"Lửa từ bi" trên hành trình
thơ của Vũ Hoàng Chương
Vũ Hoàng Chương xuất hiện trên thi đàn sau khi những tên tuổi
lớn của Phong trào Thơ mới như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu… đã đi
qua thời đỉnh cao. Ông xuất hiện với một giọng thơ lạ: vừa cổ kính xưa cũ vừa
hiện đại đến táo bạo; vừa thanh cao phiêu dật vừa nhục thể đến trần trụi rã rời…
Ông tự nhận và cũng được không ít người xưng tụng là “Ông
hoàng thơ ca”, bậc “Thi vương” (Hoàng Chương), “Thi bá”… Trước 1945 ông
có Thơ say (1940), Mây (1943). Trong kháng chiến ông
có Thơ lửa (1948), Rừng phong (1954). Sau 1954 ông có Hoa
đăng (1959), Trời một phương (1962), Lửa từ bi (1963), Ánh
trăng đạo lý (1966), Bút nở hoa đàm (1967), Cành mai trắng
mộng (1968), Ngồi quán (1971), Chúng ta mất hết chỉ còn
nhau (1973)…
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1916-1976)
Dõi theo hành trình thơ của Vũ Hoàng Chương ta thấy có nhiều
thay đổi, trong đó có khúc quanh quan trọng là việc cho ra đời tập thơ Lửa
từ bi – một tập thơ được viết ra từ ánh sáng ngọn lửa tự thiêu của Hòa thượng
Thích Quảng Đức trong cuộc đấu tranh vì tự do, hòa bình, vì Phật pháp và vì dân
tộc.
1. VŨ HOÀNG CHƯƠNG TỪ “THƠ SAY” ĐẾN “LỬA TỪ BI”
Từ Say (Thơ say) đến Mộng (Mây)
Vũ Hoàng Chương xuất hiện với những vần thơ say – có cái say
từ thiên cổ theo kiểu “túy hậu cuồng ngâm”, say để phát lộ tính tình, nhưng
cũng có cái say của thời hiện đại, ở những đô thị mới mẻ, náo nhiệt mà cũng
không thiếu trụy lạc của thời thực dân. Bài thơ Say đi em mở đầu tập Thơ
say là bài thơ mang nhịp điệu mới mẻ ấy. Người thơ say nhạc, say khiêu vũ,
say rượu và say với giai nhân:
Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng.
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương
(…) Âm ba gờn gợn nhỏ,
Ánh sáng phai phai dần…
Bốn tường gương điên đảo bóng giai
nhân,
Lui đôi vai, tiến đôi chân:
Riết đôi tay, ngả đôi thân,
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió,
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ,
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta!
Say để quên đi mối Sầu – một mối Sầu nào đó người thơ không
nói rõ, nhưng cơ hồ lớn lắm, như bức thành sừng sững mà cái say rã rời cũng
không làm cho nó sụp đổ được:
Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn,
Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ
xác thịt
Rượu, rượu nữa và quên, quên hết!
(…) Chân rã rời
Quay cuồng chi được nữa,
Gối mỏi gân rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa.
Say không còn biết cho đời,
Nhưng em ơi,
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa,
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!(1)
Bài Say đi em mở đầu tập thơ mà như bài tựa, nó gồm
thâu hết cái say trong cả tập thơ. Ẩn chứa sau cái say ấy là mối sầu vạn cổ như
trong thơ xưa, mà cũng pha chút đắng cay thân phận của một người dân thuộc địa.
Người thơ sẽ nói rõ hơn, thảm hại hơn về cái thân phận ấy ở
nhiều bài thơ sau, mà ấn tượng nhất là bài Phương xa:
Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa,
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi
khinh,
Bể vô tận xá gì phương hướng nữa,
Thuyền ơi thuyền! theo gió hãy lênh
đênh.
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ.
Một đôi người u uất nỗi bơ vơ,
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền! xin ghé bến hoang
sơ.
Thế nhưng nhổ thuyền đi đâu, trốn ở bến bờ nào được? Người trốn
vào ái tình bẽ bàng với những cô gái môi nâu vì thuốc phiện:
Hãy buông lại gần đây làn tóc biếc,
Sát gần đây, gần nữa cặp môi nâu
(…) Hãy buông lại gần đây làn tóc rối
Sát gần đây, gần nữa cặp môi điên,
Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói,
Đưa hồn say về tận cuối trời Quên.
Quên (Thơ Say)
Trong những cơn say rượu và thuốc phiện, người thơ mơ trốn
lên Thiên Thai, Đào Nguyên… nhưng động xưa đã khép, “Đào Nguyên lạc lối” không
tìm được nữa! Người tìm vào những mối tình học trò với những U tình, Cánh
buồm trắng, Vườn tâm sự, Em là công chúa… Nhưng tình học trò dù có thiết tha đến
mấy dường như cũng quá nhạt với người! Người tìm vào những giấc mộng tình yêu với
hồ ly, gái liêu trai… với phức cảm vừa rùng rợn lại vừa đắm say:
Gạn giấc chiêm bao với mảnh hình
Tóc xòa buông rủ mái tròn xinh.
Hoa mai thêu trắng nền xiêm lụa,
Đôi mắt ngời sao miệng đẫm tình.
Lòng cháy yêu đương tự bấy giờ,
Sá chi người thực với trong mơ!
… Đêm đêm ảo ảnh thơm chăn gối,
Tình hướng về Đông, dạ lắng chờ.
Tình Liêu Trai (Mây)
Thế nhưng Tình Liêu Trai cũng chỉ Mộng. Đôi khi người
sực tỉnh, một niềm xót xa thân phận và một niềm khao khát hành động lại ùa về:
Ôi! Lòng ta sao buồn không
nguôi?
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày
trôi xuôi.
Há vì cơm áo chẳng no lành?
Há vì đời không ai mắt xanh?
Nhớ thuở xưa chưa có ta hề đường đi
thênh thênh
Kịp tới khi có ta hề chông gai mông
mênh.
Cuồng vọng cả mà thôi, bốn phương hề
vướng mắc.
Ba mươi năm trên vai hề trống không
bình sinh…
Túy
hậu cuồng ngâm
Bài thơ Túy hậu cuồng ngâm cuối tập thơ Mây có
một giọng khác lạ so với những bài thơ trước, nhưng theo tôi nó vẫn là một phần
máu thịt trong hồn thơ Vũ Hoàng Chương. Bài thơ như một sự tỉnh mộng, nhưng từ
một góc nhìn khác lại cũng là chìm vào giấc mộng: giấc mộng hành động, giấc mộng
anh hùng!
Tập thơ “Lửa từ bi” của Vũ Hoàng
Chương
Từ Mộng đến với Hành động và Sân hận
Từ Vũ Hoàng Chương của Túy hậu cuồng ngâm đến Vũ
Hoàng Chương của Thơ lửa do Hội Văn hóa Liên khu 3 ấn hành 1948 thì gần
lắm rồi, chỉ một bước chân qua bên kia là “Vùng tự do” (vùng kháng chiến) là tới.
Như chính Vũ Hoàng Chương bộc bạch: “Tự biết mình là một người dân vong quốc,
tôi rất kính trọng Kháng chiến và cảm phục Cách mạng. Sự cảm phục và kính trọng
này đã khiến cho tôi giác ngộ được phần nào, và tự hứa sẽ tích cực tham dự công
cuộc chung của nhân dân do Hồ Chủ tịch lãnh đạo”(2).
Trong kháng chiến, Vũ Hoàng Chương chuyển hướng thành một nhà
thơ ái quốc nhiệt thành và say mê hành động, như chính trong văn bản trên, ông
đã kể về những hoạt động của mình:
“- đã viết được vở kịch thơ Hồn Cách mạng, diễn tại Nhà
Hát Lớn Hà Nội (1946)
– đã được giải thưởng thứ 3 về thơ Toàn quốc kháng chiến,
do đích thân Hồ Chủ tịch làm chủ khảo (1947)
– đã được hội Văn hóa Liên khu 3 ấn hành cho tập thơ kháng
chiến nhan đề Thơ lửa (1948)
– đã viết đều ở báo Công Dân tại tỉnh Nam Định
(1947, 48)…
– đã được bầu làm trưởng nhánh Văn chương Báo chí của hội Văn
nghệ chi nhánh Liên khu 3 (1948)…”(3).
Vì thế chúng ta không hề ngạc nhiên khi đọc bài thơ Nhớ
về Hà Nội vàng son của ông viết năm 1947 – bài thơ có một giọng điệu trong
sáng, hào hứng hiếm có. Theo tôi, đây là một trong những bài thơ hay nhất viết
về Cách mạng tháng Tám:
Ôi ngày mười chín, ngày oanh liệt!
Sóng đỏ hoa vàng khắp bốn phương
Hà Nội tiếng reo hò bất tuyệt
Vang sang bờ nọ Thái Bình Dương.
Ba mươi sáu phố, ngày hôm ấy
Là những nhành sông đỏ sóng cờ
Chói lọi sao vàng, hoa vĩ đại
Năm cánh hoa xoè trên năm cửa ô (…)
Chen tiếng hoan hô, này khẩu hiệu
Muôn năm Chủ tịch Hồ Chí Minh!
Muôn năm người lính già tiêu biểu
Vì giang sơn quyết bỏ gia đình.
Ôi ngày mười chín, ngày sung sướng!
Vạn ước mong dồn một ước mong!
Ôi mùa thi ấy, mùa tin tưởng!
Một tấm lòng mang vạn tấm lòng (…)
Thế nhưng rồi Vũ Hoàng Chương lại đi đến một khúc quanh khác:
năm 1950, ông bỏ về Hà Nội, rồi từ Hà Nội ông di cư vào Nam năm 1954. Thơ Vũ
Hoàng Chương từ sau 1954 là nỗi hoài niệm về Hà Nội, về quê hương miền Bắc. Được
chiều chuộng trong không gian văn nghệ bên kia bờ Hiền Lương, ông trượt đi
trong nghịch cảnh. Với những tập Hoa đăng (1959), Trời một
phương (1962)… thơ ông mang nặng nỗi niềm u uất và cả sân hận… Đọc những
bài thơ như Bài ca Bình Bắc, Nhớ Thăng Long, Từ đây, Nhớ Bắc… người ta thấy
rất nhiều ảo tưởng, rất nhiều hoang tưởng và nhất là rất nhiều sân hận. Nhưng
mà thôi, với thi sĩ thì nói đến sân hận làm gì! Nguyễn Du chẳng đã từng nhắc
chúng ta: “Thân tàn gạn đục khơi trong/ Là nhờ quân tử khác lòng người ta”?…
2. ĐẾN VỚI TỈNH THỨC, TÌNH YÊU TRONG “LỬA TỪ BI”
Chế độ Ngô Đình Diệm đã không đem lại tự do, hòa bình, thống
nhất như có thời Vũ Hoàng Chương từng ảo tưởng. Chế độ ấy thi hành chính sách kỳ
thị tôn giáo, cấm đoán Phật giáo – một tôn giáo thân thiết gắn bó với dân tộc
hơn nghìn năm nay. Chế độ ấy mở cửa đất nước cho quân đội ngoại bang vào dày
xéo quê hương. Hòa bình, thống nhất trở nên xa vời, thảm họa của cuộc chiến
tranh tàn khốc nhất trong lịch sử dân tộc đang đến rất gần… Ngày 11 tháng 6 năm
1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu. Hòa thượng bình thản ngồi trong khối
lửa, nhưng cả thế giới thì rúng động trước sức nóng của khối lửa ấy.
Trong bối cảnh ấy, Vũ Hoàng Chương đã nhận ra bộ mặt thật của
chế độ và nghịch cảnh của dân tộc, nhà thơ đã đi đến một khúc quanh mới: ông từ
bỏ những vọng tưởng và sân hận mà thức tỉnh đi đến với Tình yêu – tình yêu Tự
do, Hòa bình, tình Anh em và tình Nhân loại. Bài thơ Lửa từ bi và cả
tập thơ cùng tên là minh chứng cho khúc quanh đó.
Vũ Hoàng Chương cũng xác quyết về khúc quanh này trong Lời tựa
tập Lửa từ bi: “Những bài thơ trong tập này nhằm ghi lại một nguồn cảm hứng
mới của tác giả, khơi dậy trong lòng cuộc tranh đấu của Phật giáo đồ Việt Nam,
khoảng năm 2.507 Phật lịch (từ 15 tháng Tư đến 15 tháng Chín), tức là năm 1963
d.l.”(4).
Trong không khí đàn áp Phật giáo khốc liệt của năm 1963, bài
thơ Lửa từ bi đã ra đời một cách khó khăn. Lúc đầu bài thơ bị tòa báo
từ chối, sau nó được in dạng quay ronéo như truyền đơn, và sau đó mới được xuất
bản trong tập thơ Lửa từ bi cùng 14 bài thơ khác. Tác giả kể:
“Bài Lửa từ bi gửi đăng nhật báo Tự do Saigon ngày 28/7/63
bị kiểm duyệt bỏ trọn, đã được văn phòng Chùa Xá Lợi, ngay sau đó, quay thành
những bản “Ronéo” và phổ biến nhân ngày Chung thất của Bồ Tát Quảng Đức.
Bài Người với người được đăng trên nhật báo Tự do ngày
18/8/63 chỉ bị kiểm duyệt bỏ 10 chữ. Sau đấy, Chùa Xá Lợi bị cường quyền xâm phạm,
nhật báo Tự do cũng bị đình bản, tác giả không còn phương tiện nào
khác để phổ biến thơ của mình ngoài cách truyền tay trong số các bạn thân
tín”(5).
Tập thơ được xuất bản, nhưng không phải bởi một nhà xuất bản
có uy tín nào, mà do Đoàn Thanh niên tăng ni – một tổ chức đấu tranh cho Phật
giáo đứng ra in. Giấy in xấu, bìa vẽ vội, xuất bản rất nhanh – chỉ 3 tháng sau
khi Hòa thượng chịu pháp nạn: tháng 9 năm 1963. Thế nhưng tập thơ này lại trở
thành tập thơ hay nhất của Vũ Hoàng Chương sau Thơ say.
Bài thơ bắt đầu bằng cảnh tượng Hòa Thượng Thích Quảng
Đức tọa thiền trong tòa sen lửa. Ngọn lửa thì ngùn ngụt bốc lên, còn chúng sinh
với xác phàm và tâm trần khổ đau thì quỳ xuống. Ngọn lửa của Hòa thượng cháy
lên thành một mặt trời thứ hai:
Lửa! lửa cháy ngất tòa sen!
tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành THƠ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng – Sáng rưng rưng
Đông Tây nhoà lệ ngọc
chắp tay đón một Mặt-trời-mới-mọc,
ánh Đạo – Vàng phơi phới
đang bừng lên, dâng lên(6)
Hòa thượng thiêu mình không phải bằng cái tâm sân hận, mà Người
tận hiến cuộc sống của mình từ tình thương và lòng từ bi:
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ,
NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày
bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây;
gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ,
Phật – pháp chẳng rời tay.
Sáu ngả Luân – hồi đâu đó
mang mang cùng nín thở,
tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh – xe – quay.
Ngọn lửa từ nhục thân của Hòa thượng ngùn ngụt cháy, nhưng ngọn
lửa ấy không phải lan ra thành bão lửa, mà ngọn lửa đưa Hòa thượng lên Niết bàn
và để lại bóng mát cho chúng sinh:
Không khí vặn mình theo
khóc oà lên nổi gió;
NGƯỜI siêu thăng
giông bão lắng từ đây.
Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây,
nhân gian mát rợi bóng cây Bồ – đề.
Hòa thượng trở thành bất tử – bất tử mà không cần ngọc đá để
tạc tượng, không cần lụa tre của người viết sử làm thơ:
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc;
lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi;
chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên – thu – tuyệt – tác
trong vô hình sáng chói nét Từ – Bi.
Vì ngọc đá lụa tre của trần gian vẫn có ngày mục nát, nhưng
trái tim yêu thương của Hòa thượng thì vĩnh cửu, tỏa ánh sáng từ bi xuống tận tầng
đáy sâu nhất của hỏa ngục – nơi con người bị đọa đày:
Rồi đây, rồi mai sau, còn chi ?
ngọc đá cũng thành tro
lụa tre dần mục nát
với Thời – gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi chứ! còn Trái – Tim – Bồ – Tát
gội hào quang xuống tận ngục A – tỳ.
Trước ngọn lửa từ bi ấy, nhà thơ đại ngộ: từ vô minh mà đến tỉnh
thức. Những kiêu căng, ngông nghênh của một “thi vương”, “thi bá” trần hoàn
cũng hết, nhà thơ chỉ coi thơ là rơm rác trước ánh lửa kia, và rồi lại mong thơ
mình là rơm rạ để cháy lên theo lời kinh:
Ôi Ngọn – lửa – huyền – vi!
thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác
từ cõi Vô – minh
hướng về Cực – lạc;
vần điệu của Thi – nhân chỉ còn là rơm rác
và chỉ nguyện được là rơm rác,
THƠ cháy lên theo với lời Kinh
tụng cho Nhân – loại hoà bình
trước sau bền vững tình Huynh – đệ này.
Thơ Vũ Hoàng Chương cháy lên từ đó, cháy lên để soi đường đi
đến với Tình yêu – tình yêu Tự do, Hòa bình, tình Anh em và tình Nhân loại:
Thổn thức nghe lòng trái Đất
mong thành quả Phúc về cây;
nam mô Bổn – Sư Thích – Ca – Mâu – Ni – Phật;
đồng loại chúng con
nắm tay nhau tràn nước mắt,
tình thương hiện Tháp – Chín – Tầng xây.
Bài thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngay sau đó nó được truyền
ra nước ngoài. Với uy tín của mình, Vũ Hoàng Chương đã kêu gọi giới trí thức quốc
tế chú ý đến cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Tác giả kể:
“Riêng 2 bài Lửa từ bi và Người với người đã
gửi sang Âu châu ngay sau lúc sáng tác nên nữ thi sĩ Bỉ quốc Simone Kuhnen de
la Cœuillerie đã dịch Pháp ngữ để kịp thời đệ trình lên Hội nghị thi ca quốc tế
họp tại Knokke từ 5 đến 9 tháng 9/63. Tác giả cũng đích thân gửi thư yêu cầu Hội
nghị chú trọng đến cuộc tranh đấu của Phật giáo đồ tại Việt Nam. Thi sĩ Pierre
– Louis Flouquet, nhân danh Phó chủ tịch, đã thỏa mãn lời yêu cầu này. Hai bản
dịch (Feu de Sacrifice và D’homme à homme) đã được giới thiệu với các đại biểu
của 50 quốc gia. Một đoạn trong bài thứ nhất được ngâm lên giữa Hội nghị, đó là
đoạn:
Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?
Ngọc đá cũng thành tro, lụa tre dần mục nát
Với Thời-gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi chứ! còn TRÁI TIM BỒ TÁT
Gội hào quang xuống tận ngục A – Tỳ”(7)
Từ sau tập Lửa từ bi, trong thơ Vũ Hoàng Chương những
chán chường, khổ đau, mộng mị như trong Thơ Say và Mây cũng
hết; những ảo tưởng, hoang tưởng và sân hận trong Hoa đăng, Trời một
phương cũng không còn, thơ ông như đến với một cảnh giới khác: tràn đầy
yêu thương, tràn đầy tình huynh đệ, tràn đầy hỉ xả, và cả lạc quan. Đọc tên các
tập thơ sau Lửa từ bi cũng thấy được phần nào: Ánh trăng đạo lý (1966), Bút
nở hoa đàm (1967), Cành mai trắng mộng (1968), v.v… Ông bắt đầu
cách ly mình với chính quyền thân Mỹ. Năm 1966 khi đang làm chủ tịch Hội văn
bút(8), ông đã từ chối tham gia hội nghị về thơ tổ chức ở New York để phản đối
Mỹ và chính quyền bù nhìn – như ông viết: “Năm 1966, hội nghị ở Mỹ (New York)
nhưng tôi không đi, và đã cử Tổng thư ký đi thay làm trưởng phái đoàn. Vì tôi
ghét bọn Mỹ Thiệu và Kỳ lúc đó đang đàn áp Phật giáo ở Đà Nẵng, Sài Gòn”(9).
Con đường thơ của Vũ Hoàng Chương trải qua những tháng ngày
buồn tủi, khốc liệt nhất của dân tộc. Vũ Hoàng Chương là một thiên tài thơ Việt
Nam hiện đại, một thiên tài thơ chịu lắm thăng trầm. Dường như chúng ta vẫn
nhìn ông với con mắt định kiến mà không biết ông đã trải qua một hành trình
gian khổ từ Thơ Say, Mây đến Thơ lửa; rồi từ Hoa đăng, Trời
một phương đến với Lửa từ bi… một hành trình tự lột xác mình. Chúng
ta chưa đánh giá hết bước chuyển mình của Vũ Hoàng Chương từ tập Lửa từ
bi cũng như chưa đánh giá hết vị trí lịch sử của tập thơ này với văn học
Việt Nam hiện đại. Tôi xin trích một đoạn đánh giá về tập thơ này trong Lời giới
thiệu của Nhà xuất bản Rừng Trúc khi ấn hành thơ Vũ Hoàng Chương ở Paris:
“Phải nhận rằng ngàn-chín-trăm-sáu-ba đánh dấu sự chuyển mình
lớn của văn học Việt Nam trong giai đoạn mới của sử tính. Dường như chúng ta vừa
trở về tổ ấm, vừa nắm bắt vũ khí sở trường chôn lâu trong hoen rỉ và lãng quên
để trang bị tri thức và tâm linh mình. Không có vũ khí tinh thần này, chúng ta
chẳng còn là ta nữa.
Bài Lửa từ bi của Vũ Hoàng Chương đã thực đánh dấu
cho sự chuyển mình đó. Nó bộc lộ đủ một phong triều văn học mới, dựng trên Bao
dung và Trí tuệ. Bởi nó ánh được Ngọn lửa tỉnh thức. Bởi nó đã dùng lời Việt
nói ra sự chấn động ầm ầm của lương tâm quốc tế”(10).
Bài thơ là một khúc quanh của một nhà thơ, đánh dấu một khúc
quanh của một nền văn học(11). Nó thực sự cần có một chỗ đứng xứng đáng hơn
trong các tuyển tập, trong các bộ lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Và tác giả
của bài thơ cũng vậy.
ĐOÀN LÊ GIANG
__________________________
(1) Vũ Hoàng Chương: Say đi em, in trong Thơ
say, Mây. Nxb. Hội Nhà văn, H., 1996. Các bài dưới đây đều theo sách này.
(2) Di cảo viết tay của Vũ Hoàng Chương.
(3) Di cảo viết tay của Vũ Hoàng Chương.
(4) Lửa từ bi, Đoàn Thanh niên tăng ni xb, Sài Gòn,
1963.
(5) Bài tựa tập Lửa từ bi, Sđd.
(6) Theo bản in Lửa từ bi trong tập thơ Chúng
ta mất hết chỉ còn nhau, thơ Vũ Hoàng Chương, Rừng Trúc xuất bản, Paris, 1974.
(7) Bài tựa tập Lửa từ bi, Sđd.
(8) Vũ Hoàng Chương làm Chủ tịch Hội Văn bút (Pen club)
từ 1964-1968.
(9) Di cảo viết tay của Vũ Hoàng Chương.
(10) Lời tựa tập Chúng ta mất hết chỉ còn nhau. Rừng
Trúc xuất bản, Paris, 1974.
(11) Các tập thơ của Vũ Hoàng Chương: Thơ Say (tác
giả xuất bản, 1940; Nxb. Hội Nhà văn tái bản, 1995), Mây (Đời Nay xb,
1943, Nxb. Hội Nhà văn tái bản, 1995), Kịch thơ Trương Chi (tập kịch
thơ, gồm 3 vở: Trương Chi, Vân Muội, Hồng Diệp, 1944, bản viết tay của tác
giả), Cô gái ma (kịch thơ, 1944, bản viết tay của tác giả), Rừng
phong (P.Văn Tươi xb, Sài Gòn, 1954), Hoa đăng (Văn hữu Á châu
xb, Sài Gòn, 1959), Tâm sự kẻ sang Tần (kịch thơ, công diễn lần đầu ở
H., 1951, 1961, bản chép tay của tác giả), Trời một phương (tác giả
xuất bản, 1962), Lửa từ bi (Đoàn Thanh niên tăng ni xb, SG,
1963), Poèmes Choisis (thi tuyển, Versions Francaises de Simone
Kuhnen de la Coeuillerie; Préface de André Guimbretiere; Editions Nguyen Khang,
Sai Gon, 1963), Ánh trăng đạo lý (Nha Tuyên úy Phật giáo ấn hành,
1966), Cành mai trắng mộng (1968), Ngồi quán (Lửa thiêng
xb, Sài Gòn, 1971), Đời vắng em rồi say với ai (1971), Chúng ta
mất hết chỉ còn nhau (Rừng Trúc xuất bản, Paris, 1974), Ta đã làm chi đời
ta (hồi ký, 1974) và một số di cảo viết tay của Vũ Hoàng Chương.
– Xin xem: Hoài Thanh – Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam,
tái bản. Nxb. Văn học, H., 1998.
– Nhiều tác giả: Từ điển văn học (bộ mới). Nxb. Thế
giới, H., 2004.
PHỤ LỤC
Lửa từ bi
Kính dâng lên Bồ-tát Quảng-Đức
Lửa! lửa cháy ngất tòa sen!
tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành THƠ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng-Sáng rưng rưng
Đông Tây nhoà lệ ngọc
chắp tay đón một Mặt-trời-mới-mọc,
ánh Đạo-Vàng phơi phới
đang bừng lên, dâng lên
*
Ôi, đích thực hôm nay trời có mặt;
giờ là giờ Hoàng-đạo nguy nga!
Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt
nhìn nhau: tình Huynh-đệ bao la.
Nam mô Đức-Phật-Di-Đà,
Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?
*
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ,
NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày
bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây;
gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ,
Phật-pháp chẳng rời tay.
Sáu ngả Luân-hồi đâu đó
mang mang cùng nín thở,
tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh-xe-quay.
Không khí vặn mình theo
khóc oà lên nổi gió;
NGƯỜI siêu thăng
giông bão lắng từ đây.
Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây,
nhân gian mát rợi bóng cây Bồ-đề.
*
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc;
lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi;
chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên-thu-tuyệt-tác
trong vô hình sáng chói nét Từ-Bi.
*
Rồi đây, rồi mai sau, còn chi ?
ngọc đá cũng thành tro
lụa tre dần mục nát
với Thời-gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi chứ! còn Trái-Tim-Bồ-Tát
gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.
*
Ôi Ngọn-lửa-huyền-vi!
thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác
từ cõi Vô-minh
hướng về Cực-lạc;
vần điệu của Thi-nhân chỉ còn là rơm rác
và chỉ nguyện được là rơm rác,
THƠ cháy lên theo với lời Kinh
tụng cho Nhân-loại hoà bình
trước sau bền vững tình Huynh-đệ này.
*
Thổn thức nghe lòng trái Đất
mong thành quả Phúc về cây;
nam mô Bổn-Sư Thích-Ca-Mâu-Ni-Phật(1);
đồng loại chúng con
nắm tay nhau tràn nước mắt,
tình thương hiện Tháp-Chín-Tầng xây.
Saigon tháng 5, P.l. 2507
(T.l. tháng 6, 1963)(2)
Vũ Hoàng Chương
(Chép lại chính xác theo tập thơ Chúng ta mất hết chỉ
còn nhau, thơ Vũ Hoàng Chương, Rừng Trúc xuất bản, Paris, 1974)
______________
(1) Bản trong tập Lửa từ bi, Đoàn Thanh niên tăng
ni xuất bản, Saigon, 1963 viết là “Nam mô Thích-Ca-Mầu-Ni-Phật” (không có “Bổn-sư”
và không phải “Mâu-Ni”)
(2) Bản trong tập Lửa từ bi, Đoàn Thanh niên tăng
ni xuất bản, Saigon, 1963 viết là: “Khởi viết từ ngày 11-6-63, xong ngày
15-7-63 tại Saigon”
Tạp chí Nghiên cứu văn học số 7 năm 2013
24/11/2022
Tô Hoàng
Nguồn: Báo Văn học Nga - 8/2022
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét