Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2022

Thôi rồi dương tính Trùng Dương! - Tiểu luận của Võ Quốc Việt

Thôi rồi dương tính Trùng Dương!
Tiểu luận của Võ Quốc Việt

Hơi sức đâu uống hết quầy rượu Trùng Dương! Sức trâu bò cũng không uống hết được! Nhưng rõ ràng quầy rượu Trùng Dương độc đáo chủng loại hương vị, đáng thử một lần! Vài ba lời quảng cáo luống mong bạn lòng xa gần, những ai có nòi tình thói nết môn đệ Rượu Nho, thử ghé qua quầy bar Trùng Dương, ngồi tỉ tê cùng tomboy Thái Thị Nguyễn. Một đêm nào đơn côi thảm thương, dưới ngọn đèn vàng võ đường khuya u buồn, thử ghé qua bar Trùng Dương trên đường Sóng Thần, nhắm nháp một ly Martini Mưa không ướt đất, một ly Magarita Chung cư, một lèo B52 đắm đuối Lập đông, để thấy mình cũng dương tính với đời, chứ không hẳn ngu ngơ vô vị/ráo hoảnh/lê thê/lết thết giữa bãi đời u ám! Thử đi, bar Trùng Dương mở cửa 24/7, kể cả lễ tết!
Nhà phê bình trẻ Võ Quốc Việt ở Long An
Martini Mưa không ướt đất
Một văn giọng văn xù gai, cứng khừ và chất giọng dửng dưng ương ngạnh.
Lối dẫn dắt chuyện của Trùng Dương có cái gì đó bất cần. Kiểu như một người đàn bà ngồi lim dim hút một điếu thuốc lá,… nheo nheo mắt và bắt đầu suy nghĩ. Nói ra như một hơi thở xòa, ngã nghiêng đứ đừ, dường như không quá chú trọng đến người nghe. Những suy nghĩ đứt quãng về Cương, Thư, Duẫn. Đầu mối liên kết các sự việc dường như lỏng lẻo. Hoặc giả chính người viết muốn như vậy, để giấu điều gì đó. Hoặc tác giả tự “buông thả” theo suy nghĩ và làm “kẻ trong cuộc hiểu người trong kẹt”, vì quá rành mặt  mũi nhân vật nên không lãi nhãi dài dòng, kể cho tường tận. Việc kể không phải của tác giả. Việc của tác giả là buông trôi suy nghĩ và đắm mình vào từ trường cảm giác của những suy nghĩ ấy mạng lại. Một lối viết văn Trùng Dương. Ngàn khơi miên viễn sóng biển xổ tràn ra mênh mông không bờ bến. Ngàn trùng biển trải ra vô hạn giới. Từng con chữ của Trùng Dương là con chữ lẩn thẩn, quẩn trí, quanh đi quẩn lại trong phạm vi hai bàn chân. Rối dò đi lại trên trang viết. Ưng ức, ngột ngạt và chán chường! Tràn lan ra chữ, giấy là tiếng thở hắt ra, buột rơi như đá rơi vào lòng hồ lặng im.
“Những buổi chiều tan học kéo nhau lên đây cả bọn bốn năm đứa duy có mình Thư là con gái. Tại sao thích tham dự vào những buổi họp mặt của bọn con trai hơn là gần gũi với các bạn gái mà Thư thường cảm thấy quá e dè ngại ngùng? Duẩn nhớ rằng mình vẫn chỉ coi Thư là một người bạn trai, dù Thư là người yêu của Cương. Cương vừa thích có Thư tham dự vào những cuộc họp mặt này vừa không. Ở người con trai ấy có nhiều điều u ẩn và hơn lãnh đạm. Từ ngày anh đi ngoại quốc, trong những lá thư gửi về Thư chợt “nhận ra” Cương. Người ta yêu người khác không vì những tương đồng mà vì những điều có thể rất trái ngược. Thư sống như một con mèo hoang thì Cương khép mình trong khuôn khổ mực thước, hoàn toàn lệ thuộc gia đình. Cố nhiên chẳng phải vì người nay hay người kia muốn thế, hay có muốn thì cũng chỉ một phần. Đứng trước Cương, Thư cảm thấy quá cô đơn nhưng không thể không yêu. Cương thương và yêu người con gái với một lý do gần giống thế”[1].
Nét chung thường thấy ở văn xuôi nữ trước 1975, nhân vật thường rất ưu tư, rất hay suy nghĩ và truy vấn không thôi trên con đường lữ thứ ý hướng. Họ không thể không suy nghĩ, cật vấn; đồng thời chối bỏ những cật vấn ấy. Họ là một kiểu ngôi sao “lùn” sụt lún trong chính trọng lực tâm tư của mình. Những tinh cầu đang giẫy chết. Và người đọc dõi theo họ thường có cảm giác bị bào mòn. Trùng Dương có lẽ là cây viết tiêu biểu cho hiệu ứng bào mòn tâm khảm. Mòn ở đây có thể hiểu như phép oxy hóa khử của phi lý thế sự kiểu như “Dionysos” Camus. Và, cũng có thể hiểu kiểu ăn mòn này như thể mòn mà không ruỗng: mòn đầy, mòn ưng ức, mòn chất chứa, mòn chật cứng. Hoặc giả hiểu như Phật lý, hiệu ứng bào mòn chính là kết thằng suy niệm. Đá tảng không ngừng kết tủa. Liệu tôi ép Dương vào khoảng trắng sẵn có đón đợi trong đầu tôi, hay … chính Dương đã là sự sụt lún tạo tác hố đen bất khả trong đầu tôi. Kỳ cùng, những luận bàn, phân tách và trình bày chữ nghĩa ở đây là một cuộc va chạm giữa tôi và Dương – người em gái thất lạc tiền kiếp. Hẳn Dương chẳng rảnh để trách tôi, và tôi không băn khoăn về những dè bỉu có thể có (nếu thiên hạ phiền lòng). Khi tôi viết ra những dòng này, cả tôi và em Thái đã không còn trách nhiệm gì nữa. Trách nhiệm thuộc về những người đọc bài viết này, bởi vì tôi đã trao lại cái hố đen này cho họ. Điều này khiến tôi nghĩ đến tính chất vô trách nhiệm của những nhà tiểu thuyết mới Pháp quốc.
Điều này không hẳn tôi gán cho Dương vào nhóm đó. Không thể như vậy được! Tôi chỉ đang nói về cách làm văn chương của Dương. Vấn đề trách nhiệm xác lập tính cách văn chương của em. Trách nhiệm thuộc về ai? Không phải tôi, cũng không phải em, có lẽ chính là kẻ đọc thứ “n” và sự kết tạo người đọc “n+1” cho đến người đọc nn. Chữ nghĩa Trùng Dương là một dạng chủng tử với sức ký sinh nhất định. Một khi đã di căn hoặc chen kết vào cấu tạo DNA của tha thể, nó âm thầm, tưởng rằng không có nó, nhưng nó đã ở đó trong DNA của người đọc và di truyền. Vật chất di truyền của nó chỉ là một cảm thức, một cảm giác siêu hình nào đó. Và điều này phải thừa nhận rằng Dương với môn phái “ngũ long công chúa” mạnh hơn đàn ông. Các ông chớ có xà quần tỷ thí! Chữ nghĩa các bà, gồm cả em Dương, thường lãng đãng một cảm thức siêu hình khó nói. Cũng như nói tới là một việc hầu như sai lầm. Cảm thức siêu hình đó không phải để nói tới, muốn hiểu được hãy cảm, nghĩa là nhập thần. Cứ kệ “cmnr”! Và bạn thấy nó đâu đó quanh quất thân mình, lãng vãng trong tâm tưởng. Câu chuyện của Duẩn, Thư nhạt nhẽo, buồn tẻ, không đáng kể. Chẳng có chuyện gì theo kiểu gặp gỡ -mẫu thuẫn-đỉnh điểm-giải quyết mâu thuẫn-kết thúc.
Duẩn – người đàn ông mập mạp, ưa giễu cợt, mặt đỏ gay; xàm!
Thư – có ngoại hình dịu dàng nhưng cứng cỏi và lạnh nhạt; ai để ý đâu!
Thư và Cương từng yêu nhau; kệ tụi nó chứ!
Cương – người đàn ông mảnh khảnh, hơi nữ tính, thiếu tính chất nóng nảy của đàn ông; nghe mắc mệt!
Phấn – anh bạn chủ nhà, ưa tán tỉnh, muốn cưới vợ là cô giáo; rồi thì sao!
Như vậy rốt cuộc ‘tính chất có vấn đề’ mà văn chương xưa nay hay rảnh rang kiếm chuyện bày ra trên con chữ, không có trong địa hạt tâm hồn Trùng Dương. Hoặc: tính chất có vấn đề của sự đời ở Dương lây lan theo một kiểu khác?
Có những khối u ác tính/mãn tính trong Mưa không ướt đất. Giây phút nhận thức về sự phi lý (thực ra tôi không thích từ này, vì thị lý hay phi lý mang tính chủ thể-thời thể-võ đoán). Phi lý đùn lại trong một khoảnh khắc và nó ở đó. Mãi mãi lộm cộm trong tâm tưởng, dần dà như ra một khối u, tưởng như nốt ruồi nhưng ngày càng phình to nhức nhối. Dương thấy thương hại quá khứ. Khối u quá khứ nhức nhối. “Nghĩ cũng buồn cười. Tôi thấy thương bọn mình dạo ấy lạ, thương cái quá khứ hồn nhiên đến thơ ngây đó. Sau vụ phát giác đó, tôi thấy như có một mối nghi kỵ rơi xuống giữa bọn mình …”[2]. Không thể tự dàn xếp lòng mình, thì lòng mình sẽ bị bố ráp – bị khủng bố – bởi kẻ tặc đảng của Phi Ngã. Phân chia Ngã và Phi Ngã (Tôi và Phi Tôi), khiến cho tâm thức trở thành một cuộc áp thấp. Không hẳn là một cơn bão nóng nảy càng quét, mà chỉ là cơn áp thấp quần thư thường xuyên.
Nửa bão nửa áp thấp như vậy không chỉ giăng giăng trong văn Trùng Dương, mà còn thấy ở nhiều nhà văn khác nữa. Các nhà văn nam cũng như các nữ văn sĩ. Suy tưởng là những tầng mây dày và nặng trịch áp sát mặt đất. Buồn bã như đời người và sống là một dạng cảm sốt hành hạ cơ thể, yêu và suy tưởng là cơn cảm cúm. Suy tưởng phát tiết bằng sức nóng hầm hập của cơ thể khi phản ứng với một loại cúm mùa chưa kịp thích nghi. Một khi kháng thể vẫn còn đang thư hùng với loại cúm xa lạ, cơ thể lên cơn sốt, rét run, mệt nhừ và ánh mắt buông hờ trôi lãng đãng không chủ đích, nhìn cuộc đời tràn ra chán chường, suy tưởng là một cơn sốt bởi cúm mùa. Trùng Dương vẽ nên một hình tượng đàn bà, có lẽ là đàn bà trẻ, không chắc, nhưng có thể đàn bà đã chấp chới bỏ lại tuổi trẻ để bước tới một cái gì chưa hẳn già. Nhưng cũng không hẳn đàn bà, có lẽ chỉ nên gọi người trẻ. Tuổi thanh niên ảo tưởng. Đàn bà nửa vời, bởi hai cánh chim đã sướt mướt ướt nước mưa giông, từng nang lông suy tưởng dầm dề, mệt mỏi rã rượi. Con chim ngồi cú sụ trong hóc cây, nhìn ngày mưa áp thấp chưa có dấu hiệu kết thúc. Chẳng thế nên Thư đã nói một câu xanh rờn rợn “nói là nói vậy thôi … Nỗi buồn thực ra tô điểm cho cuộc sống…”[3]. Đặc biệt là một người đàn bà trí thức thì chẳng khác gì liều thuốc độc. Trí thức có quý báu khỉ gì với một người có của. Trí thức chỉ là một bản án xác quyết nỗi buồn, người ta như kẻ tù và trí thức như cai ngục, tên cai ngục giật đầu, kéo mắt cho thấy cảnh chính bản thân bị cưỡng hiếp giữa ngục thất. Huống hồ một người đàn bà trí thức, chẳng khác gì người đàn bà với nỗi đau nhức nhối bị tước đoạt dương vật (kiểu như Trần Đức Thảo từng biện bạch), đổi lại là một con dao đã rỉ sét những vẫn còn khát máu. Thư lạnh lùng nhưng lời nói và cách suy nghĩ của cô gái nhọn nhoắt như một mũi kim đâm.
“Theo tôi, báu gì cái trí thức, nhất lại là một người đàn bà trí thức”[4].
Câu chốt hàng rung lạnh đúng điệu Shaken Martini!
Magarita Chung cư
Vấn đề luân lý. Có vẻ như bầy khỉ nhân loại lúc nào cũng thèm khát luân lý. Phải chăng vì chẳng có luân lý nên truy đuổi tìm kiếm luân lý. Hoặc giả luân lý chỉ là thứ nhãn hiệu (không hơn) để che đậy cái cần che đậy. Nói ra đây không phải để bốc phốt hoặc giãy nảy một vài cái gọi là  – trước bệ thờ mỹ danh NHƠN LOẠI; mà những muốn thượng đẳng hàn lâm trí thức và những nhà luân lý học những bậc đạo đức gia có thể lượng thứ và bao dung cho kẻ đàn bà phì phèo điếu thuốc đầu tiên trong ngày – một phận đàn bà – một kiếp giang hồ đỹ điếm – nhởn nhơ phà khói vào người đàn ông luân lý tội nghiệp đang van lơn cô buông tha cho thằng con trai của ông. Để mà chi vậy? Vì sao một bậc trưởng thượng địa vị được thiên hạ tôn kính (tức là đại diện, tức là biểu tượng cho chuẩn mực và quy phạm xã hội) lại phải hạ mình hầu phục và van vỉ một chút đỹ điếm mạt hạng thế kia? Phải chăng để gìn gữ và bảo vệ cái ngai vàng luân lý của ông ta – mô thức gia đình quy chuẩn – các mô phạm nhân tính mực thước. Hay đúng hơn, ông bảo vệ cho gai vàng sáng chói Apolo khỏi mối nguy hại sứt mẻ suy suyễn ô nhiễm cấu bẩn bởi thói ngã ngớn đàn đúm cợt nhã giễu nhại tệ lậu đáng xấu hổ của Dionysos.
“Tôi xin cô hãy buông tha con tôi, hãy trả nó về với gia đình nó, với mẹ nó, cha nó, với đứa em gái đang khốn khổ vì bị gia đình nhà chồng từ hôn chỉ vì có một thằng anh đàng điếm, sống chung với …”[5]
Cô gái giang hồ (môn đệ của Dionysos) hầu như dửng dưng. Bởi bóng tối đùn ra từ khe hang vực thẳm thân cô nào có thèm bôi xấu tiêm nhiễm chi hết! Đối với cô, chuyện hết sức tầm phào. Ấy vậy mà, người đàn ông (kẻ hầu phục dưới ánh sáng huy hoàng điển phạm mô thức của Apolo) thì run sợ và bấn loạn. Bởi ngai vàng chúa thượng chinh ngự đương run rẩy. Không biết … kẻ môn đệ Apolo có thấy rằng: từ lâu, ngai vàng hoàng thiên thượng đế bấy giờ đã chẳng còn hơi hám gì của đế thượng hoàng thiên. Bấy nhiêu năm hầu phục tôn phò “nhân tính” trên ngai “nhân bản” mà chẳng ngộ ra được: hắn chỉ là kẻ giữ mộ, canh gác nấm mồ của nhân tính. Tử thi nhân tính dưới nấm mồ phi nhân bản, đến mức cỏ dại chẳng mọc nổi!
Nhưng cũng xin bè lũ đồng loại, chớ lầm tưởng những kẻ “theo đóm ăn tàn” xập xình cuốn quần kéo áo theo sau Dionysos là những người đắm đuối rượu nho. Xin hãy cẩn trọng đôi mắt, cặp tai, hai lỗ mũi và thần khẩu chớ xuất thần vô phương cứu chữa, bởi những kẻ mạo danh “hippie” thì nhiều mà thực sự hippie thì đếm trên đầu ngón tay. Nào những lời dối trá ngọt ngào êm dịu, nào những kẻ tuyên thuyết xưng danh ái tình và tự do, nào những bậc giai nhân tài tử xổ tung giới hạn truy tầm tuyệt đích, rất có thể bọn họ cùng chung một nấm mồ hư vô, cùng đường bí ị!
Đàn bà làm văn chương, để mà làm gì chứ? Không riêng chỉ với văn chương, dù làm gì đi nữa, dù ăn ở đi đứng nói cười ngủ nghỉ cởi quần lột áo, hay gì gì đi nữa, chung quy chỉ làm một việc duy nhứt. Làm đàn bà! Ngay cả những ai không đàn bà, những ai là đàn bà nhưng giãy thoát thỏi một phận đàn bà, và những kiếp hồng nhan đúng chất đàn bà,… chung quy đều dính líu và ít nhiều thực hiện sự đàn bà. Nói vậy để thấy “đàn bà” không đơn thuần hiện thể mà là một tính thể. Đàn bà, thực chất là ý hướng đàn bà. Cũng tức là lắm ông cũng có khi rất ư đàn bà. Và các bà có khi đỡ đàn bà hơn các ông; các bà còn có khi phi thường đàn bà hơn các bà khác. Nói càm ràm mấy lời này, ngõ hòng mở lối cho thiên hạ thử hạ cố chút lòng đến mấy lời tỷ tê của Dương – Trùng Dương: tức Dương Tính Đàn Bà.
Hay Đàn Bà Dương Tính = Trùng Dương.
Người con gái Cua Đinh, chị đàn bà cá rô đực. Mấy lời khen thiệt lòng quá trời quá đất này, có thể khiến không ít bậc trưởng thượng chữ nghĩa nhột nhoạt sau hè, nhưng chắc rằng nếu lột bỏ toàn bộ xiêm áo mũ mạo giày hia, các vị thôn trưởng thượng tộn có thể hè nhau khóc ròng cho dã thú Đàn Bà Trùng Dương, bởi mấy lời trùng dương khơi dòng ái tình khổ lụy. Các vị thần khẩu bốn phương tám hướng có nghe lời thỏ thẻ thủ thỉ trùng dương.
“Thưa ông, tại sao người ta đòi tôi phải hy sinh, trong khi người ta chẳng chịu hy sinh cho tôi một mảy may? Vợ ông còn có ông săn sóc. Con gái ông xinh đẹp, học giỏi, nhà giàu, lo gì chẳng có bao nhiêu kẻ khác chạy đến lạy lục van xin để cưới làm vợ? Còn tôi, tôi có gì đâu ngoài tình yêu của Tuấn? Tuấn là lẽ sống của đời tôi bây giờ và mãi mãi về sau. Tại sao, tôi cũng chỉ là một người con gái như trăm ngàn người con gái khác, mà tôi lại không được quyền yêu đương, không được quyền hưởng hạnh phúc với người tôi yêu và yêu tôi. Tại sao? Tại sao vậy hả ông? Tại sao vậy hả trời?…”[6].
Thưa các vị trưởng thượng hoàng thiên thượng đế, các bậc minh quân anh tuấn thần võ, các vị có nhận thấy vì sao giới chữ nghĩa Nam Việt Nam hồi ấy cứ hay mượn kiếp đỹ điếm giang hồ hòng thú thiệt lòng dạ. Cớ làm sao cứ phải quanh đi quẩn lại vũ trường, giường chiếu, rồi rỉ rả ba lời ái tình ngặt nghèo éo le ngang trái? Làm bộ như thiên hạ ái tình bấy nhiêu gom hết vào nghịch cảnh đỹ điếm không bằng? Liệu có phải giới chữ nghĩa bấy giờ, cũng như tomboy Trùng Dương (gốc ở xứ Đoài) và bằng hữu vườn đào (ngũ long công chúa thủy tề) vận hội hòa mình vào không gian Nam Việt Nam ngột ngạt. Nỗi ngột ngạt bức bối đòi hỏi một truy cầu nhân tính đúng nghĩa. Rốt cuộc, dầu có rỉ rả tỷ tê thê thiết tha lòng như thế nào đi nữa, dầu có gán ghép quy kết gá tội “hiện sinh” gắn bệnh “nữ quyền” gì gì đó thì, chung quy: Trùng Dương và Ngũ long công chúa thủy tề cũng chỉ có thể nói đi/nói lại/nói tới/nói lui/nói xuôi/nói ngược/nói quàng/nói xiên chung một “luận đề” duy nhất: SỐNG và YÊU; hay YÊU và SỐNG; hoặc SỐNG=YÊU. Cùng một số môn phái thịnh thời bấy giờ, ngũ lông công chúa thủy tề đã góp thêm mấy lời thống hận cho bọn “yêu quái dục lạc” sống ở vùng âm giới u tối bấy lâu bị trù dập câu nhốt giới hạn vào địa hạt cấm kỵ. Chung quy, ấy là đại hội kết tập những kẻ tạo phản, những tên loạn đồ, những phường nghịch tử, những thứ nghịch tặc, những đứa bụi đường bỏ nhà đi hoang, những o chửa hoang, những thằng du đãng, những con thú lang thang đầu đường xó chợ trong cuộc hội hè và hội hề đô thị miền Nam. Chính vì vậy, bọn chúng đáng thương hơn những đồng loại của chúng ta. Và đến cùng, xin nhận bọn người quỷ ám, xin nhận bọn yêu ma dật dờ trong bóng tối Dionysos làm đồng loại mến thương! Những muốn ôm hết thảy bọn yêu ma vào lòng thắm thiết! Ôi yêu ma, đồng loại của ta!
Từ ngõ Ái Tình, Dương dẫn bạn về lối nhân tính. Sống, yêu, hạnh phúc, làm người, … Những kẻ làm cuộc đổi dời thay trời đổi đất, hoặc những anh Từ Hải, Hy Văn, thế nào cũng xỉ vả cười nhạo Dương với ngũ lòng công chúa thủy tề: ôi những con chim sẻ quanh quất bay chuyền bụi bờ, không thể làm cánh tưởng bay bổng chín tầng mây xanh, phận bèo bọt không thể hiểu nổi cánh bằng đập cánh che lấp trời cao. Hẳn không ít kẻ trong thiên hạ cứ băn khoăn, sao cứ phải lải nhải nói hoài mấy lời tình ái nhạt nhẽo tầm thường quá đỗi. Ủa vậy ra con người có thể phi thường được chăng? Có thể cao xa siêu vượt được ru? Đành rằng cánh chim bằng che khuất hoàng thiên, đành rằng chim sẻ chỉ luồn lách cành nhánh bụi bờ. Nhưng đâu ai nói được rằng chim sẻ đôi cánh không nghĩa lý. Chí ít, chim sẻ thấp hèn đôi cánh có thể nhẫn nhơ vẩn vơ hạ cố nghe ra lời giun dế tấm lòng. Đồng loại con người có mấy ai dám vỗ ngực xác quyết bụng dạ ruột phèo mình chẳng đôi khi gáy ran dăm ba lời giun dế. Chí ít những kẻ như Dương đã dám thổ lộ thoi thóp dầu cửa họng bị bóp thót nghẹn ứ ít nhiều. Phò suy chẳng phò thịnh, Dương làm chữ nghĩa làm báo và làm đủ thứ búa xua tùm lum; chí ít Dương dám làm. Tức là tomboy Trùng Dương đã dám dương tính với đời! Mừng cho Dương vì đã dương tính với đời!
Ranh giới nhập nhòe giữa lớp diễn vai tuồng và xúc cảm, màn kịch không thật nhưng xúc cảm thì chân thật quá chừng. Mỹ Dung – cô gái giang hồ trên sân khấu, làm trò mua vui cho thiên hạ. Ngang trái trong cõi người của đồng loại chúng ta, vốn chỉ là trò khuây khỏa lấp vào nỗi trống rỗng đời sống tha nhân. Bốn bề những tha nhân lấp đầy nhau, bởi trời sinh vực đời vực người, bao nhiêu mệnh phần số kiếp nhào đầu rơi rụng những mong lấp đầy sống, mà hằng thủy đến giờ có lấp nổi đâu. Lấy cuộc lấp đời, người trở nên nực cười hết biết! Biết tìm đâu nhân tính trong những cuộc của đời. Mộng và thực, kịch và đời, đỹ điếm và kịch sĩ, Dung cũng được mà Kim cũng được, … cô gái với mẹ say sưa nói về những dự tính trong tương lai.
Phù phiếm = Siêu nghệ thuật[7].
Cuộc đã thảm bại trước lớp lớp đời. Thái độ phủ chối của mẹ Kim có khiến bạn lòng thấy bệnh hoạn và đáng thương hại. Cái quán tính siêu ngã phủ trùm đời Kim. Nghe mà thảm bại hết sức, Kim cứ hết lần này đến lần khác, hết suy nghĩ rồi lại ưu tư, Kim muốn thoát khỏi mẹ[8]. Không biết có ai nhớ đến Cô gái chơi dương cầm không? Dương và Kim ngồi thủ thỉ kế bên, có lúc Dương nói thay cho Kim. Nói đã đời, chỉ thấy Kim và Dương giăng tơ bó mình thành thứ xác sống trong lọn tơ không đầu đuôi. Nghệ thuật, phó Nghệ Thuật, siêu Nghệ thuật dằn qua kéo lại, rốt cuộc nghệ thuật theo lối ấy đã tanh bành té bẹ. Cái nghệ thuật mực thước điển phạm đã phá sản mà cái thuật nghệ đổ tháo hỗn loạn của những tên “mọi đen-mọi vàng” đầy rẫy Nam Việt Nam cũng chưa nên người ngượp hình hài gì ráo. Nghệ thuật, phó Nghệ thuật, siêu Nghệ thuật, rốt cuộc chỉ là phi Nghệ thuật. Thánh thần thiên địa ơi! Vậy thì rốt cuộc những suy tư của Kim để mà làm gì chứ? Cây búa suy tư kiểu như Kim chỉ là lối đập đầu tự sát. Đập chế mẹ Kim cho rồi!
Nhân tính không phải cái mà người ta tạo ra. Nhân tính là cái tình thế mà người ta thành ra. Kim hay Dương cứ liên hồi ao ước làm cuộc tạo phản, dẫu trở thành kẻ nghịch tử ngỗ ngược cũng chẳng sao.
“Mẹ đã mớm vào hồn con trẻ một hận thù đối với người cha không bao giờ biết mặt và đối với bọn đàn ông vốn như loài ong bướm vờn, hút mật đấy rồi bỏ đi không luyến tiếc. Chính mẹ đã đang tay khép chặt cánh cửa đời son trẻ của mẹ và đời con gái của tôi bằng những thành kiến, bằng hoài nghi. Mẹ nặn cho tôi thành hồn nhiên, già dặn, lẳng lơ, đoan trang, chững chạc, đứng đắn, nề nếp. Tôi đã từng là Lan, là Huệ, là Điệp, là Dung, là Trinh, là Hồng – nhung tôi chưa bao giờ là tôi”[9].
Ủa vậy là nghệ thuật chỉ là một hình thái trả thù đời, nghệ thuật chỉ là phương tiện để nhân tính phục thù thú tính, chỉ là cái để con người che đậy bản năng cấu xé giết chóc đồng loại, chỉ là thứ giả danh để con người thực hiện ảo vọng làm người không thành ngoài đời thực, nghệ thuật chỉ là một phiên bản của thú tính học đòi làm người để mà có nhân tính. Ủa như vậy, người vốn dĩ đã có nhân tính chưa? Bạn lòng nếu thiếu kiên nhẫn chắc có khi xé tan tành trang sách không chừng. Dương thiệt cà chớn vì cứ khiến người ta rấm rức khó chịu mỗi khi đọc. Nhưng trước khi bạn đọc khó chịu rấm rức, chắc Dương đã nổi mình nổi mẩy, ngứa ngáy rôm rẩy khắp châu thân. Cái hình hài thể phách của Dương bị chứng ngứa ngáy kinh niên mãn tính, tứ chi cào cấu hồn phách.
Dẫu gì, phải thừa nhận Kim à (cả Dương nữa, cũng phải thú nhận đi), chính cái siêu nghệ thuật hay phi nghệ thuật gì đó, cái phá phách ngỗ ngược của phường nghịch tử, của đám loạn thần cũng khởi dậy bởi chính bào thai tử cung triều ca của MẸ/cái nghệ thuật tiền hiện. Bởi có mẹ/có nghệ thuật quy thúc mới khởi xuất “khả thể” nghịch tử sắp sửa. Chẳng phải Dương đã nói đó sao: “Như mẹ đã sống cho tôi diễn xuất”[10]. Nói vậy, thì Kim và Dương nên quỳ lạy mẹ hiền mẫu thân ác nghiệt ba lạy, cũng như Tâm với Tuyền phải xá tạ tiền chiến chữ nghĩa ba lần. vậy mới đáng công cốt nhục cù lao thoát lốt lập thành sử mệnh văn chương. Nhưng mệnh của ai nấy sử! Chớ có lằng nhằng bắt ép ấn định. Thế hệ “MẸ” với diễn trình đời MẸ, thế hệ “CON” với diễn trình đời “CON”, chẳng thể trùng khít, in lồng vào nhau. Hai phận người, hai thế hệ, hai diễn trình đời sống khác nhau, chớ bắt con phải Apolo, con chẳng có nghĩa vụ phải Apolo. Thằng cha Dionysos cưỡng hiếp MẸ đẻ ra CON, cớ làm sao bắt con Apolo như cái nòi tình căn cốt của MẸ được. Thành ra Kim đã “cương”[11] trên sân khấu, chỉ những lúc ấy Kim mới là Kim, còn bằng không chỉ là “…” chẳng có Kim nào hết.
“Tôi nằm trên giường lẩm nhẩm. Câu đó mẹ thường viết trong các lời đối thoại của nhân vật chính mà thường là do tôi thủ vai. Tôi cảm thấy có một cái gì không ổn trong tôi. Tôi không mong cái gì bây giờ và mãi mãi về sau. Tôi chỉ muốn có bây giờ. Bây giờ hay không bao giờ. Tôi kinh hoàng những gì mãi mãi về sau”[12].
Tính mệnh của mẹ là để lưu danh mãi mãi về sau, lập thành điển phạm, an ngự trên ngôi cao chính bệ cho thiên hạ phượng thờ tán tụng thắp nhang cầu khấn. Tính mệnh của con là chỉ có bây giờ trong giây phút hiện tại độc hữu thống nhất toàn thể. Thực chất bạn có thấy Kim mà cũng chính là Dương, đã đặt ra tình thế đối nghịch của hai thế giới quan và hai nhân sinh quan. Vậy, bạn sẽ chọn làm mẹ thiên hạ/làm má thiên nhiên/làm bà nội vũ trụ hay chọn làm nghịch tử/nghịch tôn/nghịch tặc/nghịch đồ/nghịch đệ. Xin mời cứ tự nhiên lựa chọn! Hãy cứ mừng vui đón nhận vài câu chửi rủa bá vơ! Bởi rủa xả bá vơ cũng hay ho như ong ve giun dế rỉ rả, may ra khiến đêm sâu hoang vu trên đại địa bớt phần nhạt nhẽo!
Rồi cái ương ngạnh đã xua đuổi được chốc lát dáng hình mẹ thiên hạ! Lục tìm hộp quẹt, Kim nhấp nháp điếu thuốc đầu tiên trong ngày.
***
Nhiễm phải kịch độc Dionysos, Dương toàn kể lảm nhảm mấy cái số phận không đâu. Nếu không phải là nghịch tử thì cũng là nghịch tặc – kẻ đào tẩu khỏi chiến trường cuộc đời. Thiệt hết nói nổi Dương! Toàn một lũ con hoang lạc loài, phận chó đẻ đầu đường xó chợ! Dầu có danh phận, lính lác này nọ, nhưng tâm thức bọn ấy chỉ là tâm thức lạc loài không số không tên không địa chỉ cư trú, vô thừa nhận trong cõi người. Phận ăn nhờ ở đậu trên chính cuộc hiện hữu của mình.
Nghĩ, khốn nạn và chó đẻ hết biết, phải không Thuấn Gàn/Thuấn Hạt Tiêu/Thuấn Ớt chỉ thiên!
Chắc có bạn nghĩ đến Phi trung tâm, Phi đại tự sự/Tiểu tự sự gì gì đó khi phát hiện bọn người mà Dương kể. Liệu Dương có biết mấy cái khái niệm long trời lở đất cỡ đó, hên xui thôi! Nhưng chắc chắn, Dương nghiêng ngó chỉ trỏ thắc mắc về bọn người như Thuấn, như Kim, bởi chính gút mắc “người” trong lòng Dương! Đó chính là biểu hiện triệu chứng dương tính! Bằng cách viết, Dương “test” chính lòng mình trong cuộc diện cô độc thảm thương của Thuấn[13].
Dương với Thuấn lân la, ăn ké đám cưới. Ai biểu, rồi khi đã ở giữa cái đám cưới tưng bừng nhộn nhịp nói cười, mắc mớ gì hè nhau khóc rấm rức trong lòng cùng một hơi rượu mạnh đứ đừ. Cái tình thế – nếu chẳng có cái tình thế đám cưới, chắc Thuấn vẫn lang thang nhà thổ và ngủ với gái điếm ngon lành; – nếu chẳng có cái tình thế đám cưới, chắc Dương vẫn làm Mỹ Dung đỹ điếm trên sân khấu chữ nghĩa gọn hơ. Ai biểu gài thế rồi tự sa chân vô thế, ráng chịu! Có lẽ Dương cũng chấp nhận, phải nhận rằng chính Dương kiếm chuyện, moi móc ra những sự thể bi kịch, những sự thể có vấn đề để mà “luận” cái “đề bài” đời sống. Trên mặt bằng chung, Dương thấy mọi sự chăng có gì đáng chú ý. Nên Dương kiếm chuyện để mà lý sự đời, cho có chuyện để lý. Cái tính chất bi kịch-có vấn đề, nhờ đó, lộ ra như là tính chất đặc hữu của thực tại. Lý nào đời lại chẳng có chuyện để mà lý sự, phải không Dương? Nhờ đó, Dương mới có cái để ăn mày văn chương ba chữ rởm đời!
Ôi thôi, đời sống cũng chỉ là cái cớ để cơ trí có cái thực thành cơ trí! Nhược bằng chẳng có cớ sự gì, thì lấy gì cơ trí ong ve rỉ rả. Thuấn – kẻ bi quan, yếm thế, thất bại toàn diện, thua toàn tập, và vẫn còn chiếu phim chán đời lê thê hơn một ngàn tập chưa hết. Chẳng hiểu nổi cớ sao Dương có thể lê gót theo Thuấn qua ngần ấy tập.
***
Hay cho câu “hy sinh vì tổ quốc”, anh lính về từ mặt trận bị bao vây bởi bầy con lạ bố. Lớn có nhỏ có, nhưng tất cả đều ngây thơ. Và bởi vì ngây và thơ nên chúng nó hỏi bố những câu hỏi cũng ngây thơ hết sức. Nhưng những câu hỏi ngây thơ là những câu hỏi khó trả lời nhứt. Lẽ vì sao? Đơn giản bởi chúng nó chẳng bị câu thúc buộc ràng bởi bất cứ khái niệm hay quy phạm xã hội gì ráo.
“Con bé đang ngắm nghía đôi nạng, thì thằng anh lớn của nó đã ra cái điều hiểu biết, quan trọng nói: – Bé Tư ngu lắm, không hiểu gì cả! Bố hy sinh cho tổ quốc … một cái chân đó. / Con bé Tư mới năm tuổi càng không hiểu gì hơn. – Thế ông tổ quốc xin cái chân của bố để làm chi vậy?”[14].
Câu hỏi khiến cả nhà trong ngày đoàn tụ không biết mở miệng trả lời làm sao, khiến mẹ nó phải xua tay đuổi bầy con đi chỗ khác chơi. Vậy thôi chứ biết trả lời sao! Vì rốt cuộc ông tổ với ông quốc là ông nào thì bố nó cũng chẳng rõ. Chỉ biết, một cái chân còn nằm trên rừng. Nền văn minh chúng ta có những khái niệm thông đồng. Có thể xem như một thứ khế ước trừu tượng mà hễ muốn chường mặt ra đời thì phải gánh lấy không thể né tránh. Thứ khế ước siêu hình quỷ dị ấy lại có thể tùng xẻo da thịt máu mủ con người. Nghĩ cũng khôi hài quá đỗi!
Khi tất cả chúng ta ngồi đây, chễm chệ salon văn minh thì trên khắp chốn đại địa, máu vẫn chảy, nước mắt vẫn rơi, thịt da con người làm mồi chụm lửa đạn, nhà cửa đổ nát tan hoang, thành quách sụp đổ bụi bặm. Con Bé Tư không biết chiến tranh vì đâu nổ ra, con bé Tư cũng không biết chiến tranh vì ai nên nỗi, cũng chẳng biết ai chính nghĩa ai phi nghĩa, cũng chẳng biết động cơ mục đích đôi bên giao tranh, cũng chẳng thể hiểu những luận lý ngoại giao đàm phán gì ráo, … con Bé Tư chỉ hiểu, chiến tranh đi ngược lại ý hướng sống của con người. Do đó, tất cả những cuộc chiến trên khắp chốn đại địa này đều là phản nhân tính, dầu phía nào/bên nào/lập trường nào đều can tội chống lại loài người!
Dù nhân danh hay mạo xưng bất cứ chủ nghĩa, ý hệ, khái niệm, giao ước gì gì đi chăng nữa, chiến tranh là phản nhân tính!
Người về từ mặt trân, mang thân phận “tái ông thất mã”, hay nói khác, đánh đổi thịt da để trở về cuộc sống đời thường. Nhưng rốt cuộc lại chẳng thể sống một đời như bình thường hằng mong muốn. Đến nỗi, sống là một việc con người ta ao ước nhưng chẳng bao giờ sống được một ngày nào đúng nghĩa. Bởi vì, những kẻ lo sống chẳng bao giờ sống, chỉ những kẻ lo chết mới thực sự sống. Muốn sống thời phải hủy diệt đời sống. Để những cái tờ tợ cuộc sống trôi tuột đi, phân hủy ra, lộ diện nguyên hình cuộc sống. Anh Nguyễn Văn Bảy được tổ quốc trao tặng tấm giấy có vài câu hoa mỹ, coi như bị ông tổ ông quốc vứt ra bên lề đời sống, làm một thứ sống thừa, sống ly khai, sống nửa vời, sống bám víu vợ con, sống ăn hại, sống vất vưởng, sống uất hận, sống ghê tởm, sống đày đọa, sống sa lầy, … v.v… nhưng tất cả các kiểu sống ấy chẳng có cái nào thực sự sống, chỉ là tờ tợ cuộc sống. Cuộc đời anh bị ông tổ ông quốc thao túng rồi vứt đi, quay về với đời thì vợ con phủ quyết hiện hữu của anh. Tóm lại, anh trở thành kẻ trầm tư mặc tưởng chờ thời! Những kẻ tỏ ra tao nhân mặc khách và ưu tư thế sự rốt cuộc chỉ là thứ hết thời đánh mất cơ hội làm người, chỉ là thứ giả nhân trú đóng tạm bợ dưới gầm trời cô quạnh. Nhân sinh, nhân tâm, nhân tính không đủ cho tất cả mọi người hay “sự con người” vốn dĩ không phải ai cũng có?
“Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba vòng xích sắt bước thì vương”[15] (Cao Bá Quát)
Hoan hô Mẫn Hiên Nguyễn Văn Bảy, hoan hô Mẫn Đế Nguyễn Thị Bảy, hoan hô sáu con tiểu quỷ rượu đế, gia đình Nam Việt Nam ương thối trương phình! Hỡi những kẻ quanh đi quẩn lại trên cuộc thế, vầy võ u buồn trong những chuyện kiếm sống thường ngày, những kẻ chẳng bao giờ thoát khỏi được phạm vi chủ thể của bản thân, những kẻ chết hằng ngày, trương thối ngay giữa lòng đời.
Cuộc sống chỉ là triệu chứng của cái chết!
***
Bạn có thất vọng toàn diện vì đồng loại? Liệu bạn có thực sự tin rằng đồng loại mình có nhân tính hay chỉ là ảo vọng của bầy giả nhân mạo danh?
Để “test” lại nhân tính của nhân loại, Dương lùa bầy giả nhân từ đô thị về rừng, nghiệm xét người trong bối cảnh di cư lên miền sơn lâm khoáng dã, coi con người sẽ sống trải với nhau ra sao khi trở lại cuộc sống ở điểm khởi đầu. Để xem, liệu người thoát ly đô thị có thực sự trở lại buổi trong trẻo bình minh tính người. Dương kể rằng:
“Mỗi buổi sáng, mỗi buổi chiều họ đều chăm chỉ đáp lời gọi của tiếng chuông nhà thờ. Nhưng ngoài những lúc đó, họ vẫn có thể lượng gạt nhau từng đồng, chửi bới nhau đến khô cổ bỏng họng những câu tục tằn nhất vì một con gà con thất lạc, vì một trái mít rụng nhầm sang dãy nhà khác, vì một đường mương bị lấp … Và vị cha xứ ở đây được coi trọng ngan với một vị lãnh chúa nho nhỏ. Núi rừng bưng bít mọi chuyện một cách thản nhiên”[16].
Nền văn minh của bạn, đức tin của bạn, … một buổi trưa dậy trễ vì cuộc rượu đêm qua, ngó ra khoảng sân hanh nắng lơ thơ gió chường qua trên đọt cây phe phẩy, bạn có cảm thấy ngao ngán bởi cuộc sống vẫn tất tả và tái lặp những vòng quay hư vô tẻ nhạt? Ngán ngẩm thay những vòng lặp sáng-chiều rồi lại chiều-sáng, không chỉ rừng mà còn đời sống con người vẫn thản nhiên bưng bít hiện hữu người, dần dà thui chột “sự con người”. “Sự con người” cứ lăn trở, trôi nổi, tiêu ma mỗi ngày!
Nhân tính hay chỉ là quán tính! Không biết bạn nhận định như thế nào … nhưng chắc chắn VUI HỔNG NỔI !
Cô em mọi vàng ưa xét lại, từ nay hãy gọi Dương là cô em mọi vàng! Thói hoài nghi xì ra đầu bút và lấm lem trang văn, Dương nghiêng ngó soi xét sự người trên cuộc thế, chẳng bao giờ Dương bằng lòng. Cô em chướng khí hết biết! Chính thói rà soát này giết chết tâm hồn Dương, rúc rỉa tâm hồn Dương. Nếu không chết vì tê tái thất vọng thì có lẽ Dương đã chạy sạn bụng dạ hoặc giả đã phẫu thuật cắt bỏ lòng phèo. Bởi Dương chỉ viết ra toàn ám tối âm u trong cõi nhân sinh. Chẳng nhìn thấy đâu ra thứ ánh sáng thượng tôn thượng đế chiếu diệu bốn phương địa đàng, mà chỉ có thứ ám tối rượu vang u uất chất chứa mọi ngóc đời sống. Dương gọi đó là “bí mật của rừng già”. Loài người trong đô thành hay trên rừng già, chung quy cũng ẩn nấp như bầy giả nhân lạc loài đánh mất sinh cảnh.
“Từ đó, tôi khám phá ra một điều: người ta khó gột bỏ cái dĩ vãng của mình. Một con đĩ, dù hoàn lương, thì trong trí thằng chồng và bạn bè của thằng chồng, nó vẫn là một con đĩ tự bản chất. Con người, trong khi vẫn tự nhận mình là giống vật cao cả nhất trong các giống vật lại có những quan niệm hẹp hòi nhất … Đời thật bẩn thỉu không chịu được”[17].
Và “Đời thật chó má, thật hẹp hòi, thật ích kỷ, thật đê tiện”[18], đm đời! Dương toàn giao du với hạng người bị đời hắt hủi, chơi khăm. Có lẽ vậy, Dương tiêm nhiễm những uất hận thống thiết bi phẫn của lũ người bên lề. Nỗi thống hận cuộc đời, khiến bọn ấy dứt khoát ly khai cuộc đời. Nhận ra bộ mặt quỷ quái yêu ma của đời, “đạo cao một thước ma cao một trượng”, và bọn ấy (những kẻ từng phát nguyện lòng tu) trở thành thứ ác ma đầu quân quỷ sứ. Miễn dịch với luân lý và phẩm hạnh, miễn dịch với những đạo đức giả trẻ trâu, bọn người tử tế trở thành quỷ sứ!
Cuộc “cưỡng hiếp đồng lõa” của Tuyên và người nữ tu[19] có phải là bằng chứng cho đôi chân ưa bước vào địa hạt cấm kỵ của Dương. Đến nay, những chuyện hiếp giết tù tội chẳng có gì để mà ngại ngùng hay cấm với kỵ gì nữa, thì bạn bè khỉ đột đười ươi chợt thấy rằng, sự táo bạo của Dương cơ hồ cũng không mấy bạo táo. Khoảng lặng và độ lệch thời gian cho phép bạn lòng khỉ đột hôm nay có thể nhìn lại Dương và câu chuyện cưỡng hiếp tình nguyện năm ấy kỳ thực rất con người. Người đúng nghĩa con, nên “sự nhân tính” nầy thuộc về “con”. Trong cuộc mây mưa con người ấy, bạn lòng khỉ đột có nhận ra sự thức tỉnh. Tỉnh thức ấy chính là nhân tính chứ còn gì nữa!
“Tại tôi yêu nàng. Tôi nghĩ là tôi yêu nàng. Việc tôi giao hợp với nàng, dù dưới con mắt cậu là một hành động cưỡng dâm, nhưng tôi thì tôi lại nhìn thấy nó thần thánh, tinh khiết như một thứ nghi lễ tôn giáo”[20].
Chuyện đảo chánh, làm báo, làm văn nghệ, làm con buôn, làm người lương thiện gì gì đó, chỉ là thói luận đề của Tuyên. Chỉ có cuộc mây mưa trên đường về Đà Lạt và mất hút nhau tại Đơn Dương trong một đêm mưa gió bão bùng mới thắm thiết thành thật. Hai con người giàu có đức tin đã trở lại thành người trong phút chốc. Sự người là tình thế không thể phủ quyết! Dẫu Tuyên có bị thiến đi nữa thì, chẳng ai thiến được nòi tình phất phới dưới gầm trời này! Phải không Dương?
***
Cứ nhắc đi nhắc lại Cao Bá Quát[21], bạn có thấy Dương hồ như đã xem Chu Thần tiên sinh là biểu tượng của bọn ly khai, thoát đời, bất đắc chí – biểu tượng của xu hướng vận động ly tâm, vượt thoát khỏi thực tại đám đông, để vận đồng về phía “phi-trung tâm hóa”. Hay một kiểu “siêu nhân Nietzsche” lập thành hệ giá trị độc đáo. Dương không nói thẳng ra, nhưng mượn cớ Cao Chu Thần để che đậy thói tạo phản cuộc đời của mình!
“Lúc ấy, anh sẽ trở thành một thứ Cao Bá Quát bất đắc chí thật sự, một thứ Cao Bá Quát tân thời, chỉ vì chẳng thể thích nghi được với cuộc sống đang đi dần đến chỗ máy móc của những đua chen, vật lộn, của những tòa nhà chung cư hiện diện như những con tàu bị kẹt trên đất liền với những căn nhà chung cư không một góc, xó an toàn cho một tâm hồn mỏng manh bị đe dọa ngày và bởi chính cả sự im lặng tĩnh mịch của đêm…”[22].
Chung cư – nguy cơ suy đồi, hao mòn, mục ruỗng, tiêu pha nhân tính. Dương sợ rằng con người sẽ bị những con tàu chung cư cầm tù. Muốn trào thoát đến tỉnh lẻ, một vùng cao nguyên nào đó, kỳ thực là sự giẫy giụa trước “cú tụt dốc” vào hư vô đang trên đà cáo chung. Chung cư = chung cuộc = tận thế nhân tính.
Dương viết chung cư cầm bằng như lời ai điếu cõi nhân sinh!
Đoạn “trữ tình” in nghiêng cuối truyện, có phải một dạng tâm thần phân liệt, phải không Dương? Khối ung nhọt mưng mủ ấy, đến nay, còn khiến Dương nhức nhối hàng đêm không? Không biết giờ này, Dương còn ôm ắp tín ngưỡng tạo phản?
B52 đắm đuối Lập đông
Lập đông là một sự lập đông vạn bất đắc dĩ. Cơn mưa giải thoát và mọi người có cái cớ tản hàng. Nghĩ cũng ngộ, cớ làm sao con người ta truy đuổi vây bắt nhau rồi ngó lại thành ra chính mình bị cầm tù. Cứ thế giãy giụa, cứ thế vùng vẫy! Ai bắt đâu! Cái bẫy đời chẳng phải tự vướng vào đó sao? Và ở đây, cuộc truy vấn liên hồi trong câu chuyện, bám theo nhân vật tôi. Một dạng người ưa suy tưởng nhưng không sống một giây phút nào. Có lẽ sống theo kiểu Đề Cạc chăng! Kiểu tui tư duy thì tui tồn tại. Tư duy người không mang lại nghĩa lý nào cho sự hiện hữu, nó chỉ là bằng chứng cho cuộc sa lầy của con người trong hiện hữu. Nên phân biệt! Hiện hữu và sự sa lầy trong hữu hiện chẳng giống nhau!
Thông qua tiết lập đông ảo tưởng trong lời kể của em gái Trùng Dương, thông qua đôi mắt ngơ ngáo Sơn Tây lưu lạc, bạn có thể nhận ra vài đặc điểm thú dị của giới thanh niên đô thành năm nào. Kéo lê thê từ những ngày quẩn quanh kinh thành Hồng Hà cho tới những năm tháng bụi băm ven Đô Thành nhiêu Lộc, rốt cuộc ngoài chuyện đi tới đi lui, gặp nhau nói vài câu nhát gừng rồi làm tình hoặc uống rượu và cà phê, thiết nghĩ, cơn cớ nào đã khiến cho thanh niên với thanh xuân nước Việt rơi vào ao vũng tù đọng bế tắc quanh quẩn như thế? Việc ấy có nghĩa lý gì chăng? Chí ít, việc ấy cho ta cảm biết được tình thế con người. Cái đà sống hay cái tình thế mà con người bị dồn đuổi, cả thợ săn lẫn con mồi đều bị dồn đuổi. Lập đông chỉ là ảo tưởng tư niệm, cứu phạt non nớt và vô vọng cho thanh xuân giãy chết!
“Những buổi chiều như nhau. Ngần ấy khuôn mặt vây quanh một chiếc bàn nhắc lại những tin tức xẩy ra trong ngày mà ai cũng đã đọc qua hay nghe thấy, biết được. Ngần ấy vấn đề đưa ra không lối thoát. Thời tiết đôi khi cũng thay đổi phần nào câu chuyện bằng vào những hồi tưởng, những mơ ước về một đôi chuyến đi xa vẫn hoài mộng chưa thực hiện được (với ý nghĩ: miễn là ra khỏi thành phố này). Như chiều hôm nay với cơn mưa mùa đông trở về trong trí tưởng”[23].
(Ngoại đề một chút, Dương kể làm tôi thèm vứt bỏ thị thành lẩn trốn đến tỉnh lẻ lục châu. Ở đâu chẳng được, Cantho, Sadec, Hatien, Baclieu, Batri, Gocong, Thapmuoi, Kientuong, đâu cũng được! Miễn là ra khỏi thành phố này, phải không Dương! Thôi, chúng mình cứ thế ra đi! Hẹn em Trùng Dương dưới vòm trời Nam Việt một ngày. Mình đi thôi em! Từ bỏ!)
Chẳng có gì đáng kể trong đời để mà viết, thế nên Dương viết về cái sự không đáng viết đó. Để làm gì chứ! Để thấy rằng nỗ lực tìm kiếm một lối thoát, một nghĩa lý nào cho đời sống là điều không thể được. Vậy rồi, Dương có phá vỡ được cái trạng thái Lập động ảo tưởng của thanh niên, có phá vỡ được tình trạng quẩn quanh vô lối của sinh hiện. E rằng! Dương cũng vầy võ nghểnh cổ ngước đầu nhìn lên miệng giếng! Những kẻ chờ bị trục xuất, kiểu như Samuel Beckett[24]. Nhân vật bị hư vô hóa, mờ hóa ri rỉ rì ri gì đó! Cuộc tạo phản bắt đầu từ chỗ trưng ra những con người bị thui chột, tiêu pha, vô vọng và vô nghĩa! Ôi trần thế thê thảm/thê lương/thê thiết của chúng ta, cõi trần ai chúng ta đã đi đến bước đường này rồi ư? Bạn có nghĩ: quá trình vận động từ hiện đại đến hậu hiện đại/hậu công nghiệp chính là quá trình đi về phía hậu nhân tính, tức phi nhân tính hay không? Không biết bạn nghĩ sao, chứ bà mẹ cô gái trong Lập đông thì nghĩ vậy.
“Chính đó cũng là điều mà mẹ mơ ước: tất cả các con nhỏ lại, trở thành những đứa hài nhi, dù cho mẹ có vất vẻ chăm lo cho tất cả trở lại, cũng được, mà mẹ còn vui sướng là đằng khác. Vì ít ra, ít ra, khi các con còn nhỏ, mẹ còn biết được các con mẹ muốn gì, cần gì, sữa và tình thương, lúc nào mẹ cũng sẵn … Bây giờ có nhiều cái các con cần mà mẹ không sẵn, không có, không biết tìm đâu ra … Con đã khóc rồi đó …”[25].
Mẹ cho rằng dẫu cơ cực chăm sóc nhưng chí ít vẫn còn có những đứa con có mẹ, còn hơn là trưởng thành/hiện đại/văn minh nhưng đô thành đầy rẫy những đứa con lạc loài chết mẹ!
Ôi sự trưởng thành, những hài nhi u buồn trong đô thị! Ôi nền văn minh vĩ đại của chúng ta, nền văn minh chết mẹ!
Lập đông tầm xàm hết biết!
Chuyện phím quanh bàn con mà Dương kể lể ra, kỳ thực vẫn nhan nhản khắp nơi. Thông tin búa xua hôm nay trên các trang tin lá cải/lá me/lá mít/lá ổi/lá cóc/lá chùm ruột mía ghim, v.v… lũ người quỷ ám lạc loài chết mẹ vẫn đem ra bàn phím nhơi nhả nhai nghiến nút liếm từng bã mía thế sự. Giễu đi cợt lại không biết bao nhiêu thảm trạng trên cuộc thế đương thời đảo điên: nào chiến sự Đông Âu, nào tranh chấp hải đảo, nào thi cử thi đua thi chạy bộ giữ ghế, cho tới chạy trốn dịch bệnh tràn lan trần thế, v.v…. thiên hạ chen nhau búa xua ị đùng khắp đầu đường cuối hẻm. Đằng sau đó, khi đối diện với bốn vách tường căn phòng, người nằm im thin thít, ngửi hít mùi hư vô bít bùng bủa vây! Thay vì rối chân rỉ rả khua môi những lầm than đen tối, những đau khổ tang thương, sao mỗi người chẳng gắng gượng làm điều gì tốt đẹp, dẫu rất bé mọn, nhưng chí ít có thể bù trừ lại năng lượng tối vô minh chất ngất trời cao! Có phải không?
***
Mặt trời thánh tư Apolo, dưới ánh nắng hoàng thiên dương quang huy hoàng, ấy vậy mà Dương lại thao thiết nhớ nhung anh nhân tình cường tráng Dionysos. Nếu Apolo xứng danh trượng phu lý tưởng giữa từ đường; thì Dionysos lại tý tởn ranh ma như anh bồ nhí dẻo dai bền bỉ ở bụi chuối sau hè. Dương nhấn mạnh là… phải bền bỉ, mới được à nghen! “Người con gái muốn nói khác: thực ra chưa có năm nào tôi ý thức là tôi thèm muốn nhiều bằng mùa nóng năm nay – thèm muốn một thân thể đàn ông trẻ, rắn chắc, đầy sinh lực và bền bỉ, nhất là bền bỉ”[26]. Nòi tình Dionysos ẩn chứa sau Mặt trời tháng tư Apolo. Nắng thao thiết và thèm làm tình đến thao thiết! Chống chịu cơn rệu rã mục ruỗng, người con gái muốn vùi mình vào thân thể đàn ông, phải chăng tìm kiếm chỗ trú nắng, trốn mặt trời tháng tư!
Nắng gió miền Nam khiến cho Dương trở thành con cá mắc cạn. Không riêng Dương, đàn cá di cư mắc cạn mà Dương gọi là “những người bạn đồng hương, đồng mối lo âu, đồng sự mệt mỏi”[27]. Vậy nên, Dương phải tò te với anh nhơn tình béo ị mà Dương chỉ xem như nhà phân tâm học. Không phải để gỡ rối cho Dương mà để cùng Dương sa lầy trong bãi sình cuộc sống. Cuộc thế sình lầy quá chừng! Nhưng Dương cũng nhây và lầy không kém. Dương – con cá rô đực – xù gai trườn rột rẹt giữa những búi cỏ thít chặt trên cánh đồng tù đọng cạn sệt nước. Những ai ưa sầu não, buồn bã, rối rít nghĩ suy đủ thứ không nên đọc truyện Dương, coi chừng dương tính! Coi chừng nhuốm bệnh, khọt khẹt, ho hen trào đờm! Văn chương của Dương là một thứ phóng xạ gây ung thư! Như đã nói ở đâu đó, Ý Thức = Ung Thư. Văn trùng Dương như tấm lưới bủa vây ý thức để rồi cái nết cá rô đực của Dương khiến bầy cá rô sa lưới cũng giãy giụa cho trầy vi tróc vẩy.
“Cần phải có hôn nhân như một cái vỏ bao bọc chuyện đó, nếu không nó chỉ là một cái gì tội lỗi, ghê tởm!”[28]. Ôi những chàng nhân tình trẻ, bao chàng phi công qua tay, … Dương đã đi trước thời đại, trước các bà hôm nay táo bạo với phi công trẻ hằng đêm. Nhưng tại sao mọi người quẩn quanh chuyện vuốt ve, ôm ắp, làm tình, bò tới bò lui trên cái giường hằng đêm hoặc trên bãi cỏ? Thời đại rũ bỏ, từ bỏ, chối bỏ, chạy trốn, ly khai! Có thể tránh bãi sình lầy trên mặt đất, nhưng không thể né bãi sình lầy trong tâm tưởng. Dẫu gì, cá rô đực đàn bà vẫn thèm khát cháy cổ chiếc xe đẩy trẻ con[29], túp lều bị mưa phong bế, để cuộc đời chỉ còn hai người với nhau thôi! Bé mọn mà đắt giá vô cùng!
Uống nước chừa cặn! Bấy nhiêu thôi! Tạm biệt em Thái Thị …!
Mệt quá kết cho rồi.
Thật sự, khi đang viết mấy dòng trùng dương, tôi đã trải qua cơn co thắt lòng dạ dữ dội, đến nỗi phải buông bỏ đi vệ sinh!
Trùng Dương là nữ văn sĩ thất bại toàn diện. Tomboy Trùng Dương cảm nhiễm cái bi đát thống hận của thời đại. Năng lượng tối ung bế thành đô, em gái thất lạc đã lạc loài ngơ ngẩn trong vũng chữ nghĩa. Đôi khi vóng lên vài tiếng thống thiết bi thảm nhưng thiên hạ chỉ nghe ra như là tiếng thở dài hoặc là niềm chua chát. Dư vị chẳng bao lâu, không đọng lại được bao nhiêu, Trùng Dương nằm ễnh ra như vết sẹo xấu xí trên văn đàn Nam Việt Nam thời bấy giờ. Nhưng vết sẹo xấu xí ấy đã trọn vẹn nghĩa lý đau thương sẹo sùng trên cõi thế và cuộc thế đương thời! Gửi em gái thất lạc Trùng Dương cái ôm thắm thiết nồng nàn!
Qua ánh mắt em gái thất lạc Trùng Dương, bạn có thấy cõi người nhầy nhụa: Khốn nạn – Nghiệt ngã – Vô luân. Quan niệm nhân sinh rất ư dã nhân, rất chi vượn người, và quá thể đười ươi! Đôi châu ngọc thảm thương tê dại của buổi hoàng hôn thời đại!
Bốn câu thơ gửi tặng em gái thất lạc Trùng Dương:
Thôi rồi dương tính trùng dương
Mưa không ướt đất chỉ vương nợ đời
Lập đông thỏ thẻ dâm lời
Chung cư đồng loại tả tơi đít hồng
Tạm biệt Trùng Dương đã ngàn khơi! Hẹn em Trùng Dương buổi trùng phùng tái ngộ!
VÕ QUỐC VIỆT
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Beckett, S. (1966). Kẻ bị trục xuất (Biên Butor dịch). Tuần báo Nghệ Thuật số 26 (9/4-15/4/1966), tr.14-15 & tr.26-28.
Trùng Dương (1967). Mưa không ướt đất (tập truyện). Saigon: Tập san Văn.
Trùng Dương (1971). Chung cư (tập truyện). Saigon: Nguyệt san Tân Văn.
Trùng Dương (1972). Lập đông (tập truyện). Saigon: Tập san Văn.
_____________________________
[1] Mưa không ướt đất, tr.9
[2] Mưa không ướt đất, tr.11.
[3] Mưa không ướt đất, tr.14.
[4] Mưa không ướt đất, tr.15.
[5] Chung cư (tập truyện), tr.9.
[6] Chung cư (tập truyện), tr.10.
[7] Chung cư (tập truyện), tr.16.
[8] Chung cư (tập truyện), tr.16-17.
[9] Chung cư (tập truyện), tr.17.
[10] Chung cư (tập truyện), tr.18.
[11] Chung cư (tập truyện), tr.23.
[12] Chung cư (tập truyện), tr.19.
[13] Chung cư (tập truyện), tr.30-31.
[14] Chung cư (tập truyện), tr.51.
[15] Chung cư (tập truyện), tr.60.
[16] Chung cư (tập truyện), tr.64.
[17] Chung cư (tập truyện), tr.67.
[18] Chung cư (tập truyện), tr.69.
[19] Chung cư (tập truyện), tr.74-75.
[20] Chung cư (tập truyện), tr.76.
[21] Chung cư (tập truyện), tr.57, 58, 60, 101, 103, 114.
[22] Chung cư (tập truyện), tr.114.
[23] Lập đông, tr.9-10.
[24] Beckett, S. (1966). L’Expulsé [Ke bi truc xuat] (translated by Hoang Ngoc Bien). The Nghe Thuat Weekly News no.26 (9/4-15/4/1966), pp.14-15 & pp.26-28.
[25] Lập đông, tr.15.
[26] Lập đông, tr.19.
[27] Lập đông, tr.22.
[28] Lập đông, tr.24.
[29] Lập đông, tr.40-41.
 
 
28/8/2022
Lưu Đức Hạnh
Nguồn: TTO
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...