Đam mê vớt nhặt ký ức
để chế tác viên ngọc cuộc đời
Một chiều đầu hè, tôi được tác giả Trần Đình ký tặng “Tình ca
mùa đông”, tập thơ đầu tay của anh, do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2020.
Trần Đình, tên thật là Trần Đình Bót, sinh năm 1960 ở phường Quảng Long, thị xã
Ba Đồn. Tốt nghiệp Khoa Ngữ văn – Đại học Sư phạm Huế, cuối năm 1984 thầy giáo
trẻ Trần Đình Bót bước vào nghề dạy học. Trong hơn ba mươi lăm năm gắn bó với
nghiệp trồng người, năm 2020 anh được về nghỉ hưu. Năm 1998 anh được kết nạp
vào Hội Văn học nghệ thuật Quảng Bình. Hiện, Trần Đình sống và viết tại thành
phố Đồng Hới.
Đọc tập thơ, ta có thể dễ dàng nhận diện từng chuỗi tâm trạng,
từng cung bậc cảm xúc mà tác giả muốn gửi gắm qua các thi phẩm của mình. Đó là
tình cảm sâu nặng với quê hương, khi anh trở về lặng ngắm sông quê. Có gì
đó làm anh phải thẫn thờ đến vậy? Trước con sông này, bao kỷ niệm
tuổi thơ chập chờn ngọn sóng. Và kia nữa đàn cò liệng giữa cánh đồng vắng
lặng, làm anh nhớ tới người mẹ tảo tần. Dáng vóc người cha vạm vỡ cũng đồng hiện
trong anh, dải núi xa níu kéo trời chiều. Bấy nhiêu đây, khiến ký ức anh
như được vun đầy lên, anh bồi hồi hóa thân làm kẻ lữ hành để đi
nhặt những thương yêu/ Của năm tháng xa xưa gói vào bến cũ/ mỗi hòn cuội, gốc
cây, bãi cỏ… Thì ra, cái mà anh gom nhặt thật hiền hòa nhưng thiêng liêng
đến lạ, bởi trong đó còn vương bao dấu chân người…Nhà thơ Trần Đình ở Quảng BìnhDấu chân của mẹ cha, của bạn bè, của bao người suốt đời sống
thác với dòng sông bến nước quê hương. Giờ có chăng chỉ còn trong hoài niệm,
khiến anh thốt lên những gửi gắm của lòng mình: Sông yêu thương/ Hãy trôi
vào giấc mơ của những người xưa ấy/ Đang đắm mình với bao dòng nước chảy/ Có giọt
nước nào mang vị ngọt sông quê (Sông quê). Cũng những miền ký ức, đong đầy
kỷ niệm dấu yêu, bên bến quê xốn xang nỗi nhớ. Với những câu lục bát mang thi ảnh
đẹp, anh bâng khuâng hồi tưởng một thời: Tuổi thơ neo đậu bến mê/ Mây trôi
đáy nước gió vân vê chiều// Thơm nồng hương rạ phiêu diêu/ Cây đa ngã bóng,
trăng xiêu mái đình/ Thương con chuồn ớt nép mình/ Cánh xòe bè vó ngước nhìn xa
xăm/ Mịt mờ sương khói giăng giăng/ Lục bình nhuộm tím trời dang dở chiều/ Lặn
trong nỗi nhớ bao điều/ Tình quê bè bạn lời yêu đong đầy (Neo đậu bến
quê).
Trong tập thơ, tác giả đã dành dung lượng khá lớn, để sống lại
những ngày gắn bó với nghề nhà giáo: Lặng nhìn/ cảnh vật đìu hiu/ Đò chiều
chuyến cuối/ dập dìu sang ngang. Lẽ thường là vậy, lúc còn trên bục giảng,
ta chưa thể hình dung cái ngày phải rời xa nó, cảnh vật đìu hiu khác
nào đò chiều chuyến cuối. Tâm trạng đó khiến ta ngất ngây/ trong
giấc ngủ vùi, trong mơ vọng về dư âm trống trường nghe điểm cùng hình
ảnh sân trường vẫn rộn/ tán bàng vẫn vui (Mơ). Cùng mạch cảm xúc, tác
giả đi tới một cái nhìn chân thiện về người đồng nghiệp: Em/ ngọn nến/ đốt
cháy mình/ thắp lên bình minh ánh sáng. Ngọn nến ấy tự hóa thân để thắp
lên bình minh ánh sáng. Tại sao anh không chọn một vật thể gì khác, mà cứ phải
là ngọn nến. Anh thật có lý, bởi chỉ khi tự đốt cháy mình thì ngọn nến
mới tạo ra giá trị cộng sinh. Từ đây anh vô tư phóng bút: Từ trong đêm/ những
hình hài/ chập chững đi qua/ lớn dần trí tuệ/ lớn dần đạo lý làm người. Nhập
vai người cảm thụ, anh từ tốn xẻ chia: Tôi lắng nghe/ tiếng gió lùa… Đang
nói về ngọn nến bỗng nhắc tới gió lùa, có gì mâu thuẫn chăng?
Cuộc đời nhà giáo là thế, biết bao trăn trở với đời, với nghề,
với mỗi thân phận học trò…, tất cả đó hình thành những cơn gió lùa, khiến
ngọn nến càng mong manh, tan chảy… khiến em hiện ra như cô tiên cổ tích: Và/
ngọn nến mong manh/ tan chảy từ thuở hồng hoang/…cô tiên hiện hữu (Ngọn nến).
Sau thời tung tẩy với nghề, khi được nghỉ ngơi ta mới có điều kiện sống cùng
hoài niệm và “Đêm” chính là thời điểm cảm xúc ấy thăng hoa nhất: Đêm/ bụi
phấn ngấm vào sợi tóc/ người lái đò neo giữ hoài niệm/ lữ khách sang ngang. Thường
vào lúc ấy, (có thể) người ta khó tránh những phút giây tiếc nuối, khi trong Đêm/
tiếng thạch sùng/ phả vào hơi thở, nhói buốt con tim/ nhưng ngàn ánh sao vẫn
sáng, như ngoài kia hừng đông vẫn hiện dần như những trang giáo
án của bình minh (Đêm). Một thi phẩm khác cũng khiến ta liên tưởng
đến nghề giáo: Ưỡn mình với đêm/ nụ gai run rẩy// Vắt kiệt nước từ sâu
lòng cát/ Ươm nụ hoa tỏa mát hương nồng (Hoa xương rồng). Đến với nghề, bằng
sự vắt kiệt mình, “người thầy” luôn thấy mình hạnh phúc, dẫu khi bụi phấn
thôi bay/ Vẫn không buông nổi nghiệp này người ơi! (Dẫu khi bụi phấn thôi
bay).Bìa tập thơ “Tình ca mùa đông” của Trần
ĐìnhCó dịp về thực tập tại phố cổ Hội An tháng 12 năm 1982, trong
bài thơ viết cho các em học sinh lớp 10G Trường Cấp III Trần Quý Cáp, Trần Đình
tâm sự: Trước các em thầy nói chưa tròn câu/ Trang giáo án bao đêm dài
trăn trở/ Bài “Hịch” giảng vẫn còn nhiều bỡ ngỡ/ Mỗi lời văn chưa ấm giọng ngọt
ngào. Dẫu vậy, với bản lĩnh của người thầy, Trần Đình không vì cái bỡ ngỡ ấy
mà dễ dãi, xuề xòa trước học trò: Lời tâm sự hôm qua còn trăn trở nỗi niềm/
Thầy đã dành cho các em bằng ánh mắt trang nghiêm/ Vì thầy muốn ngày mai các em
sẽ cho đời bằng ánh nhìn tha thiết. Ánh mắt hôm nay, thầy gửi vào đó mơ ước của
mình, mong ngày sau các em sẽ mang đến cho đời ánh nhìn tha thiết, đó là
ánh nhìn đầy lòng nhân ái, bao dung, trách nhiệm trước xã hội. Và, từ trái tim
người thầy, trái tim học trò cùng rạo rực niềm tin mãnh liệt, niềm tin
nhân văn, nhân hậu cho cuộc đời và cho cả tương lai (Lời thơ cho em).
Mẹ là đại dương ngôn từ cho thi ca. Với Trần Đình, anh vận dụng
tinh tế những thi ảnh khá đẹp, để gửi gắm nỗi niềm về mẹ: Bánh đa giòn/
nghiêng vàng sợi nắng/ dáng mẹ giữa đời/ thắp sáng tuổi thơ con (Đồng vọng).
Chao ơi! Cái nhìn, cái liên tưởng của anh sao mà độc đáo đến thế! Nắng chiều
xiên nghiêng, hắt ánh vàng lên những vĩ bánh đa mẹ đang lật giở hong phơi. Câu
thơ bánh đa giòn cho ta biết thế! Và bên vĩ bánh là ai? dáng mẹ
giữa đời/ thắp sáng tuổi thơ con. Từ bao giờ mẹ đã hiện thân giữa đời, dậy sớm
thức khuya, gom hết nắng mưa… cho tuổi thơ con tươi sáng. Câu thơ vừa thể hiện
sự biết ơn vừa bày tỏ một cách sâu đậm tình mẫu tử, chắc chắn Trần Đình đã quan
sát khá kỹ mới viết lên được.
Một chiêm nghiệm khác của anh, cũng đã làm bao người đọc cay
cay sống mũi: Chợ chiều vắt vẻo trăng non/ Đôi vai mẹ trĩu chén cơm cuối
ngày. Ở thời điểm cuối ngày, phía đỉnh núi đã vắt vẻo trăng non, mẹ vẫn
chưa chịu rời phiên chợ. Mẹ vẫn cố để có thêm cọng rau, con cá (chén
cơm) cho chồng, cho con. Đôi vai mẹ từng trĩu nặng nhọc nhằn, nhưng khi chứng
kiến hình ảnh ấy giữa cảnh chợ tàn, dáng mẹ càng rõ hơn, thương cảm làm sao.
Không chỉ trĩu nặng vì chén cơm, manh áo, mà bao nỗi toan lo gia thế, gia đình
đều đặt cả lên đôi vai của mẹ: Thân cò lặn lội bờ sông/ Mẹ tôi gánh nỗi
vuông tròn hôm mai. Trần Đình cũng như bao người, khi mái tóc đã ngã màu mới có
dịp cảm nhận sâu sắc hơn về công ơn cha mẹ. Và thường, âm hưởng những lời ru của
mẹ luôn đi mãi cùng ta: Lời ru thấm khúc vô thường/ Truyện xưa mẹ dạy
cương thường đạo con (Lời ru). Trở về chốn cũ cũng là cách để hoài niệm: Thời
gian rát buốt nỗi niềm/ Đỏ hoe khóe mắt bên thềm rêu phong (Vườn xưa). Về
đây, anh có dịp sống với những kỷ niệm xưa, khiến tâm tư càng lắng đọng, càng
rát buốt, càng rớm lệ bên vườn xưa, thềm cũ, phủ kín phong rêu… Viết được những
câu thơ như thế, anh quả là người nghĩa trọng ân sâu.
Tập thơ còn cho thấy, anh đã đi khá nhiều, tới những miền quê
trên đất nước thân yêu. Mỗi nơi đến đều để lại trong anh nguồn cảm xúc dạt dào
thi tứ, cùng đó là mỗi bài thơ ra đời. Nhớ làm sao những đêm vít cong cần rượu,
hòa cùng nhịp sống phóng khoáng, yêu đời của bà con các dân tộc Tây Nguyên. Tay
tìm tay, những đôi chân trần cuồng nhiệt và tiếng hú đánh thức giấc ngủ chú nai
rừng: Cần rượu vít cong rừng núi ngã nghiêng say/ Tay tìm đến bàn tay
quanh vòng đống lửa/ Tiếng hú vang con nai rừng thức ngủ/ Những đôi chân trần
cuồng nhiệt thuở hồng hoang (Đêm Lang Biang). Phải thực sự hòa mình, Trần
Đình mới viết được những câu thơ vừa thực vừa mộng như thế!
Từ lâu, anh đã ém chặt trong tim tình yêu Đất Mũi, chỉ chờ có
dịp, tình yêu ấy được anh trải ra, như mở cả lòng mình với xứ sở nơi địa đầu
yêu dấu: Về đất Mũi Cà Mau/ nơi rừng biển/ chập chùng xanh ngắt/ nơi bình
minh/ đỏ ối phía chân trời/ nơi nắng chiều/ lặn ngụp giữa trùng khơi… Và,
sau cái cảm giác ngây ngất trước miền đất này, anh như không chỉ nói cho ý nghĩ
của riêng mình: Ngắm Đất Mũi/ nghe vọng lời Tổ quốc/ thổn thức tim mình/ với
Biển/ Biển ơi! (Một thoáng Cà Mau). Bằng sự sáng tạo của người cầm bút, Trần
Đình kết nối với một đồng nghiệp ở Điện Biên để nói về Đại tướng Võ Nguyên
Giáp. Cái khéo, tại sao anh không chọn một tỉnh nào khác? Bởi địa chỉ ấy đã gắn
liền với tên tuổi vị tướng của lòng dân: Quê em ở Điện Biên/ nơi Đại tướng
Võ Nguyên Giáp làm nên lịch sử/ quê anh Quảng Bình…/ nơi sinh thành/ vị tướng lừng
danh// Hẹn lúc nào/ em đến quê anh/ anh dẫn em thăm/ nơi Người yên nghỉ/ Đảo Yến
Vũng Chùa/ bên đường thiên lý/ sóng Hòn La/ nâng cánh gió Đèo Ngang// Ta tự
hào/ Đại tướng của lòng dân/ đem hào khí non sông/ sưởi ấm lòng thời đại/ một
nhà giáo đức, tài, nghĩa, nhân/ huyền thoại/ đã hóa thành/ tinh tú giữa trời
cao… (Tinh tú giữa trời cao). Trở lại quê nhà, anh thường lui tới Trung
Thuần, vùng đất lưu dấu ấn khá đậm nét trong anh: Lá rừng nhuộm vàng sợi nắng/
Dòng người viếng mộ Tĩnh Trai/ Khói hương cuộn lên trời thẳm/ Cụ Nguyễn ơi!
Chén rượu vơi đầy// Muốn vẽ vào thời gian bức chân dung Tĩnh trai/ Muốn viết
lên thời gian tấm lòng cụ Nguyễn/ Lung linh trên đỉnh Chóp Chài (Viếng mộ
Nguyễn Hàm Ninh).
Một mảng đề tài khá nóng, được nhiều người quan tâm, đó là cuộc
đối mặt với “tên sát nhân” Covid-19: Đất nước/ trải qua trận giáp lá cà với
kẻ sát nhân…/ chiếc áo blu cố níu từng hơi thở (Ngọn lửa nhân sinh). Nhưng/
đất nước tôi/ những trái tim cùng chung ý chí/ như tấm vải kết nối từng sợi chỉ/
sức mạnh nhân từ chặn kẻ sát nhân (Xanh trong ngọn gió). Nỗi đau da cam, một
nỗi đau lắt lay bao đời hậu thế. Nhà thơ đã rất tinh tế khi nhìn nhận và khéo
léo nhắc gợi: Em không biết chất độc màu da cam là gì/ chỉ biết mình bước
đi/ bằng đôi tay gầy guộc của cha/ vặn vẹo uốn mình/ trong mỏi mòn lòng mẹ… (Đôi
tay nhìn). Một chút kỷ niệm nhân ba mươi lăm năm ngày cưới, anh cho đó
như bản tình ca mùa đông. Bản tình ca ấy được anh chọn làm tựa đề tập thơ,
chắc chắn rất nồng nàn, giàu âm hưởng và phong phú về giai điệu, mới đủ “can
trường” vượt lên ngọn gió vắt ngang/ Ba mươi lăm năm/ bản tình ca mùa
đông khắc vào gió chướng/ nước mắt/ nụ cười/ thời gian/ giai điệu bổng trầm (Tình
ca mùa đông).
Tập thơ đầu tay, dẫu gì, không tránh khỏi việc dẫm phải những
vết chân cũ mòn, một đôi nơi có thể cho là thừa thãi, hoặc chưa bắt nhịp với lối
viết mới. Song, cũng qua “Tình ca mùa đông”, ta đã thấy nơi anh, một tiềm năng
đầy hứa hẹn. Bởi anh là thi sĩ giàu cảm xúc và sốt sắng sáng tạo: Nắng chiều
lóng lánh sông quê/ Ta đi vớt những câu thề thuở xưa (Hoài niệm). Dòng
hoài niệm và những câu thề thuở ấy cứ lóng lánh mặt sông quê. Và anh, người đam
mê vớt nhặt để chế tác, làm đẹp cho đời. Xin chúc mừng anh, sắp ra tập truyện
ký “Mảnh đất tình người”! Thời gian trườn qua cuộc đời/ gội sương mái đầu
điểm bạc/ bâng khuâng ngoái miền ký ức/ đất cựa mình chồi biếc đơm xuân (Bâng
khuâng). Sự bâng khuâng mà mỗi chúng ta từng gặp, khi sống lại miền ký ức là lẽ
đương nhiên. Nhưng kia rồi, hãy nhìn phía trước, đất cựa mình chồi biếc
đơm xuân. Bởi, với đôi cánh văn nhân, là nhà giáo anh yêu trẻ hết mình, là nhà
thơ anh biết cách lấy giọt nắng hồng trong tâm tưởng/ Hòa cùng điệu gió
mênh mang… (Tôi muốn). Ta say/ hát giữa đất trời/ ta vui/ nối những nụ
cười/ trong veo (Nụ cười trong veo). “Tình ca mùa đông” của Trần Đình là tập
thơ đáng đọc!.
10/12/2022 Nguyễn Tiến Nên
10/12/2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét