Thứ Hai, 2 tháng 1, 2023

Trưng Nữ Vương - Tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai

Trưng Nữ Vương - Tiểu thuyết
lịch sử của Phùng Văn Khai

Nhà văn Phùng Văn Khai sinh năm 1973 tại ải Thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Anh hiện đang công tác Tạp chí Văn nghệ Quân đội, cấp bậc thượng tá, chức danh Phó Tổng Biên tập, là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2007), Phó Ban Kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam Nhiệm kỳ (2020 – 2025). Phùng Văn Khai được biết đến là một tác giả viết nhiều bộ tiểu thuyết lịch sử nhất gồm 6 bộ gồm: Phùng Vương, Ngô Vương, Nam Đế Vạn Xuân, Triệu Vương phục quốc, Lý Đào Lang Vương, Lý Phật Tử định quốc. Và sắp tới đây anh sẽ ra mắt bộ tiểu thuyết thứ 7 “Trưng Nữ Vương”. Trong những tiểu thuyết lịch sử của anh, bạn đọc đặc biệt chú ý đến các bộ tiểu thuyết; Phùng Vương, Ngô Vương, Triệu Vương phục quốc, trong đó bộ tiểu thuyết Ngô Vương nhận được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam thời kỳ 2016 – 2019. Qua trao đổi trước khi bộ Trưng Nữ Vương sắp được ra mắt, anh cho biết, bộ tiểu thuyết lịch sử này sẽ có nhiều nét mới trong lối hành văn nên văn phong cũng khác hẳn. Và tiểu thuyết Trưng Nữ Vương là tiểu thuyết đầu tiên của anh có nhiều tình tiết hư cấu, có nhiều giai thoại lẫn thần thoại xoay quanh các nhân vật chính, nó thể hiện sự khác lạ so với các tiểu thuyết trước đây. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu Hồi thứ nhất của Bộ tiểu thuyết lịch sử này.
Phùng Hiệu giới thiệu.
Nhà văn Phùng Văn Khai
HỒI THỨ NHẤT
Cổ Lôi sơn trang, Lạc tướng Trưng Định đầu xuân khai hội
Tản Viên miếu tổ, huyện lệnh Chu Diên ngày rằm dâng hương
Cổ Lôi sơn trang, huyện Mê Linh, quận Giao Chỉ đầu xuân năm 33 sau Công nguyên.
Vùng đất cổ nằm dưới chân núi tổ Ba Vì phía đông nối thông xuống vùng đồng bằng trù mật, nơi hợp lưu các nhánh Tích giang, Đà giang, Hát giang, Nhĩ Hà; phía tây thông suốt tới dãy Tản Lĩnh núi non trùng điệp, rừng rậm hoang vu; phía bắc liền kề vô số thung lớn, đồi dài, truông rậm có đường thượng đạo xuyên lên ải Bắc; phía nam sang các vùng Câu Lậu, Chu Diên chính là vùng đất trung tâm ngày trước thuộc kinh đô Phong Châu từ thượng cổ. Triều đại Hùng Vương, Cổ Lôi sơn trang nối đời là trang ấp của các Lạc hầu, Lạc tướng mang dòng máu họ Hùng. Đến khi An Dương Vương lập nước Âu Lạc, vì coi trọng ân đức sâu dày của các vua Hùng Vương với chúng dân đã khoanh riêng Cổ Lôi sơn trang mấy chục dặm vuông cho con cháu họ Hùng cúng giỗ tổ tiên. Tới khi Triệu Đà giữ ngôi quân chủ Bách Việt vẫn giữ nguyên nếp ấy. Thời gian biến động, các bậc đế vương phương Bắc thay chủ đổi ngôi. Nhà Tần quật khởi chiếm giữ Trung Nguyên, bình định sáu nước nhất thống thiên hạ, song vùng Bách Việt phương Nam vẫn khá yên ổn. Ngay cả khi mãnh tướng Đồ Thư vâng mệnh vua Tần xuống phương Nam đánh dẹp đã phải thân bại danh liệt bỏ xác ở nơi rừng thiêng nước độc thật hết sức bi ai. Kế đến, Hán tổ Lưu Bang tranh thiên hạ với Hạng Vũ, khi nhất thống ngôi hoàng đế đã căn dặn các trọng thần phải hết sức cẩn thận với vùng đất phương Nam. Trong số các cận thần, xem ra chỉ có Lục Giả hiểu bụng Hán Cao tổ muốn mưu hoạch phương Nam đã đích thân đi sứ đến Nam Việt tranh biện với Triệu Đà mà rằng: “Túc hạ là người Trung Nguyên, bà con thân thích, anh em, mồ mả đều ở Chân Định. Thiên tử nghe nói nhà vua làm vua ở Nam Việt, không giúp thiên tử giết bọn bạo nghịch; các quan văn võ muốn đem binh đến trừng trị nhà vua. Nhưng thiên tử thương trăm họ mới khó nhọc khổ sở, cho nên hãy cho họ nghỉ ngơi, sai tôi trao ấn quân vương, chặt phù, cho sứ thần đi lại. Nhà vua nên ra đón từ xa, quay về hướng Bắc xưng thần mới phải. Thế mà lại muốn lấy nước Việt mới lập, chưa bình định xong, xưng hùng xưng bá ở đây. Nếu thiên tử quả biết điều đó, thì sẽ sai đào mồ đốt mả của cha ông nhà vua, diệt dòng họ, sai một viên tướng cầm mười vạn quân đến Việt. Thế thì nước Việt sẽ giết nhà vua mà đầu hàng Hán như trở bàn tay thôi”.
Chỉ vài lời nói, Triệu Đà đã quy phục phương Bắc, càng về sau càng lệ thuộc cho tới khi mất nước, để nhà Hán dần biến Bách Việt thành các quận, huyện Hán triều, đến nỗi sau này cai trị là bọn tướng quân, Thái thú, Thứ sử xuống trị nhậm mà dần mất đi nền phong hóa vậy.
Mãi về sau, Trung Nguyên nội loạn, Vương Mãng tiếm quyền khiến nhà Hán suy vi, bọn Thái thú Giao Chỉ là Chu Chương thời Hán Chiêu Đế; Ngụy Lãng thời Hán Tuyên Đế; Ích Cư Xương, Đặng Huân thời Hán Nguyên Đế và đặc biệt là Tích Quang, Đặng Nhượng tổng quản Giao Chỉ đã biết tùy theo thời thế mà tự trị. Điều này Hán triều tuy biết, đều phải tự bưng tai bịt mắt lờ đi. Mãi tới thời Đông Hán, khi Hán Quang Vũ Đế tiêu diệt quần hùng, thống nhất Trung Nguyên mới chuyên tâm để mắt tới vùng đất phương Nam. Vũ Đế cho rằng, thay vì phải hao tổn của cải lương tiền mở cương vực về phía Bắc với bọn rợ Hồ thì việc thống thuộc phương Nam, lấy thóc gạo, tài vật, gái đẹp, thợ giỏi ở nơi ấy đem về Trung Nguyên sẽ nhàn tản hơn nhiều. Hán Đế hỏi ra mới biết mấy chục năm liền, bọn Tích Quang, Đặng Nhượng ở Giao Chỉ, Nhâm Diên ở Cửu Chân đã từ lâu tự ý đặt luật lệ riêng không còn theo quy củ Hán triều nữa. Bọn chúng còn đổ cho triều đình ưa xiểm nịnh, buông bỏ hiền tài, đến nỗi giặc cướp các nơi nổi lên như ong khiến chúng không có đường về cống nạp. Đúng là bọn loạn thần tặc tử đã bị man di đồng hóa, tự coi mình là vua chúa trong cõi riêng, thật không ra thể thống gì. Song lúc đó, nhà Đông Hán mới lập còn chưa an định, lại phương Bắc loạn quân quấy phá không yên, Hán Quang Vũ Đế đành phải nín lặng bỏ mặc vùng đất phương Nam, ngầm coi bọn Tích Quang, Đặng Nhượng, Nhâm Diên như những biên thần, mặc chúng cai trị Giao Chỉ, Cửu Chân theo ý chúng.
Về phần Tích Quang, vốn xuất thân ở Hán Trung. Gia tộc họ Tích nối đời làm quan còn theo nghề văn bút. Từ nhỏ đã được học hành cẩn thận, tổ tiên từng theo phò Hán Cao tổ Lưu Bang luôn được trọng dụng. Sau loạn họ Lữ tiếm quyền khiến Hán thất lung lay, các mưu thần trong đó có dòng họ Tích ở Hán Trung đã phải dùng kế xin đi trấn nhậm ở nơi xa để giữ mình. Khi Tích Quang ba mươi hai tuổi đang làm huyện lệnh ở Hán Trung đã xin với Thừa tướng đời Hán Tuyên Đế nói giúp để Thiên tử cho sang Giao Chỉ thay Châu mục Giao Chỉ bộ Đặng Huân mới mất. Được ân chuẩn, Tích Quang lập tức cùng gia nhân thủ hạ lên đường trèo đèo vượt suối xuống Luy Lâu. Luôn hơn ba mươi năm, họ Tích dần dần trở thành một lão hồ ly nơi vùng đất Giao Chỉ. Chúng dân khắp trong ngoài mười huyện Giao Chỉ gồm: Luy Lâu, An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Uyên, Chu Diên chỉ biết đến Tích Quang Thái thú và Đặng Nhượng Châu mục mà tuyệt không biết đang là triều Tần hay triều Hán ở Trung Nguyên. Thái thú Tích Quang dựa theo phong tục và nhất là giới sĩ lâm thị tộc vốn xuất thân dòng dõi các Lạc hầu, Lạc tướng cũ của phương Nam mà chế định phương lược cai quản khiến sứ Giao Chỉ ngày càng yên ổn sầm uất.
Luôn mấy năm liền được mùa, cư dân khắp trong ngoài vùng Cổ Lôi sơn trang nhà nhà thóc gạo đủ đầy, trâu bò gà lợn sinh sôi nảy nở vô số kể. Trang chủ Cổ Lôi sơn trang nhậm chức huyện lệnh Mê Linh cũng chính là Lạc tướng Trưng Định đã được hơn mười năm. Trong khoảng thời gian ấy, các vùng đất do ngài quản hạt dân chúng đều tuân phục, siêng năng, chăm chỉ làm ăn. Vốn biết ngài dòng dõi Hùng Vương, các vị trang chủ, tộc trưởng trong ngoài huyện Mê Linh đều vô cùng kính trọng, ngầm suy tôn ngài như một thần chủ của vùng đất cổ Phong Châu. Ngay đến cả Thái thú Tích Quang cũng bảy, tám phần kiêng nể. Mỗi khi có việc trọng, đích thân Thái thú cử Đặng Nhượng Châu mục đem xe ngựa đón Lạc tướng họ Trưng tới Luy Lâu. Chính bởi nghe theo kế sách của Trưng Định mà Thái thú vẫn y theo nếp cũ, để các huyện trong toàn cõi Giao Chỉ cho các gia thế dòng dõi Lạc hầu, Lạc tướng đương chức huyện lệnh kiêm quản. Bởi vậy, Giao Chỉ mới luôn được yên ổn còn ngày càng sầm uất, phồn thịnh mãi lên.
Trong căn nhà gỗ lớn chín gian hai tầng được dựng uy nghi trên thềm đất dày vững rộng rãi, trang chủ Trưng Định mình bận bộ nhung phục màu chàm, lưng thắt chiếc đai tía to bản có đính bảy viên ngọc xanh, đầu chít khăn vải đỏ thêu cặp voi trắng, chân đi giày da báo cũng là chiến lợi phẩm mấy năm trước của vị huyện lệnh. Khuôn mặt uy nghi cân quắc của ngài hôm nay tươi tắn khác thường. Ngồi đối diện trên chiếc kỷ gỗ trong gian chính, một vị sư phụ bận bộ đồ vải nâu vóc người vạm vỡ, chòm râu muối tiêu lặng phắc đang nghiêm nghị lắng nghe từng lời nói của trang chủ:
– Đỗ sư phụ đã tới trang ấp thật là vạn hạnh cho ta! Ta đang định sau hội vật kỳ này sẽ tới trang Thạch Xá đất Câu Lậu yết kiến sư phụ.
Vị khách họ Đỗ trang nghiêm đáp:
– Trưng huyện lệnh! Ngài bất tất phải khách sáo làm gì. Lão hủ đây trước sau vẫn là câu nói cũ. Ngày lão Thái thú Tích Quang rời khỏi Giao Chỉ chính là ngày hành sự. Bọn người mới đến tuyệt không tin tưởng được đâu. Xin huyện lệnh hãy quả quyết cho.
Trưng Định trầm ngâm giây lát rồi mới thong thả nói:
– Đỗ huynh! Tấm lòng của huynh như trời bể. Việc phục hưng quốc thống đã từ lâu ăn vào tủy xương máu não của mỗi người Giao Chỉ chúng ta. Ta thân là Lạc tướng càng phải đứng mũi chịu sào mưu đồ đại nghiệp. Song ngặt nỗi, dân ta đã từ lâu không cầm cung kiếm. Thái thú Tích Quang dẫu bên ngoài dùng kế mềm mỏng phân phong quyền trị nhậm cho các Lạc hầu, Lạc tướng bản địa; song bên trong hắn vẫn giữ bốn đạo trọng binh: trấn Đông doanh; trấn Tây doanh; trấn Nam doanh; trấn Bắc doanh, mỗi doanh hơn ba nghìn binh lính, lại có hơn một trăm hải thuyền ngoài cửa bể thanh thế tương hỗ, thực lực của chúng hùng hậu lắm. Ta nếu nhất thời vọng động, chỉ là tìm con đường chết. Thân ta nào sá kể gì, song đại cục sau này sẽ ra sao? Bọn người phương Bắc sẽ càng cảnh giác canh chừng, thì việc giành độc lập cho người Giao Chỉ càng khó hơn lên trời vậy. Ta vẫn luôn canh cánh trong lòng mười mấy năm nay chỉ biết chia sẻ với sư huynh mà thôi!
Nói đoạn, vị Lạc tướng họ Trưng lại chìm sâu vào suy nghĩ.
Vị sư phụ họ Đỗ lại nói:
– Trưng huyện lệnh! Vẫn biết bọn người phương Bắc dùng kế giữ quân cũ thay chủ mới, tức là Hán Vũ Đế đã ngờ vực Tích Quang đến đỉnh điểm rồi. Nay nếu không lợi dụng chúng ngày đầu cũ mới lỏng lẻo mà quyết một phen sống mái, e rằng sau này bọn chúng như cây ấm bụi, muốn nhổ đi cũng không dễ dàng đâu. Lại trong mười vị huyện lệnh, đã có tới bốn, năm vị một lòng một dạ hướng về Lạc tướng ngài. Đêm dài lắm mộng. Nếu không quyết một trận sinh tử, sau này hối hận sẽ không kịp nữa.
Đang trầm tư suy nghĩ, bỗng đột nhiên ngài Lạc tướng cất tiếng hỏi:
– Đỗ huynh! Việc thiên hạ hãy khoan không bàn đến làm gì. Thời nhị nữ tiểu điệt bấy lâu nay huynh dày công huấn hỗ, liệu có tiến bộ gì chăng?
Sư phụ họ Đỗ nghe tới đó chợt tươi tỉnh hẳn lên, mau mắn nói:
– Ôi chao! Đỗ huynh đây quả là may mắn được làm thầy làm bạn với nhị vị công nương. Đời này kiếp này, nếu có chỗ nào thỏa chí nhất, chính là những ngày tháng tươi đẹp được dẫn dắt hai vị công nương vậy.
Vừa nói tới đó, bỗng bên ngoài ồn ào huyên náo, cùng một lúc, bóng hai thiếu nữ như cơn gió thoảng ào vào bên trong. Còn chưa kịp sai bảo đám gia nhân, hai thiếu nữ đã áp sát Trưng huyện lệnh nũng nịu:
– Phụ thân! Phụ thân! Cha về lúc nào mà chúng con không biết vậy? Hay là người đã mặc kệ chúng con để Đỗ sư phụ đây tha hồ bắt nạt rồi.
Cha con còn đương ồn ào náo nhiệt, bỗng từ khoảng sân rộng, một vị phu nhân đoan trang cung kính bước tới trước mặt Đỗ sư phụ thi lễ nói:
– Đỗ sư phụ! Ta thay mặt phu quân cảm tạ ngài. Mong ngài đừng chấp các điệt nữ đang độ nghịch ngợm không biết nặng nhẹ. Trưng nhi! Hãy mau lui xuống để phụ thân con tiếp khách. Nếu các con vẫn chứng nào tật nấy, mẫu thân quyết phải dùng tới gia pháp của Man thị. Khi đó, dẫu có phụ thân của con tương trợ, ta e rằng các con cũng không lẩn trốn được nghiêm hình phép tắc đâu.
Nhị vị cô nương sau giây phút huyên náo tưởng chỉ có một mình phụ thân dễ bề nũng nịu, đột nhiên mẫu thân xuất hiện trong dáng vẻ uy nghiêm, biết các bậc bề trên sắp bàn việc trọng bèn mau chóng rời đi. Trước khi cất bước, nhị vị cô nương đồng thanh hướng về Đỗ sư phụ nhất loạt nói:
– Sư phụ! Nhất định người phải làm chủ cho chúng con!
Vị sư phụ họ Đỗ chỉ biết nở nụ cười ý nhị.
Khi đó, đợi các con rời khỏi căn phòng, Lạc tướng Trưng Định mới thong thả nói:
– Đỗ huynh! Nhân có phu nhân ta có đôi điều bộc bạch. Họ Trưng ta tiếng là Lạc tướng, kỳ thực mấy chục năm nay đều là ở trên hố gai miệng vực. Giao Chỉ từ ngày Triệu Đà mắc mưu Lục Giả tới nay đã như bùn hoang vô chủ, sóng gió dập vùi chìm nổi mấy trăm năm. Ta may được Man thị yêu thương kết nghĩa tóc tơ mới tạm giữ được thân phận Lạc tướng của mình. Sư phụ (Đỗ huynh) cũng đã hơn mười năm hết sức hết lòng dạy dỗ bọn tiểu điệt cũng là san sẻ gánh nặng cho ta. Chính bởi vậy ta càng phải hết sức giữ gìn thận trọng với đám người phương Bắc. Nhiều lần tới Luy Lâu yết kiến Tích Quang, ta đều nghe ngóng trước sau thấy người phương Bắc hãy còn cảnh giác phòng bị kỹ lưỡng lắm. Thái thú Tích Quang theo kế của Nhâm Diên ngoài lỏng trong chặt, lợi ích vật chất đều có thể tùy người phương Nam phân phó, phong tục tập quán nhất loạt đều cho dựng mở tự nhiên, bách nghệ giao thương đều không quản. Song nhất loạt binh khí chiến giáp, đồ sắt đồ đồng, các sách binh thư đều quản chặt, chỉ có dinh Thái thú và bốn doanh Đông, Tây, Nam, Bắc mới được phép lưu trữ sử dụng. Mấy lần đích thân ta xin khai thị mỏ đồng ở thượng du để đúc trống dùng vào việc lễ hội cũng đều bị Châu mục Đặng Nhượng kiên quyết gạt đi. Bọn chúng hãy còn phòng bị chặt chẽ như vậy, ta nhất thời chưa nghĩ ra kế sách gì khả thủ.
Thấy phu quân trang nghiêm bàn việc nước, phu nhân Man thị cũng vốn dòng dõi Lạc hầu thế gia vọng tộc lại là người thạo cung kiếm thi thư từ nhỏ trầm tư suy nghĩ giây lâu mới nói:
– Thưa sư phụ, phu quân! Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Thiếp là phận đàn bà con gái, lẽ ra nên giữ phận, song từ bấy lâu nay biết được chí phục quốc của phu quân mà mừng thầm trong bụng. Luôn mười mấy năm, vợ chồng Đỗ sư phụ đã coi các tiểu nữ của Trưng thị như con ruột thịt mà truyền dạy hai đường văn võ cho chúng. Đỗ sư phụ không chỉ là danh sư của vùng Sài Sơn – Câu Lậu mà còn là huynh đệ tri giao của phu quân đã mấy chục năm. Đỗ sư phụ từ trước tới nay để bưng tai bịt mắt người phương Bắc, đều phải thay phu quân tới các vùng An Định, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu… nghe ngóng xem xét lòng người trong thiên hạ. Cũng nhờ sự quảng giao của sư phụ mới biết được Hán Quang Vũ Đế sắp thay ngựa giữa dòng, triệu hồi bọn Tích Quang, Đặng Nhượng về Hán triều mà thay bằng tên sát máu Tô Định. Đây cũng là thời cơ để phu quân cùng các Lạc tướng mưu việc lớn. Thiếp dẫu kết cỏ ngậm vành xin một lòng một dạ theo phu quân phục quốc muôn chết không từ.
Đỗ sư phụ cùng huyện lệnh Trưng Định thấy phu nhân nói lời cảm khái tự đáy lòng ai nấy đều xúc động.
Đỗ sư phụ bèn nói:
– Phu nhân quả dòng dõi Tiên Rồng, một lời nói ra đều là vì nước. Chúng ta phận nam nhi còn há không bằng hay sao? Mong huyện lệnh hãy sớm hạ quyết tâm mới được.
Trưng Định muôn phần cảm khái nói:
– Việc lớn trong thiên hạ, thành bại đều là ở chỗ muôn dân. Nay chuẩn bị khai mở hội xuân, tìm chọn người tài cũng là ước nguyện kén rể hiền cho Trưng nhi, vậy hãy mời Đỗ sư phụ cùng phu nhân cùng làm chủ lễ hội cho. Còn như những việc khác để sau dịp hội xuân hãy bàn đến cũng chưa muộn.
Biết ý huyện lệnh Trưng Định vốn là người kín đáo thận trọng làm việc gì cũng tính kỹ trước sau nên vị sư phụ họ Đỗ và phu nhân Man thị bèn bàn sang chuyện khác.
Thủy trại vùng đất Chu Diên.
Nhân tiết đầu xuân, vâng lệnh Dương Thái Bình – huyện lệnh Chu Diên, ba mươi bảy làng chài dọc hai bờ sông Nhĩ Hà thông suốt tới Đầm Dạ Trạch nô nức tuyển chọn các tráng đinh lập ra ba mươi bảy đội thuyền chuẩn bị cho cuộc thi tài. Dương Thái Bình vốn dòng dõi Lạc hầu, mấy trăm năm trước được các đời vua Hùng giao cho làm tướng chuyên chế thủy quân kiêm quản các vùng sông biển phía Đông. Đến thời Nam Việt đế Triệu Đà xuống chiếm nước của An Dương Vương, biết vùng đất Chu Diên xưa nay là đất căn bản của Lạc hầu họ Dương, không thể dùng võ lực thống thuộc bèn lập mưu phân cho như cũ để dễ bề kiêm quản. Các đời sau, đến Hán triều vẫn giữ y như cũ. Khi Tích Quang và Đặng Nhượng tới Giao Chỉ cũng chỉ biết đứng từ xa ngắm đất Chu Diên. Nhất là từ khi con trưởng Lạc hầu Dương Thái Bình là Dương Thi Sách đến tuổi trưởng thành đích thân quản nắm đại doanh thủy quân và bảy đội thương thuyền thì danh tiếng Dương gia càng chấn động Giao Chỉ. Dương Thi Sách tiếng tăm lưu truyền khắp nơi là bậc thần đồng điều khiển thủy quân, từng đem bảy đội thương thuyền nhiều lần vượt sóng to gió lớn tới tận Hợp Phố, vào cửa biển Cửu Chân, được đích thân Thái thú Nhâm Diên tiếp đón khen ngợi. Nhâm Diên cũng ngầm gửi thư nhắc nhở Tích Quang, Đặng Nhượng phải cẩn thận với họ Dương bởi trong mười vị huyện lệnh đất Giao Chỉ, nếu có thể làm phản phục quốc nhất định sẽ do Dương thị cầm đầu. Tích Quang, Đặng Nhượng chỉ biết thầm kêu khổ trong lòng mà chưa nghĩ ra kế sách gì chế phục. Đến khi biết huyện lệnh Chu Diên cho con trai cả nắm giữ thủy đội càng lấy làm lo nghĩ mất ăn mất ngủ.
Đầm Dạ Trạch, nơi đặt trại thủy quân và bản doanh của bảy đội thương thuyền do công tử trưởng Dương Thi Sách quản lĩnh lúc nào thuyền bè cũng vào ra tấp nập. Ngay bên gò đất nổi sát bờ đầm ăn ra phía sông Nhĩ Hà, Dương công tử cho sắp đặt luôn bốn xưởng đóng thuyền với hàng trăm thợ giỏi trong các làng nghề khắp mười huyện Giao Chỉ. Dương công tử vô cùng mê thuật đóng thuyền. Hễ ở đâu nghe đồn có hiệp thợ giỏi, nhất định công tử không quản đường sá xa xôi, tốn kém bạc vàng đều nhất định mời về học hỏi, giao lưu bằng được. Cái đức nghề của công tử họ Dương cũng rất khác người. Tuyệt không giấu giếm kỹ xảo lục nghệ mà còn để các hiệp thợ khắp nơi phô bày tài nghệ của mình rồi cho kẻ vẽ biên chép mẫu thuyền rất cẩn thận để mọi người bàn bạc. Đã trăm năm trở lại đây, chỉ có các thuyền lớn từ bốn xưởng đóng thuyền họ Dương mới đủ sức vượt biển xuống Cửu Chân, tới Hợp Phố an toàn, còn thuyền những nơi khác đóng đều mỗi lúc vượt biển đều hoặc đắm vỡ hoặc trôi dạt mất phương hướng. Nghe đồn có một lần, khi đoàn thương thuyền của Dương công tử tới Cửu Chân, đích thân Thái thú Nhâm Diên đem tới năm trăm lượng bạc trắng để đổi lấy một chiếc thuyền đã bất ngờ được họ Dương tặng luôn năm chiếc không hề lấy một cắc bạc. Thái thú Nhâm Diên thở dài thầm nghĩ trong bụng họ Dương quả có khí chất đế vương mà từ đó càng thêm lo ngại cho sự thống thuộc của người phương Bắc sớm muộn gì cũng bị các anh hùng hào kiệt phương Nam nổi dậy đòi lại nền quốc thống. Họ Dương ở Chu Diên đã hàng trăm năm giống như một nước ở trong một nước vậy.
Ba mươi bảy đội thuyền đua của các làng chài năm nay theo lệnh Dương công tử đều cho kén thêm mỗi đội hai mươi tú nữ tới Đầm Dạ Trạch vừa dự hội vừa cổ động cho cuộc đua thuyền thêm náo nhiệt. Các bậc kỳ lão biết ý công tử dùng các tú nữ để khích lệ bọn tráng đinh dốc sức đua tài vừa nhân thể kén chọn kết duyên chồng vợ cho bọn tùy tướng dưới quyền chứ bản thân Dương công tử nghe đâu đã phải lòng con gái Lạc tướng đất Mê Linh từ đầu xuân năm trước. Câu chuyện cứ như trăng loang bóng nước đồn thổi lung linh nhưng tuyệt chưa thấy Dương công tử bẩm báo gì với Dương huyện lệnh chứ tính chỗ thân tình thì giữa Dương Thái Bình và Trưng Định không chỉ là nhị vị huyện lệnh dưới quyền Thái thú Tích Quang mà còn là chỗ kết giao huynh đệ vốn cùng dòng dõi Lạc hầu, Lạc tướng. Biết cá tính Dương công tử cái gì cũng muốn đích thân tự làm mà không ỷ vào gia thế, hơn nữa, các đường cung kiếm, văn võ, xử thế, bang giao, Dương công đều tin ở đứa con tuy trẻ tuổi nhưng sớm biết nặng nhẹ mọi việc nên cứ để tùy duyên. Ngay cả việc sắp đặt để ngài dùng thuyền nhẹ theo đường sông tới dâng hương trên miếu thờ Tản Viên Sơn Thánh nơi núi tổ Ba Vì cũng đều giao cho Thi Sách. Năm nào cũng vậy, đúng ngày rằm tháng Giêng, Lạc hầu Dương Thái Bình đều đích thân dâng hương hoa oản quả tế vị thần chủ núi Tản Viên. Việc này được biên chép trong cổ phả Dương tộc truyền mãi tới muôn sau vẫn giữ nguyên nếp ấy.
Sau khi cắt đặt mọi việc xong xuôi, giao cho hội đồng kỳ lão đất Chu Diên mười bảy vị chủ trì hội đua thuyền trên Đầm Dạ Trạch, khi đã ở trên chiếc thuyền nhẹ, Dương Thái Bình mới thong thả bảo Thi Sách:
– Sách nhi! Luôn mấy năm nay con vì ta, vì bách tính Chu Diên mà phải bôn ba khắp Cửu Chân, Hợp Phố cáng đáng mọi việc thật vất vả. Con năm nay đã hai mươi hai tuổi, cái tuổi phải có thê tử hầu hạ mới thuận đạo âm dương. Không biết con ta đã chấm nơi nào để ta sớm định liệu, cũng là mau chóng có người nối dõi Dương thị. Mọi việc Sách nhi cứ nói thẳng với ta.
Lời Dương công vừa dứt, chàng trai khôi ngô tuấn tú mặc bộ trường bào màu xanh, lưng thắt đai trắng, đầu để trần, mái tóc soăn tít như sóng cuộn vội quỳ xuống ngay trên mạn thuyền đĩnh đạc đáp:
– Bẩm phụ thân! Mẹ con mất cũng đã được bốn năm. Theo đạo lý cũng là gia pháp của Dương thị, phụ thân hãy kén chọn người hầu hạ cũng là để chúng con bớt lo lắng. Việc riêng của Sách nhi chưa cần phải vội vàng. Con nghe đồn phủ thành Thái thú ở Luy Lâu sắp thay ngôi đổi chủ, e rằng sóng gió sẽ nổi lên với Dương gia ta nên chưa dám tính việc riêng. Xin phụ thân định liệu!
Dương Thái Bình thấy con trai lúc nào cũng biết suy nghĩ sau trước vẹn toàn trong lòng xúc động lắm bèn nói:
– Sách nhi! Ta đã nhiều lần nói với các con tuyệt không bao giờ tính đến việc thê thiếp gì đó nữa. Mẹ con giữa đường đứt gánh cũng là ông trời thử thách lòng ta. Nay các còn đều đã trưởng thành, ta còn mong gì hơn thế nữa. Mẹ con đã ra đi được hơn bốn năm rồi. Nay Sách nhi không mau chóng cưới dâu hiền về cho Dương thị, hẳn mẹ con ở dưới suối vàng trách con một mà trách cha mười đấy.
Chàng trai tuấn tú vẫn quỳ khẳng khái nói:
– Con xin nghe theo chỉ dạy của phụ thân!
Dương Lệnh Công đỡ con đứng dậy rồi chỉ về phía chân trời xa đang lờ mờ hiện lên bóng núi tổ Ba Vì thong thả nói:
– Sách nhi! Kia là núi tổ Ba Vì. Đó cũng là nơi thờ vị thần chủ của đất Giao Chỉ ta. Tản Viên Sơn Thánh không chỉ là vị thần chủ của một nước mà còn là vị đức thánh trong lòng muôn dân người phương Nam từ thuở các vua Hùng. Tổ tiên ta đều là các Lạc hầu, Lạc tướng nối nhau giúp Hùng Vương trị quốc, an dân. Ta từ trước đã biết Sách nhi để ý tới con gái của Lạc tướng đất Mê Linh. Nay con đưa ta tới Tản Viên miếu tổ dâng hương sau nhân tiện sẽ ghé thăm ngài Lạc tướng chẳng phải là thuận cả đôi đường hay sao? Biết đâu cũng chính là duyên trời run rủi.
Chàng trai trẻ chợt như ngượng ngập chỉ biết khẽ cúi đầu nhìn dòng sông sóng nước mênh mang.
Cổ Lôi sơn trang, buổi sáng.

Tiếng trống hội ầm ầm như trống trận nổi lên từ lúc còn tinh sương chưa rõ mặt người. Hội xuân năm nay, huyện lệnh Mê Linh cho tổ chức liền một lúc hội cờ, hội vật, thi kéo co, thi đánh đu và nhất là dựng riêng một kỳ đài trên khoảnh bãi đất rộng sát đầm nước lớn hướng ra sông Nhĩ Hà để tổ chức hội trọi trâu. Các môn đánh vật, kéo co, đánh đu, cờ tướng năm nào cũng có, nhưng riêng hội trọi trâu phải ba năm mới tổ chức một lần nên dân chúng trong vùng kéo đến xem đông đúc lắm. Mê Linh vốn thuộc đất cũ Phong Châu nên các nghề săn bắn, thuần dưỡng thú rừng đã có từ thượng cổ. Tương truyền, ngay từ đời Hùng Vương thứ nhất, đích thân vua cùng hai mươi vị Lạc hầu, Lạc tướng với quân binh trong một cuộc săn lớn bắt về ngót một trăm trâu rừng, dồn chúng xuống vùng đầm lầy thuần hóa sinh sôi phục vụ cày cấy. Cũng có khi nhớ rừng thẳm, bọn trâu cày nửa đêm bứt sẹo bỏ trốn vào rừng sâu, song chỉ vài ba tháng thiếu muối không chịu được lại phải quay về chịu đóng ách cày bừa như cũ. Bởi thế mới có tục mùa đông các hội nuôi trâu hòa nước muối vảy vào rơm cỏ để giữ chân bọn chúng. Trong nông trang mùa vụ, lũ trâu cày vốn dĩ hiền lành, song mỗi khi nghe tiếng trống hội thúc ầm ầm, các gã trâu đực đôi mắt đỏ ké đột nhiên trở nên hung dữ, liên tục cào móng xuống cày đất đá rào rào. Hội trọi trâu Cổ Lôi sơn trang ba năm một lần là nơi quy tụ hàng trăm ông trâu trên khắp các vùng đất Mê Linh. Sau ba ngày tranh tài cao thấp vòng ngoài, còn lại mười sáu ông trâu vào chung cuộc chia làm tám cặp đợi ngày chính hội sẽ huyết chiến chọn ra ông trâu vô địch để huyện lệnh làm vật tế thần. Đây cũng là vinh dự và danh tiếng của chủ trâu sẽ được biên chép vào đình phả Cổ Lôi sơn trang. Trong bảy mùa hội trọi gần đây, có tới hai lần phải đặt đồng giải nhất vì hai ông trâu chung cuộc tử chiến không rời, cuối cùng đều chết thảm dưới cặp sừng đối thủ, chết rồi mà bốn cặp chân vẫn cắm thẳng xuống đất như bốn cột đình khiến đám trai tráng phải mất nửa khắc mới gỡ được xác hai ông rời nhau. Những năm đó ắt mùa vụ bội thu, các phường săn vùng thượng du Mê Linh đều bắt về vô số hươu, nai, hổ, báo, trâu rừng, và nhất là dăm chục thớt voi non để huyện lệnh chọn ra một cặp cung tiến xuống Luy Lâu.
Ngay trước căn nhà gỗ lớn hai tầng chín gian, hai giàn cây đu xúm xít vòng trong vòng ngoài người chen chân chờ tới lượt. Lệ tục đánh đu bao giờ cũng là một cặp nam thanh nữ tú dường như từ trước đã để ý tới nhau. Có thêm chén rượu đầu xuân, các chàng trai đóng khố cởi trần trên trán chít một dải khăn buộc chặt mỗi khi đánh thốc lên cao bay phấp phới như lá cờ lấp lóa trong nắng sớm rất bắt mắt. Thiếu nữ trước khi bước lên chiếc thang đu làm bằng hai cây tre bánh tẻ dẻo dai còn như e thẹn, song được vài nhịp lên cao độ quá con sào bắt đầu nhún theo nhịp đu vô cùng hăng hái như kích thích người bạn đồng hành. Đã có những chuyện cười ra nước mắt trong các cuộc đu đôi. Do không hợp ý người đẹp mà chàng trai nọ cứng tuổi rồi cứ leo bừa lên đòi đánh đôi, nàng tú nữ tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu mới lập kế đưa chàng lên cao tít khiến chàng ta sợ dúm người cứ thế ôm chặt hai thân tre mặc người đẹp đẩy lên cao gió rít vù vù. Đến mức sợ quá phải thét lên đòi xuống đã tè dầm khi xuống lảo đảo lăn quay ra đất mãi mới gượng dậy lủi mất vào đám đông. Tài nhất phải là các chàng cặp đôi được với người như ý cứ thế đu tít lên tận đỉnh trời bất chấp nguy hiểm. Hễ đôi nào quay hẳn được một vòng tròn đều được các vị kỳ lão chấm ngay vào giải để đích thân huyện lệnh trao thưởng. Thường thì mỗi kỳ hội xuân, chưa có cuộc nào được quá ba đôi nhận thưởng. Những đôi ấy sau này đầu bạc răng long vẫn được chủ hội mời tới khai đu.
Hội đánh cờ hàng năm thường chỉ thu hút được cánh trung niên và nhất là những bậc lão trượng tóc râu đều đã bạc là chăm tới dự. Kỳ lạ thay, hội cờ năm nay bỗng xôn xao khác thường. Bốn bàn cờ quân ngà tăm tắp được bày ngay trong sảnh trước tầng hai căn nhà gỗ lớn. Mọi người càng kinh ngạc khi liên tiếp bốn vị cao thủ từng chiếm các giải nhất nhì năm trước bỗng đâu nhất loạt thất thủ trước một thiếu nữ áo xanh chỉ độ mười sáu mười bảy tuổi. Mọi người ghé tai nhau thì thầm không thể tưởng tượng nổi nhị công nương vừa về từ Thạch Xá – Câu Lậu mấy ngày trước tưởng chỉ biết ngắm hoa thưởng nguyệt ai dè sớm đăng ký hội cờ đánh luôn bảy tám trận đều thắng rất nhẹ nhàng thanh thoát. Chuyện đến tai vị lão trượng vốn là bậc kỳ vương trong vùng được Trưng huyện lệnh giao cho chủ trì kỳ hội đã phải lập tức dẫn mấy vị cao đồ tới ứng chiến. Vị thứ nhất mới đi tới nước thứ mười bảy đã phải thất kinh nhận thua. Cao đồ thứ hai nhìn thoáng qua một lượt lần chần chưa dám xuất chiến.
Lão kỳ vương nhìn vị cô nương thong thả hỏi:
– Lão hủ hỏi khí không phải, tiểu điệt có phải là môn hạ của Đỗ Năng Tế lão đệ ta không? Như vậy cô nương đích thị là nhị nữ của Trưng huyện lệnh rồi! Vậy hãy sớm buông trò chơi của người cao tuổi mà tìm môn thanh nhã khác có được chăng?
Thiếu nữ khẽ mở miệng hoa ung dung đáp:
– Từ lão trượng! Có lẽ nào môn cờ lại đặt riêng lệ ngăn cấm các bậc thiếu niên, nữ tú? Còn như tiểu nữ xuất xứ thế nào có hại gì tới việc phân tài cao thấp? Cũng đâu nhất thiết phải xưng danh sư phụ làm gì? Nếu cao đồ của lão trượng tự xét thấy lực cờ chưa đủ, tiểu nữ đây mạo muội xin chấp một quân xe.
Không còn nhịn nhục được nữa cũng là để giữ thể diện cho lão sư phụ, luôn bốn vị cao đồ lập tức trước sau xuất chiến không dám để thiếu nữ chấp quân chấp nước đã thua liền một mạch khiến hội cờ ngày càng trở nên náo nhiệt khác thường.
Cũng giống như khu vực các kỳ thủ tranh tài, năm nay dường như khách khứa trong vùng tới Cổ Lôi sơn trang đông hơn thường lệ. Điều này đã được huyện lệnh Mê Linh dự kiến từ trước nên đã cho dựng liền bảy dãy lán trại liên hoàn vừa để tiếp khách tứ xứ cũng là thể hiện sự phồn thịnh của Cổ Lôi sơn trang.
Trên bến dưới thuyền, khắp trong ngoài các con đường dẫn tới sơn trang, từ nửa tháng trước tết Nguyên đán tới ngày hội đầu xuân, chủ nhân cùng các vị bô lão trong vùng với danh nghĩa đứng ngôi chủ tiếp khách thập phương đã vừa trọng thị vừa chu đáo, trước sau như một biểu thị lòng hiếu khách cũng là phong tục truyền đời của sơn trang.
Miếu tổ núi Ba Vì nơi thờ Tản Viên Sơn thánh.
Tiết đầu xuân, trời se lạnh. Từng vạt sương sớm vẫn còn chưa khô tạnh trên những tàn lá cây dọc con đường đất ngoằn ngoèo dẫn lên đỉnh núi. Nguyên ngôi miếu cổ có tới ba con đường nhỏ dẫn tới khoảng sân lát đá cũng là nơi các đoàn cúng tế dừng chân để sửa sang hương hoa oản quả. Ngay chính giữa khoảng sân nhỏ có một chiếc ang đá trũng thấp quanh năm đầy ứ nước trong vắt tinh sạch khác thường. Dẫu là mùa hạ nắng như nung không một giọt mưa hoặc mùa đông khô kiệt rét buốt ang đều đầy ăm ắp thứ nước trong mát mà bọn sơn tràng đôi lúc cả gan múc uống đều thấy nhẹ nhõm trong người. Con đường dẫn từ vụng Tích giang ăn lên miếu tổ ít khi được dùng tới nên cây cối rùm ròa khiến đoàn người dâng lễ của Dương huyện lệnh phải vừa đi vừa phát quang cành lá chắn đường. Thi thoảng trên không trung, tiếng chim chóc bay nhảy vừa như đánh động đồng loại một ngày mới bắt đầu vừa như khẳng định khoảnh đất bụi cây mỗi chúng loài làm chủ. Không gian khắp con đường nhỏ dẫn lên sân miếu cổ buổi đầu xuân từ lúc có đoàn người vận động chừng như đã linh hoạt hẳn lên.
Tới khoảng sân bên ngoài ngôi miếu cổ, trong lúc đợi bọn gia tướng sắp đặt lễ lạt, Dương huyện lệnh vẫy Thi Sách tới sát bên mình, trỏ xuống con đường đoàn người vừa từ triền sông ngược lên thong thả nói:
– Sách nhi! Vụng Tích giang chính là nơi các vua Hùng mỗi khi từ Phong Châu xuôi dòng tới dâng hương Tản Viên Sơn thánh hội thuyền ở đó. Ngày trước, ngay dưới thềm sông còn có trạm dịch do các làng ven núi cắt đặt để trông coi thuyền ngự đức vua. Sau này, bọn người phương Bắc sợ dân ta hướng về quốc thống mới xóa bỏ dịch trạm đến nỗi mỗi dịp đầu xuân người quanh vùng lên núi tổ dâng hương đều phải vạch cây tìm đường vất vả. Nhân dịp này, ta phải bàn với ngài huyện lệnh Mê Linh khôi phục lại nề nếp cũ mới được.
Công tử Thi Sách nhìn khắp một lượt ngôi miếu cổ, đều thấy ba bề vắng ngắt, hương khói lạnh lùng. Ngay đến bát hương lớn bằng đá gian chính miếu cũng đã vẹt đi một góc từ lâu cũng không ai nhòm ngó tới. Vạt cây rừng phía sau như chỉ trực đổ ập xuống ngôi miếu tổ bốn bề hoang lạnh.
Dương công tử cảm khái nói:
– Phụ thân! Có lẽ nào nơi thờ thần chủ miếu tổ Tản Viên phải mãi hoang sơ vắng vẻ thế này? Ngay như thần dân đất Giao Chỉ ta mỗi khi tới miếu tổ dâng hương đều phải vạch cây tìm lối lén lút như phường thảo khấu? Đến như phụ thân dòng dõi Lạc hầu đương chức huyện lệnh tới dâng hương thái miếu cũng chỉ tự biết trong lòng, con thực vô cùng áy náy. Vị thần chủ miếu tổ của một nước người Giao Chỉ chúng ta nếu mãi để khuất lấp như vậy quả thực là có lỗi với tổ tông.
Nói tới đó, Dương công tử không muốn làm cha phải ngẫm ngợi nhiều thêm, bọn gia tướng cũng đã chuẩn bị xong xuôi hương hoa oản quả, quét tước sạch sẽ trong ngoài án thờ cổ miếu. Dương công tử tự tay châm một bó hương lớn cắm đều vào các ban thờ bên trong cũng là lúc vị huyện lệnh Chu Diên sửa sang áo mũ đĩnh đạc quỳ xuống trước hương án vái liền chín vái.
Bãi chọi trâu khu đất rộng tiếp giáp thềm sông Nhĩ Hà vùng Cổ Lôi sơn trang.
Tiết trời đầu xuân cao thoáng. Buổi sớm còn lờ mờ mưa bụi vậy mà chỉ hơn một khắc sau đất trời đã tạnh ráo sáng sủa như góp thêm vào hương sắc cuộc du xuân của chúng dân đất Mê Linh.
Mười sáu ông trâu sau ba vòng tranh tài nảy lửa chỉ còn hai ông một ông đen trùi trũi lông lá chờm kín cả chiếc cổ cỡ người ôm thắng liền ba trận nhưng vẫn còn rất sung sức. Mỗi khi đối thủ không chịu thấu đòn hiểm phải bỏ chạy, ông trâu này không thèm đuổi theo mà chỉ đứng im quắc cặp mắt đỏ khé đầy sắc máu, đôi chân trước to đen bóng như chiếc cột đình cứ thế cào xuống đất sỏi bay rào rào thành vũng như thị uy sức mạnh khủng khiếp của mình. Địch thủ của ông cũng không phải loại xoàng. Trong ba trận thắng liên tiếp tiến tới trận cuối cùng, ông trâu vùng đất bãi liền kề đầm nước lớn Cổ Lôi sơn trang có đến hai cuộc dùng đòn cáng hiểm móc yết hầu địch thủ cứ thế xách ngược đi một vòng quanh sân bãi tới khi ông hất cặp sừng khổng lồ buông xuống đều chỉ còn là cái xác không chút động cựa. Ông trâu này lông thưa chân ngắn, tấm lưng phẳng như cánh phản không đen bóng mà phớt hồng như màu phù sa dưới đáy sông. Mặt mũi nom rất hiền từ nhưng cặp sừng cánh lá khổng lồ dài cả sải tay ánh sắc phù sa mỗi khi tia nắng xuân chiếu nhóa lên như có thần quang rực rỡ. Đồn rằng, trong mỗi mùa vụ, một mình ông đảm đương việc cày bừa cả một vùng đất bãi rộng hơn hai chục mẫu. Mỗi khi ông xuống dòng Nhĩ Hà đằm mình đều lặn một hơi thẳng tới bãi giữa mới trồi lên rồi cứ thế thỏa thê vùng vẫy như giao long giỡn sóng. Dân làng đều gọi là ông trâu thần và việc ông đánh tới trận cuối cùng đã như một lẽ tất nhiên.
Tiếng trống hội bốn phía thúc ầm ầm. Bỗng từ phía bãi sông, mấy chiếc thuyền từ hướng thượng du núi Ba Vì nối nhau thúc mũi vào bờ cát rồi cứ thế đoàn khách hơn chục người nhằm thẳng hướng kỳ đài bước tới. Từ trên cao quan sát, khi nhận thấy chỏm mũ tết lông chim trĩ lóng lánh sắc màu nhấp nhô từ xa, vị chủ hội cũng chính là huyện lệnh Mê Linh họ Trưng lập tức rời kỳ đài cùng các bô lão bước nhanh tới đón các vị khách.
Còn cách độ sáu bảy bước chân, huyện lệnh Trưng Định dừng lại nghiêm trang vòng tay thi lễ nói:
– Xin kính chào Dương huynh! Hôm qua đệ bấm luôn mấy quẻ đều báo có khách quý tới sơn trang, nhưng không thể nào ngờ lại là Dương huynh ghé thăm tệ xá.
Đoàn khách cũng đã dừng hẳn lại, ai nấy vòng chắp tay thi lễ. Vị huyện lệnh đầu đội mũ lông chim trĩ hai tay sửa sang trường bào cẩn thận rồi thi lễ đáp:
– Tại hạ xin kính chào Lạc tướng cùng các vị bô lão Cổ Lôi sơn trang! Vẫn nghe truyền Cổ Lôi khai hội tiếng nức bốn phương quả danh bất hư truyền. Cổ Lôi đúng là sấm rền vang trong trống cổ, hồn cốt rồng tiên châu tuần truyền phúc lành cho dân chúng. Trưng huyện lệnh quả đúng là vị thần chủ của vùng đất cổ Phong Châu.
Thấy vị huyện lệnh mới đến không chỉ phong thái hơn người mà câu nào nói ra cũng đều sâu sắc khí phách, nhất là đã khích lệ tới nguồn cội tổ tông của vùng đất cổ Phong Châu, nơi xưa kia các đời vua Hùng khai nguyên lập quốc. Trong lời chúc mừng còn ngầm đặt tước Lạc tướng của Trưng Định nên trước chức huyện lệnh của nhà Hán phong cho cũng là một thông điệp nữa. Chỉ vài câu nói ngắn đã biết bao gửi gắm tâm tư. Chỉ có thể là văn chất hơn người, đức dày phúc lớn mới có được vậy.
Tươi nhuần nét mặt, Trưng Định tiến tới nắm chặt đôi tay vạm vỡ của Dương công xúc động nói:
– Dương huynh! Ngài cũng dòng dõi Lạc hầu danh thơm từ thượng cổ. Ngày trước, tổ tiên của ta và ngài chẳng đã từng kề vai sát cánh với muôn dân giúp các vua Hùng sáng nghiệp đó sao? Nay Dương huynh đầu năm du xuân ghé thăm tệ xá thật là phúc lớn của Trưng thị. Vậy xin mời Dương huynh lên kỳ đài cùng ta khai trống trận chung cuộc hội chọi trâu năm nay cũng là tạo thêm sự an vững của Cổ Lôi sơn trang.
Nghe tới đó, không chút khách sáo, hai vụ huyện lệnh dẫn nhau tới giữa kỳ đài, nơi đặt hai chiếc trống đồng lớn chỉ được dùng đến trong trận chung cuộc hội chọi trâu. Hai tên quân dâng tới hai chiếc dùi bằng gỗ trắc đen bóng một đầu bịt vuông vải đỏ thắt chiếc ngù vàng rất bắt mắt. Sau tiếng hô lớn của vị lão trượng, nhất tề tiếng trống vang lên chỉ giây lát đổ ầm ầm như thác lũ hợp với dàn trống quân, trống cái khắp bốn phía kỳ đài cũng là lúc hai ông trâu kỳ phùng địch thủ được giong ra giữa sân tử chiến. Tiếng trống càng thúc mạnh, các miếng đánh của hai ông trâu chung cuộc càng hiểm hóc. Như đã chờ đợi nhau từ lâu, trận quyết chiến dường như bất phân thắng bại. Những cú húc kinh hồn như núi đổ. Những cú cáng móc tung lên từng tảng thịt đỏ lòm. Đất dưới chân hai ông trâu bay rào rào lõm sâu thành từng khoảnh lớn. Chỉ một lúc sau, không ai còn nhận ra đâu là ông trâu vùng thượng du đen thẫm, đâu là ông trâu vùng hạ bạn sắc hồng mà tất cả đều được trùm trong bùn đất và những tiếng đập sừng chan chát rợn người.
Tới khi tiếng trống dần thong thả kéo từng đợt thưa dần, cũng là lúc bùn đất giữa sân nơi hai ông trâu tử chiến không còn hất lên mù mịt nữa, tiếng hò reo như sấm khắp bốn phía cũng đã lắng xuống. Đám tráng đinh hơn chục người cởi trần đóng khố hò nhau tới quan sát bỗng kinh hoàng nhìn thấy, dưới hố đất rộng như chiếc ao mới được đào bới, hai ông trâu vẫn ghì chắc đôi sừng, cặp mắt như đã lồi hẳn ra ngoài, máu từ tầng cổ, hốc mũi, hai bên mạng sườn chảy ròng không ngớt. Cả hai đều đã dùng ngón đòn cảm tử kết liễu đối phương trong tư thế một tấc không rời. Bốn cặp chân cột đình cắm lút xuống dưới lòng hố đất khiến mọi người nhìn nhau kinh hãi.
Sau khi xác định hai ông trâu đều đã tắt thở theo thông lệ giành đồng giải nhất, các bô lão chấm giải mới cho phép bọn tráng đinh tìm cách kéo hai ông khỏi chiếc hố tử thần. Mất đến nửa khắc loay hoay, mười mấy tấm lưng trần trùng trục mồ hôi túa ra như tắm mà vẫn chịu không tách được cặp sừng hai ông đã thúc sâu vào trong yết hầu địch thủ. Vừa tấm tắc bình luận cuộc tử chiến hiếm gặp trong các kỳ hội chọi trâu không riêng gì với vùng đất Mê Linh, Trưng huyện lệnh kéo Dương công cùng tới tận nơi xem.
Thấy bọn tráng đinh loay hoay không gỡ nổi cặp sừng rời nhau, đột nhiên phía sau Dương công, một vị công tử to cao vạm vỡ bước ra nói:
– Thưa phụ thân, thưa quan huyện lệnh! Con xin được phép giúp các tráng đinh tách hai ông trâu rời nhau có được chăng?
Huyện lệnh họ Trưng khi đó mới nhìn kỹ Dương công tử. Ngài thấy Thi Sách mặt vuông mũi lớn, dáng người vạm vỡ mà thanh thoát, giọng nói trầm ấm vang xa đoán biết thần lực của người này không phải loại thường, bèn tươi cười nói:
– Dương công tử! Vẫn nghe danh công tử trí tuệ thần đồng, sức lực muôn người khôn địch, từng dẫn dắt đội thương thuyền vượt biển khơi như đi trên đất bằng. Nay công tử hãy để bọn tráng đinh ở đây mở rộng tầm mắt.
Thấy huyện lệnh Trương Định có phần hào hứng, Dương công thong thả đáp:
– Sách nhi! Con hãy mau cùng các tráng sĩ đưa hai ông trâu dưới hố lên còn kịp để Lạc tướng cho xẻ thịt tế hội. Trời cũng sắp trưa rồi.
Không cần đợi nói thêm, Dương công tử lập tức cởi bộ trường bào khoác bên ngoài tiện tay đưa cho tên lính đoạn thắt lại tấm khố bên trong cho chắc chắn rồi đi một vòng quanh miệng hố quan sát kỹ một lượt. Mọi người ai nấy trầm trồ ngắm nhìn thân thể đẹp như đá tạc của Thi Sách. Vồng ngực nổi gồ từng tảng xăm cặp giao long giỡn sóng càng tăng vẻ uy dũng của chàng trai. Cặp đùi dế vừa thon dài vừa hằn lên những cơ múi xoắn bện như chão thuyền đi biển. Đôi tay nổi bắp cuồn cuộn linh hoạt vươn vờn nhịp nhàng và đặc biệt cặp mắt to đen sắc lạnh nhìn thẳng xuống lòng hố, nơi hai ông trâu tuy đã chết mà máu đỏ sùi bọt vẫn phì ra.
Xem kỹ một lượt, Dương công tử bảo bọn tráng đinh:
– Phiền anh em đem tới cho ta tám cây tre đực cứng dài độ hơn trượng và bốn cuộn chão lớn.
Mọi người chưa biết Dương công tử sẽ làm gì nhưng liền mau chóng đem tới những thức vật theo yêu cầu của Thi Sách.
Loáng cái, mọi người chỉ nhìn thấy bóng họ Dương nhảy bên tả, sà bên hữu thoăn thoắt dưới hố một chốc đã buộc chắc bốn đầu chão vòng qua chân ôm lên lưng từng ông trâu gọn ghẽ rồi cứ thế Thi Sách nhảy phắt lên thành hố luồn hai cây tre đực chập vào làm một đặt đám cọc tre lên hai vai đứng tấn khẩn trương bảo:
– Cảm phiền các anh em hãy giúp Dương mỗ một tay!
Hiểu ý của Thi Sách, tám tráng đinh xúm vào cầm đầu tám cây tre phía bên kia hố đã được cột chắc hè nhau đồng loạt nâng lên. Phía đầu bên này, Thi Sách đứng tấn, hai chân như hai cột đình choãi thẳng mặt không biến sắc. Bọn tráng đi ai nấy mặt đỏ tía tai cố hết sức nâng cây đòn tre lên cũng là lúc ở dưới hố, cặp sừng của hai ông trâu từ từ rời yết hầu nhau ra. Chỉ một loáng, hai ông trâu đã mau chóng được đưa khỏi miệng hố lên khoảng đất rộng mà máu từ yết hầu vẫn ộc ra. Một bên chỉ mình Thi Sách cởi trần đóng khố đứng tấn gánh đám cọc tre cột chão, một bên tám tráng đinh mồ hôi nhễ nhại ứng trợ đưa hai ông trâu khỏi hố tử thần trong tiếng hò reo vang động.
Huyện lệnh Trưng Định trong lòng vô cùng thán phục thần lực của Thi Sách ngoảnh ra bảo vị đồng liêu họ Dương:
– Chúc mừng Dương huynh có được một dũng sĩ sức mạnh vô song! Nhất định sau này, ta phải mời Dương công tử tới chỉ dạy võ nghệ cho các gia tướng mới được.
Trong lúc Dương huyện lệnh nhún nhường nói lời cảm tạ, mọi người chăm chú dõi theo Thi Sách cùng đám tráng đinh đưa hai ông trâu thắng trận ra khỏi hố sâu, không ai kịp thấy bóng một thanh nữ khuôn mặt vô cùng xinh đẹp tới vạch đám đông nhìn như nuốt tấm thân vạm vỡ của vị công tử đất Chu Diên vừa đỏ mặt lẩm bẩm một mình:
– Sức lực kẻ này cũng khá đấy, song đầu óc bên trong còn chưa biết thế nào. Những thứ vũ dũng thất phu trong thiên hạ xưa nay nào có thiếu gì. Ta phải nhắc nhở phụ thân từ từ xét kỹ mới được!
Nói đoạn, thanh nữ xinh đẹp thoắt cái biến mất giữa đám đông vẫn còn đang quây kín reo hò cổ động chàng dũng sĩ vừa trổ thần lực giữa ngày hội xuân náo nhiệt.
HỒI THỨ HAI
Thành Luy Lâu, Tích Quang nhận chiếu lệnh
Rừng Khe Cấm, Thi Sách trổ oai hùm
 
Đường dẫn tới bãi săn Cam Lâm tiếp giáp khu rừng Cấm phải vượt qua hai thung lũng nối nhau có khúc thắt cổ chai vách đá dựng đứng tưởng chừng người ngựa khó vượt qua. Ở những nút thắt đó, đã từ lâu, gia tướng của huyện lệnh cho bạt núi san đường, phát quang cây cỏ, còn cho đắp những ải lũy dày vững phòng mùa động rừng thú dữ ồ ạt kéo xuống phá hoại mùa màng, bắt giết trâu bò gà lợn, thậm chí cả phụ nữ và trẻ nhỏ.
Hơn mười năm trước, Trưng huyện lệnh cho lập ra bốn phường săn đứng đầu là bốn thị tộc lớn trong vùng là Trưng, Man, Hoàng, Bạch vừa để trấn áp thú dữ mùa động rừng vừa săn bắt thuần dưỡng voi rừng cùng chăn thả các loài thú khác. Tập tục bốn thị tộc Trưng, Man, Hoàng, Bạch xưa nay, mỗi thiếu niên đến tuổi trưởng thành ít nhất phải kiếm được bảy cặp sừng hươu, bảy bộ da linh dương, một bộ da gấu thì được gọi là nhất đinh. Nếu không đủ cơ số, tuy vẫn được thụ lễ gia quán (trưởng thành), song chỉ được coi vào hàng bạch đinh phải ở bậc dưới làm phụ dịch. Quy định nghiêm khắc như vậy, song do biết sớm theo các phường săn bủa thú, lại chăm chỉ thuần thục việc đặt bẫy, tìm đường ăn của đám hươu, hoẵng, sơn dương, nên bọn nhất đinh ngày càng đông mà bạch đinh ngày càng ít. Không ít kẻ trong đám nhất đinh còn liên kết nhau, nhiều lần huyết chiến thú dữ, săn được báo gấm, lợn lòi, thậm chí cả ông ba mươi nặng tới mấy người khiêng. Thành thử trong vùng rừng Cấm, việc săn bắn thuần dưỡng thú rừng đã trở thành nền nếp thị tộc quy củ lắm.

Vừa qua ải lũy thứ hai sát mép khu rừng cấm, tiếng tù và của tên gia tướng Trưng huyện lệnh rúc lên liên tiếp ba tràng dài âm i vọng vào hai bên vách đá. Lập tức hai loạt tù và đanh ngắn cất lên đáp lại cũng là lúc ngay phía chân ải lũy, sát ghềnh đá ăn xuống mép dộc sâu cây cối dây leo chằng chịt nhảy thốc ra ba bốn chục tráng đinh nai nịt gọn ghẽ. Đám người ấy, ai nấy đầu chít khăn vải đỏ diềm trắng, mình bận bộ vải chàm dày dặn, chân đi giày da thú, bắp chân, cổ tay nhất loạt quấn sà cạp đỏ viền trắng đều tăm tắp. Trên lưng mỗi tráng đinh đều đeo một bộ cung tên, bên hông ai nấy cài sẵn bao dao quắm thò chuôi dài quấn vải lủng lẳng. Nhìn kỹ dưới mỗi bắp chân, nơi các vòng sà cạp quấn nối nhau đều cài sẵn sáu bảy cặp trủy thủ hằn qua lần vải.
Tiếng tù và còn chưa dứt, đoàn người ngựa của Trưng huyện lệnh còn cách tới hai ba trượng, đội tráng đinh phía trước đã sắp hàng gọn ghẽ nhất tề hô lớn:
- Phường săn Bạch thị xin chờ nghe lệnh!
Trên lưng ngựa, hai cha con Dương Thái Bình, Dương Thi Sách còn đang sững người thầm phục sự nhanh nhẹn thần tốc của đám thợ săn chỉ chưa đầy ba hiệu tù và đã đội ngũ chỉnh tề sắp hàng nhanh như gió, trên mình sẵn sàng cung nỏ, dao quắm, trủy thủ đầy đủ đã thấy Trưng huyện lệnh cất tiếng nói lớn:
- Cảm phiền anh em Bạch thị đã tới sớm! Hôm nay có khách quý, bổn quan gấp quá không báo trước, mong anh em hãy cố gắng bố trí cuộc săn. Ta vẫn theo lệ cũ: ba hươu tính bằng một gấu; hai gấu tính bằng một báo, nhất loạt săn được đều sẽ có thưởng. Còn như rừng vắng thú thưa, chỉ thu hoạch về đám nai, hoẵng ta cũng không trách. Mong anh em gắng giúp bổn huyện ta.
Lời Trưng huyện lệnh còn chưa dứt, giữa đám phường săn đã lập tức bước ra một vị trung niên dáng người thấp đậm, mặt mũi vuông vức, trên khuôn mặt quắc thước còn hằn vết hổ cào từ mí mắt suốt một đường dài qua má xuống bộ râu quai nón rậm rì. Đây chính là chủ phường săn Bạch Uy nổi tiếng từng tay không đánh hổ.
Vị chủ phường săn nghiêm trang nói:
- Bẩm huyện lệnh đại nhân! Nhất định phường săn Bạch thị sẽ giành hết phần thưởng của ngài. Bọn tiền tiêu mới về báo hôm qua, đàn hươu rừng hơn trăm con đang mùa nhú lộc tìm xuống vụng Khe Cấm gấp lắm. Song không hiểu sao, bọn chúng mấy bận đều bật quay trở lại? Có lẽ nào ông kễnh năm nay mới đầu xuân đã mò xuống Khe Cấm? Theo tuần tự hàng năm, phải hết cữ hươu rừng tìm lộc vả, tiếp đến đám voi hoang mùa sinh sản kéo tới đằm nước khe rồi mới đến cữ ông ba mươi tới phục bắt bọn hoẵng tơ là vừa giữa tiết xuân. Có lẽ nào, năm nay bọn hoang thú không còn theo nết cũ?
Vẫn ngồi vững trên lưng ngựa, nghe kỹ từng lời bẩm báo của chủ phường săn, chừng như đã đoán được sáu bảy phần, Trưng huyện lệnh đưa mắt nhìn khắp trước sau, thấy cuộc săn hôm nay hiện diện toàn những tay lão luyện. Bản thân ngài, suốt mấy chục năm, mùa săn nào cũng đích thân dẫn đầu các phường săn Trưng, Man, Hoàng, Bạch in dấu chân khắp các tầng rừng, khe suối, đồi lớn, thung sâu vùng thượng du Mê Linh, rất am hiểu tính nết từng loại thú rừng. Lại hôm trước đã thấy được thần lực của Thi Sách, muốn nhân dịp này thử tài Dương công tử một phen bèn ôn tồn nói:
- Như vậy đích thị là có cọp lớn đang phục mồi ở Khe Cấm rồi. Xưa nay mỗi khi nhú lộc, bọn hươu rừng kỳ nào cũng phải tìm đến Khe Cấm ăn đọt vả uống nước suối vài ngày chúng mới chịu bỏ đi. Nay chúng ba bốn bận phải quay lại, tất là có cọp trắng ở đó rồi. Các ngươi hãy cùng bản quan hôm nay mở cuộc săn cọp nơi Khe Cấm.
Thấy huyện lệnh đại nhân chỉ thoáng nghe đã nhìn nhận rõ cục diện bọn thú rừng, trong bụng chủ phường săn Bạch thị rất khâm phục. Song từ trước tới nay, trong các cuộc săn cọp, thường liên danh ít nhất hai phường săn bèn hỏi:
- Bẩm đại nhân! Có cần gọi thêm phường săn tộc bạn tới hay không?
Sắc mặt không hề biến đổi, Trưng huyện lệnh đanh giọng nói:
- Ta đang gấp việc! Chỉ số anh em đây cũng đủ rồi. Bạch huynh đệ hãy cứ theo cách cũ mà làm. Mọi phân phó, ta cùng số người mới đến nhất loạt xin tuân thủ.
Chủ phường săn Bạch Uy thấy Trưng huyện lệnh đã quyết ý không cần gọi thêm phường bạn nhìn đoàn người mới đến nhẩm tính nhanh một lượt rồi quay về phía các tráng đinh phân phó một lượt. Đối với phường săn họ Bạch, xưa nay quy củ rất nghiêm. Nhất là đối với cuộc săn cọp rừng càng phải phân công chặt chẽ. Tám thợ săn lão luyện được giao vác theo bốn tấm lưới gai lớn khi quây thú dữ phải hết sức nhanh nhẹn, lại biết phục đợi khi cọp quăng mình vồ mồi mới nhất tề tung lưới tránh thương vong. Đã có kỳ gặp phải cọp lớn, hai tấm lưới đầu tiên đều bị mãnh thú xé toang vuột thoát, hai tấm còn lại vừa nhất loạt tung ra bảy, tám thợ săn liên tiếp phóng giáo vào chính giữa đống lưới bùng nhùng mãi mới khống chế được ông kễnh đành phải bỏ mất bộ da cọp do phải giết bằng giáo sắc. Thông thường, khi cọp đã mắc lưới, đám thợ săn dùng gậy gỗ lim vuông hai đầu vạt nhọn luân phiên đánh chết dần để giữ bộ da nguyên vẹn. Khi gặp cọp lớn mới buộc phải dùng gậy chọc mù mắt để chúng mất phương hướng sẽ dễ bề hạ thủ. Phường săn Bạch thị cũng là phường săn được nhiều cọp nhất nơi Khe Cấm trong suốt mười mấy năm liền.
Con đường mòn nhỏ dẫn tới vụng nước Khe Cấm cây cối rùm ròa. Xưa nay, cọp thường ưa chỗ cây thưa vắng chứ không thích ẩn nấp nơi rậm rạp như bọn báo gấm, gấu rừng. Cọp săn mồi ưa thích nhất trong những đêm trăng sáng. Khi đó, bọn hươu nai thường tìm nguồn nước uống đợi đêm khuya mới rón rén kéo nhau ra vụng nước. Chúng dường như đánh hơi được sự nguy hiểm song đành phải liều kéo nhau ra suối thỏa thuê cơn khát nước và đã phải trả bằng giá đắt. Cũng may cọp là loài sát sinh nhưng không phí phạm giết bừa. Bắt được một nai rừng, thường cọp tha tới một nơi cao ráo thoáng đãng đánh chén một bữa thỏa thuê. Phần còn lại, đôi khi là nửa con nai nguyên hai đùi gọn ghẽ, cọp giấu vào một chỗ, phải cả tuần sau mới động đến mặc khúc mồi đã thối rữa vẫn chén ngon lành chứ không giết bừa đám nai tơ ngay trước mắt. Đó cũng là nét khác thường của ngài chúa sơn lâm. Cũng bởi vậy, sau khi bị mất đi một đồng loại, bọn hươu, hoẵng, nai rừng đã chớp thời cơ ùa xuống vụng nước tha hồ uống. Ngay cả đám trâu rừng, gấu ngựa ranh mãnh nhân đó cũng tràn xuống. Cũng may đúng lúc ông ba mươi đã đầy bụng thờ ơ bỏ mặc, bọn thú hoang mới giữ được mạng. Sự sinh tồn nơi rừng núi cũng có quy luật riêng.
Để lại toàn bộ ngựa ngay đầu hẻm núi, nhị vị tù trưởng cùng đôi trai gái Thi Sách và nữ tử họ Trưng mau chóng nhập vào đám phường săn. Luôn từ hôm trước, khi trông thấy Dương công tử xuất hiện, lệnh nữ cũng là con gái đầu lòng Trưng huyện lệnh lúc nào cũng dõi theo chàng thanh niên tuấn tú. Khi nhìn thấy Thi Sách trổ thần lực giúp bọn tráng đinh đưa cặp trâu chọi từ dưới hố đất lên xẻ thịt tế hội, lệnh nữ họ Trưng đã như bị hớp hồn. Được phụ thân cho đi cùng Thi Sách đem thức vật hoa quả tới tổ miếu dâng hương càng khiến tài nữ xao xuyến trong lòng khi tận mắt thấy họ Dương không chỉ có thần lực khác thường mà khí chất rất thanh cao. Chàng ấy vừa biết giữ lễ nghi khoảng cách, vừa chừng mực từ lời ăn tiếng nói tới ánh mắt cử chỉ đều cao nhã càng khiến tài nữ họ Trưng mê mẩn. Như nhìn thấu tim gan đôi trẻ, thi thoảng, nhị vị huyện lệnh đưa cặp mắt tinh sáng nhìn nhau khẽ gật đầu mỉm cười mãn nguyện.
Thấy đôi trẻ cùng tiến tới chọn cặp gậy gỗ lim, Trưng huyện lệnh khen thầm trong bụng. Với các cuộc săn cọp, gậy lim còn đắc dụng hơn giáo mác. Chỉ nhìn cách cầm gậy của Thi Sách, Trưng huyện lệnh biết ngay đây là cao thủ côn quyền. Thi Sách có dáng đi cuồn cuộn như rồng mà nhàn nhã thanh thoát lắm. Bước sát ngay bên cạnh, tài nữ họ Trưng tuyệt không kém chút nào. Trưng huyện lệnh song sinh một cặp nữ tử Trắc nhi, Nhị nhi. Ngay từ tấm bé, tính nết hai nhi nữ đã khác hẳn nhau. Cô chị mạnh mẽ quật cường. Trưng Trắc mười tuổi đã vật thắng nam nhân, mười ba tuổi đã thành thạo cưỡi ngựa bắn tên, mười sáu tuổi thuộc hết thập bát ban võ nghệ, nhất loạt từ đao ngắn, kiếm dài, trường thương, mâu, kích, lao, trùy đều không có địch thủ. Cô em lại khác. Trưng Nhị bảy tuổi đã thạo đánh cờ. Mười tuổi đọc thông kinh sách. Các chước thuật thơ phú, binh thư, luận giải, biện bác đều vô cùng ham học hỏi. Mười lăm tuổi cờ lực đã ngang với sư phụ Đỗ Năng Tế. Mỗi khi luận binh thư chiến giáp đều khiến sư phụ phải giật mình. Hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị mấy kỳ hội xuân gần đây, các giải vật, giải cờ, thi cưỡi ngựa bắn tên đều được xếp vào hàng cao thủ.
Đoàn người nai nịt gọn ghẽ rồi mau chóng lên đường. Chủ phường săn Bạch Uy cùng bốn, năm thợ săn đi trước mở đường. Con đường mòn dẫn tới vụng Cấm cây cối rùm ròa, nhiều cành mọc xiên che khuất tầm nhìn đều bị cánh thợ săn đi trước dùng dao quắm phạt ngọt xớt. Cành cây chỉ khẽ run lên rồi từ từ rớt xuống gần như không gây ra một tiếng động nhỏ. Bỗng phía trước, đám chim rừng kêu loạn bay dáo dác. Tiết trời đang độ xuân hãy còn ẩm thấp, song luôn mấy hôm liền tạnh ráo, mọi thức vật cỏ cây đều sáng rõ. Càng gần tới sát vụng Cấm, nơi có đầm nước rộng do các phường săn hơn mười năm trước kè đắp một con đập đá thấp chắn ngang Khe Cấm khiến nước dâng lên cũng là tạo thành chiếc túi khổng lồ mỗi mùa xuân lùa muông thú tới đó, bỗng thấy dấu chân thú còn rất mới đột ngột dồn ứ lại.
Tiếng chim quang quác càng rộ lên loạn xạ. Đã thấy thập thò trong những vạt cây lúp xúp vài cặp mắt trâu rừng lấp ló. Trong các loài thú hoang, vừa lì lợm vừa bất chấp nhất chính là trâu rừng. Đám trâu đực trưởng thành không chỉ khôn ranh luôn che chắn cho bầy nghé tơ trâu già vào giữa mà còn sẵn sàng tử chiến lúc bị dồn vào đường cùng. Kể cả khi gặp cọp dữ, chúng đều không sợ cứ thế quây tròn vừa luân chuyển xuống vụng nước uống. Nếu buộc phải khai chiến với cọp, trâu rừng ưa thích nhất nơi lầy lội, khe suối. Chúng sẵn sàng ghìm sừng dồn địch thủ xuống nước thà chết không lùi. Không chỉ trên những vách núi vạt đồi, cặp trâu - hổ tử chiến đến chết mưa nắng phơi sương sừng trâu vuốt hổ vẫn quặp chặt lấy nhau, mà ngay ở sông suối lầy lội, cảnh cặp kỳ phùng địch thủ trâu - hổ dìm nhau đến chết dưới bùn cũng không phải là hiếm. Bởi thế, từ lâu dân gian đã truyền nhau câu nói Con nghé mới sinh không kinh con cọp cũng là để nói về tính nết của loài trâu rừng vậy.
Khi đã sắp tới vụng Khe Cấm, đoàn người chợt dừng lại. Để anh em thợ săn tạm sắp đội hình vòng cung đâu đấy, lão chủ phường săn Bạch Uy mới thong thả quay lại bẩm báo với Trưng huyện lệnh:
- Bẩm đại nhân! Chắc chắn phía trước nơi vụng Cấm ông cọp có ở đấy rồi. Xin huyện lệnh đại nhân hãy sắp đặt mọi việc!
Vị huyện lệnh nhìn nhanh một lượt rồi bình tĩnh nói:
- Bạch huynh đệ! Đúng là cơ hội tốt. Lão phu đang muốn tặng Dương công bộ da cọp. May được cọp trắng thì càng tốt. Tuyệt không được làm hỏng bộ da quý của lão phu mới được.
Nói đoạn, vị huyện lệnh họ Trưng như đã nhập đồng vào cuộc săn tự lúc nào. Ông rảo bước tới phía cánh thợ đang xếp đội hình vòng cung hướng về vụng Cấm mệnh lệnh:
- Các anh em! Cuộc săn cọp hôm nay, ta có ba điều kiện. Thứ nhất, tuyệt không để cho ông kễnh đào thoát sang bên kia Khe Cấm. Vậy phiền bốn vị đây hãy vòng sang hẻm khe phía trước đốt lửa chốt chặn ở đó. Đống tre luồng lần trước chuẩn bị, các vị cứ đốt thật to lên. Ta đem sẵn ít pháo tay giao bốn vị, nếu ông cọp vượt vụng nước xông bừa sang, lập tức đốt pháo ném thẳng vào mặt cọp sẽ sợ hãi mà không dám vượt Khe Cấm.
Bốn lão thợ săn dường như đã thành thuộc việc này lập tức vâng dạ rời đi.
Trưng huyện lệnh lại khẩn trương nói:
- Cuộc này vẫn theo lệ cũ, lại phải phiền tới Bạch huynh đệ yểm trợ cho lão phu rồi. Cũng đã lâu không được thử chút gân cốt, ta trong người cũng ngứa ngáy lắm.
Lão chủ phường săn họ Bạch lập tức lên tiếng:
- Huyện lệnh đại nhân! Hôm nay có khách quý, lẽ nào ngài lại muốn thân chinh hàng phục thú dữ? Hãy để Bạch mỗ đi đầu cùng anh em phường săn Bạch thị lập công một lần không được hay sao? Xin hứa với đại nhân, sẽ tuyệt không dùng tới đao kiếm làm hỏng thức quà của đại nhân đâu.
Hai vị huyện lệnh, chủ phường săn còn đang giành nhau đi trước hàng phục thú dữ, bỗng phía sau tiến lên một vị công tử cao lớn uy phong, hai tay cầm chắc cây gậy gỗ lim lớn vạt nhọn tiến tới nâng cao ngang mày nói:
- Thưa huyện lệnh cùng lão chủ phường săn! Thi Sách vẫn nghe nói sấu thần đầm Dạ Trạch, cọp trắng đất Mê Linh xưa nay đều là ác thú ăn thịt người. Đám cá sấu đầm Dạ Trạch luôn mấy năm nay hậu bối đã cho bắt sạch rồi. Từ trước vẫn mong có ngày đích thân hàng phục một ông kễnh ở rừng Cấm đất Mê Linh, nay đúng là một cơ hội tốt. Hậu bối xin với huyện lệnh và lão chủ phường săn cho được toại nguyện mong ước của mình.
Lão chủ phường săn Bạch Uy còn đang ngây người ngắm vị dũng sĩ đầm Dạ Trạch mình cao tám thước, mặt vuông mắt sáng, vai rộng eo thon, bước đi cuồn cuộn, nghe nói hôm trước một mình một vế chấp bảy, tám tráng đinh khiêng hai ông trâu từ dưới hố sâu lên nhẹ nhàng như không còn chưa kịp mở miệng đã thấy bóng một thanh nữ lướt về phía trước cũng hai tay nâng gậy lim nói:
- Bẩm phụ thân cùng lão Bạch! Đất Mê Linh ta đâu đã hết người lại phải phiền tới Dương công tử đây? Tiểu nữ tuy bất tài, xin được tiên phong hàng phục cọp dữ. Nếu có bề gì quyết không hối hận. Xin phụ thân cùng lão Bạch hãy nhường bước cho con!
Lão chủ phường săn họ Bạch lại lần nữa sững người như không tin vào tai mình. Dẫu vẫn biết xưa nay, trưởng nữ của Trưng huyện lệnh tính tình táo tợn, các môn võ vật côn quyền đều vượt xa cánh đàn ông, song dù gì cũng là lá ngọc cành vàng của Trưng thị, tuyệt không để xảy ra sơ suất được. Lại thấy vị trưởng nữ mình cao hơn bảy thước, mắt phượng mày tằm, uy nghi cân quắc, một tay cầm gậy lim bóng loáng, một tay chắp trước ngực như nửa đóa sen hồng vừa mềm mại vừa dũng mãnh, trong bụng họ Bạch càng không biết phân xử ra sao chỉ biết trố mắt đứng nhìn.
Bỗng phía sau, một tràng cười cất lên sảng khoái.
Mọi người nhìn ra thì chính là vị huyện lệnh đất Chu Diên.
Dương huyện lệnh bước đến thong thả nói:
- Trưng huynh! Lão Bạch thị! Các vị huynh đệ phường săn! Thật là hiếm có cuộc săn nào được như hôm nay, tiền bối hậu bối đều muốn trổ tài khuất phục thú dữ. Theo như chỗ lão phu thấy, hay là hãy để đôi trẻ trổ tài, ta cùng nhị vị lẽ nào tiền bối tranh hơn với hậu bối. Lão phu vẫn nghe đồn trưởng nữ của Trưng huynh là bậc kỳ tài, không chỉ thi thư kinh sách làu thông mà đường cung kiếm đều khiến nam nhân bái phục. Vậy ta có đôi lời, xin Trưng huynh cùng lão Bạch thị hãy để cho bọn chúng cùng toại nguyện mong muốn của mình.
Huyện lệnh Trưng Định cũng lập tức cười vang sảng khoái:
- Dương huynh quả là cao kiến! Ta nay giao việc hàng phục thú dữ cho hai con. Các con chớ có khinh suất mà làm xấu mặt cánh già bọn ta mới được.
Được lời như cởi tấm lòng, song với bản tính con nhà võ, hai vị công tử công nương lập tức nhận ra tình thế không thể khinh suất của mình, lập tức trang nghiêm thận trọng nhìn khắp một lượt chòm cây ngọn cỏ phía trước con đường ăn xuống vụng Cấm, nơi ông cọp đang ẩn phục rình mồi rồi nhất tề cất bước. Đám thợ săn nhìn đôi trai gái thoắt cái đã trở thành đội tiên phong hàng phục thú dữ không khỏi thầm khâm phục. Cuộc đi săn cọp dữ buổi đầu xuân nơi Khe Cấm bỗng chốc trở nên thú vị khác thường.
Đôi trai gái dẫn đầu toán thợ săn vừa đi được độ bảy, tám chục bước bỗng phía trước chòm cây xao động. Nhanh như chớp, trưởng nữ họ Trưng rút soạt bộ cung tên luôn đeo phía sau giương căng hết cỡ. Mũi tên xoẹt nhanh như sao đổi ngôi khiến Dương công tử cả kinh còn nghĩ thầm trong bụng người đâu nóng nảy lạ thường chỉ thích tranh công. Trưng huyện lệnh đã dặn không được dùng cung tên gươm giáo ứng phó thú dữ, chưa gì đã tranh chấp tiên cơ bắn bừa bèn buột miệng bảo:
- Trần đời ta chưa thấy ai săn cọp bắn tên từ xa cả. Cô nương thật khiến tại hạ phải hồ đồ rồi!
Thấy vẻ mỉa mai châm chọc của kẻ đồng hành, trưởng nữ họ Trưng cũng không chịu lép vế:
- Ngươi có mắt hay không mà đã sớm mắng bản cô nương hồ đồ? Bọn hoẵng tơ háu ăn còn nhanh hơn sóc đâu có ngu ngốc như cặp trâu chọi hôm trước để ngươi cậy khỏe khiêng vác lên đâu? Từ đây tới vụng Cấm phải bốn, năm trăm thước nữa rồi sẽ tha hồ cho ngươi trổ tài.
Nói đoạn, người đẹp hứ một tiếng rồi rảo chân bước thẳng về lùm cây phía trước.
Quả thực, một chú hoẵng tơ chừng ba, bốn mươi cân trên cổ mang mũi tên xuyên máu rịn ra khoang gáy trắng đang giãy giụa kêu la thảm thiết.
Thi Sách không khỏi kinh động trước tài bắn cung của người đẹp vừa mắng mỏ mình bèn thán phục nói:
- Tại hạ thật khâm phục tài bắn cung của cô nương. Trăm bước xuyên cổ hoẵng giữa lùm cây trong chớp mắt quả là thần tiễn. Xưa nay, bắn những vật bất động trăm thước đã là không dễ. Tại hạ hôm nay đã được mở rộng tầm mắt rồi!
Thấy kẻ đồng hành đã tỏ lời khâm phục, song trưởng nữ họ Trưng cũng chỉ hứ một tiếng cất bộ cung tên vào sau vai như cũ rồi nhanh nhẹn xách gậy bỏ mặc chú hoẵng đã chết còn trợn trừng mắt cứ thế tiến về phía vụng Cấm.
Công tử họ Dương hiểu thử thách chính đang còn ở phía trước nên cũng không dám nói nhiều lập tức sấn bước theo sát mũi tên thần.
Cả hai tiến thêm hơn trăm thước nữa, bỗng thấy phía trước là một bãi đất thoáng rộng có tới ba, bốn gốc sung, vả lớn, thân cây loằng ngoằng gốc rễ sần sùi nghiêng đổ. Kề ngay sát là một vụng đầm nước lúp xúp nổi rõ một phiến đá lớn lởm chởm giữa bốn bề nước bạc. Thi Sách quét nhanh cặp mắt, còn chưa xem xét hết xung quanh bỗng thấy phía trước nhoang nhoáng một bóng trắng từ thân cây đổ nghiêng chụp thẳng vào kẻ đồng hành đang cách đó bảy, tám thước.
Một tiếng gầm vang động khe vụng Cấm.
Chim chóc hươu hoẵng nhất loạt kêu ré đập cánh loạn xạ bay nhảy thốc lên.
Thi Sách thất kinh nhìn về phía trước không khỏi rùng mình trước bóng cọp trắng từ thân cây đổ trên cao dụng chiêu độc tung mình vồ bắt địch thủ. Dường như mãnh hổ tưởng chỉ một chiêu đã có thể ăn tươi nuốt sống đoạt mạng nữ nhân.
Loài cọp trắng khi đã biết lợi dụng cây đổ để vồ phục con mồi thường rất ranh mãnh như đã thành tinh vậy.
Chỉ nghe tiếng ruỵch rất lớn, bóng người phía trước thần tốc rạp mình nghiêng sang một bên rồi nhanh như chớp lăn ngược hướng cọp dữ bắt mồi.
Thi Sách vừa kinh động vừa thầm phục cú thoát thân hiểm nghèo của trưởng nữ họ Trưng.

Vốn rành rẽ thói săn mồi của cọp qua nhiều năm theo các phường săn mùa động rừng, trưởng nữ họ Trưng rất hiểu cuộc bắt cọp này không chỉ tạo thêm uy thế cho Trưng thị, mà chính là cuộc sinh tử nên không dám một phút lơ là. Dẫu như thế, cũng không thể ngờ cọp trắng nấp sẵn trên cây một chiêu đoạt mạng nên có đôi chút bất ngờ. Hiểu ra cơ sự, may mà còn kịp bất chấp đá hộc lởm chởm ngã rạp xuống như chớp cứ thế lăn ngược hướng vồ mồi của mãnh thú thoát hiểm trong gang tấc. Dẫu vậy, cọp trắng cũng kịp vồ trúng bộ cung tên khiến chúng bật văng ra.
Nhanh như chớp, Trưng Trắc vùng đứng dậy lăm lăm gậy gỗ lim thủ thế.
Cũng nhanh không kém, sau cú vồ trượt, cọp trắng quành đuôi lượn tấm thân như sóng hướng về phía đối thủ lại gầm lên một tiếng kinh động nữa.
Như hiểu được địch thủ không phải loại vừa, sau tiếng gầm kinh động núi rừng, cọp trắng thay vì đập đuôi tung người vồ bắt như thông lệ lại thận trọng hạ thấp mình từng bước về phía con mồi.
Rất nhanh, Thi Sách nhẹ nhàng không một tiếng động bám theo cọp trắng từ phía sau.
Phía trước, trưởng nữ họ Trưng cặp mắt sáng quắc như vị nữ thần tướng nhìn thẳng vào cọp trắng.
Tới gần con mồi, bắt đầu cọp trắng đột ngột dựng đứng người, giơ hai tay táp táp vào không khí, miệng há hốc đỏ lòm, đầu lắc lư như chỉ cần dậm dọa đã khiến con mồi chết khiếp.
Quả là một cảnh tượng vô cùng hiếm có trong các cuộc săn cọp xưa nay.
Tình thế quả thực tiến thoái lưỡng nan với trưởng nữ họ Trưng. Nếu vác gậy xông bừa tử chiến cọp dữ ắt lưỡng bại câu thương, bởi loài cọp tinh ranh đến độ đứng bằng hai chân sau như người bình tĩnh dậm dọa đều ranh mãnh khôn lường. Chúng sẽ đợi con mồi hoảng loạn lao bừa sẽ ôm xiết dùng đòn ngoặp chí mạng vào cổ họng cứ thế ngậm chặt để máu con mồi ộc ra sẽ cứ thế hút cạn đến khi chết cứng mới thôi. Loài cọp thích nhất máu tươi của người càng gây kinh khiếp cho con mồi ở thế đường cùng.
Tình thế càng lúc càng khẩn trương.
Đảo nhanh cặp mắt về phía sau, trưởng nữ họ Trưng thấy Thi Sách đã bén sát sau lưng mà cọp trắng vẫn không hề hay biết trong bụng càng thêm vững quắc mắt nhìn thẳng cọp dữ không rời hai tay nắm chắc cây gậy gỗ lim nhọn hoắt thủ thế. Thấy địch thủ bất động thú dữ cũng chưa dám xông lên. Hai bên cứ thế hầm hè như thử lòng gan dạ của nhau. Không khí như đông cứng lại.
Bất đồ một tiếng thét lớn vang lên. Từ phía sau vài thước, bất thình lình Thi Sách tung người vung cao cây gậy lớn nhè thẳng đầu cọp trắng giáng xuống một đòn sấm sét. Quá đỗi bất ngờ, cọp trắng vừa kịp xoay mặt ngoái nhìn đã lĩnh trọn một đòn chí tử. Đường gậy của chàng dũng sĩ đất Chu Diên nặng tựa ngàn cân lại đang lúc muốn ra oai cứu người đẹp thành thử càng hiểm hóc. Bốp một tiếng lớn. Một bên mặt cọp trắng như lệch hẳn đi. Thú dữ loạng choạng xoay nghiêng hơn nửa vòng vừa gầm lên một tiếng đã thấy một bên mắt, màng tang và khóe miệng máu bắt đầu nhỏ giọt.
Không chịu kém cạnh, trưởng nữ họ Trưng cũng lập tức thét lên một tiếng lanh lảnh nhằm lúc cọp dữ loạng choạng xoay nghiêng giáng thẳng một đòn vào phía mặt còn lại của thú dữ. Như bừng tỉnh trước đường gậy thần tốc của Thi Sách, Trưng Trắc tung đường gậy hiểm còn như có ý ngầm rằng ta đây nào kém gì ngươi. Như hiểu được cơn tự ái của bọn nhi nữ, Thi Sách lập tức thu gậy như có ý nhường để trưởng nữ họ Trưng trổ tài.
Cọp trắng sau hai đòn phủ đầu choáng váng như hiểu được sự ngặt nghèo sinh tử đang kề cận bất chấp máu tai máu mắt rỏ ròng ròng vẫn ngoác miệng gầm lên lao thẳng vào kẻ vừa đánh bồi mình.
Trưởng nữ họ Trưng thoắt đảo tay gậy lia ngang một đòn thẳng vào giữa cái miệng đang ngoác ra lởm chởm.
Đường gậy đi đã nhanh song thú dữ còn nhanh hơn cứ thế há miệng đớp thẳng thân gậy ngậm chặt rồi vùng mạnh một cái. Sức thú ở bước đường cùng mạnh tợn đã hất văng Trưng Trắc ra xa mà miệng cọp vẫn như hai gọng kìm ngậm cứng cây gậy vừa tấn công mình.
Thi Sách cả kinh trước thần lực mãnh thú lập tức thét lên một tiếng xông thẳng tới liên tiếp vung ra mười mấy đòn sấm sét vào lưng, sườn, hai chân sau cọp trắng. Ông cọp đã bắt đầu thở ò è nhè ra cây gậy nơi miệng đã đỏ lòm máu rồi bất ngờ lao thẳng xuống vụng nước hòng thoát sang phía bên kia Khe Cấm. Cũng lúc đó, đám thợ săn đã kịp ùa đến hô hét vang trời. Phía bên kia Khe Cấm, đống lửa đã được đốt lên cháy rừng rực. Những ống luồng lớn bắt lửa nổ đôm đốp chính là âm thanh khiến loài cọp kinh sợ nhất. Vừa liều chết bơi được vài chục thước vừa đảo mắt tìm chỗ vách đá thoai thoải thoát thân bỗng đâu mười mấy quả pháo tay từ trên vách Khe Cấm ném thẳng vào mặt cọp nổ ùng ùng làm nước bắn tung tóe khiến thú dữ kinh hãi bơi ngược trở lại liều chết tót lên gò đá lởm chởm.
Tiếng hò hét vang lên dần khép lại mỗi lúc một gần.
Trên gò đá cọp trắng thở hồng hộc tia mắt vằn lên nhìn khắp bốn phía.
Nhị vị huyện lệnh cùng lão chủ phường săn Bạch Uy đều đã áp sát thềm đất cách gò đá trơ trọi trên vụng nước hơn mười thước.
Nhìn nhanh một lượt, như đã hiểu hết sự tình, lại thấy Trưng Trắc tay không văng đâu mất gậy có vẻ sượng sùng, phía bên kia Thi Sách sau loạt đòn đả cọp thần sắc oai phong đoán chắc cặp nam nữ vừa liên công hàng phục mãnh thú mới được năm sáu phần. Song khi nhìn ra gò đá thấy ông cọp trắng khổng lồ dài tới ngót một trượng giờ đã ngấm đòn bê bết máu ai nấy đều kinh sợ. Xưa nay, mỗi khi săn cọp, các phường săn thường phải đào những hố sâu, bên dưới cắm chông tre đực dày đặc, lại cho thả nai tơ, nghé non xuống dưới làm mồi nhử ông kễnh sập bẫy mới hòng bắt được. Nay đôi nam nữ chỉ bằng vào hai cây gậy đã đả bại cọp trắng khổng lồ to hơn trâu mộng thật ghê thay thần lực và dũng khí trước thú dữ.
Phía bên kia Khe Cấm, lửa càng cháy to, những ống luồng nổ đôm đốp tàn tro bay lả tả.
Trên gò đá, cọp trắng gom sức lực xoay nhìn bốn phía song hai chân sau và đám xương sườn đã bị gậy thần Thi Sách đả thương nặng nề bây giờ không còn theo sự điều khiển của mãnh thú nữa.
Đám thợ săn lập tức vác tới sáu tấm lưới lớn đặt xuống sát mép nước. Ước lượng khoảng cách rồi khẽ lắc đầu ý chừng không thể từ bờ quăng lưới tới gò đá bắt cọp. Nếu cứ lội bừa sang ắt chưa biết lành dữ ra sao. Còn đang lúng túng bỗng thấy bóng một người nhún chân vụt chống gậy xuống đất tung người nhảy phắt sang chính giữa gò đá nơi cọp trắng đang ngoắc miệng ngầm ghè.
Mọi người cả kinh nhìn sang đó chính là Thi Sách.
Ai nấy còn đang lắc đầu lè lưỡi trước sự liều lĩnh của chàng trai đất Chu Diên đã thấy tiếng gậy vang lên bôm bốp, tiếng cọp lịm dần. Trên gò đá nơi vụng nước Khe Cấm, một cảnh tượng kinh hoàng đã diễn ra, Thi Sách hai tay nắm chắc cây gậy như vị thần tướng nhà trời loang loáng giáng những đòn chí tử vào đầu, vào mặt, màng tang thú dữ. Đôi chân trước mãnh thú mới đầu còn giơ lên đỡ gậy chỉ thoáng cái đã gãy lìa sụm xuống. Khi đám thợ săn hè nhau vác lưới lội sang sáp sát gò đá đã thấy Thi Sách một chân giẫm cứng lên giữa mình cọp trắng bây giờ chỉ còn là một cái xác.
HỒI THỨ HAI (PHẦN 1)
Thành Luy Lâu, Tích Quang nhận chiếu lệnh
Rừng Khe Cấm, Thi Sách trổ oai hùm
Đại điện thành Luy Lâu buổi sáng.
Đang dịp đầu xuân, vẫn theo tập tục từ trước, Thái thú Tích Quang năm nay đã trên sáu mươi tuổi trên ba mươi năm trị nhậm đất Giao Chỉ chừng đã quá thuộc vùng đất phương Nam. Nhớ ngày mới xuống Luy Lâu hãy còn đầu xanh tuổi trẻ mà nay râu tóc đã bạc tới quá nửa. Trong số hơn tám mươi quan viên, gia tướng, mưu thần theo ngài đến Giao Chỉ, tới nay đã quá nửa nằm lại vùng đất xa xôi. Bốn vị trí tướng quân trấn Tây doanh, trấn Đông doanh, trấn Nam doanh, trấn Bắc doanh đã ba lần luân đổi và lần gần nhất hai năm trước do đích thân Hán Vũ đế giao xuống theo đường biển còn tăng thêm mỗi doanh sáu trăm quân. Ngày các tướng Sầm Lân, Sầm Bá, Độc Cô Tần, Lữ Thạch vốn là các đô tướng trẻ từng theo Phục Ba đại tướng quân Mã Viện bình định Hung Nô đột nhiên được Hán Vũ đế chỉ định gọi về cho xuống Giao Chỉ cũng là ý ngầm của thiên tử soi chiếu vùng đất phương Nam. Luôn mười mấy năm giao tranh với các quần hùng Trung Nguyên, Hán Vũ đế muốn tìm nguồn tài lực, đồng sắt, thóc gạo nơi xưa kia Triệu Đà từng đóng quan tuyệt giao với phương Bắc để xưng hùng xưng bá. Hôm bốn tướng Sầm Lân, Sầm Bá, Độc Cô Tần, Lữ Thạch tới các doanh nhậm chức, đích thân Thái thú Tích Quang đã phải giao cho Châu mục Đặng Nhượng đem rượu ngon dê béo tới khao thưởng còn hướng về phía Bắc lạy vọng tạ ơn Hán Vũ đế. Thái thú họ Tích ngầm hiểu rằng, sớm muộn gì, Hán Vũ đế cũng cho người xuống thay, bèn cùng Đặng Nhượng làm tờ biểu dâng về triều kể lể mình bệnh tật già lão xin trở về mẫu quốc. Kể từ lúc ấy, Thái thú Tích Quang, Châu mục Đặc Nhượng không còn thiết tha gì tới việc trị nhậm nữa, càng buông bỏ cho đám huyện lệnh được tự đắc ý.
Trong ngôi đại điện buổi nghị sự đầu xuân, hai hàng văn võ lục tục tiến vào bên trong chia theo thứ tự. Chính giữa điện đặt chiếc ngai bọc da hổ đã có từ hai đời Thái thú tiền nhiệm. Nghe đồn, chiếc ngai cũng là một vật thiêng từng xảy ra chuyện mấy tên lính khác điện đời Thái thú trước, nhân lúc vắng vẻ đã ngồi bừa lên lập tức tối tăm mặt mũi ngã vật xuống bán thân bất toại. Câu chuyện hư thực chưa biết ra sao xong đến đời Tích Quang đã cho đóng một hộp gỗ niêm phong, chỉ những lúc nghị sự đông đủ văn võ bá quan ngài mới cho mở ra và trang nghiêm ngồi trên đó.
Hai hàng văn võ đã đông đủ bên dưới, Thái thú Tích Quang từ hậu điện thong thả bước ra. Hôm nay ngài vẫn bộ đại trường bào màu tía thêu hổ phù, lưng thắt đai ngọc xanh, đầu đội mũ Thái Công mười múi màu đen khía đỏ tượng trưng cho mười huyện của đất Giao Chỉ được phân quản hạt. Chân ngài đi giày vải đỏ thêu kỳ lân phong thái ung dung tiến thẳng ra chiếc ngai Thái thú đã được kê vững vàng nơi chính điện. Cùng lúc đó, hai hàng văn võ nhất loạt hô lớn:
- Cung chúc Thái thú đại nhân an khang!
Thong thả ngồi vững trên ngai nơi chính điện, đưa tay chỉnh bộ trang phục nhìn khắp một lượt xuống phía dưới, vị Thái thú Giao Chỉ cất giọng phủ dụ:
- Các vị đại nhân, các vị tướng quân hãy bình thân! Ngày xuân năm mới, lão phu đây chân thành chúc các vị đầu xuân thêm tuổi, tăng lộc phát tài, cùng lão phu hết lòng hết sức hầu hạ hoàng thượng mới không phụ ơn đức mưa móc của Hán triều.
Hai bên văn thần võ tướng chia nhau lục tục ngồi xuống.
Mọi người đã trang nghiêm đâu đấy, ngài Thái thú thong thả cất tiếng:
- Các vị đại nhân, các tướng quân. Trong buổi nghị sự hôm nay, trước tiên lão phu thông báo với mọi người, chiếu chỉ của hoàng thượng đang trên đường tới Luy Lâu. Thám mã đi trước sớm thông đạt với lão phu, hoàng thượng đã dẹp tan bọn quần hùng nổi loạn, đang chọn ngày lành tháng tốt để yên định đế vị, đại xá thiên hạ, luận công ban thưởng, phong vương tước, đất đai cho các vương hầu tướng lĩnh khắp trong ngoài cõi Trung Nguyên. Hoàng thượng huân công võ đức quả là không kém gì Cao tổ ngày trước, là bậc thánh đế để chúng ta cúc cung hầu hạ. Nay, ta tuy ở xa không thể phút chốc đến lạy mừng, nhưng không giây phút nào không hướng về phương Bắc cầu chúc Vũ đế thiên thu vạn đại, thống thuộc bốn cõi, xứng ngôi thiên tử Đại Hán. Các vị văn thần võ tướng hẳn đều đã hiểu thấu lòng ta. Ta nay đã ngoài sáu mươi, già cả lú lẫn, đã dâng biểu xin hoàng thượng cho thôi chức về quê, chỉ nay mai chiếu lệnh sẽ tới. Chỉ tiếc rằng ta không phụng sự Hán triều nhiều hơn được nữa. Đó cũng là nỗi khổ trong lòng từ bấy lâu nay.
Văn thần võ tướng trên điện thấy lão Thái thú nói luôn một mạch, từ việc chuẩn bị đón chiếu lệnh của hoàng đế tới tâm sự riêng trong lòng ai nấy đều xúc động. Hơn ba mươi năm kiêm quản chức Thái thú Giao Chỉ, kỳ thực không ít lúc, Tích Quang đã phải ngồi trên hố gai miệng vực của miệng lưỡi thế gian. Cũng may xung quanh ngài còn có Châu mục Đặng Nhượng và nhất là Thái thú Nhâm Diên đất Cửu Chân, những bậc trí giả thức thời đã mềm mại uyển chuyển vừa dẫn dắt chúng dân Giao Chỉ, Cửu Chân, vừa gom góp tài vật dâng cúng về phương Bắc. Bốn năm trước, Hán triều trong lúc bốn bề thọ địch đã cho gọi Nhâm Diên về Bắc giữ chức trọng thần trong triều. Khi trở về tới Luy Lâu ghé thăm Tích Quang cũng là bậc sư huynh từng tiến cử họ Nhâm đã cùng nhau hàn huyên luôn sáu bảy ngày. Họ Nhâm kiến nghị Thái thú Giao Chỉ, Cửu Chân bất luận là ai đều phải lấy yên ổn của chúng dân làm gốc, tuyệt không tham tàn, hiếu sát, nhất là việc động binh càng phải tránh xa mới chính là gốc đức giáo hóa cũng là giúp các hoàng đế phương Bắc tạo ân uy xuống phương Nam. Thái thú Tích Quang trước sau vẫn coi Nhâm Diên là bậc hiền tài và việc họ Nhâm hơn hai mươi năm cai quản Cửu Chân đã được dân chúng lập đền thờ sống chính là tấm gương thanh liêm của vị quan phương Bắc ở phương Nam vậy. Các văn thần võ tướng ở Luy Lâu ai cũng thầm khâm phục tài đức Nhâm Diên đồng thời cũng hiểu thấu tâm tư của Thái thú đại nhân Tích Quang. Đối với vùng đất phương Nam, nếu phương cách trị nhậm hà khắc bạo tàn tức là sai một li đi một dặm sẽ lửa cháy máu chảy đầu rơi miên man không dứt. Đây cũng là nguyên tắc, đại kế mà mỗi vị Thái thú, Thứ sử, Châu mục người phương Bắc thường xuyên ngầm căn dặn lẫn nhau.
Trong không khí trang nghiêm ắng lặng, bỗng nơi hàng đầu sát ngai Thái thú, một vị đại quan thong thả đứng dậy chắp tay thi lễ khắp bốn phía. Người đó mặt vuông trán rộng, vóc người cao to vạm vỡ, chòm râu xoăn tít rậm rạp đã bạc tới ba bốn phần càng thêm vẻ quắc thước tinh anh. Đó chính là Châu mục Đăng Nhượng, vị quan Tổng trấn thành Luy Lâu kiêm quản bốn doanh: trấn Đông doanh, trấn Nam doanh, trấn Tây doanh, trấn Bắc doanh cũng là đứng đầu bọn Sầm Lân, Sầm Bá, Độc Cô Tần, Lữ Thạch. Khi ấy, Giao chỉ vẫn đặt chức Châu mục riêng với Luy Lâu đất kinh thành, còn các nơi khác như Mê Linh, Chu Diên, Câu Lậu, Bắc Đái, Khúc Dương, An Định, Kê Từ, Tây Vu, Long Uyên đều chỉ đặt chức huyện lệnh thấp hơn một cấp. Trong khoảng thời gian ấy, cũng chỉ có Luy Lâu mới đặt các doanh quân, còn các vị huyện lệnh trong cõi Giao Chỉ mỗi nơi chỉ cho phép sắp đặt một trại lính không quá năm trăm quân, còn phải chịu sự tiết chế giám sát chặt chẽ của Châu mục Đặng Nhượng.
Châu mục Đặng Nhượng thi lễ khắp bốn phía xong cất giọng nói:
- Bẩm Thái thú đại nhân! Thưa các vị tướng quân cùng các vị đồng liêu. Bản tướng vâng mệnh Hán triều xuống Giao Chỉ giúp rập việc binh lương thuế khóa cho Thái thú đại nhân cũng đã gần ba mươi năm chưa về mẫu quốc. Ở nơi xa xôi vạn dặm, tại hạ cũng như Thái thú đại nhân chưa lúc nào nguôi hướng về phương Bắc, nơi có phần mả tổ tông Đặng thị. Ngay đến hai đứa con của tại hạ sung quân vào tứ doanh đã không chịu nổi cảnh rừng thiêng nước độc mà mất sớm cũng là phục vụ Hán triều. Nay bốn tướng Sầm Lân, Sầm Bá, Độc Cô Tần, Lữ Thạch mới sang kiêm quản tứ doanh, đây cũng là cao ý của hoàng thượng chuẩn bị nền tảng để vị Thái thú đại nhân mới siết chặt lại quy củ đất Giao Chỉ, Cửu Chân, thâu gom tài lực, khai mỏ đồng sắt, gom binh trữ lương, vận chuyển về Trung Nguyên cũng là thuận lẽ trời. Bản tướng trước đã liên danh cùng Thái thú đại nhân gửi bản tấu về triều đình, xin hoàng thượng miễn nhiệm chức Châu mục để được yên hưởng tuổi già. Nhân đây có đông đủ các vị tướng quân, các vị đồng liêu, lão phu bộc bạch đôi lời, cũng là gửi lời chào tới các vị. Mong các vị hãy cảm thông cho!
Châu mục Đặng Nhượng nói tới đâu, ai nấy đều xúc động. Trong hàng ngũ quan văn đã có vị sụt sịt rơm rớm nước mắt. Quả thực họ Đặng luôn mấy chục năm cúc cung tận tụy, không kể công việc rèn binh ở bốn doanh, mà ngay các việc đôn đốc thuế khóa, ứng phó thiên tai dịch bệnh, trưng tập lương thảo, vận chuyển gỗ đá, sửa sang thành trì đều không từ nan, rất được binh tướng bốn doanh và các vị huyện lệnh trong nước tin phục. Chỉ riêng việc khi có tin báo huyện lệnh Chu Diên họ Dương cho phép con trai lập đội thương thuyền cũng là những hải thuyền lớn rong ruổi bốn biển đã tiềm ẩn mầm loạn, song Đặng Châu mục khi được Thái thú hỏi đến đã cho rằng đó cũng là việc tốt, là điềm báo thịnh trị của đất Giao Chỉ. Nếu khe khắt trừ bỏ, ngăn sông cấm chợ cấm, tuyệt đường thủy bộ giao thương chỉ là tự đóng cửa chết mòn và đói nghèo mãi mà thôi. Tích Quang trong bụng thầm khen Đặng Châu mục là bậc hiền thần nhìn xa trông rộng, dám bỏ đi sự hà khắc hủ lậu không cần thiết của Hán thất mà phóng khoáng cảm hóa người phương Nam bằng cách thức riêng. Chỉ riêng chuyện ấy, khi đám huyện lệnh trong cõi Giao Chỉ biết được đã vô cùng khâm phục Đặng Nhượng.
Trong đám quan văn tại vị, mười bảy người thì có tới sáu bảy vị xuất thân người bản địa ở các vùng Câu Lậu, Long Uyên, nhất là đám nha lại trong thành Luy Lâu có khoảng thời gian dài làm việc sổ sách văn tự với Châu mục Đặng Nhượng đều phục họ Đặng không chỉ bụng dạ rộng rãi mà còn có trí nhớ kỳ tài. Có những trận bão lụt phải cứu tế, tới khi trở về sổ sách ngấm nước đều mục nát cả, vậy mà họ Đặng đã đọc vanh vách từng khoản để đám quan văn biên chép lại khiến các văn thần rất cảm động. Thấy hai vị đại nhân Thái thú, châu mục, kẻ trước người sau giữa đại điện Luy Lâu đều khẳng khái xin từ nhiệm, ai nấy đều trong dạ bâng khuâng.
Bên hàng quan võ, dường như có phần bộc trực thẳng thắn hơn, đô Thiên tổng đứng đầu trấn Tây doanh là Độc Cô Tần khẳng khái đứng ra tâu:
- Bẩm Thái thú đại nhân! Châu mục đại nhân! Tiểu tướng mới quản lĩnh Tây doanh được hai năm, đều thấy trong quân rất nghiêm, uy danh của Châu mục đại nhân khiến anh em binh lính cảm phục mà theo, bởi vì thế quân lệnh đưa ra đều thông suốt, trên dưới một lòng. Nay nhất loạt hai vị đại nhân đều xin từ nhiệm, dẫu còn chưa biết hoàng thượng có ân chuẩn hay không, song trong quân ắt sẽ chống chếnh nhiều phần, mong Châu mục đại nhân hãy lán lại thêm vài năm chỉ bảo cho các tướng mới đến cũng là vì sự vững mạnh của Hán triều ta vậy.
Trấn Tây doanh Độc Cô Tần vừa nói xong, trấn Đông doanh Sầm Lân cũng lập tức khẳng khái đứng ra nói:
- Bẩm Thái thú đại nhân! Châu mục đại nhân! Tiểu tướng từ bé ở trong quân ngũ dưới trướng của Phục Ba tướng quân, cứ tưởng dưới gầm trời này chỉ có ngài ấy mới quân lệnh như sơn, quân tâm đồng quy một hướng, tướng sĩ trên dưới như anh em ruột thịt, thật không ngờ khi được xuống đây quản lĩnh trấn Đông doanh, mới biết Châu mục đại nhân không chỉ có tài làm tướng mà đức hạnh rất cao, khiến binh lính sẵn sàng vào nơi nước lửa không tiếc xương máu của mình. Chính bởi uy phong thực lực tứ doanh Đông, Tây, Nam, Bắc, mà sĩ lâm thị tộc Giao Chỉ, dẫu dòng dõi Lạc hầu, Lạc tướng muốn vọng động khôi phục quốc thống của mình, đều phải tạm nằm im thúc thủ. Nay đại nhân ngài bất đồ xin hoàng thượng từ nhiệm trở về quê cũ, hỏi còn ai dẫn dắt tứ doanh làm nanh vuốt cho người phương Bắc chúng ta?
Vừa nói tới đó, trong hàng võ tướng, vị Thiên tổng trấn Bắc doanh toan đứng ra, song bên hàng ngũ quan văn, một vị thừa thị người bản xứ đã mau mắn bước lên một bước. Thấy vậy, trên chính điện, Thái thú Tích Quang bèn ra hiều viên quan võ lùi xuống để vị thừa thị nói trước.
Vị thừa thị dáng người thanh thoát, râu ba chòm mới chỉ điểm vài sợi bạc, cặp mắt tinh anh tiến ra thong thả nói:
- Bẩm Thái thú đại nhân, Châu mục đại nhân, các vị tướng quân cùng các vị đồng liêu. Bị chức hơn mười năm giúp việc văn bút thư từ sổ sách cho Châu mục đại nhân, có thể nói là phần nào đã thuộc phong cách làm việc của ngài ấy. Châu mục đại nhân đây, bên ngoài mềm dẻo mà bên trong cứng cỏi khác thường. Còn nhớ khi đưa binh tiễu trừ giặc biển, chính ngài ấy đã điền tên hai con trai mình sung quân giáp chiến. Khi biết tin hai con ngài tử chiến sa trường, bị chức đã không dám vội dâng lên. Vậy mà, ngài vẫn không trách mắng, còn cẩn thận tìm hiểu ngọn ngành việc tử trận là do quân uy không nghiêm, mệnh lệnh đầu đuôi đứt đoạn mới bị giặc biển lạm giết còn đáng trị tội. Kể từ đó, đội thủy quân mới được tách riêng luyện tập, bây giờ đã hùng trấn cửa biển khiến giặc cướp không dám bén mảng tới nữa. Còn như, trong hai mươi năm bảy lần lụt lớn, biển nước nhấn chìm nhiều làng xóm, bãi chợ, nương dâu các vùng Câu Lậu, Long Uyên, Chu Diên, đều đích thân Đặng Châu mục dẫn đầu đoàn cứu trợ vuông tròn công việc. Ngài từ lâu được Thái thú đại nhân tin dùng, quân chúng tin tưởng nghe theo, nay tuổi tác đã cao quyết một lòng xin về dưỡng lão cũng là thuận theo đạo lý quan trường. Sự kính trọng của các tướng, quân chúng dành cho hai vị đại nhân sau này càng như tấm gương soi cho người tiền nhiệm cũng là hồng phúc của Giao Chỉ vậy.
Đợi cho vị quan văn nói hết, Thái thú Tích Quang nhìn xuống thấy còn nhiều người muốn tỏ tấm lòng với Châu mục song ngài thầm nghĩ, nếu để bọn chúng nói ra cũng đều muôn người một ý mà thôi. Việc này nay mai truyền tới thiên triều chưa chắc đã là điềm tốt và con đường yên ổn tuổi già biết đâu lại sóng gió không chừng bèn đứng dậy ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi đĩnh đạc nói:
- Các vị văn thần võ tướng! Tấm lòng của các vị đối với châu mục đại nhân, đối với lão phu thật không thể vài lời nói hết. Âu cũng là phúc phận của bọn ta. May nhờ vào uy đức của Hán triều, sự dốc sức của các vị mà Giao Chỉ mới tạm thời yên ổn. Lão phu hơn ba mươi năm thực hành công vụ đều tâm niệm trong lòng: Mọi việc công đều theo luật pháp mà thực hành chính sự. Mọi phong tục đều theo nếp cũ mà thi hành. Miếng cơm manh áo của đám quan lại chúng ta đều là mồ hôi nước mắt của bách tính thị tộc. Chúng ta không chỉ phải làm gương mà cái chính là biết dẫn dắt người Giao Chỉ theo đúng tâm tư nguyện vọng của họ mới không phải dùng tới binh đao. Nhân có bốn vị tướng quân đây, sau này ta và châu mục hồi triều, các ngươi hãy nhớ cho kỹ, chớ có cậy giáp dày gươm bén mà chém giết bừa sẽ mang họa sát thân. Nước xa không cứu được lửa gần. Bốn doanh quân tuy uy dũng cũng không thể đẩy chúng dân vào thế đối đầu mà giết hết họ được đâu. Vạn bất đắc dĩ đã dùng hết đạo lý mà không chế phục được người Giao Chỉ, các ngươi hãy đóng chặt cổng thành mà bẩm tấu về Hán triều đợi lệnh hoàng thượng mới được. Chớ nhìn thấy bề ngoài bình lặng mà nghĩ người Giao Chỉ đã thuần phục phương Bắc đâu. Các ngươi hãy ghi nhớ lời ta.

Thái thú Tích Quang vừa nói tới đó bỗng bên ngoài có tiếng ồn ào. Mọi người nhìn ra chính là đoàn đặc sứ của triều đình đã tới đại điện. Tích Quang vội rời chỗ ngồi đứng dậy, toàn bộ văn thần võ tướng nhất loạt đứng dậy theo cũng là lúc vị quan đặc sứ hai tay bưng chiếu lệnh tiến thẳng vào chính điện dõng dạc nói:
- Thái thú Tích Quang tiếp chỉ!
Tích Quang cùng các văn thần võ tướng nhất loạt phủ phục xuống.
Giọng vị đặc sứ đĩnh đạc vang lên:
 
- … Thuận thiên thừa vận; hoàng đế chiếu lệnh…
… Nay xét công lao khó nhọc của Tích Quang, Đặng Nhượng, hai khanh đã vì trẫm, vì Hán triều không quản vạn dặm xa xôi, lam sơn chướng khí, dẫn dắt chúng dân Giao Chỉ quy thuận hoàng đế phương Bắc thực đã lập nhiều công lao!
Các khanh trị nhậm đã trên ba mươi năm, công cao tuổi cao, đều đáng được cho an hưởng tuổi già!
Trẫm đã xem xét kỹ biểu tấu của hai khanh xin về quê dưỡng lão thờ cúng tổ tiên thực là thuận lẽ trời!
Nay trẫm ân chuẩn biểu tấu của hai khanh! Trong hai tháng nữa, khi tân Thái thú xuống lãnh nhiệm, các khanh mới được rời thành!
Khâm thử! 
Vị đặc sứ đọc xong, nhất loạt tiếng hô vang lên:
- Hoàng thượng thánh minh! Hán triều thịnh thế!
Bãi săn Cam Lâm vùng truông rậm nối thông khu rừng Cấm.
Đoàn người ngựa nai nịt gọn ghẽ từ mờ sáng đã rời Cổ Lôi sơn trang.
Tối hôm trước, huyện lệnh Trưng Định cùng các vị bô lão trong Cổ Lôi sơn trang đã tổ chức buổi tiệc thiết đãi khách quý rất chu đáo. Sau khi xem xét, trao thưởng cho bọn đứng đầu hội vật, hội đu, thi kéo co, thi đánh cờ và nhất là đồng giải nhất cặp trâu chọi kinh thiên động địa đến chết không rời hàng chục năm mới có, huyện lệnh Trưng Định cho giết thịt cúng tế xong đâu đấy buổi chiều đích thân ngài cùng bảy vị lão trượng mời cha con huyện lệnh Chu Diên thăm thú khắp một vùng trong ngoài Cổ Lôi sơn trang.
Nổi bật trong đoàn chính là đôi trai tài gái sắc đích trưởng đích nữ của nhị vị huyện lệnh. Thần lực của Dương công tử đã mau chóng lan truyền khắp trong sơn trang. Khi cặp ngựa một sắc trắng như tuyết, một sắc đen như mun được dắt đến lập tức được đôi trai gái nhảy phắt lên như có ý dẫn đường gia phụ và các vị bô lão. Trưng huyện lệnh mời Dương công cùng bảy vị lão trượng lên chiếc xe mui trần bốn ngựa kéo trên có cắm cờ lệnh Lạc tướng đất Mê Linh. Đã có lần, lời sàm tấu huyện lệnh Mê Linh vẫn ngang nhiên dùng cờ lọng Lạc tướng truyền về phủ Thái thú ở Luy Lâu song châu mục Đặng Nhượng đã phải gạt đi còn cho rằng ngay cả tôn thất đế hiệu của Triệu Đà còn quy thuận phương Bắc thì những tôn hiệu nhỏ của các thủ lĩnh, tộc trưởng, đầu mục được phân phong hiện diện trên vùng đất bản địa cũng là lẽ thường, không cần phải chấp nhất làm gì. Thái thú Tích Quang cũng thuận theo đó mà lờ đi cho.
Khi đã yên ổn trên xe ngựa, huyện lệnh Trưng Định hướng về phía Dương công ân cần nói:
- Dương huynh! Nghe nói Chu Diên đất vuông trăm dặm, đầm lớn ngàn mẫu, cửa sông nối thông cửa biển sâu dài vô tận, thuyền lớn hai mươi trượng trăm mái chèo lướt sóng vững như đi trên đất bằng. Lại mấy chục năm nay, sĩ lâm thị tộc Chu Diên chỉ biết tới Dương công mà thôi, tại hạ thật là khâm phục. Kỳ này nhất định phải mời Dương công ở lại vài ngày chỉ giáo cho tại hạ.
Vị huyện lệnh đất Chu Diên thong thả vuốt chòm râu muối tiêu nhìn đôi trẻ trên lưng ngựa đang lướt nhanh phía trước nét mặt tươi nhuần mỉm cười đáp:
- Đa tạ Trưng huyện lệnh quá khen! Theo ý của lão phu, Dương thị hay Trưng thị chúng ta, trước tiên đều là con cháu hậu sinh nòi giống Hồng Bàng, đều là hậu duệ các cận thần bộ tướng của Hùng Vương như cây liền một gốc rễ cội cành. Đất Chu Diên xưa kia cũng là các đức vua Hùng Vương phân phong cho họ Dương ta, Dương thị quyết không dám một ngày bê trễ. Hôm nay đây, lão phu cũng được mở rộng tầm mắt khi tường tận thấy được tấm lòng của dân chúng trong vùng hướng về Lạc tướng ngài. Mê Linh là vùng đất cổ thuộc quốc đô Phong Châu ngày trước, linh khí ẩn tàng, chúng dân chăm chỉ, lại là nơi thế núi châu tuần trang nghiêm kỳ vĩ, các sông lớn nhỏ đồng quy tụ hợp trên bến dưới thuyền thực là mạch đất sang quý vô cùng. Nếu Trưng huyện lệnh không chê, nhất định nay mai ta sẽ sai tiểu tử đem tới tặng ngài một đội khinh thuyền, để ngài tiện đi lại các nơi.
Huyện lệnh Trưng Định trong lòng vô cùng xúc động. Ngày trước còn chưa gặp mặt, ngài đã nghe tiếng còn thầm mến mộ vị huyện lệnh Chu Diên lúc nào cũng môn khách đầy nhà, thợ thuyền đông đúc, thương nhân, kẻ sĩ lui tới bất kể ngày đêm đều được tiếp đón trọng thị. Nay thấy Dương công lời nào cũng chân thành thẳng thắn, chừng mực ân cần lại vô cùng khoáng đạt trong lòng càng tín phục bèn trang nghiêm nói:
- Đa tạ Dương huynh tri ân còn chỉ bảo điều hơn lẽ thiệt cho ta. Ta vẫn biết chí lớn của Dương thị xưa nay chưa bao giờ nguôi hướng về quốc thống, chẳng qua là còn chờ đợi thời cơ đó thôi. Ta cho rằng sớm muộn gì người Giao Chỉ chúng ta cũng phải tự chủ đất mình. Nay dẫu các vị Thái thú Tích Quang, châu mục Đặng Nhượng mềm mại khoan hòa, tạm để cho bọn huyện lệnh người bản địa chúng ta có chút quyền hành dân chúng mới khỏi lầm than. Mai kia, các vị tân quan mới đến lòng dạ chưa biết thế nào. Khi đó e rằng, ngay cả việc thăm thú giao lưu giữa chúng ta đây cũng không dễ gì thực hiện.
Nói tới đó, cũng là lúc chiếc xe bốn ngựa kéo đỗ trước một tòa miếu thờ khá lớn, bên ngoài được bao bọc bằng dãy tường đá cao tới hơn đầu người. Trước sau sân miếu đều có những cây lim xanh cổ thụ cao vút rợp bóng xuống tòa cổ miếu.
Đoàn người thong thả rời xe. Bên trong, Dương công tử cùng vị thanh nữ con gái huyện lệnh Mê Linh tới từ trước đó đã sửa soạn hương hoa bày biện cẩn thận rồi.
Bảy vị bô lão cùng nhị vị huyện lệnh lục tục kéo vào bên trong sân tòa miếu cổ.
Ái nữ huyện lệnh đất Mê Linh trang phục gọn ghẽ, đầu đội chiếc khăn gấm đỏ thêu phượng hoàng trắng, lưng thắt đai ngọc xanh biếc, chân đi giày nhung đỏ, tướng mạo thanh thoát hướng cặp mắt tươi sáng như hoa cung kính thi lễ nói:
- Bẩm phụ thân, Dương đại nhân cùng các vị bô lão! Hương hoa đèn nến, thức vật thờ cúng nhi nữ cùng thủ đền đã sửa soạn xong. Kính thỉnh phụ thân cùng các trưởng lão dâng hương.
Lời vị ái nữ thánh thót như chuông, âm sắc rõ rang, ấm áp. Dương công nhìn thẳng vào ái nữ thấy khuôn trăng đầy đặn, mắt phụng mày tằm, cổ cao thanh thoát điểm chiếc vòng bạc lấp lóa, gương mặt như có thần khí rất sinh động, vẻ bên ngoài rạng rỡ mà ẩn tàng bên trong nét trầm hậu ung dung, thật sang quý không sao kể xiết. Nhìn bên trong miếu lại thấy đèn nến đã châm thắp sắp hàng tề chỉnh, hương hoa oản quả các ban sạch sẽ tinh tươm trong bụng vui lắm.
Còn đang ngẫm ngợi, đã thấy Thi Sách bước tới dâng chiếc mâm đồng bên trên để sẵn vài chục nén hương nghi ngút khói.
Nhị vị huyện lệnh cùng bảy bô lão thong thả nhấc từng nén hương thơm theo thứ tự lần lượt dâng lên.
Dương công cắm nén hương vào chính miếu vái lạy xong ngước nhìn bên trong không khỏi thoáng sững sờ. Trong màn khói hương nghi ngút mờ mờ ảo ảo, bức tượng vị thần chủ tòa cổ miếu bằng đồng uy nghi trên chiếc long ngai đầu đội long mão, hai tay nghiêm trang đặt phía trước, long bào chạm rồng đã sạm màu hương khói nổi lên rất rõ giữa ngực dòng chữ khắc chìm Hùng Vương Quốc Chủ. Trong người Dương công như có luồng khí huyết đột ngột chạy suốt từ dưới lên. Bên cạnh, Trưng huyện lệnh và bảy vị lão trượng vẫn trang nghiêm khấn khứa.
Sau khoảnh khắc dâng hương, đoàn người quay trở lại sân cổ miếu. Bấy giờ, huyện lệnh đất Mê Linh mới thong thả bảo với Dương công:
- Dương huynh! Tòa miếu cổ này là nơi thờ tự vị Thái tổ thứ bảy Hùng triều ngày các quốc chủ Hùng Vương còn tại vị. Tổ ta sau này thoái vị, đến đời thứ chín đổi sang họ Trưng cũng là di mệnh của tân quốc chủ. Từ bấy đến nay cũng đã mấy trăm năm, Trưng thị không lúc nào quên mình mang huyết thống họ Hùng. Các thị tộc khác trong vùng đều đã từ lâu hiểu rõ điều này. Đã mấy lần châu mục Đặng Nhượng hồ nghi, có ý muốn tới đây tra xét ta đều phải tìm cớ thoái thác. Hôm nay nhân tiết đầu xuân mát mẻ, lại biết Dương huynh không quản đường xa tới dâng hương đức Tản Viên Sơn Thánh trên đỉnh núi tổ Ba Vì, ta mới mời Dương huynh cùng công tử tới đây. Âu cũng là để lớp trẻ sau này hiểu biết thêm về tổ tông gốc rễ.
Trưng huyện lệnh vừa nói dứt lời, Dương công bèn vẫy Thi Sách và ái nữ họ Trưng tới bên các vị bô lão nghiêm trang nói:
- Các vị lão trượng! Lời Trưng huyện lệnh hôm nay quả đã khai tâm khai thị thêm cho Dương gia chúng ta. Vẫn nghe truyền kỳ Lạc tướng Mê Linh chính là hậu duệ cành nhánh của quốc chủ Hùng Vương, nay thực mục sở thị không còn phải hồ nghi gì nữa. Đền miếu dẫu trăm năm phong hóa vẫn còn vững vàng uy nghiêm trên đất tổ xưa. Sách nhi con! Con hãy ghi nhớ trong lòng, Dương thị đất Chu Diên mãi mãi là thần tử của Hùng triều, dẫu còn ba hộ đều phải hướng về quốc thống. Cha con ta tới đây dâng hương cũng là hưởng ân uy tổ tông nguồn cội. Lúc trước, ta đã hứa với ngài huyện lệnh tặng Cổ Lôi sơn trang một đội khinh thuyền. Nay mai trở về, con hãy thay ta đem tới. Từ nay, hễ Cổ Lôi sơn trang cần thức vật gì, con hãy thay ta giao tặng đầy đủ. Tất thảy từ thợ giỏi gỗ quý, đồ đồng đồ sắt tới phương cách chế tác khinh thuyền, bí thuật rèn đúc khí cụ, hễ Chu Diên thông hiểu đến đâu, nhất loạt đều giao lưu truyền thụ cho các thị tộc Mê Linh đến đó. Trước anh linh thần chủ cổ miếu Hùng triều, con hãy ghi nhớ lời giao ước.
Thi Sách nghiêm cẩn lắng nghe, khắc ghi rõ rừng điều trong tâm khảm. Đợi phụ thân nói xong bèn khảng khái đáp:
- Con xin vâng theo lời giao ước của phụ thân!
Các vị lão trượng lắng nghe cuộc đàm đạo giao ước của nhị vị huyện lệnh, lại thấy đôi trẻ hậu sinh kẻ phong thái hùng dũng vững vàng, người sắc nước hương trời thanh thoát quả là hiếm thấy, ai nấy đều thầm mừng rỡ trong lòng.
Cũng trong buổi chiều hôm ấy, huyện lệnh Mê Linh còn đích thân dẫn cha con Dương công đi thăm thú luôn ba bốn danh thắng khác trong Cổ Lôi sơn trang.
HỒI THỨ BA (PHẦN 1)
Núi Phượng Hoàng, Nguyễn Huyến về ở ẩn
Đầm Dạ Trạch, Trưng - Dương kết thông gia
Phủ thành Luy Lâu, buổi sáng.
Kể từ khi nhận chiếu lệnh của Hán Vũ đế về việc chuẩn y biểu tấu cho phép Thái thú Tích Quang và Châu mục Đặng Nhượng được từ quan an hưởng tuổi già, ngôi đại điện Luy Lâu rất ít khi phải dùng đến. Phần vì bọn binh tướng nơi trấn Đông doanh, trấn Tây doanh, trấn Nam doanh, trấn Bắc doanh đều doanh nào việc nấy; hoặc luyện binh giáp, bắn cung tên nơi thao trường; hoặc rèn voi chiến, luyện lỵ mã nơi triền sông đều đã từ lâu chế định thành quân kỷ. Châu mục Đặng Nhượng còn cho biên chép thao luyện mười tám mục binh giáp các chủng quân kỵ binh, tượng binh, du binh, bộ tốt rất chặt chẽ. Ngay những kho lương thảo cung ứng cho bốn doanh Đông, Tây, Nam, Bắc, không chỉ kiểm định chặt chẽ ngọn nguồn xuất xứ, mà khúc thức bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, đều phải định lượng rõ ràng. Các tướng trong doanh cùng bọn đô thiên tổng, đầu mục cứ thế tuân theo đã thành nề nếp, nên nếu không có việc, bọn chúng tuyệt không dám tùy ý xuất nhập thành Luy Lâu. Ngay cả bốn tướng Sầm Lân, Sầm Bá, Độc Cô Tần, Lữ Thạch thủ lĩnh bốn doanh quân cũng phải có hiệu lệnh của Thái thú hoặc Châu mục mới được nhập thành. Bởi vậy, sau cuộc tuyên đọc chiếu mệnh của Vũ đế, trong đại điện thành Luy Lâu chỉ còn thưa thớt bọn quan văn giúp việc thư từ sổ sách.
Thái thú Tích Quang những ngày thường ở gian nhà gỗ chếch phía sau ngôi đại điện. Ngài nhiều lúc còn cho tiếp bọn huyện lệnh tại đây. Ngay cả Châu mục Đặng Nhượng, nhiều khi việc quân cơ binh giáp cũng đều bàn bạc trong căn phòng gỗ sơ khoáng sau đại điện.
Hôm nay cũng vậy, ngài Thái thú đang định cho gọi đám quan văn tới sửa soạn cuộc du hành trên sông Dâu, xuôi xuống Đầm Sương Mù vừa để hỏi thêm một số việc cũng tiện gặp mấy lão hương trưởng mạn bờ đầm tiếp giáp khu rừng lim Trích Sài, bỗng một tên hầu vào báo có huyện lệnh Bắc Đái là Nguyễn Huyến tới xin gặp. Nghe tới tên Nguyễn Huyến, ngài Thái thú lập tức cho mời vào.
Huyện lệnh Nguyễn Huyến được giao kiêm quản vùng Bắc Đái chính là do Tích Quang đích thân tuyển dụng. Hơn mười năm trước, sau khi dẹp loạn họ Đèo ở dãy núi Phượng Hoàng, khi về tới bến sông Lục Đầu, bất ngờ Tích Quang đột ngột đổ bệnh không ngồi dậy được rồi cứ thế mê man ba bốn ngày liền. Bọn thuộc tướng sợ hãi tìm khắp trong vùng mãi mới mang về một vị danh y đến xem bệnh cho Thái thú. Chẳng hiểu vị danh y chữa chạy thế nào mà chỉ hai ngày sau Tích Quang đã ngồi được dậy, cho đến mười ngày sau thì khỏi hẳn. Ơn người đã cứu mạng mình, hỏi mãi mới biết danh y mang họ Nguyễn từng nối đời bốc thuốc dưới chân núi Phượng Hoàng. Càng đàm đạo với danh y họ Nguyễn, Tích Quang càng kinh ngạc không chỉ ở kiến thức y lý thâm hậu, đạo nghề sâu rộng mà những việc sử sách kim cổ khác, họ Nguyễn đều thông hiểu. Dẫu vậy, cũng phải mất ba bốn lần đích thân tới núi Phượng Hoàng mời đón, thần y họ Nguyễn mới chịu nhận lời làm chức huyện lệnh Bắc Đái kiêm quản khắp trong ngoài vùng Lục Đầu Giang, phía Bắc thông suốt tới đất Kê Từ, phía Nam nối liền xuống Luy Lâu, phía Đông liền kề huyện An Định vô cùng rộng lớn.
Từ ngày Nguyễn Huyến nhậm chức huyện lệnh, phàm mọi việc binh giáp thuế khóa, Thái thú Tích Quang và Châu mục Đặng Nhượng đều đặc ân cho họ Nguyễn tự chủ. Vị huyện lệnh vô cùng siêng năng chăm chỉ, nhất loạt các việc nông tang mùa vụ đều sắp xếp quy củ, các đất hoang vô chủ đều cho khai khẩn cấy cày, lục nghệ trong các làng xóm xa xôi đều khai mở dẫn dắt nên dân trong huyện biết ơn ngài lắm. Luôn mười mấy năm tuyệt không xảy ra những chuyện đáng tiếc, bách tính thị tộc Bắc Đái hộ nào cũng chịu ơn đức của ngài. Nay không hiểu có chuyện gì mà đích thân vị huyện lệnh họ Nguyễn lại tìm xuống thủ phủ Luy Lâu.
Còn đang miên man ngẫm ngợi, phía bên ngoài đã thấy huyện lệnh họ Nguyễn tiến vào thi lễ nói:
– Bẩm Thái thú đại nhân! Hạ quan buổi sáng sớm đã đường đột tới gặp đại nhân xin ngài thứ lỗi. Hạ quan còn sợ không kịp gặp được đại nhân nên không thể chậm trễ hơn được nữa.
Thái thú Tích Quang tươi cười nói:
– Nguyễn huyện lệnh đã quá cẩn thận rồi! Chiếu lệnh của hoàng đế cho ta cùng Châu mục Đặng Nhượng nghỉ ngơi dưỡng già đều đã công bố tới các vị huyện lệnh bất tất phải giấu diếm các ngươi làm gì. Các vị hãy cứ ở yên nơi nha huyện, đợi vị Thứ sử mới đến hãy tới chúc không phải tốt hơn ư? Nay lão phu tước vị không còn, sắp cáo lão hồi triều đâu còn quyền hành bổng lộc gì để các vị tới thăm thêm uổng phí?
Thấy Thái thú đại nhân lời nói cử chỉ nhất mực giữ gìn cẩn thận, lại luôn miệng nhắc tới chiếu mệnh của hoàng đế, trong bụng họ Nguyễn khâm phục bèn nói:
– Bẩm đại nhân! Chiếu lệnh của hoàng thượng, hạ quan may mắn biết đến từ mấy hôm trước rồi. Hạ quan hôm nay đến đây không phải để nói lời ơn nghĩa giã biệt, càng không dám quà cáp lôi thôi phương hại tới thanh danh đại nhân, mà chính là xin được noi theo chí hướng của ngài, cáo quan từ nhiệm yên hưởng tuổi già. Hạ quan xin ngài hãy gia ân cho được về đất cũ mai danh ẩn tích.
Thái thú Tích Quang vừa nghe tới đó bất chợt thấy bâng khuâng. Không lẽ nào một huyện lệnh tài đức như Nguyễn Huyến đang được đồng liêu hết lòng tín phục, dân chúng nơi quản hạt một mực tin theo lại đột ngột cáo lão hồi hương? Trong đám huyện lệnh Giao Chỉ, chỉ có ba người vẹn toàn hơn cả, đó chính là Dương Thái Bình đất Chu Diên, Trưng Định đất Mê Linh và Nguyễn Huyến. Trong ba người ấy, tuy uy dũng thanh thế, Nguyễn Huyến không bằng hai vị kia, nhưng đức độ kiêm ái, nhất là sự mềm mại uyển chuyển trong xử thế đều có phần hơn hẳn. Hay là họ Nguyễn kia có uẩn khúc gì chăng?
Thái thú Tích Quang thong thả hỏi:
– Nguyễn huyện lệnh! Lão phu đây tuổi cao lẫn cẫn, quê hương bản quán lại ở tận phương Bắc xa xôi cáo lão đã đành. Còn như huyện lệnh tuổi đương độ tráng niên, đang lúc chúng dân yêu mến tín phục, ngài lại nhất mực từ quan, lão phu thật không hiểu? Huyện lệnh hãy vì lão phu mà nghĩ lại được chăng?
Vị huyện lệnh thoáng đôi chút ngẫm ngợi rồi trang nghiêm đáp:
– Bẩm đại nhân! Ý hạ quan đã quyết, trong lòng hạ quan cũng đã nguội lạnh chức tước từ lâu rồi. Ngày trước, cũng do cảm mến tấm lòng của đại nhân, mà hạ quan mới đương chức huyện lệnh đó thôi. Nay chúng dân trong vùng cũng đã tạm vào khuôn phép, mọi người già trẻ nhỏ may đều có bát cơm ăn, trộm cướp trong thôn làng cũng không còn nữa, hạ quan mới yên lòng mà lui về núi cũ, vui vẻ việc bốc thuốc chữa bệnh cho chúng dân. Còn như việc riêng, đám tiểu nữ đang ở độ tuổi cập kê cần sự rèn cặp giáo dưỡng của thân phụ, cũng là thuận đạo trời. Mọi việc hạ quan xin bẩm báo rõ với đại nhân, chứ tuyệt không có ẩn tình gì khác. Hạ quan xin chúc ngài vẻ vang về đất tổ, yên hưởng tuổi già, mãi được lưu vào sử sách, sánh cùng các vị thanh quan của Hán triều.
Thấy không thể khuyên can gì được huyện lệnh họ Nguyễn nữa, Tích Quang cầm tay Nguyễn Huyến cảm động nói:
– Nguyễn huyện lệnh! Ta mấy mươi năm ở Giao Châu, người hiểu việc, hiểu đời, hiểu ta nhất chính là ngài. Nay ta vẫn còn chưa bàn giao chức Thái thú, ngài đã một mực từ biệt mà đi, thật là đáng tiếc, thật là đáng tiếc…
Cứ thế, Thái thú Tích Quang mãi cầm tay vị huyện lệnh mãi chẳng muốn rời.
Phủ huyện đất Chu Diên, buổi sáng.
Sau buổi từ biệt huyện lệnh Trưng Định từ Cổ Lôi sơn trang trở về Chu Diên, trong lòng hai cha con Dương Thái Bình, Dương Thi Sách ai nấy đều có niềm vui riêng. Suốt nửa tháng làm thượng khách của huyện lệnh Mê Linh, cha con họ Dương quả đã được mở rộng tầm mắt. Các vùng đất được giao kiêm quản, Trưng huyện lệnh không chỉ chăm lo mọi mặt cho bách tính thị tộc, mà còn cố kết nhân tâm qua từng tập quán, phong tục, nhất là các tập tục riêng từng dòng họ nên suốt một nẻo thượng du, thung châu, hạ bạn đều chịu ân đức của Trưng Định. Trong số các vị huyện lệnh được phân quyền nhiều nhất chính là ba vị Nguyễn Huyến kiêm quản Bắc Đái, Trưng Định kiêm quản Mê Linh và Dương Thái Bình kiêm quản Chu Diên. Còn các huyện An Định, Câu Lậu, Khúc Dương, Kê Từ, Tây Vu… phần do đám huyện lệnh quá cứng nhắc tự trói tay chân mình, phần do bốn doanh quân Đông, Tây, Nam, Bắc của bọn Sầm Lân, Sầm Bá, Độc Cô Tần, Lữ Thạch được phân phó tới lấy quân lương, đã ép các huyện lệnh phải chịu thêm sự chế áp từ các tướng, khiến đám huyện lệnh chỉ biết một mực tuân theo không dám kêu ca gì, chỉ biết đè đầu cưỡi cổ chúng dân lấy của cải nộp lên trên. Dân các huyện vì thế ngày càng tiêu điều xơ xác.
Trong hơn nửa tháng ở Cổ Lôi sơn trang cũng là khoảng thời gian Thi Sách và Trưng Trắc luôn được gần gũi nhau. Sau cuộc trổ thần lực giúp bọn tráng đinh lôi cặp trâu chọi lên khỏi hố sâu, nhất là việc đả bại chúa sơn lâm trên gò đá Khe Cấm, đã khiến không chỉ phường săn mà trưởng nữ họ Trưng nức tài thi thư cung kiếm đều đem lòng yêu mến khâm phục. Biết đôi trẻ đã quấn nhau nửa bước chẳng muốn rời, huyện lệnh Chu Diên đã lựa lúc chỉ riêng hai người nghiêm trang đề nghị hai nhà Trưng – Dương sớm kết thông gia. Vốn là chỗ quen biết từ lâu, lại dòng dõi các Lạc hầu, Lạc tướng, như có mạch ngầm thông sẵn, Trưng huyện lệnh vui mừng nhận lời còn hẹn sẽ sớm định ngày đưa dâu tới đất Chu Diên.

Hai vị huyện lệnh cùng với sư phụ Đỗ Năng Tế trong các cuộc đàm đạo về thời thế, đã không còn bóng gió xa xôi mà chỉ thẳng ra mối nhục lệ thuộc phương Bắc của các vùng đất phương Nam mà ngày trước mười tám đời quốc chủ Hùng vương trấn nhậm. Trong luận bàn tìm về quốc thống, sư phụ Đỗ Năng Tế thấy nhị vị huyện lệnh tâm thế phân ưu, tấm lòng trĩu nặng quan hoài không dứt cũng chỉ biết chôn chặt trong lòng. Mấy hôm trước, khi bàn riêng với vợ chồng Trưng Định – Man Thị, Đỗ sư phụ đã nhắc tới thời cơ chính là lúc bọn người phương Bắc thay ngôi đổi chủ. Thái thú Tích Quang và Châu mục Đặng Nhượng đã được Hán Vũ đế cho cáo lão hồi hương, người sắp sang đương chức Thái thú chính là Tô Định, một kẻ gian hùng sắt máu vốn theo phái Pháp gia rất hà khắc tàn bạo đến nỗi các quan đồng triều, các vị Thứ sử, Thái thú, huyện lệnh của Vũ đế nghe tới tên y đều giật mình. Chuyện đã đến nước đó, song với bản tính thận trọng, lại chưa biết Thái thú mới sẽ thực thi pháp độ ra sao, nên Trưng Định vẫn có ý chần chừ. Đỗ sư phụ nhân thấy cha con huyện lệnh Chu Diên đầu xuân tế lễ miếu tổ Tản Viên Sơn Thánh lưu lại Cổ Lôi sơn trang, mới dần dần khơi dẫn hùng tâm tráng chí của nhị vị huyện lệnh. Ngài đặc biệt quan sát kỹ Thi Sách, con trai ngài huyện lệnh Chu Diên. Đỗ sư phụ nhận thấy, Thi Sách không chỉ có tài văn võ mà ý chí quật cường của chàng trai trẻ đã sớm tỏ rõ qua những lần đàm đạo riêng với họ Dương. Cũng thực may mắn khi trưởng nữ họ Trưng và Dương công tử đã dần bén duyên nhau. Quả đây đã như một mối duyên trời. Sư phụ Đỗ Năng Tế sớm nhìn ra mối thân tình đặc biệt của hai vị huyện lệnh, trong đầu như vụt sáng cho rằng nếu đôi trẻ kết duyên chồng vợ, nhất định sau này cơ trời vận nước của người phương Nam sẽ có chuyển động khác thường bèn hết sức vun vào.
Hiểu được tâm cơ của Đỗ sư phụ, khi chia tay từ biệt, Dương huyện lệnh đã ngỏ lời mời còn xin với Trưng huyện lệnh để Đỗ sư phụ tới thăm vùng đất Chu Diên.
Phủ huyện Chu Diên vẫn giữ nguyên nền nếp cũ. Vốn là vùng đất rộng ba bề sông nước, phía Đông theo dòng sông Nhĩ Hà kéo tới tận cửa biển Đại Ác; phía Tây thông mãi tận thượng du các vùng rừng núi Thượng Sơn, Cổ Lão, Bình Lâm với vô số rừng rậm, thung sâu; phía Nam kéo sát tới dãy Thất Tinh Hùng Điệp với ải lũy Cổ Họng hung hiểm ngặt nghèo; phía Bắc ngược sông cái thông suốt tới phủ thành Luy Lâu. Trong vùng đất Chu Diên còn có Đầm Dạ Trạch dài rộng mênh mông chính là túi chứa nước mùa lũ của các sông cây cối lau sậy um tùm, hoang thú thủy tộc nhiều vô số kể. Ngày trước, mười tám đời Hùng vương dựng nước đều phong họ Dương là Lạc hầu, sai kiêm quản đất Chu Diên, sắp đặt huấn luyện thủy quân ở Đầm Dạ Trạch. Sau này, khi An Dương Vương xây thành Cổ Loa, đã cho dùng thuyền lớn chở đất sét từ Đầm Dạ Trạch ngược sông cái theo sông Hoàng Long tới mới thuận việc kè đắp thành trì. Bản thân Cao Lỗ tướng quân, khi đại chiến binh tướng Triệu Đà đã nhiều lần kiến nghị phải đưa binh về thủ hiểm ở Đầm Dạ Trạch, song vua đều không nghe theo đã dần dần mất nước. Bởi vậy, xưa nay người đời vẫn cho đất Chu Diên là đất phát vương.
Không thể nào ngờ sư phụ Đỗ Năng Tế lại vô cùng thông thuộc sử sách cổ xưa, hình sông thế núi đất Chu Diên đến vậy. Khi ngồi trong căn phòng gỗ nhỏ vẫn dùng làm nơi tiếp khách của huyện lệnh ở một góc phủ huyện, sau tuần trà nóng thêm mấy củ khoai lang đỏ vùng đất bãi ven Đầm Dạ Trạch, Dương huyện lệnh mới thong thả nói:
– Đỗ sư phụ! Ngài quả như thổ công thổ thần đất Chu Diên ta. Luôn mấy hôm trò chuyện với sư phụ, ta đã được thêm mở rộng tầm mắt. Ngay như mọi thắc mắc của Sách nhi, sư phụ đều tường tận chỉ cho. Ta nay cũng đã già rồi chưa biết thế nào. Mọi việc của Sách nhi, sau này mong sư phụ hãy hết sức giúp cho.
Vị sư phụ họ Đỗ luôn mấy hôm thăm thú trò chuyện nhiều nơi sông đầm đền miếu đất Chu Diên, thấy tất thảy từ cảnh vật tới chúng dân đều phong quang thoáng đãng, hồn nhiên cởi mở. Mọi việc từ nông tang mùa vụ tới sắp xếp lục nghệ, các xưởng đóng thuyền, các làng chài ven sông, ven biển ai ai cũng ghi sâu ơn đức của Dương thị. Nhất là đối với Thi Sách, công tử trưởng của Dương huyện lệnh thì đám thợ thuyền, môn khách, nhất là các bậc lão trượng trong ngoài phủ huyện đều thập phần cảm mến phong độ khí khái của công tử. Việc hai nhà Trưng – Dương hẹn ước kết thông gia đã sớm loan truyền càng khiến dân chúng vui mừng.
Như thấy rõ từng suy nghĩ trong lòng của Dương huyện lệnh, Đỗ sư phụ trang nghiêm nói:
– Huyện lệnh đại nhân! Ngài nói thế khiến lão hủ đây thêm hổ thẹn. Vùng đất Chu Diên xưa nay các mạch nguồn sang quý đều châu tuần vun đắp hiển lộ nhân tài. Đầm Dạ Trạch còn là nơi nhị thánh Chử Đồng Tử – Tiên Dung sinh sống phổ độ chúng sinh. Có thể thấy mạch đất Chu Diên không chỉ thần thánh linh thiêng, mà còn vô cùng gần gũi, mật thiết tới bách tính thị tộc. Đất Chu Diên thông biển thông rừng, ba mặt đều có thể tiến thủ nhịp nhàng chính là mảnh đất dụng binh lâu dài của người phương Nam chúng ta. Còn về Dương công tử, công tử bên ngoài uy nghi hùng dũng, bên trong trầm hậu bao dung, chính là khí độ của một vị chủ công sau này. Lão hủ lại thấy trưởng nữ của Trưng Định tài sắc vẹn toàn, không chỉ là bậc dâu hiền còn chính là người sẽ khơi thông khát vọng, hết sức khuông phò họ Dương mưu nghiệp lớn. Nay lão hủ theo ý của hai nhà Trưng – Dương, tình nguyện làm ông mai cho đôi trẻ, cũng là mãn nguyện lắm rồi. Mọi nghi lễ sau trước trong cuộc kết mối thông gia, hễ biết đến đâu, lão hủ sẽ hết lòng giúp cho đôi trẻ.
Dương huyện lệnh thấy Đỗ sư phụ bắt nhịp vào câu chuyện chính, lại luôn tỏ ý chu toàn cho hai nhà Trưng – Dương, trong lòng rất xúc động nói:
– Đỗ sư phụ! Đúng thật duyên trời đã cho họ Dương ta được kết thông gia với dòng Lạc tướng. Sách nhi may mắn được làm rể đất Mê Linh cũng là hồng phúc của Dương gia. Bởi vậy, cuộc này Đỗ sư phụ hãy giúp ta sắp đặt lễ nghi thật chu đáo mới được. Nửa tháng ở Cổ Lôi sơn trang, được tận mắt xem xét lễ hội, tham dự săn bắn với ngài Lạc tướng, ta đã thấy rõ cao ý của huyện lệnh đất Mê Linh người thường không hiểu được đâu. Nhất loạt từ các tùy tướng, môn khách, tráng đinh, các phường săn của ngài ấy đều nền nếp quy củ, chính là ngầm rèn giũa thông đạt phép dụng binh sau này. Ngài ấy lại có thêm Đỗ sư phụ khơi dẫn nặng nhẹ, trui rèn các vị cô nương đều là tính cho việc lớn. Ngay như Sách nhi của ta cũng đã nhiều lần khuyên ta tích trữ lương thảo, luyện tập tráng đinh chờ thời, ta đều phải tạm gạt đi. Xét cục diện hiện nay, Thái thú Tích Quang, Châu mục Đặng Nhượng chưa dễ gì đánh đổ. Luy Lâu vẫn còn đó bốn doanh quân Đông, Tây, Nam, Bắc hơn vạn người do bọn Sầm Lân, Sầm Bá, Độc Cô Tần, Lữ Thạch dẫn dắt nghiêm ngặt chưa thể công phá được. Cái khó nhất là ngoài ngài Lạc tướng đất Mê Linh, các vị tù trưởng, thủ lĩnh vùng đất khác không biết ý tứ ra sao, nên bọn ta mới đành thúc thủ bấy lâu nay vậy.
Nói tới đó, bất giác vẻ mặt Dương huyện lệnh chợt thoáng quan hoài.
Đỗ sư phụ thong thả nói:
– Dương huyện lệnh! Tâm tư của ngài thật chẳng khác nào Trưng huyện lệnh. Bởi thế, cuộc kết thông gia Trưng – Dương lần này chính là cuộc tụ họp anh hùng. Lão hủ sẽ cho mời các vị tù trưởng, thủ lĩnh, huyện lệnh, thương đoàn, tiêu cục cùng giới sĩ lâm thị tộc tới chung vui, cũng là để xem xét thử tâm tư chí hướng của mọi người. Nhân đương lúc người phương Bắc thay đổi chức quan Thái thú, Châu mục ở Luy Lâu, đây cũng chính là thời cơ tụ họp của người phương Nam. Lão hủ xin đợi lệnh của ngài.
Dương huyện lệnh như thấu rõ tấm lòng trung nghĩa của vị sư phụ họ Đỗ bèn trang nghiêm đáp:
– Đỗ sư phụ! Sư phụ thật hiểu mọi tâm tư chí hướng của bọn ta. Cuộc kết thông gia Trưng – Dương kỳ này chính là cuộc anh hùng hội tụ bàn việc lớn. Mọi sắp xếp, sư phụ hãy giúp cho hai nhà Trưng – Dương chúng ta.
Căn nhà gỗ dưới chân dãy núi Phượng Hoàng.
Sau buổi từ biệt Thái thú Tích Quang tại thành Luy Lâu, chỉ ba ngày sau, huyện lệnh Nguyễn Huyến cùng gia quyến tất cả mười bảy người rời nhiệm sở, lên chiếc thuyền nhỏ theo đường sông về bến đò Nham Biền chân núi Phượng Hoàng. Nơi đây, mười sáu năm trước cũng chính là nơi danh y họ Nguyễn bốc thuốc cứu mạng Thái thú Tích Quang rồi vì thương dân chúng mà nhận chức huyện lệnh Bắc Đái. Vẫn là đất xưa cảnh cũ thơ thới yên bình. Dãy núi Phượng Hoàng chín mươi chín ngọn châu tuần sừng sững biết bao năm cây xanh mây phủ. Ngài huyện lệnh nhìn lên dãy núi mây bay từ từ hồi nhớ huyền tích núi xưa vẫn lưu truyền trong chốn dân gian.
Từ thời hồng hoang, vùng đất núi Phượng Hoàng xưa kia còn nhiều nơi hoang sơ úng trũng, biển cả mênh mông suốt một dải từ chân núi Bảo Đài, Cai Kinh, Đằng Giang qua đến vùng Lục Đầu. Đôi chỗ có nổi lên mấy bãi đất trống giữa vùng nước. Tương truyền rằng thuở đó, ở chốn thiên đình Ngọc Hoàng cai quản các miền thượng giới, hạ giới khắp nơi đều được bình an. Bấy giờ, mùa xuân đã đến hoa đào, hoa mận nở rộ đẹp khắp mọi nơi. Ngọc Hoàng cùng các tiên nữ xuống thưởng ngoạn cuộc vui từ lúc hoa đào nở cho tới khi có trái đào chín đỏ, họ ăn và hái về trời. Chiều chiều, sau những cuộc vui chơi nơi vườn đào, Ngọc Hoàng cùng các tiên nữ xuống bãi biển Đằng Giang tắm mát, đùa giỡn với những loài cá, tôm. Hộ tống các vị xuống trần là một trăm con phượng hoàng rực rỡ. Khi xuống tới bãi tắm, thấy vùng bãi tắm trống trải, các tiên nữ bàn với Ngọc Hoàng đắp một khu gò nổi xa bờ để làm nơi trút bỏ xiêm áo và làm nơi ngắm cảnh. Ngọc Hoàng chấp thuận cho một vị thần khổng lồ đến đào đắp gò, công việc thật khẩn trương. Vào một chiều oi ả, mấy vị tiên nữ mỏi mệt, ngồi bên sườn núi không muốn xuống biển tắm, thấy thần mây bay qua, bèn nhờ múc nước để tắm gội, quên không thấy vị khổng lồ dưới bãi đang đào đắp gò. Vị ấy đang đào, thấy nước ở trên núi ầm ầm đổ về liền đắp một con trạch để ngăn nước. Ông khổng lồ là người vui tính, lại khéo tay, có tài xem phong thủy, tiên đoán trước sau vài vạn năm nơi này sẽ là thắng địa. Con trạch ông đắp là hình con rồng, đầu ngoảnh về phía Đông Bắc, thân rồng cuộn về phía Tây, đuôi rồng uốn vồng lên ở phía Tây Bắc. Con rồng như đang bay với đường nét uyển chuyển, sinh động. Giáp đầu rồng về phía Nam, ông dậm chân ấn huyệt, đặt tên là Long Hoa.  Ông dự kiến đắp một trăm gò nổi bằng một trăm quả núi như hình con chim phượng hoàng. Công việc sắp xong thì Ngọc Hoàng đi vi hành xem công việc làm đến đâu, đến nơi thấy vị khổng lồ còn đang sửa sang đôi chút nữa trên thân rồng nên ông bị quở trách, bèn vội vã gánh đất. Ông vô ý khi gánh để trật mấu đòn gánh, một bên quang văng ra ngoài, đất đá bị vung ra thành mấy chỏm đất ở ngã ba sông. Sau này người đến ở đông, các vua hạ giới cầu xin Ngọc Hoàng giúp nới rộng đất đai, Ngọc Hoàng cảm thông cho thần nước cào đất từ trên núi đồi đưa xuống lấn biển qua dãy núi hình rồng trăm ngọn. Ở mỏm đầu Bắc có một khoảng trống, thần nước liên phá dòng sông lách qua, từ đó dãy núi hình rồng chỉ còn chín mươi chín ngọn núi liên kết với nhau. Đất bồi đến đâu người khai khẩn đến đấy.
Vào thời vua Hùng, đồng bằng trải rộng. Vua Hùng muốn dời đô về đồng bằng cho thuận tiện cày cấy. Vua sai các quan theo một trăm con phượng hoàng đi đầu tìm đất dựng kinh đô. Tới vùng núi hình rồng, đàn phượng hoàng thấy nơi đây phong cảnh tuyệt đẹp. Ở vào vùng trên của sông Lục Đầu rất hợp với đất xây dựng kinh đô. Nơi đây thuận lợi đường đi các ngả, núi sông quanh vòng, địa thế cao ráo, cảnh sắc tươi thắm có một không hai. Có rồng bay, phượng múa, đầu phượng hoàng hướng ra biển Đông đúng là nơi phúc địa.
Đàn chim phượng hoàng bay vòng quanh dãy núi hình rồng rồi lần lượt đỗ lại, mỗi con một ngọn đủ chín mươi chín con có chỗ đỗ, duy chỉ có con đầu đàn chưa tìm ra chỗ đỗ của mình ở dãy núi hình rồng. Hóa ra ngọn ấy ngày trước ông khổng lồ bị trật quang gánh, đất văng sang vùng khác thành các núi ô lúp xúp khiến con đầu đàn không nhận ra nên bay về nơi vua Hùng ngự ở núi Nghĩa Lĩnh, cả đàn cũng bay theo. Vua hỏi ý đàn chim thế nào? Đàn chim ra hiệu khu là nơi đất đẹp. Vua Hùng rất vui. Nhưng các quan theo đàn chim lại bảo: Đất ấy chỉ có chín mươi chín ngọn núi không đủ một trăm, không thể dựng kinh đô. Thế rồi, vua lại sai các quan cùng chim phượng hoàng tiếp tục tìm nơi đóng đô trong nước Văn Lang. Cuối cùng tìm ra đất Bạch Hạc, lập kinh đô nhà Hùng ở đó. Còn dãy núi hình rồng chín mươi chín ngọn, vua cho đặt tên là núi Phượng Hoàng.
Đó chính là huyền tích về dãy núi Phượng Hoàng theo truyền thuyết dân gian.
Về nơi đất cũ, do ơn đức của Nguyễn huyện lệnh với dân chúng các vùng kiêm quản xưa nay rất dày vững, nên khi nghe tin họ Nguyễn từ quan, các vị trưởng lão, đám thương đoàn, tiêu cục trong khắp huyện Bắc Đái chỉ nửa tuần trăng sau đã tìm đến rất đông. Bọn họ mau chóng dựng bảy gian nhà gỗ lớn ngay dưới chân dãy núi Phượng Hoàng để gia quyến họ Nguyễn có chỗ ăn ở tươm tất. Nguyễn Huyến ngày trước do mải mê nghiên cứu y thuật, suốt ngày đêm chỉ chuyên chú bốc thuốc cứu người, thành ra muộn đường con cái. Mãi đến năm gần bốn mươi tuổi mới sinh được mụn con gái. Cuộc sinh nở của vị phu nhân huyện lệnh mới thực là vô tiền khoáng hậu. Khi đó, tuy nhậm chức huyện lệnh Bắc Đái đã được hai năm, song vị danh y họ Nguyễn vẫn nhớ nghề da diết. Ông vẫn thường cùng phu nhân và đám tiểu đồng, binh lính dùng thuyền nhẹ đi khắp các vùng Lục Đầu giang, nhất là chín mươi chín ngọn núi thuộc dãy Phượng Hoàng vốn thông thuộc từ tấm bé để tìm các cây thuốc quý. Ngày đó, nghe theo lời mách của đám ngư phủ hay ra mạn cửa biển Đằng giang đánh cá, rằng nơi vách đá dọc cửa biển Đằng giang có một loài huyết sâm vô cùng quý hiếm, muốn tìm được chúng phải chờ vào mùa bão, bởi loài huyết sâm có đặc tính kỳ lạ là bình thường trông chúng như đám dây leo hà thủ ô, chỉ mỗi khi bão sắp đến lập tức thân lá gốc rễ đều chuyển sang màu huyết dụ, đến khi bão tan lại trở về vẻ cũ vô cùng khó nắm bắt. Theo lời đồn mách trong chốn dân gian, mùa bão năm ấy, vị danh y tạm gác việc quan cùng đám gia nhân đi thuyền ra cửa biển Đằng giang tìm cây thuốc quý. Ngặt nỗi phu nhân đang mang thai đã quá cữ sinh cả tuần trăng vẫn không động tĩnh gì, khiến vị quan huyện có đôi chút băn khoăn. Hiểu được tâm ý của chồng, lại là người rất đam mê tìm cây thuốc quý, phu nhân kiên quyết đòi theo xuống thuyền ra cửa biển Đằng giang.
Ngăn cản không được, danh y họ Nguyễn đành căn dặn đám gia nhân mang thêm những thức vật mà phu nhân thường ngày sử dụng rồi khởi hành giong buồm ra cửa biển.
Tới cửa biển Đằng giang, đám gia nhân mau chóng tìm được một hang núi thoáng đãng vừa thuận tiện cả hai đường thủy bộ bèn dựng tạm chiếc lán dùng làm nơi nghỉ cho phu nhân, còn đoàn người miệt mài ngày đêm tỏa ra các vách đá tìm huyết sâm.
Tới ngày thứ bảy, khi đoàn người đã mệt mỏi chán nản, chỉ quanh quẩn nơi hang đá, duy danh y họ Nguyễn cùng hai tùy tùng vẫn nhất quyết leo thẳng lên hai đỉnh núi cao nhất để tìm. Trời không phụ công người, vị danh y đúng ngày thứ tám vạch đám cây rừng leo thẳng lên đỉnh ngọn núi cao nhất dãy núi Thiên Đằng đã bàng hoàng quỳ xuống trước một vạt đá nghiêng rộng chỉ hơn chiếc chiếu một đám huyết sâm đang chuyển màu đỏ rực lung linh dưới nắng mặt trời. Phải mất một lúc lâu, họ Nguyễn mới dần dần tĩnh trí ra khỏi cơn mê rồi vô cùng cẩn thận tách từng gốc sâm ra khỏi kẽ đá. Dẫu biết đây là loài cực hiếm, song họ Nguyễn cũng chỉ dám lấy đúng mười bảy gốc, còn đều để lại rồi cứ thế vạch cây rừng tìm xuống núi.
Vị danh y rời đỉnh núi như người mộng du bỗng choàng tỉnh khi bốn bề mây đen ầm ầm kéo tới, trời đất đột ngột nổi cơn cuồng phong phẫn nộ. Khi ấy họ Nguyễn mới sực nhớ tới lời đồn mỗi khi huyết sâm lộ dạng cũng là lúc báo hiệu bão biển ập về. Huyết sâm càng tươi đỏ tức là các trận bão càng kinh khiếp.
Không dám một phút chậm trễ, vị danh y ngược luồng gió lốc trở lại hang đá, thấy mọi người ai nấy đều bồn chồn sợ hãi khi bốn bề sấm chớp mưa gió nổi lên mà vẫn chưa thấy chủ nhân trở về.
Vừa đặt túi huyết sâm quý giá xuống, danh y họ Nguyễn khẩn trương nói:
– Hãy mau tìm cách chốt chặn cửa hang lại. Bão lớn đang về, giờ này xuống thuyền đã không kịp nữa rồi!
Đám gia nhân lập tức theo mệnh lệnh chủ nhân chặt cây đóng cọc bịt chắc cửa hang lại cũng là lúc bên ngoài gió giật đùng đùng, sấm chớp nổi lên bốn phía. Trời đất tối sầm khiến lòng hang càng đen đặc lại.
Đúng lúc khẩn trương, đột nhiên phu nhân kêu đau bụng dữ dội. Vị danh y họ Nguyễn hiểu ngay cơ sự, song hai vợ chồng đều y thuật rất cao nên bình tĩnh sai bọn gia nhân trước mắt hãy đốt lên đống lửa nấu nồi nước sôi tiện khi dùng đến.
Họ Nguyễn ngồi sát bên phu nhân cầm tay bắt mạch tượng, thấy mạch đảo bất thường, toàn thân phu nhân khi nóng khi lạnh, nhịp thở cơ chừng đứt quãng không giống với những cuộc sinh nở thông thường, trong lòng đôi chút nao lung song vẫn nói:
– Phu nhân trở dạ rồi! Hãy hít thở đều để ta lựa đón con ra.
Vị phu nhân mồ hôi túa ra đầy trán cố nén đau méo mó nở nụ cười nói khẽ:
– Thiếp đã làm vướng bận phu quân rồi! Tìm thấy huyết sâm tức là bão lớn không biết đến bao giờ mới dứt?
Vị danh y nhìn vào mắt phu nhân:
– Phu nhân hãy gắng lên, đừng suy nghĩ gì nhiều. Bão đến rồi đi. Sau cơn mưa trời lại sáng. Đứa bé này ắt ngày sau khiến thiên hạ náo động lắm đây!
Vừa nói đến đó, bỗng bên ngoài tiếng sét nổ kinh thiên động địa, một vầng sáng chạy suốt vào trong lòng hang lóa lên mãi không dứt. Mọi người trong hang ai nấy đều kinh dị chỉ biết trố mắt đứng nhìn. Vầng sáng soi tỏ mọi ngõ ngách càng khiến mọi người đứng im không ai dám động đậy. Đột nhiên lúc đó, có tiếng oa… oa… cực lớn vang lên. Ngay cả vị danh y đang ngồi sát phu nhân cũng chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra đã lập tức lại oa… oa… oa… luôn bốn, năm tiếng nữa.
Phu nhân phút chốc thấy mình nhẹ bẫng cũng là lúc người cha với bản năng y thuật đã mau chóng đón đỡ hài nhi còn luôn miệng nói:
– Đúng thật con gái rồi… Ôi chao… Mấy tầng tràng hoa quấn cổ, thảo nào mưa gió sấm chớp là phải lắm…
Người mẹ quệt nước mắt đón con đỏ hỏn ấp vào ngực mình hít hà cưng nựng:
– Con yêu… cầu cho con mai sau thân gái được mưa thuận gió hòa. Ông trời hãy mau tạnh sấm chớp cho con tôi.
Kỳ lạ thay, lời người mẹ còn chưa dứt, bên ngoài sấm chớp mưa gió bỗng như ngớt hẳn mà quầng sáng bên trong phải một lúc lâu nữa mới tắt.
10/10/2022
Phùng Văn Khai
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đội Mũ Lệch Thả vỏ quýt ăn mắm ngấu Hai năm nay, Cả Lĩnh làm ăn phát đạt. Chẳng thế mà hắn ta lại dựng ngay ở phố chính một tòa nhà ...