Chiếc nhẫn bằng thép
Cụ Kuzma sống với cháu gái Varusa ở làng Môkhôvôje sát tận bìa
rừng.
Mùa đông đến thật khắc nghiệt, gió mạnh và tuyết nhiều. Suốt
cả mùa đông không có một ngày ấm lên, không có những giọt nước tuyết tan lã chã
từ mái nhà gỗ nhỏ xuống. Đêm đến những con chó sói lạnh cóng hú vu vơ. Cụ Kuzma
bảo chúng rú vì ghen tị với người: chó sói cũng thèm được sống ở trong nhà, được
nằm gãi bên lò sưởi và sưởi ấm bộ lông xù cứng lạnh.
Vào giữa đông, thuốc hút của cụ cạn hết. Cụ ho nhiều, than
phiền rằng người không được khỏe và bảo nếu được kéo vài hơi thì người sẽ khá
lên ngay.
Chủ nhật, Varusa sang làng Pêreborư bên cạnh kiếm thuốc hút
cho ông. Đường sắt chạy qua bên rìa làng. Varusa mua thuốc xong, cho vào cái
túi vải hoa buộc lại rồi ra ga xem xe lửa. Ít khi chúng dừng lại ở Pereborư. Hầu
như bao giờ chúng cũng chỉ phóng qua với tiếng ầm ầm rin rít.
Có hai chiến sĩ ngồi trên sân ga. Một người để râu có đôi mắt
xám vui vẻ. Tiếng còi tàu rúc lên và đã thấy nó tỏa hơi nước mù mịt, phăng
phăng lao tới ga từ khu rừng đen sẫm.
- Tàu tốc hành! - Chú chiến sĩ để râu nói. - Cháu gái coi chừng
kẻo tàu nó thổi bay đấy. Khéo lại bay lên trời!
Con tàu trên đà lao vào ga. Tuyết bay tung làm mờ cả mắt. Rồi
những bánh xe xình xịch nối nhau chạy tới. Varusa ôm lấy cột đèn và nhắm mắt lại:
coi chừng kẻo nó bị cuốn bồng lên khỏi mặt đất và hút theo con tàu thực.
Khi con tàu đã phóng qua, bụi tuyết còn quay cuồng trong
không khí rồi đậu xuống đất, chú chiến sĩ có râu hỏi Varusa:
- Túi cháu đựng gì đấy? Có phải thuốc lá không?
- Thuốc đấy ạ. - Varusa trả lời.
- Bán cho chú nhé! Đang thèm hút quá!
- Ông Kuzma cháu không cho bán. - Cô bé nghiêm nghị trả lời.
- Cái này chữa ho cho ông cháu.
- Ồ, cái bông hoa đi ủng dạ này, nghiêm quá nhỉ!
- Thế chú cần chừng nào chú cứ lấy, - Varusa nói và chìa cái
túi. - Chú hút đi!
Chú chiến sĩ bỏ vào túi ít thuốc lá vụn, cuộn một điếu to
hút, rồi lấy tay nâng cằm Varusa vừa cười vừa nhìn vào cặp mắt xanh biếc của cô
bé.
- Ôi, bông hoa tử la tết đuôi sam! Chú biết tặng lại cháu gì
bây giờ? Chả lẽ cái này à?
Chú chiến sĩ lấy từ trong túi áo khoác chiếc nhẫn nhỏ bằng
thép, thổi vụn thuốc và muối bám vào chiếc nhẫn rồi đeo vào ngón tay giữa cho
Varusa:
- Cháu đeo cho mạnh giỏi. Chiếc nhẫn này tuyệt lắm. Trông
này, sáng bóng nhé!
- Nó tuyệt thế nào hở chú? - Varusa đỏ mặt lên hỏi.
- Thế này này, - chú bộ đội trả lời, - nếu cháu đeo ở ngón giữa
nó sẽ mang lại sức khỏe, cả cho cháu và ông Kuzma. Nếu đeo nó vào ngón này,
ngón vô danh, - chú bộ đội kéo ngón tay đỏ ửng giá lạnh của Varusa, - cháu sẽ
có niềm vui lớn. Hoặc giả thử cháu muốn xem thế gian này với mọi điều kỳ diệu của
nó thì cháu đeo nhẫn vào ngón trỏ. Nhất định cháu sẽ thấy hết.
- Thế ư? - Varusa hỏi.
- Cháu cứ tin chú ấy, - anh chiến sĩ mặc áo khoác cổ bẻ ngược
lên nói. - Chú ấy biết làm phép đấy. Cháu nghe nói vậy chưa?
- Cháu nghe rồi ạ.
- Thế đấy. - Anh chiến sĩ cười, - Chú ấy là lính công binh kỳ
cựu. Đến mìn còn phải kiềng chú ấy đấy.
- Cảm ơn chú, - Varusa nói rồi chạy về làng Mokhôvoje.
Gió cuốn tuyết rơi mù mịt. Varusa cứ sờ vào chiếc nhẫn mãi,
xoay đi xoay lại, nhìn nó lấp lánh trong ánh sáng mùa đông.
- Chú bộ đội lại quên không nói đến ngón tay út rồi! - cô bé
nghĩ, - Nếu đeo thì sao? Mình thử đeo vào ngón út xem nào.
Nó đeo nhẫn vào ngón tay út. Ngón tay gầy gò, chiếc nhẫn lỏng
quá nên rơi xuống lớp tuyết dày và biến ngay tận dưới đáy.
Varusa kêu ôi một tiếng rồi lấy tay bới tuyết. Nhưng không thấy
chiếc nhẫn. Những ngón tay đã tím ngắt lại, cứng queo vì rét đến nỗi không gập
lại được nữa.
Varusa khóc òa. Mất chiếc nhẫn rồi! Nghĩa là rồi đây ông
Kuzma sẽ không khỏe, còn nó sẽ không có niềm vui lớn và không được nhìn thấy thế
gian với bao điều kỳ diệu của nó. Varusa cắm một cành thông già xuống tuyết,
đúng chỗ chiếc nhẫn rơi và đi về nhà. Nó lấy bao tay chùi nước mắt, nhưng nước
mắt cứ trào ra và đông lại làm mắt đau nhức nhối.
Ông Kuzma thấy thuốc về mừng rỡ hút khói ra đầy nhà, còn chuyện
chiếc nhẫn ông nói:
- Cháu đừng buồn, con bé ngốc nghếch ạ! Nó rơi đâu thì vẫn
nguyên đấy. Bảo với Xiđơrơ. Nó ắt tìm thấy.
Con sẻ già Xiđơrơ đậu trên chiếc sào đang ngủ, mình tròn như
quả bóng nhỏ. Suốt mùa đông Xiđơrơ sống trong nhà ông Kuzma đàng hoàng như chủ
nhân. Nó không những bắt Varusa phải nể nó mà cả ông Kuzma nữa. Nó mổ cháo đặc
ngay trong bát, còn bánh thì giật lấy từ tay người. Khi người ta xua đuổi nó
thì nó phật ý, xù lông ra, bắt đầu gây gổ, kêu ríu rít giận dỗi đến nỗi những
con chim sẻ ở gần đấy thấy ồn cũng bay đến, nghe ngóng rồi sau đó bàn cãi ầm ĩ,
chê trách Xiđơrơ. Được sống trong nhà, được no ấm mà vẫn cho là còn ít!
Hôm sau Varusa bắt con Xiđơrơ gói vào chiếc khăn tay mang vào
rừng. Từ dưới tuyết chỉ nhô lên chút đầu của cành thông. Varusa đặt con sẻ lên
cành cây và bảo:
- Tìm đi, cào bới đi! Có khi mày thấy đấy!
Nhưng Xiđơrơ liếc mắt, nhìn tuyết nghi ngờ và kêu chiêm chiếp:
- Khiếp, khiếp! Có tìm được thằng ngốc!
- Khiếp, khiếp! - Xiđơrơ láy lại rồi vù khỏi cành cây bay vào
nhà.
Thế là không tìm thấy cái nhẫn.
Ông Kuzma ngày càng ho nhiều hơn. Sang tháng ba cụ leo lên bếp
lò nằm, gần như không rời khỏi nơi ấy, và cứ đòi uống nước luôn. Varusa đưa nước
lạnh trong gáo sắt cho cụ uống.
Bão tuyết quay cuồng trên xóm nhỏ, phủ lên các mái nhà. Những
cây thông ngập tuyết đến ngang đầu gối, và thế là Varusa không thể tìm ra nơi
chiếc nhẫn rơi ở trong rừng. Nó thường hay nấp đằng sau bếp lò khóc khe khẽ vì
thương ông và trách mình.
- Đồ ăn hại! - Nó thì thầm, - Nghịch quá để đánh rơi mất chiếc
nhẫn. Thật đáng đánh lắm! Đáng lắm!
Nó tự đấm vào đầu để phạt mình. Cụ Kuzma bèn hỏi:
- Cháu đang cãi nhau với ai đấy?
- Dạ, với Xiđơrơ, - Varusa trả lời. - Nó không nghe lời. Chỉ
muốn gây sự thôi.
Một buổi sáng Varusa thức dậy vì Xiđơrơ nhảy nhót ở bâu jcửa
sổ mổ mổ vào mặt kính. Varusa mở mắt ra rồi nheo mắt lại. Từ trên mái nhà những
hạt nước dài đua nhau chảy xuống. Ánh sáng nóng hổi rọi vào cửa kính. Những con
quạ kêu quàng quạc.
Varusa bước ra đường. Gió ấm thổi vào mắt em, làm tóc bay lòa
xòa.
- Ô, mùa xuân đến rồi! Varusa nói.
Những cành cây đen nhấp nhoáng, tuyết ướt lao xao trượt từ
trên mái nhà xuống. Rừng ẩm ướt rì rào vui vẻ và trang trọng ở sau làng. Mùa
xuân lướt trên đồng ruộng như một bà chủ trẻ tuổi. Nó chỉ vừa nhìn xuống rãnh lạch
là đã thấy con suối lấp lánh chảy róc rách. Mùa xuân trải bước và mỗi bước đi
làm cho suối reo càng tưng bừng nhộn nhịp hơn.
Tuyết trong rừng đã sẫm lại. Đầu tiên lộ ra những lá thông
nâu rơi rụng trong mùa đông. Sau đó là nhiều cành khô - bão đã bẻ gãy từ hồi
tháng chạp. Sau đó là đám lá vàng rơi từ năm ngoái rồi đất sạch tuyết nhô lên.
Và bên rìa những đống tuyết muộn đã nở những bông hoa khoản đông đầu tiên.
Varusa tìm thấy trong rừng cành thông già - cái cành mà nó đã
cắm xuống tuyết nơi đánh rơi chiếc nhẫn, và thận trọng gạt đám lá cũ, những quả
thông rỗng do chim gõ kiến vứt bừa bãi, những cành gãy và rêu mục. Dưới một chiếc
lá đen lóe lên một đóm sáng. Verusa reo lên, rồi ngồi xuống. - Nó đây rồi, chiếc
nhẫn bằng thép! Nó không gỉ đi chút nào.
Varusa chộp lấy chiếc nhẫn đeo vào ngón tay giữa và chạy về
nhà!
Ngày từ xa khi chạy gần tới nhà, nó trông thấy cụ Kazma. Cụ
ra khỏi nhà ngồi trên thềm, khói thuốc màu lam tỏa trên người cụ, bốc lên trời
tựa như cụ đang ngồi hóng dưới mặt trời mùa xuân và hơi nước đang bay trên người
cụ.
- Này cháu ơi, - ông già nói, - cháu cứ như cái chong chóng ấy,
ra khỏi nhà quên cả đóng cửa, gió nhẹ thổi ùa vào phòng thế là làm ông hết cả bệnh.
Bây giờ ông hút thuốc một lát, rồi lấy cái rìu chẻ ít củi, ta nhóm lò làm một mẻ
bánh ăn chơi.
Varusa cười phá lên, vuốt mớ tóc bạc xù xù của ông cụ và bảo:
- Cảm ơn chiếc nhẫn! Nó đã làm cho ông khỏe đấy, ông ạ.
Cả ngày Varusa đeo chiếc nhẫn ở ngón giữa để làm cho ông được
khỏe hẳn. Mãi đến tối khi sửa soạn đi ngủ nó mới tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón
giữa và đeo vào ngón vô danh. Sau đó ắt phải có một niềm vui lớn. Nhưng sao nó
mãi không đến. Varusa không đợi được nữa ngủ thiếp đi.
Em dậy rất sớm, mặc quần áo, đi ra khỏi nhà.
Ánh dương ấm áp lặng lẽ tỏa trên mặt đất. Ở phía cuối trời
còn mấy ngôi sao chưa tắt. Varusa đi về phía rừng. Em dừng lại bên bìa rừng:
cái gì kia ngân vang trong rừng như ai đó đang lắc những quả chuông nhỏ?
Varusa cúi xuống nghe ngóng rồi vung tay mừng rỡ - những bông
hoa điểm tuyết trắng rung rinh chào đón bình minh, mỗi bông đều ngân nga như
trong đó có một con bọ dừa đang đập chân vào mạng nhên bằng bạc. Trên ngọn
thông con gõ kiến gõ năm tiếng.
“Năm giờ! - Varusa nghĩ. - Sớm quá! Yên tĩnh quá!”
Ngay lúc đó trên cành cao, con vàng anh - con chim Lửa của
chúng ta - cất tiếng hót.
Varusa đứng nghe, miệng mỉm cười. Một làn gió ấm hiền hòa thổi
ào vào người nó, bên cạnh có cái gì xào xạc. Rừng rung động, từ những chùm hoa
bồ đào phấn vàng rơi xuống. Ai đó vô hình thận trọng rẽ cành cây đi lướt qua
Varusa. Phía trước con chim cu cất tiếng gáy chào mừng người ấy.
“ Ai vừa đi qua nhỉ? Thế mà mình không nhìn thấy”. - Varusa
nghĩ.
Em không biết rằng mùa xuân vừa đi qua.
Varusa cười rộ vang cả khu rừng và chạy về nhà. Và một niềm
vui lớn - lớn không thể ôm xuể được - rộn ràng reo vui trong lòng em.
Mùa xuân mỗi ngày một bừng sáng tươi vui và rực rỡ hơn. Bầu
trời chan hòa ánh sáng khiến mắt cụ Kuzma nheo lại mà vẫn luôn luôn tươi. Rồi
liền đó muôn ngàn đóa hoa nở rộ trong rừng, trên đồng cỏ và các khe mương như
có ai rắc lên đó một thứ nước thần.
Varusa định đeo chiếc nhẫn sang ngón trỏ để được nhìn thế giới
với bao điều kỳ diệu của nó, nhưng nhìn những bông hoa ấy, những nõn lộc cây bạch
dương, bầu trời trong vắt và ánh nắng ấm áp, nghe gà gáy, nước róc rách và chim
hót véo von ngoài đồng, em không đeo nhẫn vào ngón trỏ nữa.
“Mình còn kịp, - em nghĩ. - Không ở đâu trên thế gian có thể
đẹp bằng làng Môkhôvôje của mình. Thật là tuyệt vời! Không phải vô cớ ông Kuzma
bảo rằng quê mình là thiên đường thực sự và chẳng còn mảnh đất nào tuyệt vời
như vậy trên trái đất này”.
1/1/2001 Sưu tầm
1/1/2001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét