Giới thiệu tiểu thuyết
"Gương mặt loài Homo Sapiens"
của Trần
Như Luận
Nhà văn Trần Như Luận Sinh năm 1955 Thị xã Hương Trà, Thừa
Thiên-Huế, Tốt nghiệp đại học Y khoa Huế năm 1980, hiện đang sống và viết tại
Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, Là ủy Viên Ban Chấp hành, Chi hội phó Chi Hội văn Học
thuộc Hội VHNT tỉnh Bình Định.
Ông viết nhiều thể loại; Thơ, truyện ngắn sáng tác, thơ và truyện ngắn dịch,
truyện dài, tiểu thuyết, biên khảo. Từng cộng tác với: Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc,
Thằng Bờm, Ngàn Thông (trước 1975); Tuần báo Văn nghệ, Văn nghệ Quân đội, Tạp
chí Văn nghệ TP HCM, Văn chương Phương Nam, Kiến Thức Ngày Nay, Quán Văn, Sông
Hương, Văn nghệ Bình Định, Tạp chí Non Nước, Tạp chí Sông Lam (sau 1975 tới
nay). Tác phẩm ông từng góp mặt trong 1000 Nhà Thơ Huế Đương Thời
(tuyển thơ, 2008), Tuyển Truyện Ngắn Hay Báo Văn Nghệ 2008 (tập truyện) v.v…
Văn chương phương Nam trân trọng giới thiệu tiểu thuyết GƯƠNG MẶT
LOÀI HOMO SAPIENS do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2022.Nhà văn Trần Như LuậnChương 1
Một ngày đầu xuân 1948, Billy Smith ngồi đăm chiêu trước xấp
văn bản chi chít chữ. Gã tự hỏi, không biết thứ tiếng sử dụng nơi văn bản này
là ngôn ngữ gì. Người đánh máy những trang chữ quái lạ này là ai? Liệu nó quan
trọng tới mức nào?
Gã lẳng lặng buông cặp kiếng cận xuống bàn, đứng dậy bước dần ra hành lang.
Bên ngoài, trời đang nắng. Ánh nắng chói chang rọi lên rặng hoa trout lily cánh
vàng nhị nâu ở góc sân khiến chúng càng trở nên rực rỡ. Thời tiết Bang Virginia
mùa này thật dễ chịu. Vài cơn gió lướt qua khoảnh sân rộng làm xao động hàng
cây sumac lấp thấp. Phía bên kia con dốc, cây dogwood cao cao, tua tủa nhiều
cành đã trổ hoa trắng xoá; vài bông hoa lững lờ bay trong gió. Gã có cảm giác
tâm hồn mình nhẹ nhàng hòa nhập vào cái không gian thoáng đãng, êm đềm, thanh
thoát ấy.
Nhưng chỉ một lát, trong đầu gã, mọi thứ vẫn không thôi tiếp diễn. Ôi, cả văn bản
quả là cái mớ bòng bong! Tại sao những từ atomu, atomu lặp đi lặp lại nhiều lần
như thế, với ý nghĩa gì? Nội dung tập tài liệu thực ra có liên quan gì tới vấn
đề vũ khí nguyên tử[]? Liệu nó thực sự chứa đựng điều gì bí ẩn chăng?
Lạy Chúa, ta chưa tìm ra manh mối gì cả. Vậy cuộc họp chiều nay sẽ ra sao?
Là sĩ quan tình báo trưởng trạm Công Gô, được giao những nhiệm vụ bí mật tuyệt
đối, Billy Smith đã nhiều lần trực tiếp gặp thiếu tướng Hillenkoetter, giám đốc
CIA (Cục Tình báo Trung ương); song lần này, gã thấy lo lắng vô cùng.
Rồi gã nghĩ: Tại sao với sáu mươi trang dày đặc chữ, sau khi được hội đồng ngôn
ngữ thẩm tra suốt hơn nửa năm trời, câu trả lời bằng văn bản cũng chỉ là:
Chúng tôi cho rằng văn bản này gõ trên một loại máy đánh chữ cổ lỗ sĩ mà các nước
văn minh bây giờ không còn dùng tới nữa []. Còn thứ tiếng được sử dụng không phải
là tiếng Yoruba như một số chuyên gia Phân ban ngôn ngữ đặt nghi vấn lúc ban đầu.
Có vẻ nó là một thổ ngữ ở châu Phi. Ngôn ngữ đó đã được alphabet hóa rất tinh tế,
và có lẽ là thứ tiếng của một bộ tộc quá xa lạ với nền văn minh.
Billy Smith quay gót vào phòng. Lòng gã không yên. Gã quyết định nhấc điện thoại
xin gặp ngài giám đốc. Gã mạnh dạn kiến nghị hoãn buổi họp chiều nay. Gã thưa,
cho đến giờ này, chưa giải mã được. Rồi gã hứa, sau một thời gian sẽ có câu trả
lời chính thức.
Thoạt đầu, thiếu tướng Hillenkoetter chẳng mấy hài lòng. Nhưng đến cuối câu
chuyện, ngài dặn gã cứ chủ động lên kế hoạch. Ngài còn nhắc, hãy tập trung vào
các sự vụ chính yếu làm cho học thuyết Truman[] phát huy hiệu quả chứ không cần
tìm tòi thêm những điều mới lạ làm chi.
Billy thở phào nhẹ nhõm. Tạm thời gã thoát nợ. Gã định ra về thì Jenny đỏng đảnh
bước vào. Gã toan thốt lên “Anh đang bận!” thì cô nàng đã nhoẻn miệng cười với
đôi môi hồng thắm, để lộ đôi hàm răng trắng sáng. Billy thoáng thấy đôi vồng ngực
hấp dẫn của Jenny nhấp nhô gợi cảm.
Không ai bảo ai, đôi bạn trẻ lẹ làng nép sát vào phía sau cánh cửa, ôm chầm lấy
nhau, môi kề môi, ngực áp ngực, mắt nhắm nghiền, lòng lâng lâng niềm cảm xúc
mãnh liệt. Họ có thể cảm nhận cả tiếng tim của nhau – tiếng tim dồn dập như tiếng
ngựa phi nước đại cùng bay lên một khung trời đầy mây trắng và các vì sao.
Nhưng một lát, Billy chợt nhớ tới những phút giây ân ái tuyệt đỉnh bên cô nàng
Linda chân tình của gã cùng nhiều việc phải làm tại Công Gô trong tuần tới. Vì
vậy, gã khẽ đẩy người cộng sự nữ sang một bên:
– Jenny, xin lỗi, giờ anh phải đi!
Disanka là cô gái hai mươi tuổi, người làng Osake, thuộc ngoại
ô Léopoldville[], nước Công Gô thuộc Bỉ. Cô nhỏ nhắn, xinh xắn, có phần nhí nhảnh.
Mắt cô đen lay láy, cùng nụ cười hiền lành toát ra vẻ trong sáng, hồn nhiên.
Cô làm việc cho một công ty trồng cao su và khai thác mỏ do người Bỉ đứng ra
cai quản. Lâu nay, nhờ học nghề kế toán ở người cha nuôi giàu kinh nghiệm, đồng
thời sử dụng tiếng Pháp thành thạo, cô được giao nhiệm vụ điều hành mười mấy
nhân viên chuyên dự trù vật tư, tính toán mọi khoản thu chi cho cả công ty.
Hằng ngày cô phải gặp biết bao hạng người. Ông Nicolas Victor, người mà ai cũng
quen gọi là ông chủ đồn điền nghe đâu là hậu duệ của hoàng đế Leopold II[]. Gần
cuối thế kỷ trước, vị vua Bỉ ấy đã chiếm trọn mảnh đất Công Gô rộng lớn này làm
của riêng. Y thâu tóm một gia tài khổng lồ toàn ngà voi và cao su nhờ
bóc lột tận gốc rễ sức lao động của dân nô lệ. Đến thời ông Victor cũng chẳng
thua kém gì: Ông cai quản hằng vạn hecta đất rộng bát ngát tại khu ngoại ô
Léopoldville để trồng và khai thác mủ cao su. Ông sở hữu luôn hằng nghìn thợ mỏ
và các cơ sở khai thác kim cương, cobalt và đồng tại Mabaya, Kawama và cả
Kolwezi nữa. Thế nhưng, ông xem đám thợ mỏ ấy không ra gì. Hằng ngày họ phải tự
tay đào hằng trăm mét khối đất trong điều kiện thiếu dụng cụ lao động, hầm mỏ
có thể sập bất cứ lúc nào, vậy mà ông chẳng đoái hoài tới tính mạng của họ. Họ
được trả lương nhỏ giọt để cầm hơi. Hầu hết gia đình lâm vào cảnh túng quẫn;
nhưng họ đành phải cắn răng chịu đựng.
Disanka cũng không chịu nổi mấy gã đốc công hung ác và dâm ô. Ỷ vào sự bảo bọc
của ông chủ, chúng thường ra tay đánh đập thợ mỏ hoặc quấy rối tình dục một số
nữ công nhân đồn điền cao su. Mỗi khi đám người khổ sở ấy đến nhận lương hằng
tháng, Disanka đều nhận ra vẻ mặt và tâm trạng não nề của họ.
Thời gian qua, Disanka đã nhiều lần gặp anh chàng Blaise người
Pháp. Cô nhận ra tình cảm mình dành cho anh ngày càng sâu sắc. Nhưng cô không
dám suy nghĩ nhiều. Nghĩ tới anh để làm gì trong khi bản thân cô có là gì đâu!
Đồng lương quá ít ỏi. Nếu không có sự giúp đỡ của người cha nuôi ở trung tâm
thành phố, liệu cô có cầm cự qua ngày được đâu.
Cho nên đối với Disanka, Blaise thân thiết đó, gần gũi đó, mà quá xa tầm tay.
Song, điều đáng nói là Disanka đã dành cho chàng trai ấy nụ hôn đầu đời vô cùng
dịu ngọt. Trái tim cô luôn thổn thức, rộn ràng khi nghĩ tới anh. Đêm đêm, hoặc
bất cứ lúc nào rảnh rỗi, cô vẫn không thôi tơ tưởng tới cảm giác thân thương,
tê dại, đầy quyến rũ khi nhận được nụ hôn của chàng thanh niên ngoại quốc ấy.
“Phải lòng một chàng trai quý tộc phương Tây thì chỉ có nước chết!” – Disanka tự
nhủ nhiều lần trong ngày như thế để cố gắng tập trung vào công việc.
Bỗng có người báo, cô có khách. Disanka tần ngần bước ra cửa. Cô hoàn toàn
choáng ngợp trong sự bất ngờ pha lẫn chút lo lắng và mừng vui. Anh Blaise đứng
đó. Dáng vẻ cao lớn, oai phong và hiền. Nụ cười rạng rỡ, hồn nhiên. Anh không
có chút gì đáng sợ như các ông thực dân người Bỉ.
Disanka định kiếm ghế mời anh ngồi, nhưng mọi cử chỉ đều trở nên vụng về. Như mọi
khi, anh ấy mở lời trước:
– Khỏe không, Disanka? Lâu lắm rồi anh mới sắp xếp công việc để rời Paris sang
đây đấy nhé!
Disanka định nói “Em rất mừng”, nhưng cô gần như líu lưỡi. Mấy giây sau, cô ấp
úng:
– Em nhớ… đã ba tháng chín ngày em chưa gặp lại anh.
Blaise nhoẻn miệng cười. Anh nói nhỏ vào tai cô anh rất nhớ cô. Anh khoe rằng
anh vừa đến Công Gô bằng trực thăng. Anh còn bảo, lúc nào cô thích, anh sẽ đưa
cô bay lơ lửng trên bầu trời chơi!
Disanka vui lây với niềm vui vừa thể hiện qua giọng nói và ánh mắt anh. Nhưng
cô biết mình không nên tiếp anh vào giờ này. Cô khéo dặn ngày mai Chúa nhật, nếu
được, cô sẽ sắp xếp đi chơi sau buổi lễ nhà thờ.
Sáng Chúa nhật, khi Disanka bước ra khỏi Nhà thờ Chánh tòa thì người đàn ông đầu
tiên cô gặp không phải là Blaise Sanchez. Cô hơi bối rối nắm tay Imani, bạn cô,
bên cạnh. Trái tim cô gần như đập loạn xạ khi người đàn ông có bộ râu quai nón
bất ngờ bảo rằng ông cần cô đến công ty ngay sáng nay.
Disanka khẽ chau mày. Nhưng một cách nghiêm nghị, ông chủ đồn điền bảo có rất
nhiều số liệu cần xác định lại trong sổ thu chi.
Mặc dù đã hẹn với anh Blaise nhưng Disanka không thể tìm ra lý do gì để từ chối
ông ta. Cô lúng túng vô cùng. Nhưng rồi cô tâm sự với Imani, nhờ bạn ấy đứng đợi
ở cổng nhà thờ, khi gặp anh Blaise thì nhớ nói giúp cho cô vài câu.
Xong xuôi, Disanka lên xe cùng ông chủ. Lúc đến nơi, văn phòng công ty thật vắng.
Nắng lên rực rỡ cả khoảnh sân rộng. Trời đã bắt đầu oi bức. Sau gần hai tiếng tập
trung vào công việc, ông Victor khá hài lòng với những lời giải thích chí lý của
cô. Lúc chia tay, ông chìa bàn tay đầy lông lá ra bắt, và khen cô thông minh.
Rủi thay, khi bước ra hành lang vắng, cô tình cờ gặp tay đốc công Bỉ khét tiếng
dâm đãng. Muộn rồi! Cô muốn quay lại phòng ông chủ để tìm sự chở che, nhưng
không kịp.
– Chào cô bạn! – tên quỷ sứ chặn đường nói. Lần này cô đừng né tránh tôi nữa
nhé. Tôi yêu cô mà, Disanka!
– Lạy Chúa! Hãy xê ra cho tôi đi!
– Hôm nay Chúa nhật mà em! Chúng ta hãy ở bên nhau một lát đi! – gã thực dân
man rợ vừa nói vừa sấn tới, dồn Disanka vào tường.
Gần như toàn thân Disanka bị hắn đè vào đó. Đôi cánh tay nhỏ nhắn, yếu đuối của
cô làm sao chống cự nổi sự cuồng bạo của tên quỷ dữ. Disanka có cảm giác ngạt
thở. Trong nước mắt và hận thù chất ngất, cô la toáng lên:
– Ông chủ ơi! Cứu con! Ông chủ ơi!
Nhưng mọi bề im phăng phắc. Hắn ghì chặt Disanka; hai cánh tay như hai gọng kìm
siết chặt đôi tay yếu ớt của cô. Cả cái bụng to ềnh cùng vòm ngực đầy lông lá để
lộ ra sau chiếc sơ mi trắng đẫm mồ hôi đè chặt vào thân thể thon gọn của cô.
Disanka nghe rõ tiếng thở dốc man rợ của hắn. Cô thấy cả bầu trời sắp đổ. Nỗi
nhục nhã ê chề chiếm hết tâm trí cô. Cô không thở nổi. Quá uất nghẹn. Cô ráng
la lên:
-Gã khốn nạn! Xê ra! Xê ra… Chúa ơi!
“Rầm!”
Disanka bỗng nghe một lực xô đẩy thật mạnh khiến toàn thân tên quỷ sứ nhào xuống
đất. Cô trông thấy anh Blaise xuất hiện với hai nắm tay khỏe khoắn trước ánh mắt
khiếp đảm của kẻ dâm ô. Xa hơn một quãng là Imani, bạn cô.
– Disanka! Hắn không hại được em đâu! – Blaise cố nói to để trấn an cô.
Rồi anh trầm giọng:
– Nhất định anh sẽ báo chuyện này với ngài Victor. Em đừng sợ!
Chú giải:
1. Tiếng Anh, ATOM nghĩa là NGUYÊN TỬ, về sau gọi là HẠT NHẤN.
2. Người ta muốn ám chỉ loại máy đánh chữ do Shoilz sản xuất rộng rãi tại Mỹ năm
1873. Máy này được xuất khẩu sang Pháp, Bỉ và một số thuộc địa của các nước ấy.
3. Học thuyết do tổng thống Mỹ Truman đề ra vào tháng Ba 1947 nhằm ngăn chặn sự
bành trướng của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản.
4. Đây là tên gọi cũ của thành phố Kinshasa, thủ đô Cộng hòa dân chủ Công Gô
ngày nay.
5. Tên đầy đủ của ông vua này là Léopold Louis Philippe Marie Victor.
Chương 2
Từ thuở còn thơ, Imani và Marie đã gánh chịu bao khổ đau, giằng
xé đầy nước mắt chỉ vì bố mẹ xung đột nhau. Hai chị em chưa kịp lớn đã bị chia
cắt: Marie ở lại với mẹ tại thành phố Fort-Lamy; còn Imani được đưa sang Công
Gô xa xôi sống cùng bố.
Tại thủ đô Công Gô Bỉ, nhà phía nội của Imani và nhà cha nuôi
Disanka ở kề nhau. Chính vì vậy, Imani kết thân với Disanka khi còn ấu thơ.
Do chính trị bất ổn, kinh tế khó khăn, việc học hành ở hầu hết
các trường đều bị bỏ bê. Hai bạn không được đến trường. Nhưng vì cha nuôi
Disanka từng là nhà kinh doanh giỏi, hai bạn đã học được rất nhiều điều từ ông.
Bố Imani là nhạc công trong ca đoàn nhà thờ. Chính nhờ hai ông thường xuyên bảo
ban nên hai bạn đã nhanh chóng trưởng thành trong một môi trường giáo dục đàng
hoàng.
Theo truyền thống gia đình, cả hai đều là tín hữu Công giáo
La Mã. Không Chúa nhật nào họ không cùng nhau tay trong tay đến nhà thờ. Tình bạn
của họ nảy nở thật đằm thắm.
Ngay buổi chiều hôm đó, từng nấc một, hai bạn hồi hộp và thận
trọng bước lên chiếc trực thăng do anh Blaise điều khiển. Tiếng cánh quạt khổng
lồ xoay vù vù. Tiếng động cơ nổ ình ịch. Cảm giác rời khỏi mặt đất thật thú vị.
Quả là khi nhìn từ trên cao, quang cảnh Léopoldville quá đẹp. Nó tựa như tấm thảm
nhung đa sắc màu. Nó bao la bất tận, với chi chít những kiến trúc lớn nhỏ đan
xen trên một nền xanh lá cây trải rộng. Họ thỏa thích ngắm nhìn cả những đám
mây đang chập chờn lơ lửng tựa như những dải bông gòn trắng lững thững trôi
trong nắng.
Trong khi Disanka không ngớt la lên: “Ôi! Lạy Chúa, tại sao mọi
thứ đặc sắc đến thế nhỉ! Em thích quá! Thích quá!” thì Imani chỉ tấm tắc: “Ồ, đẹp
thật, anh Blaise!”.
Imani được anh Blaise nhận vào làm tại một phân xưởng dệt may
gần chỗ làm của Disanka. Cô được giao nhiệm vụ ghi chép hàng hóa xuất nhập kho
và liệt kê năng suất công nhân. Cô thầm cảm ơn “ông chủ trẻ” đã tạo cơ hội để
cô vượt qua giai đoạn vô công rồi nghề đã âm thầm “gặm nhấm” trí não cô bấy lâu
nay.
Sau một tháng cật lực với công việc, quay về khu trung tâm
Léopoldville cách chỗ làm của cô chừng mười ki-lô-mét, Imani đem xấp tiền ra
khoe bố. Ông Kazadi rạng rỡ nhìn cô. Giọng ông đầm ấm:
– Bố biết rồi! Đây là thu nhập của con sau một tháng làm cho
ngài Blaise Sanchez chứ gì? Con khiến bố rất vui!
– Bố ơi, con định mời bố và Disanka, cả anh Blaise nữa, cuối
tuần đi ăn tiệm. Bố thấy vậy được không?
Ông Kazadi khẽ gật đầu. Ông nhẹ nhàng xoa đầu con. Rồi ông
nói lên ao ước nếu giờ này có cả Marie bên cạnh, chắc bố con mình tha hồ mà
vui.
Imani chạnh lòng nhớ tới đứa em gái bấy lâu xa cách. Đã mười
mấy năm cô chưa có dịp gặp lại, không biết dạo này Marie lớn tới đâu. Cô cũng rất
nhớ mẹ. Ôi, người mẹ lận đận thuở nào; giờ mẹ ra sao? Nghĩ tới đó, hai hàng nước
mắt ấm nóng lăn dài trên má cô.
Buổi tiệc tối hôm đó quá vui! Ông Kazadi mừng ra mặt khi nhận
thấy con gái đã trưởng thành. Trong lúc cao hứng, anh chàng Blaise đưa ra đề
nghị trong một ngày không xa, cả nhóm sẽ tổ chức đi chơi tận Fort-Lamy để có dịp
biết tới quê ngoại của Imani. Ông Kazadi vui vẻ nhận lời.
Nhưng phải đến mấy tuần sau, dự định của họ mới trở thành hiện
thực. Bốn người vừa trẻ vừa già gồm cặp đôi Blaise – Disanka, và hai bố con
Imani cùng lên đường. Họ thích thú và hồi hộp leo lên chiếc trực thăng do anh
Blaise lái.
Sau khi cất cánh, phi cơ cứ nhắm thẳng hướng bắc mà bay.
Nhìn từ trên cao, thành phố Fort-Lamy vô cùng quyến rũ. Vì trời
mưa nhẹ, quang cảnh thành phố thơ mộng nằm bên dòng sông Chari gần chỗ hợp
lưu với sông Logone trở
nên chập chờn, huyền ảo lạ.
Trực thăng đáp xuống bãi cỏ rộng mênh mông; chim chóc hoảng
vía bay tứ tán. Sau khi thuê ô tô đi dần vào trung tâm thành phố, mọi người thỉnh
thoảng bắt gặp vài nhóm người tụ tập bên đường. Nghe nói thành phố rộng thênh
nhưng dân số chỉ vào khoảng hai mươi nghìn. Người ta bày bán muối, chà là và
ngũ cốc khắp nơi dù trời cứ mưa lất phất.
Nơi đầu tiên họ tìm đến là nhà bà Kazadi. Do đường sá và nhà
cửa đã có nhiều thay đổi, phải mất hơn một tiếng đồng hồ mới tìm ra khu phố của
những người Công giáo La Mã, nơi chôn nhau cắt rốn của hai chị em Imami.
Từ trong ngôi nhà cũ kỹ tường vôi loang lổ, một phụ nữ luống
tuổi chậm rãi bước ra. Ông Kazadi gần như không tin vào chính mắt mình! Lạy
Chúa, tại sao thời gian có thể biến người vợ lanh lợi, hoạt bát năm xưa trở
thành người chậm chạp, tật nguyền và đờ đẫn thế này!
Bà Kazadi tỏ ra ngạc nhiên khi gặp lại chồng con.
Imani đứng thừ người ra. Mẹ cô chầm chậm bước tới, quàng tay
ôm lấy đứa con thơ ngày nào mà khóc. Nước mắt giàn giụa. Bà than rằng bà là người
bất hạnh nhất đời. Sau khi hai bố con Imani ra đi, bà và bé Marie khi ấy mới ba
tuổi đã gặp phải tai họa khủng khiếp. Cuộc đụng độ giữa đội quân kháng chiến ở
quê bà với thực dân Pháp khiến bà trúng đạn ở đùi; hậu quả, bà không thể đi lại
bình thường được. Còn Marie bị găm mảnh đạn ở vùng thái dương, dù người ta đã
phẫu thuật, vết thương đã liền sẹo, nhưng con bé cứ ngơ ngẩn suốt ngày.
Sốt ruột, ông Kazadi cất tiếng hỏi:
– Bây giờ con bé ở đâu? Tôi muốn gặp con!
Bà Kazadi nhăn mặt:
– Ối giời! Thân tôi tật nguyền, làm sao nuôi nổi nó! Tôi gửi
vào cô nhi viện. Sau đó người ta nhận về nuôi. Giờ thì đã lớn lắm rồi.
– Bà đưa tôi đến chỗ con bé, được không?
Bà Kazadi cau có:
– Ông thật đáng trách! Tại sao suốt hằng chục năm giời, ông
không tìm gặp mẹ con tôi? Bây giờ nó là con thiên hạ, ông tìm gặp có ích gì!
Ông Kazadi giải thích rằng, chính ông cũng trải qua không biết
bao nhiêu gian nan mới nuôi được Imani tới ngày hôm nay. Rồi cả đoàn cùng nhau
lên đường theo hướng dẫn của bà Kazadi.
Anh Blaise khéo sắp xếp nhường hai hàng ghế trước cho vợ chồng
bà và Imani, còn anh và Disanka bước vào hàng ghế sau. Chú tài xế là một người bản
địa đen đỉu; da chú đen nhất, bóng nhất so với những người còn lại. Disanka bất
ngờ với tay lên vỗ vai bạn:
– Imani! Hôm nay vui quá phải không? Chưa bao giờ mình cảm thấy
thú vị như thế này!
– Đúng vậy! Cuộc đoàn tụ kỳ diệu này là nhờ anh Blaise cả đấy!
Nói xong, Imani hướng mặt ra đằng sau, mỉm cười với anh chàng
người Pháp, tỏ vẻ biết ơn. Xe lăn bánh hơn 10 ki-lô-mét thì dừng lại trước một
ngôi nhà đồ sộ với nhiều hàng cây xanh mướt ở sân vườn. Theo lời bà Kazadi, bố
mẹ nuôi của Marie quê ở Ai Cập, rất có tiếng tăm tại làng ngoại ô này.
Bé Marie bây giờ đã 18 tuổi. Thoạt đầu cô hơi ngỡ ngàng bối rối,
nhưng sau một hồi cũng biểu lộ được niềm vui mừng và nỗi xúc động khi gặp lại
người thân. Gương mặt cô có đôi nét hao hao giống chị. Nhưng nhìn kỹ, mọi người
có thể nhận ra mắt cô hay giần giật một cách bất thường.
Ông Abaza, bố nuôi cô kể rằng, cô chính là niềm hãnh diện của
gia đình ông. Mới đây, cô được Trường Năng khiếu Tổng hợp mời đi phiên dịch cho
một số đoàn khách ngoại quốc. Mặc dù đọc văn bản hơi chậm vì bị rung giật nhãn
cầu, nhưng Marie có trí nhớ hoàn hảo. Cô nói tiếng Pháp rành rọt và nhiều ngôn
ngữ khác, kể cả các thổ ngữ tận các vùng thượng du xa lắc.
Sau một hồi lắng nghe Marie đối đáp bằng tiếng Pháp một cách
trôi chảy với những cấu trúc câu và từ ngữ đặc sắc, Blaise có lẽ là người tỏ ra
kinh ngạc nhất. Anh nói với ông Abaza, người đàn ông tóc muối tiêu:
– Thưa ông, các nhà tâm lý học nói đúng: Khi bị sút giảm chức
năng một giác quan nào đó, người ta sẽ được tạo hóa bù đắp bằng cách tăng độ
tinh nhạy ở một giác quan khác. Marie có lẽ là một trường hợp điển hình như thế,
ông ạ.
***
Chiều xuống. Chiếc trực thăng của anh Blaise cất cánh quay về
nơi xuất phát. Sau hơn hai tiếng đồng hồ bay lơ lửng, họ đã về đến làng Osake,
ngoại ô Léopoldville, đáp xuống đồng cỏ rộng bát ngát.
Điều quái lạ đập ngay vào mắt họ là cả một góc trời phía đông
nam sáng rực. Quan sát kỹ, hóa ra lửa đang bốc cháy dữ dội từ phía khu quản trị
công ty Victor. Hơi lửa tỏa ra hừng hực đến mức, khi mọi người chưa kịp rời khỏi
buồng phi cơ đã cảm nhận được độ nóng của nó.
Bước ra, họ nghe những tiếng la thất thanh từ xa vọng lại:
– Lửa! Lửa! Dập lửa nhanh lên!
– Cháy to quá! Lấy nước tới mau lên!
– Lạy Chúa! Xin Ngài cứu chúng con!
Disanka và mọi người đều hết sức bàng hoàng. Cả khu làm việc
của cô, dãy phòng của các ông đốc công cùng phòng ngủ và phòng làm việc của ông
Victor đều ở trong biển lửa. Mùi cao su, mùi củi khô, mùi gỗ cháy lan tỏa khét
rẹt cả không gian.
Người ta thấy từ bên trong, ông chủ đồn điền hớt hải chạy ra,
áo quần xộc xệch; phong thái nghiêm nghị, đường bệ thường ngày của ông biến mất.
Thay vào đó là vẻ thất thần, khiếp đảm, hoảng loạn. Nửa chới với muốn cầu cứu,
nửa bộc lộ sự điên tiết tột cùng. Nhưng mặc ông loay hoay thế nào, lửa vẫn ngùn
ngụt cháy.
Chương 3
Vụ hỏa hoạn kinh hoàng ở khu quản trị công ty Victor gây thiệt
hại trầm trọng cho ông chủ đồn điền và lắm tai tiếng cho giới cầm quyền Công Gô
Bỉ. Riêng Disanka gánh chịu hai chuyện phiền phức: Một mặt, cô bị ông chủ quở
trách nặng nề vì hầu hết các bảng kê thu chi quan trọng đều cháy rụi. Mặt khác,
cô không có chỗ ngồi, buộc phải ôm đống sổ sách nặng trịch sang làm việc tận
khu nhà tạm của mấy gã đốc công mà từ lâu cô ghét cay ghét đắng.
Ông Victor đúng là dữ tợn. Với mái tóc thô cứng và dày khiến
đầu ông như đầu sư tử, ông thẳng tay chỉ mặt Disanka, quát tháo vang trời, đe dọa
trừ lương. Disanka cố chịu đựng. Nhưng bản mặt hung ác ấy và những câu nói mỉa
mai của mấy đồng nghiệp lâu nay thường hay ganh ghét cô cứ ám mãi vào tâm trí
cô.
Cuối tháng Tám 1948, khoảng ba tháng nản lòng sau ngày xảy ra
vụ cháy, cô quyết định bỏ việc. Anh Blaise và Imani hết lời khuyên can, nhưng
cô không nghe. Cô khẳng định cô không thể chịu đựng sự ức hiếp quá đáng của người
Bỉ thêm một ngày nào nữa.
Đúng thời điểm đó, anh Blaise chính thức ngỏ lời cầu hôn
Disanka. Anh rót vào tai cô những lời êm ái ấy khi tới thăm cô tại nhà. Cô lưỡng
lự mãi. Phải đến mấy tuần sau, với sự khuyên nhủ của Imani và nhất là sự thôi
thúc của người cha nuôi, Disanka mới chịu gật đầu.
Lễ cưới được chuẩn bị khá công phu, tỉ mỉ. Blaise tìm hiểu mọi
thứ để cố công thực hiện sao cho vừa phù hợp với truyền thống của người Công
Gô, vừa ra vẻ tân thời như ở các nước châu Âu. Anh đứng ra làm thủ tục hành
chính ở tòa thị chính. Tại nhà Disanka, anh tự tay thiết kế mẫu thiệp cưới và
lên danh sách đúng một trăm người để chuẩn bị gửi thiệp. Anh đích thân cắt sẵn
một trăm mảnh vải voan nhỏ xíu và chuẩn bị cuộn dây len màu đỏ. Anh bảo đó là mỹ
tục lâu đời của người Pháp. Cứ đến cuối buổi tiệc, khách sẽ được tặng mỗi người
một nhúm kẹo xinh xinh gói trong miếng vải voan màu, thắt dây len. Cô dâu chú rể
sẽ đứng ở ngưỡng cửa mỉm cười trao từng người món quà xinh xắn đó.
Nhưng gần ngày cưới, đột nhiên mọi người chẳng thấy Disanka
đâu cả. Ông Ilunga (cha nuôi của Disanka), cùng với anh Blaise và Imani ra sức
tìm kiếm khắp nơi, nhưng không ai tìm ra cô. Mãi ba ngày sau, ông Ilunga tiếp
được một cú điện thoại chớp nhoáng. Disanka nói ngắn gọn là cô đi xa, vẫn khoẻ
mạnh, nhưng không nói rõ đi đâu, rồi cúp máy.
Blaise vô cùng bực bội, bối rối. Anh vừa lo cho Disanka, vừa
thấy buồn lòng. Hơn một tuần sau, anh bất ngờ nhận được bức thư của Disanka do
Imani chuyển đến. Anh vội vàng bước vào phòng riêng, hồi hộp xé phong bì ra đọc.
Anh Blaise thân yêu! Em thật có lỗi với anh. Em không biết
nên nói sao đây để anh hiểu rõ tâm tư của em vào giờ phút này.
Em yêu anh kể từ khi chúng mình gặp nhau lần đầu. Hơn một năm
qua, em cũng cảm nhận được tình yêu anh dành cho em ngày thêm sâu đậm.
Nhưng anh ơi! Sai lầm lớn nhất đời em là em đã chọn đất nước
khốn khổ này để sinh ra và vùi đời mình vào đây. Em đoan chắc rằng dù chúng
mình cưới nhau thành vợ chồng thì trong tương lai không xa sẽ có nhiều trắc trở
mà cả anh lẫn em đều không thể nào vượt qua được đâu.
Công Gô giờ đây vẫn hết sức lạc hậu. Mọi thứ đều nghèo nàn thậm
tệ! Không những nghèo về của cải, tiền bạc, mà cả về cách sống và cách nhìn nhận
vấn đề. Anh biết không, khi em vô tư sánh bước cùng anh ở bất cứ nơi đâu, biết
bao cặp mắt luôn nhìn em một cách khinh bỉ, biết bao kẻ tai mắt luôn xì xầm những
lời xúc phạm em.
Em trước sau chỉ là một cô gái yếu đuối. Anh biết đó, vừa
qua, sau vụ cháy, chỉ mấy lời độc địa của ông Victor mà em đã mất ăn mất ngủ cả
tháng. Vậy thử hỏi, làm sao sau này, khi về chung sống cùng anh, trước miệng
đời oan nghiệt, em suốt đời có thể gánh chịu nổi không? Khi người ta lập gia
đình, dù ở đây hay ở bên Âu – Mỹ, sự thuận tình của cha mẹ đôi bên thật quan trọng.
Phía em thì chẳng có gì đáng nói. Nhưng bên gia đình anh, liệu ba mẹ anh
có chấp nhận cô dâu da đen tóc xoăn, thấp bé và xuất thân bần cùng như em?
Chính vì vậy, dù yêu anh vô ngần, dù trái tim em không thôi
háo hức khi nghĩ tới anh, nhưng em buộc lòng nói lời chia tay. Em mong anh hiểu
và đừng trách em, anh Blaise!
Đây là thành phố tại Châu Phi Xích đạo thuộc Pháp, một thuộc
địa rộng lớn hồi bấy giờ (trước năm 1960). Hiện nay, thành phố đó là N’Djamena, thủ đô của Cộng
hòa Tchad.
Chương 4
Blaise Sanchez buồn ảo não thời gian dài kể từ khi người con
gái anh yêu đột ngột ra đi, chẳng hẹn ngày về. Nhưng đến khoảng đầu tháng Hai
1949, anh bắt đầu nảy ra những ý định mới: Anh nhanh chóng kết thân với gia
đình Kazadi thông qua cô con gái của ông là Imani.
Nhà văn Trần Như Luận
Anh dặn trợ lý kín đáo tăng lương ba tháng một lần cho cô.
Anh có mặt ở nhà ông Kazadi tại trung tâm Léopoldville thường xuyên hơn. Ngoài
ra, anh nhiều lần cùng ông bay sang thành phố Fort-Lamy, đến tận gia đình ông
Abaza để tìm gặp Marie.
Càng tiếp xúc, anh càng khám phá ra rằng Marie quả là thiên
tài. Cô có thể đọc và viết các thứ tiếng trong hệ ngôn ngữ Niger-Congo chỉ
trong vài tuần với điều kiện có ai đó viết ra và phát âm thật chuẩn thứ tiếng ấy
cho cô nghe. Đặc biệt, từ lâu cô đã quá thành thạo các thứ tiếng thuộc hệ ngôn
ngữ Nilo-Sahara. Vốn từ tiếng Pháp của cô còn phong phú hơn cả Disanka và
Imani.
Khi hoàn toàn chinh phục được niềm tin của mọi người, Blaise
bắt đầu cuộc thử nghiệm của anh. Đầu tiên, dù không hiểu nghĩa, nhưng anh cố học
thuộc cả một đoạn văn dài gồm những từ ngữ quái lạ mà anh từng biết. Anh cố
phát âm thật rõ từng âm tiết, không sai lạc mảy may nào.
Thấm thoát, cái ngày để anh tiến hành công việc quan trọng ấy
đã kề. Anh bay sang thành phố Fort-Lamy một mình. Khi biết rõ bố mẹ nuôi của cô
vắng nhà cả buổi, anh đến gặp Marie. Anh nói rõ để cô hiểu, anh sẽ đọc một đoạn
văn, cô cần nỗ lực dịch ra tiếng Pháp hộ anh.
Cô bé tật nguyền gật đầu. Mắt cô liên hồi giần giật. Mặt lờ đờ
như đang nhìn vào một khoảng không nào đó. Blaise cố đọc rõ từng âm tiết:
A kaki jaja umi homo sapiens sukhonanu e hautu rho. Histo
annu homo sapiens ist annkhukaritu. Ann vavanu unukhakhachi beeklanu,
chacharunana at homenhu. Sasaxho umimu kararara ani uni nahmama kai lilikha.
Cô bé hơi nheo mày. Nhưng không để Blaise chờ đợi lâu, Marie
cắt nghĩa đoạn ấy thành mấy câu tiếng Pháp như sau:
Sòng phẳng mà nói, loài homo sapiens thường hay nói chẳng
thật lòng và rất háu ăn. Lịch sử loài homo sapiens thực chất là lịch sử của sự
lừa dối và tranh ăn. Chúng không ngại đi khắp các châu lục, tha hồ tranh mồi cả
những nơi thật xa so với nơi chúng ở. Nơi nào có chút béo bở thì chúng lừa phỉnh
nhau, bắn bỏ nhau, tranh nhau không dứt.
Ồ! Thật tuyệt! Điều kỳ diệu đã diễn ra ngay trước mắt anh!
Anh gần như không tin vào chính tai mình! Blaise trố mắt lên. Chúa ơi! Tại sao
con người bằng xương bằng thịt có vẻ mặt khờ khạo trước mắt anh lại tài tình
siêu việt đến thế! Xin Chúa hãy giải thích thật sự bên trong bộ óc con người chứa
đựng những gì!
Blaise mừng phát run. Bất ngờ, theo phản xạ tự nhiên, anh ôm
chầm lấy Marie, toan đặt lên người cô nụ hôn thân thiết.
– Đồ sàm sỡ! – cô tức thì đẩy anh ra, giận dữ hét to bằng tiếng
Pháp.
Tay đặt lên ngực, Blaise tỏ cử chỉ xin lỗi cô. Rồi anh nói một
thôi một hồi để trình bày tâm trạng vui sướng của anh một cách thành thực.
Nhưng vô ích. Marie đứng bật dậy, quay lưng bước nhanh vào phòng riêng.
Cho đến khi quay về Léopoldville, tâm trí anh vẫn không ngớt
bàng hoàng. Trời đất! Chẳng lẽ bao công lao khó nhọc của anh trong suốt mấy
tháng qua giờ đành trút hết ra dòng sông Công Gô cả hay sao?
Anh liền nghĩ ngay tới Imani. Anh nhận ra rằng cô ấy là một
người hiền lương và đầy nhiệt tâm. Cô nói tiếng Pháp không thua kém gì Disanka.
Gương mặt cô rất xán lạn. Trong công việc, cô luôn tỏ ra là một nhân viên đầy
tinh thần trách nhiệm.
Khoảng vài tháng sau, tình cảm nảy nở khá tự nhiên giữa anh
và Imani. Vào một buổi tối, anh cùng cô thong thả đi dạo dọc bờ sông Công Gô.
Hơi gió dịu dàng thổi lên từ mặt sông mát rượi. Lúc Blaise đánh bạo quàng tay
ôm vòng eo thon gọn của cô, cô bất ngờ thú thật cô đã thầm yêu trộm nhớ anh từ
khi mới gặp lần đầu.
Một tuần sau, cũng nơi bờ sông thơ mộng ấy, cô nói thêm rằng
thuở xa xưa, do người ta biết quá ít về người châu Âu nên quan hệ hôn nhân giữa
họ với dân bản địa còn vấp phải đôi chút khó khăn. Còn hiện giờ, tại các thành
phố lớn, nhất là tại thủ đô này, gần như chả mấy ai thắc mắc về chuyện ấy. Thậm
chí, đối với người giao thiệp rộng và biết sử dụng tiếng Pháp hằng ngày, có khi
lấy được trí thức châu Âu là điều đáng hãnh diện cho cả gia đình.
Anh chàng người Pháp cởi mở tấc lòng. Anh đặt nụ hôn nồng nàn
lên trán cô. Chưa đủ, anh say đắm hôn môi cô. Anh đê mê ngây ngất với cảm giác
ngọt ngào nhận được từ thể xác và tâm hồn chơn chất của người con gái ấy. Khoảng
hai tuần sau, anh hôn lên bờ ngực căng tràn nhựa sống của cô và đòi cưới cô làm
vợ.
Thoạt đầu, Imani hơi e ngại vì chưa đầy một năm trước, anh
Blaise đã quá thân thiết với Disanka, suýt cưới bạn ấy làm vợ. Nhưng thực lòng,
Imani tự cảm thấy không thể kiềm chế nổi tình cảm mãnh liệt chực sôi trào trong
huyết quản mỗi khi cô có dịp ở cạnh anh.
Khoảng nửa năm sau, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu phả xuống
các khu vực phía nam Xích Đạo, Imani lẳng lặng bước vào phòng riêng của anh,
khép cửa lại. Cô thì thầm, “Em đã có thai.”
Ánh mắt anh sáng bừng lên. Anh ôm chầm lấy Imani; giọng run
run vì xúc động:
– Ôi! Chúa ơi! Thật tuyệt vời! Anh rất vui với tin này. Anh rất
vui!
Chương 5
Trong chiếc kaftan thổ cẩm, Disanka nắm tay bạn vội vàng bước
vào hội trường. Vào lúc này, vị diễn giả trẻ đã trình bày gần xong bài diễn
thuyết về tài nguyên đất nước và trách nhiệm công dân. Trước khi dứt
lời, anh vui vẻ kể:
– Các bạn biết không, cách đây ít tháng, tôi đang cùng một
nhóm thanh niên trú mưa trước sở bưu chính, nơi tôi làm việc. Chợt có đoàn xe của
ông Trygve Lie đi qua, bắn nước tung tóe. Một cậu to mồm chửi rủa bọn quan Bỉ.
Một cậu thanh niên khác nói, xe ấy gắn cờ xanh, giữa có hình quả Địa Cầu, dứt
khoát không phải xe “nước mình”. Cậu thứ ba đoán mò đó là cờ Đức Quốc
Xã. Đám đông thanh niên ấy cãi vã kịch liệt. Thấy họ sắp đánh lộn, tôi buộc phải
can ngăn. Tôi giải thích, đó là xe của phái đoàn Liên Hợp Quốc. Tôi nói rõ sau
thế chiến thứ hai, Đức Quốc Xã tan rã hết rồi. Nghe vậy, họ thôi cãi cọ, xấu hổ
tản đi mỗi người một nơi.
Khẽ ngừng một lát, vị diễn giả nhấn mạnh:
– Thưa quý vị! Điều tôi muốn nói là trình độ dân trí và nhận
thức của chúng ta. Ai cũng biết tài nguyên thiên nhiên của chúng ta vô cùng
phong phú. Nào kim cương, vàng, uranium. Nào cobalt, đồng và cả những mỏ đa kim
nữa. Thế nhưng, dân ta đa phần mù chữ. Ngay cả mấy cậu thanh niên tôi vừa kể
cũng chẳng quan tâm tới chuyện học hành. Các trường học hoạt động lấy lệ, chất
lượng chẳng ra gì. Chí tiến thủ của thanh niên rất kém. Có những vùng dân cư,
trẻ mới lên năm đã phải ra đồn điền cao su kiếm sống. Cả nước hiện nay có tới bốn
triệu trẻ em lao động khổ sai và thất học như thế. Các anh chị nghĩ coi, với
trình độ dân trí và mức nhận thức như vậy, liệu tới khi nào chúng ta mới giành
được độc lập, tự do và thực sự làm chủ tài nguyên của chúng ta?
Hội trường yên ắng. Mọi người chú mục lên bục diễn giả. Họ
quan sát cử chỉ của anh và chăm chú lắng nghe. Ngừng một lúc, anh tiếp lời:
– Thưa các bạn! Người Bỉ ở tận châu Âu tới. Vậy mà họ đã
giành quyền thống trị và khai thác lợi nhuận từ mảnh đất này quá lâu. Kể từ khi
cái gọi là Hội nghị Berlin 1885 có hiệu lực, người ta xem Công Gô này chỉ là vật
sở hữu của ông vua Bỉ Léopold II. Từ năm 1908 cho tới tận ngày nay, Công Gô chỉ
là một phần đất của Bỉ. Họ đã công khai cướp trắng đất và mọi tài nguyên khác của
chúng ta đồng thời thống trị dân ta ngót 65 năm đằng đẵng! Đã đến lúc
chúng ta phải giành lại quyền độc lập và quyền tự định đoạt số phận của đất nước
này! Ở một số nước phía bắc, phong trào đòi trao trả độc lập đang rộ lên. Đây
là thời cơ thuận lợi cho chúng ta. Chúng ta đang có chính nghĩa và cơ hội thắng
lợi trong tay. Tôi kêu gọi mọi người hãy ra sức cùng tôi thề sống chết với
chính nghĩa ấy!
Tiếng nói hùng hồn và sôi nổi của anh Patrice Lumumba chưa dứt
hẳn, thì tiếng vỗ tay của đông đảo thính giả đã vang lên. Disanka có cảm tưởng
như mình vừa được tiếp thêm sức mạnh phi thường. Bầu máu nóng trong người cô
dâng trào mãnh liệt.
Khi diễn giả, trong bộ áo quần ka-ki giản đơn khẽ cúi đầu
chào, anh chị em ở tất cả các hàng ghế, không ai bảo ai, đã tự động đứng lên.
Sau buổi gặp gỡ ấy, Disanka và Kangelu – bạn cô – tìm tới sở
bưu chính làm quen và kết thân với anh. Rồi ba người tự thành lập một nhóm
riêng. Từ đó, cứ vài tuần, cả nhóm gặp nhau một buổi. Ban đầu chỉ vài người,
nhưng về sau, nhóm của cô đã lên tới mười lăm người.
Họ chọn ngôi nhà rộng thoáng và nhiều bóng cây của Kangelu
Congo, nơi Disanka đang trú ngụ, làm nơi tụ hội. Đó cũng là nơi ươm mầm tình bạn
thắm thiết giữa anh Patrice Lumumba và cô nàng Pauline, thành viên dễ thương,
trẻ trung nhất của nhóm. Mặc dù Patrice có một giai đoạn phải sang tận Stanleyville phụ trách
kinh doanh cho một hãng bia, song gần như bao thời gian và tâm huyết anh dành cả
cho các hoạt động của nhóm.
Một hôm, trời đã tối, buổi họp mặt đã mãn từ lâu, Kangelu
tình cờ nghe những tiếng động khẽ tại khu vườn đằng trước, nơi trồng đủ loài
cây rậm rịt, sum suê ở nhà cô. Đó là vườn cây khá đẹp và rộng mênh mông, có ao
cá, có đủ các loài hoa tỏa hương thơm ngát, có cả bóng cổ thụ và mấy tảng đá phẳng
phiu.
Nép mình sau một thân cây lớn, cô nghe một giọng nữ thầm thì:
– Chán lắm anh! Em không chịu nổi bọn đốc công Bỉ tàn ác! Em
ước ao trong nay mai, chúng ta sẽ ra sức đánh đuổi hết bọn khốn ấy ra khỏi đất
nước mình.
– Anh cũng vậy. Là đàn ông con trai, anh thề anh sẽ làm được
điều gì đó cho quê hương đau khổ của chúng ta. Anh muốn bảo vệ tình yêu của
chúng mình, Pauline ạ.
– Anh có định cưới em không?
– Anh không lấy em thì lấy ai! Anh yêu em vô cùng, Pauline.
Sau khi nghe xong câu nói đó, Kangelu trố mắt kinh ngạc. Cô
nhận ra, dưới ánh trăng loang lổ chiếu qua những nhành cây lá đan xen, anh
Patrice và nàng Pauline ôm chầm lấy nhau. Nụ hôn dài ngất ngây, nồng nhiệt và đắm
say của họ khiến Kangelu cảm động tận đáy lòng.
Đầu tháng Ba 1951, mọi người trong nhóm nhận được tin vui:
Đôi uyên ương ấy thành hôn.
Đám cưới diễn ra thật vui nhộn. Có thể nói đó là bản hợp xướng
hết sức lạ lùng: Ngoài gia đình và bạn bè đôi bên, còn có sự hiện diện của những
người bạn Bỉ, chủ yếu là những người làm công việc chuyên môn, đồng thời có mặt
mười mấy người trong nhóm của anh và mười người trong ban điều hành Câu lạc bộ
Dân Trí nữa.
Vài tuần sau đó, sau nhiều đêm trăn trở, Patrice Lumumba một
mình đến Tòa thị chính. Anh đệ trình một bản kiến nghị. Liệt kê mười lý do, anh
yêu cầu nhà chức trách Bỉ mở mang giáo dục cho dân bản địa. Theo đề xuất của
anh, cứ 3 khu phố hoặc 3 bản làng liền kề, ít ra phải có 1 trường tiểu học.
Theo anh, đó là việc cấp bách cần lên kế hoạch để triển khai từng bước trong
vòng 10 năm. Anh đưa ra lộ trình hẳn hoi, với mức chi phí hợp lý. Anh khẳng định
đó là đòi hỏi chính đáng, có lợi cho cả người Bỉ và dân bản địa. Anh mong muốn
người Bỉ thể hiện nhiệt tâm trong việc biến đề án đó thành hiện thực.
Chương 6
Nghe tin ông Kazadi – bố của Imani và Marie – đột tử, Disanka
rất đỗi bàng hoàng. Cô khóc ngất một hồi, rồi vùng dậy thu xếp về nhà ngay, vừa
đi vừa chặm nước mắt.
Cha nuôi cô rất mừng khi gặp lại cô. Nhưng hai cha con không
có thời gian trò chuyện nhiều. Do quan hệ láng giềng thân thiết, ông Ilunga phải
đứng ra lo mọi chuyện bên nhà người quá cố.Đây cũng là dịp cô gặp lại Imani. Điều làm cô khá vui là
Imani không những đã có con – cậu con trai gần ba tuổi da đen tóc xoăn kháu khỉnh
– mà đang mang bầu nữa. Qua ánh mắt, Disanka biết là Imani thật sự mừng vui khi
gặp lại cô.
Anh Blaise thì khác. Anh tỏ ra vô tư vô tâm, như thể trước
đây giữa anh và cô chưa hề có một cuộc chạm môi yêu đương hay sự chung đụng
nào. Disanka nghĩ, âu thế cũng là điều tốt đẹp cho cô, vì từ nay cô khỏi phải bận
tâm.
Disanka biết thêm, trong những ngày tổ chức tang lễ cho ông
Kazadi, cả nhà ông Abaza đang lo cho kỳ thi mãn khóa của Marie ở Fort-Lamy.
Chính vì vậy, mãi gần một tuần sau, họ mới thu xếp để đưa Marie sang chịu tang.
Một buổi sáng, khi tang lễ đã kết thúc, lúc Disanka sang tiễn
chân mọi người tại nhà bố Imani thì một chuyện không ai mong đợi lại xảy ra.
Xồng xộc từ cổng chính, ba người lạ mặt xông vào. Marie có lẽ
là người phát hiện ra chúng đầu tiên. Cô hốt hoảng co rúm người, tay chỉ trỏ,
miệng la toáng lên:
– Cướp! Cướp!
Cả ba đều bịt mặt bằng vải đen, chỉ chừa mấy đôi mắt toát lên
vẻ hung tợn. Hai gã xông vào trước lăm le hai khẩu súng trường. Gã thứ ba to
xác hơn, hùng hổ bước vào với cây dao găm sáng loáng và chiếc còng số 8 chực sẵn
trên tay.
– A37, ngươi đã bị bắt! – gã ấy bất ngờ tìm tới ngay trước mặt
tay trợ lý của anh Blaise, chĩa mũi dao, hét lớn.
“Rầm, rầm!”
Trong lúc chúng chưa kịp còng tay cậu trợ lý ấy thì anh
Blaise xông ra, tung hai cú đá thần tốc vào ngực hai tên chĩa súng trước mặt, hất
văng cùng một lúc hai khẩu súng xuống nền đất. Anh tiếp tục sấn tới, dùng bàn
tay to khỏe tóm lấy bàn tay cầm dao của tên còn lại. Tất cả mọi người đều kinh
ngạc khi nhận ra khả năng ứng phó vô cùng lanh lợi và thiện nghệ của anh.
Cậu bé Michael ré lên, ôm chầm lấy mẹ. Imani mặt cắt không
còn chút máu. Disanka la lên:
– Quân khốn nạn! Cút ngay!
Blaise có ý định bắt một tên trong bọn để tra khảo xem chúng
là ai; nhưng trong nháy mắt, chúng đã cao chạy xa bay, để lại khẩu súng trường
còn mới tinh trên sân cỏ.
Disanka là người còn lại sau cùng vì Imani nhờ cô ở lại khóa
cửa và trông nhà hộ. Cô phát hiện chính giữa phòng khách, ngay trên nền nhà là
một chiếc cặp da còn khá mới. Cô đoán chắc đó là chiếc cặp của Marie thường
dùng đến trường. Cặp khá nặng. Mở ra, cô thấy bên trong có nhiều tài liệu học tập,
một chiếc lược ngà và đôi bông tai bằng vàng tây.
Cô cũng lôi ra được xấp tài liệu dày cộm. Đó là tài liệu được
đánh máy chữ bằng thứ ngôn ngữ gì lạ lắm, kèm một bản tiếng Pháp chép tay, có lẽ
là bản dịch.
Cô tò mò lật ra xem. Cô khá ngạc nhiên vì nét chữ bản tiếng
Pháp có lẽ là thủ bút của Imani:
Thoạt đầu, Huu lấy Rat đẻ ra Xho, Mau và Pau. Xho lấy Mii đẻ
ra Bu, Bit, Hoo và Pat. Pat lấy Min đẻ ra tôi và Mid.
Huu và cả bầy con cháu đông đúc ấy đều rất hiền. Chúng chỉ ăn
trái cây hái trong rừng. Chúng ngủ trong rừng. Chúng bài thải mọi thứ trong rừng
sâu. Vì rừng là nhà nên chúng không bao giờ biết sợ. Những người lớn to khỏe
luôn đủ sức che chở cho cả bầy. Ở đây, có cả beo đốm và cá sấu. Có đủ loại rắn.
Nhưng tất cả, từ già tới trẻ chẳng biết sợ là gì. Những người già biết nhiều
cách để giữ cho cả bầy được an toàn.
Có những đêm trăng sáng, chúng kéo cả bầy ra tới bìa rừng để
cùng ngắm trăng. Chúng vui vẻ cầm tay nhau. Chúng cười và nhảy. Chúng xem cả bầy
là chính mình. Cả bầy vui là chúng vui.
Bộ tộc chúng tôi là thế đó. Bộ tộc chúng tôi được các bộ tộc
khác gọi là Blasensenla, có nghĩa là cười và nhảy.
Cái tên ấy nghe ra cũng không hề sai. Vì từ già tới trẻ, tất
cả cứ gặp nhau là nhoẻn miệng cười. Cười là cách chào của chúng. Khi vui, chúng
cười. Cả khi té ngã đau điếng chúng cũng cười. Có kẻ bảo, vì chúng vui trong
lòng nên chúng cười. Nhưng thật ra, ý nghĩ đó không hề đúng. Điều đơn giản:
chúng cười, vì vậy chúng vui.
Nhảy múa là điều thích thú của bộ tộc tôi. Nhảy múa làm cho mọi
người thêm xinh đẹp. Bộ ngực và bộ mông của hầu hết các con đực biết nhảy một
cách mạnh mẽ đều vô cùng xinh đẹp. Bộ ngực và bộ mông của đa số con cái biết nhảy
một cách nhịp nhàng lại càng xinh đẹp hơn. Tất cả những điều đó thật đáng yêu.
Có người bảo, vì chúng vui trong lòng nên chúng nhảy. Nhưng thật ra, ý nghĩ đó
không hề đúng. Điều đơn giản: chúng nhảy, vì vậy chúng rất vui.
Disanka khẽ cười. Cô lấy làm lạ về tất cả những ý tưởng khá
ngây ngô và lạ lẫm của “ông tác giả” đã viết ra những đoạn văn quái lạ này.
Nhưng rõ ràng ấy là những ý tưởng vui. Ý tưởng vui thật là tuyệt vời khi được đặt
bên cạnh một thế giới hổ lốn, nhốn nha nhốn nháo, đầy quỷ dữ và sự tranh cướp
táo tợn như cái thế giới cô đang sống.
Disanka cảm thấy bị cuốn hút ngay bởi cách viết chân thực đến
như vậy. Cô hiếu kỳ đọc tiếp:
Khi tôi sắp thành người lớn (về sau xác định thời điểm đó tôi
16 tuổi – thật ra những người sống trong rừng như tôi chẳng bao giờ để tâm xem
mình đã sống bao lâu) một vụ cháy rừng khủng khiếp đã xảy ra hết sức bất ngờ
cho cả bộ tộc tôi.
Lửa! Lửa! Lửa!
Không biết cơ man nào là lửa!
Tất cả mọi người đều bỏ hết mọi thứ để chạy tán loạn. Tôi chỉ
biết cắm đầu cắm cổ chạy. Chạy! Chạy càng nhanh càng tốt. Chạy như một phản xạ
để tự cứu lấy mình. Tôi không biết nên chạy cùng ai, nên chạy về hướng nào.
Nhưng tôi phải chạy. Tôi chẳng thấy Min, Pat và Mid đâu cả. Tôi chỉ biết chạy để
thoát khỏi sức nóng kinh hoàng của lửa.
Không còn rừng nữa, vì tất cả đã biến thành một khối lửa khổng
lồ. Min ơi! Pat ơi! Mid ơi! Cả nhà chúng ta lạc nhau cả rồi. Tôi biết chạy đến
đâu bây giờ?
Lúc thoát ra khỏi khu rừng hừng hực lửa, tôi bị trầy xước
cùng mình, quá mệt và đói. Tôi gần như kiệt sức. Có lẽ đã bị ngất đi.
Chẳng biết bao lâu sau, mở mắt ra, tôi trông thấy chừng năm bảy
người bao lấy quanh tôi. Họ to cao quá cỡ. Người nào người nấy trông thật kỳ lạ
vì da trắng như bông xhorha. Ban đầu tôi hơi sợ. Nhưng thấy họ quan tâm chăm
sóc vết thương cho tôi, tôi cảm thấy yên tâm.
Tôi dốc sức nói rõ để họ biết tôi là người của bộ tộc cười và
nhảy. Tôi còn hăng say nói, nếu họ là người tốt, hãy mang tôi trả lại cho rừng.
Tôi xin họ đừng bắt tôi đi đâu cả. Tôi muốn sống cùng bộ tộc của mình, trong
ngôi nhà rừng.
Lúc tôi ngưng nói, họ phá lên cười. Họ nói với nhau những tiếng
gì tôi không hiểu. Một người ra hiệu cho tôi biết họ không hề hiểu những gì tôi
nói.
Một ông mang kiếng trông gương mặt rất hiền. Ông ngồi sát bên
tôi. Ông tò mò sờ vào đầu tóc xoăn tít của tôi, thích thú mân mê từng sợi. Ông
lại mỉm cười, đưa tay sờ lên da ngực tôi và cả cái khố bện bằng dây rừng của
tôi nữa.
Mấy người khác cũng đến ngồi sát bên tôi. Tôi chỉ mỉm cười với
họ, chẳng biết nói gì.
Chúng tôi đã làm quen với nhau như thế. Ông mang kiếng là người
tốt bụng. Ông và một người nữa đã lấy thứ bánh gì đó cho tôi ăn, rồi dẫn tôi đi
khắp khu rừng còn hừng hực hơi nóng với ý định tìm cho ra những người còn sót lại
trong bộ tộc tôi. Nhưng khu rừng vắng ngắt rộng thênh thang và vô cùng hỗn độn
lúc ấy chỉ còn là bãi than củi đen ngòm, sặc mùi khói nồng nặc; chúng tôi chẳng
bắt gặp bất cứ ai.
Tôi chỉ còn biết khóc. Người mang kiếng (mà sau này là bố
nuôi của tôi) và người đàn ông đi bên cạnh (mà sau này tôi luôn gọi là chú
Antoine) đã ra sức vỗ về, an ủi tôi.
Bố André cho tôi ăn khi tôi đói. Bố ngủ đâu thì tôi ngủ đó.
Và tôi rất ưng bụng khi vác giúp bố hoặc chú Antoine những vật dụng đi rừng.
Mấy ngày sau, trời trở lạnh, tôi nhớ Min và Pat vô cùng. Tôi
cũng nhớ con bé Mid, em gái tôi. Hai chúng tôi đã cùng chơi đùa bên nhau thật
vui trong suốt thời gian qua. Cứ về đêm, mỗi khi trời gai gai rét, Min hay ôm
tôi, còn Pat hay ôm Mid. Những điều đơn giản, thú vị ấy bây giờ không còn nữa.
Tôi cứ nằm đó, vô tình để nước mắt rơi. Tôi muốn thét to lên để thần Ahakana biết
nỗi thống khổ tột cùng của tôi nhưng chỉ sợ bố André và mọi người lo lắng.
Ngay
trong những ngày ấy, bố André và chú Antoine bắt đầu dạy cho tôi một vài từ ngữ
tiếng Pháp. Cả hai hứng thú ra mặt khi tôi bật ra những âm thanh mà họ hiểu. Những
từ đầu tiên tôi được học là oncle Antoine để chỉ chú Antoine, papa để
chỉ bố André, oui để chỉ sự đồng ý và non để chỉ sự không đồng
tình.
Khi
tôi bật lên câu nói “Je m’appelle Po”, bố André mừng rỡ xoa đầu tôi và gật gù
ra vẻ thích thú lắm.
Tôi
đã trưởng thành dần lên như thế, trong sự bảo bọc và dạy dỗ của “hai người bố”,
từ khu rừng này sang khu rừng khác, từ bản làng này sang bản làng khác.
Bố
André và chú Antoine biết nhiều thứ lắm. Bố là nhà khảo cổ học, đồng thời
nghiên cứu sâu về địa chất. Chú Antoine vừa là trợ lý cho bố tôi, vừa là người
ham tìm hiểu động vật hoang dã. Cả hai ưa trò chuyện với tôi. Đặc biệt, họ tận
tụy dạy tôi từng nết ăn, lối ở. Tất nhiên họ cũng dạy tiếng Pháp ngày càng nhiều
và cách tính toán cho tôi. Họ sắm cả bút, mực, vở cho tôi. Họ ân cần trang bị
cho tôi mớ kiến thức căn bản mà họ cho là vô cùng cần thiết.
Buồn
cười nhất là khi cả đoàn tới một thị trấn nọ, họ sắm cho tôi y phục phương Tây;
họ thuyết phục tôi ăn mặc như họ. Mỗi lần tôi cởi bớt đồ ra, mặc đơn giản cái
khố dây rừng cho đỡ nực thì họ cứ nhìn tôi, lắc đầu, cười.
Bố
André bảo, ngày xa xưa, loài homo sapiens chúng ta cũng chỉ mặc đơn sơ như vậy.
Nhưng càng về sau, khi văn minh lên, người ta nhận thấy chỉ mặc vậy thì không đủ
ấm và không thể bảo vệ da tốt được. Nhiều côn trùng quấy rối chúng ta và mang mầm
bệnh tới cho ta. Tôi nhe răng ra cười, yêu cầu bố giải thích xem homo sapiens
là thế nào. Bố cắt nghĩa đấy là tên khoa học để chỉ loài người hiện đại chúng
ta. Bố còn nói, đó là loài động vật thượng đẳng trong bậc thang tiến hóa của
các loài động vật.
Tôi
cười hỏi, bố ơi, phải chăng “thượng đẳng” là do loài người tự phong thôi hay ai
phong, bởi vì thực ra có một số tính cách không hẳn loài người đã tốt hơn loài
thú đâu. Tôi là người đã từng sống chung thoải mái với bao thú vật rừng sâu nên
tôi biết rõ điều đó.
Bố
cốc nhẹ vào đầu tôi, bảo tôi bướng. Nhưng kể từ đó, chẳng hiểu vì lý do gì, tôi
rất thích quan sát tính cách và đức hạnh của cả loài homo sapiens. Tôi nghĩ,
tình gắn bó tương trợ và tính cách của những người trong bộ tộc tôi đúng là tốt
đẹp. Chúng tôi thường chào nhau bằng nụ cười và hào sảng cầm tay nhau nhảy múa
vô tư, không hề công kích hay đánh đập nhau. Còn những tộc người khác ra sao,
tôi làm sao khẳng định được?
Phát
hiện đầu tiên của tôi khi chung sống với nhóm homo sapiens xuất xứ từ phương
Tây ấy là ai nấy đều tỏ ra lịch sự thái quá, cảm ơn và xin lỗi hoài, nhưng rất
nóng nảy, hung dữ và hay kình cãi. Nhớ lại, người bộ tộc tôi rất ít nói và mau
hiểu ý nhau. Chúng tôi có khả năng đặc biệt hiểu nhau qua ánh mắt. Pat và Min
chỉ nhìn nhau cười vui vẻ suốt ngày. Còn tôi và con bé Mid thích đút thức ăn
cho nhau, thích cầm tay nhau nhảy múa trong tiếng cười khúc khích rộn ràng.
Trận
cãi vã dữ dội nhất mà tôi chứng kiến diễn ra ngay trong căn nhà trọ tại một thị
trấn nhỏ giữa ông Henri, trưởng đoàn và chú Antoine, phó đoàn. Chuyện xảy ra
khoảng ba tháng sau khi tôi nhập đoàn. Chú Antoine muốn ở chung phòng với bố
André (vì bố là anh ruột của chú). Nhưng ông Henri nhất quyết không chịu. Ông
buộc chú Antoine phải ở phòng khác, chung phòng với anh tài xế, và chú Antoine
có nhiệm vụ đánh thức anh tài xế ấy vào sáng sớm hôm sau trước 4 giờ 30. Lý do
duy nhất khiến ông Henri buộc chú Antoine phải làm như thế là bởi vì chú
Antoine có đồng hồ đeo tay, trong khi anh tài xế hay thức dậy muộn và không có
đồng hồ.
Ông
Henri rất hằn học. Ông quát tháo vang nhà. Mặt ông đỏ gay. Trông ông lúc ấy thật
vô cùng hung tợn. Tôi có cảm tưởng ông muốn ăn tươi nuốt sống chú Antoine.
Tôi rất
buồn. Tôi chỉ biết lặng lẽ nhìn, hết chú Antoine, lại đến ông Henri. Trống ngực
tôi đánh liên hồi. Tôi muốn làm điều gì đó để ngăn hai người, nhưng chẳng biết
nên làm gì.
Cuối
cùng, một cách nhẹ nhàng, bố André cầm tay ông Henri, bảo ông ấy bình tĩnh lại.
Bố bảo, một là Antoine vẫn ngủ ở đây nhưng khi đến giờ ấy thì sang phòng kia
đánh thức anh tài xế dậy; hai là Antoine đưa đồng hồ cho chú Pierre, người sẽ
ngủ tại căn phòng sát phòng anh tài xế. Rồi bố nói thêm, nếu một trong hai giải
pháp ấy không làm vừa lòng ông Henri thì Antoine qua phòng ấy ngủ luôn cũng được,
chả sao.
Nhưng
ông Henri vẫn không ngưng quát tháo. Ông bảo chú Antoine ích kỷ và vô phép vô tắc.
Và chỉ vì xích mích như vậy, suốt mấy tháng sau, giữa hai người vẫn tồn tại một
khoảng cách lớn. Gần như họ không muốn nhìn mặt nhau.
Bố
André bảo bố buồn về chuyện đó. Tôi khẽ nắm tay bố, nhẹ nhàng vặn hỏi loài homo
sapiens thượng đẳng ở chỗ nào, bố hãy chỉ cho tôi đi.
Bố
André lại cười hiền, gõ đầu tôi đau điếng.
Chương 7
Một ngày tháng Sáu 1951, một người phụ nữ Công Gô mình khoác
kaftan truyền thống đứng giữa gian phòng rộng nhất trong căn nhà cô Kangelu
Congo đường Léopold, trịnh trọng nói:
– Thưa tất cả anh chị em! Tôi đã từng làm kế toán cho Công ty
Victor trồng và khai thác cao su đồng thời cai quản nhiều hầm mỏ. Hôm nay, với
chủ đề Người Bỉ làm gì tại Công Gô và thái độ của chúng ta, tôi xin bắt đầu
bằng một sự tính toán như sau: Công ty ấy thành lập năm 1940. Vốn ban đầu chỉ
có 2,3 triệu francs. Sau 3 năm, vốn tăng lên, đạt tới 46 triệu francs. Sau 7
năm, nó đã là 110 triệu francs. Sản phẩm của nó là cao su khô, đóng thành từng
thùng 100 kg. Khi gửi về tới Bỉ, mỗi thùng có giá từ 2.500 đến 3.000 francs.
Trong khi đó, tại Công Gô này, để có 1 thùng như vậy người Bỉ chỉ cần bỏ ra 500
francs.
Khéo dừng một lát để mọi người kịp tính toán, cô nói tiếp:
– Các anh chị cứ làm phép tính đi: Chỉ bỏ ra có 500 francs mà
thu lại tới 2.500 hoặc 3.000 francs! Lãi của họ không thể nào tưởng tượng nổi!
Nhưng không phải chỉ có vậy. Họ có trong tay nhiều hầm mỏ. Nếu tính riêng kim
cương, mỗi năm họ kiếm được khoảng 12.000 carats. Có một số viên kim cương đặc
sắc được khai thác tại Công Gô, với kỹ nghệ chế tác ở Bỉ, đã đem lại một khoản
thu nhập khổng lồ lên đến 80.000 francs mỗi carat.
Vài cử tọa chặc lưỡi nói vào tai nhau rằng lợi nhuận của họ
đúng là quá lớn. Disanka nhân đó, gật gù, nêu câu hỏi:
– Nhưng cả thành phố này có cả thảy bao nhiêu ông chủ Bỉ vừa
kinh doanh ngành cao su vừa khai thác hầm mỏ các anh chị biết không? Có tới 38
ông thực dân như vậy! Và nếu tính luôn trên toàn cõi Công Gô thì có tới 292
công ty! Rõ ràng người Bỉ đã trở nên giàu sụ trên mảnh đất khốn khó của chúng
ta. Hằng triệu người lao động Công Gô vì nghèo và thất học đã phải cúi đầu làm
nô lệ cho họ. Chưa hết, theo báo cáo của Forte Publique, tại tỉnh Congo-Kasaï
này, trong năm 1950 vừa qua, có tới 87 vụ sập hầm mỏ, gây thương vong và mất
tích hơn 70 người. Bên cạnh đó, có 2.500 người bị các tai nạn lao động khác do
phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt. Có 55 vụ công nhân bất mãn chống lại
đốc công, bị cầm tù 30 người, bị đánh trọng thương 25 người. Mảnh đất
Congo-Kasaï không phải chỉ thấm đẫm mồ hôi và nước mắt, mà đã vấy máu!
Chúng ta phải làm gì đây để đất nước thoát khỏi xích xiềng nô lệ?
Lời phát biểu hùng hồn của Disanka vừa dứt, tiếng vỗ tay
không ngớt vang lên.
Nhưng đột nhiên, xen kẽ trong bao âm thanh đó, Disanka nghe
có tiếng bước chân đông người đột ngột rộn lên. Rầm rập, rầm rập, rầm rập…
– Chạy đi! Chạy đi!
Cô trông thấy đám đông thính giả bỏ chạy. Và xuất hiện giữa cửa
ra vào bốn tên Forte Publique Bỉ to lớn, râu ria bờm xờm, lăm le mấy khẩu súng
trường.
Sắc mặt chúng thật hung tợn. Chúng quát:
– Tất cả đứng yên, không được chạy!
Một gã hô to:
– Bắt lấy chúng! Còng tay chúng lại!
Nhiều người trong nhóm ra hiệu bảo cô chạy đi, nhưng Disanka
không sợ. Bọn Forte Publique hùng hổ xông tới. Chúng siết cổ cô và ba người nữa
trong nhóm của cô. Chúng hung hăng còng tay các cô lại. Rồi chúng dùng vũ lực
buộc bốn phụ nữ ra đường, bước lên chiếc xe nhà binh, ngồi lê dưới ánh nắng vô
cùng gay gắt.
Mọi sự diễn ra nhanh đến nỗi Disanka chẳng biết nên làm gì.
Nhưng có một điều chắc chắn, là cô tuyệt nhiên không sợ. Gương mặt cô vô cùng
bình thản. Ánh mắt cô thật đanh thép.
Cô nói bằng tiếng bản địa cùng những người trong nhóm:
– Cuộc sống người dân Công Gô nhất định phải thay đổi! Nếu có
chết vì chính nghĩa, chúng ta sẵn sàng!
Bọn Bỉ giam bốn chị em trong nhóm của Disanka được hai ngày
ba đêm rồi thả. Mặc dù ra sức tra khảo nhưng cuối cùng chúng chẳng khai thác được
gì. Câu trả lời duy nhất mà chúng nhận được nơi những người phụ nữ không có
trong tay một tấc vũ khí ấy là: “Chúng tôi chỉ muốn thấy đất nước Công Gô độc lập.
Chúng tôi chỉ yêu cầu người Bỉ trả lại nước Công Gô cho người Công Gô. Chúng
tôi không có tội!”
Patrice Lumumba nghe tin có người bị bắt đã tức tốc rời
Stanleyville quay về Léopoldville. Nhưng khi anh về tới nơi đã thấy Disanka và
các bạn được trả tự do. Anh nhận định việc tha bổng sớm như vậy cũng có thể là
mưu ma chước quỷ của bọn thực dân. Chúng muốn mọi người ra mặt hoạt động để dễ
bề nắm bắt tình hình và thao túng sau này.
Anh nghĩ ngay tới việc cần có một lực lượng bí mật bảo vệ những
người cùng chí hướng. Trong vòng vài tuần, anh chiêu mộ mười mấy thanh niên to
khỏe, đa phần là người đồng hương. Họ có sức vóc hơn người và giỏi võ. Công việc
duy nhất mà họ được giao là canh gác để báo động; khi cần thì khéo léo đứng ra
cản lối nếu bọn Forte Publique đột nhập.
Sau khi tâm trí đã hoàn toàn yên ổn, Disanka hồi hộp lật xấp
văn bản ra xem tiếp câu chuyện hấp dẫn của Po:
Phát hiện thứ hai của tôi khi chung sống với đồng loại homo
sapiens là thế này: Đâu đâu cũng vậy, bọn tham lam và ác độc đông vô số kể. Tôi
có cảm nghĩ, ngay cả số lá cây trong rừng già từng rụng xuống hết năm này sang
năm khác, hết thập niên này sang thập niên khác cũng không thể sánh nổi số người
hiểm ác trên thế gian này.
Năm 1935, lúc tôi 18 tuổi, đoàn khảo cổ của bố André được
phép đến Lamu, một xứ sở của nước Đông Phi thuộc Anh. Lamu là tên gọi chung của
bảy hòn đảo, đồng thời cũng là tên của một thị trấn cổ. Đó là nơi thích hợp để
ngắm cảnh, tắm biển và thư giãn.
Quang cảnh ở đó đẹp lắm. Bầu trời trong xanh. Biển êm đềm phẳng
lặng, với những bãi cát dài hút mắt. Đến những chi tiết được chạm trổ nơi những
khung cửa sổ, những bức tường hoàn toàn bằng san hô và ánh sáng lung linh của
những chiếc đèn lồng được thắp lên về đêm cũng khiến cả đoàn chúng tôi không ngớt
trầm trồ.
Dân Lamu chỉ dùng tiếng Swahili nên chúng tôi khó lòng giao
thiệp. Nhưng dẫu sao, sau khi ở đó vài ngày, tôi nhận thấy nhiều người trong số
họ thật tử tế. Vợ chồng người chủ quán trọ đúng là tốt bụng. Họ phục dịch chúng
tôi thật chu đáo. Ba đứa con trai của họ thật khôi ngô.
Nhưng một đêm nọ, lợi dụng lúc tối trời, một băng hải tặc ập
đến. Chúng mặc y phục đen; đầu chít khăn đen. Chúng đông không đếm xuể. Với vũ
khí trong tay, chúng chia ra từng nhóm, ùa vào các phòng trọ và nhiều nhà lân cận.
Ba bốn tên tập trung ở hành lang rộng. Chúng la hét và chỉ trỏ lung tung. Chúng
bắt buộc mọi người, ai có vàng bạc, ngọc ngà gì thì đem ra nộp cả cho chúng.
Sợ quá, tôi ôm chặt cánh tay bố André, đứng nép sát sau cánh
cửa. Nơi dãy hành lang rộng ấy, vợ chồng người chủ quán trọ dập đầu lạy lục,
van xin. Nhưng vô ích. Chúng dí súng vào ngực họ. Bà chủ quán trọ vô cùng kinh
hãi. Với đôi tay run bần bật, bà gần như không thể tháo được mấy thứ nữ trang
trong người ra.
– Đoành! Đoành!
Hai tiếng súng vang lên, đinh tai nhức óc. Bà ngã xuống nền
nhà, mắt trợn trắng.
Quá tức giận trước cái chết phi lý và quá bất ngờ của vợ, người
chồng dùng hết sức bình sinh nện ngay vào ngực tên sát nhân những quả đấm mạnh
bạo. Do không đề phòng, hắn ăn đòn, ngã sóng soài xuống nền gạch.
Một tên khác lao tới với cây súng ngắn trong tay, vừa quát vừa
bắn.
– Đoành!
Sau tiếng nổ chát chúa, ông chủ quán trọ gục xuống. Mấy đứa
con thấy vậy, không giữ nổi bình tĩnh: Đứa lớn cầm chiếc rựa lao ra, phang tới
tấp vào đầu tên cướp. Hắn chỉ kịp hét lên một tiếng rồi gục xuống. Đứa thứ hai
liều lĩnh dùng cây chông nhọn hoắt đâm thí xác vào ngực tên cướp đối diện. Đứa
còn lại ôm mặt khóc rống lên.
– Đoành! Đoành! Đoành! Đoành!
Tiếng khóc của nó chưa kịp dứt thì một loạt đạn bắn ra. Ánh lửa
chớp sáng ghê rợn. Cả ba cậu thanh niên lần lượt ngã khuỵu xuống, đứa nọ chồng
lên đứa kia. Một tên quỷ dữ bước tới, lật ngửa xác chúng ra. Hắn dùng lưỡi lê đầu
súng đâm loạn xạ rồi ngoáy sâu vào bụng tử thi. Máu tươi và ruột phòi ra vô
cùng khủng khiếp.
– Bọn khốn! Dừng lại! – không chịu nổi cảnh tượng ấy, ông
Henri, trưởng đoàn của chúng tôi nhào ra ngăn lại, trên tay cầm khẩu súng trường.
Ông là người duy nhất trong đoàn có thể nói tiếng Swahili; nhưng theo phản xạ,
ông vừa buột miệng thét lên bằng tiếng Pháp. Ông trỏ vào xác chết. Ông muốn bọn
chúng dừng tay lại. Sau đó, có lẽ ông phân bua rằng đoàn chúng tôi đi khảo cổ,
không có vàng bạc chi cả.
Nhưng bọn hải tặc tiếp tục lục lạo. Từ các phòng trong nhà trọ,
chúng ôm ra đủ thứ của cải. Tên ác ôn hồi nãy vẫn tiếp tục hành vi man rợ. Tôi
có cảm tưởng hắn cố phanh bụng các tử thi để mua vui. Máu tươi từ các vết
thương sâu hoắm tuôn ra thành dòng.
Ông Henri xông tới gạt hắn sang một bên. Nhưng hắn vẫn không
buông tha cho các tử thi. Ông Henri trỏ thẳng vào mặt hắn và quát lớn. Có lẽ
ông yêu cầu hắn và đồng bọn cứ việc lấy vàng bạc, nhưng không được phanh thây mổ
bụng người dân.
– Đoành! … Đoành!
Chúng tôi nghe liền hai tiếng súng chát chúa nổ vang. Tên cướp
hung ác giãy giụa trên mặt đất. Ông Henri hai tay ôm ngực. Một dòng máu đỏ ối từ
tim ông trào ra. Rồi người ông từ từ khuỵu xuống.
Tôi cảm nhận rất rõ toàn thân bố André run lên. Nhưng bố chẳng
biết phải làm sao.
Trong lòng tôi¸ tôi muốn thưa với bố, tuyệt nhiên ở bộ tộc
tôi không bao giờ diễn ra những cảnh tượng như thế. Tôi hiểu rõ, ngay cả thú rừng
cũng biết thương yêu đùm bọc nhau. Beo hung dữ, nhưng chúng không giết beo. Hổ
dữ tợn và khi đói có thể tấn công cả người, nhưng chúng không bao giờ sát hại đồng
loại của chúng.
Chương 8
Theo thời gian, mọi chuyện có vẻ lắng dịu. Anh Patrice
Lumumba lại được mời đến thuyết trình cho hội viên Câu lạc bộ Dân Trí nghe về tình
hình dân sinh ở Công Gô và chính trị thế giới.
– Thưa anh chị em – giọng anh sang sảng. Tất cả chúng ta đang
sống tại Công Gô, hằng ngày phải bươn chải kiếm sống một cách vô cùng cực nhọc.
Thân nhân và đồng bào của chúng ta cũng đang âm thầm gánh chịu những hậu quả
tuy âm thầm, nhưng vô cùng khốc liệt của một nền kinh tế mà người khác nắm trọn
lợi nhuận, còn chúng ta chỉ lam lũ làm ăn với đồng lương cầm hơi cùng nhiều tai
nạn rình rập.– Có người cho rằng – giọng anh vang lên – sở dĩ có tình trạng
bi thảm đó vì chúng ta vừa nghèo, vừa sở hữu một tài nguyên chìm, vừa ít học, lại
vừa hèn.
Vài thính giả phì cười. Anh Lumumba hạ giọng, nhưng mặt anh
đanh lại:
– Thì không hèn sao được khi đất là đất của ta, hầm mỏ là hầm
mỏ của ta, nhưng khi khai thác lên, mọi thứ đều chạy tọt vào túi tham của kẻ
khác, còn chúng ta chỉ biết ngơ ngác nhìn nhau?
Rất nhiều cử tọa xì xào. Anh nêu câu hỏi; đôi mắt nhướng lên:
– Tại sao ở nhiều nước khác, người dân đồng lòng đứng lên vì
dân chủ – dân sinh, còn chúng ta quanh năm chỉ biết cúi đầu chấp nhận? Phải
chăng chỉ vì chúng ta quá nghèo, quá lam lũ nên đã quên đi cả việc đấu tranh?
Anh Lumumba đưa mắt nhìn quanh. Thấy mọi người rất chú tâm,
anh nói:
– Tôi biết rất rõ, không ít người già đã cố nhịn ăn để nhường
lương thực cho đàn con cháu đông đúc. Nhiều gia đình không đủ ngô để ăn hằng
ngày. Không những vậy, bệnh dịch lan tràn khắp nơi. Việc chăm sóc thuốc men rất
tệ. Cả thành phố 700 nghìn dân mà chỉ có độc một bệnh xá nhỏ tí tẹo. Đặc biệt,
rất thê thảm, số người tử vong tại bệnh xá ấy rất đông.
Chợt anh băn khoăn hỏi:
– Thưa các bạn, có bao giờ các bạn thử đặt câu hỏi tại
sao mọi chuyện tồi tệ như vậy chưa? Chúng ta thật sự có nhiều tiềm lực mà
chưa hề khai thác được, hay thực chất chúng ta chỉ là những kẻ bất tài, hèn mọn?
Giọng anh Lumumba lại tiếp tục vang lên:
– Sức chịu đựng của người lao động chúng ta thật bền bỉ.
Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta cứ nên tiếp tục cúi đầu. Cái gì không
biết thì học. Điều gì chưa rõ thì hỏi. Và trước bất công, phải biết đấu tranh.
Lũ ăn cướp từ phương xa đến đã được ưu đãi quá nhiều. Trong khi đó, chúng ta,
những người chủ thật sự của đất nước lại phải sống trong cảnh cơ hàn, tủi nhục.
Các bạn có thấy điều đó bất công hay không?
Khẽ dừng để mọi người suy ngẫm, anh hạ giọng:
– Thưa các bạn, hiện nay tình hình thế giới khá căng thẳng. Từ
năm 1946 đến nay có sự đối đầu giữa hai con sư tử đang gườm nhau là Liên Xô và
Mỹ. Điều đó kéo theo sự chia rẽ cả thế giới. Liên Xô đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa, có tầm ảnh hưởng to lớn đối với các nước Đông Âu và có khả năng chi
phối chính trị đối với cả Ý, Pháp và nhiều nước khác. Trong khi đó, Mỹ ra sức
thu hút sự ủng hộ của nhiều quốc gia bằng cách tăng cường viện trợ, nhất là đối
với các nước Tây Âu. Mặc dù ngoại trưởng Mỹ Marshall tuyên bố rằng kế hoạch
phục hưng châu Âu của Mỹ không hề chống lại quốc gia nào, chủ thuyết nào,
nhưng trên thực tế nó đã trở thành trợ thủ đắc lực cho học thuyết Truman chống
lại sự hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Lumumba khẽ dừng trong giây lát. Rồi giọng nói hùng hồn của
anh lại vang lên:
– Thưa anh chị em. Mặc dù hiện nay chiến tranh lạnh giữa Mỹ
và Liên Xô chưa ảnh hưởng nhiều đến tình hình châu Phi. Việc Bỉ gia nhập NATO, sau đó sáng lập Cộng
đồng Than – Thép châu Âu mới trong năm nay cũng chưa liên quan gì tới
tình hình Công Gô. Tuy nhiên, khuynh hướng đòi tự do, dân chủ do trào
lưu tư tưởng ở các nước Tây Âu mà đứng đầu là Pháp đã chi phối mạnh mẽ xu hướng
đấu tranh của giới thợ thuyền trên toàn thế giới. Hiện nay, tại Công Gô, người
Bỉ sẽ tiếp tục quay lưng với quyền sống và quyền độc lập của dân tộc Công Gô nếu
chúng ta không chịu đấu tranh. Chính vì lẽ đó, tôi kêu gọi anh chị em hãy nỗ lực
phấn đấu vì một nước Công Gô tự do, độc lập. Mức sống và cuộc sống của người
Công Gô nhất định sẽ tốt đẹp hẳn lên khi và chỉ khi chúng ta thật sự
biết đấu tranh!
Câu kết luận của diễn giả Patrice Lumumba vang lên trong tiếng
vỗ tay vang dội của đông đảo hội viên. Disanka và những người bạn, nãy giờ
ngồi lặng thinh lắng nghe, đến giây phút này không thể nào câm nín được. Cô và
nhiều người khác cùng đứng bật dậy, giơ cao nhiều cánh tay lên và hô vang:
– Công Gô độc lập muôn năm! Công Gô độc lập muôn năm!.Chương 9
Disanka gần như hoàn toàn bị cuốn hút bởi những gì cô đọc được trong
tập hồi ký của Po. Cô thắc mắc không biết điều gì sẽ diễn ra sau cái chết bi thảm
của ông Henri và những người khác tại thị trấn Lamu. Vì vậy, chiều hôm ấy, chưa
kịp ăn uống gì, cô vội vàng đọc tiếp.
Bố André và chú Antoine thật tội nghiệp. Cả hai muốn ở lại xứ
sở đó để lo việc chôn cất cho ông Henri và các nạn
nhân khác, nhưng không được.
Tảng sáng hôm sau, cảnh sát Anh ập đến. Họ lật
qua lật lại từng xác chết, quan sát hiện trường thật tỉ mỉ, chụp
ảnh lia lịa. Họ ra lệnh cho cảnh sát bản địa chôn cất các thi thể. Họ tịch
thu súng của ông Henri, đối chiếu các mảnh vỏ đạn tìm thấy tại đó, rồi dí
súng từng người. Chúng tôi cố sức phân trần, nhưng do bất đồng ngôn ngữ, họ nhất
quyết bắt trói cả bảy người trong đoàn chúng tôi giải đi.
Đầu tiên họ chuyển chúng tôi đi bằng lừa. Lý do là thị
trấn nhỏ nằm cạnh bờ biển ấy chẳng có lấy một con đường nào đủ rộng để ô
tô vào. Khi cả đoàn ra tới đường cái, họ nhét chúng tôi
vào chiếc xe nhà binh chờ sẵn. Xe của đoàn chúng tôi cũng bị họ trưng
dụng để chở chúng tôi đi. Hai xe cà gật cà tàng vượt qua hơn 300 km đường đất
đá gập ghềnh, chúng tôi tới một thành phố nhỏ. Mãi sau này tôi mới rõ đó
là thành phố Mombasa, cũng là một nơi khá nổi tiếng của đất nước Đông Phi thuộc
Anh.
Cảnh sát Anh tống cổ chúng tôi vào hai căn phòng chật chội, bẩn
thỉu. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Vừa đói khát vừa lo lắng. Làm
sao biết được khi nào họ xét xử, và liệu có được trả tự do
không?
Chúng tôi nằm nhà lao hết ngày này qua ngày khác, chẳng
ai đoái hoài gì. Nhà giam quá tồi tàn. Mỗi ngày mỗi tù nhân
chỉ được phát tí bột ngô khuấy qua loa, ăn cầm hơi. Nước gần như không có
để uống. Lúc nhúc giữa nền đất toàn ổ kiến. Trong từng manh chiếu
rách, rệp bò lổn nhổn. Ngoài tên cai ngục mặt lạnh như tiền mỗi
ngày một lần quẳng thức ăn đến, chúng tôi chẳng có cơ hội tiếp xúc với
ai. Sức khỏe và tinh thần ngày càng tệ.
Mãi ba tuần sau, họ mở khóa, lôi chú Antoine và bố tôi ra để
lấy lời khai. Qua một tay cảnh sát Anh biết tiếng Pháp, họ dần dần hiểu ra
mọi chuyện. Nhưng họ không tin những lời khai của bố và chú. Cuối cùng, chẳng
hiểu sao, họ gọi tôi ra.
Gã cảnh sát có hàng râu quai nón đen kịt hỏi tôi bằng tiếng
Pháp:
– Mày tên gì?
– Tôi tên Po – tôi vừa gãi đầu, vừa đáp.
– Mày họ gì?
– Tôi không có họ.
Gã trợn mắt:
– Gì kỳ vậy! Mày điên à?
– Bộ tộc tôi không có lệ ghép họ vào tên. Mà ở đấy
cũng chẳng ai có họ.
Gã cau mày:
– Láo toét! Làm gì có bộ tộc nào như thế!
– Tôi chẳng biết láo toét để làm gì.
– Mày bộ tộc nào? Ở nước nào?
– Bộ tộc Blasensenla. Nước nào không rõ.
Gã cảnh sát cười rống lên một cách man rợ. Dường như gã tỏ ra
vô cùng khinh miệt khi nghe tên bộ tộc tôi. Tiếp sau tràng cười ấy,
gã bảo tôi diễn vần từng chữ cái để gã ghi lại. Rồi gã quát:
– Mày là gì trong đoàn khảo cổ này?
– Tôi là con nuôi của ông André – vừa nói, tôi vừa gãi
lia gãi lịa vì mấy ngày qua bị muỗi và rệp cắn tơi bời.
– Hừ… thôi được. Tao tạm tin như vậy. Mày nghe và thấy
những gì ở Lamu thì kể hết ra đi.
Tôi lần lượt kể. Gã chăm chú lắng nghe, ghi ghi
chép chép.
Sáng hôm sau, họ bất ngờ thả chúng tôi ra.
Ồ là la! Được trả tự do như vậy thật đáng mừng. Tôi
reo lên. Và hát. Đôi chân nhún nhảy không yên. Cổ tay xoay xoay như
múa. Nhưng cả đoàn hầu hết đều tỏ ra hậm hực. Bố André càu
nhàu bảo lẽ ra họ phải xin lỗi vì những khổ sở mà chúng tôi phải gánh chịu
trong mấy tuần qua. Chú Antoine điên tiết gọi cảnh sát Anh là đồ hắc ám, đồ
ngu xuẩn, đồ dã thú. Riêng tôi, tôi không hề cảm thấy tức giận
chút nào cả. Dường như đối với người bộ tộc tôi, cái ngưỡng để tạo ra những
cơn giận dữ và nỗi oán thù cao hơn nhiều so với những người
thuộc thế giới “văn minh” thì phải.
Nhưng qua câu chuyện, tôi quả thật rất kinh ngạc: Đồng
loại homo sapiens quá lạm dụng vũ lực và khí giới. Khi nắm quyền hành và
có vũ khí trong tay, chúng trở nên quá lộng hành. Chẳng phân biệt
phải trái, chúng ưa làm gì thì làm. Chúng coi đồng loại chẳng ra gì. Muốn cướp là cướp. Muốn
bắt là bắt. Muốn bắn bỏ là bắn bỏ.
Điều khiến bố tôi thường hay hãnh diện gọi là
động vật “thượng đẳng” hóa ra là như thế sao?
Chương 10
Disanka và chín phụ nữ cùng nhóm đang sinh hoạt ở phòng khách
quét vôi màu hoàng thổ khá cũ kỹ nơi nhà cô, tại khu trung tâm đô thị
Léopoldville. Lúc đó khoảng mười giờ rưỡi. Căn phòng cách mặt đường
Flanders chừng mười mét, nằm khuất sau hai thân cây bao báp vừa vạm vỡ vừa
cao ngất ngưởng. Cô say sưa thuyết trình cho cả nhóm nghe về vấn đề nữ quyền.
Giọng cô không lớn lắm, âm lượng chỉ vừa đủ cho các bạn nghe.
Không khí buổi gặp mặt vừa vui tươi, vừa nghiêm túc. Có người
trong nhóm gọi đó là “bầu không khí nhiệt huyết”. Một số gọi cô là “đồng chí”.
Song, kể từ khi đọc xong mảnh giấy nhỏ trong tay, cô thấy con tim mình cứ rộn
lên, vừa hồi hộp vừa lo lắng.
Cô khéo lựa chỗ thích hợp để chấm dứt bài thuyết trình. Lúc mọi
người lần lượt ra về hết, cô ngước mặt lên tường xem đồng hồ. Mười phút nữa sẽ
có người tới gặp cô? Mà người ấy là ai?
Cô mở mảnh giấy nhỏ xíu ấy ra đọc lại. Đây là tờ ghi chú mà
anh chàng vệ sĩ cùng quê với anh Lumumba nãy giờ ngồi canh trước sân đã nhét
vào tay cô cách đây hơn nửa tiếng. Trên đó vỏn vẹn hai câu nghệch ngoạc:
Một anh chàng người Bỉ tìm cô lúc 10 giờ.
Tôi đã dặn gã quay lại lúc 11 giờ.
Đọc thêm lần này nữa, cô lại càng băn khoăn. Cô chẳng thắc mắc,
bồn chồn sao được khi không thể nào đoán ra gã kia là ai.
Đúng giờ, gã ấy xuất hiện. Gã đưa hẳn chiếc xe Jeep trắng đỗ
sát ngay trước cổng nhà cô. Lòng cô háo hức lạ thường. Trông chiếc xe quen thuộc,
cô biết ngay gã là ai. Mình mặc áo pun, quần jeans, chân đi giày thể thao, gã
nhanh nhẹn bước vào. Giọng mũi của gã khá rành rọt:
– Disanka, anh chờ em suốt buổi rồi đó!
Gần như quên hết mọi chuyện, Disanka nhoẻn miệng cười:
– Anh khỏe không? Vợ con đâu cả?
– Ôi! Nhắc vợ con làm gì. Anh ngán lắm rồi đây.
Sau tiếng thở dài, gã thong thả ngồi xuống nhìn vào mắt cô.
Nhẹ nhàng đặt tay lên bàn, rất tự nhiên và thân mật, gã với tay sang nắm lấy
bàn tay cô. Ánh mắt gã thể hiện tình cảm rất đỗi chân thành. Disanka không rụt
tay về.
Anh Blaise Sanchez ngỏ lời mời Disanka cùng đi ăn trưa.
Sau đó anh rủ cô đi thẳng về phía nam thành phố, nơi ghi dấu
bao kỷ niệm của hai người thuở còn say đắm bên nhau.
Đó là một không gian thoáng rộng. Mặt hồ bao la, quanh năm có
thể nghe tiếng hằng trăm thân tre cựa mình vào nhau hòa cùng tiếng thác đổ. Khi
thong thả ngồi hóng mát nơi bờ hồ, người ta có thể ngắm nhìn thỏa thích bầy
bonobo tinh nghịch tắm, tung nước vào nhau và tranh nhau quấy phá mặt hồ.
Tên gọi của nơi này là Petites Chutes de la Lukaya, bởi vì ở đây có hằng
chục con thác lấp thấp chừng một mét suốt ngày đêm tuôn nước xuống mặt sông
Lukaya, tạo nên mặt nước rộng thoáng.
Khi hai người đến nơi thì ánh tà dương còn phảng phất mặt
sông. Họ khẽ ngồi xuống nơi mặt đá rộng. Đi ngay vào câu chuyện, Blaise bảo cuộc
hôn nhân hiện nay của anh thật đáng chán nản. Có những ngày quá sầu não, anh phải
nói dối vợ để đi chơi đâu đó một mình cho khuây khỏa.
Disanka nghe thế, thật xót xa. Cô cố nói để anh Blaise hiểu rằng
Imani luôn đặt hết niềm tin nơi anh; vả lại, vợ chồng anh đã có với nhau hai “cậu
ấm”, nếu không lo vun đắp hạnh phúc gia đình thì thật đáng thương cho các cháu.
Anh Blaise chỉ lắc đầu. Disanka nhấn mạnh rằng nếu anh còn
chút tình cảm đối với cô, thì hãy tận tình với Imani và các con.
Trong phút giây tâm tư xao xuyến, Blaise choàng tay ôm cô,
nhưng cô nhẹ nhàng gạt ra:
– Ôi thôi! Chàng thanh niên Paris bảnh trai, hãy coi em là bạn!
Em không muốn có lỗi với Imani đâu đó!
Một hôm, Blaise vui vẻ nhận lời mời của ông bà Abaza sang Ai
Cập, quê hương của họ. Cả nhóm khởi hành từ Fort-Lamy, đi theo hướng đông bắc.
Họ phải mất gần năm ngày trường, ngày đi đêm nghỉ, mới đặt chân tới mảnh đất
Cairo, thành phố lớn nhất của đất nước ấy.
Đó quả là một đô thị tráng lệ, xứng đáng với tên gọi al-Qāhirah trong
tiếng Ả Rập có nghĩa là “Khải hoàn”. Dân cư thật đông đúc, đa số mặc trang phục
Hồi giáo rất kín đáo. Nam cũng như nữ đều có những chiếc mạng rộng, trùm đầu phủ
vai, có người phủ tới tận lưng, chỉ chừa ra trên gương mặt những đôi mắt sáng
trong và những chiếc sống mũi thẳng.
Dọc hai bên bờ sông Nile là những dãy phố tấp nập. Điều lý
thú là vợ chồng anh và gia đình họ tình cờ đến đúng vào ngày 18 tháng Sáu 1953,
ngày mà ông Muhammad
Naguib vừa mới đứng tại quảng trường lớn tuyên bố độc lập. Khi ánh Mặt
Trời chỉ còn le lói ở phương tây, người ta bắt đầu rủ nhau ra bờ sông, vừa hóng
mát, vừa kể cho nhau nghe những câu chuyện liên quan tới cuộc đấu tranh chống
thực dân Anh.
Trong ánh nắng chiều, trên các đường phố chính, những câu biểu
ngữ rực rỡ vẫn hiện ra rất rõ nét: AI CẬP ĐỘC LẬP MUÔN NĂM!, TẤT CẢ VÌ MỘT AI CẬP
TỰ DO! Quá sung sướng, ông Abaza muốn dang tay, gào lên một tiếng thật to vang
động cả không gian để thỏa mãn sự thích thú trong lòng. Ánh mắt ông sáng rực.
Miệng nở nụ cười. Cũng phải thôi, vì ông đã từng ao ước được về thăm lại quê
nhà, thì nay đã thỏa. Mà lần này, ông càng phấn khích vì quê hương thoát vòng
nô lệ.
Điều tuyệt vời nhất là ông gặp lại người em hằng chục năm xa
cách. Em trai ông là quân nhân từng chiến đấu dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tướng
Naguib. Khi mọi người cùng ngồi hóng gió tại một quán nước bên bờ sông Nile, vị
cựu chiến binh hãnh diện kể về những chiến công hiển hách của mình.
Trong khi ông cao hứng nói không ngơi nghỉ, tay ra dáng như
đang cầm súng bắn, thì ngay bàn bên cạnh, một phụ nữ mặc kaftan trắng, trố mắt
nhìn, chăm chú lắng nghe. Dưới ánh sáng lập lòe hắt ra từ mấy ngọn đèn lồng, có
thể nhận ra đó là một cô gái còn khá trẻ. Ngồi cạnh cô là một người đàn ông luống
tuổi.
Imani quay đầu nhìn sang, tình cờ bắt gặp ánh mắt ấy. Cô ngạc
nhiên reo lên:
- Disanka!
Phải, Disanka cùng người cha nuôi, khi nghe tin tại Cairo lực
lượng cách mạng đang ăn mừng chiến thắng thì háo hức muốn đi. Thật ra, cả hai
chẳng có chút dính líu gì tới đất nước này. Nhưng Disanka đến đây vì muốn biết
người ta đã chiến đấu chống thực dân và bọn quân chủ chuyên chế ra sao. Cô cũng
mong muốn thụ hưởng những phút giây thanh thản cùng cha nhìn ngắm thỏa thích
dòng sông Nile – con sông từ lâu nổi tiếng trong xanh và xinh đẹp, rất hay được
nhắc đến lung linh kỳ ảo trong sử thi Ai Cập.
14/9/2022 Trần Như Luận
14/9/2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét