị người hàng xóm hiếp
đáp, không đủ sức chống chế, chạy về nhà mếu máo mách với cha mẹ để cầu cứu.
Một con vật mới sanh bị con vật khác
đe dọa vội chạy núp vào lòng mẹ nó.
Ông bà cha mẹ lúc sống đã xả thân bảo
vệ gia đình con cái, cho đến lúc chết đi, con cái vẫn còn đòi hỏi sự giúp đỡ ấy
mãi mái. Cái gì đã phát sinh hiện tượng như vậy ? Thật ra, nó chỉ là tình
thương. Tuy với ý thức tín ngưỡng, tình thương vẫn là căn bản cho tập tục ấy.
Và đây là một tập tục khác, cũng từ
trạng thái tình cảm đi đến trạng thái tín ngưỡng trong đạo thờ ông bà.
Ông Huỳnh-thúc-Kháng có viết một bài
biên khảo trong báo « Tiếng Dân » về tục « hóa
vàng » của người dân Việt :
Ông viết : « Người Việt-nam
có tập tục mỗi khi cúng giỗ, con cháu đốt vàng bạc, giấy tiền để ông bà đem
xuống cõi âm ăn tiêu. Mặt khác,
những gia đình giàu sang trong ngày tuần tự còn làm những đồ mã (đồ bằng giấy
như nhà cửa, chén bát, võng lọng, gia nhân, v.v…) Nói chung tất cả những đồ dùng
hàng ngày trong lúc ông bà còn tại thế, và đem đốt đi để ông bà ở suối vàng
lãnh lấy mà dùng. Tập tục này
tuy là mê tín, dị đoan, song đó cũng là lòng hiếu đạo của con cháu đối với ông
bà cha mẹ… »
Trong quyển Tín ngưỡng
Việt-nam, ông Toan-Ánh cũng có viết : « Hóa vàng còn
gọi là nấu vàng, tức là đem đốt những vàng mã, vàng nghìn, hoặc vàng giấy của
con cháu gởi giỗ, hoặc khách khứa mang tới. Phải kể cả những tấm hàng, những
cuộn giấy đủ màu, tượng trưng cho những tấm vải, con cháu đã mua cúng trong
ngày giỗ cũng được hóa cùng với vàng ma… Lúc hóa vàng, con cháu đổ vào đống lửa một
chén rượu cúng. Chén rượu này cốt để biến những vàng mã trên dương gian thành
vàng thật, đồ dùng dưới âm phủ. Người ta lại còn hơ một chiếc đòn gánh hoặc một
chiếc gậy trên ngọn lửa, có ý rằng các cụ sẽ dùng chiếc đòn gánh hoặc một chiếc
gậy này để gánh vàng mã về cõi âm… »
Theo lời biên khảo của ông
Huỳnh-thúc-Kháng cũng như ông Toan-Ánh, chúng ta thấy ý thức hóa-vàng trong
việc thờ cúng tổ tiên đều pha trộn giữa tình cảm và tín ngưỡng.
Nếu đặt ý thức tín ngưỡng ra ngoài,
một lá vàng bạc bằng giấy, đốt đi là cả một tấm lòng thành kính và thương yêu
của con cái đối với ông bà tổ tiên. Khi nghĩ đến ông bà, tổ tiên, người dân
Việt-nam cảm thấy ông bà tổ tiên sẽ khổ sở, nếu bị thiếu thốn tiền bạc. Ý thức
ấy phát xuất từ cõi sống của nhân gian. Làm sao biết được ở cõi siêu hình, hồn
người chết sống bằng cách nào ? và sinh hoạt ra sao ? Tiền bạc ở
dương thế có giá trị đối với cõi âm phủ chăng ? Điều đó thuộc phạm vi tín
ngưỡng, căn cứ ở niềm tin không ai giải thích nổi. Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến
trong ý thức tín ngưỡng lại chất chứa một tình cảm sâu xa. Không cần biết vàng
bạc bằng giấy có giá trị ở cõi âm hay không, nhưng trên thực tế, đối với người
sống, một mảnh giấy vàng bạc đốt đi là đốt cả một nguồn tình cảm trộn vào vong
linh người chết.
Ở các nước văn minh khoa học, nhiều
người cho việc cúng vái, đốt vàng bạc giấy trong lúc lễ bái tổ tiên là một việc
làm vô ý thức, mê tín dị đoan. Gần đây, các nhà lãnh đạo quốc gia, ý thức theo
nền văn minh tân tiến, cũng hô hào dân chúng bỏ tục lệ ấy.
Tuy nhiên, mặc dù là hấp thụ thế giới
văn minh khoa học, mặc dù đã bị ý thức khoa học đả kích, đến ngày nay dân tộc
Việt-nam vẫn giữ tục lệ ấy trong đạo thờ ông bà.
Tại sao có việc lạ lùng như vậy?
Nếu chúng ta ý thức rằng đạo thờ ông bà của dân tộc Việt-nam xuất phát ở tình
cảm, thì mọi lễ nghi, tập tục trong việc cung kính cũng không tách ra ngoài yếu
tố tình cảm.
Đốt vàng bạc giấy cho người chết dù
không giải thích được niềm tin của mình một cách vững chắc, nhưng về phương
diện tình cảm đã đáp ứng một cách mạnh mẽ nhu cầu đối với người sống.
Người sống phải làm gì để thương yêu,
tưởng nhớ người chết, nếu không nhờ vào địa hạt tín ngưỡng. Một tờ vàng giấy
đốt đi, chưa cần tìm hiểu nó có ích lợi gì cho người chết hay không, thì hiện
tại, chúng ta đã
thấy ở cõi lòng người sống chan chứa một tình thương và tưởng nhớ. Cho nên, dù
là mê tín, dị đoan, nhưng người Việt-nam không thể bỏ tập tục ấy được chỉ vì họ
phải nhờ vào tập tục ấy để làm ấm dịu trong hồn họ bằng sự bày tỏ một niềm
thương, một sự kính mến, mà ngoài những hành động ấy không có cách nào phát lộ
được.
2) Những câu chuyện trong dân gian đối với người chết đi dần vào
tín ngưỡng
Ở mục trên, chúng ta đã thấy tín
ngưỡng là nguồn an ủi con người trong đau khổ, băn khoăn, lo lắng, là con đường
để thỏa mãn những thắc mắc trong cuộc sống loài người.
Tuy nhiên, khi tín ngưỡng đã đi vào
cuộc sống con người thì tín ngưỡng lại ảnh hưởng và chi phối mọi mặt. Đạo thờ
ông bà của dân tộc Viêt-nam cũng thế. Từ tình cảm bước sang địa hạt tín ngưỡng,
ý thức đối với người chết tự nhiên thay đổi hẳn.
Một đứa con sống gần gũi với người mẹ,
thường ngày đi vào phòng ngủ của người mẹ với cảm giác thân mật, ấm cúng. Nhưng
cũng với căn phòng ấy, khi người mẹ chết đi, đứa con bước vào phòng cảm thấy
lạnh lùng, sợ hãi. Do đâu có sự thay đổi về cảm giác như vậy ? Rõ ràng ý
thức tín ngưỡng đã chi phối tình cảm con người.
Ở khắp miền quê Việt-nam, trong những
đêm gió lạnh, mưa phùn, trẻ con quây quần nhau quanh bếp lửa thường kể chuyện
ma, những câu chuyện mà chúng đã được nghe người lớn kể lại.
Những câu chuyện ma thường có ít nhiều
dính líu đến vong hồn những người vừa chết trong xóm, trong làng.
Sau đây chúng tôi xin lược dẫn một ít
câu chuyện về tín ngưỡng được lưu truyền trong dân gian, có ảnh hưởng đến việc
thờ cúng ông bà.
Hồn thư : Ở miền quê người ta
thường kể chuyện hồn thư mỗi khi có người vừa chết. Hồn thư là đốm lửa màu
xanh, lớn nhỏ tùy số mạng và chức phận người chết. Hồn thư nhỏ và mờ mịt nhất
là hồn thư «ăn mày». Bởi vậy mấy cụ già thường ví với ngọn đèn
lờ: «Đèn lửa gì như hồn thư ăn mày». Theo tín ngưỡng, mỗi
người chết không quá ba bữa, từ ngôi mộ có một đốm lửa vụt bay lên trong đêm
tối. Đóm lửa ấy cuốn quanh mấy vòng rồi tìm đường bay thẳng về nhà, soi khắp
mọi nơi như kiểm soát lại những vật dụng thường ngày. Cũng có người
bảo hồn thư hiện lên từ dưới gầm giường người chết, chứ không phải ở ngôi mộ.
Khi hồn thư nổi dậy thì con cháu trong nhà đều ngủ hết, không ai trông thấy
được, và mỗi người chết chỉ có một lần hồn thư dậy lên mà thôi. Còn nhiều câu
chuyện về hồn thư, nhưng mỗi nơi kể mỗi khác. Tuy là câu chuyện thuộc
phạm vi tín ngưỡng, song người dân quê không ai không biết.
Quỉ nhập tràng : Quỉ nhập tràng là câu
chuyện người chết đột nhiên sống dậy hiện quỉ hiện yêu, làm hại người trong gia
đình mình. Có nơi bảo rằng người chết gặp ngày giờ xấu, bị ma quái nhập vào xác
chết, phá phách. Có người bảo rằng người vừa chết, chưa khâm liệm, nếu bị con
mèo mun (mèo lông đen) nhảy ngang qua thi thể, thì xác chết vùng dậy, tác yêu tác
quái.
Và, còn rất nhiều lối kể, không thể
nào nói ra đây hết được. Những câu chuyện hoang đường như vậy di lưu trong dân
chúng không sách vở nào chép cho hết. Ở đây chúng ta chỉ lược dẫn vài nét đại
cương tiêu biểu cho tình cảm giữa người sống và người chết khi bị tín ngưỡng
ảnh hưởng mà thôi.
Song, chúng ta đừng tưởng những câu
chuyện hoang đường ấy không có tác dụng đối với đạo thờ ông bà của người dân
Việt.
Người dân Việt từ chỗ tình cảm mà
phụng thờ ông bà tổ tiên, thì cũng từ chỗ ảnh hưởng vì tín ngưỡng mà mỗi mỗi
đều van vái ông bà tổ tiên phù hộ cho mình trước những tai họa do cuộc sống gây
nên.
Một đứa con sổ mũi, nhức đầu, cũng cầu
cứu đến ông bà, tổ tiên. Một dịp rủi may trong trường thi cử, cũng cầu cứu sự
phò trì của ông bà tổ tiên. Ông bà tổ tiên trong lãnh vực tín ngưỡng trở thành
một năng lực siêu nhiên, tác động vào cõi sống loài người như họ đã tin tưởng
vào tác động của thần linh vậy.
Tóm lại, căn bản đạo thờ ông bà của
dân tộc Việt-nam không phải là một tín ngưỡng hay một tôn giáo. Nó phát xuất ở
tình cảm. Tuy nhiên, tình cảm con người lại chịu ảnh hưởng lịch sử sinh hoạt xã
hội, và sinh hoạt xã hội đã đưa dần tình cảm con người vào tín ngưỡng, nên đạo
thờ ông bà của người dân Việt-nam cũng dần dần pha trộn màu sắc tín ngưỡng.
CHƯƠNG II: BIẾN THÁI CỦA TỤC NGỮ PHONG DAO
Bắt đầu soạn thảo bộ Thi ca
bình dân Việt-nam, chúng tôi đã phân chia hai dòng văn chương bình dân
và văn chương bác học, đồng thời xác định tính chất khác biệt của nó.
Tuy nhiên, đến đây chúng tôi lại đề
cập vấn đề biến thái trong thi ca.
Vậy thế nào là biến thái trong thi
ca ? Và tại sao có sự biến thái ấy ?
Dù ở xã hội nào, thời đại nào cũng
thế, thi ca phát xuất ở tình cảm, và tình cảm chịu ảnh hưởng của sinh hoạt xã
hội. Khi nói đến thi ca bình dân là nói đến tình cảm của lớp người dân quê, mộc
mạc, nghèo khốn trong đồng ruộng, lũy tre, là nói đến sự khác biệt về ý thức
giai cấp trong hoàn cảnh sinh sống. Mặc dù vậy, thế giới bình dân không phải là
một thế giới riêng rẽ, sống ngoài mọi biến cố chung của dân tộc, tách rời thời
gian, không gian ra ngoài ảnh hưởng thiên nhiên. Cho nên, khi phân định ranh
giới giữa hai dòng văn chương bác học và bình dân, chúng ta chỉ nêu quan niệm
bằng tính chất, mà không thể quan niệm một cách cố định được. Ca dao Việt-nam
có câu :
Có hèn cũng ngựa nhà quan,
Kiều khấu rách nát hồng nhan vẫn còn.
Con ngựa nhà quan bị phế thải, dù có
trở thành ngựa thồ, nhưng thói quen tiềm ẩn trong con vật vẫn còn di lưu qua
tính chất của nó.
Cũng như một cô gái nhà giàu, lúc sa
cơ thất thế, có thể trở thành nghèo hèn, nhưng tư cách, tính tình không thể nào
trút sạch nguyên chất để hoàn toàn giống như những cô gái sống hàn vi từ thuở
bé.
Ngược lại, một người sống trong hàn
vi, khổ cực, gặp thời trở nên giàu có, tuy hoàn cảnh đổi khác, những cũng không
thể giống như kẻ đã từng hưởng cảnh phong lưu từ thuở thiếu thời.
Chính bản chất con người là yếu tố căn
bản qui định ranh giới tình cảm. Điều đó chúng ta đã xác định. Ở đây, chúng ta
muốn nói về biến thái của tình cảm. Cho nên, mặc dù hoàn cảnh xã hội lại luôn
luôn thay đổi, khiến tình cảm con người cũng phải luôn luôn đổi thay. Sự khác
biệt của bản chất, và sự đổi thay của tình cảm do sinh
hoạt xã hội tác thành là nguyên nhân
tạo ra sự biến thái giữa hai nguồn văn chương bác học và bình dân.
Giai cấp bình dân và giai cấp thượng
lưu quí phái luôn luôn là hai đối tượng cố định, nhưng người bình dân và người
thượng lưu quí tộc lại có thể thay bậc đổi ngôi. Nói cách khác, giàu và nghèo
là hai địa hạt cố định, nhưng người giàu có thể trở nên nghèo, và người nghèo
có thể trở nên giàu. Sự thay đổi về trạng thái sinh hoạt cũng là sự đổi thay về
tình cảm con người, và sự đổi thay về tình cảm con người tác động vào văn học
tạo thành biến thái của tâm tư.
Dòng văn chương bác học và bình dân
cũng như hai dòng sông, phát nguồn từ hai địa điểm, cùng chảy theo một chiều
thời gian. Hai dòng sông không thể là một, nhưng nước sông có thể vì biến cố
thiên nhiên chảy tràn từ dòng này sang dòng khác. Chúng ta nói đến biến thái
của thi ca bình dân tức là muốn nói đến những dòng nước chảy tràn và dung hợp
ấy.
A) ẢNH HƯỞNG GIỮA VĂN CHƯƠNG BÌNH DÂN VÀ
VĂN CHƯƠNG BÁC HỌC
Sinh hoạt xã hội loài người cũng như
mọi trạng thái thiên nhiên, tuy mỗi cá thể mang một tính chất riêng rẽ mà kỳ
thực không một cá thể nào vượt ra ngoài vòng tương quan.
Một chiếc lá lìa cành nơi sườn núi có
thể bị mưa đẩy xuống dòng sông, và dòng sông đưa chiếc lá ấy mãi đến một nơi vô
định.
Một cành hoa trổ sắc không phải lúc
nào cũng có thể làm đẹp cho khóm hoa, mà nhiều khi bị một bàn tay yêu hoa hái
đi đem về cắm ở phòng khác.
Tâm tư loài người cũng thế. Nó phiêu
lưu trên dòng đời không khác chiếc lá lìa cành, đóa hoa trổ sắc, do mọi biến
đổi của thời gian, không gian.
Cho nên, chúng ta không thể nào phủ
nhận trạng thái tương quan, ảnh hưởng của muôn loài vạn vật cũng như trạng thái
biến đổi của tâm tư.
Nhiều nhà khảo cứu về văn chương bình
dân Việt-nam khi đứng trước trạng thái ảnh hưởng giữa hai nền thi ca bác học và
bình dân đã phân vân về tính chất tương đồng của nó trên bình diện tâm tư.
Ví dụ, ông Lan-Đình đã đưa ra nhận
định sau trong bản nguyệt san Phổ Thông số 240 :
Thật khó phân biệt ranh giới giữa thi
bình dân với thi ca bác học. Đúng hơn, thật khó đoán chắc rằng thi ca bác học
vì ngoại lai (?), hướng ngoại (?) Ranh giới? Có hai ranh giới hình thức
và ý tưởng. Hình thức
thì :
Cầu này, cầu ái cầu ân,
Một trăm con gái rửa chân cầu này.
Cũng « lục bát » lắm đấy
chứ ? Vả chăng « ái » và « ân » là « nói
chữ », rồi có « nói nôm » đâu ! Còn ý tưởng :
Có rửa thì rửa chân tay,
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh !
Tuy không « lục bát » nữa,
nhưng « đôi mắt sắc đến giết cá » cũng « bác học » lắm đấy
chứ ? Tôi nghĩ còn « bác học » hơn cả đầu tường lửa lựu
« bởi vì, từ màu đỏ đến ngọn lửa, sức tưởng tượng chẳng có gì cao cả. Ngay
truyện Kiều cũng khó phân biệt giữa « bình dân » và « bác
học ». Nếu « bác học » ở chỗ chỉ sự… « bất tri tam bách dư
niên hậu », cũng « sẽ bình dân » ở chỗ « mua vui cũng được
một vài trống canh. Tôi thiết
tưởng người ta phải có một định nghĩa nào khác…
Nhận xét của ông Lan-Đình trên đây
không phải không đúng. Sự tương đồng về tâm tư giữa hai nền thi ca dĩ nhiên
không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, khi đưa ra nhận xét trên, ông Lan-Đình đã đi
vào biến thái của nó, nghĩa là ông muốn phân định ranh giới giữa hai dòng sông,
khi mặt nước đã ngập tràn vào nhau.
Thật vậy, chúng ta làm sao nhìn thấy
được lằn mức dưới lòng sông khi con nước đã phủ tràn xóa bỏ đường ranh
giới ? Tuy nhiên, không nhìn thấy không có nghĩa là không có giới tuyến
giữa hai dòng sông. Sự trộn trạo của hai dòng nước chỉ là trạng thái biến động
bất thường, mà vị trí cấu tạo của hai dòng sông lại có tính chất cố định. Ca
dao Việt-nam có câu :
Chim quyên xuống đất ăn trùn,
Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than.
Nếu gạt bỏ nguyên nhân ra ngoài, chúng
ta làm sao biết người anh hùng lỡ vận ? Dù là kẻ anh hùng khi lên nguồn
đốt than thì hình thức vẫn là một gã tiều phu như trăm nghìn tiều phu khác,
những gì đặc biệt chỉ ở bản chất mà thôi. Một Trần-Khánh-Dư, danh tướng đời
Trần, khi bị tội phải về Chí-linh (Hải-dương) đốt than bán, nhưng cái khí phách
kiêu hùng vẫn không làm sao mất bản chất được khi ta đọc qua bài thơ khẩu khí
dưới đây :
« Bán than »
Một gánh kiền khôn quảy tếch ngàn,
Hỏi rằng : « Chi đó ». Gửi
rằng : « Than ».
Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn.
Ở với lửa hương cho vẹn kiếp,
Thử xem sắt đá có bền gan.
Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác,
Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn.
(Trần-khánh-Dư)
Một gã tiều phu suốt đời cặm cụi với
củi than đen đúa đem so sánh với người anh hùng lỡ vận phải bán than dù bản
chất có khác, nhưng tâm tự họ dễ giao cảm qua nghề nghiệp cùng làm.
Dưới đây là những câu ca dao làm môi
trường cho sự biến thái pha trộn của hai dòng sông văn học :
Văn chương phú lục chẳng hay,
Trở về làng cũ học cày cho xong.
Sớm ngày vác cuốc thăm đồng,
Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên.
Hết mạ ta phải quảy thêm,
Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.
Nửa mai lúa tốt đầy đồng,
Gặt về dập sảy bõ công cấy cày.
Từ một kẻ sĩ trở về với nhà nông,
chúng ta không thể nào phủ nhận trạng thái biến đổi của tâm tư họ. Khi tâm tư
đã biến đổi tất nhiên phải có sự pha trộn và dung hợp. Nói cách khác, một kẻ sĩ
khi đã trở thành một nông phu cũng có nghĩa là họ đem tâm tư của dòng văn
chương bác học trộn vào tâm tư của dòng văn chương bình dân.
Khi tâm tư đã pha trộn, chúng ta làm
sao phủ nhận được sự biến thái của nó.
Đến đây, chúng tôi tưởng cần phân tích
một lần nữa về tính chất của văn chương bình dân và bác học.
Ở đoạn đầu quyển Thi ca bình
dân Việt-nam chúng tôi đã xác định : « Văn chương
bình dân phải ảnh tình cảm và sinh hoạt của lớp người nghèo khổ. Những gì họ
nói ra, di lưu trong lịch sử văn học đều phát xuất ở địa phương tính và ý thức
sinh hoạt hàng ngày của họ. Trong lúc đó văn chương bác học thoát thai từ tình
cảm của lớp người phong lưu quí phái. Lớp người này ít gần gũi với sinh hoạt
quần chúng, nên tình cảm họ thường mượn ở các sách vở du nhập từ bên ngoài, lấy sự
học hành, tham khảo rộng rãi làm căn bản cho hiểu biết. Do đó, văn chương bình
dân thường phản ảnh tinh thần dân tộc nhiều hơn ».
Nếu chúng ta đồng ý nhận định trên đây
thì chúng ta cũng phải thừa nhận rằng khi có sự pha trộn, văn chương bác học sẽ
phản ảnh một phần nào tình cảm sinh hoạt của lớp quần chúng nghèo nàn, ngược
lại, văn chương bình dân cũng chịu ảnh hưởng một phần tư tưởng do các sách vở
phổ biến trong từng thế hệ. Để chứng minh
điều đó, chúng ta thử đi vào một số ca dao tiêu biểu sau đây :
Một đời được mấy anh hùng,
Một nước được mấy đức ông trị vì.
Anh đừng cợt ghẹo làm chi,
Em đang chắp chỉ chọn ngày cải hoa.
Tin lên Thiên-thượng Hằng-nga,
Cậy ông Nguyệt-lão với bà Tơ vuơng.
Chăn loan gối phượng sẵn sàng,
Màn đào rũ dọc, lầu hồng dãi ngang.
Còn đang chọn đá thử vàng,
Ngọc lành ai quẩy ra đàng bán rao.
Quan quan bốn tiếng thư cưu,
Mong người quân tử hảo cầu kết duyên.
Phấn son cho phỉ tấm nguyền,
Anh hung sánh với thuyền quyên mới
tình.
Phạt-kha thơ ấy rành rành,
Phỉ môi bất đắc xin anh liệu lường.
Trên đây là những câu ca dao đã được
phổ biến trong lớp người bình dân. Tuy nhiên, nếu chúng ta khảo sát về hình
thức cũng như nội dung, chúng ta sẽ thấy khác biệt với phần lớn ca dao mà chúng
ta đã sưu tập.
Về hình thức, thường thường người bình
dân không sáng tác những câu ca dao dài. Họ chỉ cần diễn đạt một vài tâm tư của
họ thôi. Hơn nữa, văn
chương bình dân là văn chương truyền miệng, không ghi chép trên sách vở, nếu
sáng tác dài sẽ không ai thích vì không thể nhớ được. Mặt khác, họ chỉ diễn đạt
bằng ngôn từ thông dụng, không cầu kỳ, vận dụng những điển tích xa xôi. Những
tiếng như : chăn loan, gối phượng, lầu hồng, màn đào, ngọc lành bán rao,
v.v… đều là những ngôn từ không phải của người bình dân.
Về nội dung, người bình dân chỉ dụng ý
nói lên tiếng nói chân thành qua tâm tư của họ, do đó, nội dung của câu ca dao
thường thô sơ, mộc mạc, phản ánh ý sống thực tiến của họ trong sinh hoạt đương
thời. Những ý trong bài ca dao trên như: «chắp chỉ, cải
hoa», «ngọc lành bún rao», «quan quan thư cưu»,
«hảo cầu kết duyên», v.v… đều là những ý mượn ở
điển tích, tách rời ý thức bình dân.
Cho nên, chúng ta có thể nói đó là
những câu ca dao biến thái, do dòng văn chương bác học tràn vào lãnh vực bình
dân. Những câu ca
dao với tính chất như vậy không phải ít. Đây, chúng ta thử trích dẫn vài đoạn điển hình :
Mừng thay mưa nắng thuận trời,
Trị đời Ngu, Hạ, dân đời Thương, Chu.
Nơi nơi khích nhưỡng ca cù,
Khắp trong vũ điện Thang, Chu thuận
hòa.
Đâu đâu già trẻ gần xa,
Người người kính chúc thiên gia vững
vàng.
Ai ai trung hiếu lưỡng tuyền,
Năm năm mừng được phong niên thái
bình.
Nay mừng những kẻ nông phu,
Cầu cho hòa cốc phong thu bình thời.
Vốn xưa nông ở bực hai,
Thuận hòa mưa gió ấy thời lên trên.
Quý hồ nhiều lúa là tiên,
Rõ ràng phú tức bình an cả nhà.
Bốn mùa xuân lại, thu qua.
Muốn cho tiền lúa đầy nhà hán sương.
Bước sang hạ giá, thu tàn,
Thu thu tiễn hoạch giàu ngang
Thạch-Sùng.
Quý nhân cùng kẻ anh hùng,
Rắp toan muốn hỏi nhà nông ê đề.
Thực thà chăm chỉ thú quê,
Chuyên cần học nghiệp làm nghề đoan
trang.
Gặp thời là được thợ khang.
Tam đa ngũ phúc rõ ràng trời cho.
Tuy cũng được xếp loại vào ca dao,
song những loại trên đây tính chất còn khác biệt với ý thức bình dân rất nhiều.
Sự khác biệt ấy là do tỷ lệ biến thái chưa được bao nhiêu. Hoặc nói cách khác,
tuy tác giả muốn hòa mình vào cuộc sống bình dân, nhưng tâm hồn còn mang nặng
tính chất bác học, thiếu những cái gì mộc mạc, đơn giản mà người bình dân rất
cần đến nó.
Ngoài một số ca dao thiếu tính chất
hòa hợp, chúng ta còn thấy những câu ca dao, tuy thoát thai từ tính chất bác
học, nhưng lại gần gữi với tính chất bình dân hơn. Ví dụ:
Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
Xa xôi ai có biết tình chăng ai?
Khi về hỏi liễu Chương-đài,
Cành xuân đã bẻ cho ai một cành,
Có yêu anh thì bẻ quách cho anh.
Tuy những ngôn từ « nguyện ước ba
sinh », « bẻ liễu cành xuân » không được bình dân, song cũng
không phải là những ý tưởng xa vời khó hiểu. Còn những ý kiến như «có yêu
anh thì bẻ quách cho anh» thật mộc mạc, không bóng gió, mà văn chương bác
học không thể có được.
Cũng như những câu ca dao sau đây đều
biến thái từ địa hạt bác học qua bình dân :
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau
cùng.
Phu thê trọng nghĩa tương phùng,
Chăn loan, gối quế rắp lòng chờ ai.
Tấm đá hoa ghi tạc để đời.
Hoặc : Nhờ trời mưa
gió thuận hòa,
Nào cày, nào cấy, trẻ già khuyên nhau.
Chim, gà, cá, lợn, cành cau,
Mùa nào thức ấy giữ màu nhà quê.
Sớm đi thì tối lại về,
Quần hồng áo tía phủ phê trăm chiều.
Ai ơi ! Của thế còn nhiều.
Hay : Lỡ bước xuống
đò,
Sông sâu, sào ngắn, khôn dò tới nơi.
Thuyền buồn gió đánh tả tơi,
Một con chèo quế xa bơi song hồ.
Trông lên hòn đá lô xô,
Mặt sông lai láng, bể hồ trong xanh.
Và: Ngồi đêm
trông bóng trăng tàn,
Muốn đoan với nguyệt mà than một lời.
Nguyệt rằng: «Vật đổi sao
dời,
Thân này vẫn để cho người soi chung».
Trên đây chúng ta vừa khảo sát qua một
số ca dao bình dân mà chúng ta gọi là biến thái giữa dòng văn chương bình dân
và bác học. Nhưng tính chất biến thái ấy, chúng ta chỉ mới khảo sát qua một
chiều. Đó là ảnh hưởng của dòng thi ca bác học với dòng thi ca bình dân.
Vậy yếu tố nào đã tác thành ảnh hưởng
ấy ? Ngược dòng
thời gian, dân tộc Việt-nam trải qua mấy ngàn năm bị ngoại bang đô hộ, những
biến cố trong guồng máy chính trị là nguyên nhân phát sinh những xáo trộn về giai cấp, những phân
hóa về ý thức tạo thành những biến thái trong thi ca.
Một thi nhân trong lãnh giới bác học,
thay vì xuôi theo dòng thời gian, sáng tác những tác phẩm có liên hệ đến phong
trào văn minh thế giới, ăn nhịp với tâm tư thời đại, họ đã quay về tìm cái đẹp
trong ruộng rẫy nương dâu, tìm cái giá trị chân thành mộc mạc trong con người
nông phu chất phác mà thế giới văn minh cho là lạc hậu.
Một nhà chí sĩ thay vì đem chí hướng
đấu tranh với mọi bất công của chế độ, họ cảm thấy bất lực đành co tay đem cuộc
sống trở về vườn ruộng, hòa hợp với tâm tình của lớp người bình dân để bảo vệ
niềm ưu tư của mình trong cuộc đời tàn tạ.
Sự phân hóa về tâm tư cũng có nghĩa là
trạng thái biến động của giai cấp và trạng thái ấy đòi hỏi mọi dung hợp trong
lãnh vực tình cảm con người. Biến thái về
thi ca chính đã phát nguồn ở trạng thái ấy. Chúng ta thử đọc mấy dòng ca dao dưới đây:
Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Đêm đêm đốt đỉnh hương trầm,
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê.
Một kẻ sống mãi ở quê nhà không cảm
thấy quê nhà là một thiết tha đối với tình cảm, nhưng nhũng người xa quê khi
được sống với quê nhà, cảm giác họ sẽ sống động hơn.
Cảm giác ấy khi đã hòa hợp vào cuộc
sống quê nhà, chúng ta không thể phủ nhận đó là một năng lực biến động, khơi
nguồn cho dòng thi ca bình dân trở thành một hấp lực mới, tạo ra một trào lưu
mới trong sinh hoạt tình cảm xã hội.
Phần tuyển tập ca dao tiêu
biểu
1. Ai ơi ! Đừng lấy làm lo,
Đương xuân rồi cũng soi cho âm hàn.
b) VIỆC THỜ CÚNG
c) NGUỒN
GỐC CỦA ĐẠO THỜ ÔNG BÀ
d) ĐẠO THỜ
ÔNG BÀ KHI ẢNH HƯỞNG VÀO TÍN NGƯỠNG
2. Ăn chanh ngồi gốc cây chanh,
Ăn rồi lại ném ngũ hoành tứ tung.
3. Anh đây mục hạ vô nhân,
Nghe em xuân sắc mười phân não nùng.
Xưa nay những gái má hồng,
Anh thề anh có thèm trông đâu nào.
Lấy em đi trước cho hào,
Dù ngắm, dù nguýt, dù sao mặc lòng.
4. Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn,
Uống ăn kham khổ phàn nàn cùng
ai ?
Miệng ăn măng trúc, măng mai,
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng.
Nước giếng trong con cá vẫy vùng.
5. Bạn bè là nghĩa tương tri,
Sao cho sau trước một bề mói nên.
6. Bạn vàng lại gặp bạn vàng,
Long, lân, qui, phượng, một đoàn tứ
linh.
7. Bao giờ đồng ruộng thảnh thơi,
Nằm trâu thổi sáo, vui đời Thuấn,
Nghiêu.
Nay mừng có chủ Thuấn, Nghiêu,
Mưa Nhân, gió Huệ thảy đều muôn dân.
Sông Lô một dải trong ngần,
Thảnh thơi ta rũ bụi trần cũng nên.
8. Bao giờ Thạch-mã quá giang,
Tứ-kỳ, Vĩnh-lại nghênh ngang công hầu.
9. Bồ cu bồ các,
Tha rác lên cây.
Gió đánh lung lay,
Là vua Cao-tổ.
Những người mặt rỗ,
Là ông Tiêu-Hà.
Nước chảy qua đường,
Là dượng Tào-Tháo.
Đánh bạc cố áo,
Là anh Trần-Bình.
10. Cái vòng danh lợi cong cong,
Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào.
Sự đời nghĩ cũng nực cười,
Một con cá lôi, mấy người buông câu.
11. Cành đào lá liễu phất phơ,
Lấy ai thì lấy, đợi chờ làm chi.
12. Cát bay vàng lại ra vàng,
Những người quân tử dạ càng đinh ninh.
Đinh ninh ta để dạ này,
Có công mài sắt, có ngày nên kim.
13. Cau già, dao sắc, lại non,
Người già trang điểm phấn son vẫn già.
14. Cây cao thì gió càng lay,
Càng cao danh vọng, càng dày gian
truân.
15. Có tiền thì hậu mới hay,
Có trồng cây đức mới dầy nên nhân.
16. Có phúc thì phải có lông,
Người nào vô phúc sạch không lầu lầu.
17. Cóc chết lại có minh tinh,
Thất nghiệp nằm đình có trống cầm
canh.
18. Con quốc kêu khoắc khoải mùa hè,
Là than con gái phải nghe lời chồng.
Sách có chữ rằng : « phu
xướng, phụ tòng »,
Làm thân con gái lấy chồng xuất gia.
Lấy em về thờ mẹ kính cha,
Thờ cha, kính mẹ, ấy là người ngoan.
19. Con ơi muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thì giữ việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.
Trai thì đọc sách, ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
20. Con ông mà lấy con bà,
Trời cho thuận hòa, bà lại lấy ông.
21. Cùng nhau một bọn đi thi,
Người thì đỗ trạng, kẻ thì về không.
Cùng nhau một bạn má hồng,
Kẻ đã có chồng, người vẫn nằm không.
22. Chàng về, thiếp cũng xin về,
Chàng về Hồ-bắc, thiếp về Hồ-tây.
Chàng bao nhiêu tuổi năm nay ?
Chàng rày mười tám, thiếp rày bốn ba.
Mồ cha đứa chê thiếp già,
Thiếp còn gánh nổi một vài trăm kim.
Trăm kim đổi lấy lạng vàng,
Mua gương Tư-mã để thiếp với chàng soi
chung.
Chàng về sắm sửa loan phòng,
Thiếp xin điểm phấn, tô hồng thiếp theo.
23. Chi bằng cành trúc, áo tơi,
Danh cương, lợi tỏa, mặc đời đua
tranh.
24. Chim khôn đậu nóc nhà quan,
Trai khôn tìm vợ gái khôn tìm chồng.
Xưa nay những bạn má hồng,
Thà hầu quân tử hơn chồng đần ngu.
25. Chim quyên xuống đất ăn giun
(trùng),
Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than.
26. Chính chuyên chết cũng ra ma,
Lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng.
27. Chồng em vừa xấu, vừa đen,
Vừa kém nhan sắc vừa hèn chân đi.
Chồng em rỗ sứt, rỗ sì,
Chân đi chữ bát, mặt thì ngưỡng thiên.
Bao giờ vào đám tháng giêng,
Bắt chồng em đến khênh chiêng cho
làng.
28. Chớ nghe quân tử nói òn,
Mà rồi có lúc ãm con một mình.
29. Chữ « trinh » giá đáng
ngàn vàng,
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.
Còn như yêu vụng, dấu thầm,
Họp chợ trên bụng đến trăm con người.
30. Chữ « nhẫn » là chữ
tương vàng,
Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu.
31. Dạy con từ thuở tiểu sinh,
Gần thầy, gần bạn tập tành lễ nghi.
Học cho cách vật trí tri,
Văn chương chữ nghĩa nghề gì cũng
thông.
32. Dẫu xây chín bực phù đồ,
Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người.
33. Dẫu mà nợ bắt, nợ đòi,
Phong lưu ta cũng cứ nòi phong lưu.
34. Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệp lắm, càng oan trái
nhiều.
35. Dưỡng nam bất giáo như dưỡng lư,
Dưỡng nữ bất giáo như dưỡng trư.
36. Đã sinh ra kiếp ở đời,
Trai thời Trung, Hiếu đôi vai cho
tròn.
Gái thời Trinh, Tĩnh lòng son,
Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chút sai.
Trai lành, gái tốt, ra người,
Khuyên con, trong bấy nhiêu lời cho
chuyên.
37. Đã thành gia thất thì thôi,
Đèo bòng chi lắm, tội trời ai mang.
38. Đàn bà lanh lảnh tiếng đồng,
Một là sát chồng, hai là hại con.
39. Đào khoe tươi, liễu khoe mềm,
Cây khô nẩy nhị, càng hêm ấm chồi.
Chữ rằng : « Thiên hữu tứ
thời »,
Ngày thời hoa nở, tối thời hoa thơm.
40. Đất tốt trông cây rườm rà,
Những người thanh lịch nói ra quí
quyền.
41. Đất xấu trồng cây ngẳng nghiu,
Những người thô tục nói điều phàm phu.
42. Đấy vàng, đây cũng đồng đen,
Đấy hoa thiên lý, đây sen nhị hồ.
Đấy em như tương mới tô,
Đây anh như người ngọc họa đồ trong
tranh.
43. Đêm qua nguyệt lặn về Tây,
Sự tình kẻ đấy người đây còn dài.
Trúc với mai, mai về nhớ trúc,
Trúc trở về, mai nhớ trúc không ?
Bây giờ kẻ bắc người đông,
Kể sao cho xiết tấm lòng tâm tư.
44. Đêm qua chớp bể mưa nguồn,
Hỏi người quân tử có buồn hay
không ?
45. Đố ai đốt cháy ao bèo,
Để ta gánh đá Đông-triều về ngâm.
Bao giờ cho đá mọc mầm,
Thì ta kết nghĩa tri âm với nàng.
46. Đố ai nằm võng không đưa,
Ru con không hát, anh chừa nguyệt hoa.
47. Đôi ta là nghĩa tào khang,
Xuống khe bắt ốc, lên đàng hái rau.
48. Đôi ta là nợ là tình,
Là duyên, là kiếp đôi mình kết giao.
Em như hoa mận, hoa đào,
Cái gì là ngãi tương giao hỡi
nàng ?
49. Đôi ta như ngãi Phan-Trần,
Khi xa ngàn dặm, khi gần nên đôi.
50. Đội ơn chín chữ cù lao,
Sinh thành kể mấy non cao cho bằng.
Trời ơi có thấu tình chăng !
Bước sang mười sáu ông trăng gần già.
51. Đưa anh ra tới làng Hồ,
Em mua trái mít, em vồ trái thơm.
Anh về, em nọ dám đưa,
Hai hàng châu lệ như mưa tháng mười.
Biết bao chừ cho đặng thảnh thơi,
Tay tiêm thuốc cống, miệng mời lang
quân.
52. Em rằng em muốn đi buôn,
Anh về kiếm chốn nha môn ngồi tuần.
Dù em buôn xa bán gần,
Làm sao tránh khỏi cửa tuần anh đây.
53. Gái mà chi! Trai mà
chi!
Sinh ra có ngải có nghì là hơn.
54. Gần chùa phong cảnh mọi đường,
Ở gần thợ nhuộm vẻ vang mọi màu.
55. Ghe bầu trở lái về đông,
Làm thân con gái chờ chồng, nuôi con.
56. Già thì mọi sự mọi hèn,
Giang sơn phó mặc đàn em sau này.
57. Giang sơn một gánh cất ngồi,
Đầu con, đầu vợ, đầu nồi, đầu niêu.
58. Giang sơn phó mặc hàng mâm,
Sấm chớp ì ầm phó mặc Thiên-lôi.
59. Giàu sơn lâm lắm kẻ tìm đến,
Khó giữa chợ chẳng ma nào nhìn.
60. Giàu nhân ngãi hãy giữ cho giàu,
Khó tiền bạc mựa lo rằng khó.
61. Gió nồm là gió nồm nam,
Trách chàng quân tử ăn tham không
chào.
62. Gió nồm là gió nồm nôm,
Trách chàng quân tử có mồm không ăn.
63. Giở xem một truyện phong tình,
Cho loan nhớ phượng, cho mình nhớ ta.
Nhớ nhau, nên thất, nên gia,
Nên cửa, nên nhà, nên vợ, nên con.
Chim họa mi réo rắt trên non,
Ước gì ta được vợ con như người.
64. Hai bên tranh lấy quả cầu,
Dân yên, nước thịnh dài lâu vững bền.
65. Hiếu thuận hoàn sinh hiếu thuận
tử,
Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi.
66. Họa hổ, họa bì, nan họa cốt,
Tri nhân, tri diện, bất tri tâm.
67. Hòn đất mà biết nói năng,
Thì thầy địa lý hàm răng không còn.
68. Hồng nhan ai kém ai đâu,
Kẻ xe chỉ thắm, người xe hạt vàng.
69. Hữu bằng tự viễn phương lai,
Lạc hồ quân tử lấy ai bạn cùng.
Chữ Hiếu, Trung là thầy với mẹ,
Chữ Nhân, Nghĩa là ái với ân,
Yêu nhau bao quản xa gần.
70. Khen ai khéo tạc bình phong,
Ngoài long, lân, phượng trong lòng
sạch vôi.
71. Khó thì hết thảo hết ngay,
Công cha cũng bỏ, nghĩa thầy cũng
quên.
72. Khôn thế gian làm quan Địa-ngục,
Dại thế gian làm quan Thiên-đường.
73. La hời, la hỡi, la hơi,
Ai lên nhắn khách nguồn đào,
Nghĩa xưa còn nhớ chút nào hay
chăng ?
La hời, la hỡi, la hơi,
Bây giờ đến cảnh đào nguyên,
Bao nhiêu là một con thuyền tiễn đưa.
La hời, la hỡi, la hơi.
74. Làm trai có chí lập thân
Rồi ra gặp hội phong vân có ngày.
75. Làm trai có chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Khi nên trời giúp công cho,
Làm trai năm liệu, bảy lo mới hào.
Trời sinh trời chẳng phụ nào,
Công danh gặp hội anh hào ra tay.
Trí khôn rắp để dạ này,
Có công mài sắt, có ngày nên kim.
76. Lẳng lơ cũng chẳng có mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để
dành.
77. Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
Bõ công trang điểm má hồng răng đen.
78. Lộc còn ẩn bóng cây tùng,
Thuyền quyên đợi khách anh hùng vãng
lai.
79. Lửng lơ vừng quế soi thềm,
Hương đưa bát ngát càng thêm bận lòng.
Dao vàng bỏ đẫy kim nhung,
Biết rằng quân tử có dùng ta
chăng ?
Đèn tà thấp thoáng bóng trăng,
Ai đem người ngọc thung thăng chốn
này.
80. Lưỡi vò độc quá đuôi ong,
Xui người tan hợp rứt lòng nghĩa nhân.
81. May ra thì hóa tứ linh,
Chẳng mai thất nghiệp nằm đình
Cổ-lương.
82. Mặc ai chác lợi mua danh,
Miễn ta học đặng đạo lành thì thôi.
83. Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ,
Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau.
84. Một đêm quân tử nằm kề,
Còn hơn thằng nhắng vỗ về quanh năm.
85. Muốn cho có đó, có đây,
Sơn lâm chưa dễ một cây nên rừng.
86. Muốn cho gần bến, gần thuyền,
Gần bác, gần mẹ, nhân duyên cũng gần.
87. Muốn rằng tế tửu lang trung,
Còn như chủ sự lấy thùng mà đong.
88. Mười năm lưu lạc giang hồ,
Một ngày tu tác cơ đồ lại nên.
89. Mượn màu kinh sử ăn chơi,
Đi đâu là chẳng có nơi hữu tình.
90. Nước sông còn đỏ như vang,
Nhiều nơi lịch sự hơn chàng, chàng
ơi !
91. Người đời như cánh phù du,
Sớm còn, tối mất, công phu nhỡ nhàng.
92. Người đời hữu tử, hữu sanh,
Sống lo xứng phận, thác dành tiếng
thơm.
93. Người trên ở chẳng kỷ cương,
Khiến cho kẻ dưới lập trường mây mưa.
94. Người trồng cây hạnh người chơi,
Ta trồng cây đức để đời về sau.
95. Người có lúc vinh, cũng có lúc
nhục,
Nước có lúc đục, cũng có lúc trong.
96. Người dưng có ngãi thì đãi người
dưng,
Anh em vô ngãi thì đừng anh em.
97. Nhà giàu yêu kẻ thật thà,
Nhà quan ưa kẻ vào ra nịnh thần.
98. Nhất cao là núi Tản-viên,
Thanh nhàn vô sự là tiên trên đời.
99. Ở đây gần cảnh nhà chùa,
Lẽ đâu có lẽ chuyện trò trăng hoa.
Trúc mai sum họp một nhà,
Song tình đạo nghĩa đã già đồng cân.
Cũng liều phó thác cái thân,
Khi vui cũng một Tấn Tần mà thôi.
100. Quân tử ngồi buồn rung chống gối,
Tiểu nhân đắc chí gẩy đàn môi.
101. Quân tử cố cùng quân tử cố,
Tiểu nhân đắc ý tiểu nhân hay.
102. Quân tử thời oán tam niên,
Tiểu nhân thời oán nhãn tiền mà thôi.
103. Quân tử ứ hự đã đau,
Tiểu nhân dùi ngục đập đầu như không.
104. Quân tử nhất ngôn là quân tử dại,
Quân tử nói đi nói lại là quân tử
khôn.
105. Sá bao cá chậu chim lồng,
Hễ người quân tử cố cùng mới nên.
106. Sinh không, tử lại hoàn không,
Khó ta, ta chịu, đừng mong giàu người.
107. Sinh ra ở chốn non tùng,
Trở về dương thế bạn cùng người ngoan.
108. Sông dài mà sắm đò ngang,
Em nhiều nhân ngãi, em mang oán thù.
109. Sông sâu còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.
110. Sơn lâm mấy cội tương vàng,
Cành bao nhiêu lá thương chàng bấy
nhiêu.
111. Tay cầm bán nguyệt xênh xang.
Đem người quân tử mở mang sơn hà.
112. Tam Hoàng, Ngũ Đế chi thư,
Có người mất vợ ngồi thừ mặt ra.
113. Tám mươi ngả gậy ra ngồi,
Hỏi rằng xuân có tái hồi nữa
thôi?
Xuân rằng: «xuân chẳng tái hồi,
Bốn dài, hai ngắn mà lôi xuân vào».
114. Tình thân bất luận khó giàu,
Vải to khó nhuộm cau màu cùng xinh.
116. Tới nơi hỏi khách tương phùng,
Chim ri một cánh bay cùng nước non.
116. Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha, kính mẹ, ấy là chân tu.
117. Tu cho trọn kiếp bụi hồng,
Kẻo già lại tiếc rằng lòng từ bi.
118. Tử vi xem số cho người,
Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.
119. Tương tư chẳng ốm cũng sầu,
Con ruồi đậu mép chẳng đau cũng buồn.
120. Thà rằng biệt tịch chi đồ,
Càng trông thấy cảnh, thấy chùa càng
thương.
121. Tham giàu mà lấy chủ kho,
Ba năm hiệu lượng vua cho đeo vòng.
122. Thẩn thơ đứng gốc mai già,
Hỏi thăm ông Nguyệt có nhà hay
không ?
123. Thế gian chuộng của, chuộng công,
Nào ai có chuộng người không bao giờ.
124. Thế tình chuộng lạ, tham thanh,
Bên khinh, bên trọng ra tình xấu chơi.
125. Thiên cao đã có thánh tri,
Người nhân nghĩa chẳng hàn vi bao giờ.
126. Thú vị tình thâm,
Lấy phải con vợ đái dầm, thú vị tình
khai.
127. Thuyền ai thấp thoáng bên bờ,
Hay thuyền ông Lã đợi chờ vua Văn.
128. Thứ nhất sợ kẻ anh hùng,
Thứ nhì sợ kẻ bần cùng khổ dây.
129. Thừa quan rồi mới đến dân,
Thừa nha môn tuần đến sãi đò đưa.
130. Thương thay những kẻ quạt mồ,
Hại thay những kẻ lấy vồ đập săng.
131. Trách người quân tử vô danh,
Chơi hoa xong, lại bẻ cành bán rao.
132.
Trách chàng Từ-Thức vụng suy,
Cõi
tiên chẳng ở, về chi cõi trần.
133.
Trai tứ chiếng, gái giang hồ,
Gặp
nhau ta nổi cơ đồ từ đây.
134.
Trăng thanh nguyệt rạng mái đình,
Chén
son chưa cạn sao tình đã quên.
135.
Trọc đầu mang tiếng bất lương,
Kìa
như có tóc cũng phường gió trăng.
136.
Trong nhà đã có hoàn cầm,
Song
le còn muốn nhân sâm nước người.
137.
Trong ba mươi sáu đường tu,
Đường
nào phú quí, phong lưu thì làm.
138.
Trọng người, người lại trọng thân,
Khinh
đi, khinh lại như lần trôn quan.
139.
Trời ơi! sinh giặc làm chi,
Cho
chồng tôi phải ra đi chiến trường.
140.
Văn chương chữ nghĩa bề bề,
Thần
l… ám ảnh cũng mê mẩn người.
141.
Văn thì cửu phẩm đã sang,
Võ
thì tứ phẩm còn mang gươm hầu.
142.
Vật ngon đâu đến thứ ta,
Những
trâu hạ địa, cùng gà chết toi.
143.
Vì đây thiên lý ngang trời,
Để
cho tài tử gặp người giai nhân.
Sài Gòn, 1/11/1970
Nguyễn Tấn Long - Phan Canh
Nguồn: tusachtiengviet.com
Theo https://www.dtv-ebook.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét