Một số đặc điểm ngôn ngữ
Ca dao - Dân ca Nam bộ
Ca dao là “Thơ của mọi nhà” (Xuân Diệu). Ca dao Nam Bộ (1) nói
riêng, cả nước nói chung, là những tượng đài ngôn từ bất hủ về tâm hồn, trái
tim, tài năng của nhân dân. Ngôn ngữ của ca dao – dân ca là lời đề tựa rất sinh
động cho tư duy, tâm hồn, ngôn ngữ của nhân dân các miền trên Tổ quốc. Ca dao –
dân ca Nam Bộ đã góp phần nuôi dưỡng những nhà thơ, nghệ sỹ đất Đồng Nai – Gia
Định như Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Hồ Huân Nghiệp…PGS-TSKH Bùi Mạnh Nhị. Ảnh: Phan
Duy Khôi1. Cha ông chúng ta mới khám phá, xây dựng mảnh đất Nam Bộ
trong vòng hơn ba thế kỷ nay. Ca dao – dân ca Nam Bộ, tất nhiên cũng mới chỉ thực
sự được hình thành và khởi sắc trong quãng thời gian ấy. Diện mạo ngôn ngữ ca
dao – dân ca Nam Bộ là một quá trình hội tụ, phát huy những truyền thống của
ngôn ngữ ca dao – dân ca dân tộc mà cha ông từ các miền ngoài mang vào, đồng thời
là quá trình sáng tạo liên tục trước những đòi hỏi của cuộc sống ở mọi hoàn cảnh,
mọi mục đích giao tiếp.
Để tạo nên diện mạo đó, nhân dân đã, một mặt, sử dụng kho
tàng ngôn ngữ sẵn có của ca dao – dân ca dân tộc; mặt khác, biến đổi không ít từ
ngữ, câu ca và sáng tạo rất nhiều bài ca mới, từ ngữ mới. Do đó trong vốn từ ngữ
mà ca dao – dân ca Nam Bộ sử dụng, bên cạnh kho từ ngữ giàu có được phổ biến khắp
cả nước, là sự có mặt của những từ ngữ nảy sinh tại địa phương. Đó là những từ
ngữ làm tên gọi cho các sự vật, sản vật mới, những từ ngữ biểu hiện các sắc
thái tình cảm khác nhau của con người nảy sinh trong bối cảnh tự nhiên và xã hội
mới. Trong quá trình giao lưu với các miền, một bộ phận trong số này đã và sẽ
được phổ biến rộng rãi, một bộ phận khác vẫn giữ nguyên tính chất của phương ngữ.
Do hoàn cảnh lịch sử, sự giao lưu văn hoá giữa các miền trên Tổ quốc trong quá
khứ chủ yếu là con đường từ các miền ngoài đi vào. Đất nước đã thống nhất, chắc
chắn sự giao lưu văn hoá từ Nam Bộ trở ra các miền ngoài sẽ phát triển mạnh
hơn, rộng và sâu hơn, trong tình cảm mong mỏi của nhân dân cả nước.
2. Nam Bộ, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long, có nhiều cái
nhất: đồng bằng lớn nhất nước; sản lượng lúa gạo nhiều nhất nước; kinh rạch nhiều
nhất nước; trái cây nhiều nhất nước; diện tích nuôi trồng thủy sản lớn nhất nước;
lượng thủy hải sản thu được hàng năm cũng nhiều nhất nước; diện tích rừng ngập
mặn nhiều nhất nước… Cuộc sống của người dân Nam Bộ gắn bó máu thịt với hệ thống
sông ngòi dọc ngang chằng chịt của khoảng 5.000 km đường kinh rạch, với những
cánh đồng mênh mông của đồng bằng châu thổ Cửu Long, mang tầm của những đồng bằng
rộng lớn, đặc biệt của thế giới, và với những miệt vườn phì nhiêu, màu xanh trải
tràn, rậm rì cây trái. Nhiều nhà nghiên cứu đã dùng định danh “văn minh sông rạch”,
và nhà văn Sơn Nam dùng định danh “văn minh miệt vườn”(2) để nói về cảnh
quan sinh thái – nhân văn và cuộc sống của người dân đồng bằng sông Cửu Long.
Con số thống kê sau về “chợ nổi” – chợ họp trên sông, “thương cảng dân gian”độc
đáo, nơi buôn bán không chỉ lúa gạo, tôm cá, mà cả các loại trái cây và hoa,
cho thấy thêm điều đặc biệt của Nam Bộ: Tiền Giang có 160 chợ nổi, Bến Tre có
175, Đồng Tháp 203 và Trà Vinh có 110 chợ nổi. Sử sách viết về tự nhiên và sự
giàu có của Nam Bộ không thể thiếu những trang về cảnh quan nổi bật, đặc sắc đó
cùng với những chủ nhân của nó. Sông nước, ruộng đồng, miệt vườn –
ba bối cảnh tiêu biểu của thiên nhiên và cuộc sống người dân Nam Bộ cũng là ba
bối cảnh mà ca dao – dân ca Nam Bộ thường bộc lộ những đặc điểm ngôn ngữ của
mình.
3. Người nông dân truyền thống, như C. Mác nhận xét, “trao đổi
với thiên nhiên nhiều hơn là giao tiếp với xã hội”(3). Nền thi ca của họ,
cũng giống như bản thân họ, luôn thở hít trong thiên nhiên tươi mát, sống động.
Nhân dân luôn lấy những cảnh vật thân thuộc quanh mình để phô bày tâm sự.
Ở Bắc Bộ, những hình ảnh tiêu biểu làm nên gương mặt của nông
thôn cổ truyền – cây đa, bến nước, mái đình, luỹ tre, cổng làng… rất hay được
nhắc tới trong các bài ca. Câu hát Trung Bộ trùng điệp hình ảnh của núi non, rừng
rú, mênh mông và dữ dằn hình ảnh của biển cả… Trong ca dao – dân ca Nam Bộ,
hình ảnh ghe xuồng, sông rạch, tôm cá xuất hiện với tần số rất cao. Nét độc đáo
này biểu hiện ở những bài ca thuộc mọi chủ đề. Chuyện với mình hay chuyện với
người, nhân vật trữ tình thường mượn hình ảnh trung gian – sông nước và ghe xuồng,
tôm, cá:
Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi
Kẻo giông khói đèn trời lại tối tăm.
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời chèo chống mải mê.
Không xuồng nên phải lội sông
Đôi lòng nên phải ăn ròng bẹ môn.
Ở đâu bằng xứ Lung Tràm
Chim kêu như hát bội, cá lội vàng tợ mắm nêm.
Phản ánh cuộc sống tình cảm của nhân dân trên sông nước, ca
dao – dân ca Nam Bộ đã khai thác triệt để vốn từ ngữ của địa phương để chỉ các
đối tượng trên bối cảnh này. Chẳng hạn, trong ca dao – dân ca Nam Bộ có 19 từ
chỉ các loại ghe xuồng: ghe tam bản, ghe giàn, ghe lòng, ghe lườn, ghe mỏ
vạch, ghe rổi, ghe tắc rán, ghe bầu, ghe bầu nóc, ghe be, ghe bản lồng, ghe cá
vom, ghe chài, ghe cửa, ghe cui, ghe hầu, ghe ngo, ghe vỏ lải, xuồng ba lá. Có
24 từ chỉ các loại nước: nước ròng, nước rong, nước rông, nước lớn, nước
kém, nước rặc, nước nhửng, nước ương, nước chửng, nước lửng, nước sình, nước xẹt,
nước đứng, nước bò, nước nhảy, nước nằm, nước giựt, nước sụt, nước dềnh, nước
lên, nước lui, nước rút, nước sụt, nước trồi. Số lượng từ phong phú đó là “chỉ
số” cuộc sống gắn bó mật thiết với sông nước và cái nhìn rất tinh tế, nhạy cảm
của con người với thiên nhiên, sự vật. Nếu ở Bắc Bộ, làng xóm được bao bọc,
khép kín nghìn đời bằng những lũy tre xanh, thì ở Nam Bộ, xóm ấp là làng mở, trải
dài theo kinh rạch, nhà cửa người dân luôn hướng ra thủy lộ – những dòng
kinh. Chiếc xuồng là vật dụng không thể thiếu của mỗi gia đình, được ví như
“đôi chân” (“Sắm xuồng là để làm chân”) của con người vùng sông nước. Người
nông dân Nam Bộ nghe hơi gió là biết con nước sắp lên hay xuống; nhìn con nước,
màu nước là biết thời tiết hôm đó, lúc đó ra sao; ngửi mùi nước là biết dòng
kinh, con rạch nhiều hay ít cá tôm…Trong ca dao Nam Bộ, ở từng trường hợp cụ thể,
những từ ngữ nào đó sẽ có tác dụng biểu hiện trạng thái tình cảm khác nhau của
nhân vật trữ tình:
Nước rong nước chảy tràn đồng
Tơ duyên sẵn đó, chỉ hồng chưa se.
Nước ròng bỏ bãi xa cừ
Mặt em có thẹo, anh trừ đôi bông
Anh đi trên bờ quần nó khô ráo
Bước xuống ruộng quần nó ướt mem
Cẳng bước tới, lòng dạ thương em
Anh đi trên bờ nước xẹt gặp em trao lời.
Khác với vườn ở đồng bằng sông Hồng thường là những mảnh vườn
nhỏ trước hoặc sau nhà, vườn ở Nam Bộ rộng lớn, có khi tới hàng chục mẫu; tại một
số nơi, vườn tập trung lại với nhau để trồng cây ăn trái, trồng hoa, tạo thành
những không gian vườn mênh mông, trù phú, hiệu quả kinh tế cao hơn đồng ruộng.
Nam Bộ nổi tiếng với những vùng trồng cây, trồng hoa ở Châu Thành, Cái Bè (Tiền
Giang), Sa Đéc (Đồng Tháp), Mỹ Khánh (Cần Thơ), Phụng Hiệp (Hậu Giang), Lái
Thiêu (Bình Dương), Long Khánh (Đồng Nai), v.v… Văn hóa vườn đem lại những đặc
sắc cho ca dao Nam Bộ. Nếu ca dao Bắc Bộ có nhiều hình ảnh của vải, nhãn, hương
xoan, hương bưởi, hương chanh, hoa lý,… thì ca dao Nam Bộ lại có nhiều hình ảnh
cây bần, cây mù u, sầu riêng, sầu đâu, trái khổ qua… Những cây trái này thực
ra chưa thật tiêu biểu cho “văn minh miệt vườn” như vú sữa, dừa, xoài, măng cụt,
chôm chôm, ổi xá lị, mận hồng đào, bình bát. Nhưng tên gọi của chúng – mù
u, bần, khổ qua, sầu riêng, sầu đâu – dễ gợi cảm xúc thơ ca
về số phận, tâm trạng con người. Ca dao Nam Bộ triệt để sử dụng ý nghĩa biểu vật
và biểu thái của các từ ngữ đó:
Bướm vàng đậu đọt mù u
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn.
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.
Nước ròng chảy thấu Nam Vang
Sầu riêng chín rụng sao chàng ở đây?
Trong các bối cảnh khác của tự nhiên, xã hội, nhân dân Nam Bộ
cũng sáng tạo nên những từ ngữ mang màu sắc địa phương. Chẳng hạn: Tờ đề –
giấy ly hôn; Rổ tiến – rổ đựng kim chỉ vá may của các cô gái khi về
nhà chồng; Để chế – để tang; Đau ban cua – bệnh thương
hàn; Nhớ mạy – nhớ không rõ; Chẳng khứng – không ưng, không
chịu; gối luôn – gối liền cho hai người, dành cho các cặp vợ chông mới
cưới…
Chịu tác động của những đặc trưng của văn học dân gian, trực
tiếp nhất là tính tập thể, tính truyền thống, ca dao – dân ca có những nhóm chữ,
những kiểu câu mở đầu đã định hình. Hệ thống những nhóm chữ, những kiểu câu mở
đầu này mang đặc trưng thẩm mĩ, tính khái quát cao về ý nghĩa, trở thành những
mô-típ truyền thống, những “tín hiệu”, “mã” ca dao với nội dung thông báo xác định.
Các nội dung tư tưởng, tình cảm mang tính khái quát và ổn định của ca dao được
bộc lộ qua nhiều mô-típ, trong đó có những mô-típ về nhóm chữ, kiểu câu mở đầu.
Ví dụ, hệ thống những bài ca mở đầu là “Thân em như…” thường nói về thân phận,
địa vị của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Những bài ca mở đầu là
“Chiều chiều…” thường biểu hiện nỗi nhớ nhung, hoặc nỗi ngóng trông đơn chiếc của
con người, nhất là người con gái lấy chồng xa quê. Những bài ca về tình yêu quê
hương đất nước có nhóm chữ mời, nhắn gọi: “Ai về…”, “Ai lên…”, “Ai vô…”, nhóm
chữ xếp hạng, hình, giá cảnh vật : “Thứ nhất… Thứ nhì…”, “Nhất cao… Nhất sâu…”,
“Đâu bằng… Đâu hơn…”, v.v…
Bên cạnh việc sử dụng nhiều nhóm chữ như ca dao – dân ca các
miền khác, ca dao – dân ca Nam Bộ có những hệ thống nhóm chữ riêng, nảy sinh từ
ngôn ngữ, cách nói của nhân dân. Chẳng hạn, những bài ca mở đầu là “Mảng coi…”
thường biểu hiện nỗi trách cứ, hờn giận:
Mảng coi cúc lủi bờ mi
Anh có vợ rồi sao không nói lại tiếng gì cho em.
Mảng coi con kiến lửa lên xuống cửa thềm
Anh là người quân tử chi hiềm mĩ nhân.
Những bài ca mở đầu là “Hai đứa mình…” thường diễn tả những nỗi
niềm xung quanh sự gắn bó của đôi lứa:
Hai đứa mình đứng cũng bằng vai
Người ngoài không biết nói hai vợ chồng
Hai đứa mình ăn một trái cau
Giấu cha giấu mẹ ăn sau bóng dừa.
Hai đứa mình như cặp cá ở đìa
Ngày ngao du giỡn bóng, tối lại lìa, trời ơi!
Những kiểu câu mở đầu dưới đây xuất hiện rất nhiều trong ca
dao – dân ca Nam Bộ:
Mù u bông trắng lá quắn nhuỵ huỳnh
Lầu nào cao bằng lầu ông Chánh (hoặc ông Phó)
Ba phen quạ nói với diều
Nước mắm ngon dầm con cá đối (hoặc con hẹ)
Phụng hoàng đậu nhánh vông nem (hoặc cẩm lai)
Sông sâu sóng bủa làng cò
Bần gie đốm đậu sáng ngời
Đờn cò lên trục kêu vang
Gió nam non thổi lên hang dế (hoặc hang chuột)
Khăn rằn nhúng nước ướt mem
Ghe lên ghe xuống dầm dề.
Toàn bộ những hệ thống nhóm chữ, kiểu câu mở đầu đó gắn chặt với
cách phát âm, cách nói, từ ngữ, với hình ảnh tự nhiên và đời sống sinh hoạt hằng
ngày của người dân Nam Bộ.
Ca dao – dân ca Nam Bộ cũng có hệ thống biểu trưng riêng. Chẳng
hạn, hình ảnh cá sấu, cọp là biểu trưng cho thiên nhiên hoang
sơ, dữ dằn trong buổi đầu cha ông ta “hành phương Nam” khai khẩn, mở đất, mở nước:
“Tới đây xứ xở lạ lùng/ Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um”; con nước lớn –
biểu trưng của những gian nan, vất vả: “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi/ Buôn bán
không lời chèo chống mải mê”; Châu Đốc, Nam Vang – biểu trưng
cho không gian xa xôi: “Anh đi Châu Đốc, Nam Vang/ Gởi thơ nhắn lại em khoan có
chồng”; Đèn cầu tàu – biểu trưng cho những nơi phồn hoa đô hội: “Đèn
cầu tầu ngọn xanh ngọn đỏ/ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu/Anh về học lấy chữ nhu/
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ” (4).4. Ca dao – dân ca Bắc Bộ như “hòn đá lăn vạn năm được trau
chuốt” và do đó “hơi thơ thoải mái ngọt ngào, như không còn khập khiễng chỗ nào
nữa. Tuy nhiên, trong cái trau chuốt nhiều khi xảy ra cái khuôn sáo… Cái chất
sáng tạo và phát hiện của nghệ thuật dường như mòn dần, và đó là nhược điểm của
nhiều bài ca dao Bắc Bộ” (Xuân Diệu)(5). Ca dao Nam Bộ không thiếu những câu
óng ả, chải chuốt, nhưng mức độ và liều lượng không nhiều như trong ca dao Bắc
Bộ. Khác với ca dao Bắc Bộ đã đạt đến hình thức cổ điển trong các phương tiện
và hình thức diễn tả, nhiều câu ca dao Nam Bộ như những lời nói nôm na, câu nói
trong sinh hoạt hằng ngày đi thẳng vào. Tính cách, cách sống của người Nam Bộ
góp phần không nhỏ làm cho ngôn ngữ sinh hoạt đời thường hoạt động mạnh mẽ hơn
ngôn ngữ thi ca trong ca dao. Thực tế này, một mặt giúp ca dao Nam Bộ có thể tiến
xa vào lĩnh vực hiện thực của tâm trạng, mặt khác làm cho không ít câu ca dao
chưa được trau chuốt, gọt giũa nhiều. Đây là nguyên nhân làm cho không ít người
nghiên cứu cho rằng ca dao – dân ca Nam Bộ không có giá trị cao về mặt nghệ thuật
như ca dao – dân ca các miền ngoài. Thực ra vấn đề không đơn giản như vậy. Cần
chú ý, xu hướng thẩm mỹ của người dân Nam Bộ là thích hướng về sự giản dị, chân
thực trong nội dung cũng như hình thức thể hiện các đối tượng, hiện tượng,
thích nói những gì chân thực và thích cách nói giản dị, phù hợp với tâm tư tình
cảm mọi người vùng đất này. Một điều cần lưu ý nữa là, do tác động của môi trường
diễn xướng trên sông nước, đồng ruộng mênh mông, mỗi dòng thơ của những
câu hò chèo ghe, hò cấy, v.v… có thể kéo rất dài từ 9 đến hơn 20 âm
tiết, vần và nhịp của các âm tiết đó có vẻ khá trúc trắc nhưng tạo ấn tượng rõ
rệt:
Anh xách cây mác nhỏ anh ra trước ngõ đốn cây tre đỏ làm cái
thang nhỏ bắc từ ngõ anh đến ngõ em
Tay anh gõ cắc cắc, anh ngoắc em ra
Em nói: Em thương anh em đợi em chờ
Sao anh bối rối như cờ bị vây?
Phụ mẫu đánh em quằn quại treo tại ngọn cây dương
Phụ mẫu biểu em từ ai em từ đặng, chứ người thương em không từ.
Sáng mai tôi ngủ dậy, tôi súc cái miệng, tôi rửa cái mặt
Tôi vô trong nhà, tôi lấy chìa khóa, tôi mở cái rương
Tôi lấy năm quan tiền, đem ra ngoài chợ, mua xấp vải nhiễu,
chạy tắt về nhà
Con Hai cắt
Con Ba may
Con Tư viền
Con Năm đột
Con Sáu đơm nút
Con Bảy vắt khuy
Con Tám níu
Con Chín trì
Bớ Mười ơi, sao em để vậy, còn gì áo anh!
Chú ý đến sự tác động của môi trường diễn xướng, sẽ có sự giải
thích thoả đáng hơn những trường hợp như thế. Nói như thế không có nghĩa là ca
dao – dân ca Nam Bộ không có những hạn chế về ngôn ngữ nghệ thuật. Đây đó vẫn
có những từ ngữ được sử dụng chưa chính xác, chưa hay : “Cọc tìm trâu người ta
đồn rực rỡ”, “Nước mắt anh riu ríu tuôn ra”, v.v… Đây đó vẫn còn những trường hợp
lạm dụng từ Hán – Việt, v.v…
5. Một đặc điểm nổi bật nữa là: Ngôn ngữ, cách nói của ca dao
– dân ca Nam Bộ thường biểu hiện ở hai cực. Một cực là nhỏ nhẹ, hiền lành,
dễ thương :
Trông lên chữ ứ
Ngó xuống chữ ư
Anh thương em, thủng thẳng em ừ
Anh đừng thương vội, phụ mẫu từ nghĩa em.
Nước chảy liu riu
Lục bình trôi líu ríu
Anh thấy em nhỏ xíu anh thương.
Hãy chú ý những chữ ứ, ư, ừ, từ và liu riu,
líu ríu, nhỏ xíu. Giọng tâm tình rất nhỏ nhẹ, duyên dáng và sâu lắng. Điều ấy
cũng thể hiện cả trong cách xưng hộ. Chẳng hạn, ở Nam Bộ, về phía bên ngoại, em
hoặc chị ruột của mẹ đều được gọi là dì, em hoặc anh
ruột của mẹ đều được gọi là cậu. Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: “Nam Bộ giọng
nói nhẹ trong hơn, điệu hát thanh thú hơn. Chủ quan tôi, tôi nhận thấy câu ca
dao Nam Bộ có một dáng trong trẻo, lành hiền”(6). Sắc thái tình cảm đó rất phù
hợp với tâm trạng của họ – tâm trạng của những người dân nghèo khổ, phiêu bạt,
phải rời bỏ quê cha đất tổ ở miền Trung, miền Bắc vào phương Nam mở đất, tìm một
phương trời mới, để mong tháo bỏ những thiết chế của xã hội phong kiến trên cổ,
bước ra khỏi cuốn sổ đinh nặng như gông cùm phủ trên mái nhà nhỏ bé của mình,
hoặc muốn lùi xa binh lửa phân tranh đẫm máu của tập đoàn phong kiến Trịnh –
Nguyễn. Người dân Nam Bộ rất quý trọng đời sống tình cảm, tình nghĩa, nhạy cảm
với sự dịu dàng, mềm mại, duyên dáng, đầy tình nhân ái của con người và ngôn ngữ
Việt Nam.
Cực thứ hai là chất sống xông xáo, phóng túng, trẻ trung, hài
hước. Điều này vừa phù hợp với tâm lý tính cách con người ; vừa phù hợp với
phong cách sinh hoạt xã hội ở Nam Bộ. Với người Vệt Nam Bộ và những di dân khác
tại đây, cuộc sống trên vùng sông nước, ruộng đồng, miệt vườn mênh mông đem đến
sự tự do, thoát khỏi những qui ước, ràng buộc nặng nề truyền thống vốn tồn tại ở
những trung tâm có bề dày lịch sử như Bắc Bộ và Trung Bộ. Người dân Nam Bộ yêu
ra yêu, ghét ra ghét, cực nào cũng sống hết mình. Cuộc đời họ đã chứng tỏ sự
yêu trọng nghĩa khí, ưa tự do, thích tung hoành ngang dọc, đề cao trung hiếu,
tiết nghĩa, bản lĩnh cứng cỏi, táo bạo được hình thành trong cuộc đấu
tranh không ngừng không nghỉ trước một thiên nhiên hoang vu, dữ dằn trong những
buổi đầu mở đất và trước một thực tế lịch sử ngày càng phức tạp dưới chế độ
phong kiến – thực dân: “Trời sanh cây cững lá dai/ Gió lay mặc gió, chiều ai
không chiều”. Cũng vì vậy ca dao – dân ca Nam Bộ mang phong cách ngôn ngữ mạnh
mẽ, xông xáo, bộc trực, đầy sức sống và cũng đầy dí dỏm, hài hước :
Con ếch ngồi dựa gốc bưng
Nó kêu cái quệt biểu ưng cho rồi.
Anh về em nắm vạt áo em la làng
Phải bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em.
Đau tương tư đắp chiếu nằm liều
Chờ em không tới bốn giờ chiều anh tắt hơi.
Ngôn ngữ biểu hiện tình yêu của các chàng trai Nam Bộ giản dị,
chân thực. Họ tâm sự: “Lòng em ở thẳng như đờn lên dây”, “Liệu sao em liệu
thương thầm khó thương”, “Em nói rồi anh cũng vọt miệng nói theo”. Yêu nhau là
“Cẳng bước tới miệng lại chào liền”, “Dao phay kề cổ máu đổ anh không màng/ Chết
anh chịu chết buông nàng anh không buông”, “Thương mình chặt tóc mình thề/ Chỉ
trời vạch đất chớ hề bỏ nhau”.
Ngôn ngữ ca dao – dân ca Nam Bộ đập mạnh vào các giác quan
người nghe. Chẳng hạn, tiếng trống điểm “Trống điểm ba nhịp sáu ình ình”, cây đờn
cò “Dứt dây cái bựt quên hò xự xang”. Hàng loạt danh từ, động từ có tính từ mức
độ kèm theo để diễn tả chính xác hơn, mạnh mẽ hơn : “trời sáng phứt”, “áo rách
te”, “khăn ướt mem”, “yêu đại”, “kêu đại”, “thương quấn, thương quýt”, “bực đà
quá bực”, “căm đã quá căm”, “ốm nhom ốm nhách”, “chiều ai không chiều”, v.v… Mức
độ đặc tả của ngôn ngữ ca dao – dân ca Nam Bộ rất cao. Nghệ sĩ dân gian luôn đi
vào chính mình, gợi ra những “tài nguyên” thi ca của tâm trạng. Con người như
muốn nói đến đáy, đến tận cùng các trạng thái cảm xúc bằng những từ ngữ ngỡ như
không gì giản dị hơn, nhưng có sức tác động mạnh mẽ. Nói được như thế mới khỏi
bứt rứt, cô đơn mới đủ lớn, nỗi niềm mới đủ thành hình:
Tui than với anh hết sức, tui cũng dứt hết mình
Thiếu điều cắt ruột trao cho mình, thấy chưa?
Đêm khuya con gà gáy vang trời
Bầm gan nát ruột nhớ lời anh than.
Anh mất cây hộp quẹt bực đà quá bực
Anh giang tay đấm ngực, căm đã quá căm
Đũa so le đôi chiếc khó cầm
Liệu sao em liệu, thương thầm khó thương.
Chính vì không bị gò bó nhiều vào khuôn mẫu của những ước lệ,
nên ca dao – dân ca Nam Bộ có khả năng rộng mở, tạo nên và sử dụng những từ ngữ
đầy sáng tạo:
Hột châu nhỏ xuống kẹt rào
Thò tay em lượm, phụ mẫu chào em buông.
Lụy chan chan đưa chàng xuống vịnh
Em trở lên về thọ bịnh tương tư
Anh nói ra thì té lẽ biểu bài.
Thương vợ nhà hai mươi chín bữa, nhín nửa ngày thương em.
Với tài thẩm âm kỳ diệu và vốn ngôn ngữ giàu có, họ đã lắng
nghe và diễn tả được một cách đặc sắc những âm thanh của tự nhiên, của tâm trạng.
Có bao nhiêu tiếng gió thổi trong những bài ca:
Gió thổi rao rao lòng anh đau dạ anh đớn,
Gió thổi re re cây tre trộ nguyệt
Anh có thương em từ biệt chốn này,
Gió đùng đùng mưa dăng lá hẹ
Cảm thương này có mẹ không cha.
Gió hiu hiu chín chiều ruột thắt
Nhìn sao bên bắc, nước mắt chảy bên dòng
Ai xui chi những vợ vợ chồng chồng
Biết đây với đó dây tơ hồng có so?
Bao nhiêu tiếng nước chảy: “Nước chảy liu riu”, “Nước chảy ro
ro”, “Nước chảy re re”, “Nước chảy bon bon”… Bao nhiêu âm thanh của thiên
nhiên, của nỗi lòng thổn thức: “Chim kêu dưới suối tang tình”, “Con chim
kêu thương”, “Con gà gáy nhớ”, “con dế ngâm sầu”…
Thiên nhiên giàu có, trù phú, người Nam Bộ cởi mở, phóng
khoáng, có riêng “hệ đếm” của mình: “Một chục mười tám trái xoài”.
6. Ca dao là “Thơ của mọi nhà” (Xuân Diệu). Ca dao Nam Bộ nói
riêng, cả nước nói chung, là những tượng đài ngôn từ bất hủ về tâm hồn, trái
tim, tài năng của nhân dân. Ngôn ngữ của ca dao – dân ca là lời đề tựa rất sinh
động cho tư duy, tâm hồn, ngôn ngữ của nhân dân các miền trên Tổ quốc. Ca dao –
dân ca Nam Bộ đã góp phần nuôi dưỡng những nhà thơ, nghệ sỹ đất Đồng Nai – Gia
Định như Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Hồ Huân Nghiệp… Dễ hiểu vì sao ca
dao Nam Bộ đến nay vẫn sống trong các bối cảnh sinh động khác nhau của đời sống
nhân dân, đi vào nhiều ca từ của những bài ca vọng cổ, những trang văn của các
nhà văn. “Ca dao tự vạch cho mình một lối đi, dẫu không hào nhoáng song hết sức
hiên ngang, hết sức độc lập. Phát sinh vì dân tộc, sống còn nhờ dân tộc, ca dao
là kết tinh thuần túy của tinh thần dân tộc” (7). Tìm về cội nguồn ngôn ngữ ca
dao – dân ca Nam Bộ, sẽ tìm được nhiều minh chứng, nhiều bài học về sự sự giàu
có, trong sáng của tiếng Việt, về tình yêu tiếng mẹ đẻ, tiếng dân tộc. Bởi vì
đó là “tiếng nói của quần chúng nhân dân đầy tình cảm, hình ảnh, màu sắc và âm
điệu hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa” (Phạm Văn Đồng).
Chú thích:
(1). Tư liệu ca dao – dân ca sử dụng trong bài viết này
rút từ các tập sách sau: (i) Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh,
Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca dao Dân ca Nam Bộ, Nxb Tp Hồ Chí Minh; (ii) Khoa
Ngữ văn Trường Đại học Cần Thơ (19970), Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu
Long, Nxb Giáo dục.
(2) Sơn Nam (1970, tái bản 2014), Văn minh miệt vườn,
trong “Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa và văn minh mệt vườn”, Nxb
Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
(3). Tuyển tập Mác – Ăngghen, tập II, Nxb Sự thật, H.,
1981, tr. 515.
(4). Xem thêm: Trần Văn Nam (1999), Ý nghĩa
biểu trưng của từ chỉ địa danh trong ca dao Nam Bộ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số
4, tr. 49-53.
(5), (6) Xuân Diệu (1979), Lượng thông tin và những
kỹ sư tâm hồn ấy, Nxb Tác phẩm mới, tr. 176, 178.
(7). Thuần Phong (1970), Ca dao giảng luận, Nxb Á
Châu, Sài Gòn.
12/6/2020 Bùi Mạnh Nhị
12/6/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét